|   | 
	
	 
	   
	
	
	QUYỂN THỨ HAI 
	
	
	Đời Diêu Tần ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập vâng chiếu dịch. Tỳ Kheo 
	Thích Trí Tịnh Việt Dịch 
	
	
	  
	
	KINH DIỆU PHÁP LIÊN 
	HOA  
	
	PHẨM "THÍ DỤ" 
	
	THỨ BA  
	
	
	         
	
	
	1. Lúc 
	bấy giờ ngài Xá-Lợi-Phất hớn hở vui mừng, liền đứng dậy chắp tay chiêm 
	ngưỡng dung nhan của Đức Phật mà bạch Phật rằng: Nay con theo Đức Thế-Tôn 
	nghe đặng tiếng pháp nầy, trong lòng hớn hở đặng điều chưa từng có. Vì sao? 
	Con xưa theo Phật nghe pháp như thế này, thấy các vị Bồ-tát được thọ ký 
	thành Phật, mà chúng con chẳng được dự việc đó, tự rất cảm thương mất vô 
	lượng tri kiến của Như-Lai. 
	
	          
	Thế-Tôn! Con thường khi một mình ở dưới cây trong núi rừng, hoặc ngồi, hoặc 
	đi kinh hành, hằng nghĩ như vầy: chúng ta đồng vào pháp tánh, tại sao đức 
	Như-Lai lại dùng pháp Tiểu thừa mà tế độ cho? 
	
	          
	Đó là lỗi của chúng con chớ chẳng phải là Thế-Tôn vậy. Vì sao? Nếu chúng con 
	chờ Phật nói pháp sở nhơn thành đạo Vô-Thượng Chánh-Đẳng Chánh-Giác thời 
	chắc do pháp Đại thừa mà đặng độ thoát. Song chúng con chẳng hiểu Phật 
	phương tiện theo cơ nghi mà nói pháp, vội tin nhận suy gẫm để chứng lấy. 
	
	
	         
	Thế-Tôn! Con từ xưa đến nay trọn ngày luôn đêm hằng tự trách mình, mà 
	nay được từ Phật nghe pháp chưa từng có, trước chưa hề nghe, dứt các lòng 
	nghi hối, thân ý thơ thới rất được an ổn. Ngày nay mới biết mình thiệt là 
	Phật tử, từ miệng Phật sanh ra, từ pháp hóa sanh, đặng pháp phần của Phật. 
	
	          
	Khi ấy, ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 
	
	
	2. Con 
	nghe tiếng pháp này 
	
	Được 
	điều chưa từng có 
	
	Lòng 
	rất đỗi vui mừng 
	
	Lưới 
	nghi đều đã trừ, 
	
	Xưa nay 
	nhờ Phật dạy 
	
	Chẳng 
	mất nơi Đại thừa. 
	
	Tiếng 
	Phật rất ít có 
	
	Hay trừ 
	khổ chúng sanh 
	
	Con đã 
	được lậu tận(1) 
	
	Nghe 
	cũng trừ lo khổ. 
	
	Con ở 
	nơi hang núi 
	
	Hoặc 
	dưới cụm cây rừng 
	
	Hoặc 
	ngồi hoặc kinh hành 
	
	Thường 
	suy nghĩ việc này. 
	
	Than 
	ôi! Rất tự trách 
	
	Sao lại 
	tự khi mình 
	
	Chúng 
	ta cũng Phật tử 
	
	Đồng 
	vào pháp Vô lậu 
	
	Chẳng 
	được ở vị-lai 
	
	Nói 
	pháp vô thượng đạo, 
	
	Sắc 
	vàng, băm hai tướng(2) 
	
	Mười 
	lực(3)
	
	
	các giải thoát. 
	
	Đồng 
	chung trong một pháp 
	
	Mà 
	chẳng được việc đây 
	
	Tám 
	mươi tướng tốt đẹp 
	
	Mười 
	tám pháp Bất cộng(4) 
	
	Các 
	công đức như thế 
	
	Mà ta 
	đều đã mất. 
	
	
	3. 
	Lúc 
	con kinh hành riêng 
	
	Thấy 
	Phật ở trong chúng 
	
	Danh 
	đồn khắp mười phương 
	
	Rộng 
	lợi ích chúng sanh. 
	
	Tự nghĩ 
	mất lợi nầy 
	
	Chính 
	con tự khi dối 
	
	Con 
	thường trong ngày đêm 
	
	Hằng 
	suy nghĩ việc đó 
	
	Muốn 
	đem hỏi Thế-Tôn 
	
	Là mất 
	hay không mất? 
	
	Con 
	thường thấy Thế Tôn 
	
	Khen 
	ngợi các Bồ-tát(5) 
	
	Vì thế 
	nên ngày đêm 
	
	Suy 
	lường việc như vậy. 
	
	4. Nay 
	nghe tiếng Phật nói 
	
	Theo cơ 
	nghi dạy pháp 
	
	Vô-lậu 
	khó nghĩ bàn 
	
	Khiến 
	chúng đến đạo tràng. 
	
	Con xưa 
	chấp tà kiến 
	
	Làm 
	thầy các Phạm-Chí(6) 
	
	Thế-Tôn 
	rõ tâm con 
	
	Trừ tà 
	nói Niết-bàn. 
	
	Con trừ 
	hết tà kiến 
	
	Đặng 
	chứng nơi Pháp không, 
	
	Bấy giờ 
	lòng tự bảo 
	
	Đặng 
	đến nơi diệt độ. 
	
	Mà nay 
	mới tự biết 
	
	Chẳng 
	phải thiệt diệt độ 
	
	Nếu lúc 
	đặng thành Phật 
	
	Đủ ba 
	mươi hai tướng 
	
	Trời, 
	người, chúng Dạ-xoa 
	
	Rồng, 
	Thần đều cung kính 
	
	Bấy giờ 
	mới được nói 
	
	Dứt hẳn 
	hết không thừa. 
	
	Phật ở 
	trong đại chúng 
	
	Nói con 
	sẽ thành Phật 
	
	Nghe 
	tiếng pháp như vậy 
	
	Lòng 
	nghi hối đã trừ. 
	
	
	5. 
	Khi 
	mới nghe Phật nói 
	
	Trong 
	lòng rất sợ nghi 
	
	Phải 
	chăng ma giả Phật 
	
	Não 
	loạn lòng ta ư? 
	
	Phật 
	dùng các món duyên 
	
	Thí dụ 
	khéo nói phô, 
	
	Lòng 
	kia an như biển 
	
	Con 
	nghe, lưới nghi dứt. 
	
	Phật 
	nói thuở quá khứ 
	
	Vô 
	lượng Phật diệt độ 
	
	An trụ 
	trong phương tiện 
	
	Cũng 
	đều nói pháp đó. 
	
	Phật 
	hiện-tại, vị-lai, 
	
	Số 
	nhiều cũng vô lượng 
	
	Cũng 
	dùng các phương tiện 
	
	Diễn 
	nói pháp như thế. 
	
	Như 
	Thế-Tôn ngày nay 
	
	Từ sanh 
	đến xuất gia 
	
	Đặng 
	đạo chuyển Pháp-luân 
	
	Cũng 
	dùng phương tiện nói 
	
	Thế-Tôn 
	nói đạo thật 
	
	Ba Tuần(7)
	
	
	không nói được 
	
	Vì thế 
	con định biết 
	
	Không 
	phải ma giả Phật, 
	
	Con sa 
	vào lưới nghi 
	
	Cho là 
	ma làm ra. 
	
	Nghe 
	tiếng Phật êm dịu 
	
	Sâu xa 
	rất nhiệm mầu 
	
	Nói 
	suốt pháp thanh tịnh 
	
	Tâm con 
	rất vui mừng. 
	
	Nghi 
	hối đã hết hẳn 
	
	An trụ 
	trong thiệt trí 
	
	Con 
	quyết sẽ thành Phật 
	
	Được 
	Trời, Người cung kính 
	
	Chuyển 
	Pháp-luân vô thượng 
	
	Giáo 
	hóa các Bồ-tát. 
	
	
	         
	
	6. Lúc bấy giờ, Đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: "Ta nay ở trong hàng 
	Trời, người, Sa-môn, Bà-la-môn mà nói. Ta xưa từng ở nơi hai muôn ức Phật vì 
	đạo Vô thượng nên thường giáo hóa ông, ông cũng lâu dài theo Ta thọ học, Ta 
	dùng phương tiện dẫn dắt ông sanh vào trong pháp Ta”. 
	
	          
	Xá-Lợi-Phất! Ta thuở xưa dạy ông chí nguyện Phật đạo, ông nay đều quên mà 
	bèn tự nói đã được diệt độ. Ta nay lại muốn khiến ông nghĩ nhớ bổn nguyện 
	cùng đạo đã làm, mà vì các Thanh-Văn nói Kinh Đại thừa tên là: "Diệu-Pháp 
	Liên-Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ-Niệm". 
	
	
	         
	
	7. Xá-Lợi-Phất! Ông đến đời vị-lai, quá vô-lượng vô biên bất khả tư 
	nghì kiếp, cúng dường bao nhiêu nghìn muôn ức Phật, phụng trì Chánh pháp đầy 
	đủ đạo tu hành của Bồ-tát, sẽ thành Phật hiệu là Hoa-Quang Như-Lai, 
	Ứng-Cúng, Chánh-Biến-Tri, Minh-Hạnh-Túc, Thiện-Thệ, Thế-Gian-Giải, 
	Vô-Thượng-Sỹ, Điều-Ngự-Trượng-Phu, Thiên-Nhơn-Sư, Phật Thế-Tôn. 
	
	
	         
	Nước tên: Ly-Cấu, cõi đó bằng thẳng, thanh tịnh đẹp đẽ an ổn giàu 
	vui, Trời, Người đông đảo. Lưu-ly làm đất, có tám đường giao thông, dây bằng 
	vàng ròng để giăng bên đường, mé đường đều có hàng cây bằng bảy báu, thường 
	có bông trái. Đức Hoa-Quang Như-Lai cũng dùng ba thừa giáo hóa chúng sanh. 
	
	
	         
	Xá-Lợi-Phất! Lúc Đức Phật ra đời dầu không phải đời ác mà bởi bổn 
	nguyện nên nói pháp ba thừa. Kiếp đó tên là "Đại-Bửu Trang-Nghiêm". Vì sao 
	gọi là "Đại-Bửu Trang-Nghiêm"? Vì trong cõi đó dùng Bồ-tát làm "Đại-Bửu" 
	vậy. Các Bồ-tát đó số đông vô-lượng vô biên bất khả tư nghì, tính kể hay 
	thí-dụ đều không kịp đến được, chẳng phải sức trí-huệ của Phật không ai có 
	thể biết được. Khi muốn đi thì có bông đỡ chân. 
	
	          
	Các vị Bồ-tát đó không phải hàng mới phát tâm, đều đã trồng cội đức từ lâu. 
	Ở nơi vô lượng trăm nghìn muôn ức Đức Phật, tịnh tu phạm hạnh, hằng được các 
	Phật ngợi khen. Thường tu trí-huệ của Phật, đủ sức thần thông lớn, khéo biết 
	tất cả các pháp môn, ngay thật không dối, chí niệm bền vững, bực Bồ-tát như 
	thế, khắp đầy nước đó. 
	
	
	         
	Xá-Lợi-Phất! Đức Phật Hoa-Quang thọ mười hai tiểu kiếp, trừ lúc còn 
	làm vương tử chưa thành Phật. Nhân dân nước đó thọ tám tiểu kiếp. Đức 
	Hoa-Quang Như-Lai quá mười hai tiểu kiếp thọ ký đạo Vô-Thượng Chánh-Đẳng 
	Chánh-Giác cho Kiên-Mãn Bồ-tát mà bảo các Tỳ-kheo: Ông Kiên-Mãn Bồ-tát nầy 
	kế đây sẽ thành Phật hiệu là Hoa-Túc An-Hành Như-Lai, Ứng-Cúng, 
	Chánh-Biến-Tri, cõi nước của Đức Phật đó cũng lại như đây. 
	
	          
	Xá-Lợi-Phất! Sau khi Phật Hoa-Quang đó diệt độ Chánh pháp trụ lại trong đời 
	ba mươi hai tiểu kiếp, Tượng pháp trụ đời cũng ba mươi hai tiểu kiếp. 
	
	          
	Lúc ấy, Đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 
	
	
	8. 
	Xá-Lợi-Phất 
	đời sau 
	
	Thành 
	đấng Phật trí khắp 
	
	Hiệu 
	rằng Phật Hoa-Quang 
	
	Sẽ độ 
	vô lượng chúng. 
	
	Cúng 
	dường vô số Phật 
	
	Đầy đủ 
	hạnh Bồ-tát 
	
	Các 
	công đức thập lực 
	
	Chứng 
	đặng đạo Vô-thượng 
	
	Quá vô 
	lượng kiếp rồi 
	
	Kiếp 
	tên Đại-Bửu-Nghiêm 
	
	Cõi 
	nước tên Ly-Cấu 
	
	Trong 
	sạch không vết nhơ 
	
	Dùng 
	lưu-ly làm đất 
	
	Dây 
	vàng giăng đường sá 
	
	Cây bảy 
	báu sắc đẹp 
	
	Thường 
	có hoa cùng trái 
	
	Bồ-tát 
	trong cõi đó 
	
	Chí 
	niệm thường bền vững 
	
	
	Thần-thông, Ba-la-mật 
	
	Đều đã 
	trọn đầy đủ 
	
	Nơi vô 
	số Đức Phật 
	
	Khéo 
	học đạo Bồ-tát 
	
	Những 
	Đại-sĩ như thế 
	
	Phật 
	Hoa-Quang hóa độ. 
	
	Lúc 
	Phật làm vương tử 
	
	Rời 
	nước bỏ vinh hoa 
	
	Nơi 
	thân cuối rốt sau 
	
	Xuất 
	gia thành Phật đạo. 
	
	Phật 
	Hoa-Quang trụ thế 
	
	Thọ 
	mười hai tiểu kiếp, 
	
	Chúng 
	nhân dân nước đó 
	
	Sống 
	lâu tám tiểu kiếp, 
	
	Sau khi 
	Phật diệt độ 
	
	Chánh 
	pháp trụ ở đời 
	
	Ba mươi 
	hai tiểu kiếp 
	
	Rộng độ 
	các chúng sanh. 
	
	Chánh 
	pháp diệt hết rồi 
	
	Tượng 
	pháp cũng băm hai 
	
	Xá-lợi 
	rộng truyền khắp 
	
	Trời, 
	Người khắp cúng dường 
	
	Phật 
	Hoa-Quang chổ làm 
	
	Việc đó 
	đều như thế. 
	
	Đấng 
	Lưỡng-Túc-Tôn kia 
	
	Rất hơn 
	không ai bằng 
	
	Phật 
	tức là thân ông 
	
	Nên 
	phải tự vui mừng. 
	
	
	         
	
	
	9. Bấy 
	giờ bốn bộ chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ và cả đại 
	chúng: Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, 
	Ma-hầu-la-dà v.v... thấy Xá-Lợi-Phất ở trước Phật lãnh lời dự ghi sẽ thành 
	Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, lòng rất vui mừng hớn hở vô-lượng. Mỗi 
	người đều cởi y trên của mình đang đắp để cúng dường Phật. 
	
	          
	Thích-Đề-Hoàn-Nhơn cùng Phạm-Thiên-Vương v.v... và vô số thiên tử cũng đem y 
	đẹp của trời, hoa trời Mạn-đà-la, Ma-ha Mạn-đà-la v.v... cúng dường nơi 
	Phật. Y trời tung lên liền trụ giữa hư không mà tự xoay chuyển. Các kỹ nhạc 
	trời trăm nghìn muôn thứ ở giữa hư không đồng thời đều trỗi. Rưới các thứ 
	hoa trời mà nói lời rằng: "Đức Phật xưa ở thành Ba-la-nại, ban đầu chuyễn 
	pháp luân, đến nay mới lại chuyễn pháp luân rất lớn Vô thượng". 
	
	          
	Lúc đó các Thiên tử muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 
	
	
	  10. Xưa ở thành Ba-Nại 
	
	Chuyễn 
	Pháp luân Bốn-đế 
	
	Phân 
	biệt nói các pháp 
	
	Sanh 
	diệt của năm nhóm(8) 
	
	Nay lại 
	chuyễn Pháp luân 
	
	Rất lớn 
	diệu Vô thượng, 
	
	Pháp đó 
	rất sâu mầu 
	
	Ít có 
	người tin được 
	
	Chúng 
	ta từ xưa lại 
	
	Thường 
	nghe Thế-Tôn nói 
	
	Chưa 
	từng nghe thượng pháp 
	
	Thâm 
	diệu như thế nầy. 
	
	Thế-Tôn 
	nói pháp đó 
	
	Chúng 
	ta đều tùy-hỷ, 
	
	Đại trí 
	Xá-Lợi-Phất 
	
	Nay 
	được lãnh Phật ký, 
	
	Chúng 
	ta cũng như vậy 
	
	Quyết 
	sẽ đặng thành Phật, 
	
	Trong 
	tất cả thế gian 
	
	Rất tôn 
	không còn trên, 
	
	Phật 
	đạo chẳng thể bàn 
	
	Phương 
	tiện tùy nghi nói, 
	
	Ta bao 
	nhiêu nghiệp phước 
	
	Đời nay 
	hoặc quá khứ 
	
	Và công 
	đức thấy Phật 
	
	Trọn 
	hồi hướng Phật đạo. 
	
	         
	
	11. Bấy giờ, Xá-Lợi-Phất bạch rằng: "Thế-Tôn! Con nay không còn nghi 
	hối, tự mình ở trước Phật đặng thọ ký thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác. 
	Các vị tâm tự-tại một nghìn hai trăm đây, lúc xưa ở bực hữu học, Phật thường 
	dạy rằng: "Pháp của Ta hay lìa sanh, già, bệnh, chết, rốt ráo Niết-bàn". Các 
	vị hữu học vô học đây cũng đều đã tự rời chấp ngã cùng chấp có, chấp không 
	v.v... nói là đặng Niết-bàn, mà nay ở trước Đức Thế-Tôn nghe chổ chưa từng 
	nghe, đều sa vào nghi lầm. Hay thay Thế-Tôn! Xin Phật vì bốn chúng nói nhơn 
	duyên đó, khiến lìa lòng nghi hối". 
	
	
	         
	
	
	12. Khi 
	ấy, Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất! Ta trước đâu không nói rằng: "Các Phật 
	Thế-Tôn dùng các món nhơn duyên lời lẽ thí dụ phương tiện mà vì đó nói pháp 
	đều là đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác ư? Các điều nói đó đều vì dạy 
	Bồ-tát vậy. Nhưng Xá-Lợi-Phất! nay Ta sẽ dùng một thí dụ để chỉ rõ lại nghĩa 
	đó, những người có trí do thí-dụ mà đặng hiểu". 
	
	
	         
	
	
	13. Xá-Lợi-Phất! 
	Như trong quốc ấp, tụ-lạc có vị đại Trưởng-giả tuổi đã già suy, của giàu vô 
	lượng, có nhiều nhà ruộng và tôi tớ. Nhà ông rộng lớn mà chỉ có một cửa để 
	ra vào, người ở trong đó rất đông: hoặc một trăm, hai trăm cho đến năm trăm 
	người, lầu gát đã mục, vách phên sụp đổ, chân cột hư nát, trích xuyên xiêu 
	ngã, bốn phía đồng một lúc lửa bổng nổi lên đốt cháy nhà cửa. 
	
	          
	Các người con của Trưởng-giả hoặc mười người, hoặc hai mươi người, hoặc đến 
	ba mươi người ở trong nhà đó. 
	
	
	         
	
	
	14. Trưởng-giả 
	thấy lửa từ bốn phía nhà cháy lên, liền rất sợ sệt mà nghĩ rằng: Ta dầu có 
	thể ở nơi cửa của nhà cháy này, ra ngoài rất an ổn, song các con ở trong nhà 
	lửa ưa vui chơi giỡn không hay biết, không sợ sệt, lửa đến đốt thân rất đau 
	khổ lắm, mà lòng chẳng nhàm lo, không có ý cầu ra khỏi. 
	
	          
	Xá-Lợi-Phất! Ông Trưởng-giả đó lại nghĩ: Thân và tay của Ta có sức mạnh, nên 
	dùng vạt áo hoặc dùng ghế đẳng từ trong nhà mà ra ngoài. Ông lại nghĩ: Nhà 
	này chỉ có một cái cửa mà lại hẹp nhỏ, các con thơ bé chưa hiểu, mê đắm chơi 
	giỡn hoặc vấp ngã bị lửa đốt cháy, Ta nên vì chúng nó mà nói những việc đáng 
	sợ. 
	
	          
	Nhà này đã bị cháy phải liền mau ra, chớ để bị lửa đốt hại. Nghĩ như thế rồi 
	theo chỗ đã nghĩ đó mà bảo các con: "Các con mau ra". Cha dầu thương xót 
	khéo nói để dụ dỗ, mà các người con ưa vui chơi chẳng khứng tin chịu, chẳng 
	sợ sệt, trọn không có lòng muốn ra, lại cũng chẳng hiểu gì là lửa? Gì là 
	nhà? Thế nào là hại? Chỉ cứ đông tây chạy giỡn nhìn cha mà thôi. 
	
	         
	
	
	15. Bấy 
	giờ, Trưởng-giả liền nghĩ, nhà này đã bị lửa lớn đốt cháy, Ta cùng các con 
	nếu không liền ra chắc sẽ bị cháy, Ta nay nên bày chước phương tiện khiến 
	cho các con đặng khỏi nạn này. 
	
	          
	Cha biết các con đều vẩn có lòng thích các đồ chơi trân báu lạ lùng, nếu có, 
	chắc chúng nó ưa đắm, mà bảo các con rằng: "Đây này là những món ít có khó 
	đặng mà các con có thể vui chơi, nếu các con không ra lấy sau chắc buồn ăn 
	năn. Các thứ xe dê, xe hươu, xe trâu như thế, nay ở ngoài cửa có thể dùng 
	dạo chơi, các con ở nơi nhà lửa nên mau ra đây, tùy ý các con muốn, cha đều 
	sẽ cho các con". 
	
	          
	Lúc bấy giờ, các người con nghe cha nói đồ chơi báu đẹp vừa ý mình, nên lòng 
	mỗi người đều mạnh mẽ xô đẩy lẫn nhau, cùng đua nhau ruổi chạy, tranh ra 
	khỏi nhà lửa. Khi đó Trưởng-giả thấy các con đặng an ổn ra khỏi nhà lửa đều 
	ở trong đường ngả tư, ngồi nơi đất trống không còn bị chướng ngại, tâm ông 
	thơ-thới vui mừng hớn hở. 
	
	          
	Bấy giờ, các người con đều thưa với cha rằng: "Cha lúc nãy hứa cho những đồ 
	chơi tốt đẹp, nào xe dê, xe hươu, xe trâu xin liền ban cho". 
	
	
	         
	
	
	16. Xá-Lợi-Phất! 
	Khi đó Trưởng-giả đều cho các con đồng một thứ xe lớn, xe đó cao rộng chưng 
	dọn bằng các món báu, lan can bao quanh, bốn phía treo linh, lại dùng màn 
	lọng giăng che ở trên, cũng dùng đồ báu đẹp tốt lạ mà trau giồi đó, dây bằng 
	báu kết thắt các dải hoa rủ xuống, nệm chiếu mềm mại trải chồng, gối đỏ để 
	trên, dùng trâu trắng kéo, sắc da mập sạch, thân hình mập đẹp, có sức rất 
	mạnh, bước đi ngay bằng mau lẹ như gió, lại có đông tôi tớ để hầu hạ đó. 
	
	          
	Vì cớ sao? Vì ông Trưởng-giả đó của giàu vô lượng, các thứ kho tàng thảy đều 
	đầy ngập, ông nghĩ rằng: "Của cải của Ta nhiều vô cực, không nên dùng xe nhỏ 
	xấu kém mà cho các con, nay những trẻ thơ này đều là con của Ta, đồng yêu 
	không thiên lệch, Ta có xe bằng bảy báu như thế nhiều vô lượng nên lấy lòng 
	bình đẳng mà đều cho chúng nó, chẳng nên sai khác". 
	
	         
	    Vì sao? Dầu đem xe của Ta đó khắp 
	cho cả người một nước hảy còn không thiếu huống gì các con. Lúc ấy, các 
	người con đều ngồi xe lớn đặng điều chưa từng có, không phải chổ trước kia 
	mình trông. 
	
	
	          17. Xá-Lợi-Phất! 
	Ý của ông nghĩ sao? Ông Trưởng-giả đó đồng đem xe trân báu lớn cho các người 
	con, có lỗi hư vọng chăng? Xá-Lợi-Phất thưa: "Thưa Thế-Tôn! Không, ông 
	Trưởng-giả đó chỉ làm cho các người con đặng khỏi nạn lửa, toàn thân mạng 
	chúng nó chẳng phải là hư vọng. Vì sao? Nếu được toàn thân mạng bèn đã được 
	đồ chơi tốt đẹp, huống nữa là dùng phương tiện cứu vớt ra khỏi nhà lửa. 
	
	
	         
	Thế-Tôn! Dầu ông Trưởng-giả đó nhẫn đến chẳng cho một thứ xe rất nhỏ 
	còn chẳng phải hư vọng. Vì sao? Vì ông Trưởng-giả đó trước có nghĩ như vầy: 
	Ta dùng chước phương tiện cho các con đặng ra khỏi, vì nhơn duyên đó nên 
	không hư vọng vậy. Huống gì ông Trưởng-giả tự biết mình của giàu vô lượng 
	muốn lợi ích các con mà đồng cho xe lớn". 
	
	
	         
	
	
	18. Phật 
	bảo ngài Xá-Lợi-Phất: "Hay thay! Hay thay! Như lời ông nói, Xá-Lợi-Phất! 
	Như-Lai cũng lại như thế, Phật là Cha của tất cả thế gian, ở nơi các sự sợ 
	hãi suy não lo buồn vô minh che tối hết hẳn không còn thừa, mà trọn thành 
	tựu vô lượng tri kiến, trí lực, vô sở úy, có sức đại thần-thông cùng sức 
	trí-huệ, đầy đũ các món phương tiện, trí-huệ Ba-la-mật, đại-từ đại-bi thường 
	không hề lười mỏi. Hằng vì cầu việc lành lợi cho tất cả muôn loại mà sanh 
	vào nhà lửa tam giới cũ mục nầy, để độ chúng sanh ra khỏi nạn lửa: sanh, 
	già, bệnh, chết, lo buồn khổ não, ngu-si tối tăm, ba độc, dạy bảo cho chúng 
	sanh đặng Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác. 
	
	
	         
	
	
	19. Ta 
	thấy, các chúng sanh bị những sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ não nó 
	đốt cháy, cũng vì năm món dục(9) 
	tài lợi mà bị các điều thống khổ. Lại vì tham mê đeo đuổi tìm cầu 
	nên hiện đời thọ các điều khổ, đời sau thọ khổ địa ngục, ngạ quỷ. Nếu sanh 
	lên Trời và ở trong loài người thời nghèo cùng khốn khổ, bị khổ vì người yêu 
	thường xa lìa, kẻ oán ghét lại gặp gỡ. Các món khổ như thế mà chúng sanh 
	chìm trong đó vui vẻ dạo chơi, chẳng hay chẳng biết, chẳng kinh chẳng sợ, 
	cũng chẳng sanh lòng nhàm không cầu giải thoát, ở trong nhà lửa Tam giới này 
	Đông Tây rảo chạy dầu bị khổ nhiều vẫn chẳng lấy làm lo. 
	
	
	         
	
	
	20. Xá-Lợi-Phất! 
	Đức Phật thấy việc này rồi bèn nghĩ rằng: Ta là Cha của chúng sanh nên cứu 
	chúng nó ra khỏi nạn khổ đó, ban vô lượng vô biên món trí tuệ vui của Phật 
	để chúng nó dạo chơi. 
	
	
	         
	Xá-Lợi-Phất! Đức Như-Lai lại nghĩ: Nếu Ta chỉ dùng sức thần-thông 
	cùng sức trí-huệ bỏ chước phương tiện, mà vì chúng sanh khen ngợi các món 
	tri kiến, trí lực, vô sở úy của Như-Lai, ắt chúng sanh chẳng có thể do đó mà 
	đặng độ thoát. 
	
	          
	Vì sao? Vì các chúng sanh đó chưa khỏi sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn đau 
	khổ, đương bị thiêu đốt trong nhà lửa Tam giới, làm sao có thể hiểu được 
	trí-huệ của Phật. 
	
	
	         
	
	
	21. Xá-Lợi-Phất! 
	Như ông Trưởng-giả kia dầu thân và tay có sức mạnh mà chẳng dùng đó, chỉ ân 
	cần phương tiện gắng cứu các con thoát nạn nhà lửa, rồi sau đều cho xe trân 
	báu lớn. 
	
	
	         
	Đức Như-Lai cũng lại như thế, dầu có trí lực cùng sức vô úy(10)
	
	
	mà chẳng dùng đến, chỉ dùng trí phương tiện nơi nhà lửa tam giới cứu vớt 
	chúng sanh, vì chúng sanh nói ba thừa Thanh-Văn, Duyên-Giác cùng Phật thừa, 
	mà bảo rằng: "Các ngươi không nên ưa ở trong nhà lửa Tam giới, chớ có ham mê 
	các món sắc, thinh, hương, vị, xúc thô hèn, nếu tham, mê ắt sanh ái nhiễm 
	thời sẽ bị nó đốt; các ngươi mau ra khỏi ba cõi sẽ đặng chứng ba thừa: 
	Thanh-Văn, Duyên-Giác và Phật thừa. 
	
	
	         
	Nay Ta vì các ngươi mà bảo nhiệm việc đó quyết không dối vậy. Các 
	ngươi chỉ nên siêng năng tinh-tấn tu hành". Đức Như-Lai dùng phương tiện ấy 
	để dụ dẫn chúng sanh thẳng đến, lại bảo: "Các ngươi nên biết rằng pháp ba 
	thừa đó đều là pháp của các đấng Thánh khen ngợi, là pháp tự-tại không bị 
	ràng buộc không còn phải nương gá tìm cầu, ngồi trong ba thừa này dùng các 
	món Căn, Lực, Giác chi, Thánh đạo(11),
	
	
	Thiền định Vô-lậu, cùng giải thoát Tam muội v.v... để tự vui sướng, đăng vô 
	lượng sự an ổn khoái lạc. 
	
	
	         
	
	
	22. Xá-Lợi-Phất! 
	Nếu có chúng sanh nào bề trong có trí tánh, theo Đức Phật Thế-Tôn nghe pháp 
	tin nhận ân cần tinh-tấn, muốn chóng ra khỏi ba cõi tự cầu chứng Niết-bàn, 
	gọi đó là Thanh-Văn thừa, như các người con kia vì cầu xe dê mà ra khỏi nhà 
	lửa. 
	
	          
	Nếu có chúng sanh nào theo Đức Phật Thế-Tôn nghe pháp, tin nhận, rồi ân cần 
	tinh-tấn, cầu trí-huệ tự nhiên, ưa thích riêng lẽ vắng lặng, sâu rõ nhơn 
	duyên của các pháp, gọi đó là Duyên-Giác thừa, như các người con kia vì cầu 
	xe hươu mà ra khỏi nhà lửa. 
	
	          
	Nếu có chúng sanh nào theo Đức Phật Thế-Tôn nghe pháp tin nhận, siêng tu 
	tinh-tấn cầu Nhứt-thiết-trí, Phật trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí, các món tri 
	kiến lực, vô úy của Như-Lai, có lòng thương xót làm an vui cho vô lượng 
	chúng sanh, lợi ích trời, người, độ thoát tất cả, hạng đó gọi là Đại thừa, 
	Bồ-tát vì cầu đặng thừa này thời gọi là Ma-ha-tát, như các người con kia cầu 
	xe trâu mà ra khỏi nhà lửa. 
	
	
	         
	
	
	23. Xá-Lợi-Phất! 
	Như ông Trưởng-giả kia thấy các con được an ổn ra khỏi nhà lửa đến chổ vô 
	úy, ông tự nghĩ, Ta của giàu vô lượng, nên bình đẳng đem xe lớn đồng cho các 
	con. Đức Như-Lai cũng lại như thế, là Cha của tất cả chúng sanh, nếu thấy có 
	vô lượng, nghìn ức chúng sanh do cửa Phật giáo mà thoát khỏi khổ, đường hiểm 
	đáng sợ của ba cõi đặng sự vui Niết-bàn. 
	
	          
	Bấy giờ, Đức Như-Lai bèn nghĩ: "Ta có vô lượng vô biên trí-huệ, lực vô úy 
	v.v... Tạng pháp của các Đức Phật, các chúng sanh nầy đều là con của Ta đồng 
	ban cho pháp đại thừa, chẳng để có người được diệt độ riêng, đều đem pháp 
	diệt độ của Như-Lai mà cho chúng sanh nó diệt độ. 
	
	          
	Những chúng sanh đã thoát khỏi ba cõi đó, Phật đều cho món vui thiền định, 
	giải thoát v.v... của các Đức Phật, các món đó đều là một tướng, một thứ mà 
	các đấng Thánh khen ngợi, hay sanh ra sự vui sạch mầu bực nhứt. 
	
	
	         
	
	
	24. Xá-Lợi-Phất! 
	Như ông Trưởng-giả ban đầu dùng ba thứ xe dụ dẫn các con, sau rồi chỉ ban 
	cho xe lớn vật báu trang nghiêm an ổn thứ nhứt, song ông Trưởng-giả kia 
	không có lỗi hư dối, Đức Như-Lai cũng như thế, không có hư dối, ban đầu nói 
	ba thừa dẫn dắt chúng sanh sau rồi chỉ dùng Đại thừa mà độ giải thoát đó. 
	
	
	         
	Vì sao? Như-Lai có vô lượng Tạng pháp trí-huệ, lực, vô-sở-úy, có thể 
	ban pháp Đại thừa cho tất cả chúng sanh, chỉ vì chúng sanh không thọ được 
	hết. 
	
	        
	Xá-Lợi-Phất! Vì nhân duyên đó nên phải biết các Đức Như-Lai dùng sức phương 
	tiện ở nơi một Phật thừa phân biệt nói thành ba. 
	
	          
	Đức Phật muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 
	
	
	  25. Thí 
	như ông Trưởng-giả 
	
	Có một 
	nhà rất lớn 
	
	Nhà đó 
	đã lâu cũ 
	
	Mà lại 
	rất xấu xa, 
	
	Phòng 
	nhà vừa cao nguy 
	
	Gốc cột 
	lại gãy mục, 
	
	Trích 
	xuyên đều xiêu vẹo 
	
	Nền 
	móng đã nát rã, 
	
	Vách 
	phên đều sụp đổ 
	
	Đất bủn 
	rơi rớt xuống, 
	
	Tranh 
	lợp sa tán loạn 
	
	Kèo đòn 
	sai rời khớp, 
	
	Bốn bề 
	đều cong vạy 
	
	Khắp 
	đầy những tạp nhơ, 
	
	Có đến 
	năm trăm người 
	
	Ở đổ 
	nơi trong đó. 
	
	Chim 
	xi, hiêu, điêu, thứu, 
	
	Quạ, 
	chim thước, cưu, cáp 
	
	Loài 
	ngươn xà, phúc yết, 
	
	Giống 
	ngô công, do diên, 
	
	Loài 
	thủ cung, bá túc 
	
	Dứu, ly 
	cùng hề thử, 
	
	Các 
	giống độc trùng dữ 
	
	Ngang 
	dọc xen ruổi chạy, 
	
	Chổ 
	phân giải hôi thúi 
	
	Đồ bất 
	tịnh chảy tràn 
	
	Các 
	loài trùng khương lương 
	
	Bu nhóm 
	ở trên đó, 
	
	Cáo, 
	sói cùng dã can 
	
	Liếm 
	nhai và dày đạp 
	
	Cắn xé 
	những thây chết 
	
	Xương 
	thịt bừa bãi ra, 
	
	Do đây 
	mà bầy chó 
	
	Đua 
	nhau đến ngoạm lấy, 
	
	Ốm đói 
	và sợ sệt 
	
	Nơi nơi 
	tìm món ăn 
	
	Giành 
	giựt cấu xé nhau 
	
	Gầm gừ 
	gào sủa rân, 
	
	Nhà đó 
	sự đáng sợ 
	
	Những 
	biến trạng dường ấy. 
	
	Khắp 
	chổ đều có những 
	
	Quỉ, 
	ly, mị, vọng, lượng 
	
	Quỷ 
	Dạ-xoa quỷ dữ 
	
	Nuốt ăn 
	cả thịt người, 
	
	Các 
	loài trùng độc dữ 
	
	Những 
	cầm thú hung ác 
	
	Ấp, cho 
	bú sản sanh 
	
	Đều tự 
	dấu gìn giữ, 
	
	Quỷ 
	Dạ-xoa đưa đến 
	
	Giành 
	bắt mà ăn đó, 
	
	Ăn đó 
	no nê rồi 
	
	Lòng 
	hung dữ thêm hăng 
	
	Tiếng 
	chúng đánh cải nhau 
	
	Thật 
	rất đáng lo sợ. 
	
	Những 
	quỷ Cưu-bàn-trà 
	
	Ngồi 
	xổm trên đống đất 
	
	Hoặc có 
	lúc hỏng đất 
	
	Một 
	thước hay hai thước 
	
	Qua rồi 
	lại, dạo đi 
	
	Buông 
	lung chơi cùng giỡn 
	
	Nắm hai 
	chân của chó 
	
	Đánh 
	cho la thất thanh 
	
	Lấy 
	chân đạp trên cổ 
	
	Khủng 
	bố chó để vui. 
	
	Lại có 
	các giống quỷ 
	
	Thân nó 
	rất cao lớn 
	
	Trần 
	truồng thân đen xấu 
	
	Thường 
	ở luôn trong đó 
	
	Rền 
	tiếng hung ác lớn 
	
	Kêu la 
	tìm món ăn 
	
	Lại có 
	các giống quỷ 
	
	Cổ nó 
	nhỏ bằng kim 
	
	Lại có 
	các giống quỷ 
	
	Đầu nó 
	như đầu trâu 
	
	Hoặc là 
	ăn thịt người 
	
	Hoặc 
	lại ăn thịt chó, 
	
	Đầu tóc 
	rối tung lên 
	
	Rất ác 
	lại hung hiểm, 
	
	Bị đói 
	khát bức ngặt 
	
	Kêu la 
	vừa rong chạy. 
	
	Dạ-xoa 
	cùng quỷ đói 
	
	Các 
	chim muông ác độc 
	
	Đói gấp 
	rảo bốn bề 
	
	Rình 
	xem nơi cửa sổ, 
	
	Các nạn 
	dường thế đấy 
	
	Vô 
	lượng việc ghê sợ(12) 
	
	
	  26. Nhà 
	cũ mục trên đó 
	
	Thuộc ở 
	nơi một người 
	
	Người 
	ấy vừa mới ra 
	
	Thời 
	gian chưa bao lâu 
	
	Rồi sau 
	nhà cửa đó 
	
	Bỗng 
	nhiên lửa cháy đỏ 
	
	Đồng 
	một lúc bốn bề 
	
	Ngọn 
	lửa đều hừng hực, 
	
	Rường 
	cột và trính xuyên 
	
	Tiếng 
	tách nổ vang động 
	
	Nát gãy 
	rơi rớt xuống 
	
	Vách 
	phên đều lở ngã, 
	
	Các 
	loại quỷ thần thảy 
	
	Đồng 
	cất tiếng kêu to, 
	
	Các 
	giống chim điêu, thứu 
	
	Quỷ 
	Cưu-bàn-trà thảy 
	
	Kinh sợ 
	chạy sảng sốt 
	
	Vẫn 
	không tự ra đặng, 
	
	Thú dữ 
	loài trùng độc 
	
	Chui 
	núp trong lỗ hang. 
	
	Các quỷ 
	Tỳ-xá-xà 
	
	Cũng ở 
	trong hang đó 
	
	Vì 
	phước đức kém vậy 
	
	Bị lửa 
	đến đốt bức 
	
	Lại tàn 
	hại lẫn nhau 
	
	Uống 
	máu ăn thịt nhau. 
	
	Những 
	loại thú dã can 
	
	Thời 
	đều đã chết trước 
	
	Các 
	giống thú dữ lớn 
	
	Giành 
	đua đến ăn nuốt. 
	
	Khói 
	tanh bay phùn phụt 
	
	Phủ 
	khắp bít bốn bề, 
	
	Loài 
	ngô công, do diên 
	
	Cùng 
	với rắn hung độc 
	
	Bị lửa 
	lòn đốt cháy 
	
	Tranh 
	nhau chạy khỏi hang, 
	
	Quỷ Bàn 
	trà rình chờ 
	
	Liền 
	bắt lấy mà ăn. 
	
	Lại có 
	các ngạ quỷ 
	
	Trên 
	đầu lửa bực cháy 
	
	Đói 
	khát rất nóng khổ 
	
	Sảng 
	sốt chạy quàng lên, 
	
	Nhà lửa 
	đó dường ấy 
	
	Rất 
	đáng nên ghê sợ 
	
	Độc hại 
	cùng tai lửa 
	
	Các nạn 
	chẳng phải một. 
	
	
	  27. Lúc 
	bấy giờ chủ nhà 
	
	Đứng ở 
	nơi ngoài cửa 
	
	Nghe có 
	người mách rằng: 
	
	Các 
	người con của ông 
	
	Trước 
	đây vì dạo chơi 
	
	Mà đến 
	vào nhà này 
	
	Thơ bé 
	không hiểu biết 
	
	Chỉ vui 
	ham ưa đắm. 
	
	
	Trưởng-giả vừa nghe xong 
	
	Kinh sợ 
	vào nhà lửa 
	
	Tìm 
	phương nghi cứu tế 
	
	Cho con 
	khỏi thiêu hại 
	
	Mà dụ 
	bảo các con 
	
	Nói rõ 
	các hoạn nạn: 
	
	Nào ác 
	quỷ dộc trùng 
	
	Hỏa tai 
	lan tràn cháy 
	
	Các sự 
	khổ thứ lớp 
	
	Nói 
	luôn không hề dứt 
	
	Loài 
	độc xà, ngươn phúc 
	
	Và các 
	quỷ Dạ-xoa 
	
	Cùng 
	quỷ Cưu-bàn-trà 
	
	Những 
	dã can, chồn, chó 
	
	Chim 
	điêu, thứu, xi, hiêu 
	
	Lại 
	giống bá túc thảy 
	
	Đều đói 
	khát khổ gấp 
	
	Rất 
	đáng phải ghê sợ 
	
	Chỗ khổ 
	nạn như thế 
	
	Huống 
	lại là lửa lớn. 
	
	Các con 
	nhỏ không hiểu 
	
	Dầu có 
	nghe cha dạy 
	
	Cứ vẫn 
	còn ham ưa 
	
	Vui 
	chơi mãi không thôi.  
	
	
	  28. Bấy 
	giờ Trưởng-giả kia 
	
	Mới bèn 
	nghĩ thế nầy: 
	
	Các con 
	như thế đó 
	
	Làm ta 
	thêm sầu não. 
	
	Nay 
	trong nhà lửa này 
	
	Không 
	một việc đáng vui 
	
	Mà các 
	con ngây dại 
	
	Vẫn ham 
	mê vui chơi 
	
	Chẳng 
	chịu nghe lời ta 
	
	Toan sẽ 
	bị lửa hại. 
	
	Ông bèn 
	lại suy nghĩ 
	
	Nên bày 
	các phương tiện 
	
	Bảo với 
	các con rằng: 
	
	Cha có 
	rất nhiều thứ 
	
	Các đồ 
	chơi trân kỳ 
	
	Những 
	xe báu tốt đẹp 
	
	Nào xe 
	dê, xe hươu 
	
	Cùng 
	với xe trâu lớn 
	
	Hiện để 
	ở ngoài cửa 
	
	Các con 
	mau ra đây 
	
	Cha 
	chính vì các con 
	
	Mà sắm 
	những xe này 
	
	Tùy ý 
	các con thích 
	
	Có thể 
	để dạo chơi. 
	
	Các con 
	nghe cha nói 
	
	Các thứ 
	xe như vậy 
	
	Tức 
	thời cùng giành đua 
	
	Rảo 
	chạy ra khỏi nhà 
	
	Đến nơi 
	khoảng đất trống 
	
	Rời 
	những sự khổ nạn. 
	
	
	Trưởng-giả thấy các con 
	
	Được ra 
	khỏi nhà lửa 
	
	Ở nơi 
	ngã tư đường 
	
	Đến 
	ngồi tòa sư tử. 
	
	Ông bèn 
	tự mừng rằng 
	
	Ta nay 
	rất mừng vui 
	
	Những 
	đứa con ta đây 
	
	Đẻ nuôi 
	rất khó lắm 
	
	Chúng 
	nhỏ dại không hiểu 
	
	Mới lầm 
	vào nhà hiểm 
	
	Có 
	nhiều loài trùng độc 
	
	Quỷ 
	Ly-mị đáng sợ 
	
	Lửa lớn 
	cháy hừng hực 
	
	Bốn 
	phía đều phực lên 
	
	Mà các 
	trẻ con này 
	
	Lại ham 
	ưa vui chơi 
	
	Nay ta 
	đã cứu chúng 
	
	Khiến 
	đều đặng thoát nạn 
	
	Vì thế 
	các người ơi! 
	
	Ta nay 
	rất vui mừng. 
	
	Khi ấy 
	các người con 
	
	Biết 
	cha đã ngồi an 
	
	Đều đến 
	bên chổ cha 
	
	Mà thưa 
	cùng cha rằng: 
	
	Xin cha 
	cho chúng con 
	
	Ba thứ 
	xe báu lạ 
	
	Như vừa 
	rồi cha hứa 
	
	Các con 
	mau ra đây 
	
	Sẽ cho 
	ba thứ xe 
	
	Tùy ý 
	các con muốn 
	
	Bây giờ 
	chính phải lúc 
	
	Xin cha 
	thương cấp cho.  
	
	
	  29. Trưởng-giả 
	giàu có lớn 
	
	Kho đụn 
	rất nhiều đầy 
	
	Vàng 
	bạc cùng lưu-ly 
	
	Xa-cừ 
	ngọc mã-não, 
	
	Dùng 
	những món vật báu 
	
	Tạo 
	thành các xe lớn 
	
	Chưng 
	dọn trang nghiêm đẹp 
	
	Khắp 
	vòng có bao lơn 
	
	Bốn mặt 
	đều treo linh 
	
	Dây 
	vàng xen thắt tụi 
	
	Lưới 
	mành kết trân châu 
	
	Giăng 
	bày phủ phía trên 
	
	Hoa 
	vàng các chuổi ngọc 
	
	Lòng 
	thòng rủ khắp chỗ 
	
	Các màu 
	trang sức đẹp 
	
	Khắp 
	vòng vây quanh xe 
	
	Dùng 
	nhiễu hàng mềm mại 
	
	Để làm 
	nệm lót ngồi 
	
	Vải quý 
	mịn rất tốt 
	
	Giá trị 
	đến nghìn muôn 
	
	Bóng 
	láng trắng sạch sẽ 
	
	Dùng 
	trải trùm trên nệm 
	
	Có trâu 
	trắng to lớn 
	
	Mập 
	khỏe nhiều sức mạnh 
	
	Thân 
	hình rất tươi tốt 
	
	Để kéo 
	xe báu đó 
	
	Đông 
	những tôi và tớ 
	
	Mà chực 
	hầu giữ gìn 
	
	Đem xe 
	đẹp như thế 
	
	Đồng 
	ban cho các con 
	
	Các con 
	lúc bấy giờ 
	
	Rất vui 
	mừng hớn hở 
	
	Ngồi 
	trên xe báu đó 
	
	Dạo đi 
	khắp bốn phương 
	
	Vui 
	chơi nhiều khoái lạc 
	
	Tự tại 
	không ngăn ngại.  
	
	
	  30. Bảo 
	Xá-Lợi-Phất này 
	
	Đức 
	Phật cũng như vậy 
	
	Tôn cả 
	trong hàng Thánh 
	
	Cha 
	lành của trong đời 
	
	Tất cả 
	các chúng sanh 
	
	Đều là 
	con của Ta 
	
	Say mê 
	theo thế lạc 
	
	Không 
	có chút huệ tâm. 
	
	Ba cõi 
	hiểm không an 
	
	Dường 
	như nhà lửa cháy 
	
	Các nạn 
	khổ dẫy đầy 
	
	Rất 
	đáng nên ghê sợ. 
	
	Thường 
	có những sanh, già 
	
	Bịnh, 
	chết và rầu lo 
	
	Các thứ 
	lửa như thế 
	
	Cháy 
	hừng chẳng tắt dứt. 
	
	Đức 
	Như-Lai đã lìa 
	
	Nhà lửa 
	ba cõi đó 
	
	Vắng 
	lặng ở thong thả 
	
	An ổn 
	trong rừng nội 
	
	Hiện 
	nay ba cõi này 
	
	Đều là 
	của Ta cả 
	
	Những 
	chúng sanh trong đó 
	
	Cũng là 
	con của Ta. 
	
	Mà nay 
	trong ba cõi 
	
	Có 
	nhiều thứ hoạn nạn 
	
	Chỉ 
	riêng một mình Ta 
	
	Có thể 
	cứu hộ chúng, 
	
	Dầu lại 
	đã dạy bảo 
	
	Mà vẫn 
	không tin nhận 
	
	Vì nơi 
	các dục nhiễm 
	
	Rất 
	sanh lòng tham mê 
	
	Bởi thế 
	nên phương tiện 
	
	Vì 
	chúng nói ba thừa 
	
	Khiến 
	cho các chúng sanh 
	
	Rõ ba 
	cõi là khổ 
	
	Mỡ bày 
	cùng diễn nói 
	
	Những 
	đạo pháp xuất thế, 
	
	Các 
	người con đó thảy 
	
	Nếu nơi 
	tâm quyết định 
	
	Đầy đủ 
	ba món minh(13) 
	
	Và sáu 
	món thần-thông(14) 
	
	Có 
	người được Duyên-giác 
	
	Hoặc 
	bất thối Bồ-tát 
	
	
	Xá-Lợi-Phất phải biết 
	
	Ta vì 
	các chúng sanh 
	
	Dùng 
	món thí dụ này 
	
	Để nói 
	một Phật thừa 
	
	Các ông 
	nếu có thể 
	
	Tin 
	nhận lời nói đây 
	
	Tất cả 
	người đều sẽ 
	
	Chứng 
	thành quả Phật đạo.  
	
	
	  31. Phật 
	thừa đây vi diệu 
	
	Rất 
	thanh tịnh thứ nhứt 
	
	Ở trong 
	các thế gian 
	
	Không 
	còn pháp nào trên 
	
	Của các 
	Phật vui ưa, 
	
	Tất cả 
	hàng chúng sanh 
	
	Đều 
	phải nên khen ngợi 
	
	Và cúng 
	dường lễ bái 
	
	Đủ vô 
	lượng nghìn ức 
	
	Các 
	trí-lực, giải-thoát 
	
	
	Thiền-định và trí-huệ 
	
	Cùng 
	pháp khác của Phật, 
	
	Chứng 
	đặng thừa như thế 
	
	Khắp 
	cho các con thảy 
	
	Ngày 
	đêm cùng kiếp số 
	
	Thường 
	đặng ngồi dạo chơi 
	
	Cho các 
	hàng Bồ-tát 
	
	Cùng 
	với chúng Thanh-văn 
	
	Nương 
	nơi thừa báu này 
	
	Mà 
	thẳng đến đạo tràng. 
	
	Vì bởi 
	nhơn duyên đó 
	
	Tìm kỹ 
	khắp mười phương 
	
	Lại 
	không thừa nào khác 
	
	Trừ 
	Phật dùng phương tiện. 
	
	Bảo với 
	Xá-Lợi-Phất! 
	
	Bọn ông 
	các người thảy 
	
	Đều là 
	con của Ta 
	
	Ta thời 
	là Cha lành. 
	
	Các ông 
	trải nhiều kiếp 
	
	Bị các 
	sự khổ đốt 
	
	Ta đều 
	đã cứu vớt 
	
	Cho ra 
	khỏi ba cõi. 
	
	Ta dầu 
	ngày trước nói 
	
	Các ông 
	được diệt độ 
	
	Nhưng 
	chỉ hết sanh tử 
	
	Mà 
	thiệt thời chẳng diệt, 
	
	Nay 
	việc nên phải làm 
	
	Chỉ có 
	trí-huệ Phật. 
	
	Nếu có 
	Bồ-tát nào 
	
	Ở trong 
	hàng chúng này 
	
	Có thể 
	một lòng nghe 
	
	Pháp 
	thật của các Phật, 
	
	Các Đức 
	Phật Thế-Tôn 
	
	Dầu 
	dùng chước phương tiện 
	
	Mà 
	chúng sanh được độ 
	
	Đều là 
	Bồ-tát cả.  
	
	
	  32. Nếu 
	có người trí nhỏ 
	
	Quá mê 
	nơi ái dục 
	
	Phật 
	bèn vì bọn này 
	
	Mà nói 
	lý Khổ đế, 
	
	Chúng 
	sanh lòng nghe mừng 
	
	Đặng 
	điều chưa từng có 
	
	Đức 
	Phật nói Khổ đế 
	
	Chơn 
	thật không sai khác. 
	
	Nếu lại 
	có chúng sanh 
	
	Không 
	rõ biết gốc khổ 
	
	Quá say 
	nơi khổ nhơn 
	
	Chẳng 
	tạm rời bỏ được, 
	
	Phật vì 
	hạng người này 
	
	Dùng 
	phương tiện nói dạy 
	
	Nguyên 
	nhơn có các khổ 
	
	Tham 
	dục là cội gốc, 
	
	Nếu dứt 
	được tham dục 
	
	Khổ 
	không chỗ nương đổ 
	
	Dứt hết 
	hẳn các khổ 
	
	Gọi là 
	Đế thứ ba. 
	
	Vì 
	chứng Diệt đế vậy 
	
	Mà tu 
	hành Đạo đế 
	
	Lìa hết 
	các khổ phược 
	
	Gọi đó 
	là giải-thoát, 
	
	Người 
	đó nơi pháp gì 
	
	Mà nói 
	đặng giải-thoát? 
	
	Chỉ xa 
	rời hư vọng 
	
	Gọi đó 
	là giải-thoát 
	
	Kỳ 
	thiệt chưa phải được 
	
	
	Giải-thoát hẳn tất cả. 
	
	Đức 
	Phật nói người đó 
	
	Chưa 
	phải thiệt diệt độ, 
	
	Vì 
	người đó chưa được 
	
	Đạo quả 
	vô-thượng vậy. 
	
	Ý của 
	Ta không muốn 
	
	Cho đó 
	đến diệt độ, 
	
	Ta là 
	đấng Pháp-Vương 
	
	Tự tại 
	nơi các pháp 
	
	Vì an 
	ổn chúng sanh 
	
	Nên 
	hiện ra nơi đời. 
	
	
	Xá-Lợi-Phất phải biết 
	
	Pháp ấn 
	của Ta đây 
	
	Vì muốn 
	làm lợi ích 
	
	Cho thế 
	gian nên nói 
	
	Tại chổ 
	ông đi qua 
	
	Chớ có 
	vọng tuyên truyền. 
	
	Nếu có 
	người nghe đến 
	
	Tùy hỷ 
	kính nhận lấy 
	
	Phải 
	biết rằng người ấy 
	
	Là bậc 
	Bất thối chuyển. 
	
	Nếu có 
	người tin nhận 
	
	Kinh 
	pháp Vô thượng này 
	
	Thời 
	người đó đã từng 
	
	Thấy 
	các Phật quá khứ 
	
	Cung 
	kính và cúng dường 
	
	Cũng 
	được nghe Pháp này. 
	
	Nếu 
	người nào có thể 
	
	Tin 
	chịu lời ông nói 
	
	Thời 
	chính là thấy Ta 
	
	Cũng là 
	thấy nơi ông 
	
	Cùng 
	các chúng Tỳ-kheo 
	
	Và các 
	hàng Bồ-tát.  
	
	
	  33. Phật vì người trí sâu 
	
	Nói 
	Kinh Pháp-Hoa này 
	
	Kẻ thức 
	cạn nghe đến 
	
	Mê lầm 
	không hiểu được. 
	
	Tất cả 
	hàng Thanh-văn 
	
	Cùng 
	với Bích-Chi Phật 
	
	Ở trong 
	Kinh Pháp này 
	
	Sức kia 
	không hiểu được. 
	
	Chính 
	ông Xá-Lợi-Phất 
	
	Hãy còn 
	nơi Kinh nầy 
	
	Dùng 
	lòng tin đặng vào 
	
	Huống 
	là Thanh-văn khác. 
	
	Bao 
	nhiêu Thanh-văn khác 
	
	Do tin 
	theo lời Phật 
	
	Mà tùy 
	thuận Kinh nầy 
	
	Chẳng 
	phải trí của mình.  
	
	
	  34. Lại nầy Xá-Lợi-Phất! 
	
	Kẻ kiêu 
	mạn biếng lười 
	
	Vọng so 
	chấp lấy ngã 
	
	Chớ vì 
	nói Kinh này, 
	
	Hạng 
	phàm phu biết cạn 
	
	Quá mê 
	năm món dục 
	
	Nghe 
	pháp không hiểu được 
	
	Cũng 
	chẳng nên vì nói, 
	
	Nếu có 
	người không tin 
	
	Khinh 
	hủy chê Kinh này 
	
	Thời là 
	dứt tất cả 
	
	Giống 
	Phật ở thế-gian. 
	
	Nếu có 
	người xịu mặt 
	
	Mà cưu 
	lòng nghi hoặc 
	
	Ông nên 
	lóng nghe nói 
	
	Tội báo 
	của người đó 
	
	Hoặc 
	Phật còn tại thế 
	
	Hoặc 
	sau khi diệt độ 
	
	Nếu có 
	người chê bai 
	
	Kinh 
	điển như thế này 
	
	Thấy có 
	người đọc tụng 
	
	Biên 
	chép thọ trì Kinh 
	
	Rồi 
	khinh tiện ghét ganh 
	
	Mà cưu 
	lòng kết hờn 
	
	Tội báo 
	của người đó 
	
	Ông nay 
	lại lóng nghe. 
	
	Người 
	đó khi mạng chung 
	
	Sa vào 
	ngục A-tỳ 
	
	Đầy đủ 
	một kiếp chẳn 
	
	Kiếp 
	mãn hết lại sanh 
	
	Cứ xoay 
	vần như thế 
	
	Nhẫn 
	đến vô số kiếp. 
	
	Từ 
	trong địa ngục ra 
	
	Sẽ đọa 
	vào súc sanh, 
	
	Hoặc là 
	chó, dã can 
	
	Thân 
	thể nó ốm gầy 
	
	Đen điu 
	thêm ghẻ lác 
	
	Bị 
	người thường chọc ghẹo 
	
	Lại còn 
	phải bị người 
	
	Gớm 
	nhờm và ghét rẻ 
	
	Thường 
	ngày đói khát khổ 
	
	Xương 
	thịt đều khô khan, 
	
	Lúc 
	sống chịu khổ sở 
	
	Chết bị 
	ném ngói đá 
	
	Vì đoạn 
	mất giống Phật 
	
	Nên thọ 
	tội báo đó. 
	
	Hoặc 
	sanh làm lạc đà 
	
	Hoặc 
	sanh vào loài lừa 
	
	Thân 
	thường mang kéo nặng 
	
	Lại 
	thêm bị đánh đập 
	
	Chỉ nhớ 
	tưởng: nước, cỏ 
	
	Ngoài 
	ra không biết gì 
	
	Vì 
	khinh chê Kinh này 
	
	Mà mắc 
	tội như vậy. 
	
	Có khi 
	làm dã can 
	
	Đi vào 
	trong xóm làng 
	
	Thân 
	thể đầy ghẻ lác 
	
	Lại 
	chột hết một mắt 
	
	Bị bọn 
	trẻ nhỏ vây 
	
	Theo 
	đánh đập liệng ném 
	
	Chịu 
	nhiều các đau khổ 
	
	Hoặc có 
	lúc phải chết. 
	
	Ở đây 
	vừa chết rồi 
	
	Liền 
	lại thọ thân rắn 
	
	Thân 
	thể nó dài lớn 
	
	Đến năm 
	trăm do tuần 
	
	Điếc 
	ngây và không chân 
	
	Lăn lóc 
	di bằng bụng 
	
	Bị các 
	loài trùng nhỏ 
	
	Cắn rút 
	ăn thịt máu 
	
	Bị khổ 
	cả ngày đêm 
	
	Không 
	tạm có ngừng nghỉ 
	
	Vì 
	khinh chê Kinh nầy 
	
	Mà mắc 
	tội như vậy. 
	
	Nếu 
	được sanh làm người 
	
	Các căn 
	đều ám độn 
	
	Lùn xấu 
	lại lệch què 
	
	Đui 
	điếc thêm lưng gù 
	
	Có nói 
	ra lời gì 
	
	Mọi 
	người không tin nhận, 
	
	Hơi 
	miệng thường hôi thúi 
	
	Bị quỷ 
	mỵ dựa nhập 
	
	Nghèo 
	cùng rất hèn hạ 
	
	Bị 
	người sai khiến luôn, 
	
	Nhiều 
	bịnh thân ốm gầy 
	
	Không 
	có chổ cậy nhờ 
	
	Dầu 
	nương gần với người 
	
	Mà 
	người chẳng để ý 
	
	Nếu có 
	đặng điều chi 
	
	Thời 
	liền lại quên mất, 
	
	Nếu học 
	qua nghề thuốc 
	
	Theo 
	đúng phép trị bịnh 
	
	Mà bịnh 
	người nặng thêm 
	
	Hoặc có 
	khi đến chết, 
	
	Nếu tự 
	mình có bịnh 
	
	Không 
	người chữa lành đặng 
	
	Dầu có 
	uống thuốc hay 
	
	Mà bịnh 
	càng thêm nặng, 
	
	Hoặc 
	người khác phản nghịch 
	
	Cướp 
	giựt trộm lấy của 
	
	Các tội 
	dường thế đó 
	
	Lại tự 
	mang họa lây. 
	
	Những 
	người tội như đây 
	
	Trọn 
	không thấy được Phật 
	
	Là vua 
	trong hàng Thánh 
	
	Thường 
	nói pháp giáo hóa, 
	
	Những 
	người tội như đây 
	
	Thường 
	sanh chổ hoạn nạn 
	
	Tâm 
	cuồng loạn, tai điếc 
	
	Trọn 
	không nghe pháp được. 
	
	Trải 
	qua vô số kiếp 
	
	Như số 
	cát sông Hằng 
	
	Sanh ra 
	liền điếc câm 
	
	Các căn 
	chẳng dầy đủ 
	
	Thường 
	ở trong địa-ngục 
	
	Như dạo 
	chơi vườn nhà, 
	
	Ở tại 
	ác đạo khác 
	
	Như ở 
	nhà của mình 
	
	Lạc đà, 
	lừa, heo, chó 
	
	Là chổ 
	kia thường đi 
	
	Vì 
	khinh chê Kinh này 
	
	Mắc tội 
	dường thế đó. 
	
	Nếu 
	đặng sanh làm người 
	
	Điếc, 
	đui lại câm, ngọng 
	
	Nghèo 
	cùng các tướng suy 
	
	Dùng đó 
	tự trang nghiêm, 
	
	Sưng 
	bủn bịnh khô khát 
	
	Ghẻ, 
	lác, cùng ung thư 
	
	Các 
	bịnh như trên đó 
	
	Dùng 
	làm y phục mặc, 
	
	Thân 
	thể thường hôi hám 
	
	Nhơ 
	nhớp không hề sạch 
	
	Lòng 
	chấp ngã sâu chặt 
	
	Thêm 
	nhiều tánh giận hờn 
	
	Tính 
	dâm dục hẩy hừng 
	
	Đến 
	chẳng chừa cầm thú.  
	
	
	  35. Bảo cho Xá-Lợi-Phất! 
	
	Người 
	khinh chê Kinh này 
	
	Nếu kể 
	nói tội kia 
	
	Cùng 
	kiếp cũng chẳng hết 
	
	Vì bởi 
	nhơn duyên đó 
	
	Ta vẫn 
	bảo các ông 
	
	Trong 
	nhóm người vô trí 
	
	Chớ nên 
	nói Kinh này. 
	
	Nếu có 
	người lợi căn 
	
	Sức 
	trí-huệ sáng láng 
	
	Học 
	rộng và nhớ dai 
	
	Lòng 
	mong cầu Phật đạo 
	
	Những 
	hạng người như thế 
	
	Mới nên 
	vì đó nói. 
	
	Nếu có 
	người đã từng 
	
	Thấy 
	trăm nghìn ức Phật 
	
	Trồng 
	các cội đức lành 
	
	Thâm 
	tâm rất bền vững 
	
	Hạng 
	người được như thế 
	
	Mới nên 
	vì đó nói. 
	
	Nếu có 
	người tinh tấn 
	
	Thường 
	tu tập lòng từ 
	
	Chẳng 
	hề tiếc thân mạng 
	
	Mới nên 
	vì đó nói. 
	
	Nếu có 
	người cung kính 
	
	Không 
	có sanh lòng khác 
	
	Lìa xa 
	các phàm ngu 
	
	Ở riêng 
	trong núi chầm 
	
	Những 
	hạng người như thế 
	
	Mới nên 
	vì đó nói. 
	
	Lại 
	Xá-Lợi-Phất này! 
	
	Nếu 
	thấy có người nào 
	
	Rời bỏ 
	ác tri thức 
	
	Gần gũi 
	bạn hiền lành 
	
	Người 
	được như thế ấy 
	
	Mới nên 
	vì đó nói. 
	
	Nếu 
	thấy hàng Phật tử 
	
	Giữ 
	giới hạnh trong sạch 
	
	Như 
	minh châu sáng sạch 
	
	Ham cầu 
	Kinh Đại thừa 
	
	Những 
	người được như thế 
	
	Mới nên 
	vì đó nói. 
	
	Nếu 
	người không lòng giận 
	
	Chắc 
	thiệt ý dịu hòa 
	
	Thường 
	thương xót mọi loài 
	
	Cung 
	kính các đức Phật 
	
	Hạng 
	người tốt như thế 
	
	Mới nên 
	vì đó nói. 
	
	Lại có 
	hàng Phật tử 
	
	Ở tại 
	trong đại chúng 
	
	Thuần 
	dùng lòng thanh tịnh 
	
	Các món 
	nhơn cùng duyên 
	
	Thí dụ 
	và lời lẽ 
	
	Nói 
	pháp không chướng ngại 
	
	Những 
	người như thế ấy 
	
	Mới nên 
	vì đó nói. 
	
	Nếu có 
	vị Tỳ-kheo 
	
	Vì cầu 
	Nhứt-thiết-trí 
	
	Khắp 
	bốn phương cầu pháp 
	
	Chắp 
	tay cung kính thọ 
	
	Chỉ ưa 
	muốn thọ trì 
	
	Kinh 
	điển về Đại thừa 
	
	Nhẫn 
	đến không hề thọ 
	
	Một bài 
	kệ Kinh khác 
	
	Hạng 
	người được như thế 
	
	Mới nên 
	vì đó nói. 
	
	Như có 
	người chí tâm 
	
	Cầu 
	Xá-lợi của Phật 
	
	Cầu 
	Kinh cũng như thế 
	
	Đặng 
	rồi đảnh lễ thọ 
	
	Người 
	đó chẳng còn lại 
	
	Có lòng 
	cầu Kinh khác 
	
	Cũng 
	chưa từng nghĩ tưởng 
	
	Đến 
	sách vở ngoại đạo 
	
	Người 
	được như thế ấy 
	
	Mới nên 
	vì đó nói. 
	
	Bảo 
	cùng Xá-Lợi-Phất! 
	
	Ta nói 
	các sự tướng 
	
	Của 
	người cầu Phật đạo 
	
	Cùng 
	kiếp cũng chẳng hết 
	
	Những 
	người như thế đó 
	
	Thời có 
	thể tin hiểu 
	
	Ông nên 
	vì họ nói 
	
	Kinh 
	Diệu-Pháp Liên-Hoa. 
	
	  
	
	 
	
	
	Thích nghĩa: 
	
	
	  
	
	
	(1) LẬU TẬN: Nhiễm tâm phiền-não đã hết sạch, đồng nghĩa với "Vô-lậu". 
	
	
	(2) SẮC VÀNG, BĂM HAI TƯỚNG: Thân Phật sắc vàng tử kim có 32 tướng tốt. 
	
	
	(3) MƯỜI LỰC: Trí của Phật có 10 lực dụng: 
	
	          
	1- Thị xứ phi xứ trí lực 
	
	          
	2- Nghiệp trí lực 
	
	          
	3- Thiền định trí lực 
	
	          
	4- Căn tánh trí lực 
	
	          
	5- Nguyên dục trí lực 
	
	          
	6- Giới trí lực 
	
	          
	7- Đạo chí xứ trí lực 
	
	          
	8- Túc mạng trí lực 
	
	          
	9- Thiên nhãn trí lực 
	
	          
	10- Lậu tận trí lực 
	
	
	(4) BẤT CỘNG: Bồ-tát cùng Thanh-văn Duyên-giác đều không có, riêng Phật có 
	18 pháp nầy. 
	
	
	(5) BỒ-TÁT: "Bồ-đề"=Giác; "Tát-đỏa"=Hữu tình; nói tắt là Bồ-tát, tức là bực 
	đã tự hay giác ngộ và có thể cứu-độ giác ngộ loài hữu tình. 
	
	
	(6) PHẠM-CHÍ: Tức là Bà-la-môn. 
	
	
	(7) BA TUẦN: Tên của ma-vương ở đầu cõi dục. 
	
	
	(8) NĂM NHÓM: Tức là Ngũ uẩn là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức 
	uẩn. Cũng gọi là ngũ ấm. 
	
	
	(9) NĂM MÓN DỤC: Tức là ngũ dục là tài, sắc, danh, thực, thùy (ngủ nghỉ) còn 
	gọi là: Sắc, thin, hương, vị, xúc. 
	
	
	(10) SỨC VÔ ÚY: Bốn đức vô sở úy của Phật. 
	
	          
	1- Nhứt thiết trí vô-úy. 
	
	          
	2- Lậu-tận vô-úy. 
	
	          
	3- Thuyết đạo vô-úy. 
	
	          
	4- Thuyết khổ tận đạo vô-úy. 
	
	
	(11) CĂN, LỰC, GIÁC CHI, THÁNH ĐẠO: Tức là: 
	
	          
	a) Năm căn: Tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn. 
	
	          
	b) Năm lực: Tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, huệ lực. 
	
	          
	c) Bảy giac-chi: Trạch pháp, niệm, tinh tấn, hỉ, khinh an, định, xả. 
	
	          
	d) Tám Chánh Đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh 
	mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. 
	
	
	(12) VIỆC GHÊ SỢ: Gồm: 
	
	          
	1- Súy: Cú tai mèo 
	
	          
	2- Hiêu, Điêu, Thứu: Loài chim dữ tiếng xấu 
	
	          
	3- Thước: Chim khách 
	
	          
	4- Cưu: Tu-hú 
	
	          
	5- Cáp: Bồ-câu 
	
	          
	6- Ngươn xà: Rắn độc 
	
	          
	7- Phúc yết: Bò cạp 
	
	          
	8- Ngô công: Rít 
	
	          
	9- Do diên: Trùng, rận ở áo tơi 
	
	          
	10- Dứu ly: Chồn, cáo 
	
	          
	11- Hề thử: Giống chuột 
	
	          
	12- Khương lương: Bọ hung. 
	
	
	(13) BA MÓN MINH: Thiên nhản minh, Túc mang minh, Lậu tận minh. 
	
	
	(14) SÁU MÓN THẦN THÔNG: Thiên nhản thông, Thiên nhỉ thông, Thần túc thông, 
	Tha tâm thông, Túc mạng thông, Lậu tận thông. 
	
	  
	
		
		
		   
	 
	
 |   |