| 
	 
	
	 
 
	QUYỂN 
	THỨ SÁU 
	Đời Diêu Tần ngài 
	Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập vâng chiếu dịch. Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt 
	Dịch 
	  
	
	KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA  
	
	PHẨM "PHÁP SƯ CÔNG-ĐỨC" 
	THỨ MƯỜI CHÍN 
 
	1. Lúc bấy 
	giờ, Phật bảo ngài Thường-Tinh-Tấn đại Bồ-tát rằng: "Nếu có Thiện-nam-tử, 
	Thiện-nữ-nhơn thọ trì Kinh Pháp-Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, 
	hoặc biên chép, người đó sẽ đặng tám trăm công đức nơi mắt, một nghìn hai 
	trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi, một nghìn hai trăm công 
	đức nơi lưỡi, tám trăm công đức nơi thân, một nghìn hai trăm công đức nơi ý, 
	dùng những công đức này trang nghiêm sáu căn đều được thanh tịnh. 
	          
	Thiện-nam-tử và Thiện nữ-nhơn đó, nhục nhãn thanh tịnh của cha mẹ sinh ra, 
	thấy khắp cõi Tam-thiên Đại-thiên, trong ngoài có những núi, rừng, sông, 
	biển, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến cõi trời Hữu-đảnh, cũng thấy tất cả 
	chúng sanh trong đó và nghiệp nhơn duyên quả báo chỗ sanh ra thảy đều thấy 
	biết. 
	          Khi đó, 
	Đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 
	2. Nếu 
	người ở trong chúng 
	Dùng tâm không sợ sệt 
	Nói Kinh Pháp-Hoa này 
	Ông nghe công đức đó 
	Người đó đặng tám trăm 
	Công đức thù thắng nhãn 
	Do dùng đây trang nghiêm 
	Mắt kia rất thanh tịnh. 
	Mắt thịt cha mẹ sanh 
	Thấy cả cõi Tam-thiên 
	Trong ngoài núi Di-lâu 
	Núi Tu-di, Thiết-vi 
	Và các núi rừng khác 
	Biển lớn nước sông ngòi 
	Dưới đến ngục A-tỳ 
	Trên đến trời Hữu-đảnh 
	Chúng sanh ở trong đó 
	Tất cả đều thấy rõ 
	Dầu chưa đặng thiên nhãn 
	Sức nhục nhãn như thế. 
	         
	
	
	3. 
	Lại nữa, Thường-Tinh-Tấn! Nếu người Thiện-nam-tử, Thiện nữ-nhơn, 
	thọ trì Kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc biên chép, hoặc giải nói, đặng 
	một nghìn hai trăm nhĩ công đức, dùng tai thanh tịnh đó, nghe khắp cõi 
	Tam-thiên Đại thiên, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến trời Hữu-đảnh, trong 
	ngoài các thứ lời lẽ giọng tiếng: 
	          Tiếng voi, 
	tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng trâu, tiếng khóc la, tiếng buồn than, tiếng ốc, 
	tiếng trống, tiếng chuông, tiếng linh, tiếng cười, tiếng nói, tiếng trai, 
	tiếng gái, tiếng đồng-tử, tiếng đồng-nữ, tiếng pháp, tiếng phi pháp, tiếng 
	khổ, tiếng vui, tiếng phàm phu, tiếng Thánh nhơn, tiếng đáng ưa, tiếng chẳng 
	đáng ưa, tiếng Trời, tiếng Rồng, tiếng Dạ-xoa, tiếng Càn-thát-bà, tiếng 
	A-tu-la, tiếng Ca-lâu-la, tiếng Khẩn-na-la, tiếng Ma-hầu-la-dà, tiếng lửa, 
	tiếng nước, tiếng gió, tiếng Địa-ngục, tiếng Súc sanh, tiếng Ngạ-quỷ, tiếng 
	Tỳ-kheo, tiếng Tỳ-kheo-ni, tiếng Thanh-văn, tiếng Bích-Chi-Phật, tiếng 
	Bồ-tát, tiếng Phật. 
	          Nói tóm 
	đó, trong cõi Tam-thiên Đại-thiên, tất cả trong ngoài có các thứ tiếng, dầu 
	chưa đặng thiên nhĩ dùng tai tầm thường thanh tịnh của cha mẹ sanh, thảy đều 
	nghe biết, phân biệt các thứ tiếng tăm như thế, mà chẳng hư nhĩ căn. 
	          Lúc đó, 
	Đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 
 
	4. Tai cha 
	mẹ sanh ra 
	Trong sạch không đục nhơ 
	Dùng tai thường này nghe 
	Cả tiếng cõi Tam-thiên 
	Tiếng voi, ngựa, trâu, xe 
	Tiếng chung linh loa cổ 
	Tiếng cầm, sắc, không hầu 
	Tiếng ống tiêu, ống địch 
	Tiếng ca hay thanh tịnh 
	Nghe đó mà chẳng ham. 
	Tiếng vô số giống người 
	Nghe đều hiểu rõ đặng 
	Lại nghe tiếng các Trời 
	Tiếng ca rất nhiệm mầu 
	Và nghe tiếng trai, gái, 
	Tiếng đồng-tử, đồng-nữ 
	Trong núi sông hang hiểm 
	Tiếng Ca-Lăng-Tần-Dà 
	Cộng-mạng các chim thảy 
	Đều nghe tiếng của nó. 
	Địa-ngục các đau đớn 
	Các thứ tiếng độc khổ 
	Ngạ quỷ đói khát bức 
	Tiếng tìm cầu uống ăn 
	Các hàng A-tu-la 
	Ở nơi bên biển lớn 
	Lúc cùng nhau nói năng 
	Vang ra tiếng tăm lớn 
	Như thế người nói pháp 
	An trụ ở trong đây 
	Xa nghe các tiếng đó 
	Mà chẳng hư nhĩ căn. 
	Trong cõi nước mười phương 
	Cầm thú kêu hô nhau 
	Người nói Kinh Pháp-Hoa 
	Ở đây đều nghe đó. 
	Trên các trời Phạm-thiên 
	Quang-âm cùng Biến-Tịnh 
	Nhẫn đến trời Hữu-đảnh 
	Tiếng tăm của kia nói 
	Pháp sư ở nơi đây 
	Thảy đều đặng nghe đó. 
	Tất cả chúng Tỳ-kheo 
	Và các Tỳ-kheo-ni 
	Hoặc đọc tụng Kinh điển, 
	Hoặc vì người khác nói 
	Pháp sư ở nơi đây 
	Thảy đều đặng nghe đó. 
	Lại có các Bồ-tát 
	Đọc tụng nơi Kinh pháp 
	Hoặc vì người khác nói 
	Soạn tập giải nghĩa Kinh 
	Các tiếng tăm như thế 
	Thảy đều đặng nghe đó. 
	Các Phật đấng Đại thánh 
	Giáo hóa hàng chúng sanh 
	Ở trong các đại hội 
	Diễn nói pháp nhiệm mầu 
	Người trì Pháp-Hoa này 
	Thảy đều đặng nghe đó. 
	Cõi Tam-thiên Đại-thiên 
	Các tiếng tăm trong ngoài 
	Dưới đến ngục A-tỳ(1) 
	Trên đến trời Hữu-đảnh(2) 
	Đều nghe tiếng tăm kia 
	Mà chẳng hư nhĩ căn. 
	Vì tai kia sáng lẹ 
	Đều hay phân biệt biết 
	Người trì Kinh Pháp-Hoa 
	Dầu chưa đặng Thiên nhĩ 
	Chỉ dùng tai sanh ra 
	Công đức đã như thế. 
	          
	5. Lại nữa, 
	Thường-Tinh-Tấn! Nếu có Thiện-nam-tử, Thiện nữ-nhơn, thọ trì Kinh này, hoặc 
	đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, trọn nên tám trăm tỹ công 
	đức, dùng tỹ căn thanh-tịnh đó nghe khắp cõi Tam-thiên Đại-thiên, trên dưới 
	trong ngoài các thứ mùi: mùi bông Tu-mạn-na, mùi bông Xà-đề, mùi bông 
	Mạt-lợi, mùi bông Chiêm-bặc, mùi bông Ba-la-la, mùi bông Sen đỏ, mùi bông 
	Sen xanh, mùi bông Sen trắng, mùi cây có bông, mùi cây có trái, mùi 
	Chiên-đàn, mùi Trầm-thủy, mùi Đa-ma-la-bạt, mùi Đa-dà-la, đến trăm nghìn thứ 
	hòa lộn, hoặc là bột, hoặc là viên, hoặc là hương xoa, người trì Kinh này ở 
	trong đây đều có thể phân biệt. 
	          Và lại rõ 
	biết mùi chúng sanh: mùi voi, mùi ngựa, mùi dê, trâu v.v... Mùi trai, mùi 
	gái, mùi đồng-tử, mùi đồng-nữ và mùi cỏ cây lùm rừng, hoặc gần, hoặc xa, bao 
	nhiêu thứ mùi có ra, thảy đều đặng nghe rõ biết chẳng lầm. 
	          Người trì 
	Kinh này dầu ở nơi đây cũng nghe mùi trên các cõi trời: mùi cây 
	Ba-lợi-chất-đa-la, cây Câu-bệ-đà-la, cùng mùi bông Mạn-đà-la, bông 
	Đại-mạn-đà-la, bông Mạn-thù-sa, bông Đại-mạn-thù-sa, mùi gỗ Chiên-đàn, 
	Trầm-thủy các thứ hương bột, mùi các hoa đẹp. Các thứ hương trời như thế hòa 
	hiệp thoảng ra mùi thơm đều nghe biết. 
	          Lại nghe 
	mùi nơi thân của các vị trời: mùi của Thích-Đề-Hoàn-Nhơn lúc ở trên thắng 
	điện, năm món dục vui chơi, hoặc mùi lúc ở trên diệu pháp đường vì các vị 
	trời Đao-Lợi nói pháp, hoặc mùi lúc dạo chơi trong vườn, cùng mùi nơi thân 
	của các vị trời nam nữ khác, thảy đều xa nghe biết. Xoay vần như thế nhẫn 
	đến trời Phạm-thế, trên đến mùi nơi thân các vị trời Hữu-đảnh cũng đều nghe 
	biết. 
	          Và nghe 
	mùi hương của các vị trời đốt và mùi Thanh-văn, mùi Bích-Chi-Phật, mùi 
	Bồ-tát, mùi nơi thân các Đức Phật, cũng đều xa nghe biết chỗ ở của đó. Dầu 
	nghe biết hương ấy, nhưng nơi tỹ căn không hư không sai, nếu muốn phân biệt 
	vì người khác nói, ghi nhớ không lầm. 
	          Lúc đó, 
	Đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 
	6. Người đó 
	mũi thanh-tịnh 
	Ở trong thế giới này 
	Hoặc vật thơm hoăc hôi 
	Các thứ đều nghe biết. 
	Tu-mạn-na, Xà-đề 
	Đa-ma-la, Chiên-đàn 
	Trầm-thủy và mùi quế 
	Mùi các thứ bông trái 
	Và biết mùi chúng sanh: 
	Mùi nam tử, nữ nhơn 
	Người nói pháp ở xa 
	Nghe mùi biết chỗ nào. 
	Đại-thế Chuyển-luân-vương 
	Tiểu Chuyển-luân và con 
	Bầy tôi, các cung nhơn 
	Nghe mùi biết chỗ nào. 
	Trân bửu đeo nơi thân 
	Cùng tạng báu trong đất 
	Bửu nữ của Luân-vương 
	Nghe hương biết chỗ nào. 
	Mọi người đồ nghiêm thân 
	Y phục và chuỗi ngọc 
	Các thứ hương xoa thân 
	Nghe mùi biết thân kia 
	Các trời hoặc đi, ngồi 
	Dạo chơi và thần biến 
	Người trì Pháp-Hoa này 
	Nghe mùi đều biết đặng. 
	Các cây bông trái hột 
	Và mùi thơm dầu tô 
	Người trì Kinh ở đây 
	Đều biết ở chỗ nào. 
	Các núi, chỗ sâu hiểm 
	Cây Chiên-đàn nở hoa 
	Chúng sanh ở trong đó 
	Nghe mùi đều biết đặng. 
	Núi Thiết-vi, biển lớn 
	Các chúng sanh trong đất 
	Người trì Kinh nghe mùi 
	Đều biết đó ở đâu. 
	Trai gái A-tu-la 
	Và quyến thuộc của chúng 
	Lúc đánh cải, dạo chơi 
	Nghe hương đều biết đặng. 
	Đồng trống chỗ hiễm trở 
	Sư-tử, voi, hùm, sói 
	Bò rừng, trâu nước thảy 
	Nghe hương biết chỗ ở. 
	Nếu có người nghén chữa 
	Chưa rõ trai hay gái 
	Không căn và phi nhơn 
	Nghe mùi đều biết đặng. 
	Do vì sức nghe mùi 
	Biết người mới nghén chửa 
	Thành tựu hay chẳng thành 
	An vui đẻ con phước. 
	Do vì sức nghe mùi 
	Biết tâm niệm trai, gái 
	Lòng nhiễm dục ngu, hờn 
	Cũng biết người tu hành 
	Các phục tàng trong đất 
	Vàng, bạc, các trân bửu 
	Đồ đồng chỗ đựng chứa 
	Nghe mùi đều biết được 
	Các thứ chuỗi ngọc báu 
	Không ai biết giá mấy 
	Nghe mùi biết mắc rẻ 
	Chỗ sản xuất ở đâu. 
	Các thứ hoa trên trời 
	Mạn-đà, Mạn-thù-sa 
	Cây Ba-lợi-chất-đa 
	Nghe mùi đều biết được. 
	Các cung điện trên trời 
	Thượng, trung, hạ sai khác 
	Các hoa báu trang nghiêm 
	Nghe hương đều biết được. 
	Thắng điện vườn rừng trời 
	Các nhà diệu pháp đường 
	Ở trong đó vui chơi 
	Nghe mùi đều biết được. 
	Các Trời hoặc nghe pháp 
	Hoặc lúc hưởng ngủ dục 
	Lại, qua, đi, ngồi, nằm 
	Nghe mùi đều biết được. 
	Thiên nữ mặc y phục 
	Hoa hương tốt trang nghiêm 
	Lúc quanh khắp dạo chơi 
	Nghe mùi đều biết được. 
	Lần lựa lên như thế 
	Nhẫn đến trời Phạm-thế 
	Nhập thiền cùng xuất thiền 
	Nghe mùi đều biết được. 
	Trời Quang-âm Biến-tịnh(3) 
	Nhẫn đến nơi Hữu-đảnh 
	Mới sanh và lui chết 
	Nghe hương đều biết được. 
	Các hàng Tỳ-kheo chúng 
	Nơi pháp thường tinh-tấn 
	Hoặc ngồi hoặc kinh hành 
	Và đọc tụng Kinh điển 
	Hoặc ở dưới rừng cây 
	Chuyên ròng mà ngồi thiền 
	Người trì Kinh nghe mùi 
	Đều biết ở tại đâu. 
	Bồ-tát chí bền chắc 
	Ngồi thiền hoặc đọc tụng 
	Hoặc vì người nói pháp 
	Nghe mùi đều biết được. 
	Nơi nơi chỗ Thế-Tôn 
	Được mọi người cung kính 
	Thương chúng mà nói pháp 
	Nghe mùi đều biết được . 
	Chúng sanh ở trước Phật 
	Nghe Kinh đều vui mừng 
	Đúng pháp mà tu hành 
	Nghe mùi đều biết đặng. 
	Dầu chưa đặng vô-lậu 
	Pháp sanh tỹ Bồ-tát 
	Mà người trì Kinh đây 
	Trước đặng tướng mũi này. 
 
	         
	 7. 
	Lại nữa, Thường-Tinh-Tấn! Nếu có Thiện-nam-tử cùng Thiện nữ-nhơn, 
	thọ trì Kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, đặng 
	một nghìn hai trăm thiệt công đức. 
	          Những món 
	hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc ngon, hoặc dở và các vật đắng chát, ở trên lưỡi của 
	người đó, đều biến thành vị ngon như vị cam lồ trên trời, không món nào là 
	chẳng ngon. 
	         
	Nếu dùng thiệt căn đó ở trong đại chúng nói pháp có chỗ diễn ra tiếng 
	sâu mầu có thể vào tâm chúng, đều làm cho vui mừng sướng thích. 
	         Lại các 
	vị Thiên-tử, Thiên-nữ, các trời Thích, Phạm, nghe tiếng tăm thâm diệu này 
	diễn nói ngôn luận thứ đệ, thảy đều đến nghe. Và các hàng Long, Long nữ, 
	Dạ-xoa, Dạ-xoa nữ, Càn-thát-bà, Càn-thát-bà nữ, A-tu-la, A-tu-la nữ, 
	Ca-lầu-la, Ca-lầu-la nữ, Khẩn-na-la, Khẩn-na-la nữ, Ma-hầu-la-dà, 
	Ma-hầu-la-dà nữ, vì để nghe pháp mà đều đến gần gũi cung kính cúng dường. 
	         
	Và Tỳ-kheo, Ty-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Quốc vương, Vương tử, 
	quần thần, quyến thuộc, Tiểu Chuyển-luân-vương, Đại Chuyển-luân-vương, bảy 
	báu, nghìn người con, cùng quyến thuộc trong ngoài, ngồi cung điện đồng đến 
	nghe pháp. 
	        Vì vị Bồ-tát này khéo nói pháp, nên hàng Bà-la-môn, 
	Cư-sĩ, nhơn dân trong nước trọn đời theo hầu cúng dường. Lại các Thanh-văn, 
	Bích-chi Phật, Bồ-tát, các Đức Phật thường ưa thấy người đó, người đó ở chỗ 
	nào, các Đức Phật đều xoay về phía đó nói pháp, người đó đều hay thọ trì tất 
	cả Phật pháp, lại có thể nói ra tiếng pháp sâu mầu. 
	          Khi đó, 
	Đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 
	8. Người đó 
	lưỡi thanh-tịnh 
	Trọn không thọ vị xấu 
	Người đó ăn uống chi 
	Đều biến thành cam-lộ. 
	Dùng tiếng hay thâm tịnh 
	Ở trong chúng nói pháp 
	Đem các nhơn duyên dụ 
	Dẫn dắt lòng chúng sanh 
	Người nghe đều vui mừng 
	Bày đồ cúng dường tốt. 
	Các Trời, Rồng, Dạ-xoa 
	Cùng A-tu-la thảy 
	Đều dùng lòng cung kính 
	Mà đồng đến nghe pháp 
	Người nói Kinh pháp đó 
	Nếu muốn dùng tiếng mầu 
	Khắp cùng cõi Tam-thiên 
	Tùy ý liền được đến. 
	Đại, Tiểu Chuyển-luân Vương 
	Và nghìn con quyến thuộc 
	Chắp tay lòng cung kính 
	Thường đến nghe thọ pháp, 
	Các Trời, Rồng, Dạ-xoa 
	La-sát, Tỳ-xá-xà 
	Cũng dùng lòng vui mừng 
	Thường ưa đến cúng dường, 
	Phạm-thiên vương, Ma vương, 
	Tự-tại, Đại tự-tại 
	Các chúng trời như thế 
	Thường đến chỗ người đó. 
	Các Phật cùng đệ tử 
	Nghe người nói tiếng pháp 
	Thương nhớ giữ gìn cho 
	Hoặc lúc vì hiện thân. 
	         
	
	9. Lại nữa, 
	Thường-Tinh-Tấn! Nếu có Thiện-nam-tử cùng Thiện nữ-nhơn, thọ trì Kinh này, 
	hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, đặng tám trăm thân công 
	đức, đặng thân thanh-tịnh như lưu-ly sạch chúng sanh ưa thấy. Vì thân đó 
	trong sạch nên chúng sanh trong cõi Tam-thiên Đại-thiên, lúc sanh lúc chết, 
	trên dưới, tốt xấu, sanh chỗ lành, chỗ dữ v.v... đều hiện rõ trong đó. 
	         
	Và núi Thiết-vi, núi Đại Thiết-vi, núi Di-lâu, núi Đại-Di-lâu v.v... 
	các núi cùng chúng sanh ở trong đó đều hiện rõ trong thân, dưới đến địa ngục 
	A-tỳ, trên đến trời Hữu-đảnh cảnh vật cùng chúng sanh đều hiện rõ trong 
	thân. Hoặc là Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát cùng Chư Phật nói pháp đều hiện 
	sắc tượng ở trong thân. 
	          Bấy giờ, 
	Đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 
	  10. 
	Nếu người trì Pháp-Hoa 
	Thân thể rất thanh-tịnh 
	Như lưu-ly sạch kia 
	Chúng sanh đều ưa thấy. 
	Lại như gương sáng sạch 
	Đều thấy các sắc tượng 
	Bồ-tát nơi tịnh thân 
	Thấy cả vật trong đời 
	Chỉ riêng mình thấy rõ 
	Người khác không thấy được. 
	Trong cõi nước Tam-thiên 
	Tất cả các chúng sanh 
	Trời, Người, A-tu-la, 
	Địa ngục, Quỷ, Súc sanh 
	Các sắc tượng như thế 
	Đều hiện rõ trong thân. 
	Cung điện của các trời 
	Nhẫn đến trời Hữu-đảnh 
	Núi Thiết-vi, Di-lâu 
	Núi Ma-ha Di-lâu 
	Các biển nước lớn thảy 
	Đều hiện ở trong thân. 
	Các Phật cùng Thanh-văn 
	Phật tử Bồ-tát thảy 
	Hoặc riêng, hoặc tại chúng 
	Nói pháp thảy đều hiện. 
	Dầu chưa đặng diệu thân 
	Pháp tánh sạch các lậu 
	Dùng thân thanh-tịnh thường 
	Tất cả hiện trong đó. 
	          
	11. Lại nữa, 
	Thường-Tinh-Tấn! Sau khi Đức Như-Lai diệt độ, nếu có người Thiện-nam-tử cùng 
	Thiện-nữ-nhơn, thọ trì Kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc 
	biên chép, thời đặng một nghìn hai trăm ý công đức. 
	         
	Dùng ý căn thanh-tịnh đó nhẫn đến nghe một kệ, một câu, suốt thấu 
	vô-lượng vô biên nghĩa, hiểu nghĩa đó rồi, có thể diễn nói một câu, một kệ 
	đến một tháng, bốn tháng nhẫn đến một năm. Các pháp nói ra tùy nghĩa thú kia 
	đều cùng thiệt tướng chẳng trái nhau. 
	         
	Nếu nói kinh sách trong đời, lời lẽ trị thế, nghề-nghiệp nuôi sống 
	v.v... đều thuận Chánh pháp. Sáu đường chúng sanh trong cõi Tam-thiên 
	Đại-thiên, lòng nghĩ tưởng, lòng động tác, lòng hý luận, thảy đều biết đó. 
	         
	Dầu chưa đặng trí-huệ Vô-lậu mà ý căn thanh-tịnh như thế, người đó có 
	suy nghĩ, tính lường, nói năng những chi thời đều là Phật pháp cả, không có 
	gì là chẳng chơn thiệt, cũng là lời trong Kinh của các Phật thuở trước nói. 
	          Bấy giờ, 
	Đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 
	    12. 
	Ý người đó thanh-tịnh 
	Sáng lanh không đục nhơ 
	Dùng ý căn tốt đó 
	Biết pháp: thượng, trụng, hạ 
	Nhẫn đến nghe một kệ 
	Thông đạt vô-lượng nghĩa 
	Thứ đệ nói đúng pháp 
	Tháng, bốn tháng, đến năm. 
	Trong ngoài của cõi này 
	Tất cả các chúng sanh 
	Hoặc Trời, Rồng và Người 
	Dạ-xoa, Quỷ, Thần thảy 
	Kia ở trong sáu đường 
	Nghĩ tưởng bao nhiêu điều 
	Phước báo trì Pháp-Hoa 
	Đồng thời thảy đều biết. 
	Vô số Phật mười phương 
	Trăm phước tướng trang nghiêm 
	Vì chúng sanh nói pháp 
	Đều nghe hay thọ trì. 
	Suy gẫm vô-lượng nghĩa 
	Nói pháp cũng vô-lượng 
	Sau trước chẳng quên lộn 
	Bởi thọ trì Pháp-Hoa 
	Trọn biết các pháp tướng 
	Theo nghĩa rõ thứ đệ 
	Suốt danh tự ngữ ngôn 
	Như chỗ biết diễn nói. 
	Người đó có nói ra 
	Là pháp của Phật trước 
	Vì diễn nói pháp này 
	Ở trong chúng không sợ. 
	Người trì Kinh Pháp-Hoa 
	Ý căn tịnh như thế 
	Dầu chưa đặng Vô-lậu 
	Trước có tướng dường ấy. 
	Người đó trì Kinh này 
	An trụ bậc hy hữu 
	Được tất cả chúng sanh 
	Vui mừng mà mến kính. 
	Hay dùng nghìn muôn ức 
	Lời lẽ rất hay khéo 
	Phân biệt mà nói pháp 
	Bởi trì Kinh Pháp-Hoa. 
 
	
	  
	Thích nghĩa: 
	  
	(1) NGỤC A-TỲ: Vô gián địa ngục, người ở trong địa ngục này một 
	ngày một đêm, muôn lần chết muôn lần sống, bị khổ hình không giây phút nào 
	ngớt nghỉ nên gọi là vô gián. 
	(2) TRỜI HỮU-ĐẢNH: Cõi Trời cùng tột, cũng là chót của ba cõi. 
	(3) TRỜI QUANG-ÂM, BIẾN TỊNH: Quang-Âm thiên là một trong ba từng 
	trời nhị thiền cũng là từng thứ ba, Biến-Tịnh thiên là một trong ba từng tam 
	thiền, cũng là từng thứ ba. 
 
	
	  |