| 
	 
	
	 
 
	QUYỂN 
	THỨ NĂM 
	Đời Diêu Tần ngài 
	Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập vâng chiếu dịch. Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt 
	Dịch 
	  
	
	KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA 
	
	PHẨM "NHƯ-LAI THỌ LƯỢNG" 
	THỨ MƯỜI SÁU 
 
	       1. Lúc bấy 
	giờ, Phật bảo các Bồ-tát và tất cả đại chúng: "Các thiện-nam-tử! Các ông 
	phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như-Lai". 
	          Lại bảo 
	đại chúng: "Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như-Lai". 
	         
	Lại bảo các đại chúng: "Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của 
	Như-Lai". 
	         Lúc đó, đại chúng Bồ-tát, ngài Di-Lặc làm đầu, chắp tay 
	bạch Phật rằng: "Thế-Tôn! Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời Phật". 
	Ba phen bạch như thế rồi lại nói: "Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận 
	lời Phật".  
	          
	2. Bấy giờ, 
	Đức Thế-Tôn biết các vị Bồ-tát ba phen thỉnh chẳng thôi, mà bảo đó rằng: 
	"Các ông lóng nghe! Sức bí mật thần-thông của Như-Lai, tất cả trong đời, 
	trời, người và A-tu-la đều cho rằng nay Đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật ra khỏi 
	cung họ Thích, cách thành Già-Da chẳng bao xa, ngồi nơi đạo tràng, đặng 
	Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác. 
	          Nhưng, 
	Thiện-nam-tử! Thiệt Ta thành Phật nhẫn lại đây, đã vô-lượng vô biên trăm 
	nghìn muôn ức na-do-tha kiếp. Ví như năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha 
	A-tăng-kỳ cõi Tam-thiên Đại-thiên, giả sử có người nghiền làm vi trần qua 
	phương Đông, cách năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha A-tăng-kỳ cõi nước, bèn 
	rơi một bụi trần, đi qua phía Đông như thế cho hết vi trần đó. 
	         
	Các Thiện-nam-tử! Ý ông nghĩ sao? Các thế giới đó có thể suy gẫm so 
	tính biết được số đó chăng? 
	         
	Di-Lặc Bồ-tát thảy, đều bạch Phật rằng: "Thế-Tôn! Các thế giới đó 
	vô-lượng vô biên, chẳng phải tính được, đếm được, cũng chẳng phải tâm lực 
	biết đến được. Tất cả Thanh-văn, Duyên-giác dùng trí Vô-lậu, chẳng có thể 
	suy nghĩ biết được hạng số đó. Chúng con trụ bực Bất thối, ở trong việc này 
	cũng chẳng thông đạt. 
	         
	Thế-Tôn! Các thế gới như thế, nhiều vô-lượng vô biên". 
	          
	3. Bấy giờ, 
	Phật bảo các chúng Bồ-tát: "Các Thiện-nam-tử! Nay Ta sẽ tuyên nói rành rõ 
	cho các ông. Các thế giới đó, hoặc dính vi trần hoặc chẳng dính, đều nghiền 
	cả làm vi trần, cứ một trần là một kiếp, từ Ta thành Phật nhẫn lại đến nay, 
	lại lâu hơn số đó trăm nghìn muôn ức na-do-tha A-tăng-kỳ kiếp. Từ đó nhẫn 
	lại, Ta thường ở cõi Ta-bà này nói pháp giáo hóa, cũng ở trong trăm nghìn 
	muôn ức na-do-tha A-tăng-kỳ cõi nước khác, dắt dẫn lợi ích chúng sanh. 
	         
	Các Thiện-nam-tử! Nơi chặng giữa đó Ta nói Phật Nhiên-Đăng v.v... và 
	lại có các Đức Phật nhập Niết-bàn, như thế đều là dùng phương tiện để phân 
	biệt. 
	          Các 
	Thiện-nam-tử! Nếu có chúng sanh nào đến chỗ Ta, Ta dùng Phật nhãn quan sát, 
	tín v.v... các căn lợi độn của chúng, tùy theo chỗ đáng độ, nơi nơi tự nói 
	văn tự chẳng đồng, niên kỷ hoặc lớn, hoặc nhỏ, cũng lại hiện nói sẽ nhập 
	Niết-bàn, lại dùng các trí phương tiện nói pháp vi diệu, có thể làm cho 
	chúng sanh phát lòng vui mừng. 
	         
	Các Thiện-nam-tử! Như-Lai thấy những chúng sanh ưa nơi pháp Tiểu 
	thừa, đức mỏng tội nặng. Phật vì người đó nói: Ta lúc trẻ xuất gia đặng 
	Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, nhưng thiệt, từ Ta thành Phật nhẫn lại, lâu 
	xa dường ấy, chỉ dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh, khiến vào Phật đạo, 
	nên nói như thế. 
	         
	4. 
	Các Thiện-nam-tử! Kinh điển của Đức Như-Lai nói ra, đều vì độ 
	thoát chúng sanh, hoặc nói thân mình, hoặc nói thân người, hoặc chỉ thân 
	mình, hoặc chỉ thân người, hoặc chỉ việc mình, hoặc chỉ việc người, các lời 
	nói đều thiệt chẳng dối. 
	          Vì sao? Vì 
	Đức Như-Lai đúng như thật thấy biết tướng của Tam giới, không có sanh tử, 
	hoặc thối, hoặc xuất, cũng không ở đời và diệt độ, chẳng phải thật, chẳng 
	phải hư, chẳng phải như, chẳng phải dị, chẳng phải như ba cõi mà thấy nơi ba 
	cõi. Các việc như thế Như-Lai thấy rõ không có sai lầm. 
	       
	   Bởi các chúng sanh có các món tánh, các món dục, các món hạnh, các 
	món nhớ tưởng phân biệt muốn làm cho sanh các căn lành, nên dùng bao nhiêu 
	nhơn duyên, thí-dụ ngôn từ, các cách nói pháp, chỗ làm Phật sự, chưa từng 
	tạm bỏ. Như thế, từ Ta thành Phật nhẫn lại, thật là lâu xa, thọ mạng 
	vô-lượng A-tăng-kỳ kiếp, thường còn chẳng mất. 
	        Các thiện-nam-tử! Ta xưa tu hành đạo Bồ-tát, cảm thành 
	thọ mạng, nay vẫn chưa hết, lại còn hơn số trên, nhưng nay chẳng phải thiệt 
	diệt độ, mà bèn xướng nói sẽ diệt độ. Đức Như-Lai dùng phương tiện đó, giáo 
	hóa chúng sanh. 
	         
	Vì sao? Vì nếu Phật ở lâu nơi đời, thời người đức mỏng, chẳng trồng 
	cội lành, nghèo cùng hèn hạ, ham ưa năm món dục, sa vào trong lưới nhớ tưởng 
	vọng kiến. Nếu thấy Đức Như-Lai thường còn chẳng mất, bèn sanh lòng buông 
	lung nhàm trễ, chẳng có thể sanh ra ý tưởng khó gặp gỡ cùng lòng cung kính, 
	cho nên đức Như-Lai dùng phương tiện nói rằng: "Tỳ-kheo! Phải biết, các Đức 
	Phật ra đời khó có thể gặp gỡ". 
	         
	Vì sao? Những người đức mỏng, trải qua trăm nghìn muôn ức kiếp, hoặc 
	có người thấy Phật, hoặc người chẳng thấy, do việc này, nên Ta nói rằng: 
	"Tỳ-kheo! Đức Như-Lai khó có thể đặng thấy". 
	        Các chúng sanh đó nghe lời như thế, ắt sẽ sanh ý tưởng 
	khó gặp gỡ, ôm lòng luyến mộ khát ngưỡng nơi Phật, bèn trồng cội lành, cho 
	nên đức Như-Lai dầu chẳng diệt mà nói diệt độ. 
	         
	Lại Thiện-nam-tử! Phương pháp của các Đức Phật Như-Lai đều như thế, 
	vì độ chúng sanh đều thiệt chẳng dối.  
	         5. Ví như 
	vị lương y, trí-tuệ sáng suốt, khéo luyện phương thuốc trị các bịnh. Người 
	đó nhiều con cái, hoặc mười, hai mươi nhẫn đến số trăm, do có sự duyên đến 
	nước xa khác. Sau lúc đó các người con uống thuốc độc khác, thuốc phát muộn 
	loạn, lăn lộn trên đất. 
	          Bấy giờ, 
	người cha từ nước xa trở về nhà. Các con uống thuốc độc, hoặc người mất bổn 
	tâm, hoặc chẳng mất, xa thấy cha về, đều rất vui mừng, quỳ lại hỏi thăm: "An 
	lành về an ổn. Chúng con ngu si, lầm uống thuốc độc, xin cứu lành cho, lại 
	ban thọ mạng cho chúng con". 
	         Cha thấy các con khổ não như thế, y theo các kinh phương(1), 
	tìm cỏ thuốc tốt, 
	mùi sắc vị ngon, thảy đều đầy đủ. Đâm nghiền hòa hiệp, đưa bảo các con uống 
	mà nói rằng: "Thuốc đại lương dược này mùi sắc vị ngon, thảy đều đầy đủ, các 
	con nên uống, mau trừ khổ não, không còn lại có các bịnh hoạn". 
	         
	Trong các con, những người chẳng thất tâm, thấy thuốc lương dược ấy, 
	sắc hương đều tốt, liền bèn uống đó, bịnh trừ hết được lành mạnh. Ngoài ra, 
	những người thất tâm, thấy cha về, dầu cũng vui mừng, hỏi thăm, cầu xin trị 
	bịnh, song trao thuốc cho mà không chịu uống. 
	          Vì sao? Vì 
	hơi độc đã thâm nhập làm mất bổn tâm, nơi thuốc tốt thơm đẹp này mà cho là 
	không ngon. Người cha nghĩ rằng: "Người con này đáng thương, bị trúng độc, 
	tâm đều điên đảo, dầu thấy ta về, mừng cầu xin cứu lành, nhưng thuốc tốt như 
	thế, mà chẳng chịu uống, nay ta bày chước phương tiện, khiến chúng uống 
	thuốc này. 
	          Nghĩ thế 
	rồi liền bảo rằng: "Các con phải biết, ta nay già suy, giờ chết đã đến, 
	thuốc lương dược tốt này nay để ở đây, các con nên lấy uống, chớ lo không 
	lành". Bảo thế, rồi lại đến nước khác, sai sứ về nói: "Cha các ngươi đã 
	chết". 
	         
	Bấy giờ, các con nghe cha chết, lòng rất sầu khổ mà nghĩ rằng: "Nếu 
	cha ta còn, thương xót chúng ta, có thể được cứu hộ hôm nay bỏ ta xa chết ở 
	nước khác". Tự nghĩ mình nay côi cút, không có chỗ cậy nhờ, lòng thường bi 
	cảm, tâm bèn tỉnh ngộ, biết thuốc này, sắc hương vị ngon, liền lấy uống đó, 
	bệnh độc đều lành. Người cha nghe các con đều đã lành mạnh, liền trở về cho 
	các con đều thấy. 
	         Các Thiện-nam-tử! Ý ông nghĩ sao? Vả có người nào có thể 
	nói ông lương y đó mắc tội hư dối chăng?" 
	          - Thưa 
	Thế-Tôn, không thể được! 
	         
	Phật nói: "Ta cũng như thế, từ khi thành Phật đến nay đã vô-lượng vô 
	biên trăm nghìn muôn ức na-do-tha A-tăng-kỳ kiếp, vì chúng sanh dùng sức 
	phương tiện nói: "Sẽ diệt độ", cũng không ai có thể đúng như pháp mà nói Ta 
	có lỗi hư dối". 
	          Khi đó, 
	Đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 
 
	6. Từ Ta 
	thành Phật lại 
	Trải qua các kiếp số 
	Vô-lượng trăm nghìn muôn 
	A-tăng-kỳ ức năm 
	Thường nói pháp giáo hóa 
	Vô số ức chúng sanh 
	Khiến vào nơi Phật đạo 
	Đến nay vô-lượng kiếp 
	Vì độ chúng sanh vậy 
	Phương tiện hiện Niết-bàn 
	Mà thiệt chẳng diệt độ 
	Thường trụ đây nói pháp. 
	Ta thường ở nơi đây 
	Dùng các sức thần-thông 
	Khiến chúng sanh điên đảo 
	Dầu gần mà chẳng thấy 
	Chúng thấy Ta diệt độ 
	Rộng cúng dường Xá-lợi 
	Thảy đều hoài luyến mộ 
	Mà sanh lòng khát ngưỡng, 
	Chúng sanh đã tín phục 
	Ngay thiệt ý diệu hòa 
	Một lòng muốn thấy Phật 
	Chẳng tự tiếc thân mạng 
	Giờ Ta cùng chúng Tăng  
	Đều ra khỏi Linh-Thứu 
	Ta nói với chúng sanh 
	Thường ở đây chẳng diệt 
	Vì dùng sức phương tiện 
	Hiện có diệt chẳng diệt. 
	Nước khác có chúng sanh 
	Lòng cung kính tín nhạo 
	Ta ở lại trong đó 
	Vì nói pháp Vô thượng 
	Ông chẳng nghe việc đó 
	Chỉ nói Ta diệt độ. 
	Ta thấy các chúng sanh 
	Chìm ở trong khổ não 
	Nên chẳng vì hiện thân 
	Cho kia sanh khát ngưỡng 
	Nhơn tâm kia luyến mộ 
	Hiện ra vì nói pháp 
	Sức thần thông như thế 
	Ở trong vô số kiếp 
	Thường tại núi Linh-Thứu 
	Và các trụ xứ khác. 
	Chúng sanh thấy tận kiếp 
	Lúc lửa lớn thiêu đốt 
	Cõi Ta đây an ổn 
	Trời Người thường đông vầy 
	Vườn rừng các nhà gác 
	Những món báu trang nghiêm 
	Cây báu nhiều bông trái 
	Chỗ chúng sanh vui chơi 
	Các trời đánh trống trời 
	Thường trỗi những kỹ nhạc 
	Rưới bông Mạn-đà-la 
	Rải Phật và đại chúng. 
	Tịnh độ ta chẳng hư 
	Mà chúng thấy cháy rã 
	Lo sợ các khổ não 
	Như thế đều đầy dẫy 
	Các chúng sanh tội đó 
	Vì nhơn duyên nghiệp dữ 
	Quá A-tăng-kỳ kiếp 
	Chẳng nghe tên Tam-Bảo. 
	Người nhu hòa ngay thiệt 
	Có tu các công đức 
	Thời đều thấy thân Ta 
	Ở tại đây nói pháp. 
	Hoặc lúc vì chúng này 
	Nói Phật thọ vô-lượng, 
	Người lâu mới thấy Phật 
	Vì nói Phật khó gặp. 
	Trí lực Ta như thế 
	Huệ quang soi vô-lượng 
	Thọ mạng vô số kiếp 
	Tu hành lâu cảm đặng. 
	Các ông người có trí 
	Chớ ở đây sanh nghi 
	Nên dứt khiến hết hẳn 
	Lời Phật thiệt không dối 
	Như lương y chước khéo 
	Vì để trị cuồng tử 
	Thiệt còn mà nói chết 
	Không thể nói hư dối. 
	Ta là cha trong đời 
	Cứu các người đau khổ 
	Vì phàm phu điên đảo 
	Thiệt còn mà nói diệt, 
	Vì cớ thường thấy Ta 
	Mà sanh lòng kiêu tứ 
	Buông lung ham ngũ dục 
	Sa vào trong đường dữ. 
	Ta thường biết chúng sanh 
	Hành đạo chẳng hành đạo 
	Tùy chỗ đáng độ được 
	Vì nói các pháp môn 
	Hằng tự nghĩ thế này: 
	Lấy gì cho chúng sanh 
	Đặng vào huệ vô thượng 
	Mau thành tựu thân Phật. 
 
 
	Thích nghĩa: 
	
	(1)           
	
	CÁC KINH PHƯƠNG: Những sách nói về phương pháp trị bịnh. 
	 
 
	
	  |