| 
	
	   
	
	QUYỂN 
	THỨ HAI 
	
	Đời Diêu Tần ngài 
	Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập vâng chiếu dịch. Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt 
	Dịch 
	
	
	  
	
	
	KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA  
	
	
	PHẨM "TÍN GIẢI"(1) THỨ TƯ 
	
	
	  
	
	          
	
	1. Lúc bấy 
	giờ, các ngài Huệ-Mạng Tu-Bồ-Đề, Đại Ca-Chiên-Diên, Đại Ca-Diếp, Đại 
	Mục-Kiền-Liên, từ nơi Đức Phật nghe pháp chưa từng có. Đức Thế-Tôn dự ghi 
	cho ngài Xá-Lợi-Phất sẽ thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, sanh lòng hy 
	hữu hớn hở vui mừng, liền từ chổ ngồi đứng dậy sửa y phục trịch bày vai hữu, 
	gối hữu chấm đất, một lòng chắp tay cúi mình cung kính chiêm ngưỡng dung 
	nhan Phật mà bạch cùng Phật rằng: "Chúng con ở đầu trong hàng Tăng, tuổi đều 
	già lụn, tự cho đã được Niết-bàn không kham nhiệm gì nữa, chẳng còn thẳng 
	cầu thêm đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác".  
	
	          Đức 
	Thế-Tôn thuở trước nói pháp đã lâu, lúc đó chúng con ngồi nơi tòa thân thể 
	mỏi mệt, chỉ nhớ nghĩ ba pháp: Không, Vô tướng, Vô tác, đối với các pháp du 
	hý thần-thông, tịnh cõi nước Phật, độ thoát chúng sanh của Bồ-tát, lòng 
	chúng con không ưa thích.  
	
	          Vì sao? 
	Đức Thế-Tôn khiến chúng con ra khỏi ba cõi đặng chứng Niết-bàn, lại nay đây 
	chúng con tuổi đã già nua ở nơi đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác của Phật 
	dạy Bồ-tát không hề sanh một niệm ưa thích.  
	
	          Chúng con 
	hôm nay ở trước Phật nghe thọ ký cho Thanh-văn sẽ đặng Vô-thượng Chánh-đẳng 
	Chánh-giác lòng rất vui mừng đặng pháp chưa từng có, Chẳng ngờ hôm nay bổng 
	nhiên đặng pháp hy hữu, tự rất mừng may đặng lợi lành lớn, vô-lượng trân báu 
	chẳng tìm cầu mà tự đặng.  
	
	          
	2. Thế-Tôn 
	chúng con hôm nay xin nói thí dụ đễ chỉ rõ nghĩa đó.  
	
	          Thí như có 
	người tuổi thơ bé, bỏ cha trốn đi qua ở lâu nơi nước khác, hoặc mười, hai 
	mươi đến năm mươi năm; người đó tuổi đã lớn lại thêm nghèo cùng khốn khổ, 
	rong ruổi bốn phương để cầu đồ mặc vật ăn, dạo đi lần lần tình cờ về bổn 
	quốc.  
	
	          Người cha 
	từ trước đến nay, tìm con không đặng bèn ở lại tại một thành trong nước đó. 
	Nhà ông giàu lớn của báu vô lượng, các kho đụn, vàng, bạc, lưu-ly, san-hô, 
	hổ-phách, pha-lê, châu v.v... thảy đều đầy tràn; tôi tớ, thần tá, lại, dân, 
	rất đông, voi, ngựa, xe cộ, bò, dê nhiều vô số. Cho vay thâu vào lời lãi 
	khắp đến nước khác, khách thương buôn bán cũng rất đông nhiều.   
	 
	
	          Bấy giờ, 
	gã nghèo cùng kia dạo đến các tụ lạc, trải qua xóm làng, lần hồi đến nơi 
	thành của người cha ở.  
	
	          Người cha 
	hằng nhớ con, cùng con biệt-ly hơn năm mươi năm mà ông vẫn chưa từng đối với 
	người nói việc như thế, chỉ tự suy nghĩ lòng rất ăn năn. Ông tự nghĩ, già 
	nua và có nhiều của cải, vàng bạc, trân báu, kho đụn tràn đầy, không có con 
	cái, một mai mà chết mất thời của cải tản thất không người giao phó. Cho nên 
	ân cần nhớ luôn đến con. Ông lại nghĩ: nếu ta gặp đặng con ủy phó của cải, 
	thản nhiên khoái lạc không còn sầu lo.  
	
	          
	3. Thưa 
	Thế-Tôn! Bấy giờ gã cùng tử làm thuê làm mướn lần hồi tình cờ đến nhà người 
	cha bèn đứng lại bên cửa, xa thấy cha ngồi giường sư tử, ghế báu đỡ chân, 
	các hàng Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Cư-sĩ đều cung kính bao quanh. Trên thân ông 
	đó dùng chuỗi ngọc chơn châu giá trị nghìn vạn để trang nghiêm, kẻ lại, dân, 
	tôi tớ, tay cầm phất trần trắng đứng hầu hai bên. Màn báu che trên, những 
	phan đẹp thòng xuống, nước thơm rưới đất, rải các thứ danh hoa, các vật báu 
	chưng bày, phát ra, thâu vào, lấy, cho v.v... có các sự nghiêm sức dường ấy, 
	oai đức rất tôn trọng.  
	
	         
	Gã cùng tử thấy cha có lực thế lớn liền sanh lòng lo sợ, hối hận về 
	việc đến nhà này, nó thầm nghĩ rằng: "Ông này chắc là vua, hoặc là đồng bực 
	vua, chẳng phải là chổ của ta làm thuê mướn đặng tiền vật. 
	 
	
	         
	Chẳng bằng ta qua đến xóm nghèo có chổ cho ta ra sức để đặng đồ mặc 
	vật ăn, nếu như ta đứng lâu ở đây hoặc rồi họ sẽ bức ngặt ép sai ta làm". Gã 
	nghĩ như thế rồi, liền chạy mau đi thẳng. 
	
	          
	4. Khi đó, 
	ông Trưởng-giả ngồi nơi tòa sư tử thấy con bèn nhớ biết, lòng rất vui mừng 
	mà tự nghĩ rằng: "Của cải kho tàng của ta nay đã có người giao phó rồi, ta 
	thường nghĩ nhớ đứa con này làm sao gặp đặng, nay bỗng nó tự đến rất vừa chỗ 
	muốn của ta, ta dầu tuổi già vẫn còn tham tiếc". Ông liền sai người hầu cận 
	đuổi gấp theo bắt lại. 
	
	          Lúc ấy, kẻ 
	sứ giả chạy mau qua bắt, gã cùng tử kinh ngạc lớn tiếng kêu oan: "Tôi không 
	hề xúc phạm, nhân sao lại bị bắt?" Kẻ sứ giả bắt đó càng gấp cưỡng dắt đem 
	về. Khi đó gã cùng tử tự nghĩ không tội chi mà bị bắt bớ đây chắc định phải 
	chết, lại càng sợ sệt mê ngất ngã xuống đất.  
	
	          Người cha 
	xa thấy vậy bèn nói với kẻ sứ giả rằng: "Không cần người đó, chớ cưỡng đem 
	đến, lấy nước lạnh rưới trên mặt cho nó tỉnh lại, đừng nói chi với nó". 
	 
	
	          Vì sao? 
	Cha biết con mình chí ý hạ liệt, tự biết mình giàu sang làm khiếp sợ cho 
	con. Biết chắc là con rồi mà dùng phương tiện chẳng nói với người khác biết 
	là con mình. Kẻ sứ giả nói với cùng tử: "Nay ta thả ngươi đi đâu tùy ý". 
	 
	
	          Gã cùng tử 
	vui mừng đặng điều chưa từng có, từ dưới đất đứng dậy, qua đến xóm nghèo để 
	tìm cầu sự ăn mặc.  
	
	          
	5. Bấy giờ 
	ông Trưởng-giả toan tính dụ dẫn người con mà bày chước phương tiện, mật sai 
	hai người, hình sắc tiều tụy không có oai đức: "Hai người nên qua xóm kia từ 
	từ nói với gã cùng tử, nơi đây có chỗ làm trả giá gấp bội. Gã cùng tử nếu 
	chịu thời dắt về đây khiến làm. Nếu nó có hỏi muốn sai làm gì? Thời nên nói 
	với nó rằng: "Thuê người hốt phân, chúng ta hai người cũng cùng ngươi chung 
	nhau làm". Khi đó hai người sứ liền tìm gã cùng tử, rồi thuật đủ việc như 
	trên.  
	
	          
	6. Bấy giờ 
	gã cùng tử trước hỏi lấy giá cả liền đến hốt phân. Người cha thấy con, 
	thương xót và quái lạ. Lại một ngày khác ông ở trong cửa sổ xa thấy con ốm o 
	tiều tụy, phân đất bụi bậm dơ dáy không sạch. Ông liền cổi chuỗi ngọc, áo 
	tốt mịn màng cùng đồ trang sức, lại mặc áo thô rách trỉn dơ, bụi đất lấm 
	thân, tay mặt cầm đồ hốt phân, bộ dạng đáng nể sợ, bảo những người làm rằng: 
	"Các ngươi phải siêng làm việc chớ nên lười nghỉ!" Dùng phương tiện đó đặng 
	đến gần người con.  
	
	          Lúc sau 
	lại bảo con rằng: "Gã nam tử này! Ngươi thường làm ở đây đừng lại đi nơi 
	khác, ta sẽ trả thêm giá cho ngươi, những đồ cần dùng như loại bồn, chậu, 
	gạo, bột, muối, dấm, ngươi chớ tự nghi ngại. Cũng có kẻ tớ già hèn hạ, nếu 
	cần ta cấp cho, nên phải an lòng, ta như cha của ngươi chớ có sầu lo". 
	 
	
	          Vì sao? Vì 
	ta tuổi tác già lớn mà ngươi thì trẻ mạnh, ngươi thường trong lúc làm việc 
	không lòng dối khi trể nải giận hờn nói lời thán oán, đều không thấy ngươi 
	có các điều xấu đó như các người làm công khác. Từ ngày nay nhẫn sau như con 
	đẻ của ta. Tức thời Trưởng-giả lại đặt tên cho cùng tử gọi đó là "con". 
	 
	
	          Khi đó gã 
	cùng tử, dầu mừng việc tình cờ đó song vẫn còn tự cho mình là khách, là 
	người làm công hèn, vì cớ đó mà trong hai mươi năm thường sai hốt phân, sau 
	đó lòng gã mới lần thể tin ra vào không ngại sợ, nhưng chổ gã ở vẫn nguyên 
	chỗ cũ.  
	
	          
	7. Thế-Tôn! 
	Bấy giờ Trưởng-giả có bịnh, tự biết mình không bao lâu sẽ chết mới bảo cùng 
	tử rằng: "Ta nay rất nhiều vàng bạc, trân báu, kho đụn tràn đầy, trong đó 
	nhiều ít chỗ đáng xài dùng ngươi phải biết hết đó. Lòng ta như thế, ngươi 
	nên thể theo ý ta. Vì sao? Nay ta cùng ngươi bèn là không khác, nên gắng 
	dụng tâm chớ để sót mất".  
	
	          Khi ấy 
	cùng tử liền nhận lời bảo, lãnh biết các của vật, vàng, bạc, trân báu và các 
	kho tàng, mà trọn không có ý mong lấy của đáng chừng bữa ăn, chỗ của gã ở 
	vẫn tại chổ cũ, tâm chí hạ liệt cũng chưa bỏ được.  
	
	          
	8. Lại trải 
	qua ít lâu sau, cha biết ý chí con lần đã thông thái trọn nên chí lớn, tự 
	chê tâm ngày trước. Đến giờ sắp chết, ông gọi người con đến và hội cả Thân 
	tộc, Quốc vương, quan Đại thần, dòng Sát-lợi, hàng Cư-sĩ, khi đã nhóm xong, 
	ông liền tự tuyên rằng: "Các ngài nên rõ, người này là con ta, của ta sanh 
	ra, ngày trước trong thành nọ, bỏ ta trốn đi, nổi trôi khổ sở, hơn năm mươi 
	năm, nó vốn tên ấy, còn ta tên ấy. Xưa ta ở tại thành này lòng lo lắng tìm 
	kiếm, bỗng ở nơi đây gặp đặng nó. Nó thiệt là con ta, ta thiệt là cha nó. 
	Nay ta có tất cả bao nhiêu của cải, đều là của con ta có, trước đây của cải 
	cho ra thâu vào, con ta đây coi biết".  
	
	          Thế-Tôn! 
	Khi đó gã cùng tử nghe cha nói như thế, liền rất vui mừng được điều chưa 
	từng có, mà nghĩ rằng: "Ta vốn không có lòng mong cầu, nay kho tàng báu này 
	tự nhiên mà đến". 
	 
	
	
	         
	
	9. Thế-Tôn! 
	Ông phú Trưởng-giả đó là Đức Như-Lai, còn chúng con đều giống như con của 
	Phật. Đức Như-Lai thường nói chúng con là con.  
	
	          Thưa 
	Thế-Tôn! Chúng con vì ba món khổ(2)
	
	nên ở trong sanh tử chịu các sự đau đớn mê lầm không hiểu biết, 
	ưa thích các pháp Tiểu-thừa. Ngày nay Đức Thế-Tôn khiến chúng con suy nghĩ 
	dọn trừ những phân dơ các pháp hí luận(3). 
	Chúng 
	con ở trong đó siêng năng tin tấn đặng đến Niết-bàn, cái giá một ngày đã 
	đặng đây rồi, lòng rất vui mừng tự cho là đủ, mà tự nói rằng: "Ở trong pháp 
	của Phật, do siêng năng tin tấn nên chỗ đặng rộng nhiều". 
	 
	
	          Nhưng đức 
	Thế-Tôn trước biết chúng con lòng ưa muốn sự hèn tệ, ham nơi pháp Tiểu-thừa, 
	chúng con bèn bị Phật buông bỏ chẳng vì phân biệt rằng: “Các ông sẽ có phần 
	bửu tàng tri kiến của Như-Lai”.  
	
	          Đức 
	Thế-Tôn dùng sức phương tiện nói bày trí-huệ của Như-Lai. Chúng con theo 
	Phật đặng giá Niết-bàn một ngày, cho là đặng nhiều rồi, đối với pháp Đại 
	thừa này không có chí cầu. Chúng con lại nhơn trí-huệ của Phật, vì các vị 
	Bồ-tát mà chỉ bày diễn nói, nhưng chính tự mình lại không có chí muốn nơi 
	pháp đó.  
	
	          Vì sao? 
	Đức Phật biết chúng con ưa nơi pháp Tiểu-thừa, nên dùng sức phương tiện 
	thuận theo chúng con mà nói pháp, chúng con không tự biết thật là Phật tử. 
	Ngày nay chúng con mới biết đức Thế-Tôn ở nơi trí-huệ của Phật không có lẫn 
	tiếc.  
	
	          Vì sao? 
	Chúng con từ xưa đến nay thật là Phật tử mà chỉ ưa nơi pháp Tiểu thừa, nếu 
	chúng con có tâm ham Đại thừa, thời Phật vì chúng con mà nói pháp Đại thừa. 
	Ở trong Kinh này chỉ nói pháp Nhứt thừa. Lúc xưa Đức Phật ở trước Bồ-tát chê 
	trách Thanh-Văn ham pháp Tiểu thừa.  
	
	          Nhưng đức 
	Phật thiệt dùng Đại thừa để giáo hóa, vì thế nên chúng con nói vốn không có 
	lòng mong cầu mà nay báu lớn của đấng Pháp-Vương tự nhiên đến, như chổ nên 
	đặng của Phật tử đều đã đặng đó.  
	
	          Bấy giờ 
	ngài Ma-Ha Ca-Diếp muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 
	 
	
	  10. 
	Chúng con ngày hôm nay  
	
	Nghe âm giáo của Phật  
	
	Lòng hớn hở mừng rỡ  
	
	Đặng pháp chưa từng có.  
	
	Phật nói hàng Thanh-Văn  
	
	Sẽ đặng thành quả Phật  
	
	Đống châu báu vô thượng  
	
	Chẳng cầu tự nhiên đặng.  
	
	Ví như gã đồng tử  
	
	Thơ bé không hiểu biết  
	
	Bỏ cha trốn chạy đi  
	
	Đến cõi nước xa khác  
	
	Nổi trôi khắp nước ngoài  
	
	Hơn năm mươi năm dài.  
	
	Cha gã lòng buồn nhớ  
	
	Kiếm tìm khắp bốn phương  
	
	Kiếm tìm đó đã mỏi  
	
	Liền ở lại một thành  
	
	Xây dựng nên nhà cửa  
	
	Năm món dục tự vui.  
	
	Nhà ông giàu có lớn  
	
	Nhiều những kho vàng, bạc  
	
	Xa-cừ, ngọc mã-não  
	
	Chơn-châu, ngọc lưu-ly  
	
	Voi, ngựa cùng trâu, dê  
	
	Kiệu, cáng đủ xe cộ  
	
	Ruộng đất và tôi tớ  
	
	Nhơn dân rất đông nhiều.  
	
	Xuất nhập thâu lời lãi  
	
	Bèn khắp đến nước khác,  
	
	Khách thương người buôn bán  
	
	Không xứ nào không có,  
	
	Nghìn muôn ức chúng hội  
	
	Vây quanh cung kính ông,  
	
	Thường được bực vua chúa  
	
	Mến yêu nhớ tưởng đến,  
	
	Các quan, hạng hào tộc  
	
	Đều cũng đồng tôn trọng.  
	
	Vì có các sự duyên  
	
	Người đến lui rất đông,  
	
	Giàu mạnh như thế đó  
	
	Có thế lực rất lớn,  
	
	Mà tuổi đã già nua  
	
	Lại càng buồn nhớ con,  
	
	Ngày đêm luống suy nghĩ  
	
	Giờ chết toan sắp đến  
	
	Con thơ dại bỏ ta  
	
	Hơn năm mươi năm tròn.  
	
	Các của vật kho tàng  
	
	Sẽ phải làm thế nào?    
	
	  11. 
	Bấy giờ gã cùng tử  
	
	Đi tìm cầu ăn mặc  
	
	Ấp nầy đến ấp khác  
	
	Nước này sang nước nọ,  
	
	Hoặc có khi đặng của  
	
	Hoặc có lúc không đặng,  
	
	Đói thiếu hình gầy gò  
	
	Thân thể sanh ghẻ lác.  
	
	Lần lựa đi trải qua  
	
	Đến thành cha gã ở  
	
	Xoay vần làm thuê mướn  
	
	Bèn đến trước nhà cha.  
	
	Lúc ấy ông Trưởng-giả  
	
	Đang ở trong nhà ông  
	
	Giăng màn châu-báu lớn  
	
	Ngồi tòa sư-tử cao  
	
	Hàng quyến thuộc vây quanh  
	
	Đông người đứng hầu hạ,  
	
	Hoặc có người tính toán  
	
	Vàng, bạc, cùng vật báu  
	
	Của cải ra hoặc vào  
	
	Biên chép ghi giấy tờ.  
	
	Gã cùng tử thấy cha  
	
	Quá mạnh, giàu, tôn nghiêm  
	
	Cho là vị quốc vương  
	
	Hoặc là đồng bực vua,  
	
	Kinh sợ tự trách thầm  
	
	Tại sao lại đến đây?  
	
	Lại thầm tự nghĩ rằng:  
	
	Nếu ta đứng đây lâu  
	
	Hoặc sẽ bị bức ngặt  
	
	Ép buộc sai khiến làm.  
	
	Suy nghĩ thế đó rồi  
	
	Rảo chạy mà đi thẳng  
	
	Hỏi thăm xóm nghèo nàn  
	
	Muốn qua làm thuê mướn.    
	
	  12. 
	Lúc bấy giờ Trưởng-giả  
	
	Ngồi trên tòa sư-tử  
	
	Xa trông thấy con mình  
	
	Thầm lặng mà ghi nhớ,  
	
	Ông liền bảo kẻ sứ  
	
	Đuổi theo bắt đem về.  
	
	Gã cùng tử sợ kêu  
	
	Mê ngất ngã trên đất,  
	
	Người này theo bắt tôi  
	
	Chắc sẽ bị giết chết,  
	
	Cần gì đồ ăn mặc  
	
	Khiến tôi đến thế này!  
	
	Trưởng-giả biết con mình  
	
	Ngu dại lòng hẹp hèn  
	
	Chẳng chịu tin lời ta  
	
	Chẳng tin ta là cha.  
	
	Ông liền dùng phương tiện  
	
	Lại sai hai người khác  
	
	Mắt chột, thân lùn xấu  
	
	Hạng không có oai đức!  
	
	Các ngươi nên bảo nó  
	
	Rằng ta sẽ thuê nó  
	
	Hốt dọn các phân nhơ  
	
	Trả giá bội cho nó.  
	
	Gã cùng tử nghe rồi  
	
	Vui mừng theo sứ về  
	
	Vì dọn các phân nhơ  
	
	Sạch sẽ các phòng nhà.  
	
	Trưởng-giả trong cửa sổ  
	
	Thường ngó thấy con mình  
	
	Nghĩ con mình ngu dại  
	
	Ưa thích làm việc hèn.  
	
	Lúc đó ông Trưởng-giả  
	
	Mặc y phục cũ rách  
	
	Tay cầm đồ hốt phân  
	
	Qua đến chổ con làm  
	
	Phương tiện lần gần gũi  
	
	Bảo rằng: ráng siêng làm!  
	
	Đã thêm giá cho ngươi  
	
	Và cho dầu xoa chân  
	
	Đồ ăn uống đầy đủ  
	
	Thêm đệm chiếu đầy ấm.  
	
	Cặn kẻ nói thế này:  
	
	Ngươi nên siêng làm việc!  
	
	Rồi lại dịu dàng bảo  
	
	Như con thiệt của ta.    
	
	3. 
	Ông Trưởng-giả có trí  
	
	Lần lần cho ra vào  
	
	Trải qua hai mươi năm  
	
	Coi sóc việc trong nhà,  
	
	Chỉ cho biết vàng, bạc,  
	
	Ngọc trân-châu, pha-lê  
	
	Các vật ra hoặc vào  
	
	Đều khiến gã biết rõ.  
	
	Gã vẫn ở ngoài cửa  
	
	Nương náo nơi am tranh  
	
	Tự nghĩ phận nghèo nàn  
	
	Ta không có vật đó.  
	
	Cha biết lòng con mình  
	
	Lần lần đã rộng lớn  
	
	Muốn giao tài vật cho  
	
	Liền nhóm cả thân tộc  
	
	Quốc vương các đại thần  
	
	Hàng Sát-lợi, Cư-sĩ  
	
	Rồi ở trong chúng này  
	
	Tuyên nói chính con ta  
	
	Bỏ ta đi nước khác  
	
	Trải hơn năm mươi năm,  
	
	Từ gặp con đến nay  
	
	Đã hai mươi năm rồi,  
	
	Ngày trước ở thành kia  
	
	Mà mất đứa con này,  
	
	Ta đi tìm khắp nơi  
	
	Bèn đến ngụ nơi đây,  
	
	Phàm của cải ta có  
	
	Nhà cửa cùng nhân dân  
	
	Thảy đều phó cho nó  
	
	Mặc tình nó tiêu dùng.  
	
	Người con nhớ xưa nghèo  
	
	Chí ý rất kém hèn  
	
	Nay ở nơi cha mình  
	
	Đặng quá nhiều châu báu  
	
	Và cùng với nhà cửa  
	
	Gồm tất cả tài vật,  
	
	Lòng rất đỗi vui mừng  
	
	Đặng điều chưa từng có.   
	
	  14. 
	Đức Phật cũng như thế  
	
	Biết con ưa Tiểu thừa  
	
	Nên chưa từng nói rằng  
	
	Các ngươi sẽ thành Phật,  
	
	Mà chỉ nói chúng con  
	
	Đặng có đức Vô-lậu  
	
	Trọn nên quả Tiểu thừa  
	
	Hàng Thanh-văn đệ tử.  
	
	Đức Phật bảo chúng con  
	
	Nói đạo pháp Tối thượng  
	
	Người tu tập pháp này  
	
	Sẽ đặng thành Phật quả.  
	
	Chúng con vâng lời Phật  
	
	Vì các Bồ-tát lớn  
	
	Dùng các món nhơn duyên  
	
	Cùng các môn thí-dụ  
	
	Bao nhiêu lời lẽ hay  
	
	Để nói đạo Vô-thượng.  
	
	Các hàng Phật tử thảy  
	
	Từ nơi con nghe pháp  
	
	Ngày đêm thường suy-gẫm  
	
	Tinh-tấn siêng tu tập,  
	
	Bấy giờ các đức Phật  
	
	Liền thọ-ký cho kia:  
	
	Các ông ở đời sau  
	
	Sẽ đặng thành Phật đạo.  
	
	Pháp mầu rất bí tàng  
	
	Của tất cả các Phật  
	
	Chỉ để vì Bồ-tát  
	
	Mà dạy việc thiệt đó,  
	
	Nhưng chẳng vì chúng con  
	
	Nói pháp chơn yếu này.  
	
	Như gã cùng tử kia  
	
	Đặng gần bên người cha  
	
	Dầu lãnh biết các vật  
	
	Nhưng lòng chẳng mong cầu.  
	
	Chúng con dầu diễn nói  
	
	Tạng pháp báu của Phật  
	
	Tự mình không chí nguyện  
	
	Cũng lại như thế đó.    
	
	  15. 
	Chúng con diệt bề trong(4)
	
	
	 
	
	Tự cho là đã đủ  
	
	Chỉ xong được việc này  
	
	Lại không biết việc khác.  
	
	Chúng con dầu có nghe  
	
	Pháp tịnh cõi nước Phật  
	
	Cùng giáo hóa chúng sanh  
	
	Đều không lòng ưa vui.  
	
	Như thế là vì sao?  
	
	Vì tất cả các pháp  
	
	Thảy đều là không lặng  
	
	Không sanh cũng không diệt  
	
	Không lớn cũng không nhỏ  
	
	Vô-lậu và Vô-vi  
	
	Suy nghĩ thế đó rồi  
	
	Chẳng sanh lòng ưa muốn.  
	
	Chúng con đã từ lâu  
	
	Đối với trí-huệ Phật  
	
	Không tham không ưa thích  
	
	Không lại có chí nguyện,  
	
	Mà đối với pháp mình  
	
	Cho đó là rốt ráo.  
	
	Chúng con từ lâu nay  
	
	Chuyên tu tập Pháp không  
	
	Đặng thoát khỏi hoạn nạn  
	
	Khổ não của ba cõi  
	
	Trụ trong thân rốt sau  
	
	Hữu-dư-y Niết-bàn(5)
	
	
	 
	
	Đức Phật dạy bảo ra  
	
	Chứng đặng đạo chẳng luống  
	
	Thời là đã có thể  
	
	Báo được ơn của Phật.  
	
	Chúng con dầu lại vì  
	
	Các hàng Phật tử thảy  
	
	Tuyên nói pháp Bồ-tát  
	
	Để cầu chứng Phật đạo,  
	
	Mà mình đối pháp đó  
	
	Trọn không lòng mong muốn  
	
	Đấng đạo sư buông bỏ  
	
	Vì xem biết lòng con  
	
	Ban đầu không khuyên gắng  
	
	Nói những lợi có thiệt,  
	
	Như ông Trưởng-giả giàu  
	
	Biết con chí kém hèn  
	
	Bèn dùng sức phương tiện  
	
	Để hòa phục tâm con  
	
	Vậy sau mới giao phó  
	
	Tất cả tài vật báu,  
	
	Đức Phật cũng thế đó  
	
	Hiện ra việc ít có  
	
	Biết con ưa Tiểu thừa  
	
	Bèn dùng sức phương tiện  
	
	Điều phục tâm của con  
	
	Rồi mới dạy trí lớn.  
	
	Chúng con ngày hôm nay  
	
	Được pháp chưa từng có  
	
	Chẳng phải chổ trước mong  
	
	Mà nay tự nhiên được  
	
	Như gã cùng tử kia  
	
	Đặng vô lượng của báu.    
	
	  16. 
	Thế-Tôn! Chúng con nay  
	
	Đặng đạo và chứng quả  
	
	Ở nơi pháp Vô-lậu  
	
	Đặng huệ nhãn thanh-tịnh.  
	
	Chúng con từ lâu nay  
	
	Gìn tịnh giới Phật chế  
	
	Mới ở ngày hôm nay  
	
	Đặng hưởng quả báo đó,  
	
	Trong pháp của Pháp-Vương  
	
	Lâu tu hành phạm hạnh  
	
	Ngày nay được Vô-lậu  
	
	Quả báo lớn Vô thượng.  
	
	Chúng con ngày hôm nay  
	
	Mới thiệt là Thanh-văn  
	
	Đem tiếng đạo của Phật  
	
	Cho tất cả điều nghe.  
	
	Chúng con ngày hôm nay  
	
	Thiệt là A-la-hán  
	
	Ở nơi các thế gian  
	
	Trời, Người và Ma, Phạm,  
	
	Khắp ở trong chúng đó  
	
	Đáng lãnh của cúng dường.  
	
	Ơn lớn của Thế-Tôn  
	
	Đem việc ít có này  
	
	Thương xót dạy bảo cho  
	
	Làm lợi ích chúng con  
	
	Trải vô lượng ức kiếp  
	
	Ai có thể đền được.  
	
	Tay lẫn chân cung cấp  
	
	Đầu đảnh lễ cung kính  
	
	Tất cả đem cúng dường  
	
	Đều không thể đền đặng.  
	
	Hoặc dùng đầu đội Phật  
	
	Hai vai cùng cõng vác  
	
	Trong kiếp số hằng sa  
	
	Tận tâm mà cung kính,  
	
	Lại đem dâng đồ ngon  
	
	Y phục báu vô-lượng  
	
	Và các thứ đồ nằm  
	
	Cùng các món thuốc thang  
	
	Gỗ Ngưu-đầu, Chiên-đàn  
	
	Và các vật trân báu  
	
	Để dựng xây tháp miếu  
	
	Y báu lót trên đất  
	
	Như các việc trên đây  
	
	Đem dùng cúng dường Phật  
	
	Trải số kiếp hằng sa  
	
	Cũng không đền đáp được.  
	
	Các Phật thật ít có  
	
	Đấng vô lượng vô biên  
	
	Đến bất khả tư nghì  
	
	Đủ sức thần thông lớn,  
	
	Bậc Vô-lậu Vô-vi  
	
	Là vua của các pháp  
	
	Hay vì kẻ hạ liệt  
	
	Nhẫn việc cao thượng đó,  
	
	Hiện lấy tướng phàm phu  
	
	Tùy cơ nghi dạy nói.  
	
	Các Phật ở nơi Pháp  
	
	Đặng sức rất tự tại  
	
	Biết các hàng chúng sanh  
	
	Có những điều ưa muốn  
	
	Và chí lực của nó  
	
	Theo sức nó kham nhiệm  
	
	Dùng vô lượng thí-dụ  
	
	Mà vì chúng nói pháp,  
	
	Tùy theo các chúng sanh  
	
	Trồng căn lành đời trước  
	
	Lại biết đã thành thục  
	
	Hay là chưa thành thục  
	
	Suy lường những điều đó  
	
	Phân biệt biết rõ rồi  
	
	Ở nơi đạo nhứt thừa  
	
	Tùy cơ nghi nói ba. 
	
	
	
 
 
  
  
  
  
  
  
  
  
  
  
  
  
 
 
 
 
	
	 
	
	  
	
	KINH DIỆU-PHÁP LIÊN-HOA 
	
	QUYỂN THỨ HAI 
	
	         
	
	
	Bậc thượng căn lãnh ngộ, hàng trung hạ nổi nghi, mở quyền bày thật 
	hội ba thời. Pháp mầu tuyệt sự nói suy, của báu không riêng tư, toàn giao 
	phó cho con nhà. 
	
	          
	Nam mô Pháp-Hoa Hội Thượng Phật Bồ-tát. 
	(3 lần) 
	
	
	          
	
	Đức Như-Lai dụ nói ba cõi làm nhà, ngoài cửa ba cõi bày ba thứ xe, 
	các con đua giành ồn ào, Trưởng-giả mừng khoe, thọ-ký quả Phật không sai. 
	
	          
	Nam mô Vị-Lai Hoa-Quang Phật 
	(3 lần) 
	
	
	___________________ 
	
	
	  
	
	
	Thích nghĩa: 
	
	
	  
	
	
	(1) TÍN-GIẢI: Tín: Lòng tin, Giải: Hiểu rõ. 
	
	
	(2) BA MÓN KHỔ: Khổ khổ, hành khổ, hoại khổ. 
	
	
	(3) HÍ LUẬN: Lời nói suông không sự thật, đồng nghĩa với hư-vọng. 
	
	
	(4) DIỆT BỀ TRONG: Diệt lòng phiền não: 1- Kiến sở đoạn. 2- Tư sở đoạn. 
	
	
	(5) HỮU-DƯ-Y NIẾT-BÀN: 
	
	          
	Hữu-Dư-Y: Thân người hiện còn thừa lại rốt sau cả. 
	
	          
	Niết-Bàn: Tịch tịnh, viên tịch, nghĩa là vắng bặt. 
	
	          (Còn vọng 
	động phiền-não là còn tạo nghiệp thọ báo sanh tử. Dứt hẳn vọng động phiền 
	não, khỏi báo sanh tử, yên lặng nhàn vui nên gọi là Niết-bàn). 
	
	 |