Nay chính vào mùa Vu Lan Báo
Hiếu cứu độ sanh linh, chúng con một dạ chí thành cúng dường trì
tụng kinh Vu Lan Bồn. Nguyện đem công đức này hướng về mười phương
ba ngôi Tam Bảo, đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đức Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di
Ðà Phật, cùng các vị Bồ Tát, tịnh đức chúng Tăng, từ bi gia hộ cho
cửu huyền thất tổ cha mẹ nhiều đời của đệ tử chúng con cùng tất cả
chúng sanh sớm rõ đường lành thoát vòng mê muội ra khỏi u đồ siêu
sanh Lạc quốc. Ngưỡng mong oai đức vô cùng xót thương tiếp độ.
Nam-mô a rị da, bà lô yết đế,
thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca
lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa.
Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông
a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.
Nam-mô na
ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a
thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt
tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát
đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu
lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra
đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra,
mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt
sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta
ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ,
bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na
ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du
nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra
ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà
dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà
dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng
yết ra dạ, ta bà ha.
Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà
lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3
lần)
Nam-mô
Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. (3 lần)
KHAI KINH
KỆ
Vô thượng
thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên
vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngã kim
kiến văn đắc thọ trì,
Nguyện giải
Như-Lai chơn thiệt nghĩa.
1. Phật nói Kinh
Vu Lan Bồn
Ta từng nghe lời tạc
như vầy:
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ
Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung,
Mục-liên mới đặng lục-thông,
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
Công dưỡng-dục thâm-ân dốc trả,
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền,
Làm con hiếu-hạnh vi tiên,
Bèn dùng huệ-nhãn dưới trên kiếm tầm.
Thấy vong-mẫu sanh làm ngạ-quỷ,
Không uống ăn tiều-tụy hình-hài.
Mục-liên thấy vậy bi-ai,
Biết mẹ đói khát ai-hoài tình thâm.
2. Lo phẩm-vật đem
dâng từ-mẫu,
Ðặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu.
Thấy cơm mẹ rất lo âu,
Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn.
Lòng bỏn-xẻn tiền-căn chưa dứt,
Sợ chúng ma cướp dựt của bà.
Cơm đưa chưa tới miệng đà,
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu.
Thấy như vậy âu-sầu thê-thảm,
Mục-kiền-liên bi-cảm xót thương,
Mau mau về đến giảng-đường,
Bạch cùng sư-phụ tìm phương giải nàn.
3. Phật mới bảo rõ
ràng căn-cội,
Rằng mẹ ông gốc tội rất sâu.
Dầu ông thần-lực nhiệm-mầu,
Một mình không thể ai cầu được đâu.
Lòng hiếu-thảo của ông dầu lớn,
Tiếng vang đồn thấu đến cửu-thiên
Cùng là các bực Thần-kỳ
Tà, ma, ngoại-đạo, bốn vì Thiên-vương
Cộng ba cõi sáu phương tu-tập,
Cũng không phương cứu-tế mẹ ngươị
Muốn cho cứu đặng mạng người,
Phải nhờ thần-lực của mười phương Tăng.
4. Pháp cứu-tế ta toan
giải nói
Cho mọi người thoát khỏi ách-nàn
Bèn kêu Mục-thị đến gần,
Truyền cho diệu-pháp ân-cần thiết thi
Rằm tháng bảy là ngày Tự-tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ này
Phải toan sắm sửa chớ chầy
Thức ăn trăm món trái cây năm màu
Lại phải sắm giường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu,
Món ăn tinh-sạch báu mầu
Ðựng trong bình-bát vọng-cầu kính dâng
Chư Ðại-đức mười phương thọ-thực
Trong bảy đời sẽ đặng siêu thiên
Lại thêm cha mẹ hiện-tiền
Ðặng nhờ phước-lực tiêu-khiên ách-nàn.
5. Vì ngày ấy
Thánh-tăng đều đủ
Dầu ở đâu cũng tụ-hội về.
Như người Thiền-định sơn-khê
Tránh điều phiền-não chăm về thiền-na
Hoặc người đặng bốn
tòa đạo quả
Công tu-hành nguyện thỏa vô-sanh
Hoặc người thọ hạ kinh-hành
Chẳng ham quyền-quý ẩn-danh lâm-tòng
Hoặc người đặng
lục-thông tấn-phát
Và những hàng Duyên-giác, Thanh-văn
Hoặc chư Bồ-tát mười phương
Hiện hình làm sãi ở gần chúng-sanh
Ðều trì giới rất
thanh, rất tịnh
Ðạo-đức dày, chánh-định chơn-tâm
Tất cả các bực Thánh, Phàm
Ðồng lòng thọ-lãnh bát cơm lục-hòa
6. Người nào có sắm ra
vật-thực
Ðặng cúng-dường Tự-tứ Tăng thời
Hiện-tiền phụ-mẫu của người
Bà con quyến-thuộc thảy đều nhờ ơn
Tam-đồ khổ chắc rằng
ra khỏi
Cảnh thanh-nhàn hưởng-thọ tự-nhiên.
Như còn cha mẹ hiện-tiền
Ðó nhờ cũng đặng bá niên thọ-trường
Như cha mẹ bảy đời
quá-vãng
Sẽ hóa-sanh về cõi thiên-cung
Người thời tuấn-tú hình-dung
Hào-quang chiếu sáng khắp cùng châu-thân
7. Phật dạy bảo mười
phương Tăng-chúng
Phải tuân theo thể-thức sau này:
Trước khi thọ thực đàn chay
Phải cầu chú-nguyện cho người tín-gia.
Cầu thất-thế mẹ cha
thí-chủ
Ðịnh tâm-thần quán đủ đừng quên
Cho xong ý-định hành-thiền
Mới dùng phẩm-vật đàn-tiền hiến-dâng.
Khi thọ-dụng nên an
vật-thực
Trước Phật-đài hoặc tự tháp trung:
Chư Tăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự-tiện thọ dùng bữa trưa
8. Pháp cứu-tế Phật
vừa nói dứt
Mục-liên cùng Bồ-tát chư Tăng
Ðồng nhau tỏ dạ vui mừng
Mục-liên cũng hết khóc thương rầu buồn
Mục-liên mẫu cũng
trong ngày ấy
Kiếp khổ về ngạ-quỷ được tan
Mục-liên bạch với Phật rằng:
"Mẹ con nhờ sức Thánh-Tăng khỏi nàn
Lại cũng nhờ oai thần
Tam-bảo
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra
Như sau đệ-tử xuất-gia
Vu-lan-bồn pháp dùng mà độ sanh
Ðộ cha mẹ còn đương
tại thế
Hoặc bảy đời có thể đặng không ?"
Phật rằng: "Lời hỏi rất thông
Ta vừa muốn nói con dùng hỏi theo
9. Thiện-nam-tử,
tỳ-kheo nam nữ
Cùng quốc-vương, thái-tử, đại-thần
Tam-công, tể-tướng, bá-quan
Cùng hàng lê-thứ vạn dân cõi trần
Như chí muốn đền ơn
cha mẹ
Hiện-tại cùng thất-thế tình thâm
Ðến rằm tháng bảy mỗi năm
Sau khi kiết-hạ chư Tăng tựu về
Chính ngày ấy Phật đà
hoan-hỉ
Phải sắm sanh bá vị cơm canh
Ðựng trong bình-bát tinh-anh
Chờ giờ Tự-tứ chúng Tăng cúng-dường
Ðặng cầu-nguyện
song-đường trường-thọ
Chẳng ốm đau, cũng chẳng khổ chi
Cùng cầu thất-thế đồng thì
Lìa nơi ngạ-quỷ sanh về nhơn, thiên
Ðặng hưởng phước nhân
duyên vui đẹp
Lại xa lìa nạn khổ cực thân
Môn-sanh Phật-tử ân-cần
Hạnh tu hiếu-thuận phải cần phải chuyên
10. Thường cầu-nguyện
thung-huyên an-hảo
Cùng bảy đời phụ-mẫu siêu-sanh
Ngày rằm tháng bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu-thảo thâm-ân phải đền
Lễ cứu-tế chí-thành
sắp đặt
Ngỏ cúng-dường chư Phật chư Tăng
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh-thành dưỡng-dục song-thân buổi đầu
Ðệ-tử Phật lo âu
gìn-giữ
Mới phải là Thích-tử Thiền-môn
Vừa nghe dứt pháp Lan-bồn
Môn-sanh tứ-chúng thảy đồng hỉ-hoan
Mục-liên với bốn ban
Phật-tử
Nguyện một lòng tín-sự phụng-hành !
Nam-mô Ðại hiếu Mục Kiền Liên Bồ-tát. (3 lần)
(Phần
Anh Ngữ)
1. The Yu-lan-p'en
Sutra
Thus have I heard.
Once, the Buddha
resided in the kingdom of Sravasti,among the Jetavana trees
in the garden of Anathapindika. The Great Mu-chien-lien
began to obtain the six penetrations. Desiring to save his
parents to repay the kindness they had shown him in nursing
and feeding him, he used his divine eye to observethe
worlds.
He saw his departed
mother reborn among the hungry ghosts: she never saw food or
drink, and her skin hung off her bones.
2. Mu-lien took pity,
filled his bowl with rice, and sent it to his mother as an
offering. When his mother received the bowl of rice, she
used her left hand to guard the bowl and her right hand to
gather up the rice, but before the food entered her mouth it
changed into flaming coals, so in the end she could not eat.
Mu-lien cried out in
grief and wept tears. He rushed back to tell the Buddha and
laid out everything as it has happened.
3. The Buddha said,
"The roots of your mother's sins are deep and tenacious. It
is not within your power as a single individual to do
anything about it. Even though the fame of your filial
devotion moves heaven and earth, still spirits of heaven and
spirits of earth, harmful demons and masters of the outer
paths, monks and the four spirit kings of heaven cannot do
anything about it.
You must rely on the mighty spiritual power of the assembled
monks of the ten directions in order to obtain her
deliverance.
4. I shall now preach
for you the method of salvation, so that all beings in
trouble may leave sadness and suffering, and the impediments
caused by sin be wiped away."
The Buddha told
Mu-lien, "On the fifteenth day of the seventh month, when
the assembled monks of the ten directions release
themselves, for the sake of seven generations of ancestors,
your current parents, and those in distress, you should
gather food of the one hundred flavors and five kinds of
fruit, basins for washing and rinsing, incense, oil lamps
and candles, and mattresses and beđing; take the sweetest,
prettiest things in the world and place them in a bowl and
offer it to the assembled monks, those of great virtue of
the ten directions.
5. On this day, the
entire assembly of saints - those in the mountains
practicing meditation and concentration; those who have
attained the fruit of the four paths; those who practice
pacing under trees; those who use the six penetrations to be
free; those who convert others, hear preaching, and awaken
to causality; and the great men, those bodhisattvas of the
ten stages who provisionally manifest the form of a bhiksu -
all of those who are part of the great assembly shall with
one mind receive the patra [bowl] of rice.
[A monk who] possesses
fully the purity of the precepts and the Way of the assembly
of saints - his virtue is vast indeed.
6. When you make
offerings to these kinds of monks as they release
themselves, then your current parents, seven generations of
ancestors, and six kinds of relatives will obtain release
from suffering in the three evil paths of rebirth; at that
moment they will be liberated and clothed and fed naturally.
If one's parents are living, they will have one hundred
years of joy and happiness. If they are deceased, then seven
generations of ancestors will be reborn in the heavens; born
freely through transformation, they will enter into the
light of heavenly flowers and receive unlimited joy."
7. Then the Buddha
decreed that the assembled monks of the ten directions
should first chant prayers on behalf of the family of the
donor for seven generations of ancestors, that they should
practice meditation and concentrate their thoughts, and that
they should then receive the food.
In receiving the bowls, they should first place them in
front of the Buddha's stupa; when the assembled monks have
finished chanting prayers, they may then individually
partake of the food.
8. At this time the
bhiksu Mu-lien and the assembly of great bodhisattvas
rejoiced. Mu-lien's sorrowful tears ended and the sound of
his crying died out.
Then, on that very
day, Mu-lien's mother gained release from a kalpa of
suffering as a hungry ghost.
Then Mu-lien told the
Buddha, "The parents who gave birth to me, your disciple,
are able to receive the power of the merit of the Three
Jewels because of the mighty spiritual power of the assembly
of monks. But all of the future disciples of the Buddha who
practice filial devotion, may they or may they not also
present yu-lan bowls as required to save their parents as
well as seven generations of ancestors?"
The Buddha said,
"Excellent! This question pleases me very much. It is just
what I would like to preach, so listen well!
9. My good sons, if there are bhiksus, bhiksunis, kings of
states, princes, sons of kings, great ministers, counselors,
dignitaries of the three ranks, any government officials, or
the majority of common people who practice filial
compassion, then on behalf of their current parents and the
past seven generations of ancestors, on the fifteenth day of
the seventh month, the day on which Buddhas rejoice, the day
on which monks release themselves, they must all place food
and drink of the one hundred flavors inside the yu-lan bowl
and donate it to monks of the ten directions who are
releasing themselves.
When the prayers are
finished, one's present parents will attain long life,
passing one hundred years without sickness and without any
of the torments of suffering, while seven generations of
ancestors will leave the sufferings of hungry ghosthood,
attaining rebirth among gods and humans and blessings
without limit."
The Buddha told all of
the good sons and good daughters,
10. "Those disciples
of the Buddha who practice filial devotion must in every
moment of consciousness maintain the thought of their
parents, including seven generations of ancestors. Each year
on the fifteenth day of the seventh month, out of filial
devotion and compassionate consideration for the parents who
gave birth to them and for seven generations of ancestors,
they should always make a yu-lan bowl and donate it to the
Buddha and Sangha to repay the kindness bestowed by parents
in nurturing and caring for them. All disciples of the
Buddha must carry out this law."
Upon hearing what the
Buddha preached, the bhiksu Mu-lien and the four classes of
disciples rejoiced and put it into practice.
Namo
Great Pious Mahamaudgalyayana Bodhisattva (3 times)
(Source: Thư Viện Hoa Sen)
PHẬT NÓI KINH
ÐẠI BÁO PHỤ MẪU TRỌNG ÂN
Một thuở nọ Thế-Tôn an-trụ
Xá-vệ thành kỳ-thụ Viên-trung
Chư Tăng câu hội rất đông
Tính ra Tới số hai muôn tám ngàn
Lại cũng có các hàng Bồ-tát
Hội tại đây đủ mặt thường thường
Bây giờ Phật lại lên đường
Cùng hàng đại chúng Nam phương tiến hành
Ðáo bán lộ rành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
Thế-Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy rồi rơi giọt hồng
Ðức A-Nan tủi lòng ái-ngại
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương?
Vội-vàng xin Phật dạy tường
Thầy là Từ-phụ ba phương bốn loài
Ai ai cũng kính thầy dường ấy
Cớ sao thầy lại lạy xương khô?
Phật rằng: trong các môn đồ
Ngươi là đệ tử đứng đầu dày công
Bởi chưa rõ đục trong cho rõ
Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu:
Ðống xương dồn-dập bấy lâu
Cho nên trong đó biết bao cốt hài
Chắc cũng có ông bà cha mẹ
Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh
Luân-hồi sanh-tử, tử-sanh
Lục thân đời trước thi hài còn đây
Ta lễ bái kính người tiền bối
Và ngậm-ngùi vì nhớ kiếp xưa
Ðống xương hỗn tạp chẳng vừa
Không phân trai gái bỏ bừa khó coi
Ngươi chịu khó xét soi cho kỹ
Phân làm hai bên nữ bên nam
Ðể cho phân biệt cốt phàm
Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng
Ðức A-Nan trong lòng tha thiết
Biết làm sao phân biệt khỏi sai
Ngài bèn xin Phật chỉ bày
Vì khó chọn lựa gái trai lúc này
Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt
Cách đứng đi ăn mặc phân minh
Chớ khi rã xác tiêu hình
Xương ai như nấy khó nhìn khó phân
Phật mới bảo A-Nan nên biết
Xương nữ nam phân biệt rõ ràng
Ðàn ông xương trắng nặng hoằng
Ðàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn
Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con
Vì cớ ấy hao mòn thân-thể
Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai
A-Nan nghe vậy bi ai
Xót thương cha mẹ công dày dưỡng-sanh
Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo
Phương pháp nào báo hiếu song thân?
Thế-Tôn mới bảo lời rằng:
Vì người ta sẽ phân trần khá nghe
Thân đàn bà nhiều bề cực-nhọc
Sanh đặng con thập ngoạt cưu mang
Tháng đầu thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường
Tháng thứ nhì dường như sữa đặc
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng
Bốn tháng đã tượng ra hình
Năm tháng ngũ thể hiện sinh rõ-ràng
Tháng thứ sáu lục căn đều đủ
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương
Lại thêm đủ lỗ chân lông
Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn
Tháng thứ tám hoàn-toàn tạng phủ
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình
Mười tháng thì đến kỳ sinh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn
Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy-vùng đạp quấu lung tung
Làm cho cha mẹ hãi-hùng
Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân
Khi sản xuất muôn phần an lạc
Cũng ví như được bạc được vàng
Thế-Tôn lại bảo A-Nan:
Ơn cha nghĩa mẹ mười Phần phải tin
Ðiều thứ nhứt giữ-gìn thai giáo
Mười tháng trường châu đáo mọi bề
Thứ hai sanh đẻ gớm-ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi-mê trăm phần
Ðiều thứ ba thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay
Thứ tư ăn đắng uống cay
Ðể dành bùi ngọt đủ đầy cho con
Ðiều thứ năm lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm khô ráo phần con
Thứ sáu sú nước nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm chẳng ghê
Ðiều thứ bảy không chê ô-uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền
Thứ tám chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo
Ðiều thứ chín miễn con sung-sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng-cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màng tội lỗi bị giam bị cầm
Ðiều thứ mười chẳng ham trau chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng thái-sơn
Phật lại bảo A-Nan nên biết:
Trong chúng-sanh tuy thiệt phẩm người
Mười phần mê muội cả mười
Không tường ơn trọng đức dày song thân
Chẳng kính mến quên ơn trái đức
Không xót thương dưỡng dục cù-lao
Ấy là báo hiếu mặc giao
Ví những người ấy đời nào nên thân
Mẹ sanh con cưu mang mười tháng
Cực khổ dường gánh nặng trên vai
Uống ăn chẳng đặng vì thai
Cho nên thân-thể hình-hài kém suy
Khi sanh-sản hiểm nguy chi xiết
Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề
Ví như thọc huyết trâu dê
Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan
Con còn nhỏ phải lo săn-sóc
Ăn đắng cay bùi ngọt phần con
Phải tắm phải giặt rửa trôn
Biết rằng dơ-dáy mẹ không ngại gì
Nằm phía ướt con nằm phía ráo
Sợ cho con ướt áo ướt chăn
Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân
Aét con phải chịu trăm phần thảm-thương
Trọn ba năm bú nương sữa mẹ
Thân gầy mòn nào nệ với con
Khi con vừa được lớn khôn
Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng
Cho đi học mở thông trí-tuệ
Dựng vợ chồng có thể làm ăn
Ước mong con được nên thân
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi
Con đau ốm tức thì lo chạy
Dầu tốn hao đến mấy cũng đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì cha mẹ mới an thần định tâm
Công dưỡng-dục sánh bằng non biển
Cớ sao con chẳng biết ơn nầy
Hoặc khi lầm-lỗi bị rầy
Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang
Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt
Khinh trưởng huynh nộ-nạt thê nhi
Bà con chẳng kể ra chi
Không tuân sư phụ lễ nghi chăng tường
Lời dạy bảo song đường không kể
Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng
Trái ngang chống báng mọi đàng
Ra vào lui tới mắng càn người trên
Vì lỗ-mãng tánh quen làm bướng
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn
Lớn lên theo thói hung-hăng
Ðã không nhẫn nhịn lại càng hành-hung
Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ
Nết tập quen làm sự trái ngang
Nghe lời dụ-dỗ quân hoang
Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người
Trước còn tập theo thời theo thế
Thân lập thân tìm kế sanh nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với đời lập công
Vì ràng buộc đồn công mối nợ
Hoặc trở ngăn vì nợ vì con
Quên cha quên mẹ tình-thâm
Quên xứ quên sở lâu năm không về
Ấy là nói những người có chí
Chớ phần nhiều du hí mà thôi
Sau khi phá hết của rồi
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài
Theo trộm cướp hoặc là bài bạc
Phạm tội hình tù rạc phải vương
Hoặc khi mang bịnh giữa đường
Không!người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng
Hay tin dữ bà con cô bác
Cùng mẹ cha xao-xác buồn rầu
Thương con than khóc âu sầu
Có khi mang bịnh đui mù vấn-vương
Hoặc bịnh nặng vì thương quá lẽ
Phải bỏ mình làm quỉ giữ hồn
Hoặc nghe con chẳng lo lường
Trà đình tửu điếm phố phường ngao du
Cứ mải miết với đồng bất chính
Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khan
Làm cho cha mẹ than van
Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời
Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu
Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều
Ốm đau đói rách kêu rêu
Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương
Phận con gái còn nương cha mẹ
Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa
Cần lao phục dịch trong nhà
Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi
Song đến lúc tùng phu xuất giá
Lo bên chồng chẳng sá bên mình
Trước còn lai vãng đến thăm
Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà
Quên dưỡng-dục song thân ân trọng
Không nhớ công mang nặng đẻ đau
Chẳng lo báo-bổ cù-lao
Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay
Nếu cha mẹ la rầy quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiên
Chớ chi chồng đánh liên miên
Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than
Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Trong hàng Ðại-chúng lòng càng thảm thay
Gieo xuống đất lấy cây lấy củi
Ðập vào mình vào mũi vào hông
Làm cho các lỗ chân lông
Thảy đều rướm máu ướt đầm cả thân
Ðến hôn mê tâm thần bất định
Một giây lâu mới tỉnh than rằng
Bọn ta quả thật tội nhân
Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn ân sâu
Trước Phật tiền ai cầu trần tố
Xin Thế-Tôn mẫn cố bi ân
Làm sao báo đáp thù ân
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình
Phật bèn dùng phạm thinh sáu món
Phân tỏ cùng Ðại-chúng lóng nghe
Ơn cha nghĩa mẹ nặng-nề
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu
Ví có người ân sâu dốc trả
Cõng mẹ cha tất cả hai vai
Giáp vòng hòn núi Tu-di
Ðến trăm ngàn kiếp ân kia chưa vừa
Ví có người gặp cơn đói rét
Nuôi song thân dâng hết thân nầy
Xương nghiền thịt nát phân thây
Trải trăm ngàn kiếp ân đây chưa đồng
Ví có người vì công sanh-dưỡng
Tự tay mình khoét thủng song ngươi
Chịu thân mù tối như vầy
Ðến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu
Ví có người cầm dao thiệt bén
Mổ bụng ra rút hết tâm can
Huyết ra khắp đất chẳng than
Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng
Ví có người dùng ngàn mũi nhọn
Ðâm vào mình bất luận chỗ nào
Tuy là sự khó biết bao
Trải trăm ngàn kiếp không sao đắp đền
Ví có người vì công dưỡng-dục
Tự treo mình cúng Phật thế đèn
Cứ treo như vậy trọn năm
Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền
Ví có người xương nghiền ra mỡ
Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình
Xương tan thịt nát chẳng phiền
Ðến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng
Ví có người vì công dưỡng-dục
Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan
Làm cho thân-thể tiêu tan
Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền
Nghe Phật nói thảy đều kinh khủng
Giọt lệ tràng khó nổi cấm ngăn
Ðồng thanh bạch Phật lời rằng
Làm sao trả đặng ân thâm song đường
Phật mới bảo các hàng Phật-tử
Phải lóng nghe ta chỉ sau này
Chúng ngươi muốn đáp ân dày
Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền
Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng
Cùng ăn năn những tội lỗi xưa
Cúng dường Tam-Bảo sớm trưa,
Cùng là tu phước, chẳng chừa món chi.
Rằm tháng bảy đến kỳ Tự-tứ,
Thập phương Tăng đều dự lễ này
Sắm sanh lễ vật đủ đầy
Chờ giờ cu hội đặt bày cúng dâng
Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ,
Hoặc sanh về Tịnh-độ an nhàn
Ấy là báo đáp thù-ân
Sanh thành dưỡng-dục song thân của mình.
Mình còn phải cần chuyên trì giới,
Pháp Tam-qui ngũ giới giữ-gìn
Những lời ta dạy đinh ninh
Khá nên y thử phụng hành đừng sai
Ðược như vậy mới là khỏi tội
Bằng chẳng thì ngục tối phải sa
Trong năm đại tội kể ra
Bất hiếu thứ nhất thật là trọng thay
Sau khi chết bị đầy vào ngục
Ngũ Vô Gián cũng gọi A-tỳ
Ngục này trong núi Thiết-vi
Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề
Trong ngục này hàng ngày lửa cháy
Ðốt tội nhơn hết thảy thành than
Có lò nấu sắt cho tan
Rót vào trong miệng tội nhơn hành-hình
Một vá đủ cho người thọ khổ
Lột thịt ra đau thấu tâm can
Lại có chó sắt cắn gan
Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn
Ở
trong ngục có giường bằng sắt
Bắt tội nhơn nắm khắp đó xong
Rồi cho một ngọn lửa hồng
Nướng quây chúng nó da phồng thịt thau
Móc bằng sắt thương đao gươm giáo
Trên không trung đổ tháo như mưa
Gặp ai chém nấy chẳng chừa
Làm cho thân thể nát nhừ như tương
Những hình phạt vô phương kể hết
Mỗi ngục đều có cách trị riêng
Như là xe sắt phân thây
Chim ưng mổ bụng trâu cầy lưỡi le
Chớ chi đặng chết liền rất đỡ
Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân
Ngày đêm chết sống muôn lần
Ðến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây
Sự hành phạt tại A-tỳ ngục
Rất nặng-nề ngỗ nghịch song thân
Chúng người đều phải ân cần
Thừa hành các việc phân trần khoản trên
Nhất là phải kinh này in chép
Truyền bá ra cho khắp đông tây
Như ai chép một quyển này
Ví bằng đặng thấy một vì Thế-Tôn
Nếu in được ngàn muôn quyển ấy
Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên
Do theo nguyện lực tùy duyên
Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền
Cha mẹ đặng xa miền khốc lãnh
Lại hóa sanh về cảnh thiên cung
Khi lời Phật giảng vừa xong
Khắp trong Tứ-chúng một lòng kính vâng
Lại phát nguyện thà thân này nát
Ra bụi tro muôn kiếp chẳng nài
Dầu cho kéo lưỡi trâu cầy
Ðến trăm ngàn kiếp lời thầy không quên
Ví như bị đá thiên đao kiếm
Khắp thân nầy đâm chém phân thây
Hoặc như lưới trói thân này
Trải trăm ngàn kiếp lời thầy chẳng sai
Dẫu thân này bị cưa bị chặt
Phân chia ra muôn đoạn rã rời
Ðến trăm ngàn kiếp như vầy
Chúng con cũng chẳng trái lời thầy khuyên
Ðức A-Nan kiền thiền đảnh lễ
Cầu Thế-Tôn đặt để hiệu kinh
Ngày sau truyền bá chúng sanh
Dễ bề phúng tụng trì chuyên tu hành
Phật mới bảo A-Nan nên biết
Quyển kinh này quả thiệt cao xa
Ðặt tên "BÁO HIẾU MẸ CHA"
Cùng là "AÂN TRỌNG" thật là chơn kinh
Các ngươi phải giữ gìn châu-đáo
Ðặng đời sau y giáo phụng hành
Sau khi Phật dạy rành rành
Bốn hàng Phật-tử rất mừng rất vui
Thảy một lòng vâng theo lời Phật
Và kính thành tin chắc vẹn truyền
Ðồng nhau trở lại Phật tiền
Nhất tâm đảnh lễ rồi liền lui ra.
MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA MẬT-ÐA
TAÂM-KINH
Quán-tự-tại Bồ-tát, hành thâm
Bát-nhã Ba-la mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất
thiết khổ ách.
Xá-Lợi-Tử ! Sắc bất dị không,
không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng,
hành, thức, diệc phục như thị.