| 
	 | 
	 Kinh 
	Hoa Nghiêm 
	Phẩm Nhập Pháp Giới Thứ ba mươi 
	chín Phần hai Hán Dịch: Ðại Sư 
	Thật-Xoa-Nan-Ðà Việt Dịch: HT 
	Thích Trí Tịnh 
	Hán bộ quyển thứ bảy mươi mốt. 
	 
	
	Bấy giờ Thiện-Tài Đồng-Tử ở chỗ Dạ-Thần Phổ-Cứu-Chúng-Sanh-Diệu-Đức, nghe 
	pháp-môn giải-thoát bồ-tát 
	phổ-hiện-nhất-thiết-thế-gian-điều-phục-chúng-sanh. Thiện-Tài biết rõ tin 
	hiểu tự-tại an-trụ trong môn giải-thoát đó. 
	
	Thiện-Tài đến chỗ Dạ-Thần Tịch-Tịnh-Ấm-Hải, đảnh lễ nơi chân Dạ-Thần hữu 
	nhiễu vô-số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh! Tôi đã phát 
	tâm vô-thượng bồ-đề. Tôi muốn nương theo thiện-tri-thức để học bồ-tát-hạnh, 
	nhập bồ-tát-hạnh, tu bồ-tát-hạnh, trụ bồ-tát-hạnh. Mong đức Thánh thương xót 
	vì tôi mà tuyên nói Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo? 
	
	Dạ-Thần nói: Lành thay, lành thay! Nầy thiện-nam-tử! Ngươi có thể nương 
	thiện-tri-thức cầu bồ-tát-hạnh. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Ta được môn giải-thoát bồ-tát 
	niệm-niệm-xuất-sanh-quảng-đại-hỉ-trang-nghiêm. 
	
	Thiện-Tài Thưa:  Đại-Thánh! Môn 
	giải-thoát nầy sự nghiệp thế nào? Cảnh-giới thế nào? Khởi phương-tiện gì? 
	Quán-sát thế nào? 
	
	Dạ-Thần nói: Nầy thiện-nam-Tử! Ta phát khởi tâm nguyện bình-đẳng thanh-tịnh. 
	Ta phát khởi tâm nguyện ly tất cả trần cấu thế-gian thanh-tịnh kiên-cố 
	trang-nghiêm chẳng hư hại. Ta phát khởi tâm trọn chẳng thối chuyển 
	phan-duyên địa-vị bất-thối-chuyển. Ta phát khởi tâm bất động trang-nghiêm 
	công-đức bửu sơn. Ta phát khởi tâm vô-trụ-xứ. Ta phát khởi tâm cứu-hộ hiện 
	thân trước khắp tất cả chúng-sanh. Ta phát khởi tâm không nhàm đủ thấy tất 
	cả phật-hải. Ta phát khởi tâm nguyện-lực thanh-tịnh cầu tất cả Bồ-Tát. Ta 
	phát khởi tâm trụ nơi đại-trí quang-minh hải. Ta phát khởi tâm làm cho tất 
	cả chúng-sanh vượt khỏi đồng hoang lo buồn. Ta phát khởi tâm làm cho tất cả 
	chúng-sanh bỏ rời sầu lo khổ não. Ta phát khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh 
	bỏ rời sắc thanh hương vị xúc pháp chẳng vừa ý. Ta phát khởi tâm làm cho tất 
	cả chúng-sanh bỏ rời ái-biệt-ly-khổ và oán-tắng-hội-khổ. Ta phát khởi tâm 
	làm cho tất cả chúng-sanh bỏ rời những khổ ác duyên ngu si. Ta phát khởi tâm 
	làm chỗ nương tựa cho tất cả chúng-sanh bị hiểm nạn. Ta phát khởi tâm làm 
	cho tất cả chúng-sanh thoát khỏi chỗ khổ sanh tử. Ta phát khởi tâm làm cho 
	tất cả chúng-sanh bỏ rời những khổ sinh, lão, bệnh, tử. Ta phát khởi tâm làm 
	cho tất cả chúng-sanh thành-tựu pháp-lạc vô-thượng của Như-Lai. Ta phát khởi 
	tâm làm cho tất cả chúng-sanh đều thọ hỉ lạc. 
	
	Ta phát khởi những tâm như vậy rồi, lại vì chúng-sanh mà thuyết pháp, làm 
	cho họ lần đến bực nhất-thiết-trí. 
	
	Như là, nếu thấy chúng-sanh mến luyến nhà cửa cung-điện của họ ở, thời ta vì 
	họ mà thuyết pháp cho họ thấu rõ tự tánh của các pháp lìa chấp trước. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh mến luyến cha mẹ anh em chị em, thời ta vì họ mà thuyết 
	pháp, cho họ được dự chúng-hội thanh-tịnh chư Phật Bồ-tát. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh mến luyến vợ con, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ 
	bỏ rời sanh tử ái nhiễm khởi tâm đại-bi, với tất cả chúng-sanh bình-đẳng 
	vô-nhị. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh ở vương-cung thể-nữ hầu hạ, thời ta vì họ mà thuyết 
	pháp, cho họ được hội họp với thánh-chúng vào giáo-pháp của Như-Lai. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh nhiễm trước cảnh-giới, thời ta vì họ mà thuyết pháp, làm 
	cho họ được nhập Như-Lai cảnh-giới. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh nhiều sân hận, thời ta vì họ mà thuyết pháp, làm cho họ 
	được Như-Lai nhẫn-nhục ba-la-mật. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh có lòng giải-đãi, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ 
	được thanh-tịnh tinh-tấn ba-la-mật. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh tâm tán loạn, thời ta vì họ mà thuyết-pháp, làm cho họ 
	được Như-Lai thiền ba-la-mật. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh vào rừng rậm kiến chấp vô-minh ám chướng, thời ta vì họ 
	mà thuyết pháp cho họ thoát khỏi si ám. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh không trí-huệ, thời ta vì họ thuyết pháp, cho họ được 
	bát-nhã ba-la-mật. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh nhiễm trước tam-giới, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho 
	họ thoát khỏi sanh tử. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh chí ý hạ-liệt, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ 
	viên-mãn Phật bồ-đề nguyện. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh an-trụ hạnh tự-lợi, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ 
	phát khởi tâm nguyện lợi ích tất cả chúng-sanh. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh chí lực kém yếu, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ 
	được bồ-tát lực-ba-la-mật. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh tâm ngu si mê tối, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ 
	được bồ-tát trí-ba-la-mật. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh sắc tướng không đủ, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ 
	được Như-Lai thanh-tịnh sắc-thân. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh hình dung xấu-xí, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ 
	được pháp-thân thanh-tịnh vô-thượng 
	
	Nếu thấy chúng-sanh sắc-tướng thô ác, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ 
	được Như-Lai vi-diệu sắc thân. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh lòng nhiều ưu não, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ 
	được Như-Lai rốt ráo an lạc. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh khổ vì nghèo cùng, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ 
	được bửu-tạng công-đức của Bồ-Tát. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh ở nơi núi rừng, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ 
	siêng cầu nhơn-duyên phật-pháp. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh đi nơi đường sá, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ 
	xu-hướng đạo nhất-thiết-trí. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh ở trong tụ-lạc thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ 
	thoát khỏi tam giới. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh ở nhơn-gian, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ 
	siêu-việt nhị-thừa-đạo, an-trụ nơi như-lai-địa. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh cư ngụ thành quách, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ 
	được ở trong thành Pháp-Vương. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh ở nơi bốn hướng, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ 
	được trí-huệ tam-thế bình đẳng. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh ở các phương, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ có 
	trí huệ thấy được tất cả pháp. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh nhiều tham, thời ta vì họ mà nói môn đại-từ-quán, cho họ 
	được nhập siêng năng tu tập. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh nhiều si, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được trí 
	sáng quán-sát các pháp-hải. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh thích vui sanh tử, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ 
	nhàm lìa. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh nhàm khổ sanh tử đáng được Như-Lai hóa độ, thời ta vì họ 
	mà thuyết pháp, cho họ có thể phương-tiện thị hiện thọ sanh. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh mến luyến ngũ-uẩn, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ 
	được an-trụ cảnh giới vô-y. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh tâm họ hạ liệt, thời ta vì họ mà thị hiện đạo thắng 
	trang nghiêm. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh tâm sanh kiêu-mạn, thời ta vì họ mà nói pháp nhẫn 
	bình-đẳng. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh tâm siểm-khúc, thời ta vì họ mà nói Bồ-tát trực-tâm. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta dùng vô-lượng pháp-thí như vậy để nhiếp độ tất cả 
	chúng-sanh, nhiều phương-tiện giáo-hóa điều-phục, cho họ khỏi ác đạo, hưởng 
	vui nhân thiên, thoát sự trói buộc của tam giới, an-trụ nhất-thiết-trí. 
	
	Lúc đó ta bèn được đại-hoan-hỉ pháp-quang-minh-hải. Tâm ta vui vẻ an ổn thư 
	thới. 
	
	Lại nầy Thiện-nam-tử! Ta thường quán-sát đạo tràng chúng-hội tất cả Bồ-Tát, 
	tu những hạnh nguyện, hiện những tịnh-thân có những thường-quang, phóng 
	những quang-minh, dùng những phương-tiện nhập môn nhất-thiết-trí, nhập những 
	tam-muội, hiện những thần-biến, phát ra những âm-thanh-hải, đủ những thân 
	trang-nghiêm, nhập những như-lai-môn, đến những quốc-độ-hải, thấy chư 
	Phật-hải, được những biện-tài-hải, chiếu những cảnh giải-thoát, được những 
	trí quang-hải, nhập những tam-muội-hải, du hí những môn giải-thoát, dùng 
	những pháp-môn xu hướng nhất-thiết-trí, trang-nghiêm hư-không pháp-giới, 
	dùng những mây trang-nghiêm che khắp hư-không, quán-sát những đạo tràng 
	chúng-hội, họp những thế-giới, nhập những phật-sát, đến những phương-hải, 
	thọ những như-lai mạng, theo những chỗ Như-Lai, cùng chư Bồ-Tát câu-hội, 
	tuôn những mây trang-nghiêm, vào những phương-tiện Như-Lai, quán những 
	pháp-hải Như-Lai, vào những trí-huệ-hải, ngồi những tòa trang-nghiêm. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Ta quán-sát chúng-hội đạo-tràng nầy, biết Phật thần-lực 
	vô-lượng vô-biên sanh lòng rất hoan-hỉ. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Ta quán Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai, niệm niệm xuất hiện 
	bất-tư-nghì sắc-thân thanh-tịnh. Thấy như vậy rồi lòng ta rất vui mừng. 
	
	Lại thấy đức Như-Lai trong mỗi niệm phóng đại-quang-minh sung-mãn pháp-giới. 
	Thấy như vậy rồi, lòng ta rất vui mừng. 
	
	Lại thấy đức Như-Lai, mỗi lỗ lông, niệm niệm xuất hiện vô-lượng phật-sát 
	vi-trần-số quang-minh-hải. Mỗi quang-minh có vô-lượng phật-sát vi-trần-số 
	quang-minh làm quyến thuộc, mỗi mỗi châu biến tất cả pháp giới, tiêu-diệt 
	tất cả chúng-sanh khổ. Thấy như vậy rồi, lòng ta rất vui mừng. 
	
	Lại quán Như-Lai, đảnh đầu và chặng mày, niệm niệm xuất hiện phật-sát 
	vi-trần-số mây bửu-diệm-sơn sung mãn tất cả pháp-giới mười phương. Thấy như 
	vậy rồi, ta rất vui mừng. 
	
	Lại quán Như-Lai, mỗi mỗi lỗ lông, niệm niệm xuất sanh phật-sát vi-trần số 
	mây hương-quang-minh, sung mãn tất cả cõi Phật mười phương. Thấy như vậy 
	rồi, ta rất vui mừng. 
	
	Lại quán Như-Lai mỗi mỗi tướng, niệm niệm phát ra phật-sát vi-trần-số mây 
	như-lai-thân đủ tướng trang-nghiêm, đến khắp tất cả thế-giới mười phương. 
	Thấy như vậy rồi, ta rất vui mừng. 
	
	Lại quán Như-Lai mỗi mỗi lỗ lông trong niệm niệm xuất sanh phật-sát 
	vi-trần-số mây phật-biến-hóa, thị-hiện đức Như-Lai từ sơ-phát-tâm, tu 
	ba-la-mật, đủ đạo trang-nghiêm nhập bồ-tát-địa. Thấy như vậy rồi, ta rất vui 
	mừng. 
	
	Lại quán Như-Lai mỗi mỗi lỗ lông niệm niệm xuất hiện 
	bất-khả-thuyết-bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số mây Thiên-Vương thân và 
	tự-tại thần-biến đầy khắp tất cả thế-giới mười phương, người đáng do thân 
	Thiên-Vương mà đắc độ thời hiện ra trước họ thuyết-pháp cho họ. Thấy như vậy 
	rồi, ta rất vui mừng. 
	
	Những thân-vân: Long-Vương, Dạ-Xoa-Vương, Càn-Thát-Bà Vương, A-Tu-La Vương, 
	Ca-Lâu-La Vương, Khẩn-Na-La Vương, Ma-hầu-La-Già Vương, Nhơn-Vương, 
	Phạm-Vương, đều trong mỗi lỗ lông của Như-Lai niệm niệm xuất hiện, thuyết 
	pháp như thân-vân Thiên-Vương. Thấy như vậy rồi, ta rất hoan-hỉ, rất tin 
	mến, lượng bằng pháp-giới nhất-thiết-trí, chỗ xưa chưa được mà nay mới được, 
	chỗ xưa chưa chứng mà nay mới chứng, chỗ xưa chưa nhập mà nay mới nhập, chỗ 
	xưa chưa mãn mà nay mới mãn, chỗ xưa chưa thấy mà nay mới thấy, chỗ xưa chưa 
	nghe mà nay mới nghe. 
	
	Tại sao vậy? Bởi có thể biết rõ tướng pháp-giới. Vì biết tất cả pháp chỉ một 
	tướng. Vì có thể bình-đẳng nhập đạo tam-thế. Vì có thể nói tất cả vô-biên 
	pháp. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Ta nhập bồ-tát niệm niệm xuất sanh quảng-đại-hỉ 
	trang-nghiêm giải-thoát quang-minh-hải nầy. 
	
	Giải-thoát nầy vô-biên, vì vào khắp tất cả pháp-giới môn. 
	
	Giải-thoát nầy vô-tận, vì khắp pháp tâm nhất-thiết-trí-tánh. 
	
	Giải-thoát nầy vô-tế, vì vào trong tâm tất cả chúng-sanh không giới hạn. 
	
	Giải-thoát nầy thậm-thâm, vì là cảnh sở-tri của trí huệ tịch-tịnh. 
	
	Giải-thoát nầy quảng đại, vì châu biến tất cả Như-Lai cảnh. 
	
	Giải-thoát nầy vô-hoại, vì là cảnh sở-tri của Bồ-Tát trí-nhãn. 
	
	Giải-thoát nầy không đáy, vì tận nguồn đáy nơi pháp-giới. 
	
	Giải-thoát nầy chính là phổ-môn, vì trong một sự thấy khắp tất cả thần-biến. 
	
	Giải-thoát nầy trọn chẳng thể lấy, vì tất cả pháp-thân bình-đẳng không hai. 
	
	Giải-thoát nầy trọn không có sanh, vì rõ biết được pháp như huyễn. 
	
	Giải-thoát nầy như ảnh tượng, vì nhất-thiết-trí nguyện-quang sanh ra. 
	
	Giải-thoát nầy dường như biến hóa, vì hóa sanh những thắng-hạnh bồ-tát. 
	
	Giải-thoát nầy dường như đại-địa vì là chỗ sở-y của tất cả chúng sanh. 
	
	Giải-thoát nầy dường như đại-thủy, vì có thể dùng đại-bi nhuận tất cả. 
	
	Giải-thoát nầy dường như đại-hỏa, vì khô cạn nước tham ái của tất cả 
	chúng-sanh. 
	
	Giải-thoát nầy dường như đại-phong, vì làm cho chúng-sanh mau đến 
	nhất-thiết-trí. 
	
	Giải-thoát nầy dường như đại-hải, vì những công-đức trang- nghiêm tất cả 
	chúng-sanh. 
	
	Giải-thoát nầy như núi Tu-Di, vì xuất hiện biển pháp nhất-thiết-trí. 
	
	Giải-thoát nầy như thành quách lớn, vì tất cả pháp được trang-nghiêm. 
	
	Giải-thoát nầy như hư không, vì dung khắp thần-lực của tất cả Phật tam thế. 
	
	Giải-thoát nầy như mây lớn, vì mưa pháp-vũ cho khắp chúng-sanh. 
	
	Giải-thoát nầy như mặt nhật, vì phá được tối ngu-si của chúng-sanh. 
	
	Giải-thoát nầy như mặt trăng tròn, vì mãn túc biển phước-đức quảng đại. 
	
	Giải-thoát nầy dường chơn-như, vì đều có thể cùng khắp tất cả chỗ. 
	
	Giải-thoát nầy như bóng của mình, vì do thiện-nghiệp của mình hóa xuất ra. 
	
	Giải-thoát nầy như tiếng vang, vì tùy nghi mà thuyết pháp. 
	
	Giải-thoát nầy như ãnh tượng, vì tùy tâm chúng-sanh mà chiếu hiện. 
	
	Giải-thoát nầy như đại-thọ-vương vì nở xòe tất cả hoa thần-thông. 
	
	Giải-thoát nầy như kim-cang, vì bổn lai bất-khả-hoại. 
	
	Giải-thoát nầy như châu ma-ni, vì xuất sanh vô-lượng sức tự-tại. 
	
	Giải-thoát nầy như ly-cấu-tạng ma-ni-vương, vì thị-hiện tất cả tam-thế 
	Như-Lai thần-lực. 
	
	Giải-thoát nầy như hỉ-tràng ma-ni-bửu, vì có thể bình-đẳng phát ra tiếng 
	phát-luân của tất cả chư Phật. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Nay ta vì ngươi mà nói những ví-dụ nầy. Ngươi nên tư-duy 
	tùy thuận ngộ nhập. 
	
	Thiện-Tài thưa: Bạch Đại-Thánh! Tu hành thế nào để được môn giải thoát nầy. 
	
	Dạ-Thần nói: Nầy thiện-nam-tử ! Bồ-Tát tu hành mười đại-pháp-tạng được giải 
	thoát nầy: 
	
	Một là tu bố-thí quảng-đại-pháp-tạng, tùy tâm chúng-sanh đều khiến đầy đủ. 
	
	Hai là tu tịnh-giới quảng-đại pháp-tạng vào khắp tất cả biển phật công-đức. 
	
	Ba là tu kham-nhẫn quảng đại pháp-tạng, có thể khắp tư-duy tất cả pháp-tánh. 
	
	Bốn là tu tinh-tấn quảng-đại pháp-tạng, vì xu hướng nhất-thiết-trí hằng 
	chẳng thối-chuyển. 
	
	Năm là tu thiền-định quảng-đại pháp-tạng, vì có thể diệt trừ tất cả 
	chúng-sanh nhiệt-não. 
	
	Sáu là tu bát-nhã quảng-đại pháp-tạng, vì có thể biết rõ khắp tất cả 
	pháp-hải. 
	
	Bảy là tu phương-tiện quảng-đại pháp-tạng, có thể thành-thục khắp những 
	chúng-sanh-hải. 
	
	Tám là tu những nguyện quảng-đại pháp-tạng, vì tận vị-lai kiếp tu 
	bồ-tát-hạnh khắp tất cả cõi phật, tất cả chúng-sanh. 
	
	Chín là tu những lực quảng đại pháp-tạng, vì niệm niệm hiện thành 
	Đẳng-Chánh-Giác nơi tất cả pháp-giới, nơi tất cả quốc-độ thường chẳng thôi 
	dứt. 
	
	Mười là tu tịnh-trí quảng-đại pháp-tạng, được như-lai-tri biết khắp tất cả 
	pháp tam-thế không có chướng ngại. 
	
	Nếu chư Bồ-Tát an-trụ mười pháp-tạng nầy thời có thể chứng được giải-thoát 
	như vậy. 
	
	Thiện-Tài thưa: 
	
	Đại-Thánh phát tâm vô-thượng bồ-đề đã bao lâu? 
	
	Dạ-Thần nói: 
	
	Nầy thiện-nam-tử ! Phía đông của Hoa-Tạng-Trang-Nghiêm-Thế-Giới-Hải nầy, qua 
	khỏi mười thế-giới-hải, có thế-giới-hải tên là Nhất-Thiết-Tịnh-Quang-Bửu. 
	Trong thế-giới-hải nầy có thế-giới-chủng tên là 
	Nhất-Thiết-Như-Lai-Nguyện-Quang-Minh-Ấm, trong đó có thế-giới tên là 
	Thanh-tịnh-Quang-Kim-Trang-Nghiêm, thể chất bằng hương-kim-cang ma-ni-vương, 
	hình như lâu các. Diệu-bửu-vân làm biên-tế, ở trong biển 
	nhất-thiết-bửu-anh-lạc. Mây diệu-cung-điện che trên. Tịnh-uế lẫn lộn. 
	
	Trong thế-giới đó, thuở xưa có kiếp tên là Phổ-Quang-Tràng. Nước tên là Phổ 
	Mãn-Diệu-Tạng. Đạo-tràng tên là Nhứt-Thiết-Bửu-Tạng-Diệu Nguyệt-Quang-Minh. 
	Có Phật tên là Bất-Thối-Chuyển-Pháp-Giới-Ấm, thành Đẳng-Chánh-Giác nơi đạo 
	tràng này. 
	
	Thuở đó ta làm Bồ-đề Thọ-Thần tên là Cụ-Túc-Phước-Đức-Đăng-Quang-Minh-Tràng. 
	Ta thủ hộ đạo tràng ấy. 
	
	Ta thấy đức Phật Pháp-Giới-Ấm thành Đẳng-Chánh-Giác thị-hiện thần lực, ta 
	phát tâm vô-thượng bồ-đề. Liền lúc đó ta được tam-muội tên là 
	Phổ-chiếu-như-lai công-đức-hải. 
	
	Kế đó, trong đạo-tràng ấy có Như-Lai xuất thế hiệu là Pháp-Thọ-Oai Đức-Sơn. 
	
	Bây giờ ta mạng chung sanh trở lại làm đạo-tràng Chủ-Dạ-Thần, tên là 
	Thù-Thắng-Phước-Trí-Quang. 
	
	Ta thấy đức Oai-Đức-Sơn Như-Lai hiện đại thần-thông chuyển chánh pháp-luân, 
	liền được tam-muội tên là Phổ-chiếu-nhất-thiết-ly-tham-cảnh-giới. 
	
	Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Nhứt-Thiết-Pháp-Hải-Ấm-Thanh-Vương. 
	Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền 
	được tam-muội tên là sanh-trưởng-nhất-thiết-thiện-pháp-địa. 
	
	Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Bửu-Quang-Minh-Đăng-Tràng-Vương. 
	Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền 
	được tam-muội tên là Phổ-Hiện-Thần-Thông-Quang-Minh-Vân. 
	
	Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Công-Đức-Tu-Di-Quang. 
	Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền 
	được tam-muội tên là Phổ-Chiếu-Chư-Phật-Hải. 
	
	Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Pháp-Vân-Ấm-Thanh-Vương. Bấy giờ ta làm 
	Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền được tam-muội tên là 
	Nhất-Thiết-Pháp-Hải-Đăng. 
	
	Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Trí-Đăng-Chiếu-Diệu-Vương. 
	Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền 
	được tam-muội tên là 
	Diệt-Nhất-Thiết-Chúng-Sanh-Khổ-Thanh-Tịnh-Quang-Minh-Đăng. 
	
	Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Pháp-Dũng-Diệu-Đức-Tràng. 
	Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền 
	được tam-muội tên là Tam-Thế Như-Lai-Quang-Minh-Tạng. 
	
	Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Sư-Tử-Dũng-Mãnh-Pháp-Trí-Đăng. 
	Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền 
	được tam-muội tên là nhất thiết-thế-gian-vô-chướng-ngại-trí-huệ-luân. 
	
	Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Trí-Lực-Sơn-Vương. 
	Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền 
	được tam-muội tên là phổ-chiếu-chúng-sanh-chư-căn-hạnh. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Trong thế-giới Thanh-Tịnh-Quang-Kim-Trang-nghiêm, thuở 
	kiếp Phổ-Quang-Minh-Tràng, có phật-sát vi-trần số Như-Lai xuất thế như vậy. 
	
	Trong thời-gian đó, ta hoặc làm Thiên-Vương, Long-Vương, hoặc làm 
	Dạ-Xoa-Vương, Càn-Thát-Bà-Vương, A-Tu-La-Vương, Ca-Lâu-La-Vương, 
	Khẩn-Na-La-Vương, Ma-Hầu-La-Già-Vương, hoặc làm Nhân-Vương, Phạm-Vương, hoặc 
	làm Thiên-Thân, Nhân-Thân, làm nam-tử, nữ-nhân, làm đồng-nam, đồng-nữ. 
	
	Nơi tất cả thân, ta đều kính thờ cúng-dường tất cả Như-Lai, nghe Phật 
	thuyết-pháp. 
	
	Khi mạng-chung, ta sanh trở lại trong thế-giới đó, trải qua phật-sát 
	vi-trần-số kiếp tu bồ-tát-hạnh. 
	
	Sau đó, ta mạng-chung sanh nơi Ta-Bà thế-giới trong 
	Hoa-Tạng-Trang-Nghiêm-Thế-Giới-Hải nầy, gặp và cúng-dường đức Câu-Lưu-Tôn-Đà 
	Như-Lai. Ta được tam-muội tên là ly-nhất-thiết-trần-cấu-quang-minh. 
	
	Kế đó gặp đức Câu-Na-Hàm-Mâu-Ni Như-Lai, ta kính thờ cúng-dường, được 
	tam-muội tên là Phổ-Hiện-Nhất-Thiết-Chư-Sát-Hải. 
	
	Kế đó gặp đức Ca-Diếp Như-Lai, ta kính thờ cúng-dường, được tam-muội tên là 
	Diễn-Nhất-Thiết-chúng-Sanh-Ngôn-Ấm-Hải. 
	
	Kế đó gặp đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như Lai thành Đẳng-Chánh-Giác nơi đạo-tràng nầy 
	niệm niệm thị-hiện đại-thần-thông-lực. Do đó ta được môn giải-thoát 
	niệm-niệm-xuất-sanh-quảng-đại-hỉ-trang-nghiêm. 
	
	Được giải thoát nầy rồi, ta có thể nhập mười bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết 
	phật-sát vi-trần-số pháp-giới an-lập hải. 
	
	Ta thấy trong tất cả pháp-giới an lập-hải, bao nhiêu vi-trần của tất cả 
	phật-sát. Trong mỗi vi-trần có mười bất-khả-thuyết bất khả-thuyết phật sát 
	vi-trần-số phật-độ. Mỗi phật-độ đều có Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai ngồi đạo-tràng, 
	trong mỗi niệm thành Đẳng-Chánh-Giác hiện đại-thần-biến. Những thần-biến của 
	Như-Lai hiện đều khắp pháp-giới-hải. 
	
	Ta cũng thấy thân mình ở tại chỗ của tất cả Như-Lai, cũng nghe Phật nói 
	diệu-pháp. 
	
	Ta cũng thấy tất cả chư Phật, nơi mỗi lỗ lông xuất hiện, thần-thông biến hóa 
	khắp tất cả pháp-giới-hải, khắp tất cả thế-giới hải, khắp tất cả thế-giới 
	chủng, trong tất cả thế giới tùy tâm chúng-sanh mà chuyển chánh-pháp-luân. 
	
	Nhơn đó ta được sức tốc-tật đà-la-ni, thọ trì tư-duy tất cả văn nghĩa. Dùng 
	trí minh-liễu vào khắp tất cả pháp-tạng thanh-tịnh. Dùng trí tự-tại dạo khắp 
	tất cả thậm thâm pháp-hải. Dùng trí châu-biến biết khắp những nghĩa 
	quảng-đại trong tam thế. Dùng trí bình-đẳng đạt khắp pháp vô-sai-biệt của 
	chư Phật. 
	
	Ta hiểu rõ tất cả pháp-môn như vậy. Trong mỗi mỗi pháp-môn, hiểu rõ tất cả 
	tu-đa-la-vân. Trong mỗi mỗi tu-đa-la-vân, ta hiểu rõ tất cả pháp-hải. Trong 
	mỗi mỗi pháp-hải, ta hiểu rõ tất cả pháp-phẩm. Trong mỗi mỗi pháp-phẩm, ta 
	hiểu rõ tất cả pháp-vân. Trong mỗi mỗi pháp-vân, ta hiểu rõ tất cả pháp-lưu. 
	Trong mỗi mỗi pháp-lưu xuất sanh tất cả đại-hỉ-hải. Mỗi đại-hỉ-hải xuất sanh 
	tất cả địa. Mỗi địa xuất sanh tất cả tam-muội-hải. Mỗi tam-muội-hải được tất 
	cả kiến-phật-hải. Mỗi kiến-phật-hải được tất cả trí-quang-hải. Mỗi 
	trí-quang-hải chiếu khắp tam-thế, vào khắp mười phương, biết những hạnh-hải 
	thuở xưa của vô-lượng Như-Lai, biết những bổn-sự hải của vô-lượng Như-Lai, 
	biết năng-xả nan-thí-hải của vô-lượng Như-Lai, biết thanh-tịnh giới-luân-hải 
	của vô-lượng Như-Lai, biết thanh-tịnh kham-nhẫn-hải của vô-lượng Như-Lai, 
	biết quảng-đại-tinh-tấn hải của vô-lượng Như-Lai, biết thậm-thâm thiền-định 
	hải của vô-lượng Như-Lai, biết bát-nhã ba-la-mật hải của vô-lượng Như-Lai, 
	biết phương-tiện ba-la-mật hải của vô-lượng Như-Lai, biết nguyện ba-la-mật 
	hải của vô lượng Như-Lai, biết lực ba-la-mật hải của vô-lượng Như-Lai, biết 
	trí ba-la-mật hải của vô-lượng Như-Lai, biết vô-lượng Như-Lai thuở xưa siêu 
	bồ-tát-địa, trụ bồ-tát-địa, hiện thần-thông lực trong vô-lượng kiếp hải. 
	
	Cũng biết vô-lượng Như-Lai thuở xưa nhập bồ-tát-địa, tu bồ-tát-địa, trụ 
	bồ-tát-địa, quán bồ-tát-địa. 
	
	Biết vô-lượng Như-Lai, thuở xưa, lúc làm Bồ-Tát thường thấy chư Phật-hải, 
	kiếp-hải đồng-trụ. 
	
	Biết vô-lượng Như-Lai, thuở xưa, lúc làm Bồ-Tát, dùng vô-lượng thân sanh 
	khắp sát-hải. 
	
	Biết vô-lượng Như-Lai, thuở xưa lúc làm Bồ-Tát, cùng khắp pháp-giới tu hạnh 
	quảng-đại. 
	
	Biết vô-lượng Như-Lai, thuở xưa lúc làm Bồ-Tát, thị-hiện những 
	phương-tiện-môn điều phục thành-thục tất cả chúng-sanh. 
	
	Biết vô-lượng Như-Lai phóng đại quang-minh chiếu khắp tất cả sát-hải mười 
	phương. 
	
	Biết vô-lượng Như-Lai hiện đại-thần-lực ra trước tất cả chúng-sanh. Biết trí 
	quảng-đại của vô-lượng Như-Lai. 
	
	Biết vô-lượng Như-Lai chuyển chánh-pháp-luân. 
	Biết vô-lượng Như-Lai thị-hiện tướng-hải. 
	
	Biết vô-lượng Như-Lai thị-hiện thân hải. 
	Biết vô-lượng Như-Lai quảng-đại lực hải. 
	
	Tất cả chư Như-Lai đó từ sơ phát tâm nhẩn đến pháp-diệt, trong mỗi niệm ta 
	đều thấy biết. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Ngươi hỏi ta phát tâm đã bao lâu ? 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Thuở xưa quá hai phật sát vi-trần-số kiếp như đã nói ở 
	trên, trong thế-giới thanh-tịnh-Quang-Kim-Trang-Nghiêm, ta làm Bồ-Đề-Thọ 
	thần nghe đức Bất-Thối-Chuyển-Pháp-Giới Ấm Như-Lai thuyết pháp, ta phát tâm 
	vô-thượng bồ-đề, tu bồ-tát hạnh suốt hai phật-sát vi-trần-số kiếp sau đó mới 
	sanh trong Hiền-Kiếp nơi Thế Giới Ta-Bà nầy, từ Câu-Lưu-Tôn-Đà Phật, đến 
	Thích-Ca-Mâu-Ni Phật, và tất cả Phật vị-lai trong kiếp nầy, ta đều thân-cận 
	cúng dường như vậy. 
	
	Trong tất cả thế-giới tất cả kiếp vị-lai đây có tất cả chư Phật, ta cũng đều 
	thân-cận cúng-dường như vậy. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Thế-giới Thanh-tịnh-Quang-Kim-Trang-Nghiêm hiện nay vẫn 
	còn, chư Phật nối tiếp xuất hiện không dứt. Ngươi nên nhứt tâm tu môn 
	bồ-tát-đại-dũng-mãnh nầy. 
	
	Bấy giờ Chủ-Dạ-Thần Tịch-Tịnh-Ấm-Hải muốn tuyên lại nghĩa giải-thoát nầy, vì 
	Thiện-Tài Đồng-Tử mà nói kệ rằng: 
	
	Thiện-Tài nghe ta nói 
	
	Môn thanh-tịnh giải thoát 
	
	Nghe rồi sanh vui mừng 
	
	Siêng tu cho rốt ráo 
	
	Xưa, vi-trần kiếp hải. 
	
	Ta phát tính nguyện lớn 
	
	Thanh-tịnh như hư-không 
	
	Thường quán nhất-thiết-trí 
	
	Ta nơi tam thế Phật 
	
	Đều có lòng tin mến 
	
	Cùng chúng-hội đạo-tràng 
	
	Đều nguyện thường thân-cận. 
	
	Xưa tôi từng thấy Phật 
	
	Vì chúng-sanh cúng-dường 
	
	Được nghe pháp thanh-tịnh 
	
	Tâm mình rất hoan-hỉ 
	
	Thường tôn trọng phụ mẫu 
	
	Cung-kính mà cúng-dường 
	
	Không thôi trễ như vậy 
	
	Vào môn giải-thoát nầy. 
	
	Người già bệnh nghèo cùng 
	
	Căn thân chẳng toàn vẹn 
	
	Đều thương giúp tất cả 
	
	Cho họ được an-ổn. 
	
	Nước, lửa và vua, giặc 
	
	Trong biển có khủng bố 
	
	Xưa ta tu các hạnh 
	
	Vì cứu chúng-sanh đó. 
	
	Phiền-não hằng hẩy hừng 
	
	Nghiệp-chướng luôn ràng buộc 
	
	Sa vào các đường hiểm 
	
	Ta cứu chúng-sanh đó. 
	
	Tất cả các ác-thú 
	
	Vô-lượng sự khốn khổ 
	
	Sanh già bệnh chết thảy 
	
	Ta sẽ đều trừ diệt. 
	
	Nguyện tận kiếp vị-lai 
	
	Vì khắp các chúng-sanh 
	
	Diệt trừ khổ sanh tử 
	
	Được Phật rốt ráo vui. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát 
	niệm-niệm-sanh-quảng-đại-trí-trang-nghiêm nầy. 
	
	Như chư đại Bồ-Tát thâm-nhập tất cả pháp-giới-hải, đều biết tất cả những 
	kiếp-số, thấy khắp tất cả cỏi thành hoại. Ta thế nào biết được nói được 
	công-đức-hạnh đó. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Trong hội bồ-đề-tràng của đức Như-Lai đây có Chủ-Dạ-Thần 
	tên là Thủ-Hộ-Nhất-Thiết-Thành-Tăng-Trưởng-Oai-Lực. 
	Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát hạnh, tu bồ-tát-đạo. 
	
	Thiện-Tài nhứt-tâm quan-sát thân của Chủ-Dạ-Thần-Tịch-Tịnh-Ấm-Hải rồi nói kệ 
	rằng: 
	
	Tôi do Thiện-Hữu dạy 
	
	Đến chỗ Chủ-Dạ-Thần 
	
	Thấy Thần ngồi bửu-tòa 
	
	Thân lượng lớn vô-biên. 
	
	Những người chấp sắc-tướng 
	
	Chấp các pháp là có 
	
	Kẻ trí kém hiểu cạn 
	
	Chẳng biết cảnh-giới Thần. 
	
	Trời và người thế gian 
	
	Quan-sát vô-lượng kiếp 
	
	Cũng chẳng tính lường được 
	
	Vì sắc-tướng vô-biên 
	
	Xa lìa nơi năm uẩn 
	
	Cũng chẳng trụ nơi xứ 
	
	Dứt hẳn thế-gian nghi 
	
	Hiển hiện sức tự tại 
	
	Chẳng chấp pháp nội ngoại 
	
	Không động không chướng ngại 
	
	Mắt trí-huệ thanh-tịnh 
	
	Thấy Phật thần-thông-lực 
	
	Thân là chánh-pháp-tạng 
	
	Tâm là trí vô-ngại 
	
	Đã được trí quang chiếu 
	
	Lại chiếu các quần-sanh 
	
	Tâm nhóm vô-biên nghiệp 
	
	Trang-nghiêm các thế gian 
	
	Biết thế-gian là tâm 
	
	Hiện thân khắp chúng-sanh 
	
	Biết thế-gian như mộng 
	
	Tất cả Phật như bóng 
	
	Các pháp đều như vang 
	
	Khiến người không chấp trước 
	
	Vì tam-thế chúng-sanh 
	
	Niệm niệm thị-hiện thân 
	
	Mà tâm vô-sở trụ 
	
	Mười phương khắp nói pháp 
	
	Vô-biên những sát-hải 
	
	Phật-hải chúng-sanh-hải 
	
	Đều ở trong một trần 
	
	Là giải-thoát của Thần. 
	
	Nói kệ xong, Thiện-Tài đảnh lễ Dạ-Thần hữu-nhiễu vô-số vòng ân-cần 
	chiêm-ngưỡng từ tạ mà đi. 
	
	Thiện-Tài tùy thuận lời dạy của Chủ-Dạ-Thần Tịch-Tịnh-Ấm-Hải, quán-sát 
	pháp-môn của Dạ-Thần vừa nói mỗi câu mỗi chữ đều không quên sót. 
	
	Nơi vô-lượng thâm-tâm, vô-lượng pháp-tánh, tất cả phương-tiện, thần-thông 
	trí-huệ, nghĩ nhớ suy chọn tiếp nối không dứt, tâm niệm quảng đại chứng nhận 
	an-trụ. 
	
	Thiện-Tài đi đến chỗ Dạ-Thần Thủ-Hộ Nhất-Thiết-Thành. 
	
	Thấy Dạ-Thần nầy ngồi trên tòa sư-tử nhất-thiết-bửu-quang-minh-ma-ni-vương, 
	vô-số Dạ-Thần vây quanh, hiện thân nhứt-thiết-chúng-sanh-sắc-tướng, hiện 
	thân đối khắp tất cả chúng-sanh, hiện than chẳng nhiễm tất cả thế-gian, hiện 
	thân số bằng tất cả chúng-sanh, hiện thân siêu quá tất cả thế-gian, hiện 
	thân thành thục tất cả chúng-sanh, hiện thân mau đến tất cả mười phương, 
	hiện thân nhiếp khắp tất cả mười phương, hiện thân rốt ráo như-lai thể tánh, 
	hiện thân rốt ráo điều-phục chúng-sanh. 
	
	Thiện-Tài xem thấy hớn hở vui mừng đảnh lễ nơi chân Dạ-thần, hữu-nhiễu 
	vô-lượng vòng, chắp tay cung kính mà thưa rằng: Bạch đức thánh! Tôi đã phát 
	tâm vô-thượng-bồ-đề, mà chưa biết Bồ-Tát lúc tu bồ-tát-hạnh thế nào lợi ích 
	chúng-sanh, thế nào dùng pháp nhiếp vô-thượng để nhiếp chúng-sanh, thế nào 
	thuận theo lời dạy của Phật, thế nào gần ngôi Pháp-Vương? Ngưỡng mong từ mẫn 
	tuyên nói cho. 
	
	Dạ-Thần nói: Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi vì cứu hộ tất cả chúng-sanh, vì 
	nghiêm-tịnh tất cả phật-độ, vì cúng-dường tất cả Như-Lai, vì muốn trụ tất cả 
	kiếp để cứu chúng-sanh, vì muốn giữ-gìn tất cả phật-chủng, vì muốn vào khắp 
	mười phương để tu những công-hạnh, vì muốn vào khắp tất cả pháp-môn-hải, vì 
	muốn dùng tâm bình-đẳng khắp tất cả, vì muốn thọ khắp tất cả phật-pháp, vì 
	muốn tùy khắp sở-thích của tất cả chúng-sanh mà mưa pháp-vũ, nên ngươi hỏi 
	pháp-môn của Bồ-Tát tu hành. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Ta được môn giải-thoát bồ-tát thậm thâm tự-tại diệu-âm. 
	
	Làm Đại-Pháp-Sư không còn chướng-ngại, vì có thể khéo khai thị pháp-tạng của 
	chư Phật. Đủ thệ nguyện lớn, sức đại từ-bi, vì làm cho tất cả chúng-sanh an 
	trụ tâm bồ-đề. 
	
	Có thể làm tất cả sự lợi cho chúng-sanh, vì chứa nhóm thiện-căn không thôi 
	nghỉ. 
	
	Làm Điều-Ngự-Sư cho tất cả chúng-sanh, vì khiến tất cả chúng-sanh an trụ đạo 
	nhất-thiết-trí. 
	
	Làm pháp-nhật thanh-tịnh cho tất cả thế-gian, vì chiếu khắp thế-gian khiến 
	sanh căn lành. 
	
	Tâm bình-đẳng với tất cả thế gian, vì khắp làm cho chúng-sanh tăng-trưởng 
	pháp lành. 
	
	Tâm thanh-tịnh nơi tất cả cảnh giới vì trừ diệt tất cả nghiệp bất-thiện. 
	
	Thệ nguyện lợi ích tất cả chúng-sanh, vì thân hằng hiện khắp tất cả quốc độ. 
	
	Thị-hiện tất cả bổn-sự nhơn duyên, vì làm cho các chúng-sanh an-trụ hạnh 
	lành. 
	
	Hằng thờ tất cả thiện-tri-thức, vì khiến chúng-sanh an-trụ phật pháp. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Ta dùng pháp-thí ban bố cho chúng-sanh, khiến họ sanh 
	bạch-pháp cầu nhất-thiết-trí. 
	
	Tâm được kiên cố như kim-cang na-la-diên tạng, hay quán-sát phật-lực, 
	ma-lực, thường được gần-gũi thiện-tri-thức, dẹp phá tất cả núi hoặc nghiệp 
	chướng, họp pháp trợ-đạo nhất-thiết-trí, tâm hằng chẳng bỏ bậc 
	nhất-thiết-trí. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Ta dùng tịnh-pháp quang-minh như vậy để lợi ích tất cả 
	chúng-sanh. Lúc nhóm pháp trợ-đạo thiện-căn, khởi mười thứ quán-sát 
	pháp-giới : 
	
	Một là ta biết pháp-giới vô-lượng, vì chứng được trí quang-minh quảng đại. 
	
	Hai là ta biết pháp-giới vô-biên, vì thấy chỗ thấy biết của tất cả Phật. 
	
	Ba là ta biết pháp-giới vô-hạn, vì vào khắp tất cả phật-độ cung kính 
	cúng-dường chư Như-Lai. 
	
	Bốn là ta biết pháp-giới không mé, vì thị-hiện tu hành Bồ-tát hạnh khắp 
	trong tất cả thế-giới-hải. 
	
	Năm là ta biết pháp-giới không dứt, vì nhập nơi trí bất-đoạn của Như-Lai. 
	
	Sáu là ta biết pháp-giới một tánh vì Như-Lai một âm-thanh mà tất cả 
	chúng-sanh đều rõ biết. 
	
	Bảy là ta biết pháp-giới tánh-tịnh, vì rõ Như-Lai nguyện độ khắp tất cả 
	chúng-sanh. 
	
	Tám là ta biết pháp-giới khắp chúng-sanh, vì diệu-hạnh Phổ-Hiền đều cùng 
	khắp. 
	
	Chín là ta biết pháp-giới một trang-nghiêm, vì diệu hạnh Phổ-Hiền khéo 
	trang-nghiêm. 
	
	Mười là ta biết pháp-giới chẳng thể hư hoại, vì thiện-căn nhất-thiết-trí 
	sung-mãn pháp-giới chẳng thể hoại. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta khởi mười thứ quán-sát pháp-giới trên đây để nhóm họp 
	những thiện-căn, hoàn tất pháp trợ-đạo, biết rõ oai-đức quảng-đại của chư 
	Phật, thâm-nhập cảnh-giới nan tư của Như-Lai. 
	
	Lại nầy Thiện-nam-tử! Ta chánh niệm tư-duy như vậy, được Như-Lai mười môn 
	đại-oai-đức đà-la-ni-luân. 
	
	Những là: đà-la-ni-luân vào khắp tất cả pháp. Đà-la-ni-luân trì khắp tất cả 
	pháp.  Đà-la-ni-luân nói khắp tất 
	cả pháp. 
	
	Đà-la-ni-luân niệm khắp tất cả Phật mười phương. Đà-la-ni-luân nói khắp danh 
	hiệu của tất cả Phật. 
	
	Đà-la-ni-luân vào khắp nguyện-hải của tam thế Phật. Đà-la-ni-luân vào khắp 
	tất cả những thừa-hải. 
	
	Đà-la-ni-luân nhập khắp tất cả chúng-sanh nghiệp-hải. Đà-la-ni-luân mau 
	chuyển tất cả nghiệp. 
	
	Đà-la-ni-luân mau sanh nhất-thiết-trí. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Mười đà-la-ni-luân này dùng mười ngàn đà-la-ni-luân làm 
	quyến-thuộc, hằng vì chúng-sanh diễn nói diệu-pháp. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta vì chúng-sanh hoặc nói văn-huệ-pháp, tư-huệ-pháp, 
	tu-huệ-pháp. Hoặc nói một hữu-pháp, hoặc nói tất cả hữu-pháp. Hoặc vì họ mà 
	nói danh-hải-pháp của một Như-Lai. Hoặc nói danh-hải-pháp của tất cả 
	Như-Lai. Hoặc vì họ mà nói một thế-giới-hải-pháp. Hoặc nói tất cả 
	thế-giới-hải-pháp. Hoặc nói một Phật thọ ký-hải-pháp. Hoặc nói tất cả Phật 
	thọ-ký-hải-pháp. Hoặc nói chúng-hội đạo-tràng-hải-pháp của một Như-Lai. Hoặc 
	nói chúng hội đạo-tràng của tất cả Như-Lai. Hoặc vì họ mà nói 
	pháp-luân-hải-pháp của một Như-Lai. Hoặc nói pháp-luân-hải-pháp của tất cả 
	Như-Lai. Hoặc nói tu-đa-la-pháp của một Như-Lai. Hoặc nói tu-đa-la-pháp của 
	tất cả Như-Lai. Hoặc nói tập-hội-pháp của một Như-Lai. Hoặc nói tập-hội-pháp 
	của tất cả Như-Lai. Hoặc nói tâm-hải-pháp của một trí. Hoặc nói tâm-hải-pháp 
	của nhất-thiết-trí. Hoặc nói pháp xuất-ly của một thừa. Hoặc nói 
	xuất-ly-pháp của tất cả thừa. Ta vì chúng-sanh mà nói bất-khả-thuyết 
	pháp-môn như vậy. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Ta nhập Như-Lai vô-sai-biệt pháp-giới-môn-hải, nói pháp 
	vô-thượng nhiếp khắp chúng-sanh, tận vị-lai kiếp trụ hạnh Phổ-hiền. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Ta thành-tựu môn giải-thoát thậm-thâm tự-tại diệu-âm nầy, 
	ở trong mỗi niệm tăng trưởng tất cả những môn giải-thoát, niệm niệm sung mãn 
	tất cả pháp-giới.Thiện-Tài thưa: Lạ lùng thay, bạch đức thánh! Môn 
	giải-thoát nầy hi-hữu như vậy Đức thánh chứng được đã bao lâu? 
	
	Dạ-Thần nói: Nầy thiện-nam-tử! Thuở xưa, quá thế-giới-chuyển vi-trần số kiếp 
	có kiếp tên là Ly-Cấu-Quang-Minh, có thế-giới tên là Công-Đức-Vân, thể chất 
	bằng hiện-nhất-thiết-chúng-sanh nghiệp-ma-ni-vương-hải, hình như liên-hoa, 
	trụ trong tứ-thiên-hạ vi-trần-số hương-ma-ni tu-di-sơn-võng, trang-nghiêm 
	với xuất-nhất-thiết-như-lai bổn-nguyện-âm liên-hoa, tu-di-sơn vi-trần-số 
	liên-hoa làm quyến-thuộc, xen lẫn với tu-di-sơn vi-trần-số hương-ma-ni. 
	Thế-giới đó có tu-di-sơn vi-trần tứ-thiên hạ. Mỗi tứ-thiên-hạ có trăm ngàn 
	ức na-do-tha bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết thành. 
	
	Trong đó có một tứ-thiên-hạ tên là Diệu-Tràng, có Vương-Đô tên là 
	Phổ-Bửu-Hoa-Quang. Cách không xa có Bồ-Đề tràng tên là 
	Phổ-Hiển-Hiện-Pháp-Vương-Cung-Điện. Tu-di-sơn vi-trần-số Như-Lai xuất hiện 
	trong đó. Tối-sơ Phật hiệu là Pháp-Hải-Lôi-Ấm-Quang-Minh-Vương. 
	
	Lúc đức Phật đó xuất thế có Chuyển-Luân-Vương tên là 
	Thanh-Tịnh-Nhựt-Quang-Minh-Diện, Thọ trì tất cả phát-hải-triền tu-đa-la của 
	Phật. Sau khi đức Phật nhập niết-bàn, nhà vua xuất gia hộ-trì chánh-pháp. 
	
	Lúc pháp sắp diệt có ngàn bộ dị-chúng thuyết-pháp ngàn thứ. 
	
	Gần lúc mạt-kiếp nghiệp hoặc chướng nặng, các ác Tỳ-Kheo nhiều sự đấu tranh, 
	thích chấp cảnh-giới chẳng cầu công-đức. Thích nói vương-luận, tặc-luận, 
	nữ-luận, quốc-luận, hải-luận, nhẫn đến tất cả thế-gian-luận. 
	
	Lúc đó Vương Tỳ-Kheo bảo họ rằng: Lạ thay khổ thay, đức Phật trong vô-lượng 
	kiếp-hải chứa nhóm ngọn đuốc pháp nầy sao các người lại cùng nhau hủy diệt. 
	
	Nói xong, Vương Tỳ-Kheo bay lên hư-không cao bảy cây đa-la, thân phóng ra 
	vô-lượng những mây màu sáng, những lưới đại quang-minh nhiều màu, làm cho 
	vô-lượng chúng-sanh trừ nóng phiền-não, làm cho vô-lượng chúng-sanh phát tâm 
	bồ-đề. Nhờ nhân duyên nầy nên giáo-pháp của Như-Lai được hưng thạnh thêm sáu 
	vạn năm ngàn năm. 
	
	Lúc đó có Tỳ-Kheo-Ni tên là Pháp-Luân-Hóa-Quang, vốn là con gái của 
	Chuyển-Luân-Vương, trăm ngàn Tỳ-Kheo-Ni làm quyến thuộc, nghe lời-nói của 
	Phụ-vương và thấy thần-lực, liền phát tâm bồ-đề không thối-chuyển, được 
	tam-muội tên là nhất-thiết-phật-giáo-đăng, lại được môn giải-thoát thậm-thâm 
	tự-tại diệu-âm này, thân tâm nhu-nhuyến, liền được thấy tất cả thần-lực của 
	đức Pháp-Hải-Lôi Ấm Quang-Minh Như-Lai. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Chuyển-Luân-Vương Tỳ-Kheo xưa kia chính là Phổ-Hiền 
	Bồ-Tát, Vương-Nữ Tỳ-Kheo-Ni chính là ta. 
	
	Thuở ấy ta thủ-hộ phật-pháp làm cho mười vạn Tỳ-Kheo-Ni được chẳng 
	thối-chuyển nơi vô-thượng bồ-đề, lại được hiện thấy tất cả phật tam-muội, 
	lại được tất cả phật pháp-luân kim-cang quang-minh đà-la-ni, lại được 
	bát-nhã ba-la-mật vào khắp tất cả pháp-môn-hải. 
	
	Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Ly-Cấu-Pháp-Quang-Minh. 
	
	Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Luân-Quang-Minh-Kế. 
	
	Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Nhật-Công-Đức-Vân. 
	
	Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Hải-Diệu-Ấm-Vương. 
	
	Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Nhật-Thí-Huệ-Đăng. 
	
	Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Hoa-Tràng-Vân. 
	
	Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Diệm-Sơn-Tràng-Vương. 
	
	Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Thậm-Thâm Pháp-Công-Đức-Nguyệt. 
	
	Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Trí-Phổ-Quang-Tạng. 
	
	Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Khai-Thị-Phổ-Trí-Tạng. 
	
	Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Công-Đức-Tạng-Sơn-Vương. 
	
	Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Phổ-Môn-Tu-Di-Hiền. 
	
	Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Nhất-thiết-Pháp-Tinh-Tấn-Tràng. 
	
	Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Phát Bửu-Hoa-Công-Đức-Vân. 
	
	Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Tịch-Tịnh-Quang-Minh-Kế. 
	
	Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Quang-Minh-Từ-Bi-Nguyệt. 
	
	Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Công-Đức-Diệm-Hải. 
	
	Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Trí-Nhựt-Phổ-Quang-Minh. 
	
	Kế đó có chư Phật đây thứ đệ nối tiếp xuất thế: Phổ-Hiền-Viên-Mãn-Trí Phật. 
	Thần-Thông-Trí-Quang-Vương Phật. Phước-Đức-Hoa-Quang-Đăng Phật. 
	Trí-Sư-Tử-Tràng-Vương Phật. Nhật-Quang-Phổ-Chiếu-Vương Phật. 
	Tu-Di-Bửu-Trang-Nghiêm-Tướng Phật, Nhật-Quang-Phổ-Chiếu Phật. 
	Pháp-Vương-Công-Đức-Nguyệt Phật. Khai-Phu-Liên-Hoa-Diệu-Ấm-Vân Phật. 
	Nhựt-Quang-Minh-Tướng Phật. Phổ-Quang-Minh-Pháp-Ấm Phật. 
	Sư-Tử-Kim-Cang-Na-La-Diên-Vô-Úy Phật. Phổ-Trí-Dũng-Mãnh-Tràng Phật. Phổ 
	Khai-Pháp-Liên-Hoa-Thân Phật. Công-Đức-Diệu-Hoa-Hải Phật. 
	Đạo-Tràng-Công-Đức-Nguyệt Phật. Pháp-Cự-Xí-Nhiên-Nguyệt Phật. 
	Phổ-Quang-Minh-Kế Phật. Pháp-Tràng-Đăng Phật. Kim-Cang-Hải-Tràng-Vân Phật. 
	Danh-Xưng-Sơn-Công-Đức-Vân Phật. Chiên-Đàn-Diệu-Nguyệt Phật. 
	Phổ-Diệu-Quang-Minh-Hoa Phật. 
	
	Chiếu-Nhất-Thiết-Chúng-Sanh-Quang-Minh-Vương Phật. Công-Đức-Liên-Hoa-Tạng 
	Phật. Hương-Diệm-Quang-Minh-Vương Phật. Ba-Đầu-Ma-Hoa-Nhơn Phật. 
	Chúng-Tướng-Sơn-Phổ-Quang-Minh Phật. Phổ-Danh-Xưng-Tràng Phật. 
	Tu-Di-Phổ-Môn-Quang Phật. Công-Đức-Pháp-Thành-Quang Phật. 
	Đại-Thọ-Sơn-Quang-Minh Phật. Phổ-Đức-Quang-Minh-Tràng Phật. 
	Công-Đức-Kiết-Tường-Tướng Phật. Dũng-Mãnh-Pháp-Lực-Tràng Phật. 
	Pháp-Luân-Quang-Minh-Ấm Phật. Công-Đức-Sơn-Trí-Huệ-Quang Phật. 
	
	Vô-Thượng-Diệu-Pháp-Nguyệt Phật. Pháp-Liên-Hoa-Tịnh-Quang-Tràng Phật. 
	Bửu-Liên-Hoa-Quang-Minh-Tạng Phật. Quang-Diệm-Vân-Sơn-Đăng Phật. 
	Phổ-Giác-Hoa Phật. Chủng-Chủng-Công-Đức-Diệm-Tu-Di-Tạng Phật. 
	Viên-Mãn-Quang-Sơn-Vương Phật. Phước-Đức-Vân-Trang-Nghiêm Phật. 
	Pháp-Sơn-Vân-Tràng Phật. Công-Đức-Sơn-Quang-Minh Phật. 
	Pháp-Nhựt-Vân-Đăng-Vương Phật. Pháp-Vân-Danh-Xưng-Vương Phật. Pháp-Luân-Vân 
	Phật. Khai-Ngộ-Bồ-Đề-Trí-Quang-Tràng Phật. Phổ-Chiếu-Pháp-Luân-Nguyệt Phật. 
	Bửu-Sơn-Oai-Đức-Hiền Phật. Hiền-Đức-Quảng-Đại-Quang Phật. Phổ-Trí-Vân Phật. 
	Pháp-Lực-Công-Đức-Sơn Phật. 
	
	Công-Đức-Hương-Diệm-Vương Phật. Kim-Sắc Ma-Ni-Sơn-Diệu-Ấm-Thanh Phật. 
	Đảnh-Kế-Xuất-Nhất-Thiết-Pháp-Quang-Minh-Vân Phật. Pháp-Luân-Xí-Thạnh-Quang 
	Phật. Vô-Thượng-Công-Đức-Sơn Phật. Tinh-Tấn-Cự-Quang-Minh-Vân Phật. 
	Tam-Muội-Ần-Quang-Đại-Quang-Minh-Quang Phật. Bửu-Quang-Minh-Công-Đức-Vương 
	Phật. Pháp-Cự-Bửu-Cái-Ấm Phật. Phổ-Chiếu-Hư-Không-Giới-Vô-Úy-Pháp-Quang-Minh 
	Phật. 
	
	Nguyệt-Tướng-Trang-Nghiêm-Tràng Phật. Quang-Minh-Diệm-Sơn-Vân Phật. 
	Chiếu-Vô-Chướng-Ngại-Pháp-Hư-Không Phật. Khai-Hiển-Trí-Quang Thân Phật. 
	Thế-Chủ-Đức-Quang-Minh-Ấm Phật. Nhứt-Thiết-Pháp-Tam-Muội-Quang-Minh-Ấm Phật. 
	Pháp-Ấm-Công-Đức-Tạng Phật. Xí-Nhiên-Diệm-Pháp-Hải-Vân Phật. 
	Phổ-Chiếu-Tam-Thế-Tướng-Đại-Quang-Minh Phật. Phổ-Chiếu-Pháp-Luân-Sơn Phật. 
	Pháp-Giới-Sư-Tử-Quang Phật. Tu-Di-Hoa-Quang-Minh Phật. 
	Nhứt-Thiết-Tam-Muội-Hải-Sư-Tử-Diệm Phật. Phổ-Trí-Quang-Minh-Đăng Phật. 
	
	Có tu-di-sơn vi-trần-số chư Phật Như-Lai như vậy thứ đệ tiếp nối xuất thế. 
	
	Tối hậu Phật hiệu là Pháp-Giới-Thành-Trí-Huệ-Đăng, cũng xuất thế trong kiếp 
	Ly-Cấu-Quang-Minh. 
	
	Với tất cả chư Phật trên đây ta đều kính thờ thân-cận cúng-dường nghe pháp 
	thọ-trì và xuất-gia học đạo hộ-trì pháp-giáo, nhập môn giải-thoát bồ-tát 
	thậm-thâm tự-tại diệu-âm nầy, dùng nhiều phương-tiện giáo-hóa thành-thục 
	vô-lượng chúng-sanh. 
	
	Từ đó đến nay trải qua phật-sát vi-trần-số kiếp, có bao nhiêu chư Phật xuất 
	thế, ta đều kính thờ cúng-dường thọ-hành giáo-pháp. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Từ đó đến nay, ta ở trong chúng-sanh vô-minh tăm tối sanh 
	tử mà riêng mình giác ngộ, làm cho chúng-sanh thủ hộ tâm-thành, bỏ 
	tam-giới-thành mà an-trụ nơi pháp-thành nhất-thiết-trí vô-thượng. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát thậm-thâm tự-tại diệu-âm nầy, 
	làm cho các thế gian rời hí-luận-ngữ, chẳng nói nhị-ngữ, thường 
	chơn-thiệt-ngữ, hằng thanh-tịnh-ngữ. 
	
	Như chư đại Bồ-tát có thể biết tự-tánh của tất cả ngữ ngôn. Trong mỗi niệm 
	tự-tại khai ngộ tất cả chúng-sanh. Vào biển ngôn âm của tất cả chúng-sanh. 
	Đều biết rõ được tất cả ngôn từ. Thấy rõ tất cả pháp-môn. Đã được tự-tại nơi 
	phổ-nhiếp-nhất-thiết-pháp đà-la-ni, tùy chỗ nghi của tâm chúng-sanh mà vì họ 
	thuyết pháp, rốt ráo điều phục tất cả chúng-sanh, có thể nhiếp thọ khắp tất 
	cả chúng-sanh, khéo tu những nghiệp vô-thượng của Bồ-Tát. Thâm nhập những 
	trí vi-tế của Bồ-Tát. Có thể khéo quán-sát bồ-tát-tạng. Có thể tự-tại diễn 
	thuyết những bồ-tát-pháp. 
	
	Tại sao vậy? Vì đã được thành-tựu nhất-thiết-pháp-luân-đà-la-ni. Ta đâu biết 
	được nói được công-đức-hạnh đó. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Trong phật-hội nầy có Chủ-Dạ-Thần tên là 
	Khai-Phu-Nhất-Thiện-Thọ-Hoa. 
	
	Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học nhất-thiết-trí, thế nào an lập tất cả 
	chúng-sanh trụ nhất-thiết-trí. 
	
	Thủ-Hộ-Nhất-Thiết-Thành Chủ-Dạ-Thần muốn tuyên lại nghĩa nầy, vì Thiện-Tài 
	mà nói kệ rằng: 
	
	Bồ-Tát giải-thoát sâu khó thấy 
	
	Hư-không như bình-đẳng-tướng 
	
	Thấy khắp trong vô-biên pháp-giới 
	
	Tất cả tam thế Phật Như-Lai. 
	
	Xuất sanh vô-lượng thắng công-đức 
	
	Chứng-nhập nan-tư chơn pháp-tánh 
	
	Tăng trưởng nhất-thiết-trí tự-tại 
	
	Khai thông tam-thế đạo giải-thoát. 
	
	Quá xưa sát chuyển vi-trần kiếp 
	
	Bấy giờ có kiếp tên Tịnh-Quang, 
	
	Thế-giới tên là Pháp-Diệm-Vân, 
	
	Có thành hiệu là Bửu-Hoa-Quang. 
	
	Trong đó chư Phật nối xuất thế 
	
	Số đến vô-lượng tu-di-trần 
	
	Tối sơ Phật hiệu Pháp-Hải-Ấm. 
	
	Ở trong kiếp nầy xuất hiện trước. 
	
	Trong kiếp Tịnh-Quang tối-hậu Phật. 
	
	Hiệu là Pháp-Giới-Diệm Đăng Vương. 
	
	Tất cả chư Như-Lai trên đây 
	
	Ta đều cúng-dường thính thọ pháp. 
	
	Ta thấy Pháp-Hải Lôi-Ấm-Phật 
	
	Thân Phật chói rực màu chơn kim 
	
	Các tướng trang-nghiêm như bửu-sơn 
	
	Phát tâm nguyện được thành phật quả. 
	
	Ta tạm thấy thân Như-Lai kia 
	
	Liền phát tâm bồ-đề quảng-đại 
	
	Thệ-nguyện siêng cầu nhất-thiết-trí 
	
	Tánh cùng pháp-giới hư-không đồng. 
	
	Do đây thấy khắp tam thế Phật 
	
	Và cùng tất cả chúng Bồ-Tát 
	
	Cũng thấy quốc-vương và chúng-sanh 
	
	Duyên đó nên khởi tâm đại-bi 
	
	Tùy các chúng-sanh tâm sở-thích 
	
	Thị hiện đủ loại vô-lượng thân 
	
	Cùng khắp mười phương các quốc độ 
	
	Động địa phóng quang ngộ hàm-thức. 
	
	Thấy đệ-nhị Phật kính thân-cận 
	
	Cũng thấy mười phương sát-hải Phật 
	
	Nhẫn đến tối-hậu Phật ra đời 
	
	Tu-di-sơn trần-số như vậy. 
	
	Trải qua sát-chuyển vi-trần kiếp 
	
	Có những Như-Lai Chiếu-Thế-Đăng 
	
	Ta đều gần-gũi mà kính thờ 
	
	Cho môn giải-thoát nầy thanh-tịnh. 
	
	Bấy giờ Thiện-Tài Đồng-Tử được nhập môn giải-thoát bồ-tát thậm-thâm tự-tại 
	diệu-âm nên nhập vô biên tam-muội-hải, nhập quảng-đại tổng-trì hải, được 
	bồ-tát đại thần-thông, được bồ-tát đại-biện-tài. 
	
	Thiện-Tài rất hoan-hỉ, ngắm nhìn Thủ-Hộ-Nhất-Thiết-Thành Chủ-Dạ-Thần rối nói 
	kệ khen rằng: 
	
	Đã đi biển diệu-huệ quảng-đại 
	
	Đã qua vô biên biển tam hửu 
	
	Thân trí-tạng trường thọ không khổ 
	
	Oai-đức quang-minh ở chúng nầy. 
	
	Liễu đạt pháp-tánh như hư-không 
	
	Vào khắp tam thế đều vô-ngại 
	
	Niệm niệm phan-duyên tất cả cảnh 
	
	Tâm tâm dứt hẳn các phân-biệt. 
	
	Liễu đạt chúng-sanh không tự-tánh 
	
	Nhưng với chúng-sanh khởi đại-bi 
	
	Thâm-nhập Như-Lai môn giải-thoát 
	
	Rộng độ quần mê vô-lượng chúng. 
	
	Quán-sát tư-duy tất cả pháp 
	
	Biết rõ chứng nhập các pháp-tánh 
	
	Như vậy tu hành Phật trí-huệ 
	
	Giáo hóa chúng-sanh khiến giải-thoát, 
	
	Ngài là Đạo-Sư của chúng-sanh 
	
	Khai thị đạo trí-huệ của Phật 
	
	Khắp vì pháp-giới các chúng-sanh 
	
	Nói những hạnh thoát thế-gian khổ. 
	
	Ngài đã trụ Như-Lai đại nguyện 
	
	Đã thọ bồ-đề pháp quảng đại 
	
	Đã tu tất cả biến-hành-lực 
	
	Đã thấy mười phương Phật tự-tại, 
	
	Đức thánh tâm tịnh như hư-không 
	
	Lìa khắp tất cả những phiền-não 
	
	Biết rõ tam thế vô-lượng cõi 
	
	Chư-Phật, Bồ-tát và chúng-sanh. 
	
	Đức Thánh một niệm đều biết rõ 
	
	Ngày, đêm, tháng, năm vi-trần kiếp, 
	
	Cũng biết tất cả chúng-sanh-loại 
	
	Nhiều loại danh tướng đều sai-biệt. 
	
	Mười phương chúng-sanh chỗ sanh tử 
	
	Có Sắc, Vô-Sắc, Tưởng, Phi-Tưởng 
	
	Tùy thuận thế-tục đều biết rõ 
	
	Dẫn dắt cho vào đường bồ-đề. 
	
	Đã sanh nhà Như-Lai thệ nguyện 
	
	Đã nhập biển chư Phật công-đức 
	
	Phát-thân thanh-tịnh tâm vô-ngại 
	
	Tùy theo chúng-sanh mà hiện thân. 
	
	Nói kệ xong, Thiện-Tài đảnh lễ chân Dạ-Thần, hữu nhiễu vô-lượng vòng, ân-cần 
	chiêm-ngưỡng từ-tạ mà đi. 
	 
	Hán bộ quyển thứ bảy mươi hai. 
	
	Thiện-Tài đã nhập môn giải-thoát bồ-tát thậm-thâm tự-tại diệu-âm, tu hành 
	tinh tấn, đi đến chỗ Dạ-Thần Khai-Phu-Nhất-Thiết-Thọ-Hoa. Thấy Dạ-Thần nầy ở 
	trong lâu các chúng-bửu-hương-thọ, ngồi trên tòa sư-tử bằng những diệu-bửu. 
	Trăm vạn Dạ-Thần vây quanh. 
	
	Thiện-Tài đảnh lễ chân Dạ-Thần chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh! 
	Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát hạnh, 
	thế nào được nhất-thiết-trí? Xin ngài từ mẫn vì tôi mà tuyên nói. 
	
	Dạ-Thần nói: Nầy thiện-nam-tử! Nơi Ta-Bà thế-giới nầy, lúc mặt nhựt lặn, hoa 
	sen khép cánh, mọi người bãi du ngoạn, ta thấy những chúng-sanh muốn trở về 
	chỗ họ ở hoặc núi, hoặc thành, hoặc đồng quê, ta đều mật hộ cho họ đi đúng 
	đường đến nơi đến chốn, đêm nghỉ an ổn. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Nếu có chúng-sanh tuổi trẻ háo sắc kiêu-mạn phóng-dật vui 
	say ngũ dục, thời ta vì họ mà hiện tướng già bịnh chết, họ sợ sệt rời bỏ các 
	điều ác. Lại vì họ mà khen ngợi những thiện-căn khiến họ tu tập. 
	
	Vì người bỏn-sẻn khen ngợi bố-thí. Vì người phá giới khen ngợi tịnh giới. 
	Với người sân hận dậy họ hạnh đại từ. Khiến người não hại thật hành 
	nhẫn-nhục. Nếu người giải-đãi khiến họ tinh-tấn. Nếu người tán loạn khiến tu 
	thiền định. Người trụ ác-huệ khiến học bát nhã. 
	
	Người thích tiểu-thừa khiến trụ đại-thừa. Người đắm các loài trong tam-giới 
	khiến họ trụ bồ-tát nguyện ba-la-mật. Nếu có chúng-sanh phước trí kém yếu bị 
	kiết nghiệp ràng buộc lưu ngại nhiều, thời làm cho họ trụ Bồ-tát lực 
	ba-la-mật. Nếu có chúng-sanh tâm họ tối tăm không có trí-huệ, thời làm cho 
	họ trụ bồ-tát trí ba-la-mật. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Ta đã thành tựu môn giải thoát bồ-tát xuất sanh quảng-đại 
	hỉ-quang-minh. 
	
	Thiện-Tài thưa: Bạch đức Thánh! Cảnh-giới của môn giải-thoát này thế nào? 
	
	Dạ-Thần nói: Nầy thiện-nam-tử! Nhập môn giải-thoát nầy có thể biết trí 
	phương tiện thiện xảo của Như-Lai Phổ nhiếp chúng sanh. Phổ nhiếp thế nào? 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Tất cả chúng sanh hưởng vui đều là do sức oai-đức của 
	Như-Lai. Vì thuận lời dạy của Như-Lai. Vì thật hành theo lời của Như-Lai. Vì 
	học hạnh của Như-Lai. Vì được sức hộ-trì của Như-Lai. Vì tu tập đạo của 
	Như-Lai ấn khả. Vì gieo điều lành của Như-Lai làm. Vì y theo pháp của 
	Như-Lai nói. Vì trí-huệ nhựt-quang của Như-Lai chiếu đến. Vì được Như-Lai 
	tánh tịnh nghiệp-lực nhiếp thọ. 
	
	Tại sao biết như vậy? 
	
	Ta nhập môn giải-thoát xuất sanh quảng-đại hỉ quang-minh nầy, nghĩ nhớ đức 
	Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai thành Đẳng-Chánh-Giác, thuở xưa tu bồ-tát hạnh thảy đều 
	thấy rõ. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Thuở xưa, lúc làm Bồ-Tát, đức Thế-Tôn thấy tất cả 
	chúng-sanh chấp ngã, ngã-sở, trụ nhà tối vô-minh, vào rừng rậm kiến chấp, bị 
	tham ái trói buộc, bị giận hờn làm hư, bị ngu-si làm loạn, bị bỏn-sẻn ganh 
	ghét ràng rịt, nên sanh tử luân-hồi bần cùng khốn khổ, chẳng gặp được chư 
	Phật Bồ-Tát. Thấy như vậy rồi khởi lòng đại-bi lợi ích chúng-sanh. 
	
	Những là khởi tâm nguyện được tất cả diệu-bửu tư-cụ nhiếp lấy chúng-sanh. 
	Khởi tâm nguyện tất cả chúng-sanh đều được đầy đủ vật tư-sanh không thiếu 
	thốn. Với tất cả sự rời tâm chấp trước. Nơi tất cả cảnh-giới không tâm 
	tham-nhiễm. Nơi tất cả sở-hữu không tâm tiếc nối. Nơi tất cả quả báo không 
	tâm hi-vọng. Nơi tất cả vinh hảo không tâm khen chuộng. Nơi tất cả 
	nhơn-duyên không tâm mê hoặc. Khởi tâm quán-sát pháp-tánh chơn-thiệt. Khởi 
	tâm cứu hộ tất cả chúng-sanh. Khởi tâm thâm nhập tất cả pháp. Khởi tâm trụ 
	bình đẳng đại-từ đối với tất cả chúng-sanh. Khởi tâm thật hành phương-tiện 
	đại-bi đối với tất cả chúng-sanh. Khởi tâm làm lọng đại pháp che khắp 
	chúng-sanh. Khởi tâm chày kim-cang đại-trí phá tất cả núi chướng phiền-não 
	của tất cả chúng-sanh. Khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh tăng-trưởng hỉ 
	lạc. Khởi tâm nguyện tất cả chúng-sanh rốt ráo an-lạc. Khởi tâm tùy chỗ muốn 
	của tất cả chúng-sanh mà mưa tất cả của báu. Khởi tâm dùng phương-tiện 
	bình-đẳng thành thục tất cả chúng-sanh. Khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh 
	đầy đủ thành tài. Khởi tâm nguyện tất cả chúng-sanh rốt ráo đều được 
	thập-lực trí quả. 
	
	Khởi tâm như vậy rồi ta được bồ-tát-lực, hiện đại-thần-biến khắp pháp-giới 
	hư-không-giới. Ở trước chúng-sanh mưa tất cả vật tư-sanh, tùy sở-thích của 
	chúng-sanh đều được toại ý, đều làm cho họ hoan-hỉ, chẳng hối chẳng tiếc 
	chẳng xen chẳng dứt. 
	
	Dùng phương-tiện nầy nhiếp khắp chúng-sanh giáo-hóa thành-thục, đều làm cho 
	họ ra khỏi khổ nạn sanh-tử chẳng cầu báo đáp. Rửa sạch tâm bửu của tất cả 
	chúng-sanh, làm cho họ sanh khởi đồng một thiện-căn với tất cả chư Phật. 
	Thêm biển lớn phước đức nhất-thiết-trí. 
	
	Bồ-tát niệm niệm thành-thục tất cả chúng-sanh như vậy. Niệm niệm nghiêm tịnh 
	tất cả cõi Phật. Niệm niệm vào khắp tất cả pháp-giới. Niệm niệm thảy đều 
	khắp hư-không-giới. Niệm niệm vào khắp tất cả tam thế. Niệm niệm thành-tựu 
	trí điều phục tất cả chúng-sanh. Niệm niệm hằng chuyển tất cả pháp luân. 
	Niệm niệm hằng dùng đạo nhất thiết trí lợi ích chúng-sanh. Niệm niệm khắp 
	tất cả thế giới ở trước các chúng-sanh, tận vị-lai kiếp hiện tất cả Phật 
	thành Đẳng-Chánh-Giác. Niệm niệm khắp tất cả thế-giới, tất cả kiếp tu 
	bồ-tát-hạnh chẳng sanh hai tưởng. 
	
	Những là vào khắp tất cả thế-giới hải-quảng-đại, trong tất cả 
	thế-giới-chủng, những ranh giới các thế-giới-những trang-nghiêm các 
	thế-giới, những thể-tánh các thế-giới, những hình trạng các thế-giới, những 
	phân bố các thế-giới. 
	
	Hoặc có thế-giới uế mà kiêm tịnh. Hoặc có thế-giới tịnh mà kiêm uế. Hoặc có 
	thế-giới một bề tạp uế. Hoặc có thế-giới một bề thanh-tịnh. Hoặc nhỏ hoặc 
	lớn, hoặc thô hoặc tế. Hoặc ngay hoặc nghiêng, hoặc úp hoặc ngửa. 
	
	Trong tất cả thế-giới như vậy niệm niệm tu hành những hạnh bồ-tát, nhập 
	bồ-tát-vị, hiện bồ-tát-lực. Cũng hiện tất cả thân Phật tam-thế. Tùy tâm 
	chúng-sanh khiến biết thấy khắp cả. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai, lúc tu hành hạnh bồ-tát như vậy, 
	thấy các chúng-sanh chẳng tu công-đức, không có trí-huệ, chắp ngã ngã-sở 
	vô-minh che chướng, chẳng chánh tư-duy, vào các tà kiến, chẳng biết nhân 
	quả, thuận phiền-não nghiệp, sa vào hầm sâu hiểm nạn sanh tử. Thọ đủ 
	vô-lượng những sự khổ, khởi tâm đại-bi, tu đủ tất cả ba-la-mật hạnh. Vì các 
	chúng-sanh mà tán dương thiện-căn kiên-cố, cho họ an-trụ xa rời khổ nghèo 
	cùng sanh tử, siêng tu pháp trợ-đạo phước trí. Vì họ mà nói những môn nhân 
	quả. Vì họ mà nói nghiệp báo chẳng trái nhau. Vì họ mà nói chỗ chứng nhập 
	của pháp. Vì họ mà nói tất cả chúng-sanh hiểu biết và muốn thích, và nói tất 
	cả quốc độ thọ sanh, khiến họ chẳng dứt tất cả phật-chủng, khiến họ thủ hộ 
	tất cả phật-giáo, khiến họ rời bỏ tất cả các ác. Lại vì họ mà tán dương pháp 
	trợ-đạo xu hướng nhất-thiết-trí, khiến các chúng-sanh hoan hỉ, khiến hành 
	pháp-thí nhiếp khắp tất cả, khiến họ phát khởi hạnh nhất-thiết-trí, khiến họ 
	tu học đạo ba-la-mật của chư đại Bồ-Tát, khiến họ tăng trưởng những 
	thiện-căn-hải thành nhất-thiết-trí, khiến họ đầy đủ tất cả thánh-tài, khiến 
	họ được nhập môn tự-tại của Phật. Khiến họ nhiếp-thủ vô-lượng phương-tiện, 
	khiến họ quán thấy oai-đức của Như-Lai, khiến họ an-trụ bồ-tát trí-huệ. 
	
	Thiện-Tài thưa: Đức Thánh phát tâm vô-thượng bồ-đề đã bao lâu? 
	
	Dạ-Thần nói: Nầy thiện-nam-tử! Việc nầy khó tin, khó hiểu, khó vào, khó nói, 
	tất cả thế-gian và hàng Nhị-Thừa đều chẳng biết được, chỉ trừ thần-lực của 
	Phật gia-hộ, thiện-hữu nhiếp-thọ, chứa thắng công-đức, chí nguyện 
	thanh-tịnh, không tâm hạ-liệt, không tâm tạp nhiễm, không tâm siểm khúc, 
	được tâm trí quang-minh khắp soi sáng, phát tâm nhiêu ích khắp các 
	chúng-sanh, tâm mà tất cả phiền-não nhẫn đến chúng ma không phá hoại được, 
	khởi tâm quyết thành-tựu nhất-thiết-trí, tâm chẳng thích tất cả sự vui sanh 
	tử, có thể cầu tất cả diệu-lạc của chư Phật, có thể diệt tất cả khổ-não của 
	chúng-sanh, có thể tu công-đức của tất cả Phật, có thể quán thật tánh của 
	tất cả pháp, có thể đủ tất cả tín-giải thanh-tịnh, có thể siêu tất cả nước 
	độc sanh-tử, có thể nhập tất cả trí-hải của Như-Lai, có thể quyết định đến 
	pháp-thành vô-thượng, có thể dũng-mãnh nhập cảnh-giới Như-Lai, có thể mau 
	chóng đến địa vị chư Phật, có thể liền thành-tựu sức nhất-thiết-trí, có thể 
	ở nơi thập-lực đã được rốt ráo. Người như vậy ở nơi đây có thể trì, có thể 
	nhập, có thể rõ. 
	
	Tại sao vậy? Vì đây là cảnh-giới trí-huệ của Như-Lai, tất cả Bồ-Tát còn 
	chẳng biết được huống là những chúng-sanh khác. Nhưng nay ta do oai-lực của 
	đức Phật, muốn khiến chúng-sanh điều thuận đáng được hóa độ, ý họ mau 
	thanh-tịnh. Muốn khiến chúng-sanh tu tập thiện-căn, tâm họ được tự-tại. Nên 
	theo chỗ hỏi của ngươi mà ta tuyên nói. 
	
	Bấy giờ Dạ-Thần Khai-Phu-Nhất-Thiết-Thọ-Hoa muốn tuyên lại nghĩa nầy, 
	quán-sát cảnh-giới của tam-thế Như-Lai mà nói kệ rằng: 
	
	Phật-tử ngươi đã hỏi 
	
	Cảnh-giới Phật rất sâu 
	
	Nam-tư sát-trần kiếp 
	
	Nói đó chẳng thể hết 
	
	Chẳng phải tham sân si 
	
	Kiêu-mạn phiền-não che 
	
	Những chúng-sanh như vậy 
	
	Biết được Phật diệu-pháp. 
	
	Chẳng phải bỏn-sẻn ganh 
	
	Siểm khúc những ý trược 
	
	Nghiệp phiền-não che đậy 
	
	Mà biết được Phật-cảnh. 
	
	Chẳng phải chấp uẩn xứ 
	
	Và chắp thân hữu-lậu 
	
	Người kiến-đảo tưởng-đảo 
	
	Biết được Phật giác-ngộ. 
	
	Phật cảnh-giới tịch-tịnh 
	
	Tánh tịnh rời phân-biệt. 
	
	Chẳng phải chấp ba cõi 
	
	Biết được pháp-tánh nầy. 
	
	Sanh nơi nhà chư Phật 
	
	Được chư Phật thủ hộ 
	
	Người trì Phật pháp-tạng 
	
	Cảnh-giới của trí-nhãn. 
	
	Gần-gũi thiện-tri-thức 
	
	Mến thích pháp bạch tịnh 
	
	Siêng cầu chư Phật lực 
	
	Nghe pháp nầy hoan-hỉ. 
	
	Tâm tịnh vô-phân-biệt 
	
	Dường như thái-hư-không 
	
	Đèn trí-huệ phá tối 
	
	Cảnh-giới của người nầy. 
	
	Dùng ý đại từ-bi 
	
	Che khắp các thế-gian 
	
	Tất cả đều bình-đẳng 
	
	Cảnh-giới của người nầy. 
	
	Hoan-hỉ tâm vô-trước 
	
	Tất cả đều xả được 
	
	Bình-đẳng thí chúng-sanh 
	
	Cảnh-giới của người nầy. 
	
	Tâm tịnh rời các ác 
	
	Rốt ráo không hối hận 
	
	Thuận hành chư Phật giáo 
	
	Cảnh-giới của người nầy. 
	
	Biết rõ pháp tự-tánh 
	
	Nhẫn đến các nghiệp-chủng 
	
	Tâm họ không động loạn 
	
	Cảnh-giới của người nầy. 
	
	Dũng-mãnh siêng tinh-tấn 
	
	An-trụ tâm bất thối 
	
	Siêng tu nhất-thiết-trí 
	
	Cảnh-giới của người nầy. 
	
	Tâm họ tịch-tịnh trụ tam-muội 
	
	Rốt ráo thanh-lương không nhiệt não 
	
	Đã tu nhân nhất-thiết-trí hải 
	
	Là giải-thoát của người chứng ngộ. 
	
	Khéo biết tất cả tướng phân-biệt 
	
	Thâm nhập vô-biên môn pháp-giới 
	
	Độ khắp quần-sanh không sót thừa 
	
	Là giải-thoát của bậc trí-huệ. 
	
	Rõ tánh chân thiệt của chúng-sanh 
	
	Chẳng chấp tất cả biển hữu-lậu 
	
	Như bóng hiện khắp trong tâm thủy 
	
	Là giải thoát của người chánh-đạo. 
	
	Từ nơi tất cả tam-thế Phật 
	
	Phương-tiện nguyện-chủng mà xuất sanh 
	
	Tận những kiếp sát siêng tu hành 
	
	Là giải-thoát của bực Phổ-Hiền. 
	
	Vào khắp tất cả môn pháp-giới 
	
	Đều thấy mười phương những sát-hải 
	
	Cũng thấy trong đó kiếp thành hoại 
	
	Mà tâm rốt ráo vô-phân-biệt. 
	
	Trong những vi-trần của pháp-giới 
	
	Đều thấy Như-Lai ngồi đạo-thọ 
	
	Thành-tựu bồ-đề độ quần-sanh 
	
	Là giải-thoát của vô-ngại-nhãn. 
	
	Ngươi ở vô-lượng đại-kiếp-hải 
	
	Thân-cận cúng-dường thiện-tri-thức 
	
	Vì lợi quần sanh cầu chánh-pháp 
	
	Nghe rồi ghi nhớ không quên sót. 
	
	Tỳ-Lô-Giá-Na cảnh rộng lớn 
	
	Vô-lượng vô-biên chẳng thể suy 
	
	Ta thừa Phật-lực nói với ngươi 
	
	Cho ngươi thâm-tâm càng thanh-tịnh. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Thuở xưa quá thế-giới-hải vi-trần-số kiếp, có thế-giới-hải 
	tên là Phổ-Quang-Minh-Chơn-Kim-Ma-Ni-Sơn. Trong thế-giới-hải nầy có Phật 
	xuất hiện hiệu là Phổ-Chiếu-Pháp-Giới Trí-Huệ-Sơn-Tịch-Tịnh-Oai-Đức-Vương. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Lúc đức Phật ấy tu hạnh bồ-tát, nghiêm-tịnh thế-giới-hải 
	đó. Trong thế-giới-hải đó có thế-giới vi-trần-số thế-giới-chủng. Mỗi 
	thế-giới-chủng có thế-giới vi-trần-số thế-giới. Mỗi thế-giới đều có Như-Lai 
	xuất thế. Mỗi Như-Lai diễn nói thế-giới vi-trần-số tu-đa-la. Mỗi tu-đa-la 
	thọ-ký cho phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát, hiện những thần-lực, nói những 
	pháp-môn, độ vô-lượng chúng-sanh. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Trong thế-giới-hải Phổ-Quang-Minh-Chơn-Kim-Ma-Ni-Sơn, có 
	thế-giới-chủng tên là Phổ-Trang-Nghiêm-Tràng. 
	
	Trong thế-giới-chủng ấy có thế-giới tên là 
	Nhất-Thiết-Bửu-Sắc-Phổ-Quang-Minh. Thể chất bằng 
	Hiện-Nhất-Thiết-Hóa-Phật-Ảnh-Ma-Ni-Vương, hình như thành quách cõi trời. 
	Hạ-tế làm bằng Hiện-Nhất-Thiết-Như-Lai-Đạo-Tràng-Ảnh-Tượng-Ma-Ni-Vương, 
	an-trụ trên biển Nhất-Thiết-Bửu-Hoa. Thế-giới ấy tịnh uế lẫn lộn. Trong 
	thế-giới nầy có tu-di-sơn vi-trần-số tứ-thiên-hạ. Chính giữa có một 
	tứ-thiên-hạ tên là Nhất-Thiết-Bửu-Sơn-Tràng, Tứ-thiên-hạ ấy, mỗi thiên-hạ 
	ngang dọc đều một vạn do-tuần. Mỗi thiên-hạ đều có một vạn thành lớn. 
	
	Trong Diêm Phù Đề ấy có một Vương-Đô tên là Kiên-Cố-Diệu-Bửu-Trang 
	Nghiêm-Vân-Đăng, một vạn đại-thành rải-rác bao quanh. 
	
	Thời kỳ người Diêm-Phù-Đề thọ-mạng vạn năm, có vua tên là 
	Nhứt-Thiết-Pháp-Ấm-Viên-Mãn-Cái. Có năm trăm Đại-Thần, sáu vạn thế-nữ, bảy 
	trăm Vương-Tử. Những Vương-Tử nầy đều đoan-chánh dũng kiện có oai-lực lớn. 
	
	Đức Vua ấy có oai-đức ban bố khắp Diêm-Phù-Đề, không có kẻ oán địch. 
	
	Thế-giới ấy, lúc kiếp sắp tận, có năm thứ trược phát khởi, nhơn chúng 
	thọ-mạng ngắn-ngủi, của cải thiếu thốn, thân hình xấu xí, nhiều khổ ít vui, 
	chẳng tu thập thiện, chuyên làm nghiệp ác. Giận gây hủy nhục nhau, làm quyến 
	thuộc người xa lìa, ganh ghét hạnh phúc của người, kiến chấp tà vạy, tham 
	cầu phi-pháp. 
	
	Do nhơn duyên ấy nên mưa gió bất thường, lúa mạ chẳng tốt, vườn tược cây cối 
	khô cằn, nhơn dân đói kém, nhiều bệnh tật, tản cư bốn phương không biết 
	nương tựa vào đâu nên đều đến ở quanh Vương Đô số đông đến trăm ngàn vạn ức, 
	to tiếng kêu gào, hoặc giơ tay, hoặc chắp tay, hoặc cuối đầu, hoặc quì gối, 
	hoặc nhảy nhót, đầu tóc rối tung y phục rách rưới, da thứa nhăn nứt, mặt mắt 
	mất thần, đồng hướng về cung vua kêu van rằng: 
	
	Đại-Vương! Đại-Vương! Chúng tôi ngày nay nghèo cùng đói rách, bệnh tật khốn 
	khổ, không chỗ nương tựa, không biết kêu cứu vào đâu. Chúng tôi đồng về 
	nương với Đại-Vương. 
	
	Đại-Vương là bực nhơn-từ trí-huệ, chúng tôi mong được Đại-Vương ban cho an 
	lạc, ban cho sự sống. Xin Đại-Vương thương xót chúng tôi, nhiếp thọ chúng 
	tôi. Đại-Vương là bửu-tạng, là cầu đò, là đường sá, là thuyền bè, là hòn đảo 
	châu báu, là tài lợi, là thiên-cung của chúng tôi. 
	
	Nhà vua nghe lời kêu than của dân-chúng liền được trăm vạn vô-số môn đại-bi. 
	Nhứt tâm tư-duy phát khởi mười thứ đại-bi-ngữ: 
	
	Một là: Thương thay chúng-sanh sa vào hố lớn sanh tử không đáy, ta phải làm 
	cách nào để cứu họ, cho họ an trụ nơi bực nhứt-thiết-trí. 
	
	Hai là: Thương thay chúng-sanh bị bức ngặt bởi phiền-não, ta phải làm cách 
	nào cứu hộ họ, cho họ an trụ nơi tất cả nghiệp lành. 
	
	Ba là: Thương thay chúng-sanh bị khủng bố bởi sanh lão bệnh tử, ta phải làm 
	cách nào cho họ về nương, cho họ vĩnh viễn được thân tâm an lạc. 
	
	Bốn là: Thương thay chúng-sanh thường bị thế-gian đại-chúng làm ngặt làm 
	khiếp, ta phải làm thế nào hộ trợ họ, cho họ an trụ đạo nhứt-thiết-trí. 
	
	Năm là: Thương thay chúng-sanh không có trí-nhãn thường bị thân-kiến nghi 
	lầm che đậy, ta phải dùng phương-tiện gì cho họ mau giải quyết kiến chấp. 
	
	Sáu là: Thương thay chúng-sanh thường bị si tối làm mê lầm, ta phải thế nào 
	để làm đèn sáng cho họ soi thấy thành nhứt-thiết-trí. 
	
	Bảy là: Thương thay chúng-sanh thường bị xan tật siểm cuống làm nhơ đục, ta 
	phải thế nào để khai hiểu họ, cho họ chứng được pháp-thân thanh-tịnh. 
	
	Tám là: Thương thay chúng-sanh mãi trôi chìm trong biển lớn sanh tử, ta phải 
	vớt đưa họ thế nào cho họ được lên bờ bồ-đề. 
	
	Chín là: Thương thay chúng-sanh các căn cang cường khó điều khó phục, ta 
	phải điều-ngự họ thế nào cho họ được đầy đủ thần-lực của Phật. 
	
	Mười là: Thương thay chúng-sanh như kẻ mù lòa chẳng thấy đường sá, ta phải 
	dẫn dắt họ thế nào cho họ được vào cửa nhất-thiết-trí. 
	
	Nói như thế xong, đức vua truyền đánh trống ban lịnh: 
	
	Nay đức vua bố-thí khắp tất cả chúng-sanh, tùy theo nhu cầu đều làm cho đầy 
	đủ cả. 
	
	Vua lại ban lịnh cho tất cả thành trong Diêm-Phù-Đề và các tụ-lạc đều khai 
	kho chẩn tế, những là vàng bạc, lương thực, y-phục, thuốc men, đồ dùng, 
	giường ghế, nhà cửa, châu báu, xe cộ, lụa là gấm vóc đều đem bố-thí. Nhẫn 
	đến đức Vua có thể sẻ xả thí cung-điện, vợ con, vương-vị, da thịt, tay chưn, 
	môi răng, miệng lưỡi, mũi tai, đầu mắt, tâm can tỳ phế. 
	
	Phía đông của Vương-đô có cổng tên là Ma-Ni Sơn-Quang Minh. Ngoài cổng thành 
	ấy có hội-trường bố-thí rộng rãi bằng phẳng trống trải rất mực trang-nghiêm, 
	đều là quả-báo do tịnh-nghiệp của Bồ-Tát. 
	
	Trong thí-hội nầy có tòa sư-tử, đất bằng mười thứ báu, lan can mười thứ báu, 
	mười thứ cây báu bao quanh, dưới là kim-cang bửu-luân. Dùng tất cả thứ báu 
	làm tượng long-thần cầm bửu-vật để trang-sức hội-trường, tràng phan bày 
	hàng, lưới báu giăng che, vô-lượng thứ hương luôn phất mùi thơm vi-diệu, 
	hàng lụa báu đẹp trải giăng khắp nơi, trăm ngàn âm nhạc luôn hòa tấu. 
	
	Lại có bửu-cái thường phóng vô lượng bửu-quang-minh như vàng diêm-phù-đàn 
	hực hở thanh-tịnh. Những anh-lạc bửu-linh hằng phát ra âm thanh vi-diệu 
	khuyên các chúng-sanh tu hành nghiệp lành. 
	
	Lúc đó đức Vua ngự tòa sư tử, hình dung đoan chánh đủ những tướng tốt, thân 
	na-la-diên không hư hoại, tánh hiền thiện, tài pháp hai thứ đều tự-tại, biện 
	luận vô-ngại trí-huệ siêu phàm, trị nước không ai trái mạng lịnh. 
	
	Bấy giờ vô-lượng vô-số chúng-sanh trong Diêm-Phù-Đề đua nhau đến hội-trường 
	bố-thí nầy, thấy đức vua ngự trên tòa sư-tử, đều cho là người đại trí, đại 
	phước, là bực đủ đức đủ hạnh đủ nguyện, là nhà đại thí-chủ. 
	
	Nhà vua thấy những người đến cầu xin liền sanh lòng bi mẫn, lòng hoan-hỉ, 
	lòng tôn trọng, lòng thiện-hữu, lòng quảng-đại, lòng tương-tục, lòng 
	tinh-tấn, lòng bất-thối, lòng thí xả, lòng châu biến. 
	
	Lòng hoan-hỉ trong giây lát của nhà vua khi thấy những người đến xin còn hơn 
	sự khoái lạc trong trăm ngàn ức na-do-tha kiếp của Đao-Lợi Thiên-Vương, 
	Dạ-ma Thiên-Vương, Đâu-Suất-Đà Thiên-Vương, nhẫn đến hơn cả sự vui tịch-tịnh 
	trong bất khả-thuyết kiếp của Tịnh-Cư Thiên Vương. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Ví như có người nhơn từ hiếu hữu gặp loạn lạc cha mẹ vợ 
	con huynh đệ tỷ muội đều thất lạc, tình cờ được đoàn tụ đông đủ thời sự vui 
	mừng biết ngần nào. 
	
	Lòng hoan-hỉ của nhà vua khi thấy những người đến cầu xin cũng như vậy. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Nhà vua ấy nhờ thiện-tri-thức nên được tăng trưởng 
	tri-giải và chí nguyện nơi phật bồ-đề, các căn thành-tựu, tín tâm thanh-tịnh 
	hoan-hỉ viên mãn. 
	
	Tại sao vậy? Vì nhà vua là bực Bồ-Tát siêng tu các công-hạnh cầu 
	nhứt-thiết-trí. Nguyện được lợi-ích tất cả chúng-sanh. Nguyện được bồ-đề 
	vô-lượng diệu-lạc. Rời bỏ tất cả những tâm bất-thiện. Thường thích chứa nhóm 
	tất cả thiện-căn. Thường nguyện cứu hộ tất cả chúng-sanh. Thường thích 
	quán-sát đạo trí-huệ. Thường ham tu hành pháp nhứt thiết-trí. 
	
	Làm thỏa mãn nguyện vọng của tất cả chúng-sanh. Vào biển lớn công-đức của 
	tất cả Phật. Phá tất cả núi ma nghiệp hoặc chướng. Tùy thuận giáo-hạnh của 
	tất cả Như-Lai. Thật hành đạo nhất-thiết-trí vô-ngại. Đã có thể thâm nhập 
	dòng nhất-thiết-trí. Tất cả pháp-lưu thường hiện tiền. 
	
	Đại nguyện vô-tận làm Đại-Trượng-Phu, trụ pháp đại-nhân. Chứa nhóm tất cả 
	tạng lành phổ-môn, lìa tất cả chấp, chẳng nhiễm tất cả cảnh-giới thế-gian. 
	Biết các pháp-tánh dường như hư-không. Với những người đến xin xem như con 
	một, xem như cha mẹ, xem là phước-điền, xem là khó được, xem là ân-nhân, xem 
	là chỗ bền chắc, xem là Thầy, là Phật. Chẳng chọn xứ sở, chẳng lựa chủng 
	tộc, chẳng phân hình mạo. 
	
	Tùy theo chỗ muốn của họ, nhà vua vẫn một tâm từ-bi bình-đẳng vô-ngại cung 
	cấp đầy đủ cho tất cả. Người cầu lương thực thời cho lương thực. Người xin y 
	phục thời cho y-phục. Người xin vàng bạc thời cho vàng bạc. Nhẫn đến những 
	người cầu xin xe cộ, ruộng vườn, nhà cửa, voi ngựa, châu báu, phan lọng, 
	hương hoa, quyến-thuộc vân-vân, nhà vua đều cấp cho tất cả. 
	
	Trong thí-hội nầy có Trưởng-Giả-Nữ tên là Bửu-Quang-Minh cùng sáu mươi 
	đồng-nữ câu hội, hình dung đoan chánh đẹp lạ, mọi người thích thấy da màu 
	chơn-kim, tóc và mắt màu xanh biếc thân phát mùi thơm, miệng diễn Phạm-âm, 
	bửu-y thượng diệu trang-nghiêm trên thân, thường có lòng tàm quý chánh-niệm 
	chẳng loạn, đầy đủ oai nghi cung-kính sư-trưởng, thường nhớ thuận hành công 
	hạnh vi-diệu thậm-thâm, những pháp đã nghe ghi nhớ chẳng quên, thiện-căn đời 
	trước chảy nhuầu nơi tâm, thanh-tịnh quảng-đại dường như hư-không, khắp an 
	lợi chúng-sanh, thường thấy chư Phật cầu nhất-thiết-trí. 
	
	Bấy giờ nàng Bửu-Quang-minh cách đức Vua không xa, chắp tay đảnh lễ, tự nghĩ 
	rằng: Tôi được lợi lành tôi được lợi lành. Nay tôi được thấy bực 
	thiện-tri-thức. Nơi nhà vua, nàng nghĩ là Đại-Sư, là thiện-tri-thức, là đủ 
	từ-bi, là hay nhiếp thọ. Tâm nàng chánh-trực rất vui mừng, liền cổi anh-lạc 
	dâng lên vua mà nguyện rằng: 
	
	Nay Đại-Vương nầy làm chỗ nương cho vô-lượng vô-biên chúng sanh mê tối, 
	nguyện ngày sau tôi cũng như vậy. 
	
	Như đại-Vương đây, những pháp đã biết, thừa đã theo, đạo đã tu, sắc tướng đã 
	đủ, tài sản đã có, chúng-hội đã nhiếp vô-biên, vô-tận, khó hơn khó hoại 
	nguyện ngày sau tôi đều được như vậy. Đức vua đây sanh ở đâu tôi đều theo 
	sanh nơi đó. 
	
	Đức vua biết nàng ấy phát tâm như vậy nên bảo rằng: Nầy Đồng-Nữ! Tùy ý nàng 
	muốn ta đều cấp cho. Tất cả sở-hữu nay ta đều xả cả, cho các chúng-sanh đều 
	được đầy đủ. 
	
	Nghe đức vua nói, nàng Bửu-Quang-Minh rất hoan-hỷ tín tâm thanh-tịnh, liền 
	nói kệ ca ngợi đức vua: 
	
	Thuở xưa thành ấp nầy 
	
	Lúc chưa có Đại-Vương 
	
	Không có mảy-may vui 
	
	Dường như xứ ngạ-quỷ. 
	
	Chúng-sanh sát hại nhau 
	
	Cướp trộm và dâm dật, 
	
	Lưỡng-thiệt nói dối trá 
	
	Lời thô ác vô nghĩa, 
	
	Tham lam tài vật người 
	
	Sân hận lòng độc ác, 
	
	Tà-kiến làm điều quấy 
	
	Chết rồi đọa ác-đạo. 
	
	Bởi những chúng-sanh nầy 
	
	Bị ngu si che đậy 
	
	Ở trong điên-đảo kiến 
	
	Trời ít khi ban lành. 
	
	Vì không mưa phải mùa 
	
	Ngũ cốc đều chẳng mọc 
	
	Cỏ cây nhiều khô héo 
	
	Sông suối cũng khô cạn. 
	
	Lúc chưa có Đại-Vương 
	
	Sông ao đều khô cạn 
	
	Thây chết chật trong vườn 
	
	Nhìn đó như đồng hoang. 
	
	Đại-Vương lên ngôi báu 
	
	Rộng cứu những quần-sanh 
	
	Mây mát che tám phương 
	
	Khắp nơi đều mưa xuống. 
	
	Đại-Vương cai trị dân 
	
	Dứt hết những ngược ác 
	
	Hình ngục đều dẹp bỏ 
	
	Kẻ côi cùng được an 
	
	Ngày trước các chúng-sanh 
	
	Thường tàn sát lẫn nhau 
	
	Uống máu và ăn thịt. 
	
	Nay đều sanh lòng từ. 
	
	Ngày trước các chúng-sanh 
	
	Nghèo cùng thiếu y-phục 
	
	Dùng cỏ tự che thân 
	
	Gầy xấu như ngạ-quỷ. 
	
	Khi Đại-Vương trị vì 
	
	Lúa tốt tự-nhiên sanh 
	
	Trong cây sanh y-phục 
	
	Nam Nữ đều xinh đẹp 
	
	Ngày trước người tham lam 
	
	Phi pháp lấn đoạt nhau, 
	
	Nay thời đều giàu đủ 
	
	Như khu vườn Đế-Thích. 
	
	Ngày trước người làm ác 
	
	Dâm dật sanh tham nhiễm 
	
	Vợ người và đồng-nữ 
	
	Cùng xâm bức lẫn nhau. 
	
	Nay thấy vợ con người 
	
	Xinh đẹp trang sức khéo 
	
	Mà lòng không nhiễm trước 
	
	Giống như trời Tri-Túc. 
	
	Ngày trước các chúng-sanh 
	
	Nói dối chẳng chơn thiệt 
	
	Phi-pháp không lợi ích 
	
	Nịnh hót lấy lòng người. 
	
	Nay tất cả mọi người 
	
	Đều bỏ lời nói ác 
	
	Lòng họ rất nhu nhuyến 
	
	Lời nói cũng điều thuận. 
	
	Ngày trước các chúng-sanh 
	
	Làm nhiều hạnh tà vạy 
	
	Chắp tay cung kính lạy 
	
	Những trâu, bò, heo, dê, 
	
	Nay theo pháp của vua 
	
	Tỏa ngộ trừ tà-kiến 
	
	Biết rõ báo khổ vui 
	
	Đều từ nhơn duyên khởi. 
	
	Đại-Vương diễn diệu-âm 
	
	Người nghe đều vui mừng 
	
	Ấm thanh của Thích, Phạm 
	
	Tất cả không bằng được. 
	
	Đại-Vương những bửu-cái 
	
	Ở cao trên không-trung 
	
	Cán bằng ngọc lưu-ly 
	
	Trùm bằng lưới ma-ni, 
	
	Linh vàng tự nhiên phát 
	
	Tiếng Phật rất hòa nhã 
	
	Tuyên dương pháp vi-diệu 
	
	Diệt trừ chúng-sanh mê 
	
	Kế lại rộng diễn thuyết 
	
	Mười phương các cõi phật 
	
	Trong tất cả những kiếp 
	
	Như-Lai và quyến-thuộc. 
	
	Và lại thứ đệ nói 
	
	Quá-khứ mười phương cõi 
	
	Và trong quốc-độ đó 
	
	Tất cả các Như Lai. 
	
	Lại phát tiếng diệu-âm 
	
	Khắp cõi Diêm-Phù-Đề 
	
	Nói rộng về Nhơn Thiên 
	
	Những nghiệp làm sai khác. 
	
	Chúng-sanh nghe tiếng nầy 
	
	Tự biết những hạnh nghiệp 
	
	Bỏ ác siêng tu hành 
	
	Hồi-hướng Phật bồ-đề. 
	
	Vương-phụ: Tịnh-Quang-Minh, 
	
	Vương-Mẫu: Liên-Hoa-Quang, 
	
	Thuở ngũ trược xuất hiện 
	
	Ở ngôi trị thiên-hạ. 
	
	Bấy giờ có vườn rộng. 
	
	Vườn có năm trăm ao 
	
	Mỗi ao ngàn cây lớn 
	
	Trên cây đầy những hoa. 
	
	Ở trên bờ ao ấy 
	
	Xây dựng nhà ngàn cột 
	
	Lan-can rất trang-nghiêm 
	
	Không gì là chẳng đủ. 
	
	Mạt-thế khởi ác-pháp 
	
	Nhiều năm chẳng có mưa 
	
	Sông ao đều khô cạn 
	
	Cỏ cây cũng héo rũ. 
	
	Bảy ngày trước vua sanh 
	
	Trước hiện tướng linh thoại, 
	
	Người thấy đều nghĩ rằng 
	
	Bực cứu thế sẽ hiện. 
	
	Bấy giờ vào giữa đêm 
	
	Đại-địa động sáu cách 
	
	Có một ao bửu-hoa 
	
	Quang-minh như trời sáng. 
	
	Trong vườn năm trăm ao 
	
	Đầy nước bát công-đức, 
	
	Cây khô đều đâm chồi 
	
	Hoa lá đều tươi tốt. 
	
	Nước ao đã đầy tràn 
	
	Chảy lan tất cả xứ 
	
	Khắp cả cõi Diêm-Phù 
	
	Không đâu chẳng nhuần ướt. 
	
	Dược thảo và cây cối 
	
	Trăm thứ lúa đậu thảy 
	
	Nhánh lá bông trái hột 
	
	Tất cả đều sum-sê 
	
	Rãnh mương và gò nổng 
	
	Những nơi cao và thấp 
	
	Tất cả những chỗ ấy 
	
	Tự-nhiên bằng phẳng cả. 
	
	Gai gốc cát sỏi thảy 
	
	Bao nhiêu những tạp uế 
	
	Đều ở trong một niệm 
	
	Biến thành những ngọc báu. 
	
	Chúng-sanh thấy sự nầy 
	
	Hoan-hỉ mà ca ngợi 
	
	Đều nói mình được lợi 
	
	Như khát uống nước ngọt. 
	
	Bấy giờ vua Quang-Minh 
	
	Cùng vô-lượng quyến-thuộc 
	
	Xe giá đồng du ngoạn 
	
	Đi xem khắp khu vườn. 
	
	Trong số năm trăm ao 
	
	Có ao tên Khánh-Hỉ 
	
	Trên ao có Pháp-Đường 
	
	Phụ-Vương ngự nơi đây. 
	
	Tiên-Vương bảo Phu-Nhơn : 
	
	Ta nhớ bảy ngày trước 
	
	Giữa đêm đất chấn động 
	
	Trong đây phát ánh sáng 
	
	Bấy giờ trong ao đó 
	
	Mọc bông sen ngàn cánh 
	
	Sáng như ngàn mặt nhựt 
	
	Chói đến đảnh Tu-di, 
	
	Cộng hoa bằng kim-cang, 
	
	Đài hoa vàng Diêm-Phù, 
	
	Cánh hoa bằng những báu 
	
	Diệu hương làm nhụy tua 
	
	Đức Vua sanh trên hoa 
	
	Ngồi kiết-già đoan trang 
	
	Trang-nghiêm với tướng hảo 
	
	Thiên-Thần đều cung kính. 
	
	Tiên-Vương rất hoan-hỉ 
	
	Tự vào ao ẵm lên 
	
	Đem trao cho Phu-Nhơn 
	
	Bà nên mừng được con. 
	
	Liền đó tạng báu hiện, 
	
	Cây báu sanh diệu-y, 
	
	Thiên-nhạc tấu mỹ-âm, 
	
	Sung-mãn trong hư-không. 
	
	Tất cả các chúng-sanh 
	
	Đều sanh lòng hoan hỉ 
	
	Chắp tay khen hi-hữu 
	
	Đấng cứu thế ra đời. 
	
	Thân vua phóng quang-minh 
	
	Chiếu khắp cả mọi nơi 
	
	Làm cho tứ thiên-hạ 
	
	Hết tối, trừ bệnh tật. 
	
	Dạ-Xoa, Tỳ-Xá-Xà, 
	
	Độc-trùng các ác-thú 
	
	Những thứ muốn hại người 
	
	Tất cả đều ẩn trốn. 
	
	Tiếng xấu và thất lợi 
	
	Tai họa cùng bệnh tật 
	
	Tất cả khổ đều diệt 
	
	Mọi người đều hoan hỉ. 
	
	Phàm là chúng-sanh loại 
	
	Xem nhau như cha mẹ 
	
	Bỏ ác sanh lòng lành 
	
	Chuyên cầu nhất-thiết-trí. 
	
	Đóng bít các ác thú 
	
	Mở bày đường nhân thiên 
	
	Tuyên dương đạo trí-huệ 
	
	Độ thoát các quần-sanh. 
	
	Chúng tôi thấy Đại-Vương 
	
	Được những lợi lành lớn 
	
	Làm cho người cô cùng 
	
	Tất cả đều an lạc. 
	
	Bửu-Quang-Minh đồng-nữ nói kệ ca ngợi vua Nhất-Thiết-Pháp-Ấm-Viên-Mãn-Cái 
	rồi đi nhiễu vô-lượng vòng, cung kính đảnh lễ chắp tay đứng qua một bên. 
	
	Đại-Vương bảo Đồng-Nữ: Lành thay! Đồng-nữ có thể tin biết công-đức của người 
	khác. Sự ấy rất là hi-hữu. 
	
	Này Đồng-nữ! Tất cả chúng-sanh chẳng thể tin biết công-đức của người khác. 
	
	Nầy đồng-nữ! Tất cả chúng-sinh chẳng biết báo ân, không có trí-huệ, tâm họ 
	trược loạn, tánh chẳng sáng tỏ, vốn không chí-lực lại thối thất sự tu hành. 
	Những người như vậy chẳng tin chẳng biết thần thông trí-huệ và công-đức của 
	Bồ-Tát và chư Phật. 
	
	Nay đồng-nữ quyết định cầu đến bồ-đề, biết được công-đức của Bồ-Tát như vậy. 
	Ngươi sanh trong Diêm-Phù-Đề này phát tâm dũng-mãnh nhiếp khắp chúng-sanh 
	công chẳng uổng bỏ, rồi đây ngươi cũng sẽ thành-tựu công đức như vậy. 
	
	Đức Vua khen đồng-nữ xong, tự tay cầm bửu y vô-giá trao cho đồng-nữ và 
	quyến-thuộc của đồng-nữ mà bảo từng người rằng: ngươi mặc y nầy. Các đồng-nữ 
	quỳ gối hai tay lãnh y để trên đầu rồi mới mặc. Mặc y xong đồng hữu nhiễu 
	quanh đức Vua. Trong những bửu-y đó phát ra quang-minh tất cả tinh tú. 
	
	Mọi người thấy thế đều nói rằng các đồng-nữ nầy đều đoan chánh như sao sáng 
	trong đêm tốt trời. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Thuở xưa đó vua Nhất-Thiết-Pháp-Ấm-Viên-Mãn-Cái, chính là 
	đức Tỳ-Lô Giá Na Như-Lai hiện nay vậy. 
	
	Quang-Minh-Vương thuở xưa đó, nay là Tịnh-Phạn-Vương. 
	
	Liên-Hoa-Quang Phu-Nhân, nay là Ma-Ha Ma-Gia Phu-Nhân. 
	
	Bửu-Quang-Minh Đồng-nữ chính là thân ta đây. 
	
	Những chúng-sanh được đức Vua dùng pháp tứ nhiếp để nhiếp thọ, nay đây là 
	những Bồ-Tát bất-thối-chuyển trong pháp-hội nầy, hoặc bậc sơ-địa nhẫn đến 
	bậc thập-địa, đủ đại-nguyện, nhóm trợ-đạo, tu diệu-hạnh, đủ trang nghiêm, 
	được thần-thông, trụ giải-thoát, nay ở trong hội nầy ở nơi những cung-điện 
	diệu-pháp. 
	
	Chủ-Da-Thần Khai-Phu-Nhất-Thiết-Thọ-Hoa, muốn tuyên lại nghĩa giải-thoát 
	nầy, vì Thiện-Tài Đồng-tử mà nói kệ rằng: 
	
	Ta có quảng đại-nhãn 
	
	Thấy khắp cả mười phương 
	
	Trong tất cả sát-hải 
	
	Ngũ thú luân-hồi thảy 
	
	Cũng thấy chư Phật đó 
	
	Ngồi dưới cội bồ-đề 
	
	Thần-thông khắp mười phương 
	
	Thuyết pháp độ chúng-sanh. 
	
	Ta có thanh-tịnh-nhĩ 
	
	Nghe khắp tất cả tiếng 
	
	Cũng nghe Phật thuyết pháp 
	
	Hoan-hỉ tin thọ-trì. 
	
	Ta có tha-tâm trí 
	
	Không hai không chướng-ngại 
	
	Có thể trong một niệm 
	
	Biết rõ tất cả tâm. 
	
	Ta được túc-mạng-trí 
	
	Biết được tất cả kiếp 
	
	Thân mình và người khác 
	
	Phân biệt đều rõ ràng : 
	
	Khoảng một niệm ta biết 
	
	Sát-hải vi-trần kiếp 
	
	Chư Phật và Bồ-Tát 
	
	Chúng-sanh trong ngũ-đạo. 
	
	Nhớ biết chư Phật kia 
	
	Tối sơ phát đại-nguyện 
	
	Nhẫn đến tu các hạnh 
	
	Mỗi mỗi đều viên mãn. 
	
	Cũng biết chư Phật kia 
	
	Thành-tựu bồ-đề đạo 
	
	Dùng các môn phương-tiện 
	
	Vì chúng chuyển pháp-luân. 
	
	Cũng biết chư phật kia 
	
	Có bao nhiêu thừa-hải. 
	
	Chánh-pháp trụ lâu gần 
	
	Chúng-sanh độ nhiều ít. 
	
	Ta trong vô-lượng kiếp 
	
	Tu tập pháp-môn nầy 
	
	Nay ta vì ngươi nói 
	
	Phật-tử phải siêng học 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát bồ-tát xuất-sanh-quảng đại-hỉ 
	quang-minh nầy, như chư đại Bồ-Tát thân-cận cúng dường tất cả chư Phật vào 
	biển nhất-thiết-trí đại-nguyện, viên mãn những nguyện-hải của chư Phật. Được 
	trí dũng-mãnh nơi một bồ-tát-địa vào khắp tất cả bồ-tát-địa-hải. Được 
	thanh-tịnh-nguyện nơi một bồ-tát hạnh vào khắp tất cả bồ-tát-hạnh hải. Được 
	tự tại-lực nơi một bồ-tát giải thoát-môn vào khắp tất cả bồ-tát giải 
	thoát-môn-hải. Ta thế nào biết được nói được công-đức-hạnh đó. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Trong đạo-tràng nầy có một Dạ-Thần tên là 
	Đại-Nguyện-Tinh-Tấn-Lực-Cứu-Hộ-Nhứt-Thiết-Chúng-Sanh. 
	
	Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào giáo-hóa chúng-sanh khiến đến vô thượng 
	bồ-đề? Thế nào nghiêm-tịnh tất cả cõi phật? Thế nào thừa sự tất cả Như-Lai? 
	Thế nào tu hành tất cả phật-pháp? 
	
	Thiện-Tài đồng-tử đảnh lễ chân Dạ-Thần, hữu nhiễu vô-số vòng, ân cần 
	chiêm-ngưỡng từ tạ mà đi. 
	 
	Hán bộ quyển thứ bảy mươi ba. 
	
	Thiện-Tài đến chỗ Dạ-Thần 
	Đại-Nguyện-Tinh-Tấn-Lực-Cứu-Hộ-Nhứt-Thiết-Chúng-Sanh. Thấy Dạ-Thần nầy ở 
	trong đại-chúng ngồi tòa sư-tử 
	Phổ-Hiện-Nhứt-Thiết-Cung-Điện-Ma-Ni-Vương-Tạng. Lưới ma-ni-bửu che phía 
	trên. 
	
	Dạ-Thần nầy hiện thân nhựt nguyệt tinh tú ảnh tượng. Hiện than tùy tâm 
	chúng-sanh khiến tất cả đều thấy. Hiện thân đồng hình tướng của tất cả 
	chúng-sanh. Hiện thân sắc-tướng-hải rộng lớn vô-biên. Hiện thân khắp tất cả 
	oai nghi. Hiện thân thị-hiện khắp mười phương. Hiện thân đều phục khắp tất 
	cả chúng-sanh. Hiện thân vận thần-thông quảng đại nhanh chóng. Hiện thân lợi 
	ích chúng sanh chẳng dứt. Hiện thân thường đi trên hư-không để làm lợi ích. 
	Hiện thân đảnh lễ tại chỗ tất cả Phật. Hiện thân tu tập tất cả thiện-căn. 
	Hiện thân thọ-trì phật-pháp chẳng quên. Hiện thân thành mãn đại-nguyện 
	bồ-tát. Hiện thân quang-minh sung mãn mười phương. Hiện thân pháp-đăng khắp 
	dứt tối tăm thế-gian. Hiện thân tịnh-trí biết pháp như huyễn. Hiện thân 
	pháp-tánh xa lìa trần nhiễm. Hiện thân phổ-trí chiếu pháp rõ ràng. Hiện thân 
	rốt ráo không khổ không nóng. Hiện thân kiên-cố chẳng bị ngăn trở phá hoại. 
	Hiện thân phật-lực vô-sở-trụ. Hiện thân vô-phân-biệt ly nhiễm. Hiện thân 
	pháp-tánh bổn thanh-tịnh. 
	
	Thiện-Tài thấy phật-sát vi-trần-số thân sai-biệt như vậy, liền nhất tâm đảnh 
	lễ mọp đầu giây lâu mới đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng, nơi thiện-tri-thức 
	phát khởi mười tâm. 
	
	Một là nơi thiện-tri-thức sanh tâm đồng với mình, vì làm cho mình siêng năng 
	làm xong pháp trợ-đạo nhất-thiết-trí. 
	
	Hai là nơi thiện-tri-thức sanh tâm thanh-tịnh tự nghiệp quả, vì thân cận 
	cúng-dường sanh thiện căn. 
	
	Ba là nơi thiện-tri-thức sanh tâm trang-nghiêm bồ-tát-hạnh, vì khiến tôi có 
	thể mau trang-nghiêm tất cả bồ-tát-hạnh. 
	
	Bốn là nơi thiện-tri-thức sanh tâm thành-tựu tất cả phật-pháp, vì dạy dỗ tôi 
	tu hành đạo hạnh. 
	
	Năm là nơi thiện-tri-thức sanh tâm năng sanh, vì có thể sanh pháp vô-thượng 
	cho tôi. 
	
	Sáu là nơi thiện-tri-thức sanh tâm xuất ly, vì khiến tôi tu hành những hạnh 
	nguyện của Phổ-Hiền Bồ-Tát mà xuất ly. 
	
	Bảy là nơi thiện-tri-thức sanh tâm tròn đủ tất cả phước trí, vì khiến tôi 
	chứa nhóm những pháp lành. 
	
	Tám là nơi thiện-tri-thức sanh tâm tăng trưởng, vì khiến tôi tăng trưởng 
	nhất-thiết-trí. 
	
	Chín là nơi thiện-tri-thức sanh tâm đầy đủ tất cả thiện-căn, vì khiến tôi 
	được viên mãn chí nguyện. 
	
	Mười là nơi thiện-tri-thức sanh tâm thành xong lợi ích lớn, vì khiến tôi 
	tự-tại an trụ tất cả bồ-tát pháp, được thành đạo nhất-thiết-trí, được thành 
	tất cả phật pháp. 
	
	Thiện-Tài phát mười tâm nầy rồi, thời được phật-sát vi-trần-số đồng hạnh với 
	Dạ-Thần cùng chư Bồ-Tát. Những là: 
	
	Đồng niệm, vì tâm thường ghi nhớ thập phương tam thế tất cả chư Phật. 
	
	Đồng huệ, vì phân-biệt quyết rõ tất cả pháp-hải sai-biệt-môn. 
	
	Đồng xu hướng, vì có thể chuyển tất cả diệu-pháp-luân của chư Phật Như-Lai. 
	
	Đồng giác ngộ, vì dùng trí khắp hư-không vào khắp tất cả ba thế-gian. 
	
	Đồng căn, vì thành-tựu bồ-tát thanh-tịnh quang-minh trí-huệ-căn. 
	
	Đồng tâm, vì khéo tu tập được công-đức vô-ngại trang-nghiêm tất cả 
	bồ-tát-đạo. 
	
	Đồng cảnh, vì chiếu khắp cảnh sở hành của chư Phật. 
	
	Đồng chứng, vì được nhất-thiết-trí chiếu thiệt-tướng-hải tịnh-quang-minh. 
	
	Đồng nghĩa, vì có thể dùng trí-huệ biết tánh chân thiệt của tất cả pháp. 
	
	Đồng dũng-mãnh, vì có thể phá hoại tất cả núi chướng-ngại. 
	Đồng sắc-thân, vì tùy chúng-sanh tâm mà hiện thân. 
	
	Đồng lực, vì cầu nhất-thiết-trí chẳng thối-chuyển. 
	Đồng vô-úy, vì tâm thanh-tịnh như hư-không. 
	
	Đồng tinh-tấn, vì trong vô-lượng kiếp thật hành bồ-tát-hạnh không mỏi lười. 
	
	Đồng biện-tài, vì được pháp vô-ngại trí quang-minh. 
	Đồng vô-đẳng, vì thân-tướng thanh-tịnh siêu thế-gian. 
	
	Đồng ái-ngữ, vì làm cho tất cả chúng-sanh đều hoan-hỉ. 
	Đồng diệu-âm, vì diễn nói khắp tất cả pháp-môn. 
	
	Đồng mãn-âm, vì tất cả chúng-sanh tùy theo loài mà đều hiểu. 
	
	Đồng tịnh-đức, vì tu tập công-đức thanh-tịnh của Như-Lai. Đồng trí-địa, vì 
	lãnh thọ pháp-luân nơi tất cả Phật. 
	
	Đồng phạm-hạnh, vì an-trụ cảnh-giới của tất cả Phật. 
	
	Đồng đại-từ, vì niệm niệm che khắp tất cả quốc-độ chúng-sanh hải. 
	
	Đồng đại-bi, vì khắp mưa pháp-vũ thấm nhuần tất cả chúng-sanh. 
	
	Đồng thân nghiệp, vì dùng phương-tiện hạnh giáo-hóa tất cả chúng-sanh. 
	
	Đồng ngữ-nghiệp, vì dùng tùy loại âm diễn nói tất cả pháp-môn. 
	
	Đồng ý-nghiệp, vì nhiếp khắp chúng-sanh để trong cảnh-giới nhất-thiết-trí. 
	
	Đồng trang-nghiêm, vì nghiêm-tịnh tất cả cõi Phật. Đồng thân-cận, vì có Phật 
	xuất-thế đều gần-gũi. 
	
	Đồng khuyến thỉnh, vì thỉnh tất cả phật chuyển pháp-luân. 
	
	Đồng cúng-dường, vì thường thích cúng-dường tất cả Phật. Đồng giáo-hóa, vì 
	điều phục tất cả chúng-sanh. 
	
	Đồng quang-minh, vì chiếu rõ tất cả pháp-môn. Đồng tam-muội, vì biết khắp 
	tất cả tâm chúng-sanh. 
	
	Đồng sung mãn cùng khắp, vì dùng sức tự-tại sung mãn tất cả phật-độ tu những 
	công hạnh. 
	
	Đồng trụ xứ, vì an trụ đại thần-thông của chư Bồ-Tát. Đồng quyến-thuộc, vì 
	tất cả Bồ-Tát đồng ở chung. 
	
	Đồng nhập xứ, vì vào khắp chỗ vi-tế của thế-giới. Đồng tâm lự, vì biết khắp 
	tất cả những Phật-sát. 
	
	Đồng qua đến, vì vào khắp tất cả phật-sát-hải. 
	Đồng phương-tiện, vì đều hiện tất cả những phật-sát. 
	
	Đồng siêu-thắng, vì nơi những phật-sát đều vô-tỉ. 
	Đồng bất-thối, vì vào khắp mười phương không chướng-ngại. 
	
	Đồng phá ám, vì được tất cả Phật thành bồ-đề trí đại quang-minh. 
	
	Đồng vô-sanh-nhẫn, vì nhập tất cả phật chúng-hội-hải. 
	
	Đồng cùng khắp, vì cung kính cúng-dường chư Như-Lai trong bất-khả-thuyết cõi 
	khắp tất cả những phật-sát-võng. 
	
	Đồng trí chứng, vì biết rõ những pháp-môn-hải. Đồng tu hành, vì thuận hành 
	tất cả những pháp-môn. 
	
	Đồng mong cầu, vì nơi pháp thanh-tịnh rất thích muốn. 
	
	Đồng thanh-tịnh, vì họp phật-công-đức mà trang nghiêm thân khẩu ý. 
	Đồng diệu-ý, vì trí biết rõ tất cả pháp. 
	
	Đồng tinh-tấn, khắp vì nhóm tất cả thiện-căn. 
	Đồng tịnh-hạnh, vì thành mãn tất cả bồ-tát-hạnh. 
	
	Đồng vô-ngại, vì rõ biết tất cả pháp đều vô-tướng. 
	Đồng thiện-xảo, vì trí tự-tại trong tất cả pháp. 
	
	Đồng tùy-lạc, vì tâm chúng-sanh mà hiện cảnh-giới. 
	Đồng phương-tiện, vì khéo tu tập tất cả điều nên tập. 
	
	Đồng hộ-niệm, vì được tất cả Phật hộ-niệm. 
	Đồng nhập-địa, vì được vào tất cả bồ-tát-địa. 
	
	Đồng sở-trụ, vì an-trụ tất cả bồ-tát-vị. 
	Đồng ký-biệt, vì tất cả chư Phật thọ ký cho. 
	
	Đồng tam-muội, vì trong một sát-na vào khắp tất cả môn tam-muội. 
	Đồng kiến-lập, vì thị-hiện những phật-sự. 
	
	Đồng chánh-niệm, vì chánh-niệm tất cả cảnh giới-môn. 
	Đồng tu hành, vì tận vị-lai kiếp tu hành bồ-tát-hạnh. 
	
	Đồng tịnh-tín, vì rất mến thích vô-lượng trí-huệ của đức Như-Lai. 
	Đồng xả-ly, vì diệt trừ tất cả những chướng-ngại. 
	
	Đồng trí bất-thối, vì trí-huệ đồng với chư Như-Lai. 
	Đồng thọ-sanh, vì ứng hiện thành thục các chúng-sanh. 
	
	Đồng chỗ an trụ, vì an trụ môn phương-tiện nhứt thiết-trí. 
	Đồng cảnh-giới, vì nơi pháp-giới cảnh được tự-tại. 
	
	Đồng vô-y, vì dứt hẳn tâm sở-y.  
	Đồng thuyết pháp, vì đã nhập trí bình-đẳng của các pháp. 
	
	Đồng siêng tu, thường được chư Phật hộ niệm. 
	
	Đồng thần-thông, vì khai ngộ chúng-sanh khiến tu tất cả bồ-tát-hạnh. 
	
	Đồng thần-lực, vì có thể nhập thập phương thế-giới-hải. 
	Đồng đà-la-ni, vì chiếu khắp tất cả tổng-trì-hải. 
	
	Đồng pháp bí-mật, vì biết rõ diệu-pháp-môn trong tất cả tu-đa-la. 
	
	Đồng pháp thậm thâm, vì hiểu tất cả pháp như hư-không. 
	Đồng quang-minh, vì chiếu khắp tất cả thế-giới. 
	
	Đồng ưa thích, vì tùy tâm chúng-sanh mà khai-thị khiến họ hoan-hỉ. 
	
	Đồng chấn động, vì các chúng-sanh hiện thần-thông-lực động khắp tất cả cõi 
	mười phương. 
	
	Đồng chẳng luống uổng, vì thấy nghe nghĩ nhớ đều làm cho tâm được điều phục. 
	
	Đồng xuất ly, vì đầy đủ tất cả những đại-nguyện-hải, thành tựu mười trí-lực 
	của Như-Lai. 
	
	Thiện-Tài đồng-tử quán-sát Chủ-Dạ-Thần 
	Đại-Nguyện-Tinh-Tấn-Lực-Cứu-Hộ-Nhất-Thiết-Chúng-Sanh, Phát khởi mười tâm 
	thanh-tịnh, được phật-sát vi-trần-số đồng bồ-tát-hạnh như vậy, tâm càng 
	thanh-tịnh hơn, trịch vai áo phía hữu, đảnh lễ chắp tay nói kệ rằng: 
	
	Tôi phát ý kiên-cố 
	
	Chí cầu vô-thượng-giác 
	
	Nay nơi thiện-tri-thức 
	
	Khởi tâm là chính mình. 
	
	Bởi thấy thiện-tri-thức 
	
	Họp vô-tận pháp lành 
	
	Diệt trừ những tội nhơ 
	
	Thành tựu quả bồ-đề. 
	
	Tôi thấy thiện-tri-thức 
	
	Tâm công-đức trang-nghiêm 
	
	Tận trần kiếp vị-lai 
	
	Siêng tu đạo bồ-tát. 
	
	Tôi nhớ thiện-tri-thức 
	
	Nhiếp thọ lợi ích tôi 
	
	Vì tôi mà thị hiện 
	
	Giáo-pháp chánh chơn thiệt. 
	
	Đóng bít các ác-thú 
	
	Mở bày đường nhơn thiên 
	
	Cũng chỉ đường đại-trí 
	
	Của chư Phật đã thành. 
	
	Tôi nghĩ thiện-tri-thức 
	
	Là Phật-công-đức-tạng 
	
	Niệm niệm hay xuất sanh 
	
	Biển hư-không công-đức. 
	
	Cho tôi ba-la-mật 
	
	Thêm tôi phước vô-tận 
	
	Lớn tôi tịnh công-đức 
	
	Khiến tôi đội mão Phật. 
	
	Tôi nghĩ thiện-tri-thức 
	
	Hay mãn đạo Phật-trí, 
	
	Thệ nguyện thường y-chỉ 
	
	Viện-mãn pháp bạch tịnh. 
	
	Tôi do những sự nầy 
	
	Công-đức điều đầy đủ 
	
	Vì khắp các chúng-sanh 
	
	Nói đạo nhất-thiết-trí. 
	
	Đức Thánh là thầy tôi 
	
	Cho tôi pháp vô-thượng 
	
	Vô-lượng vô-số kiếp 
	
	Chẳng báo được ơn ngài. 
	
	Nói kệ xong, Thiện-Tài thưa rằng: Bạch Đại-Thánh! Xin vì tôi mà nói môn 
	giải-thoát nầy tên là gì? Ngài phát tâm đã được bao lâu? Chừng nào ngài sẽ 
	chứng vô-thượng bồ-đề? 
	
	Dạ-Thần nói: Nầy thiện-nam-tử! Môn giải-thoát nầy gọi là giáo-hóa chúng sanh 
	khiến sanh thiện-căn. 
	
	Vì ta thành-tựu môn giải-thoát nầy nên ngộ tất cả pháp tự-tánh bình-đẳng, 
	vào nơi tánh chơn-thiệt của các pháp, chứng pháp vô-y, bỏ rời thế-gian, đều 
	biết các pháp sắc tướng sai biệt, cũng có thể thấu rõ tánh của xanh, vàng, 
	đỏ, trắng đều chẳng thiệt. Vẫn vô sai-biệt mà hằng thị-hiện vô-lượng sắc 
	thân những là : 
	
	Nhiều loại sắc-thân, chẳng phải một sắc-thân, vô-biên sắc-thân, sắc-thân, 
	thanh-tịnh, sắc-thân tất cả trang-nghiêm, sắc-thân thấy khắp, sắc-thân đồng 
	tất cả chúng-sanh, sắc-thân hiện trước khắp tất cả chúng-sanh, sắc-thân 
	quang-minh chiếu khắp, sắc-thân thấy không nhàm, sắc-thân tướng hảo 
	thanh-tịnh, sắc-thân chói sáng rời lìa những ác tướng, sắc-thân thị-hiện đại 
	dũng-mãnh, sắc-thân rất khó được, sắc-thân tất cả thế-gian không che chướng 
	được, sắc-thân tất cả thế-gain đồng tán dương vô-tận, sắc-thân niệm-niệm 
	thường quán sát, sắc-thân thị-hiện các thứ mây, sắc-thân nhiều loài hình mạo 
	và hiển sắc, sắc-thân hiện vô-lượng sức tự-tại, sắc-thân diệu-quang-minh, 
	sắc-thân tất cả tịnh diệu trang-nghiêm, sắc-thân tùy thuận thành thục tất cả 
	chúng-sanh, sắc-thân tùy tâm mình thích hiện-tiền điều-phục, sắc-thân không 
	chướng-ngại khắp chói sáng, sắc-thân thanh-không trược-uế, sắc-thân đầy đủ 
	trang-nghiêm không hư-hoại, sắc-thân quang minh bất-tư-nghì pháp 
	phương-tiện, tất cả sắc-thân không gì chói khuất được, sắc-thân không tối 
	phá được tất cả tối, sắc-thân họp tất cả pháp bạch-tịnh, sắc-thân biển 
	công-đức đại thế-lực, sắc-thân do nhơn-hạnh cung-kính thuở quá-khứ mà sanh, 
	sắc-thân do tâm thanh-tịnh như hư-không sanh ra, sắc-thân tối-thắng 
	quảng-đại, sắc-thân vô-đoạn vô tận, sắc-thân biển quang-minh, sắc-thân nơi 
	tất cả thế-gian đều bình-đẳng không y-tựa, sắc-thân khắp mười phương 
	vô-ngại, sắc-thân niệm niệm hiện những sắc-tướng-hải, sắc-thân tăng-trưởng 
	tâm hoan-hỉ của tất cả chúng-sanh, sắc-thân nhiếp thú chúng-sanh-hải, 
	sắc-thân nơi mỗi lỗ lông diễn nói công-đức-hải của tất cả Phật, sắc-thân làm 
	thanh-tịnh dục-giải-hải của tất cả chúng-sanh, sắc-thân quyết rõ tất cả 
	pháp-nghĩa, sắc-thân không chướng-ngại khắp soi sáng, sắc-thân thanh-tịnh 
	sáng suốt khắp hư-không, sắc-thân phóng tịnh quang-minh quảng đại, sắc-thân 
	chiếu hiện pháp vô-cấu, sắc-thân vô-tỉ, sắc-thân sai-biệt trang-nghiêm, 
	sắc-thân chiếu khắp mười phương, sắc-thân tùy thời thị-hiện ứng chúng-sanh, 
	sắc-thân tịch-tịnh, sắc-thân diệt tất cả phiền-não, sắc-thân phước-điền của 
	tất cả chúng-sanh, sắc-thân tất cả chúng-sanh thấy chẳng luống uổng, 
	sắc-thân sức trí-huệ dũng-mãnh, cùng khắp vô-ngại, sắc-thân diệu-vân hiện 
	khắp thế-gian đều nhờ lợi ích, sắc-thân đầy đủ biển đại-từ, sắc-thân 
	đại-phước-đức bửu-sơn-vương, sắc-thân phóng quang-minh chiếu khắp tất cả 
	loài ở thế-gian, sắc-thân đại-trí-huệ thanh-tịnh, sắc-thân sanh chánh-niệm 
	cho chúng-sanh, sắc-thân tất cả bửu-quang-minh, sắc-thân tạng sáng khắp, 
	sắc-thân hiện những tướng thanh-tịnh thế-gian, sắc-thân cầu nhất-thiết-trí, 
	sắc-thân hiện vi-tiếu khiến chúng-sanh phát khởi lòng tin thanh-tịnh, 
	sắc-thân quang-minh tất cả bửu-trang-nghiêm, sắc-thân chẳng lấy chẳng bỏ tất 
	cả chúng-sanh, sắc-thân không quyết định không rốt ráo, sắc-thân hiện sức 
	gia-trì tự-tại, sắc-thân hiện tất cả thần-thông biến-hóa, sắc-thân sanh nhà 
	Như-Lai, sắc-thân xa lìa những ác khắp pháp-giới hải, sắc-thân hiện khắp 
	trong đạo-tràng chúng-hội của tất cả Như-Lai, sắc-thân đủ những sắc-hải, 
	sắc-thân từ thiện-hạnh lưu xuất, sắc-thân tùy chỗ đáng hóa độ mà thị-hiện, 
	sắc-thân tất cả thế-gian nhìn xem không chán, sắc-thân những tịnh 
	quang-minh, sắc-thân hiện tất cả tam-thế-hải, sắc-thân phóng tất cả 
	quang-minh-hải, sắc-thân hiện vô-lượng sai-biệt quang-minh-hải, sắc-thân 
	siêu thế-gian tất cả hương quang-minh, sắc-thân hiện bất-khả-thuyết 
	nhựt-luân-vân, sắc-thân hiện quảng-đại nguyệt-luân-vân, sắc-thân phóng 
	vô-lượng tu-di-sơn diệu-hoa-vân, sắc-thân xuất sanh những mây tràng-hoa, 
	sắc-thân hiện tất cả bửu-liên-hoa-vân, sắc-thân nổi tất cả mây hương đốt 
	khắp pháp-giới, sắc-thân rải mây tạng hương bột, sắc-thân hiện thân 
	đại-nguyện của tất cả Như-Lai, sắc-thân hiện tất cả ngữ ngôn âm thanh diển 
	pháp-hải, sắc-thân hiện tượng Phổ-Hiền Bồ-Tát. 
	
	Trong mỗi niệm hiện những sắc-tướng-thân như vậy sung mãn mười phương, khiến 
	các chúng-sanh hoặc thấy, hoặc nhớ, hoặc nghe thuyết pháp, hoặc nhơn 
	thân-cận, hoặc được khai ngộ, hoặc thấy thần-thông, hoặc thấy biến-hóa, đều 
	tùy tâm sở thích liền được điều phục bỏ nghiệp bất-thiện, an trụ nơi 
	thiện-hạnh. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Phải biết đây là do sức đại-nguyện, do sức nhất thiết-trí, 
	do sức bồ-tát giải-thoát, do sức đại-bi, do sức đại-từ, mà làm những sự như 
	vậy. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Ta nhập môn giải-thoát nầy biết rõ pháp-tánh không 
	sai-khác mà có thể thị-hiện vô-lượng sắc-thân. Mỗi thân thị-hiện vô lượng 
	sắc-tướng-hải. Mỗi tướng phóng vô-lượng quang-minh-vân. Mỗi quang-minh hiện 
	vô-lượng phật-độ. Mỗi cõi hiện vô-lượng Phật xuất thế. Mỗi Phật hiện 
	vô-lượng thần thông-lực khai phát thiện-căn đời trước của chúng-sanh. Kẻ 
	chưa gieo thời khiến họ gieo. Kẻ đã gieo thời làm cho tăng trưởng. Đã tăng 
	trưởng thời làm cho thành-thục. Trong mỗi niệm làm cho vô-lượng chúng-sanh 
	chẳng thối chuyển nơi vô-thượng bồ-đề. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Như ngươi hỏi ta phát tâm bồ-đề tu bồ-tát-hạnh đã bao lâu? 
	
	Ta thừa thần-lực của Phật sẽ vì ngươi mà nói những nghĩa ấy. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Bồ-Tát trí-luân xa rời tất cả cảnh-giới sai-biệt. Chẳng 
	nên đem những kiếp dài ngắn rộng hẹp nhiễm tịnh nhiều ít trong sanh tử để 
	phân-biệt hiển bày. Tại sao vậy? Vì trí-luân của Bồ-Tát bổn-tánh thanh-tịnh, 
	rời tất cả lưới phân-biệt, siêu tất cả núi chướng ngại. Tùy chỗ nên hóa độ 
	mà chiếu khắp. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Ví như mặt nhựt không có ngày đêm, chỉ có lúc mọc gọi là 
	ngày, lúc lặn gọi là đêm. 
	
	Cũng vậy, trí-luân của Bồ-Tát không có phân-biệt, cũng không tam thế, chỉ 
	tùy tâm hiện giáo-hóa chúng-sanh, mà nói Bồ-Tát ở kiếp trước kiếp sau. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Ví như mặt nhựt ở không-trung, bóng nó hiện trong tất cả 
	bửu-vật và trong nước trong lặng của ao hồ sông biển. Chúng-sanh đều thấy 
	bóng mặt nhật. Nhưng mặt nhật chẳng đến các chỗ ấy. 
	
	Trí-luân của Bồ-Tát cũng vậy, ra khỏi biển hữu-lậu, an-trụ nơi không trung, 
	phật-thiệt-pháp tịch-tịnh không có sở-y. Vì muốn hóa-độ chúng-sanh nên tùy 
	loại thọ sanh trong các loài, mà thiệt ra thời không sanh-tử, không nhiễm 
	trước, không kiếp dài vắn, không tưởng phân biệt. 
	
	Tại sao vậy? Vì Bồ-Tát rốt ráo rời tâm tưởng kiến chấp tất cả điên-đảo, được 
	chân thiệt-kiến thấy pháp thiệt-tánh, biết tất cả thế-gian như mộng như 
	huyễn, không có chúng-sanh, chỉ do sức đại-bi đại nguyện mà hiện ra trước 
	chúng-sanh để giáo-hóa điều-phục họ. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Vì như nhà lái thuyền thường dùng thuyền lớn ở trong sông, 
	chẳng đậu bờ bên nầy, chẳng ghé bờ bên kia, chẳng dừng ở giữa dòng, nên có 
	thể đưa mọi người không thôi nghỉ. 
	
	Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng thuyền ba-la-mật ở trong biển sanh tử, chẳng tấp 
	bờ bên nầy, chẳng ghé bờ bên kia chẳng dừng ở giữa dòng nên độ được 
	chúng-sanh không thôi dứt. Dầu tu bồ-tát hạnh vô-lượng kiếp, nhưng chưa từng 
	phân biệt kiếp số dài vắn. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Như thái-hư-không, tất cả thế-giới thành hoại trong đó, mà 
	hư-không vẫn chẳng phân biệt, bổn tánh thanh-tịnh không nhiễm không loạn, 
	không ngại không nhàm, chẳng dài chẳng vắn, tận vị-lai kiếp giữ-gìn tất cả 
	cõi. 
	
	Đại Bồ-Tát cũng vậy, dùng thâm tâm rộng lớn khắp cõi hư-không khởi gió đại 
	nguyện nhiếp các chúng-sanh khiến lìa ác-đạo sanh các đường lành, đều khiến 
	an-trụ bực nhất-thiết-trí, diệt những dây phiền-não sanh tử khổ não, mà 
	không có lòng lo mừng mỏi nhàm. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Như người huyễn hóa, dầu chi tiết thân thể đầy đủ mà không 
	có mười sự : thở ra, hít vào, lạnh, nóng, đói, khát, lo, mừng, sanh, tử. 
	
	Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng như-huyễn-trí bình-đẳng pháp-thân hiện các 
	sắc-tướng, nơi các loài trụ vô-lượng kiếp giáo-hóa chúng-sanh ở trong sanh 
	tử, nơi tất cả cảnh-giới, không ưa, không nhàm, không thương, không giận, 
	không khổ, không vui, không lấy, không bỏ, không an, không sợ. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Trí-huệ của Bồ-Tát dầu lại như vậy mà rất sâu khó lường, 
	ta sẽ thừa sức oai-thần của đức Phật mà nói cho ngươi, cũng làm cho chư 
	Bồ-Tát vị-lai viên-mãn đại-nguyện thành-tựu trí-lực. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Thuở xưa, quá thế-giới vi-trần số kiếp, có kiếp tên là 
	Thiện-Quang, thế-giới tên là Bửu-Quang. Trong kiếp đó có một vạn đức Phật 
	xuất thế : 
	
	Đức Phật tối-sơ hiệu là Pháp-Luân-Ấm-Hư-Không-Đăng-Vương Như-Lai. 
	
	Nơi Diêm-Phù-Đề có Vương-Đô tên là Bửu-Trang-Nghiêm. Phía đông Đô-Thành, 
	cách không xa, có một khu rừng lớn tên là Diệu-Quang, trong rừng có 
	đạo-tràng tên là Bửu-Hoa. Trong đạo-tràng có tòa sư-tử 
	Phổ-Quang-Minh-Ma-Ni-Liên-Hoa-Tạng. 
	
	Đức Pháp-Luân-Ấm Như-Lai thành Đẳng-Chánh-Giác trên tòa sư-tử nầy. Phật ngồi 
	nơi đạo-tràng mãn một trăm năm, vì chư Bồ-Tát và hàng nhơn thiên cùng những 
	kẻ đã thành-thục thiện-căn ở Diêm-Phù-Đề mà diển nói chánh-pháp. 
	
	Quốc-Vương tên là Thắng-Quang. Thuở ấy nhơn-dân thọ một vạn tuổi, trong đó 
	phần đông phạm nghiệp ác: sát sanh, trộm cướp, dâm-dật, nói-dối, nói thô, 
	hai lưởi, thêu dệt, tham-lam, giận thù, tà-kiến, bất hiếu, bất kính. 
	
	Nhà vua vì muốn sửa trị họ nên thiết lập nhà ngục, giam nhốt vô-lượng người 
	phạm tội hành hạ khổ sở. 
	
	Thái-Tử tên là Thiện-Phục, đoan chánh đẹp lạ đủ hai mươi tám tướng đại-nhơn. 
	
	Thái-Tử ở trong cung vẳng nghe tiếng kêu khóc ở chốn ngục tù, động lòng trắc 
	ẩn, liền vào nhà ngục, thấy tù nhơn bị gông xiềng tối tăm, có kẻ bị đốt, có 
	kẻ bị xông khói, có kẻ bị đánh, có kẻ bị thẻo lóc, tóc rối mình trần, đói 
	khát ốm gầy, rên-rỉ khóc la. 
	
	Quá xót thương, Thái-Tử an-ủi tội-nhơn: các ngươi chớ lo sầu kinh sợ. Ta sẽ 
	cứu thoát các ngươi. 
	
	Thái-Tử liền đến tâu Phụ-Vương xin tha tội nhơn. 
	Nhà Vua hội các quan lại để hỏi ý. 
	
	Các quan luận rằng tội-nhơn là những kẻ gian ác cướp trộm của công, mưu toan 
	cướp ngôi lén vào cung cấm, tội đáng hành hình. Có ai thương cứu cũng bị 
	tử-hình. 
	
	Thái-Tử buồn thương bảo các quan rằng, xin thả những người ấy, tôi đành chịu 
	tội, dầu nát thân mất mạng tôi cũng cam, miễn tội-nhơn được thoát khổ. 
	
	Tại sao vậy? Vì nếu tôi không cứu được những tội nhơn nầy thời làm sao cứu 
	được chúng-sanh trong nhà ngục tam giới. Tất cả chúng-sanh trong ba cõi bị 
	tham ái buộc ràng, nghèo thiếu công đức, ngu-si che đậy, đọa trong ác-đạo, 
	thân hình xấu-xí, thân căn phóng dật, tâm họ mê loạn chẳng cầu đạo xuất-ly, 
	mất ánh sáng trí-huệ, ưa mến ba cõi, dứt các phước đức, diệt những trí-huệ, 
	phiền-não làm tâm họ nhơ đục, ở trong ngục khổ, vào rọ của ma. Thường bị 
	những khổ sanh lão bịnh tử ưu-bi não hại bức bách mãi. 
	
	Tôi phải làm thế nào cho họ được giải-thoát? Tôi phải xả thân mạng để cứu 
	họ. 
	
	Lúc đó các quan đồng đến chỗ Vua giơ tay nói lớn rằng: Đại-Vương nên biết, 
	như ý của Thái-Tử là hủy-hoại vương-pháp, họa đến nhơn-dân. Nếu Đại-Vương 
	không trị tội Thái-Tử thời ngôi báu của Đại-Vương tất khó được bền lâu. 
	
	Vua nghe các quan tâu liền nổi giận truyền giết Thái-Tử và các tội-nhơn. 
	
	Vương-Hậu hay tin kinh hãi gào khóc, cùng ngàn thể-nữ chạy đến chỗ vua mọp 
	lạy cầu vua tha tội Thái-Tử. 
	
	Vua ngó Thái-Tử mà bảo rằng: ngươi chớ cứu tội-nhơn, nếu cứu họ ta sẽ giết 
	ngươi. 
	
	Thái-Tử vì muốn chuyên cầu nhất-thiết-trí, vì muốn lợi ích chúng-sanh, vì 
	lòng đại-bi phổ cứu, nên trong lòng vững chắc không khiếp sợ, lại tâu rằng: 
	xin thả tội-nhơn, con đành chịu chết. 
	
	Vua bảo tùy ý. 
	
	Vương-Hậu tâu xin cho Thái-Tử tùy ý bố-thí nửa tháng để tu phước, sau đó sẽ 
	trị tội. 
	
	Vua liền phê chuẩn. 
	
	Phía bắc Đô-Thành có khu vườn lớn tên là Nhựt-Quang, là hội-trường bố-thí 
	thuở xưa. Thái-Tử đến đó lập đại-thí-hội. Tất cả những đồ uống ăn, y-phục, 
	thuốc men, hoa hương, phan cái, vàng bạc châu ngọc đều cung cấp cho người 
	cầu xin. 
	
	Đến ngày thứ mười lăm, Vua cùng các quan, trưởng-giả, cư-sĩ, nhân-dân và các 
	nhà ngoại-đạo đều hội họp. 
	
	Bấy giờ đức Pháp-Luân-Ấm-Hư-Không-Đăng-Vương Như-Lai biết chúng-sanh đã đến 
	lúc được điều-phục nên cùng đại-chúng câu hội: Thiên-Vương hầu hạ, 
	Long-Vương cúng-dường, Dạ-Xoa-Vương thủ hộ, Càn-Thát-Bà-Vương ca-ngợi, 
	A-Tu-La Vương cúi mình đảnh lễ, Ca-Lâu La-Vương lòng thanh-tịnh rải hoa báu, 
	Khẩn Na-La-Vương hoan-hỉ khuyến thỉnh, Ma-Hầu-La-Già Vương nhất tâm chiêm 
	ngưỡng, đồng đến hội-trường bố-trí. 
	
	Thái-Tử và đại-chúng thấy đức Phật sắp đến. Thân Phật đoan-nghiêm thù đặc, 
	các căn tịch tịnh, tâm không nhơ đục như ao nước sạch trong, hiện đại 
	thần-thông tự-tại, hiển đại oai-đức, những tướng hảo trang-nghiêm, phóng đại 
	quang-minh chiếu khắp thế-giới, tất cả lỗ lông phát ra mây sáng thơm, chấn 
	động vô-lượng phật-độ mười phương, chỗ nào phật đến đều mưa những đồ 
	trang-nghiêm. Do oai-nghi và công-đức nên chúng-sanh nào thấy Phật thời tâm 
	thanh-tịnh hoan-hỉ phiền-não tiêu-diệt. 
	
	Thái-Tử và đại-chúng đảnh lễ chân đức Phật, dọn tòa cao đẹp, chắp tay bạch 
	Phật: 
	
	Thiện-lai đấng Thế-Tôn! Thiện-lai đấng Thiện Thệ! Xin đức Như-Lai từ mẫn 
	nhiếp thọ chúng-tôi mà ngự trên tòa nầy 
	
	Do thần-lực của Phật, nên Tịnh-Cư-Thiên liền biến tòa ấy thành tòa sen 
	hương-ma-ni. 
	
	Đức Phật ngồi trên tòa sen ấy. Chư Bồ-Tát cũng ngồi xung quanh Phật 
	
	Tất cả mọi người trong hội-trường ấy nhơn thấy đức Như-Lai nên dứt khổ trừ 
	chướng, có thể lãnh thọ thánh-pháp. 
	
	Đức Như-Lai biết họ đáng được hóa độ, bèn dùng âm thanh viên-mãn nói 
	khế-kinh tên là Phổ-Chiếu-Nhơn-Luân, khiến các chúng-sanh tùy theo loài mà 
	nhận hiểu. 
	
	Lúc đó có tám mươi na-do-tha chúng-sanh xa trần lìa cấu được pháp-nhãn 
	thanh-tịnh. Vô-lượng na-do-tha chúng-sanh được bậc vô-học. Mười ngàn 
	chúng-sanh trụ đạo đại-thừa nhập phổ-hiền-hạnh, thành-mãn đại-nguyện. 
	
	Đồng thời mỗi phương trong mười phương đều có trăm phật-sát vi-trần số 
	chúng-sanh ở trong đại-thừa tâm được điều-phục. Tất cả chúng-sanh trong 
	vô-lượng thế-giới thoát khỏi ác-đạo sanh lên trời, cõi người. 
	
	Thái-Tử Thiện-Phục liền được môn giải thoát Bồ-Tát giáo-hóa chúng-sanh khiến 
	sanh thiện-căn. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Thái-Tử Thiện Phục xưa kia chính là thân ta. 
	
	Vì thuở xưa ta phát tâm đại-bi bỏ thân mạng của cải cứu khổ chúng-sanh mở 
	cửa đại-thí, cúng-dường đức Phật, nên được môn giải-thoát nầy. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Nên biết rằng thuở ấy ta chỉ vì lợi ích tất cả chúng-sanh, 
	chẳng luyến tam-giới, chẳng cầu quả báo, chẳng tham danh tiếng, chẳng muốn 
	tự khen mà kinh hủy người khác. Nơi các cảnh-giới không chút tham nhiểm 
	không hề e sợ. Chỉ trang-nghiêm đạo đại-thừa xuất yếu. Thường thích quán-sát 
	môn nhất thiết-trí, tu hành khổ-hạnh, nên được môn giải-thoát nầy. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Thuở xưa năm trăm quan đại-thần muốn hại Thái-Tử 
	Thiện-Phục, nay là năm trăm đồ đảng của Đề-Bà-Đạt-Đa. Những người nầy nhờ 
	đức Phật giáo-hóa, sẽ được thành Phật. Đời vị-lai quá tu-di-sơn vi-trần số 
	kiếp, có kiếp tên là Thiện-Quang thế-giới tên là Bửu-Quang, năm trăm người 
	nầy sẽ thứ đệ thành Phật trong đó. Đức Phật tối-sơ hiệu là Đại-Bi, thứ hai 
	hiệu là Nhiêu-Ích-Thế-gian, thứ ba hiệu là Đại-Bi-Sư-Tử, thứ tư hiệu là 
	Cứu-Hộ-Chúng-Sanh, đức Phật tối-hậu hiệu là Y-Vương. 
	
	Dầu năm trăm đức Phật vị-lai ấy đại-bi bình-đẳng, nhưng quốc-độ, chủng-tộc, 
	cha mẹ, thọ sanh, đản sanh, xuất gia học đạo, đến đạo-tràng, chuyển 
	pháp-luân, nói kinh, ngữ ngôn âm thanh, quang-minh, chúng-hội, thọ-mạng, 
	pháp trụ và danh-hiệu của các ngài đều sai khác. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Những người tội được ta cứu thuở xưa ấy, nay là đức 
	Câu-Lưu-Tôn Như-Lai và ngàn đức Phật trong Hiền-Kiếp nầy, cùng trăm vạn 
	a-tăng-kỳ đại Bồ-Tát phát tâm vô-thượng bồ-đề nơi chỗ đức Vô-Lượng 
	Tinh-Tấn-Lực Danh-Xưng Công-Đức-Huệ Như-Lai, hiện nay ở thập phương quốc-độ 
	tu tập tăng trưởng bồ-tát-đạo, giáo-hóa chúng-sanh khiến sanh thiện-căn 
	giải-thoát. 
	
	Vua Thắng-Quang thuở xưa ấy, nay là đại Luận-Sư Tát-Giá-Ni-Kiền-Tử. 
	
	Cung-nhơn và quyến-thuộc thuở xưa ấy, nay là sáu vạn đệ-tử của Tát-Giá 
	Ni-Kiền theo thầy đồng đến luận nghị với đức Phật, bị đức Phật hàng phục và 
	đều được thọ ký sẽ thành Phật đời vị-lai, cõi nước trang-nghiêm, kiếp số, 
	danh hiệu riêng khác. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Thuở xưa ấy, lúc ta cứu tội-nhơn rồi, cha mẹ cho ta xuất 
	gia học đạo với đức Phật Pháp-Luân-Ấm-Hư-Không-Đăng-Vương Như-Lai. Ta tu 
	tịnh-hạnh trong năm trăm năm liền thành-tựu trăm vạn đà-la-ni, trăm vạn 
	thần-thông, trăm vạn pháp-tạng, trăm vạn cầu nhất-thiết-trí dũng-mãnh 
	tinh-tấn, tịnh trị trăm vạn môn kham nhẫn, tăng trưởng trăm vạn tâm tư-duy, 
	thành-tựu trăm vạn bồ-tát-lực, nhập trăm vạn bồ-tát trí-môn, được trăm vạn 
	bát-nhã ba-la-mật môn, thấy thập phương trăm vạn chư Phật, sanh trăm vạn 
	bồ-tát đại-nguyện, trong mỗi niệm mười phương đều chiếu trăm vạn phật độ, 
	trong mỗi niệm tiền-tế hậu-tế đều nhớ trăm vạn chư Phật, trong mỗi niệm đều 
	biết thập-phương thế-giới trăm vạn chư Phật biến-hóa-hải, trong mỗi niệm 
	thấy thập phương trăm vạn thế-giới có bao nhiêu chúng-sanh, bao nhiêu loài 
	theo nghiệp mà sanh mà tử thiện-đạo ác-đạo sắc tốt sắc xấu, những chúng-sanh 
	ấy có bao nhiêu tâm hành, dục lạc, căn tánh, nghiệp tập, thành tựu đều biết 
	rõ tất cả. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Thuở xưa ấy, sau khi chết, ta thọ sanh trở lại tại cung 
	vua làm chuyển-Luân-Vương. 
	
	Sau khi đức Pháp-Luân-Ấm-Hư Không Đăng-Vương Như-Lai diệt độ, ta gặp đức 
	Pháp-Không-Vương Như-Lai xuất thế, ta kính thờ cúng-dường. 
	
	Kế đó ta làm Đế-Thích, cũng trong đạo-tràng ấy, ta gặp Thiên-Vương-Tạng 
	Như-Lai. 
	
	Kế đó ta làm Dạ-Ma Thiên-Vương, ở thế-giới ấy ta gặp đức Đại-Địa-Oai-Lực-Sơn 
	Như-Lai. 
	
	Kế đó ta làm Đâu-Suất Thiên-Vương, ở thế-giới ấy, ta gặp đức 
	Pháp-Luân-Quang-Ấm-Thanh-Vương Như-Lai. 
	
	Kế đó ta làm Hóa-Lạc-Thiên-Vương, ở thế-giới ấy, ta gặp đức 
	Hư-Không-Trí-Vương Như-Lai. 
	
	Kế đó ta làm Tha-Hóa-Tự-Tại Thiên-Vương, ở thế-giới ấy, ta gặp đức 
	Vô-Năng-Hoại-Tràng Như-Lai. 
	
	Kế đó ta làm A-Tu-La Vương, ở thế-giới ấy, ta gặp đức 
	Nhứt-Thiết-Pháp-Lôi-Ấm-Vương Như-Lai. 
	
	Kế đó ta làm Phạm-Vương, ở thế-giới ấy, ta gặp đức Phổ-Hiền-Hóa-Diễn-Pháp-Ấm 
	Như-Lai. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Trong kiếp Thiện-Quang nơi thế-giới Bửu-Quang ấy, có một 
	vạn đức Như-Lai xuất thế ta đều được gặp và thân cận kính thờ cúng-dường như 
	vậy. 
	
	Sau kiếp Thiện-Quang, có kiếp tên là Nhựt-Quang có sáu mươi ức Phật xuất 
	thế. Đức Như-Lai tối-sơ hiệu là Diệu-Tướng-Sơn. 
	
	Bấy giờ ta làm Quốc-Vương tên là Đại-Huệ, kính thờ cúng-dường đức Phật ấy. 
	
	Kế có đức Phật xuất thế hiệu Viên-Mãn-Kiên. Bấy giờ ta làm Cư-Sĩ thân cận 
	cúng-dường đức Phật ấy. 
	
	Kế có đức Phật xuất thế hiệu Ly-Cấu-Đồng-Tử. Bấy giờ ta làm quan-đại-thần 
	thân cận cúng-dường đức Phật ấy. 
	
	Kế có đức Phật xuất thế hiệu là Dũng-Mãnh-Trì. Bấy giờ ta làm A-Tu-La-Vương 
	thân cận cúng-dường Phật. 
	
	Kế đó có đức Phật xuất thế hiệu là Tu-Di-Tướng bấy giờ ta làm thọ thần thân 
	cận cúng-dường Phật. 
	
	Kế đó có đức Phật xuất thế hiệu là Ly Cấu-Tý. Bấy giờ ta làm chủ thương-gia 
	thân cận cúng-dường Phật. 
	
	Kế có đức Phật xuất thế hiệu là Sư-Tử-Du-Bộ. Bấy giờ ta làm Thành-Thần thân 
	cận cúng-dường Phật. 
	
	Kế có đức Phật xuất thế hiệu là Bửu Kế. Bấy giờ ta làm Tỳ-Sa-Môn Thiên-Vương 
	thân cận cúng-dường Phật. 
	
	Kế có đức Phật xuất thế hiệu là Tối-Thượng-Pháp-Xưng. Bấy giờ ta làm 
	Càn-Thát-Bà Vương thân cận cúng-dường đức Phật. 
	
	Kế có đức Phật xuất thế hiệu là Quang-Minh-Quan. Bấy giờ ta làm Cưu-Bàn-Trà 
	Vương thân cận cúng-dường đức Phật. 
	
	Ở trong kiếp Nhựt-Quang đó thứ đệ có sáu mươi ức Như-Lai xuất thế. Thuở ấy 
	ta thường thọ nhiều loại thân, ở chỗ mỗi đức Phật ta đều thân-cận 
	cúng-dường, giáo-hóa thành-tựu vô-lượng chúng-sanh. Ở chỗ mỗi đức Phật ta 
	được vô-lượng môn tam-muội, những môn đà-la-ni, những môn thần-thông, những 
	môn biện-tài, những môn nhất-thiết-trí, những môn pháp minh, những môn 
	trí-huệ, chiếu những thập-phương-hải, nhập những phật-sát-hải thấy chư 
	Phật-hải, thanh-tịnh thành-tựu tăng-trưởng quảng đại. 
	
	Như ở trong kiếp Nhật-Quang đó thân-cận cúng-dường bao nhiêu đức Phật như 
	vậy, ở tất cả xứ, tất cả thế-giới-hải vi-trần-số kiếp có bao nhiêu đức Phật 
	xuất thế, ta đều thân cận cúng-dường, nghe pháp hộ trì cũng như vậy cả. 
	
	Ở chỗ tất cả Như-Lai như vậy, ta đều tu tập môn giải-thoát nầy, ta lại được 
	vô-lượng phương-tiện giải-thoát. 
	
	Bấy giờ Cứu-Hộ-Nhất-Thiết-Chúng-Sanh Chủ-Dạ-Thần muốn tuyên lại nghĩa 
	giải-thoát nầy, vì Thiện-Tài Đồng-Tử mà nói kệ rằng: 
	
	Ngươi dùng tâm hoan-hỉ tin ưa 
	
	Hỏi pháp giải-thoát khó nghĩ nầy 
	
	Ta thừa sức hộ-niệm của Phật. 
	
	Vì ngươi tuyên nói, phải nghe nhận. 
	
	Quá khứ vô-biên kiếp quảng đại 
	
	Quá hơn sát-hải vi-trần-số 
	
	Lúc ấy có cõi tên Bửu-Quang 
	
	Trong ấy có kiếp tên Thiện-Quang. 
	
	Ở trong đại kiếp Thiện-Quang nầy 
	
	Một vạn Như-Lai nối xuất thế 
	
	Ta đều thân-cận cúng-dường Phật 
	
	Theo Phật tu học giải-thoát nầy. 
	
	Có Vương-Kinh-Đô tên Hỉ-Nghiêm 
	
	Ngang dọc rộng bằng rất tráng lệ. 
	
	Chúng-sanh tạp nghiệp ở trong đó 
	
	Người tâm thanh-tịnh, kẻ làm ác. 
	
	Quốc-Vương trị nước tên Thắng-Quang. 
	
	Hằng dùng chánh-pháp ngự quần-sanh 
	
	Thái-Tử của vua tên Thiện-Phục. 
	
	Thân hình đoan chánh đủ tướng tốt. 
	
	Bấy giờ vô-lượng người phạm tội 
	
	Giam trong ngục tối sẽ hành hình 
	
	Thái-Tử xem thấy lòng xót thương 
	
	Tâu lên Phụ-Vương xin ân xá. 
	
	Các quan đại-thần tâu Quốc-Vương 
	
	Nay Thái-Tử này phá vương-pháp 
	
	Tội-nhơn như vậy phải gia hình 
	
	Thái-Tử sao lại cầu ân xá. 
	
	Thắng-Quang Quốc-Vương bảo Thái-Tử 
	
	Nếu cứu tội-nhơn ngươi phải chết. 
	
	Thái-Tử lòng thương càng mạnh hơn 
	
	Thề cứu chúng-sanh không thối khiếp. 
	
	Quốc mẫu Phu-Nhơn cùng Thể-Nữ 
	
	Đồng đến triều đường tâu Quốc-Vương 
	
	Tạm tha Thái-Tử trong nửa tháng 
	
	Bố-thí chúng-sanh tạo công đức. 
	
	Quốc-Vương nghe tâu liền chuẩn cho 
	
	Lập hội đại-thí giúp nghèo thiếu, 
	
	Những kẻ khốn cùng đều đến hội 
	
	Tùy chỗ nhu cầu đều cấp đủ. 
	
	Thấm thoát đến ngày thứ mười lăm 
	
	Giờ xử Thái-Tử đã sắp đến, 
	
	Đại chúng trăm ngàn muôn ức người 
	
	Đồng thời chiêm ngưỡng đều than khóc 
	
	Đức Phật biết chúng căn gần thục 
	
	Bèn đến thí-hội độ quần-sanh, 
	
	Hiển hiện thần-biến đại trang-nghiêm 
	
	Đại-chúng thân cận và cung kính. 
	
	Phật dùng nhứt âm phương-tiện nói 
	
	Pháp-đăng chiếu khắp những khế kinh 
	
	Vô-lượng chúng-sanh ý nhu nhuyến 
	
	Đều được đức Phật thọ ký biệt. 
	
	Thiện-Phục Thái-Tử sanh hoan-hỉ 
	
	Phát khởi tâm bồ-đề vô-thượng 
	
	Thệ nguyện kính thờ đức Như-Lai 
	
	Khắp vì chúng-sanh làm chỗ tựa. 
	
	Theo Phật xuất gia trì tịnh-giới 
	
	Tu hành nhất-thiết-chủng-trí-đạo 
	
	Bấy giờ bèn được giải-thoát nầy 
	
	Đại bi rộng độ các quần-sanh 
	
	Trong đó nương ở trải kiếp hải 
	
	Xem kỹ các pháp chân-thiệt-tánh 
	
	Thường ở biển khổ cứu chúng-sanh 
	
	Như vậy tu tập bồ-đề-đạo. 
	
	Trong kiếp có những Như-Lai hiện 
	
	Thảy đều kinh thờ không để sót 
	
	Đều dùng tâm tin hiểu thanh-tịnh 
	
	Lắng nghe, trì, hộ Phật thuyết pháp. 
	
	Kế ở Phật-sát vi-trần-số 
	
	Vô-lượng vô-biên những kiếp-hải 
	
	Bao nhiêu chư Phật hiện thế-gian 
	
	Mỗi mỗi cúng-dường đều như vậy. 
	
	Ta nhớ thuở xưa làm Thái-Tử 
	
	Thấy các chúng-sanh ở lao ngục 
	
	Thệ nguyện xả thân để cứu hộ 
	
	Nhơn đó chứng môn giải-thoát nầy. 
	
	Trải qua phật-sát vi-trần-số 
	
	Kiếp-hải rộng lớn thường tu tập 
	
	Niệm niệm khiến họ được tăng trưởng 
	
	Lại được vô-biên xảo phương-tiện. 
	
	Trong đó có chư Phật Như-Lai 
	
	Ta điều thấy Phật nhờ khai ngộ 
	
	Khiến ta thêm sáng giải-thoát nầy. 
	
	Và cùng những môn phương-tiện-lực 
	
	Ta ở vô-lượng ngàn ức kiếp 
	
	Học môn giải-thoát nan-tư nầy 
	
	Chư Phật pháp-hải không có bờ 
	
	Trong nhứt thời ta đều uống khắp. 
	
	Mười phương đều có tất cả cõi 
	
	Thân ta vào khắp không chướng-ngại 
	
	Tam thế danh-hiệu các quốc-độ 
	
	Niệm niệm biết rõ hết tất cả. 
	
	Tam thế có những chư Phật-hải 
	
	Mỗi mỗi thấy rõ không sót thừa 
	
	Cũng hiện được thân tướng Như-Lai 
	
	Đến khắp chỗ của chư Phật đó. 
	
	Lại ở mười phương tất cả cõi 
	
	Nơi tất cả chư Phật Đạo-Sư 
	
	Khắp mưa tất cả mây trang-nghiêm 
	
	Cúng-dường tất cả Vô-Thượng-Giác. 
	
	Lại dùng vô-biên đại vấn hải 
	
	Khải thỉnh tất cả chư Thế-Tôn 
	
	Đức Phật đã mưa mây diệu pháp 
	
	Thảy đều thọ trì không quên mất 
	
	Lại ở mười phương vô-lượng cõi 
	
	Trước tất cả chúng hội Như-Lai 
	
	Ngồi trên tòa những diệu trang-nghiêm 
	
	Thị-hiện các thứ thần-thông-lực. 
	
	Lại ở mười phương vô-lượng cõi 
	
	Thị hiện các thứ những thần-thông 
	
	Một thân thị hiện vô-lượng thân 
	
	Trong vô-lượng thân hiện một thân 
	
	Lại ở trong mỗi mỗi lỗng lông 
	
	Đều phóng vô-số đại-quang-minh 
	
	Đều dùng nhiều thứ xảo phương-tiện 
	
	Diệt trừ chúng-sanh lửa phiền-não. 
	
	Lại ở trong mỗi mỗi lỗ lông 
	
	Xuất hiện vô-lượng mây hóa thân 
	
	Đầy khắp mười phương các thế-giới 
	
	Khắp mưa pháp vũ cứu quần-phẩm 
	
	Mười phương tất cả những phật-tử 
	
	Vào môn giải-thoát nan-tư nầy 
	
	Đều tận vị-lai vô-lượng kiếp 
	
	An trụ tu hành hạnh bồ-tát. 
	
	Tùy tâm sở-thích mà thuyết pháp 
	
	Khiến họ đều trừ lưới tà-kiến, 
	
	Dạy họ thiện-đạo và nhị-thừa. 
	
	Nhẫn đến tất cả trí Như-Lai. 
	
	Tất cả chúng-sanh chỗ thọ sanh 
	
	Thị hiện vô-biên nhiều loại thân 
	
	Đều đồng loại họ hiện thân tượng 
	
	Ứng khắp tâm họ mà thuyết pháp. 
	
	Nếu ai được môn giải-thoát nầy 
	
	Thời trụ vô-biên biển công-đức 
	
	Thí như sát-hải vi-trần số 
	
	Chẳng thể nghĩ bàn không số lượng. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát giáo-hóa chúng-sanh khiến sanh 
	thiện-căn nầy. 
	
	Như chư đại Bồ-Tát siêu thế-gian hiện thân các loài, chẳng trụ phan-duyên 
	không có chướng-ngại, thấu rõ tự-tánh của các pháp, khéo quán sát tất cả 
	pháp được trí vô-ngã, chứng pháp vô-ngã, giáo-hóa đều-phục tất cả chúng-sanh 
	hằng không thôi nghỉ, tâm thường an trụ pháp-môn vô-nhị, vào khắp tất cả 
	biển ngôn từ. Nay ta thế nào biết được nói được biển công-đức đó, trí dũng 
	mãnh đó, chỗ tâm hành đó, cảnh tam-muội đó, sức giải-thoát đó. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Diêm-Phù-Đề nầy có một viên lâm tên là Lâm-Tỳ-Ni. Trong 
	vườn ấy có thần tên là Diệu-Đức-Viên-Mãn. 
	
	Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào tu bồ-tát-hạnh sanh nhà Như-Lai, làm ánh 
	sáng cho đời tận kiếp vị-lai mà không nhàm mỏi? 
	
	Bấy giờ Thiện-Tài Đồng-Tử đảnh lễ chân Chủ-Dạ-Thần, hữu nhiểu vô-lượng vòng, 
	chắp tay chiêm ngưỡng từ tạ mà đi. 
	 
	Hán bộ quyển thứ bảy mươi bốn. 
	
	Thiện-Tài đã được môn bồ-tát giải thoát nơi Chủ-Dạ-Thần 
	Đại-Nguyện-Tinh-Tấn-Lực-Cứu-Hộ Nhứt-Thiết Chúng-Sanh, ghi nhớ tu tập thấu rõ 
	tăng trưởng, đi lần đến vườn Lam-Tỳ-Ni tìm Thần Diệu-Đức-Viên-Mãn. Thấy Thần 
	nầy ở trong lâu các Nhất-Thiết-Bửu-Thọ-Trang-nghiêm, ngồi trên tòa sư-tử 
	Bửu-Liên-Hoa, có hai mươi ức na-do-tha chư Thiên cung kính vây quanh. Thần 
	Diệu-Đức vì chư Thiên mà nói kinh Bồ-Tát-Thọ-Sanh-Hải, khiến chư Thiên đều 
	được sanh nhà Như-Lai, thêm lớn biển đại công-đức của Bồ-Tát. 
	
	Thiện-Tài đến đảnh lễ chân Thần Diệu-Đức, cung kính chắp tay bạch rằng: 
	Đại-Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết được Bồ-Tát thế nào 
	tu bồ-tát-hạnh sanh nhà Như-Lai làm ánh sáng cho đời? 
	
	Thần Diệu-Đức đáp: Nầy thiện-nam-tử! Bồ-Tát có mười tạng thọ sanh. Nếu 
	Bồ-Tát thành-tựu pháp nầy thời sanh nhà Như-Lai, niệm niệm tăng trưởng 
	thiện-căn của Bồ-Tát, chẳng mỏi, chẳng lười, chẳng nhàm, chẳng thối, không 
	dứt, không mất, rời những mê lầm, chẳng sanh lòng khiếp hèn não hối, đến 
	nhứt-thiết-trí, nhập môn pháp-giới, phát tâm quảng-đại, tăng trưởng những 
	ba-la-mật thành-tựu vô-thượng bồ-đề, rời thế-gian, vào bực Như-Lai, được 
	thắng thần-thông, Phật-pháp thường hiện-tiền, thuận cảnh nhứt-thiết-trí 
	chơn-thiệt. 
	
	Đây là mười tạng thọ-sanh của Bồ-Tát: 
	
	Một là tạng thọ-sanh nguyện thường cúng-dường tất cả chư Phật. 
	
	Hai là tạng thọ-sanh phát bồ-đề-tâm. 
	
	Ba là tạng thọ-sanh quán các pháp-môn siêng tu hành. 
	
	Bốn là tạng thọ-sanh dùng tâm thanh-tịnh chiếu khắp tam thế. 
	
	Năm là tạng thọ-sanh bình-đẳng quang-minh. 
	
	Sáu là tạng thọ-sanh sanh nhà Như-Lai. 
	
	Bảy là tạng thọ-sanh Phật-lực quang-minh. 
	
	Tám là tạng thọ-sanh quán môn phổ-trí. 
	
	Chín là tạng thọ-sanh khắp hiện trang-nghiêm. 
	
	Mười là tạng thọ-sanh nhập Như Lai-địa. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Thế nào là tạng thọ-sanh nguyện thường cúng-dường tất cả 
	chư Phật? 
	
	Lúc Bồ-Tát sơ-phát-tâm phát nguyện như vầy : Tôi phải tôn trọng cung kính 
	cúng-dường tất cả chư phật, thấy Phật không nhàm, ở chỗ chư Phật thường mến 
	ưa, thường tin sâu chắc, tu những công-đức không thôi nghỉ. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Thế nào là tạng thọ sanh phát bồ-đề-tâm? 
	
	Bồ Tát nầy phát tâm vô-thượng bồ-đề, những là phát khởi tâm đại-bi vì cứu hộ 
	tất cả chúng-sanh; phát tâm cúng-dường Phật, vì rốt ráo kính thờ; khởi tâm 
	cầu khắp chánh pháp, vì tất cả không lẫn tiếc, khởi tâm quảng-đại xu-hướng, 
	vì cầu nhất-thiết-trí; khởi tâm từ vô-lượng, vì nhiếp khắp chúng-sanh; khởi 
	tâm chẳng bỏ tất cả chúng-sanh, vì mặc giáp kiên-thệ cầu nhất-thiết-trí; 
	khởi tâm không siểm cuống, vì được như-thiệt-trí; khởi tâm làm đúng như lời, 
	vì tu bồ-tát-đạo; khởi tâm chẳng dối chư Phật, vì thú-hộ đại thệ nguyện của 
	Phật; khởi tâm nguyện nhất-thiết-trí, vì tận vị-lai giáo hóa chúng-sanh 
	không thôi dứt. 
	
	Bồ-Tát dùng công-đức của Phật-sát vi-trần-số bồ-đề-tâm như vậy được sanh nhà 
	Như-Lai. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Thế nào là tạng-thọ-sanh quán các pháp-môn siêng tu hành? 
	
	Đại Bồ-Tát nầy phát khởi tâm quán tất cả pháp-môn-hải, phát khởi tâm 
	hồi-hướng nhất-thiết-trí viên-mãn đạo, phát khởi tâm chánh-niệm không nghiệp 
	lỗi lầm, phát khởi tâm tất cả bồ-tát tam-muội-hải thanh-tịnh, phát khởi tâm 
	tu thành công-đức của tất cả Bồ-Tát, phát khởi tâm trang-nghiêm tất cả đạo 
	bồ-tát, phát khởi tâm cầu nhất-thiết-trí hạnh đại tinh-tấn tu các công-đức 
	như kiếp-hỏa hẩy hừng không thôi dứt, phát khởi tâm tu hạnh phổ-hiền 
	giáo-hóa chúng-sanh. Phát khởi tâm khéo học tất cả oai-nghi, tu công-đức của 
	Bồ-Tát bỏ lìa tất cả sở-hữu an-trụ nơi chân-thiệt vô-sở-hữu. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Thế nào là tạng thọ-sanh dùng tâm thanh-tịnh chiếu khắp 
	tam-thế? 
	
	Đại Bồ-Tát nầy đủ tâm thanh-tịnh tăng thượng được ánh sáng bồ-đề của 
	Như-Lai, nhập biển phương-tiện của Bồ-Tát, tâm họ kiên-cố như kim-cang trái 
	bỏ tất cả loài sanh các cõi, thành-tựu tất cả sức tự-tại của Phật, tu hạnh 
	thù-thắng, đủ căn bồ-tát, tâm sáng sạch, nguyện lực bất động, thường được 
	chư Phật hộ-niệm, phá hoại tất cả núi chướng ngại, khắp vì chúng-sanh làm 
	chỗ sở y. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Thế nào là tạng thọ-sanh quang-minh bình-đẳng? 
	
	Đại Bồ-Tát nầy đầy đủ công-hạnh hóa độ khắp chúng-sanh, tất cả sở-hữu đều có 
	thể bỏ, an-trụ nơi cảnh-giới-hạnh thanh-tịnh rốt ráo của Phật, đầy đủ 
	pháp-nhẫn, thành-tựu quang-minh pháp-nhẫn của Phật, dùng đại tinh-tấn đến 
	nhất-thiết-trí, đến nơi bỉ-ngạn, tu tập các môn thiền được phổ-môn định, 
	tịnh trí viên-mãn, dùng trí-huệ-nhật chiếu rõ các pháp, được vô-ngại-nhãn 
	thấy biển chư Phật, ngộ nhập tất cả pháp-tánh chân thiệt, tất cả thế-gian 
	người thấy hoan-hỉ, khéo tu tập được pháp-môn như thiệt. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Thế nào gọi là thọ sanh tạng sanh nhà Như-Lai? 
	
	Đại Bồ-Tát nầy sanh nhà Như-Lai, theo chư Phật mà an trụ, thành-tựu tất cả 
	pháp-môn thậm-thâm, đủ đại nguyện thanh-tịnh của tam thế chư Phật, được đồng 
	một thiện-căn với tất cả chư Phật, cùng một thể-tánh với chư Như-Lai, đủ 
	hạnh xuất thế pháp lành bạch tịnh, an trụ pháp-môn công-đức quảng đại, nhập 
	những tam-muội thấy thần-lực của Phật, tùy chỗ đáng hóa độ mà tịnh trị 
	chúng-sanh, đáp đúng lời hỏi biện-tài vô-tận. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Thế nào là thọ sanh tạng phật-lực quang-minh? 
	
	Đại Bồ-Tát nầy thâm nhập phật-lực, du hành các phật-độ lòng không thối 
	chuyển, cúng-dường thừa sự chúng hội Bồ-Tát không có mỏi nhàm, rõ tất cả 
	pháp đều như huyển mà sanh khởi, biết các thế-gian như cảnh trong mộng, tất 
	cả sắc tướng dường như quang ảnh, thần-thông hiện ra đều như biến hóa, tất 
	cả thọ sanh đều như bóng, chư Phật thuyết pháp đều như tiếng vang nơi hang 
	núi, khai thị pháp-giới đều rốt ráo. 
	
	Nầy thiện-nam-tử! Thế nào tạng thọ-sanh quán môn phổ-trí? 
	
	Đại Bồ-Tát nầy trụ đồng-chân-vị quán nhất-thiết-trí, mỗi mỗi trí môn tận 
	vô-lượng kiếp, khai diễn sở-hành của tất cả Bồ-Tát, nơi tam-muội thậm-thâm 
	của chư Bồ-Tát, tâm được tự-tại, niệm niệm sanh chỗ chư Như-Lai trong 
	thế-giới mười phương, nơi cảnh có sai-biệt nhập định vô-sai-biệt, nơi pháp 
	vô-sai-biệt hiện trí có sai-biệt, nơi vô-lượng cảnh biết không cảnh-giới, 
	nơi cảnh-giới ít, nhập cảnh vô-lượng, thông đạt pháp-tánh rộng lớn không 
	ngằn mé, biết các thế-gian đều là giả thi-thiết, tất cả đều là thức-tâm phát 
	khởi. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Thế nào là tạng thọ-sanh khắp hiện trang-nghiêm? 
	
	Đại Bồ-Tát nầy có thể nhiều cách trang-nghiêm vô-lượng cõi Phật, có thể khắp 
	hóa hiện tất cả chúng-sanh và những thân Phật được vô-sở-úy, diễn pháp 
	thanh-tịnh châu-lưu pháp-giới không chướng-ngại, tùy tâm sở-thích khiến thấy 
	biết tất cả, thị-hiện những hạnh thành bồ-đề, khiến sanh đạo nhất-thiết-trí 
	vô-ngại, việc làm như vậy chẳng lỗi thời, mà thường ở nơi tạng tam-muội 
	tỳ-lô-giá-na trí-huệ. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Thế nào là tạng thọ sanh nhập như-lai-địa? 
	
	Đại Bồ-Tát nầy đều thọ pháp quán đảnh ở chỗ chư Phật tam thế, biết khắp tất 
	cả cảnh-giới thứ đệ, nghĩa là biết tất cả chúng-sanh thứ đệ thọ sanh ở 
	tiền-tế hậu tế, biết chư Bồ-Tát tu hành thứ đệ, biết tâm niệm thứ đệ của tất 
	cả chúng-sanh, biết tam thế Như-Lai thành Phật thứ đệ, biết phương-tiện 
	thuyết pháp thiện-xảo thứ đệ, cũng biết tất cả sơ-tế trung-tế hậu-tế có bao 
	nhiêu kiếp hoặc thành hoặc hoại danh hiệu thứ đệ, tùy những chúng-sanh chỗ 
	đáng hóa độ vì hiện thành đạo công-đức trang-nghiêm thần-thông thuyết pháp 
	phương-tiện điều-phục. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Nếu Đại Bồ-Tát nơi mười pháp nầy tu tập tăng trưởng 
	viên-mãn thành-tựu, thời có thể ở trong một trang-nghiêm hiện nhiều thứ 
	trang-nghiêm. Như vậy trang-nghiêm tất cả quốc-độ, khai ngộ tất cả 
	chúng-sanh, tận vị-lai kiếp không thôi dứt, diễn nói tất cả phật-pháp, những 
	cảnh-giới, những thành thục, xoay vần truyền đến vô-lượng pháp, hiện 
	bất-tư-nghì Phật-tự-tại lực sung mãn tất cả hư-không pháp-giới, ở trong biển 
	tâm hành của các chúng-sanh mà chuyển pháp-luân, thị-hiện thành Phật ở tất 
	cả thế-giới hằng không gián-đoạn, dùng bất-khả-thuyết ngôn âm thanh-tịnh để 
	nói tất cả pháp, trụ vô-lượng-xứ thông-đạt vô-ngại, dùng tất cả pháp 
	trang-nghiêm đạo-tràng, tùy các chúng-sanh dục giải sai-biệt mà hiện thành 
	Phật, khai thị vô-lượng pháp-tạng thậm-thâm, giáo hóa thành tựu tất cả 
	thế-gian. 
	
	Lâm-Tỳ-Ni Lâm-Thần muốn tuyên lại nghĩa nầy, dùng phật thần-lực quán sát 
	khắp mười phương mà nói kệ rằng: 
	
	Tâm thanh-tịnh ly-cấu tối-thượng 
	
	Thấy tất cả Phật không nhàm đủ 
	
	Nguyện tận vị-lai thường cúng-dường 
	
	Là tạng thọ sanh của bậc trí. 
	
	Trong tất cả tam thế quốc-độ 
	
	Có những chúng-sanh và chư Phật 
	
	Đều nguyện độ thoát, hằng kính thờ 
	
	Là tạng thọ sanh bậc nan-tư. 
	
	Nghe pháp không nhàm thích quán-sát 
	
	Ở khắp tam thế không chướng ngại 
	
	Thân tâm thanh-tịnh như hư-không 
	
	Là tạng thọ sanh bậc danh-xưng. 
	
	Tâm đó hằng trụ biển đại-bi 
	
	Cứng như kim-cang và Bửu-Sơn 
	
	Thấu tỏ tất cả những trí-môn 
	
	Là tạng thọ sanh bậc tối-thắng. 
	
	Đại-từ trùm khắp ở tất cả 
	
	Diệu-hạnh thường tăng biển các độ 
	
	Dùng pháp quang-minh chiếu mọi loài 
	
	Là tạng thọ sanh bậc hùng-mãnh. 
	
	Tỏ thấu pháp-tánh tâm vô-ngại 
	
	Sanh ở nhà chư Phật tam thế 
	
	Vào khắp biển pháp-giới mười phương 
	
	Là tạng thọ sanh bậc minh-trí. 
	
	Pháp thân thanh-tịnh tâm vô-ngại 
	
	Đến khắp mười phương các quốc độ 
	
	Tất cả Phật-lực đều được thành 
	
	Là tạng thọ sanh bất-tư-nghì. 
	
	Vào trí-huệ sâu đã tự-tại 
	
	Nơi các tam-muội cũng rốt ráo 
	
	Quán môn nhất-thiết-trí như thiệt 
	
	Là tạng thọ sanh bậc chân-thân. 
	
	Tịnh trị tất cả những Phật-độ 
	
	Siêng tu pháp khắp hóa chúng-sanh 
	
	Hiển hiện Như-Lai sức tự-tại 
	
	Là tạng thọ sanh bậc đại-danh. 
	
	Lâu đã tu hành đại trí-huệ 
	
	Mau xu nhập được bậc Như-Lai 
	
	Biết rõ pháp-giới đều vô-ngại 
	
	Là tạng thọ sanh của Phật-Tử. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát đủ mười pháp nầy thời sanh nhà Như-Lai, làm 
	quang-minh thanh-tịnh của tất cả thế-gian. 
	
	Ta từ vô-lượng kiếp đến nay được môn giải-thoát thọ sanh tự-tại nầy. 
	
	Thiện-Tài thưa: Bạch đức Thánh! Cảnh-giới của môn giải-thoát nầy thế nào? 
	
	Lâm-Thần nói: Nầy Thiện-nam-tử! Trước kia ta phát nguyện, nguyện lúc tất cả 
	Bồ-Tát thị-hiện thọ sanh đều được thân-cận. Nguyện nhập biển vô-lượng thọ 
	sanh của Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai. Do nguyện lực thuở xưa ấy, nên nay ta sanh 
	nơi vườn Lam-Tỳ-Ni trong thế-giới nầy, chuyên nghĩ tưởng Bồ-Tát lúc nào hạ 
	sanh? 
	
	Qua một trăm năm quả nhiên Thế-Tôn từ Trời Đâu-Xuất đản sanh tại đây. 
	
	Lúc ấy, vườn Lâm-Tỳ-Ni nầy hiện mười tướng: 
	
	Một là trong vườn nầy mặt đất bỗng nhiên bằng phẳng không còn hầm hố gò 
	nổng. 
	
	Hai là kim-cang làm đất, các báu trang-nghiêm, không có ngói sạn gai gốc. 
	
	Ba là cây bửu-đa-la bày hàng giáp vòng, rễ sâu đến thủy-tế. 
	
	Bốn là những chồi hương mọc lên, những hương-tạng hiện ra, cây bửu-hương 
	tàng to rậm rợp, mùi thơm đều hơn thiên-hương. 
	
	Năm là những tràng hoa đẹp, đồ bửu-trang-nghiêm thành hàng đầy khắp mọi nơi. 
	
	Sáu là trong vườn có bao nhiêu cây đều tự-nhiên nở hoa ma-ni-bửu. 
	
	Bảy là trong những ao hồ đều mọc hoa đầy mặt nước. 
	
	Tám là cõi sắc cõi dục của Ta-Bà Thế-Giới, tất cả hàng Thiên, Long, Bát-bộ, 
	các Quốc-Vương đều hội đến vườn Lâm-Tỳ-Ni nầy đứng chắp tay. 
	
	Chín là trong thế-giới nầy có bao nhiêu Thiên-Nữ, nhẫn đến Ma-Hầu-La-Già-Nữ 
	đều rất hoan-hỉ tay cầm những đồ cúng dường cung kính đứng hướng về phía cây 
	Vô-Ưu. 
	
	Mười là chư Phật mười phương, nơi rốn đều phóng quang-minh tên là Bồ-Tát thọ 
	sanh tự-tại-đăng chiếu sáng khắp khu vườn nầy. Trong mỗi quang-minh đều hiện 
	chư Phật thọ-sanh, đản-sanh, thần-biến, và công đức thọ-sanh của tất cả 
	Bồ-Tát. Lại phát ra những ngôn âm của chư Phật. 
	
	Trên đây là mười thoại-tướng trong vườn Lâm-Tỳ-Ni. 
	
	Lúc mười thoại-tướng nầy hiện ra, các Thiên-Vương liền biết sẽ có Bồ-Tát Hạ 
	sanh. 
	
	Thấy thoại-tướng, ta hoan-hỉ vô-lượng. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Lúc Ma-Gia Phu-Nhân ra khỏi thành Ca-Tỳ-La đi vào khu vườn 
	nầy, lại hiện mười quang-minh thoại-tướng, khiến các chúng-sanh được 
	pháp-quang-minh. 
	
	Đây là mười thoại-tướng quang-minh: Quang-minh của tất cả tạng bửu-hoa. 
	
	Quang-minh của tạng bửu-hương. Quang-minh của bửu-liên-hoa khai diễn 
	âm-thanh vi-diệu chân thiệt. 
	
	Quang-minh của thập phương Bồ-Tát sơ phát tâm. 
	
	Quang-minh của tất cả Bồ-Tát được nhập chư địa mà hiện thần-biến. 
	
	Quang-minh của tất cả Bồ-Tát tu ba-la-mật viên-mãn trí. Quang-minh đại 
	nguyện trí của tất cả Bồ-Tát. 
	
	Quang-minh phương-tiện-trí của tất cả Bồ-Tát giáo-hóa chúng-sanh. 
	
	Quang-minh chân-thiệt-trí của tất cả Bồ-Tát chứng pháp-giới. 
	
	Quang-minh của tất cả Bồ-Tát được Phật tự-tại thọ-sanh xuất-gia thành 
	chánh-giác. 
	
	Mười quang-minh nầy chiếu khắp tâm của vô-lượng chúng-sanh. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Lúc Ma-Gia Phu-Nhân ngồi dưới cây Vô-Ưu lại hiện mười thứ 
	thần-biến của Bồ-Tát sắp đản-sanh: 
	
	Lúc Bồ-Tát sắp đản sanh, chư Thiên cõi Sắc, và cõi dục; chư Thiên-Tử, 
	Thiên-nữ, chư Long, Dạ-Xoa Càn-Thát-Bà, A-Tu-La, Ca-Lâu-la, Khẩn-Na-La, 
	Ma-Hầu-La-Già, cùng quyến-thuộc vì để cúng-dường nên đều vân tập. 
	
	Ma-Gia Phu-Nhơn oai-đức thù-thắng, các lỗ lông nơi thân đều phóng quang-minh 
	chiếu khắp Đại-Thiên thế-giới không chướng-ngại, chói lấn tất cả quang-minh 
	khác, diệt trừ tất cả phiền-não và khổ ác-đạo. Đây là thần-biến thứ nhứt của 
	Bồ-Tát lúc sắp đản-sanh. 
	
	Lúc ấy, trong bụng của Ma-Gia Phu-Nhơn đều hiện tất cả hình tượng của 
	Đại-Thiên Thế-giới, trong trăm ức Diêm-Phù-Đề những đô ấp, vườn rừng, danh 
	hiệu riêng khác đều có Ma-Gia Phu-Nhơn ở và Thiên-Chúng vây quanh, đều hiển 
	hiện tướng thần-biến bất-tư-nghì của Bồ-Tát sắp đản-sanh. Đây là tướng thứ 
	hai. 
	
	Tất cả lổ lông nơi thân của Ma-Gia Phu-Nhơn đều hiện cảnh tượng thuở xưa lúc 
	Bồ-Tát tu hành công hạnh cúng-dường cung-kính chư Phật và nghe tiếng nói 
	pháp của chư Phật như ảnh tượng hiện rõ trong gương sáng. Đây là thần biến 
	thứ ba của Bồ-Tát lúc sắp đản sanh. 
	
	Lại trong mỗi lỗ lông nơi thân của Ma-Gia Phu-Nhơn đều hiện thuở xưa lúc 
	Bồ-Tát tu bồ-tát-hạnh, ở thế-giới, thành ấp, tụ lạc, núi rừng, sông biển, 
	chúng-sanh, kiếp số, gặp Phật xuất thế, nhập tịnh quốc-độ, y-chỉ 
	thiện-tri-thức, tu hành pháp lành, thọ mạng dài vắn, Ma-Gia Phu-Nhơn thường 
	là sanh-mẫu của Bồ-Tát. Đây là thần biến thứ tư của Bồ-Tát lúc sắp đản-sanh. 
	
	Lại trong mỗi lỗ lông của Ma-Gia Phu-Nhơn hiển hiện thuở xưa lúc Bồ-Tát tu 
	bồ-tát-hạnh, tùy sanh tại xứ nào, hình mạo sắc tướng, y phục ăn uống, những 
	sự khổ vui đều hiện rõ ràng. Đây là thần biến thứ năm của Bồ-Tát lúc sắp 
	đản-sanh. 
	
	Lại trong mỗI lỗ lông của Ma-Gia Phu-Nhơn đều hiện thuở xưa lúc Bồ-Tát tu 
	hạnh bố-thí, xả thí cả những vật khó xả như đầu, mắt, tai, mũi, môi, lưỡi, 
	răng, tay, chân, máu, thịt, gân, xương, vợ, con, thành ấp, cung điện, 
	y-phục, anh-lạc, vàng bạc, châu báu. Cũng thấy hình mạo của những người thọ 
	thí và chỗ nơi của họ. Đây là thần-biến thứ sáu của Bồ-Tát lúc sắp đản-sanh. 
	
	Lúc Ma-Gia Phu-Nhơn đi vào khu vườn nầy, thời khu vườn nầy hiện khắp tất cả 
	chư Phật quá khứ lúc nhập mẫu-thai, cõi nước nơi chỗ, y phục, tràng hoa, 
	hương thoa, hương bột, phan cái, đồ trang-nghiêm, kỹ nhạc ca ngâm âm thanh 
	thượng diệu, làm cho chúng-sanh đều được nghe thấy. Đây là thần biến thứ bảy 
	của Bồ-Tát sắp đản-sanh. 
	
	Lúc Ma-Gia Phu-Nhơn vào vườn nầy, từ nơi thân của Phu-Nhơn xuất hiện cung 
	điện lâu các Ma-Ni-Vương hơn hẳn tất cả cung điện của Thiên, Long, Bát-Bộ và 
	cung-điện của Nhơn-Vương. Cung-điện Ma-Ni-Vương nầy có lưới báu giăng phía 
	trên, hương thơm ngào ngạt, các báu trang-nghiêm, trong ngoài nghiêm-tịnh, 
	chẳng tạp loạn, bao khắp cả vườn Lâm-Tỳ-Ni, Đây là thần biến thứ tám của 
	Bồ-Tát sắp đản-sanh. 
	
	Lúc Ma-Gia Phu-Nhơn vào vườn nầy, từ nơi thân của Phu-Nhơn xuất hiện mười 
	bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát. Những 
	Bồ-Tát nầy, thân hình dung mạo, tướng hảo quang-minh, oai-nghi đi đứng, 
	thần-thông, quyến thuộc đều đồng như Tỳ-Lô-Giá-Na Bồ-Tát, tất cả đồng thời 
	tán thán Như-Lai. Đây là thần-biến thứ chín của Bồ-Tát sắp đản-sanh. 
	
	Lúc Ma-Gia Phu-Nhơn sắp đản-sanh Bồ-Tát, ở trước mặt Phu-Nhơn bỗng từ 
	kim-cang-tế mọc lên hoa sen lớn tên là Nhất-Thiết-Bửu-Trang-Nghiêm-Tạng, 
	kim-cang làm cọng, các báu làm tua, như-ý châu-vương làm đài, có phật-sát 
	vi-trần-số cánh, tất cả đều bằng châu ma-ni. Lưới báu, lọng báu che phía 
	trên. Tất cả Thiên-Vương cầm giữ. Tất cả Long-Vương mưa hương-vũ. Tất cả 
	Dạ-Xoa-Vương cung kính rải thiên hoa. Tất cả Càn-Thát-Bà-Vương dùng âm thanh 
	vi-diệu ca ngợi công-đức của Bồ-Tát thuở xưa cúng-dường chư Phật. Tất cả 
	A-Tu-La Vương bỏ tâm kiêu mạn mà cúi đầu kính lễ. Tất cả Ca-Lâu-La Vương 
	thòng phan báu khắp hư-không. Tất cả Khẩn-Na-La-Vương hoan-hỉ chiêm-ngưỡng 
	ca ngâm khen ngợi công-đức của Bồ-Tát. Tất cả Ma-Hầu-La-Già Vương đều 
	hoan-hỉ tán thán mưa tất cả mây bửu trang-nghiêm. Đây là thần biến thứ mười 
	của Bồ-Tát sắp đản-sanh. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Vườn Lam-Tỳ-Ni thị hiện mười thần-biến như vậy rồi, sau đó 
	Bồ-Tát đản-sanh, như mặt nhựt hiện ra nơi hư-không. Như mây lành hiện ở đảnh 
	núi cao. Như làn chớp sáng giữa cụm mây dầy. Như ngọn đuốc sáng lớn giữa đêm 
	tối. 
	
	Bấy giờ Bồ-Tát từ hông bên hữu của Phu-Nhơn mà đản-sanh, thân tướng 
	quang-minh đủ các tướng hảo. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Lúc đó dầu hiện sơ sinh, nhưng Bồ-Tát đã tỏ thấu tất cả 
	pháp như mộng, như huyễn, như ảnh, như tượng, không đến không đi, chẳng sanh 
	chẳng diệt. 
	
	Đồng thời ta cũng thấy đức Bồ-Tát ở vô-lượng cõi Phật trong mỗi vi-trần của 
	Đại-Thiện thế-giới, cũng thấy đức Bồ-Tát ở vô-lượng cõi Phật trong mỗi 
	vi-trần của trăm thế-giới, ngàn thế-giới, nhẫn đến tất cả thế-giới mười 
	phương thị-hiện sơ sanh những sự thần biến giống như hiện thấy tại vườn 
	Lam-Tỳ-Ni nầy, niệm niệm thường không gián đoạn. 
	
	Thiện-Tài thưa: Bạch đức Thánh! Ngài được môn giải-thoát nầy được bao lâu? 
	
	Lâm-Thần nói: Nầy Thiện-nam-tử! Thuở xưa quá ức phật-sát vi-trần-số kiếp, có 
	kiếp tên là Duyệt-Lạc, thế-giới tên là Phổ-Bửu. Có tám mươi na-do-tha Phật 
	xuất hiện trong đó. 
	
	Tối-sơ Phật hiệu là Tự-Tại-Công-Đức-Tràng. 
	
	Trong thế-giới Phổ-Bửu có tứ-thiên-hạ tên là Diệu-Quang-Trang-Nghiêm. Trong 
	Diêm-Phù-Đề có một Vương-Đô tên là Tu-Di-Trang-Nghiêm-Tràng, Quốc-Vương tên 
	là Bửu-Diệm-Nhãn, Phu-Nhơn tên là Hỉ-Quang. 
	
	Chính Hỉ-Quang Phu-Nhơn là sinh-mẫu của đức Tự-Tại-Công-Đức-Tràng Như-Lai. 
	
	Lúc Phu-Nhơn sắp đản-sanh Bồ-Tát, cùng hai mươi ức na-do-tha thể-nữ đến vườn 
	Kim-Hoa. Trong vườn có lầu tên là Diệu-Bửu-Phong, cạnh lầu có cội cây tên là 
	Nhất-Thiết-Thí. 
	
	Phu-Nhơn Hỉ-Quang vói vịn nhánh cây Nhất-Thiết-Trí mà đản-sanh Bồ-Tát. 
	
	Chư Thiên-Vương đem nước thơm đến tắm gội Bồ-Tát. Tắm xong, chư Thiên-Vương 
	trao Bồ-Tát cho nhũ-mẫu Tịnh-Quang. 
	
	Nhũ-mẫu lãnh bồng Bồ-Tát, lòng rất hoan-hỉ liền được bồ-tát-phổ-nhãn 
	tam-muội. Được tam-muội nầy, nhũ-mẫu thấy vô-lượng chư Phật mười phương. 
	Nhũ-mẫu lại được môn giải-thoát bồ-tát ở tất cả chỗ thị-hiện thọ sanh 
	tự-tại, như thần-thức lúc tối-sơ thọ thai, mau chóng vô-ngại. Vì được môn 
	giải-thoát nầy nên thấy tất cả Phật thừa bổn-nguyện-lực thọ-sanh tự-tại. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Thuở đức Tự-Tại-Công-Đức-Tràng Như-Lai, nhũ mẫu Tịnh-Quang 
	chính là thân ta đây. 
	
	Từ đó đến nay, niệm niệm ta thường thấy đức Tỳ-Lô-Giá-Na Phật thị-hiện 
	Bồ-Tát thọ-sanh-hải, thần-lực tự-tại điều-phục chúng-sanh. Nhẫn đến tất cả 
	chư Phật ở trong vi-trần của tất cả thế-giới khắp mười phương thị hiện 
	Bồ-Tát thọ sanh thần-biến, ta đều niệm niệm thấy cả, và đều cung kính phụng 
	thờ cúng dường nghe thuyết pháp, như thuyết tu hành. 
	
	Bấy giờ Lam-Tỳ-Ni Lâm-Thần muốn tuyên lại nghĩa giải-thoát nầy, thừa 
	thần-lực của Phật quán sát mười phương mà nói kệ rằng: 
	
	Đồng-Tử ngươi đã hỏi 
	
	Cảnh thậm thâm của Phật 
	
	Nay ngươi phải lắng nghe 
	
	Ta nói nhơn-duyên ấy. 
	
	Quá ức sát-trần kiếp 
	
	Có kiếp tên Duyệt-Lạc 
	
	Tám mươi na-do-tha 
	
	Như-Lai xuất thế-gian. 
	
	Tối-sơ Như-Lai hiệu 
	
	Tự-Tại-Công-Đức-Tràng 
	
	Ta ở vườn Kim-Hoa 
	
	Thấy Bồ-Tát sơ sanh. 
	
	Lúc ấy ta làm nhũ-mẫu 
	
	Trí-huệ rất thông lẹ 
	
	Chư Thiên trao cho ta 
	
	Thân Bồ-Tát kim sắc. 
	
	Ta liền vội ẵm bồng 
	
	Nhìn kỹ vô-kiến-đảnh 
	
	Thân tướng đều viên-mãn 
	
	Mỗi tướng vô-biên-tế. 
	
	Thân thanh-tịnh ly-cấu 
	
	Trang-nghiêm với tướng-hảo 
	
	Ví như tượng diệu-bửu 
	
	Thấy xong tự vui mừng. 
	
	Tư-duy công-đức đó 
	
	Mau thêm những biển phước, 
	
	Thấy sự thần-thông nầy 
	
	Ta phát tâm bồ-đề. 
	
	Chuyên cầu phật công-đức 
	
	Thêm rộng những đại-nguyện, 
	
	Nghiêm-tịnh tất cả cõi 
	
	Diệt trừ ba ác-đạo. 
	
	Khắp ở mười phương cõi 
	
	Cúng-dường vô-số Phật, 
	
	Tu hành bổn thệ nguyện 
	
	Cứu thoát khổ chúng-sanh. 
	
	Ta ở chỗ Phật ấy 
	
	Nghe pháp được giải-thoát 
	
	Ức cõi vi-trần-số 
	
	Vô-lượng kiếp tu hành. 
	
	Có bao nhiêu đức Phật 
	
	Ta đều từng cúng-dường 
	
	Hộ trì Phật chánh-pháp 
	
	Tu biển giải-thoát nầy. 
	
	Ức cõi vi-trần-số 
	
	Đức thập-lực quá-khứ 
	
	Thọ trì Phật pháp-luân 
	
	Thêm sáng giải-thoát nầy. 
	
	Ta trong khoảng một niệm 
	
	Thấy trong sát-trần nầy 
	
	Mỗi trần có Như-Lai 
	
	Nghiêm-tịnh những sát-hải. 
	
	Trong cõi đều có Phật 
	
	Hiện đản-sanh trongvườn 
	
	Đều hiện bất-tư-nghì 
	
	Sức thần-thông quảng đại. 
	
	Hoặc thấy bất-tư-nghì 
	
	Ức cõi chư Bồ-Tát 
	
	Ở tại trên Thiên-Cung 
	
	Sắp chứng Phật bồ-đề. 
	
	Trong vô-lượng sát-hải 
	
	Chư Phật hiện thọ sanh 
	
	Thuyết pháp giữa đại chúng 
	
	Nơi đây ta đều thấy. 
	
	Một niệm thấy ức cõi 
	
	vi-trần số Bồ-Tát 
	
	Xuất gia đến đạo-tràng 
	
	Thị hiện cảnh-giới Phật. 
	
	Ta thấy trong sát-trần 
	
	Vô-lượng Phật thành đạo 
	
	Đều hiện những phương-tiện 
	
	Độ thoát khổ chúng-sanh. 
	
	Trong mỗi mỗi vi-trần 
	
	Chư Phật chuyển pháp-luân 
	
	Đều dùng tiếng vô-tận 
	
	Khắp mưa pháp cam-lộ. 
	
	Ức cõi vi-trần-số 
	
	Trong mỗi một sát-trần 
	
	Đều thấy chư Như-Lai 
	
	Thị hiện nhập niết-bàn. 
	
	Vô-lượng cõi như vậy 
	
	Như-Lai hiện đản-sanh 
	
	Khắp nơi ta phân-thân 
	
	Hiện tiền cúng dường Phật. 
	
	Bất-tư-nghì sát-hải 
	
	Vô-lượng loài sai khác 
	
	Ta đều hiện trong đó 
	
	Khắp mưa đại pháp-vũ. 
	
	Phật-Tử! Ta biết môn 
	
	Nan-tư giải-thoát nầy 
	
	Trong vô-lượng ức kiếp 
	
	Tán dương không hết được. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát Bồ-Tát trong vô-lượng kiếp khắp 
	tất cả chỗ thị hiện thọ sanh tự-tại nầy. 
	
	Như chư đại Bồ-Tát có thể đem một niệm làm những kiếp tạng, quán tất cả 
	pháp, dùng phương tiện khéo mà hiện thọ sanh, cúng-dường cùng khắp tất cả 
	chư Phật. Thông đạt rốt ráo tất cả phật-pháp, nơi tất cả loài đều hiện thọ 
	sanh, ngồi tòa liên-hoa ở trước tất cả Phật. 
	
	Biết các chúng-sanh lúc đáng được độ, vì hiện thọ sanh phương-tiện 
	điều-phục, ở tất cả cõi hiện những thần-biến, dường như ảnh tượng đều hiện 
	ra trước họ. Ta thế nào biết được nói được công-đức hạnh đó. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Thành Ca-Tỳ-La nầy có cô gái họ Thích tên là Cù-Ba. 
	
	Ngươi đến đó hỏi: Bồ-Tát thế nào ở trong sanh tử giáo hóa-chúng-sanh. 
	
	Thiện-Tài Đồng-Tử đảnh lễ chân Lam-Ty-Ni Lâm-Thần, hữu nhiễu vô-số vòng, ân 
	cần chiêm-ngưỡng từ tạ mà đi. 
	 
	Hán bộ quyển thứ 75 
	
	40 – (1) Bấy giờ Thiện-Tài Đồng-Tử tư-duy tu tập môn thọ-sanh giải-thoát, 
	tăng trưởng quảng-đại ghi nhớ chẳng bỏ. Hướng về phía thành Ca-Tỳ-La, 
	Thiện-Tài đi lần đến giảng-đường Bồ-Tát Tập-Hội Phổ-Hiện Pháp-Giới 
	Quang-Minh. 
	
	Trong giảng đường nầy có thần hiệu Vô-Ưu-Đức cùng một vạn Chủ-Cung-Điện Thần 
	câu hội đồng nghinh tiếp Thiện-Tài và nói rằng: 
	
	Thiện lai Trượng-Phu! Có trí-huệ lớn, có dũng-mãnh lớn khéo tu môn giải 
	thoát tự-tại bất-tư-nghì, tâm không bao giờ bỏ thệ nguyện rộng lớn, khéo 
	quán-sát cảnh-giới của các pháp, an-trụ nơi pháp-thành, nhập vô-lượng môn 
	phương-tiện, thành-tựu biển công-đức rộng lớn, được biện-tài vi-diệu, khéo 
	điều-phục chúng-sanh, được thân thánh-trí hằng thuận tu hành, biết các 
	chúng-sanh tâm hành sai khác làm cho họ hoan-hỉ xu-hướng phật-đạo. 
	
	Chúng tôi xem ngài tu các diệu-hạnh tâm không tạm lười, oai-nghi cử chỉ thảy 
	đều thanh-tịnh. 
	
	Chẳng bao lâu ngài sẽ được ba nghiệp vô-thượng trang-nghiêm thanh-tịnh của 
	Như-Lai. Dùng những tướng-hảo trang-nghiêm thân mình. Dùng mười trí-lực trau 
	sáng tâm mình, du hành nơi thế-gian. 
	
	Chúng tôi quán ngài dũng-mãnh tinh-tấn không ai sánh bằng. Chẳng bao lâu sẽ 
	được thấy khắp tất cả chư Phật tam-thế và nghe lãnh chánh-pháp. Chẳng bao 
	lâu sẽ được những sự vui tam-muội thiền-định giải-thoát của tất cả Bồ-Tát. 
	Chẳng bao lâu sẽ nhập môn giải-thoát thậm-thâm của chư Phật Như-Lai. 
	
	Tại sao vậy? Vì ngài được thấy thiện-tri-thức, thân-cận cúng-dường, nghe 
	lãnh lời chỉ dạy ghi nhớ tu hành, chẳng lười, chẳng thối, không lo, không e 
	ngại, ma và dân ma không làm ngăn trở được, chẳng bao lâu ngài sẽ được thành 
	quả vô-thượng. 
	
	Thiện-Tài nói: Như lời của chư Thánh vừa nói, nguyện tôi sẽ đều được như 
	vậy.  Tôi nguyện cho tất cả 
	chúng-sanh dứt những nhiệt-não, rời những ác nghiệp, sanh những an-lạc, tu 
	những tịnh-hạnh. 
	
	Bạch chư Thánh! Tất cả chúng-sanh khởi phiền-não tạo ác nghiệp đọa ác thú, 
	nơi than, nơi tâm hằng chịu đau khổ. 
	
	Bồ-Tát thấy như vậy trong lòng rất đau xót. 
	
	Ví như người chỉ có một con, nên rất thương yêu. Bỗng thấy con mình bị người 
	chặt tay chân, thời trong lòng đau đớn biết ngần nào. Cũng vậy, đại Bồ-Tát 
	thấy các chúng-sanh vì nghiệp phiền não mà đọa ba ác-thú chịu khổ, thời 
	trong lòng rất đau xót. 
	
	Nếu thấy chúng-sanh phát khởi thân-ngữ-ý ba nghiệp lành sanh lên trời cõi 
	người, được an vui, thời lòng Bồ-Tát rất hoan-hỉ. 
	
	Tại sao vậy? Vì Bồ-Tát chẳng tự vì mình mà cầu nhất-thiết-trí. Vì Bồ-Tát 
	chẳng tham những dục lạc trong vòng sanh tử, chẳng theo thế-lực của 
	tưởng-đảo, kiến-đảo, tâm-đảo kiết-sử tùy-miên ái-kiến mà chuyển, chẳng khởi 
	những quan-niệm vui của chúng-sanh, chẳng ham say nơi sự vui của thiền-định, 
	chẳng phải vì có chướng-ngại mỏi nhọc thối chuyển mà trụ tại sanh tử, chỉ vì 
	thấy chúng-sanh ở trong tam-hữu chịu đủ mọi sự khổ nên khởi tâm đại-bi, dùng 
	sức đại-nguyện để nhiếp thủ chúng-sanh. Vì sức bi nguyện mà tu hạnh Bồ-Tát, 
	vì dứt tất cả phiền não của chúng-sanh, vì cầu nhất-thiết-chủng-trí của 
	Như-Lai, vì cúng-dường tất cả chư Phật, vì nghiêm tịnh tất cả quốc-độ quảng 
	đại, vì tịnh trị tất cả dục lạc của chúng-sanh và những hạnh nghiệp nơi thân 
	nơi tâm của họ, nên Bồ-Tát ở trong sanh tử không mỏi nhàm. 
	
	Bạch chư thánh! Đại Bồ-Tát đối với chúng-sanh: là trang-nghiêm, vì khiến họ 
	sanh làm trời, làm người giàu sang vui sướng. Là cha mẹ, vì an lập tâm bồ-đề 
	cho họ. Là dưỡng dục, vì làm cho họ thành-tựu đạo Bồ-Tát. Là vệ-hộ, vì làm 
	cho họ xa rời ba ác-đạo. Là lái thuyền, vì đưa họ qua biển sanh tử. Là quy 
	y, vì làm cho họ khỏi sợ ma phiền-não. Là cứu-cánh, vì làm cho họ vĩnh-viễn 
	được vui thanh-lương. Là bờ bến, vì làm cho họ vào biển chư Phật. Là đạo-sự, 
	vì đưa họ đến xứ pháp-bửu. Là diệu-hoa, vì làm nở tâm công-đức của chư Phật. 
	Là đồ trang-nghiêm, vì thường phóng quang-minh phước đức trí-huệ. Là đáng 
	mến, vì chỗ làm ra đều đoan chánh trang-nghiêm. Là đáng tôn trọng, vì xa rời 
	tất cả ác-nghiệp. Là Phổ-Hiền, vì đầy đủ tất cả thân đoan-nghiêm. Là sáng 
	lớn, vì thường phóng trí-huệ quang-minh. Là mây lớn, vì thường mưa tất cả 
	pháp cam-lộ. 
	
	Bạch chư Thánh! Lúc Bồ-Tát tu các hạnh như vậy, làm cho tất cả chúng-sanh 
	đều mến thích đầy đủ pháp-lạc. 
	
	Lúc đó Thiện-Tài sắp bước lên pháp-đường, Chủ-Cung-Điện Thần Vô-Ưu-Đức và 
	chúng Thần đem những hương hoa và đồ trang-nghiêm quý hơn cõi trời rải trên 
	Thiện-Tài mà nói kệ rằng: 
	
	Nay Ngài xuất thế-gian 
	
	Làm đèn sáng cho đời 
	
	Vì khắp các chúng-sanh 
	
	Mà cầu vô-thượng-giác. 
	
	Vô-lượng ức ngàn kiếp 
	
	Khó được gặp thấy Ngài 
	
	Công-đức-nhật nay mọc 
	
	Trừ những tối thế-gian. 
	
	Ngài thấy các chúng-sanh 
	
	Bị điên-đảo che đậy 
	
	Mà khởi lòng đại-bi 
	
	Cầu chứng đạo vô-sư. 
	
	Ngài dùng tâm thanh-tịnh 
	
	Tầm cầu Phật bồ-đề 
	
	Kính thờ thiện-tri-thức 
	
	Chẳng tự tiếc thân mạng. 
	
	Ngài ở các thế-gian 
	
	Không tựa không chấp lấy 
	
	Tâm ngài khắp vô-ngại 
	
	Thanh-tịnh như hư-không. 
	
	Ngài tu hạnh bồ-đề 
	
	Công-đức đều viên-mãn 
	
	Phóng sáng lớn trí-huệ 
	
	Chiếu khắp cả thế-gian. 
	
	Ngài chẳng rời thế-gian 
	
	Cũng chẳng vướng thế-gian 
	
	Đi trong đời vô-ngại 
	
	Như gió thổi hư-không. 
	
	Ví như hoả-tai khởi 
	
	Không gì làm tắt được 
	
	Ngài tu hạnh bồ-tát 
	
	Lửa tinh-tấn cũng vậy. 
	
	Dũng-mãnh đại tinh-tấn 
	
	Kiên-cố chẳng lay động 
	
	Kim-cang-huệ sư-tử 
	
	Du hành vô-sở-úy. 
	
	Trong tất cả pháp-giới 
	
	Có bao nhiêu sát-hải 
	
	Ngài đều qua đến được 
	
	Thân cận thiện-tri-thức 
	
	Thần Vô-Ưu-Đức nói kệ xong, vì mến thích chánh-pháp nên theo luôn bên 
	Thiện-Tài Đồng-Tử. 
	
	Thiện-Tài vào trong giảng-đường Phổ-Hiện-Pháp-Giới-Quang-Minh tìm cô gái họ 
	Thích. Thấy cô ấy ngồi trên tòa sư-tử bửu liên-hoa, có tám vạn bốn ngàn 
	thể-nữ vây quanh. 
	
	Những thể-nữ nầy đều là dòng vua, thuở quá khứ đã tu hạnh bồ-tát, đồng gieo 
	căn lành, bố-thí ái-ngữ nhiếp khắp chúng-sanh, đã thấy rõ được cảnh 
	nhứt-thiết-trí, đã chung tu tập hạnh Phật Bồ-Đề, hằng trụ chánh-định, thường 
	dùng đại-bi nhiếp khắp chúng-sanh như đối với con một, đầy đủ từ-tâm, 
	quyến-thuộc thanh-tịnh, quá-khứ đã thành-tựu phương-tiện thiện-xảo 
	bất-tư-nghì của Bồ-Tát, đều không thối chuyển vô-thượng bồ-đề, đầy đủ những 
	ba-la-mật của Bồ-Tát, rời những chấp trước, chẳng thích sanh tử, dầu đi 
	trong các cõi hữu-lậu mà lòng hằng thanh-tịnh, thường siêng quán-sát đạo 
	nhất-thiết-trí, lìa lưới chướng cái, vượt khỏi chỗ chấp nhiễm, từ pháp-thân 
	mà hiện hóa-thân, sanh hạnh Phổ-Hiền, lớn sức bồ-tát, trí-nhựt huệ-đăng đều 
	đã viên-mãn. 
	
	Thiện-Tài đến đảnh lễ nơi chân của Thích-Nữ Cù-Ba, chắp cung kính thưa rằng: 
	Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết Bồ-Tát thế nào 
	ở trong sanh tử mà chẳng bị lỗi sanh tử làm nhiễm? Thế nào rõ pháp tự-tánh 
	mà chẳng trụ hàng Thanh-Văn Bích-Chi-Phật? Thế nào đầy đủ phật-pháp mà tu 
	hạnh bồ-tát? Thế nào trụ bậc Bồ-Tát mà nhập cảnh-giới Phật? Thế nào siêu quá 
	thế-gian mà thọ sanh nơi thế-gian? Thế nào thành-tựu pháp-thân mà thị-hiện 
	vô-biên sắc-thân? Thế nào chứng pháp vô-tướng mà vì chúng sanh thị-hiện các 
	tướng? Thế nào biết pháp vô-thuyết mà rộng vì chúng-sanh diễn thuyết các 
	pháp? Thế nào biết chúng-sanh không mà hằng chẳng bỏ sự giáo-hóa chúng-sanh? 
	Thế nào dầu biết chư Phật bất sanh bất diệt mà siêng cúng-dường không có 
	thối-chuyển? Thế nào dầu biết các pháp không nghiệp không báo mà tu những 
	hạnh lành luôn không thôi nghỉ. 
	
	Nàng Cù-Ba nói: Lành thay! Lành Thay! Nầy Thiện-nam-tử! Nay ngươi có thể hỏi 
	những việc làm của đại Bồ-Tát như vậy. Người tu tập những hạnh nguyện 
	Phổ-Hiền mới có thể hỏi như vậy. 
	
	Ngươi lắng nghe và khéo suy gẫm ghi nhớ. Ta sẽ thừa thần-lực của Phật mà nói 
	cho ngươi. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Nếu các Bồ-Tát thành-tựu mười pháp thời có thể viên-mãn 
	hạnh bồ-tát nhơn đà-la-võng phổ-trí quang-minh. 
	Đây là mười pháp: 
	
	Vì nương thiện-tri-thức. Vì được thắng-giải quảng đại. Vì được dục lạc 
	thanh-tịnh. Vì nhóm tất cả phước trí. Vì nghe chánh-pháp nơi chư Phật. Vì 
	tâm hằng chẳng bỏ tam thế Phật. Vì đồng với tất cả bồ-tát hạnh. Vì được tất 
	cả Như-Lai hộ-niệm. Vì đại bi diệu-nguyện đều thanh-tịnh. Vì có thể dùng 
	trí-lực khắp dứt tất cả những sanh tử. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Nếu thân-cận thiện-trí-thức thời Bồ-Tát có thể tinh-tấn 
	bất thối tu tập xuất sanh vô-tận phật pháp 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát dùng mười pháp để thừa sự thiện-tri-thức. 
	
	Đây là mười pháp: không đoái tiếc thân mạng mình. Lòng chẳng tham cầu sự vui 
	thế-gian. Biết tất cả pháp-tánh đều bình-đẳng. Trọn chẳng lui bỏ nguyện 
	nhất-thiết-trí. Quán sát thiệt-tướng pháp giới. Tâm hằng bỏ rời tất cả biển 
	hữu-lậu. Biết pháp như không, tâm không chỗ nương. Thành-tựu tất cả 
	đại-nguyện bồ-tát. Thường có thể thị-hiện tất cả sát-hải. Tịnh tu trí-luận 
	vô-ngại của Bồ-Tát. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Nên dùng pháp nầy để kính thờ tất cả thiện-tri-thức không 
	ttrái nghịch. 
	
	Bấy giờ nàng Thích-Ca Cù-Ba muốn tuyên lại nghĩa nầy, thừa thần-lực của 
	Phật, quán-sát mười phương mà nói kệ rằng: 
	
	Bồ-Tát vì lợi các quần-sanh 
	
	Chánh-niệm thân thừa thiện-tri-thức 
	
	Kính xem như Phật tâm không lười 
	
	Là hạnh đế-võng đi trong đời. 
	
	Thắng-giải rộng lớn như hư-không 
	
	Tất cả tam-thế đều vào trong 
	
	Quốc-độ, chúng-sanh, Phật đều vậy 
	
	Đây là phổ-trí quang-minh hạnh. 
	
	Chí nguyện như không chẳng ngằn mé 
	
	Dứt hẳn phiền-não, lìa trần cấu 
	
	Tất cả chỗ Phật tu công-đức 
	
	Là hạnh thân-vân đi thế-gian. 
	
	Bồ-Tát tu tập nhất-thiết-trí 
	
	Biển công-đức chẳng thể nghĩ bàn 
	
	Tịnh những thân phước-đức trí-huệ 
	
	Là hạnh chẳng nhiễm đi thế-gian. 
	
	Chỗ tất cả chư Phật Như-Lai 
	
	Nghe lãnh phật-pháp không nhàm đủ 
	
	Hay sanh đèn trí-huệ thiệt-tướng 
	
	Là hạnh phổ-chiếu đi thế-gian. 
	
	Mười phương chư Phật vô-số-lượng 
	
	Một niệm tất cả đều vào được 
	
	Tâm hằng chẳng bỏ các Như-Lai 
	
	Là hạnh nguyện lớn hướng chánh-giác. 
	
	Vào đại chúng hội của chư Phật 
	
	Biển tam-muội của chư Bồ-Tát 
	
	Nguyện-hải nhẫn đến phương-tiện hải 
	
	Là hạnh đế-võng đi thế-gian. 
	
	Tất cả chư Phật chỗ gia-trì 
	
	Tận thuở vị-lai vô-biên kiếp 
	
	Xứ xứ tu hành đạo Phổ-hiền 
	
	Là hạnh phân-thân của Bồ-Tát. 
	
	Thấy các chúng-sanh chịu nhiều khổ 
	
	Khởi đại từ-bi hiện thế-gian 
	
	Diễn nói quang-minh trừ tối tăm 
	
	Là hạnh trí-nhựt của Bồ-Tát. 
	
	Thấy những chúng-sanh tại các loài 
	
	Vì nhóm vô-biên diệu-pháp luân 
	
	Khiến họ dứt hẳn dòng sanh tử 
	
	Đây là tu hành Phổ-Hiền hạnh. 
	
	Bồ-Tát tu tập phương-tiện này 
	
	Tùy tâm chúng-sanh mà hiện thân 
	
	Ở khắp tất cả trong các loài 
	
	Hóa độ vô-lượng những hàm-thức. 
	
	Dùng sức phương-tiện đại từ-bi 
	
	Hiện thân cùng khắp các thế-gian 
	
	Tùy họ hiểu muốn mà thuyết pháp 
	
	Đều khiến xu-hướng bồ-đề-đạo. 
	
	Nói kệ xong, Thích-Ca Cù-Ba bảo Thiện-Tài. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta đã thành-tựu môn giải-thoát quán-sát nhất-thiết Bồ-Tát 
	tam-muội-hải. 
	
	Thiện-Tài thưa: Bạch đức Thánh! Cảnh-giới của môn giải-thoát nầy thế nào? 
	
	Thích-Ca Cù-Ba nói: Nầy Thiện-nam-tử! Ta nhập môn giải-thoát nầy, biết trong 
	cõi Ta-Bà, trải qua phật-sát vi-trần-số kiếp có bao nhiêu chúng-sanh ở trong 
	các loài chết đây sanh kia, làm lành làm dữ, chịu những quả báo, có cầu xuất 
	ly, chẳng cầu xuất ly, chánh-định tà-định và bất-định, thiện-căn có 
	phiền-não, thiện-căn không phiền-não, thiện-căn đầy đủ, thiện-căn không đầy 
	đủ, bất-thiện-căn nhiếp lấy thiện-căn, thiện-căn nhiếp lấy bất-thiện-căn. 
	Chúng-sanh chứa nhóm những pháp thiện và bất-thiện như vậy ta đều biết thấy. 
	
	Lại trong những kiếp ấy, có bao nhiêu đức Phật danh hiệu thử đệ ta đều biết 
	rõ. 
	
	Chư Phật Thế-Tôn ấy từ sơ-phát-tâm, dùng phương-tiện cầu nhất-thiết-trí xuất 
	sanh tất cả những biển đại-nguyện, cúng-dường chư Phật tu hạnh bồ-tát, thành 
	đẳng chánh-giác, chuyển diệu pháp-luân, hiện đại thần-thông hóa độ 
	chúng-sanh, ta đều biết rõ. 
	
	Ta cũng biết chúng-hội sai biệt của chư Phật ấy. Trong đó có chúng-sanh y 
	nơi thanh-văn-thừa mà được xuất ly. Chúng Thanh-Văn nầy quá-khứ tu tập tất 
	cả thiện-căn, và được những trí-huệ ta đều biết rõ. 
	
	Có những chúng-sanh y nơi độc-giác-thừa mà được xuất ly. Những Độc-Giác nầy 
	có bao nhiêu thiện-căn, được bồ-đề tịch-diệt giải-thoát, thần-thông biến-hóa 
	thành-thục chúng-sanh, nhập niết-bàn ta đều biết rõ. 
	
	Ta cũng biết chư Bồ-Tát trong chúng-hội ấy, từ sơ-phát-tâm tu tập thiện-căn 
	xuất sanh vô-lượng hạnh nguyện lớn, thành tựu đầy đủ những môn ba-la-mật, 
	trang-nghiêm đạo bồ-tát, dùng sức tự-tại nhập bồ-tát-địa, trụ bồ-tát-địa, 
	quán bồ-tát-địa, tịnh bồ-tát-địa, tướng của bồ-tát-địa, trí của bồ-tát-địa, 
	trí của bồ-tát-nhiếp, trí của Bồ-Tát giáo-hóa chúng-sanh, trí của Bồ-Tát 
	kiến lập, cảnh-giới hạnh rộng lớn của Bồ-Tát, thần-thông hạnh của Bồ-Tát, 
	biển tam-muội của Bồ-Tát, phương-tiện của Bồ-Tát, Bồ-Tát trong mỗi niệm nhập 
	tam-muội-hải, được quang-minh nhất-thiết-trí, được điển-quang-vân 
	nhất-thiết-trí, được thiệt-tướng-nhẫn, thông đạt nhất-thiết-trí, trụ 
	sát-hải, nhập-pháp-hải, biết chúng-sanh-hải, trụ phương-tiện, phát thệ 
	nguyện, hiện thần-thông. Ta đều biết rõ cả. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Cõi Ta-Bà nầy, tận thuở vị-lai có những kiếp-hải xoay vần 
	chẳng dứt ta đều biết rõ. 
	
	Như biết cõi Ta-Bà, ta cũng biết vi-trần-số tất cả thế-giới trong cõi Ta-Bà, 
	ta cũng biết những thế-giới trong vi-trần của cõi Ta-Bà, cũng biết mười 
	phương thế-giới ở ngoài cõi Ta-Bà, cũng biết những thế-giới của Ta-Bà 
	thế-giới-chủng sở-nhiếp, cũng biết những thế-giới của thập phương vô-lượng 
	thế-giới chủng sở-nhiếp trong Hoa-Tạng Thế-giới-Hải nầy: 
	
	Những là thế-giới rộng-rãi, thế-giới an lập, thế-giới luận, thế-giới-tràng, 
	thế-giới sai biệt, thế-giới chuyển, thế-giới liên-hoa, thế-giới tu-di, 
	thế-giới danh hiệu.  Tất cả những 
	thế-giới trong thế-giới-hải nầy, do bổn-nguyện-lực của Tỳ-Lô-Giá-Na Thế-Tôn 
	nên ta đều biết rõ và ghi nhớ cả. 
	
	Ta cũng nhớ những nhơn-duyên-hải thuở xưa của đức Như-Lai: 
	
	Như là tu tập phương-tiện của tất cả thừa, trụ bồ-tát-hạnh trong vô-lượng 
	kiếp, tịnh phật quộc-độ, giáo-hóa chúng-sanh, kính thờ chư Phật, tạo lập trụ 
	xứ, nghe pháp, được tam-muội, được tự-tại, tu đàn-ba-la-mật, nhập Phật 
	công-đức, trì giới khổ hạnh, đầy đủ nhẫn lực, dũng mãnh tinh-tấn, thành-tựu 
	thiền-định, viên-mãn tịnh-huệ, thị hiện thọ sanh khắp mọi nơi, hạnh nguyện 
	Phổ-Hiền thảy đều thanh-tịnh, vào khắp các cõi, tịnh khắp Phật-dộ, vào khắp 
	Phật-trí, nhiệp khắp Phật bồ-đề, được đại-trí quang-minh của Như-Lai, chứng 
	phật-trí-tánh, thành đẳng-chánh-giác, chuyển diệu-pháp-luân. Nhẫn đến tất cả 
	đạo tràngchúng-hội của Phật, từ trước đến nay đã gieo thiện-căn, từ sơ phát 
	tâm thành thục chúng-sanh tu hành phương-tiện, niệm niệm tăng trưởng, được 
	những tam-muội thần-thông giải-thoát, ta đều biết rõ tất cả. 
	
	Tại sao vậy?  Vì môn giải-thoát 
	của ta đã được đây, có thể biết tâm hành của tất cả chúng-sanh, tất cả 
	thiện-căn của chúng-sanh tu hành, tất cả chúng-sanh tạp nhiễm thanh-tịnh, 
	tất cả chúng-sanh sai biệt, tất cả môn tam-muội của Thanh-Văn, tất cả 
	tam-muội thần-thông giải-thoát của Duyên-Giác, giải-thoát quang-minh của tất 
	cả Bồ-Tát, của tất cả Như-Lai, ta đều biết rõ. 
	
	Thiện-Tài thưa: Ngài được môn giải-thoát nầy đã bao lâu? 
	
	Cù-Ba nói: Nầy Thiện-nam-tử! Thuở xưa, quá phật-sát cực-vi-trần số kiếp, có 
	kiếp tên là Thắng-hạnh, thế-giới tên là Vô-Úy, trong thế-giới ấy có tứ 
	thiên-hạ tên là An-Ổn. Trong Diêm-Phù- Đề có thành vua tên là Cao-Thắng-Thọ, 
	vương-thành nầy là thượng-thủ trong tám mươi Vương-thành. Quốc-Vương tên là 
	Tài-Chủ, có sáu vạn Thể-Nữ, năm trăm Vương-Tử, năm trăm Đại-Thần. 
	
	Các Vương-Tử nầy đều dũng-mãnh dẹp được oán-địch. 
	
	Thái-Tử tên là Oai-Đức-Chủ, thân tướng đầy đủ đoan chính xinh đẹp, mọi người 
	đều thích thấy. Vương-Tử nầy dưới bàn chân bằng đầy, đủ luân-tướng, lưng bàn 
	chân vun cao, ngón tay ngón chân đều có màn mỏng, gót chân ngay bằng tay 
	chân dịu mềm, bắp chân lộc-vương, bảy chỗ viên-mãn, âm-tàng ẩn kín, phần 
	trên của thân mình như sư-tử-vương, hai vai bằng đầy, hai tay suông dài, 
	thân tướng ngay thẳng, cổ ba ngấn, má như sư-tử, đủ bốn mươi cái răng tất cả 
	đều bằng kín, bốn răng nanh trắng bóng, lưỡi dài rộng vang phạm âm thanh, 
	tròng mắt xanh biếc, lông mắt như ngưu-vương, chặng mày có bạch-hào, trên 
	đỉnh đầu có nhục-kế, da thứa mịn nhuyễn màu chơn kim, lông trên thân đều 
	xoắn lên trên, tóc màu đế-thanh, thân tròn đầy ngay thẳng như cây ni-câu-đà. 
	
	Lúc đó Thái-Tử tuân lịnh Phụ-Vương cùng một ngàn thể-nữ vào vườn Hương-nha 
	du ngoạn. Thái-Tử ngồi trên tòa sư-tử đại-ma-ni trong xe, năm trăm thể-nữ 
	cầm dây báu kéo xe. Trăm ngàn vạn người cầm bửu-cái. Trăm ngàn muôn người 
	cầm bửu-tràng. Trăm ngàn muôn người cầm bửu-phan. Trăm ngàn muôn người trổi 
	nhạc. Trăm ngàn muôn người xông hương thơm. Trăm ngàn muôn người rải hoa 
	đẹp. Tùy tùng trước sau theo xe Thái-Tử. 
	
	Đường xá bằng phẳng, rải đầy những hoa đẹp. Hai bên đường cây báu thành 
	hàng, lưới báu giăng che, nhiều lầu các chứa những châu báu, hoặc trần thiết 
	những vật trang-nghiêm, hoặc chưng dọn những thức uống ăn, hoặc treo y-phục, 
	hoặc sắm đủ những vật tư-sanh, tùy ai cần gì đều ban cho. 
	
	Bấy giờ có bà mẹ tên là Thiện-Hiện dắt một Đồng-nữ tên là Cụ-Túc-Diệu-Đức. 
	Đồng-nữ nầy dung nhan đoan chánh, mắt và tóc xanh biếc, tiếng nói như 
	phạm-âm, nghề khéo, luận giỏi, siêng năng kính nhường, đủ lòng từ mẫn, hổ 
	thẹn, nhu hòa, chất trực, lìa ngu si, ít tham dục, không siểm nịnh dối 
	phỉnh. Đồng-nữ cùng mẫu-thân ngồi xe, các thể-nữ theo hầu, đi trước xe 
	Thái-Tử. 
	
	Đồng-nữ ấy thấy Thái-Tử bèn sanh lòng yêu mến, nói với mẹ rằng nàng muốn 
	kính thờ người nầy, nếu không toại nguyện quyết sẽ tự vẫn. 
	
	Mẹ bảo chớ có vọng niệm. Đây là Thái-Tử đủ tướng Luân-Vương. Sau đây lên 
	ngôi sẽ làm Chuyển-Luân-Vương, có Bửu-Nữ xuất hiện, bay trên không tự tại. 
	Chúng ta là hàng ti-tiện chớ sanh vọng niệm, vì sự ấy khó đạt thành. 
	
	Bên cạnh khu vườn Hương-Nha có một đạo-tràng tên là Pháp-Vân Quang-Minh. Có 
	đức Như-Lai hiệu là Thắng-Nhựt-Thân, đủ mười hiệu, xuất hiện trong đó đã 
	được bảy ngày. 
	
	Đồng-Nữ Diệu-Đức ngủ gật mộng thấy Phật. Khi thức dậy, trên không có 
	Thiên-Thần bảo Đồng-Nữ rằng Thắng-Nhựt-Thân Như-Lai thành Đẳng-Chánh-Giác 
	nơi đạo-tràng Pháp-Vân Quang-Minh đã được bảy ngày, chúng Bồ-Tát vây quanh, 
	chư Thiên, Long, bát-bộ, cùng chư Thần vì muốn thấy Phật nên đều tập hội. 
	
	Đồng-Nữ Diệu-Đức do mộng thấy Phật, lại nghe công đức của Phật, nên lòng 
	nàng an-ổn không khiếp sợ, ở trước Thái-Tử mà nói kệ rằng: 
	
	Thân tôi rất đoan chánh 
	
	Tiếng đồn khắp mười phương 
	
	Trí-huệ không ai sánh 
	
	Khéo giỏi đủ các nghề. 
	
	Vô-lượng trăm ngàn chúng 
	
	Thấy tôi đều tham nhiễm 
	
	Lòng tôi đối với họ 
	
	Không một niệm ái dục. 
	
	Không sân cũng không hận 
	
	Không ghét cũng không mừng 
	
	Chỉ phát tâm quảng đại 
	
	Lợi ích các chúng-sanh. 
	
	Nay tôi thấy Thái-Tử 
	
	Đủ những tướng công-đức 
	
	Tâm tôi rất vui mừng 
	
	Khắp thân đều thơ thới. 
	
	Màu da như minh-bửu 
	
	Tóc đẹp xoắn phía hữu 
	
	Trán rộng, mày nhỏ cong 
	
	Lòng tôi nguyện thờ Ngài. 
	
	Tôi xem thân Thái-Tử 
	
	Giống như tượng chân-kim 
	
	Cũng như đại-bửu-sơn 
	
	Tướng tốt có quang-minh. 
	
	Mắt rộng màu xanh biếc 
	
	Mặt tròn như trăng sáng 
	
	Vui-vẻ giọng nói hay 
	
	Xin thương nạp thọ tôi. 
	
	Tướng lưỡi rộng dài đẹp 
	
	Đỏ như màu xích đồng 
	
	Phạm-âm tiếng Khẩn-Na 
	
	Ai nghe cũng vui đẹp. 
	
	Miệng vuông chẳng co rút 
	
	Răng trắng đều kín bằng 
	
	Lúc phát ngôn, hiện cười 
	
	Người thấy lòng hoan-hỉ. 
	
	Thân ly cấu thanh-tịnh 
	
	Đủ ba mươi hai tướng 
	
	Tất sẽ ở cõi nầy 
	
	Mà làm Chuyển-Luân-Vương. 
	
	Thái-Tử bảo Đồng-Nữ rằng: Nàng là con gái của ai? Ai thủ hộ nàng? Nếu trước 
	đã thuộc người khác, thời ta không nên sanh lòng ái nhiễm. Thái-Tử nói kệ 
	rằng: 
	
	Thân nàng rất thanh-tịnh 
	
	Đầy đủ tướng công-đức 
	
	Nay ta có lời hỏi 
	
	Hiện nàng ở với ai? 
	
	Cha mẹ nàng tên gì? 
	
	Nay nàng hệ thuộc ai? 
	
	Nếu đã thuộc người khác 
	
	Người đó nhiếp thọ nàng. 
	
	Nàng chẳng trộm của người, 
	
	Nàng không lòng giết hại, 
	
	Nàng chẳng phạm tà-dâm, 
	
	Nàng nương lời nói nào 
	
	Chẳng nói xấu người khác, 
	
	Chẳng phá thân thuộc người, 
	
	Chẳng xâm cảnh giới người, 
	
	Chẳng giận hờn người khác, 
	
	Chẳng sanh tà-hiểm-kiến, 
	
	Chẳng làm nghiệp trái nhau, 
	
	Chẳng dùng sức siểm-khúc 
	
	Phương-tiện gạt thế-gian. 
	
	Tôn trọng cha mẹ chăng? 
	
	Kính thiện-tri-thức chăng? 
	
	Thấy những người nghèo cùng 
	
	Phát tâm giúp đỡ chăng? 
	
	Nếu có thiện-tri-thức 
	
	Dạy bảo những điều hay 
	
	Nàng phát tâm kiên cố 
	
	Hoàn toàn tôn trọng chăng? 
	
	Có kính mến Phật chăng? 
	
	Có biết Bồ-Tát chăng? 
	
	Chúng tăng biển công-đức 
	
	Nàng có tôn kính chăng? 
	
	Nàng có biết pháp chăng? 
	
	Dạy được chúng-sanh chăng? 
	
	Nàng ở trong chánh-pháp 
	
	Hay ở trong phi-pháp? 
	
	Thấy những người cô-độc 
	
	Nàng có thương xót chăng? 
	
	Thấy chúng-sanh ác đạo 
	
	Nàng có bi-mẫn chăng? 
	
	Thấy người được vinh hạnh 
	
	Nàng có hoan hỉ chăng? 
	
	Người đến bức hại nàng 
	
	Nàng có phiền giận chăng? 
	
	Nàng phát tâm bồ-đề 
	
	Khai ngộ chúng-sanh chăng? 
	
	Vô-biên kiếp tu hành 
	
	Được không mỏi nhàm chăng? 
	
	Thân-mẩu của Đồng-Nữ nói kệ trả lời Thái-Tử: 
	
	Thái-Tử ngài lắng nghe 
	
	Nay tôi nói Đồng-Nữ 
	
	Sơ-sanh đến trưởng-thành 
	
	Tất cả những nhơn-duyên: 
	
	Ngày Thái-Tử mới sanh 
	
	Nàng từ liên-hoa sanh, 
	
	Mắt nàng sáng dài rộng 
	
	Tay chân đều hoàn mỹ. 
	
	Tôi từng ở mùa xuân 
	
	Du ngoạn vườn Ta-La 
	
	Thấy khắp những dược-thảo 
	
	Mọi thứ đều tươi tốt. 
	
	Cây lạ trổ hoa đẹp 
	
	Trông đó như khánh-vân, 
	
	Chim đẹp cùng hòa hót 
	
	Trong rừng đồng hoan lạc. 
	
	Cùng đi tám trăm cô 
	
	Đoan chánh chiếm lòng người 
	
	Y phục đều nghiêm lệ 
	
	Ca ngâm đều rất hay. 
	
	Vườn đó có ao tắm 
	
	Tên là Liên-Hoa-Tràng, 
	
	Tôi ngồi trên bờ ao 
	
	Thể-nữ hầu chung-quanh. 
	
	Trong ao sen lớn ấy 
	
	Bỗng sanh hoa ngàn cánh 
	
	Cánh báu, cọng lưu-ly, 
	
	Vàng Diêm-Phù làm đài. 
	
	Bấy giờ là hừng sáng 
	
	Mặt nhụt mới ló mọc, 
	
	Hoa ấy đương nở ra 
	
	Phóng ánh sáng thanh-tịnh. 
	
	Ánh sáng ấy rất mạnh 
	
	Dường như mặt trờ mọc 
	
	Chiếu khắp Diêm-Phù-Đề 
	
	Mọi người đều khen lạ. 
	
	Bấy giờ thấy Đồng-Nữ 
	
	Từ hoa sen đó sanh 
	
	Thân nàng rất thanh-tịnh 
	
	Chi Phần đều viên-mãn. 
	
	Đây là báu nhơn-gian 
	
	Từ nơi tịnh-nghiệp sanh 
	
	Nhơn trước không hư mất 
	
	Nay thọ quả báo nầy. 
	
	Tóc biếc, mắt sen xanh, 
	
	Phạm-Thinh, da chân-kim, 
	
	Tràng hoa, những bửu-kế 
	
	Thanh-tịnh không chút nhơ. 
	
	Chi tiết đều đầy đủ 
	
	Thân nàng không khuyết giảm 
	
	Dường như tượng chơn-kim 
	
	Đặt ở trong bửu hoa. 
	
	Chân lông mùi chiên-đàn 
	
	Xông khắp cả mọi nơi, 
	
	Miệng phát mùi thanh-liên 
	
	Thường diễn tiếng phạm-âm. 
	
	Chỗ của nàng nầy ở 
	
	Thường có âm nhạc trời, 
	
	Chẳng nên để kẻ hèn 
	
	Sánh đôi với nàng nầy. 
	
	Thế-gian không người nào 
	
	Kham làm chồng nàng nầy, 
	
	Duy ngài đủ tướng tốt 
	
	Xin nạp thọ nàng nầy. 
	
	Chẳng cao cũng chẳng thấp, 
	
	Chẳng thô cũng chẳng tế, 
	
	Toàn thân đều đoan-nghiêm 
	
	Xin Ngài nạp thọ nàng. 
	
	Văn tự pháp toán số 
	
	Tất cả những nghề khéo 
	
	Nàng đều thông suốt cả 
	
	Xin Ngài nạp thọ nàng. 
	
	Biết rành những binh pháp 
	
	Khéo phán đoán kiện tụng 
	
	Đều được kẻ khó điều 
	
	Xin Ngài nạp thọ nàng. 
	
	Thân nàng rất thanh-tịnh 
	
	Người thấy không nhàm đủ 
	
	Công-đức tự trang-nghiêm 
	
	Ngài nên nạp thọ nàng. 
	
	Chúng-sanh có họa hoạn 
	
	Khéo rõ duyên khởi đó 
	
	Đúng bịnh mà cho thuốc 
	
	Tất cả diệt trù được. 
	
	Những ngôn ngữ Diêm-Phù 
	
	Vô-lượng thứ sai khác 
	
	Nhẫn đến tiếng kỹ nhạc 
	
	Nàng thông suốt tất cả. 
	
	Những nghề của phụ nữ 
	
	Nàng nầy biết tất cả, 
	
	Mà không lỗi phụ nữ 
	
	Ngài nên mau nạp nàng. 
	
	Chẳng ganh cũng chẳng tiếc, 
	
	Không tham cũng không giận, 
	
	Tánh nhu nhuyến chất trực 
	
	Rời bỏ những thô ác. 
	
	Cung kính bực tôn-túc 
	
	Phụng thờ không trái nghịch 
	
	Thích tu những hạnh lành 
	
	Có thể tùy thuận ngài. 
	
	Nếu nàng thấy già bịnh 
	
	Nghèo cùng và hoạn nạn 
	
	Không ai cứu không nương 
	
	Nàng sanh lòng xót thương. 
	
	Thường quán đệ-nhất-nghĩa 
	
	Chẳng cầu tự lợi lạc 
	
	Chỉ nguyện lợi chúng-sanh 
	
	Dùng đây trang-nghiêm tâm. 
	
	Đi đứng cùng ngồi nằm 
	
	Tất cả không phóng dật 
	
	Nói năng và yên lặng 
	
	Ai thấy cũng vui mừng. 
	
	Dầu ở tất cả chỗ 
	
	Đều không lòng nhiễm trước 
	
	Thấy người có công-đức 
	
	Hoan-hỉ không biết nhàm. 
	
	Tôn trọng thiện-tri-thức 
	
	Thích thấy người rời ác 
	
	Tâm nàng không tháo động 
	
	Xét trước sau mới làm. 
	
	Trang-nghiêm với phước trí 
	
	Tất cả không oán hận 
	
	Hơn hết trong hàng nữ 
	
	Đáng người thờ Thái-Tử. 
	
	Lúc đã vào vườn Hương-Nha, Thái-Tử bảo Đồng-Nữ Diệu-Đức và bà Thiện-Hiện 
	rằng: 
	
	Nầy Thiện-Nữ! Ta cầu vô-thượng bồ-đề, sẽ tột vô-lượng kiếp thuở vị-lai chứa 
	nhóm pháp trợ-đạo nhất-thiết-trí, tu tập vô-biên bồ-tát-hạnh, tịnh tất cả 
	ba-la-mật, cúng-dường tất cả Như-Lai, hộ trì tất cả Phật-giáo, nghiêm tịnh 
	tất cả Phật-độ, sẽ làm cho Phật-chủng của tất cả Như-Lai chẳng mất, sẽ theo 
	chủng-tánh của tất cả chúng-sanh để thành-thục họ, sẽ diệt khổ sanh tử cho 
	chúng-sanh được ở chỗ rốt ráo an lạc, sẽ tịnh tri mắt trí-huệ cho tất cả 
	chúng-sanh, sẽ tu tập tất cả công-hạnh của Bồ-Tát, sẽ an trụ nơi tâm 
	bình-đẳng của tất cả Bồ-Tát, sẽ thành-tựu hành-địa của tất cả Bồ-Tát, sẽ làm 
	cho tất cả chúng-sanh đều hoan-hỉ, sẽ xả thí tất cả vật để thật hành đàn 
	ba-la-mật tột thuở vị-lai, làm cho tất cả chúng-sanh đều được đầy đủ, những 
	vật uống ăn, y phục, vợ con đến đầu mặt tay chân ta đều sẽ xả thí không hề 
	tiếc. 
	
	Lúc đó nàng sẽ cản trở ta, lúc thí của cải nàng sẽ lẫn tiếc, lúc thí con cái 
	nàng sẽ buồn khổ, lúc cắt tay chân nàng sẽ sầu muộn, lúc bỏ nàng để xuất gia 
	lòng nàng sẽ hối hận. 
	
	Thái-Tử nói kệ bảo nàng Diệu-Đức rằng: 
	
	Vì thương xót chúng-sanh 
	
	Ta phát tâm bồ-đề 
	
	Ở trong vô-lượng kiếp 
	
	Tu Tập nhất-thiết-trí. 
	
	Trong vô-lượng đại-kiếp 
	
	Tịnh tu những nguyện-hải 
	
	Nhập địa và trừ chướng 
	
	Đều trải vô-lượng kiếp. 
	
	Chỗ tam thế chư Phật 
	
	Học lục ba-la-mật 
	
	Đầy đủ hạnh phương-tiện 
	
	Thành-tựu đạo bồ-đề. 
	
	Cõi cấu uế mười phương 
	
	Ta sẽ đều nghiêm tịnh 
	
	Tất cả nạn ác-đạo 
	
	Ta sẽ khiến thoát hẳn. 
	
	Ta sẽ dùng phương-tiện 
	
	Rộng độ các quần-sanh 
	
	Khiến diệt tối ngu-si 
	
	Trụ nơi phật-trí-đạo. 
	
	Sẽ cúng tất cả Phật, 
	
	Sẽ tịnh tất cả địa, 
	
	Khởi đại từ-bi tâm 
	
	Đều bỏ vật trong ngoài. 
	
	Nàng thấy người đến xin 
	
	Hoặc sanh lòng tham tiếc, 
	
	Tâm ta thường thích thí 
	
	Nàng chớ trái lòng ta. 
	
	Nếu thấy ta thí đầu 
	
	Chớ có sanh buồn khổ, 
	
	Nay ta bảo nàng trước 
	
	Cho lòng nàng kiên-cố. 
	
	Nhẫn đến chặt tay chân 
	
	Nàng chớ trách người xin, 
	
	Nay nàng nghe lời ta 
	
	Cần phải suy nghĩ kỹ. 
	
	Tất cả vật sở hữu 
	
	Ta đều xả tất cả, 
	
	Nếu nàng thuận lòng ta 
	
	Ta sẽ toại ý nàng 
	
	Đồng-nữ thưa với Thái-Tử: 
	
	Kính vâng lời dạy của Ngài. 
	
	Đồng-nữ liền nói kệ đáp lời Thái-Tử: 
	
	Trong vô-lượng kiếp-hải 
	
	Lửa địa-ngục đốt thân 
	
	Nếu Ngài thương nạp tôi 
	
	Cam tâm chịu khổ nầy. 
	
	Vô-lượng chỗ thọ sanh 
	
	Nát thân như vi-trần 
	
	Nếu Ngài thương nạp tôi 
	
	Cam tâm thọ khổ nầy. 
	
	Vô-lượng kiếp đầu đội 
	
	Núi kim-cang lớn rộng 
	
	Nếu Ngài thương nạp tôi 
	
	Cam tâm thọ khổ nầy. 
	
	Vô-lượng biển sanh tử 
	
	Đem thịt tôi bố thí 
	
	Chỗ Ngài thành Pháp-Vương 
	
	Nguyện cho tôi cũng vậy. 
	
	Nếu Ngài thương nạp tôi 
	
	Cho tôi làm chủ đó 
	
	Đời đời Ngài bố thí 
	
	Nguyện thường đem tôi thí. 
	
	Vì thương chúng-sanh khổ 
	
	Mà phát tâm bồ-đề 
	
	Đã nhiếp chúng-sanh rồi 
	
	Cũng sẽ nhiếp thọ tôi. 
	
	Tôi chẳng cầu giầu sang 
	
	Chẳng tham vui ngũ-dục 
	
	Chỉ vì cùng tu hành 
	
	Nguyện dùng Ngài làm chủ. 
	
	Mắt rộng dài xanh biếc 
	
	Từ mẫn nhìn thế-gian 
	
	Chẳng móng tâm nhiễm trước 
	
	Quyết thành đạo Bồ-Tát. 
	
	Chỗ Thái-Tử bước đi 
	
	Đất mọc những bửu-hoa 
	
	Tất làm Chuyển-Luân-Vương 
	
	Xin Ngài thương nạp tôi. 
	
	Tôi vừa mộng thấy Phật 
	
	Diệu-pháp bồ-đề tràng 
	
	Đức Phật ngồi dưới cây 
	
	Vô-lượng chúng vây quanh. 
	
	Tôi mộng thấy Như-Lai 
	
	Thân như núi Chơn-kim 
	
	Tay Phật xoa đầu tôi 
	
	Thức dậy lòng hoan-hỉ. 
	
	Trời quyến-thuộc thuở xưa 
	
	Tên là Hỉ-Quang-Minh 
	
	Trời đó vì tôi nói 
	
	Đạo tràng Phật xuất thế. 
	
	Tôi từng nghĩ như vậy 
	
	Nguyện thấy thân Thái-Tử, 
	
	Trời ấy bảo tôi rằng 
	
	Nay nàng sẽ được thấy. 
	
	Chí nguyện trước của tôi 
	
	Hôm nay đều thành mãn 
	
	Xin cùng ngài đồng đến 
	
	Cúng-dường đức Như-Lai 
	
	Thái-Tử nghe danh hiệu Thắng-Nhựt-Thân Như-Lai, rất hoan-hỉ muốn được thấy 
	Phật. 
	
	Thái-Tử đem năm trăm châu ma-ni rải trên Đồng-Nữ, ban mão 
	Diệu-Tạng-Quang-Minh-Bửu và áo Hỏa-Diệm-Ma-Ni-Bửu. 
	
	Đồng-Nữ Diệu-Đức lòng chẳng rung động cũng không lộ vẻ mừng, chỉ chắp tay 
	cung-kính chiêm-ngưỡng Thái-Tử mắt chẳng tạm rời. 
	
	Bà Thiện-Hiện ở trước Thái-Tử nói kệ rằng: 
	
	Con tôi rất đoan chánh 
	
	Thân công-đức trang-nghiêm 
	
	Xưa nguyện thờ Thái-Tử 
	
	Nay đã được toại ý. 
	
	Trì giới có trí huệ 
	
	Đầy đủ các công-đức 
	
	Khắp tất cả thế-gian 
	
	Tối-thắng không ai bằng. 
	
	Từ liên-hoa hóa sanh 
	
	Chủng tánh không hèn xấu 
	
	Thái-Tử đồng hạnh nghiệp 
	
	Xa lìa tất cả lỗi. 
	
	Con tôi thân nhu nhuyến 
	
	Dường như lụa cõi trời 
	
	Tay nàng rờ chạm đến 
	
	Bịnh đau đều trừ diệt. 
	
	Lỗ lông phát hương thơm 
	
	Ngào ngạt không gì bằng 
	
	Nếu ai được ngửi đến 
	
	Đều ở nơi tịnh-giới. 
	
	Màu da như chơn-kim 
	
	Ngồi ngay trên hoa-đài 
	
	Chúng-sanh nếu được thấy 
	
	Hết oán phát tâm từ. 
	
	Lời nói rất dịu dàng 
	
	Ai nghe cũng hoan-hỉ 
	
	Chúng-sanh nếu được nghe 
	
	Đều rời những ác-nghiệp. 
	
	Tâm tịnh không vết nhơ 
	
	Xa lìa những siểm khúc 
	
	Xứng tâm mà phát ngôn 
	
	Người nghe đều hoan-hỉ. 
	
	Điều nhu lòng hổ thẹn 
	
	Cung kính bậc tôn túc 
	
	Không tham cũng không dối 
	
	Thương xót các chúng-sanh. 
	
	Lòng con tôi chẳng ỷ 
	
	Sắc tướng và quyến-thuộc 
	
	Chỉ dùng tâm thanh-tịnh 
	
	Cung Kính tất cả Phật. 
	
	Lúc đó Thái-Tử và nàng Diệu-Đức đem một ngàn thể-nữ cùng quyến-thuộc, ra 
	khỏi vườn Hương-Nha, đến đạo-tràng Pháp-Vân Quang-Minh, xuống xe đi bộ đến 
	chỗ đức Phật. 
	
	Thấy đức Phật Thắng-Nhựt-Thân đoan-nghiêm tịch-tịnh, căn thân điều thuận 
	trong ngoài đều thanh-tịnh, như ao Đại-Long không có cặn nhơ, Thái-Tử và 
	quyến-thuộc sanh lòng kính tin vui mừng hớn-hở đảnh lễ chân đức Phật, 
	hữu-nhiễu vô-số vòng. 
	
	Thái-Tử và nàng Diệu-Đức, mỗi người cầm năm trăm bông sen báu cúng-dường đức 
	Phật. 
	
	Thái-Tử vì Phật mà kiến tạo năm trăm tinh xá bằng gỗ thơm, trang-nghiêm với 
	những diệu-bửu xen châu ma-ni. 
	
	Đức Phật thuyết kinh Phổ-Nhãn-Đăng-Môn. Thái-Tử nghe xong, ở trong tất cả 
	pháp được tam-muội-Hải: 
	
	Như là Phổ-chiếu-nhứt-thiết-phật-nguyện-hải tam-muội, phổ-chiếu tam-thế-tạng 
	tam-muội, hiện-kiến-nhứt-thiết-phật-đạo-tràng tam-muội, 
	phổ-chiếu-nhứt-thiết-chúng-sanh tam-muội, 
	phổ-chiếu-nhứt-thiết-thế-gian-trí-đăng tam-muội, 
	Phổ-chiếu-nhứt-thiết-chúng-sanh-căn-trí-đăng tam-muội, 
	cứu-hộ-nhứt-thiết-chúng-sanh-quang-minh-vân tam-muội, 
	phổ-chiếu-nhứt-thiết-chúng-sanh-đại-minh-đăng tam-muội, 
	diễn-nhất-thiết-phật-pháp-luân tam-muội, cụ-túc-phổ-hiền-thanh-tịnh-hạnh 
	tam-muội. 
	
	Nàng Diệu-Đức được nan-thắng-hải-tạng tam-muội, trọn chẳng thối-chuyển nơi 
	vô-thượng bồ-đề. 
	
	Thái-Tử và Diệu-Đức cùng quyến thuộc đảnh lễ chân Phật, hữu nhiễu vô-số vòng 
	từ tạ trở về cung, tâu cùng Phụ-Vương rằng: Đức Thắng-Nhựt-Thân Như-Lai gần 
	đây xuất thế thành Đẳng-Chánh-Giác tại đạo-tràng bồ-đề Pháp-Vân Quang-Minh 
	nơi vườn Hương-Nha. 
	
	Phụ-Vương hỏi Thái-Tử:  Ai nói 
	cho con hay sự ấy. 
	
	Thái-Tử tâu: Nàng Cụ-Túc Diệu-Đức nói cho con hay, và chúng con đã đến đảnh 
	lễ cúng-dường đức Phật. 
	
	Phụ-Vương hoan hỉ vô-lượng như người nghèo được của báu. Nhà vua tự nghĩ: 
	đức Phật là vô-thượng-bửu khó được gặp. Nếu được thấy Phật thời. dứt hẳn sự 
	sợ ác-đạo. Đức Phật như Y-Vương trị lành tất cả bịnh phiền-não, có thể cứu 
	tất cả khổ lớn sanh-tử. Đức Phật như Đạo-Sư, có thể làm cho chúng-sanh đến 
	nơi an-ổn rốt ráo. 
	
	Nhà vua suy nghĩ xong, liền hội chư tiểu-vương, các quan, quyến thuộc và các 
	sát-đế-lợi, bà-la-môn cùng tất cả quốc-dân. Nhà vua tuyên bố thối vị, nhường 
	ngôi cho Thái-Tử. 
	
	Sau khi làm lễ quán-đảnh cho Thái-Tử, quốc-vương Tài-Chủ cùng một vạn người 
	đến chỗ đức Phật, đảnh lễ nơi chân đức Phật, hữu nhiễu vô-số vòng, rồi cùng 
	quyến-thuộc lui ngồi một phía. 
	
	Đức Thắng-Nhựt-Thân Như-Lai quán-sát quốc-vương và đại-chúng, rồi phóng bạch 
	hào quang-minh tên là nhất-thiết-thế-gian-tâm-đăng chiếu khắp vô-lượng 
	thế-giới mười phương. Quang-minh ấy dừng ở trước tất cả Thế-Chủ, thị-hiện 
	Như-Lai bất-khả-tư-nghì đại-thần-thông-lực, làm cho tất cả kẻ đáng được 
	hóa-độ thân tâm thanh-lương. 
	
	Lúc đó đức Như-Lai hiện thân siêu xuất tất cả thế-gian, dùng viên-mãn-âm vì 
	khắp đại chúng mà nói đà-la-ni tên là nhất thiết-pháp-nghĩa-ly-ám-đăng, có 
	phật-sát vi-trần-số đà-la-ni làm quyến-thuộc. 
	
	Quốc-Vương nghe xong liền được đại-trí quang-minh. 
	
	Trong chúng-hội có diêm-phù-đề vi-trần số Bồ-Tát đồng thời chứng được môn 
	đà-la-ni nầy. 
	
	Sáu mươi vạn na-do-tha người, sạch hữu-lậu tâm được giải-thoát. 
	
	Mười ngàn chúng-sanh xa lìa trần cấu được pháp-nhãn tịnh. 
	
	Vô-lượng chúng-sanh phát tâm bồ-đề. 
	
	Đức Phật lại hiện thần-biến khắp mười phương vô-lượng thế-giới diễn pháp 
	tam-thừa hóa độ chúng-sanh. 
	
	Quốc-Vương tự nghĩ: Nếu tại-gia, ta chẳng thể chứng được diệu-pháp như vậy. 
	Nếu ta xuất-gia tu học bên Phật thời sẽ được thành-tựu. Suy nghĩ xong, 
	quốc-vương đến bạch Phật xin xuất gia. Đức Phật hứa khả. 
	
	Quốc-Vương Tài-Chủ cùng một vạn quyến thuộc đồng xuất gia. Không bao lâu, 
	nhà vua và quyến-thuộc đồng thành-tựu nhất-thiết-pháp-nghĩa-lý-ám đăng 
	đà-la-ni, và các môn tam-muội như trên, lại được Bồ-Tát mười môn thần-thông, 
	lại được Bồ-Tát vô biên biện-tài, lại được Bồ-Tát vô-ngại tịnh-thân đến chỗ 
	chư Phật mười phương để nghe pháp, làm đại pháp-sư diễn nói diệu-pháp. 
	
	Quốc-Vương lại dùng thần-lực đến mười phương thế-giới tùy tâm chúng-sanh mà 
	vì hiện thân, tán than Phật xuất thế, nói bổn hạnh của Phật, bày bổn-duyên 
	của Phật, tán dương thần-lực tự-tại của Như-Lai, hộ-trì Phật-pháp. 
	
	Thái-Tử ở tại kim-điện, đúng ngày rằm, thất bửu tự hiện đầy đủ: 
	
	Một là luân-bửu tên là Vô-Ngại-Hành. 
	Hai là tượng-bửu tên là kim-Cang-Thân. 
	
	Ba là mã-bửu tên là Tốc-Tật-Phong. 
	Bốn là châu-bửu tên là Quang-Tạng. 
	
	Năm là nữ-bửu tên là Cụ-Túc Diệu-Đức. 
	Sáu là tạng-thần-bửu tên là Đại-Tài. 
	
	Bảy là chủ-binh-bửu tên là Ly-Cấu-Nhãn. 
	
	Đã đủ bảy báu, Thái-Tử làm Chuyển-Luân-Vương cai trị Diêm-Phù-Đề, nhân-dân 
	được an lạc. 
	
	Luân-Vương có ngàn Vương-Tử đoan chánh dũng kiện, có thể dẹp oán địch. 
	
	Trong Diêm-Phù-Đề có tám mươi Vương-Thành. Trong mỗi thành có năm trăm 
	tăng-phường. Mỗi tăng-phường đều lập tinh-xá cao rộng xinh đẹp, trang-nghiêm 
	với những diệu-bửu. 
	
	Mỗi Vương-Thành đều thỉnh đức Thắng-Nhựt-Thân-Như-Lai đến để cúng dường. 
	
	Lúc nhập thành đức Như-Lai hiện đại thần-lực khiến vô-lượng chúng-sanh gieo 
	những căn lành, vô-lượng chúng-sanh tâm được thanh-tịnh, thấy Phật hoan-hỉ, 
	phát tâm bồ-đề, khởi lòng đại-bi lợi ích chúng-sanh, siêng tu phật-pháp 
	chứng nhập thật-nghĩa, trụ nơi pháp-tánh rõ pháp bình-đẳng, được tam-thế-trí 
	bình-đẳng xem xét tam-thế biết tất cả Phật thứ đệ xuất thế thuyết pháp độ 
	sanh, phát bồ-tát-nguyện, nhập bồ-tát-đạo, biết Như-Lai pháp, thành-tựu 
	pháp-hải, có thể khắp hiện thân khắp tất cả cõi, biết căn tánh dục lạc của 
	chúng-sanh khiến họ phát khởi chí nguyện nhất-thiết-trí. 
	
	Nàng Cù-Ba bảo Thiện-Tài rằng: Nầy Thiện-nam-tử! Xưa kia, Thái-Tử được ngôi 
	Chuyển-Luân-Vương cúng-dường đức Phật Thắng-Nhựt-Thân Như-Lai chính là đức 
	Thích-Ca-Mâu-Ni Thế-Tôn hiện nay. 
	
	Quốc-Vương Tài-Chủ thuở xưa, nay là đức Bửu-Hoa-Phật hiện ngự đạo-tràng 
	Hiện-Nhất-Thiết-Thế-Chủ-Thân ở Thế-giới Viên-Mãn-Quang trong thế-giới-chủng 
	Phổ-Hiện-Tam-Thế-Ảnh-Ma-Ni-Vương tại thế-giới-hải 
	Hiện-Pháp-Giới-Hư-Không-Ảnh-Tượng-Vân cách đây về phương đông quá 
	thế-giới-hải vi-trần-số cõi Phật. Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số 
	chúng Bồ-Tát vây quanh nghe pháp. 
	
	Lúc Bửu-Hoa Như-Lai tu bồ-tát-hạnh, đức Phật nghiêm-tịnh thế-giới-hải nầy. 
	Nơi đây chư Phật quá-khứ, hiện-tại, vị-lai xuất thế, đều là những vị do 
	Bửu-Hoa Như-Lai, lúc còn làm Bồ-Tát, giáo-hóa khiến phát tâm vô-thượng 
	bồ-đề. 
	
	Bà Thiện-Hiện, thân-mẫu của Đồng-Nữ Diệu-Đức, nay là thân-mẫu của ta, bà 
	Thiện-Mục đấy. 
	
	Quyến thuộc của nhà vua xưa kia, nay là chúng-hội của đức Như-Lai, đều tu 
	hành đủ những hạnh Phổ-hiền, thành-mãn đại nguyện. Dầu hằng ở tại đạo-tràng 
	của đức Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn, mà có thể hiện khắp tất cả thế-gian, trụ 
	bồ-tát bình-đẳng tam-muội, thường được hiện thấy tất cả chư Phật, đều nghe 
	lãnh được pháp-luân của tất cả Như-Lai, đều được tự-tại nơi tất cả pháp, 
	tiếng đồn khắp các phật-độ, đến chỗ tất cả đạo-tràng, hiện trước tất cả 
	chúng-sanh, tùy nghi giáo hóa điều phục, tu bồ-tát-đạo tận vị-lai kiếp không 
	gián đoạn, thành mãn những thệ nguyện quảng đại của Phổ-Hiền. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Nàng Diệu-Đức xưa kia, chính là thân ta ngày nay. 
	
	Đức Thắng-Nhựt-Thân Như-Lai diệt độ, sau đó, trong thế-giới ấy có sáu mươi 
	ức trăm ngàn na-do-tha đức Phật xuất thế, ta cùng Luân-Vương đều kính thờ 
	cúng-dường. 
	
	Tối-sơ Phật hiệu là Thanh-Tịnh-Thân, theo thứ đệ có Phật 
	Nhất-Thiết-Trí-Nguyệt-Quang-Minh-Thân, Phật 
	Diêm-Phù-Đàn-Kim-Quang-Minh-Vương, Phật Chư-Tướng-Trang-Nghiêm-Thân, Phật 
	Diệu-Nguyệt-Quang, Phật Trí-Quán-Tràng, Phật Đại-Trí-Quang, Phật 
	Kim-Cang-Na-La-Diên-Tinh-Tấn, Phật Trí-lực-Vô-Năng-Thắng, Phật 
	Phổ-An-Tường-Trí, Phật Ly-Cấu-Thắng-Trí-Vân, Phật Sư-Tử-Trí-Quang-Minh, Phật 
	Quang-Minh-Kế, Phật Công-Đức-Quang-Minh-Tràng, Phật Trí-Nhựt-Tràng, Phật 
	Bửu-Liên-Hoa-Khai-Phu-Thân, Phật Phước-Đức-Nghiêm-Tịnh-Quang, Phật 
	Trí-Diệm-Vân, Phật Phổ-Chiếu-Nguyệt, Phật Trang-Nghiêm-Cái-Diệu-Âm-Thanh, 
	Phật Sư-Tử-Dũng-Mãnh-Trí-Quang-Minh, Phật Pháp-Giới-Nguyệt, Phật 
	Hiện-Hư-Không-Ảnh-Tượng-Khai-Ngộ-Chúng-Sanh-Tâm, Phật 
	Hằng-Khứu-Tịch-Diệt-Hương, Phật Phổ-Chấn-Tịch-Tịnh-Âm, Phật Cam-Lộ-Sơn, Phật 
	Pháp-Hải-Âm, Phật Kiên-Cố-Võng, Phật Ảnh-Kế Như-Lai, Phật Nguyệt-Quang-Hào, 
	Phật Biện-Tài-Khẩu, Phật Giác-Hoa-Trí, Phật Bửu-Diệm-Sơn, Phật 
	Công-Đức-Tịnh, Phật Bửu-Nguyệt-Tràng, Phật Tam-Muội-Thân, Phật 
	Bửu-Quang-Vương, Phật Phổ-Trí-Hành, Phật Diệm-Hải-Đăng, Phật 
	Ly-Cấu-Pháp-Âm-Vương, Phật Vô-Tỷ Đức-Danh-Xưng-Tràng, Phật Tu-Tý, Phật 
	Bổn-Nguyện-Thanh-Tịnh-Nguyệt, Phật Chiếu-Nghĩa-Đăng, Phật Thâm-Viễn-Âm, Phật 
	Tỳ-Lô-Giá-Na-Thắng-Tạng-Vương, Phật Chư-Thừa-Tràng, Phật 
	Pháp-Hải-Diệu-Liên-Hoa. Có sáu mươi ức trăm ngàn na-do-tha đức Phật như vậy 
	xuất thế trong thế-giới ấy, ta đều kính thờ cúng-dường. 
	
	Tối-Hậu Phật hiệu là Quảng-Đại-Giải. Nơi đức Phật nầy ta được trí-nhãn 
	thanh-tịnh. 
	
	Lúc đó, đức Phật Quảng-Đại-Giải vào thành giáo-hóa, ta làm Vương-Phi, cùng 
	Quốc-Vương kính lễ Phật, đem những diệu-vật dâng lên cúng-dường, nghe đức 
	Phật nói pháp-môn xuất-sanh-nhật-thiết-như-lai-đăng ta liền chứng được môn 
	giải-thoát quán-sát-nhất-thiết-bồ-tát-tam-muội-hải-cảnh-giới. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Khi ta đã được môn giải-thoát nầy, cùng với Bồ-Tát trong 
	phật-sát vi-trần-số kiếp siêng năng tu tập, kính thờ cúng-dường vô-lượng chu 
	Phật. Hoặc trong một kiếp kính thờ một đức Phật, hoặc hai, hoặc ba, hoặc 
	bất-khả-thuyết đức Phật, hoặc gặp phật-sát vi-trần-số đức Phật, ta đều thân 
	cận kính thờ cúng-dường, mà chưa biết được thân hình sắc mạo thân-nghiệp 
	tâm-hành trí-huệ cảnh-giới tam-muội của Bồ-Tát. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Nếu có chúng-sanh được thấy Bồ-Tát tu hạnh bồ-đề, hoặc 
	nghi, hoặc tin, Bồ-Tát đều dùng những phương-tiện thế-gian xuất-thế-gian để 
	nhiếp thủ họ, dùng họ làm quyến-thuộc, khiến họ không thối-chuyển nơi 
	vô-thượng bồ-đề. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Nơi đức Phật Quảng-Đại-Giải sau khi được môn giải-thoát 
	nầy, ta cùng Bồ-Tát chung tu tập trong thời gian trăm phật-sát vi-trần-số 
	kiếp, trong những kiếp ấy có bao nhiêu đức Phật xuất thế, ta đều thân cận 
	kính thờ cúng dường, nghe Phật thuyết pháp đọc tụng thọ trì. Ở chỗ chư 
	Như-Lai đó, ta được những môn giải-thoát nầy, biết những tam-thế, nhập những 
	sát-hải, thấy chư Phật thành Đẳng-Chánh-Giác, vào những chúng hội, phát 
	những đại nguyện của Bồ-Tát, tu những diệu-hạnh của Bồ-Tát, được những 
	giải-thoát của Bồ-Tát, nhưng chưa biết được môn Ohổ-hiền giải-thoát mà 
	Bồ-Tát đã dược. 
	
	Tại sao vậy? Vì môn Phổ-hiền giải-thoát của Bồ-Tát như thái-hư-không, như 
	tên của chúng-sanh, như tam-thế-hải, như thập-phương-hải, như pháp-giới-hải, 
	vô-lượng vô-biên. 
	
	Môn Phổ-hiền giải-thoát của Bồ-Tát đồng với cảnh giới của Như-Lai. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Trong phật-sát vi-trần-số kiếp ta quán thân Bồ-Tát không 
	biết nhàm. Như người đa dục nam nữ hội họp ái-nhiễm nhau sanh vô-lượng 
	vọng-tưởng, cũng vậy, ta quán thân của Bồ-Tát, nơi mỗi lỗ chân lông, mỗi 
	niệm thấy vô-lượng vô-biên thế-giới rộng lớn, những sự an-trụ, trang-nghiêm, 
	hình trạng, những núi, đất, mây, danh hiệu, Phật xuất thế, những đạo-tràng, 
	chúng-hội, diễn thuyết những khế-kinh, những sự quán-đảnh, các thừa, những 
	phương tiện, những thanh-tịnh. 
	
	Lại mỗi niệm nơi mỗi lỗ lông của Bồ-Tát thường thấy vô-biên Phật-hải, những 
	sự ngồi đạo-tràng, những thần-biến, thuyết pháp, thuyết kinh hằng không gián 
	đoạn. 
	
	Lại nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ-Tát thấy vô-biên chúng-sanh-hải: những 
	trụ-xứ, hình mạo, tác nghiệp, căn tánh. 
	
	Lại nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ-Tát thấy vô-biên công-hạnh của tam-thế 
	Bồ-Tát: vô-biên nguyện quảng đại vô-biên bậc sai biệt, vô biên ba-la-mật, 
	vô-biên sự thuở xưa, vô-biên môn đại-từ, vô-biên mây đại-bi, vô-biên tâm 
	đại-hỉ, vô-biên phương-tiện nhiếp thủ chúng-sanh. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Trong phật-sát vi-trần-số kiếp mỗi niệm xem thấy nơi mỗi 
	chân lông của Bồ-Tát như vậy, chỗ đã đến không còn lại đến, chỗ đã thấy 
	không còn lại thấy, tìm biên-tế đó trọn không thể được. Nhẫn đến thấy 
	Thái-Tử Tất-Đạt ở trong hoàng-cung, thể-nữ vây quanh, ta dùng sức giải-thoát 
	xem nơi mỗi chân lông của Bồ-Tát, thấy tất cả sự trong tam-thế pháp-giới. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ được môn giải-thoát quán-sát bồ-tát tam-muội-hải 
	nầy. 
	
	Như chư đại Bồ-Tát rốt ráo vô-lượng những phương-tiện-hải vì tất cả 
	chúng-sanh mà hiện tùy-loại-thân, vì tất cả chúng-sanh mà nói tùy-lạc-hạnh, 
	nơi mỗi chân lông hiện vô-biên sắc-tướng-hải, biết các pháp-tánh lấy vô-tánh 
	làm tánh, biết tánh chúng-sanh đồng tướng hư-không, chẳng có phân-biệt, biết 
	thần-lực của Phật đồng với như-như, khắp tất cả chỗ thị-hiện vô-biên 
	cảnh-giới giải-thoát. Trong một niệm có thể tự-tại nhập pháp-giới quảng đại, 
	du hí tất cả pháp-môn của các bậc Bồ-Tát. 
	
	Ta thế nào biết được nói được công-đức-hạnh đó. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Trong thế-giới nầy có Phật-Mẫu Ma Gia. Người đến đó hỏi 
	Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh ở trong thế-gian không nhiễm trước. 
	Cúng-dường chư Phật không thôi nghỉ. Tu Bồ-tát-nghiệp trọn chẳng thối 
	chuyển. Lìa tất cả chướng ngại, nhập Bồ-tát giải-thoát. Chẳng do người khác 
	mà trụ tất cả Bồ-tát-đạo. Đến chỗ tất cả Như-Lai. Nhiếp tất cả 
	chúng-sanh-giới. Tận kiếp vị-lai tu bồ-tát-hạnh, phát đại-thừa-nguyện. Tăng 
	trưởng thiện-căn cho tất cả chúng-sanh thường không thôi nghỉ. 
	
	Bấy giờ nàng Thích-Ca Cù-Ba muốn tuyên lại nghĩa giải-thoát nầy, thừa 
	thần-lực của Phật mà nói kệ rằng: 
	
	Nếu ai thấy Bồ-Tát 
	
	Tu hành những công-hạnh 
	
	Khởi tâm thiện bất-thiện 
	
	Bồ-Tát đều nhiếp thủ. 
	
	Thuở lâu xa về trước 
	
	Quá trăm sát-trần kiếp 
	
	Có kiếp tên Thanh-Tịnh 
	
	Thế-giới tên Quang-Minh. 
	
	Kiếp nầy Phật xuất thế 
	
	Sáu mươi ngàn muôn ức 
	
	Đức Như-Lai tối-hậu 
	
	Hiệu là Pháp-Tràng-Đăng. 
	
	Sau khi Phật niết-ban 
	
	Có vua tên Trí-Sơn 
	
	Thống lãnh Diêm-Phù-Đề 
	
	Thần phục không oán địch. 
	
	Có năm trăm Vương-Tử 
	
	Thân đoan-chánh dũng-kiện 
	
	Tất cả đều thanh-tịnh 
	
	Ai thấy cũng hoan hỉ. 
	
	Quốc-Vương và Vương-Tử 
	
	Kính tin cúng-dường Phật 
	
	Hộ trì phật-pháp-tạng 
	
	Cũng thích siêng tu tập. 
	
	Thái-Tử tên Thiện-Quang 
	
	Thanh-tịnh nhiều phương-tiện 
	
	Thân tướng đều viên-mãn 
	
	Người thấy không biết nhàm. 
	
	Năm trăm ức người câu hội 
	
	Xuất gia cùng học đạo 
	
	Dũng-mãnh rất tinh-tấn 
	
	Hộ-trì phật-chánh-pháp. 
	
	Vương-Đô tên Trí-thọ 
	
	Ngàn ức thành bao quanh 
	
	Có rừng tên Tịnh-Đức 
	
	Nhiều châu báu trang-nghiêm. 
	
	Thiện-Quang ngụ rừng nầy 
	
	Tuyên thuyết Phật-chánh-pháp 
	
	Sức biện-tài trí-huệ 
	
	Khiến chúng đều thanh-tịnh. 
	
	Có lúc nhơn khất-thực 
	
	Vào Vương-Đô Trí-Thọ 
	
	Đi đứng rất an tường 
	
	Tâm chánh-tri chẳng loạn. 
	
	Trong thành có Cư-Sĩ 
	
	Hiệu là Thiện-Danh-Xưng, 
	
	Ta là con gái ông 
	
	Tên là Tịnh-Nhựt-Quang. 
	
	Ta ở trong Đô-Thành 
	
	Gặp Thái-Tử Thiện-Quang 
	
	Thấy thân tướng đoan nghiêm 
	
	Lòng ta sanh luyến mến. 
	
	Khi Ngài khất nhà ta 
	
	Lòng ta càng ái nhiễm 
	
	Liền cổi ngay chuỗi ngọc 
	
	Chân-châu để vào bát. 
	
	Dầu vì tâm ái nhiễm 
	
	Cúng-dường Phật-Tử ấy 
	
	Hai trăm năm mươi kiếp 
	
	Cũng chẳng đọa ác-đạo. 
	
	Hoặc sanh nhà Thiên-Vương 
	
	Hoặc làm con Nhơn-Vương 
	
	Hằng gặp Ngài Thiện-Quang 
	
	Thấy thân tướng diệu-nghiêm. 
	
	Sau đó quá hai trăm 
	
	Năm mươi kiếp kế tiếp 
	
	Ta sanh nhà Thiện-Hiện 
	
	Tên Cụ-Túc Diệu-Đức. 
	
	Ta được thấy Thái-Tử 
	
	Sanh lòng rất tôn trọng 
	
	Muốn được theo hầu hạ 
	
	May mắn được nạp thọ. 
	
	Ta cùng với Thái-Tử 
	
	Đến lễ Phật Thắng-Nhựt 
	
	Cung kính cúng-dường xong 
	
	Ta phát tâm bồ-đề. 
	
	Ở trong một kiếp đó 
	
	Có sáu mươi ức Phật 
	
	Đức Thế-Tôn tối-hậu 
	
	Hiệu là Quảng-Đại-Giải. 
	
	Ta được thanh-tịnh-nhãn 
	
	Biết rõ các pháp-tướng 
	
	Thấy khắp chỗ thọ sanh 
	
	Trừ hẳn tâm điên đảo. 
	
	Ta được môn giải-thoát 
	
	Quán-bồ-tát-tam-muội 
	
	Một niệm nhập mười phương 
	
	Bất-tư-nghì sát-hải. 
	
	Ta thấy các thế giới 
	
	Tịnh uế nhiều sai khác 
	
	Nơi tịnh chẳng tham ưa 
	
	Nơi uế chẳng ghét bỏ. 
	
	Thấy khắp các thế-giới 
	
	Đức Phật ngồi đạo-tràng 
	
	Đều ở trong một niệm 
	
	Phóng vô-lượng quanhg-minh. 
	
	Một niệm vào được khắp 
	
	Bất-khả-thuyết chúng-hội 
	
	Cũng biết những tam muội 
	
	Của chúng-hội đã được. 
	
	Một niệm đều biết rõ 
	
	Những hạnh nguyện quảng-đại 
	
	Cùng vô-lượng phương-tiện 
	
	Của tất cả chúng-hội. 
	
	Ta quán thân Bồ-Tát 
	
	Vô-biên kiếp tu hành 
	
	Mỗi mỗi lỗ chân lông 
	
	Cầu đó chẳng thể dược. 
	
	Nơi mỗi mỗi chân lông 
	
	Hiện bất-khả-thuyết cõi 
	
	Địa, thủy, hỏa, phong-luân 
	
	Đều đủ cả trong đó. 
	
	Bao nhiêu sự kiến lập 
	
	Bao nhiêu thứ hình trạng 
	
	Bao nhiêu thân, danh hiệu 
	
	Vô-biên thứ trang-nghiêm. 
	
	Ta thấy các sát-hải 
	
	Bất-khả-thuyết thế-giới 
	
	Cũng thấy Phật trong đó 
	
	Thuyết pháp dạy chúng-sanh. 
	
	Chẳng biết thân Bô-Tát 
	
	Và tất cả thân-nghiệp 
	
	Cũng chẳng biết tâm-trí 
	
	Hành đạo trong nhiều kiếp. 
	 
	Hán bộ quyển thứ 76 
	
	41- (1) Thiện-Tài Đồng-Tử đảnh lễ chân nàng Thích-Ca Cù-Ba, hữu nhiễu vô-số 
	vòng, từ tạ mà đi. 
	
	Thiện-Tài nhất tâm muốn đến chỗ Ma-Gia Phu-Nhơn, Tức thời chứng được trí 
	quán phật-cảnh-giới. 
	
	Thiện-Tài tự nghĩ rằng: Thiện-tri-thức nầy xa lìa thế-gian an-trụ nơi 
	vô-sở-trụ, siêu quá sáu trần, lìa tất cả chấp trước, biết đạo vô-ngại, đủ 
	pháp thân thanh-tịnh, dùng nghiệp như-huyễn mà hiện hóa-thân, dùng trí 
	như-huyễn mà quán thế-gian, dùng nguyện như-huyễn mà gìn giữ thân Phật. 
	
	Theo thân ý-thân, không thân sanh diệt, không thân lai khứ, chẳng phải thân 
	hư thiệt, thân chẳng biến hoại, thân không khởi tận. Có bao nhiêu tướng đều 
	là thân một tướng, thân rời hai bên, thân không chỗ tựa nương, thân vô cùng 
	tận, thân như ảnh hiện rời phân biệt. Biết thân như mộng, như tượng trong 
	gương. Thân như tịnh-nhựt, thân hoá-hiện khắp mười phương. Thân ở tam thế 
	không đổi khác. Thân chẳng phải thân tâm, dường như hư-không chỗ đi vô-ngại, 
	siêu thế-gian-nhãn, chỉ tịnh-nhãn của Phổ-Hiền mới thấy được. 
	
	Hạng người như vậy, tôi làm sao được thân cận để kính thờ cúng-dường, để 
	được cùng ở hầu quán-sát dung mạo, nghe tiếng nói. Suy nghĩ lời dạy và nhận 
	lãnh. 
	
	Bấy giờ có Chủ-Thành-Thần tên là Bửu-Nhãn, quyến-thuộc vây quanh hiện thân 
	trên không-trung, tay cầm những bửu-hoa nhiều màu rải trên mình Thiện-Tài mà 
	bảo rằng: 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Phải giữ-gìn tâm-thành, nghĩa là chẳng tham tất cả 
	cảnh-giới. 
	
	Phải trang-nghiêm tâm-thành, nghĩa là chuyên ý xu cầu Phật thập-lực. 
	
	Phải tịnh-trị tâm thành, nghĩa là dứt hẳn bỏn-sẻn, ganh ghét, dua bợ, phỉnh 
	dối. 
	
	Phải thanh-lương tâm-thành, nghĩa là tư-duy thiệt-tánh của tất cả pháp. 
	
	Phải tăng-trưởng tâm thành, nghĩa là làm xong tất cả pháp trợ đạo. 
	
	Phải nghiêm-sức tâm-thành, nghĩa là tạo lập cung-điện thiền-định giải-thoát. 
	
	Phải chiếu-diệu tâm-thành, nghĩa là vào khắp tất cả Phật đạo-tràng nghe lãnh 
	pháp Bát-nhã-ba-la-mật. 
	
	Phải tăng-ích tâm-thành, nghĩa là nhiếp khắp tất cả Phật phương-tiện-đạo. 
	
	Phải kiên-cố tâm-thành, nghĩa là hằng siêng tu tập hạnh nguyện Phổ-Hiền. 
	
	Phải phòng-hộ tâm-thành, nghĩa là thường chuyên ngăn ngừa ác-hữu và ma-quân. 
	
	Phải rỗng suốt tâm-thành, nghĩa là khai dẫn tất cả ánh sáng Phật-trí. 
	
	Phải khéo bồi bổ tâm-thành, nghĩa là nghe lãnh tất cả Phật-pháp. 
	
	Phải phò trợ tâm-thành, nghĩa là thâm-tín tất cả Phật-công-đức-hải. 
	
	Phải quảng đại tâm-thành, nghĩa là đại-từ đến khắp tất cả thế-gian. 
	
	Phải khéo che đậy tâm-thành, nghĩa là tích tập những thiện-pháp để đậy trên 
	tâm. 
	
	Phải rộng-rãi tâm-thành, nghĩa là đại-bi thương xót tất cả chúng-sanh. 
	
	Phải mở cửa tâm-thành, nghĩa là đem tất cả sở-hửu tùy nghi bố-thí giúp đỡ. 
	
	Phải giữ kín tâm-thành, nghĩa là phòng những ác-dục chẳng cho vào. 
	
	Phải nghiêm-túc tâm-thành, nghĩa là đuổi những pháp ác chẳng cho ở chung. 
	
	Phải quyết định tâm-thành, nghĩa là tích tập tất cả pháp trợ-đạo hằng không 
	thối chuyển. 
	
	Phải an lập tâm-thành, nghĩa là chánh-niệm cảnh-giới của tam-thế tất cả 
	Như-Lai. 
	
	Phải sáng bóng tâm-thành, nghĩa là thông suốt tất cả những pháp-môn, những 
	duyên-khởi trong khế-kinh của chư Phật đã tuyên thuyết. 
	
	Phải bộ phận tâm-thành, nghĩa là hiểu thị khắp tất cả chúng-sanh cho họ được 
	thấy đạo nhất-thiết-trí. 
	
	Phải trụ-trì tâm-thành, nghĩa là phát những đại-nguyện-hải của tất cả 
	tam-thế chư Như-Lai. 
	
	Phải phú-quý tâm-thành, nghĩa là chứa nhóm tất cả phước-đức lớn cùng khắp 
	pháp-giới. 
	
	Phải làm cho tâm-thành sáng rõ, nghĩa là biết khắp những pháp căn dục của 
	chúng-sanh. 
	
	Phải làm cho tâm-thành tự-tại, nghĩa là nhiếp khắp tất cả thập phương 
	pháp-giới. 
	
	Phải làm cho tâm-thành thanh-tịnh, nghĩa là chánh-niệm tất cả chư Phật 
	Như-Lai. 
	
	Phải biết tự-tánh của tâm-thành, nghĩa là biết tất cả pháp đều không 
	tự-tánh. 
	
	Phải biết tâm-thành như huyễn, nghĩa là dùng nhất-thiết-trí biết rõ những 
	pháp-tánh. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Đại Bồ-Tát nếu có thể tịnh tu tâm-thành như vậy thời có 
	thể tích tập tất cả thiện-pháp. 
	
	Tại sao vậy? Vì trừ bỏ tất cả những chướng nạn: những là chướng thấy Phật, 
	chướng nghe pháp, chướng cúng-dường Như-Lai, chướng nhiếp chúng-sanh, chướng 
	tịnh phật-độ. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Đại Bồ-Tát do lìa những chướng nạn như vậy, nếu phát tâm 
	mong cầu thiện-tri-thức, chẳng cần dùng công-lực, bèn được thấy. Nhẫn đến 
	rốt ráo tất sẽ thành Phật. 
	
	Bấy giờ có Thân-Chúng-Thần tên là Liên-Hoa-Pháp-Đức và Diệu-Hoa-Quang-Minh, 
	vô-lượng chư thần vây quanh sau trước, ra khỏi đạo-tràng dừng ở không-trung 
	trước mặt Thiện-Tài dùng diệu-âm-thanh ca ngợi. 
	
	Ma-Gia phu-nhơn, từ bông tai phóng lưới quang-minh vô-lượng sắc tướng chiếu 
	khắp vô-biên thế-giới mười phương, cho Thiện-Tài thấy tất cả chư Phật. 
	
	Lưới quang-minh đó hữu nhiễu thế-gian giáp một vòng rồi xoay về chiếu đỉnh 
	đầu Thiện-Tài và vào khắp lỗ lông trên thân Thiện-Tài. 
	
	Liền đó Thiện-Tài chứng được tịnh-quang-minh-nhãn, vì lìa hẳn tất cả tối 
	ngu-si. Được ly-ế-nhãn, vì có thể rõ tánh của tất cả chúng-sanh. Được 
	ly-cấu-nhãn, vì có thể quán tất cả môn pháp-tánh. Được tịnh-huệ-nhãn, vì có 
	thể quán tánh tất cả phật-độ. Được tỳ-lô-giá-na-nhãn, vì thấy 
	pháp-thân-phật. Được phổ-quang-minh-nhãn, vì thấy thân phật bình-đẳng 
	bất-tư-nghì. Được vô-ngại-quang-nhãn, vì quán-sát tất cả sát-hải thành hoại. 
	Được phổ-chiếu-nhãn, vì thấy thập phương Phật khởi đại phương-tiện chuyển 
	chánh-pháp-luân. Được phổ-cảnh-giới nhãn, vì thấy vô-lượng Phật dùng sức 
	tự-tại điều-phục chúng-sanh. Được phổ-kiến-nhãn, vì thấy tất cả cõi chư Phật 
	xuất thế. 
	
	Bấy giờ có La-Sát Quỷ-Vương thủ hộ pháp-đường của Bồ-Tát, tên là Thiện-Nhãn, 
	cùng quyến thuộc một vạn La-Sát câu hội, ở không trung dùng những hoa đẹp 
	rải trên mình Thiện-Tài mà nói rằng: 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát thành tựu mười pháp thời được thân cận chư 
	thiện-trí-thức. 
	
	Đây là mười pháp: 
	
	Tâm thanh-tịnh rời những dua bợ phỉnh dối. 
	
	Đại-bi bình-đẳng nhiếp khắp chúng-sanh, biết các chúng-sanh không có thiệt. 
	
	Xu hướng nhất-thiết-trí tâm không thối chuyển. Dùng sức tín-giải vào khắp 
	tất cả phật đạo tràng. 
	
	Được tịnh-huệ-nhãn rõ các pháp tánh. Đại-từ bình-đẳng che chở khắp 
	chúng-sanh. 
	
	Dùng trí quang-minh chiếu rỗng những vọng cảnh. Dùng mưa cam-lộ xối sanh tử 
	nóng. 
	
	Dùng mắt quảng đại soi suốt các pháp. 
	Tâm thường tùy thuận chư thiện-tri-thức. 
	
	Lại nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát thành-tựu mười môn tam-muội thời thường hiện 
	thấy chư thiện-tri-thức. 
	
	Đây là mười môn tam-muội: 
	
	Thanh-tịnh luân pháp-không tam-muội. Quán-sát thập phương hải tam muội. 
	
	Nơi tất cả cảnh-giới chẳng rời bỏ chẳng tổn giảm tam-muội. Thấy khắp tất cả 
	Phật xuất thế tam-muội. 
	
	Nhóm tất cả tạng công-đức tam-muội. Tâm hằng chẳng bỏ thiện-tri-thức 
	tam-muội. 
	
	Thường thấy tất cả thiện-tri-thức sanh phật công-đức tam-muội. Thường chẳng 
	rời tất cả thiện-tri-thức tam-muội. 
	
	Thường cúng-dường tất cả thiện-tri-thức tam-muội. 
	Thường không lỗi lầm ở chỗ tất cả thiện-tri-thức tam-muội. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát thành tựu mười môn tam-muội nầy thời thường được 
	thân cận chư thiện-tri-thức. 
	
	Lại được môn tam-muội thiện-tri-thức chuyển tất cả phật-pháp-luân. Được môn 
	tam-muội nầy rồi thời đều biết chư Phật thể tánh bình-đẳng, gặp 
	thiện-tri-thức mọi nơi. 
	
	Thiện-Tài ngước nhìn không-trung mà thưa rằng: Lành thay, lành thay! Ngài vì 
	thương xót nhiếp thọ tôi mà phương-tiện dạy cho tôi pháp thấy 
	thiện-tri-thức. 
	
	Xin ngài vì tôi mà chỉ bảo: thế nào đến chỗ thiện-tri-thức? Tìm 
	thiện-tri-thức ở chỗ nào? 
	
	La-Sát-Vương nói: Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi nên đảnh lễ khắp mười phương để 
	cầu thiện-tri-thức. Nên chánh-niệm tư-duy tất cả cảnh-giới để cầu 
	thiện-thi-thức. Nên dũng-mãnh tự-tại du hành khắp mười phương để cầu 
	thiện-tri-thức. Nên quán thân, quán tâm như mộng như ảnh để cẩu 
	thiện-tri-thức. 
	
	Thiện-Tài y lời làm theo, tức thời thấy đại-bửu-liên-hoa từ đất vọt lên: 
	Cộng bằng kim-cang, diệu-bửu làm tạng, mi-ni làm cánh, quang-minh bửu-vương 
	làm đài, hương báu nhiều màu làm tua, vô-số lưới báu giăng che phía trên. 
	
	Trên đài sen báu ấy có lâu các đẹp lạ tên là 
	Phổ-Nạp-Thập-Phương-Pháp-Giới-Tạng trang-nghiêm. 
	
	Nền bằng kim-cang, ngàn cột ngay hàng đều bằng ma-ni-bửu. Vách bằng vàng 
	Diêm-Phù-Đàn. Bốn mặt thòng những chuỗi ngọc. Thềm bực lan-can trang-nghiêm 
	giáp vòng. 
	
	Trong lâu các có tòa như-ý bửu-liên-hoa nghiêm-sức với những châu báu, 
	bửu-lan bửu-y xen lẫn, bửu-trướng bửu-võng che phía trên. Những phan lụa báu 
	thòng rủ bốn phía. Gió nhẹ thổi lay phóng ánh sáng phát âm vang. Trong tràng 
	bửu-hoa tuôn những hoa đẹp. Trong lục-lạc báu phát âm-thanh tốt. Trong cửa 
	báu thòng những chuỗi ngọc. Trong thân ma-ni chảy nước thơm. Trong miệng 
	tượng-bửu xuất hiện lưới liên-hoa. Trong miệng bửu sư-tử thổi mây 
	diệu-hương. Bửu-luân phạm-hình phát tiếng vui dạ-linh, kim-cang-bửu phát 
	tiếng bồ-tát đại-nguyện. Trong tràng bửu-nguyệt xuất hiện hình phật-hóa. 
	Tịnh-tạng bửu-vương hiện tam-thế Phật thứ đệ thọ sanh. Nhựt-tạng ma-ni phóng 
	đại quang-minh chiếu khắp tất cả quốc-độ mười phương. Ma-Ni bửu-vương phóng 
	quang-minh viên-mãn của tất cả chư Phật. 
	
	Tỳ-Lô-Giá-Na ma-ni bửu-vương nổi mây đồ cúng để dâng hiến tất cả chư Phật 
	Như-Lai. Như-ý châu-vương niệm niệm thị hiện phổ-hiền thần-biến sung-mãn 
	pháp-giới. Tu-di bửu-vương xuất hiện thiên-cung-điện, trong đây chư thiên-nữ 
	dùng diệu âm ca tụng công-đức vi-diệu bất-tư-nghì của đức Như-Lai. 
	
	Xung quanh bửu-tòa nầy lại có vô-lượng bửu-tòa. Ma-Gia Phu-Nhơn hiện 
	tịnh-sắc-thân ngồi trên đại bửu-tòa ấy: những là sắc-thân siêu tam-giới, vì 
	đã thoát tất cả loài hữu-lậu. 
	
	Sắc-thân tùy tâm sở-thích, vì với tất cả thế-gian không chấp trước. 
	
	Sắc-thân cùng khắp, vì bằng số tất cả chúng-sanh. 
	
	Sắc-thân không gì sánh bằng, vì làm cho tất cả chúng-sanh diệt trừ kiến chấp 
	điên đảo. 
	
	Sắc-thân vô-lượng thứ, vì tùy tâm của chúng-sanh mà thị-hiện. 
	
	Sắc-thân vô-biên tướng, vì hiện khắp những hình tướng. Sắc-thân đối hiện 
	khắp nơi, vì dùng đại tự-tại để thị-hiện. 
	
	Sắc-thân giáo hóa tất cả, vì tùy nghi mà thị-hiện. Sắc-thân hằng thi-hiện, 
	vì tận chúng-sanh-giới mà vẫn vô-tận. 
	
	Sắc-thân vô-khứ, vì nơi tất cả loài vẫn không diệt. Sắc-thân vô-lai, vì nơi 
	tất cả thế-gian vẫn không sanh. 
	
	Sắc-thân bất-sanh, vì không sanh khởi. Sắc-thân bất-diệt vì rời nghữ ngôn. 
	
	Sắc-thân chẳng phải thiệt, vì được như thiệt. Sắc-thân chẳng phải hư, vì tùy 
	thế-gian mà hiện. 
	
	Sắc-thân vô-động, vì lìa hẳn sanh diệt. Sắc-thân bất hoại, vì pháp-tánh bất 
	hoại. 
	
	Sắc-thân vô-tướng, vì dứt đường ngôn ngữ. Sắc-thân một tướng, vì lấy 
	vô-tướng làm tướng. 
	
	Sắc-thân như tượng, vì tùy tâm ứng-hiện. Sắc-thân như huyễn, vì huyễn-trí 
	sanh ra. 
	
	Sắc-thân như diệm, vì chỉ do tưởng mà còn. Sắc-thân như ảnh, vì tùy nguyện 
	hiện sanh. 
	
	Sắc-thân như mộng, vì tùy tâm mà hiện. Sắc-thân pháp-giới, vì tánh tịnh như 
	hư-không. 
	
	Sắc thân đại-bi, vì thường cứu hộ chúng-sanh. Sắc-thân vô-ngại, vì niệm niệm 
	cùng khắp pháp-giới. 
	
	Sắc-thân vô-biên, vì tịnh khắp tất cả chúng-sanh. Sắc-thân vô-lượng, vì siêu 
	xuất tất cả ngữ ngôn. 
	
	Sắc-thân vô-trụ, vì nguyện độ tất cả thế-gian. Sắc-thân vô-xứ, vì hằng hóa 
	độ chúng-sanh không thôi dứt. 
	
	Sắc-thân vô-sanh, vì huyễn-nguyện làm thành. Sắc-thân vô-thắng, vì siêu các 
	thế-gian. 
	
	Sắc-thân như-thật, vì định-tâm hiện ra. Sắc-thân chẳng sanh, vì tùy nghiệp 
	của chúng-sanh mà xuất-hiện. 
	
	Sắc-thân châu như-ý, vì khắp thỏa mãn tất cả nguyện cầu của chúng-sanh. 
	
	Sắc-thân vô-phân-biệt, vì chỉ tùy theo chúng-sanh phân-biệt mà khởi. 
	
	Sắc-thân rời phân-biệt, vì tất cả chúng-sanh chẳng biết được. 
	
	Sắc-thân vô-tận, vì tận sanh-tử-tế của các chúng-sanh. Sắc-thân thanh-tịnh, 
	vì đồng vô-phân-biệt với Như-Lai. 
	
	Thân như vậy chẳng phải sắc, vì bao nhiêu sắc-tướng như ảnh tượng cả. 
	
	Chẳng phải thọ, vì đã diệt hẳn khổ-thọ của thế-gian. 
	
	Chẳng phải tưởng, vì chỉ tùy theo chúng-sanh tưởng mà hiện. 
	
	Chẳng phải hành, vì nương theo nghiệp như-huyễn mà thành-tựu. 
	
	Chẳng phải thức, vì là nguyện-trí không vô-tánh của Bồ-Tát, vì ngữ ngôn của 
	tất cả chúng-sanh đều dứt, vì đã thành-tựu thân tịch-diệt. 
	
	Bấy giờ Thiện-Tài lại thấy Ma-Gia Phu-Nhơn tùy theo tâm sở-thích của các 
	chúng-sanh mà hiện sắc-thân siêu quá tất cả thế-gian. 
	
	Những là: hoặc hiện thân siêu quá thiên-nữ nơi trời Tha-Hóa Tự-Tại, nhẫn đến 
	siêu quá thiên-nữ nơi trời Tứ-Thiên-Vương. 
	
	Hoặc hiện thân siêu quá Long-Nữ, nhẫn đến siêu quá nhơn-nữ. 
	
	Hiện vô-lượng sắc-thân như vậy để lợi ích chúng-sanh, nhóm họp pháp trợ-đạo 
	nhất-thiết-trí, hành bình-đẳng đàn ba-la-mật, đại-bi che khắp tất cả 
	thế-gian, xuất sanh vô-lượng công-đức của Như-Lai, tu tập tăng trưởng tâm 
	nhất-thiết-trí, quán sát tư duy thật-tánh của các pháp, được thâm-nhẫn, đủ 
	định-môn, an trụ cảnh-giới tam-muội bình-đẳng, được Như-Lai định, viên-mãn 
	quang-minh, tiêu cạn biển lớn phiền-não của chúng-sanh, tâm thường 
	chánh-định chưa từng động loạn, hằng chuyển pháp-luân thanh-tịnh bất-thối. 
	
	Khéo biết rõ tất cả phật-pháp, hằng dùng trí-huệ quán pháp thật-tướng, thấy 
	chư Như-Lai không lòng nhàm, biết tam-thế Phật thứ đệ xuất thế tam-muội, 
	thấy Phật thường hiện-tiền, thấu rõ Như-Lai xuất hiện nơi đời, vô-lượng 
	vô-số những đạo thanh-tịnh, đi nơi cảnh-giới hư-không của Phật. Nhiếp khắp 
	chúng-sanh đều theo tâm họ để giáo-hóa thành-tựu, nhập Phật vô-lượng 
	thanh-tịnh pháp thân, thành-tựu đại nguyện nghiêm-tịnh Phật-độ, rốt ráo điều 
	phục tất cả chúng-sanh, tâm hằng vào khắp cảnh-giới của chư Phật, xuất sanh 
	Bồ tát tự-tại thần-lực, đã được pháp thân thanh-tịnh vô-nhiễm mà hằng 
	thị-hiện vô-lượng sắc thân, xô dẹp tất cả ma-lực thành sức đại thiện-căn, 
	xuất sanh sức chánh-pháp, đầy đủ Phật-lực, được sức tự-tại của chư Bồ-Tát, 
	mau tăng trưởng sức nhất-thiết-trí, được phật-trí-quang chiếu khắp tất cả, 
	biết hết tâm tánh giải dục sai biệt của vô-lượng chúng-sanh, thân cùng khắp 
	mười phương cõi, biết rõ tướng thành hoại của các cõi, dùng quảng-đại-nhãn 
	thấy thập-phương-hải, dùng châu-biến-trí biết tam-thế-haỉ, thân khắp thừa-sự 
	tất cả phật-hải, tâm hằng nạp thọ tất cả pháp-hải, tu tập tất cả công-đức 
	của Như-Lai, xuất sanh tất cả trí-huệ của Bồ-Tát, thường thích quán-sát tất 
	cả Bồ-Tát từ sơ-phát-tâm nhẫn đến thành tựu đạo bồ-tát, thường siêng thủ hộ 
	tất cả chúng-sanh, thường thích tán dương công-đức của chư Phật, nguyện làm 
	mẹ của tất cả Bồ-Tát. 
	
	Thiện-Tài thấy Ma-Gia Phu-Nhơn hiện diêm-phù-đề vi-trần-số môn phương-tiện 
	như vậy. Đúng như số thân của Ma-Gia Phu-Nhơn đã hiện, Thiện-Tài cũng tự 
	hiện bao nhiêu thân ở trước tất cả Ma-Gia Phu-Nhơn mà cung kính lễ bái. 
	
	Tức thời Thiện-Tài chứng được vô-lượng vô-số môn tam-muội, phân biệt 
	quan-sát tu hành chứng nhập. 
	
	Sau khi xuất định, Thiện-Tài hữu nhiễu Phu-Nhơn và quyến-thuộc của Phu-Nhơn, 
	đứng chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch Đại-thánh! Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát dạy 
	tôi phát tâm vô-thượng bồ-đề, cầu thiện-tri-thức để thân cận cúng-dường. 
	Ở chỗ mỗi vị thiện-tri-thức tôi đều đến kính thờ không bỏ luống, lần 
	lượt đến đây. Xin Dại-Thánh vì tôi mà dạy bảo Bồ-Tát thế nào học Bồ-tát hạnh 
	mà được thành-tựu? 
	
	Ma-Gia Phu-Nhơn nói: Nầy Thiện-nam-tử! Ta đã thành-tựu môn giải-thoát 
	bồ-tát-đại-nguyện-trí-huyễn, do đây ta thường làm mẹ của Bồ-Tát. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Như ta ở tại cung vua Tịnh-Phạn nơi thành Ca-Tỳ-La nầy, từ 
	hông bên hữu sanh Thái-Tử Tất-Đạt hiện bất-tư-nghì thần-biến tự-tại. 
	
	Như vậy nhẫn đến tận thế-giới hải nầy, tất cả Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai đều vào 
	thân ta mà thị-hiện đản-sanh tự-tại thần-biến. 
	
	Lại nầy Thiện-nam-tử! Lúc ta ở cung vua Tịnh-Phạn, lúc Bồ-Tát sắp hạ sanh, 
	ta thấy thân của Bồ-Tát mỗi mỗi lỗ lông đều phóng quang-minh tên là 
	Nhất-Thiết-Như-Lai-Thọ-Sanh-Công-Đức-Luân. 
	Mỗi lỗ lông đều hiện bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật sát 
	vi-trần-số Bồ-Tát thọ sanh trang-nghiêm. Những quang-minh đó thảy đều chiếu 
	khắp tất cả thế-giới, rồi nhập vào đảnh của ta và khắp các chân lông. 
	
	Lại trong quang-minh ấy hiện khắp tất cả danh-hiệu của Bồ-Tát, cùng 
	thọ-sanh, thần-biến, cung-điện, quyến-thuộc, ngũ dục tự vui của Bồ-Tát. 
	
	Trong quang-minh lại thấy Bồ-Tát xuất-gia, đến đạo-tràng thành 
	Đẳng-Chánh-Giác, ngồi tòa sư-tử, Bồ-Tát vây quanh, các vua chúa cúng-dường, 
	vì đại-chúng mà chuyển pháp-luân. 
	
	Lại thấy đức Như-Lai thuở xưa lúc tu hành Bồ-tát-đạo, cung kính cúng-dường 
	chư Phật, phát tâm bồ-đề, nghiêm-tịnh Phật-độ, niêm niệm thị-hiện vô-lượng 
	hóa-thân khắp thập phương thế-giới, nhẫn đến rốt sau nhập niết-bàn. Tất cả 
	những sự như vậy đều thấy rõ cả. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Lúc diệu-quang-minh ấy vào thân của ta, hình lượng của 
	thân ta dầu chẳng hơn trước, nhưng thật ra thời đã siêu thế-gian. 
	
	Tại sao vậy? Vì lúc đó thân của ta lượng đồng hư-không, đều có thể dung thọ 
	những cung-điện trang-nghiêm của thập phương Bồ-Tát thọ sanh. 
	
	Lúc Bồ-Tát từ cung trời Đâu-Suất sắp giáng thần, có mười phật-sát vi-trần-số 
	Bồ-Tát đồng nguyện, đồng hạnh, đồng thiện-căn, đồng trang nghiêm, đồng 
	giải-thoát, đồng trí-huệ, trí-lực, pháp-thân, sắc-thân, nhẫn đến Phổ-hiền 
	thần-thông hạnh nguyện thảy đều đồng với Bồ-Tát. Vi-trần-số Bố-Tát nầy cùng 
	vây quanh. 
	
	Lại có tám vạn Long-Vương và tất cả Thế-Chủ thừa cung-điện của mình đều đến 
	cúng-dường. 
	
	Bấy giờ Bồ-Tát dùng sức thần-thông cùng chư Bồ-Tát quyến-thuộc hiện khắp tất 
	cả Đâu-Suất Thiên-Cung. Mỗi mỗi Thiên-Cung đều hiện hình tượng thọ sanh 
	trong tất cả Diêm-Phù-Đề ở thập phương thế-giới, phương-tiện giáo hóa 
	vô-lượng chúng-sanh, khiến chư Bồ-Tát rời giải-đãi, không chấp trước. 
	
	Lại dùng thần-lực phóng đại quang-minh chiếu khắp thế-gian phá những tối tăm 
	diệt những khổ não, làm cho các chúng-sanh đều biết những hành nghiệp đã có 
	từ đời trước, hầu thoát hẳn ác-đạo. 
	
	Lại vì cứu hộ tất cả chúng-sanh mà hiện ra trước họ, để hiện những 
	thần-biến. 
	
	Bồ-Tát thị hiện những sự kỳ-đặc như vậy rồi cùng quyến-thuộc đến nhập vào 
	thân của ta. 
	
	Chư Bồ-Tát ấy ở trong bụng ta du hành tự-tại: hoặc dùng Đại-Thiên thế giới 
	làm một bước, nhẫn đến hoặc dùng bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát 
	vi-trần-số thế giới làm một bước. 
	
	Lại trong mỗi niệm, chúng hội Bồ-Tát ở chỗ chư Phật Như-Lai nơi 
	bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tất cả thế-giới mười phương, cùng dục-giới 
	sắc-giới chư Thiên-Vương chư Phạm-Vương vì muốn thấy thần-biến của Bồ-Tát ở 
	trong thai mẹ để cung kính cúng-dường nghe lãnh chánh pháp nên đều đến vào 
	thân của ta. 
	
	Dầu trong bụng của ta đều có thể dung thọ tất cả chúng-hội như vậy, mà thân 
	ta vẫn không lớn thêm, cũng chẳng chật hẹp. Chư Bồ-Tát và chúng-hội đều tự 
	thấy mình ở đạo-tràng thanh-tịnh nghiêm-sức. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Như trong Diêm-Phù-Đề nầy Bồ-Tát thọ sanh, ta làm mẹ, 
	trong tất cả trăm ức Diêm-Phù-Đề khắp Đại-Thiên thế-giới cũng như vậy. Nhưng 
	thân của ta đây bổn lai không hai, chẳng phải ở một xứ, chẳng phải ở nhiều 
	xứ. 
	
	Tại sao vậy? Vì ta tu môn giải-thoát bồ-tát đại-nguyện trí-huyễn 
	trang-nghiêm. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Như đức Thế-Tôn hiện nay, ta làm mẹ của Ngài, bao nhiêu 
	chư Phật thuở xưa ta cũng làm mẹ như vậy. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Thuở xưa, ta từng làm Thần ao sen. Bấy giờ có Bồ-Tát bỗng 
	nhiên hóa sanh nơi liên-hoa-tạng, ta liền bồng ẵm săn sóc nuôi nấng. 
	Thế-gian gọi ta là mẹ của Bồ-Tát. 
	
	Lại thuở xưa, ta từng làm Thần bồ-đề-tràng. Bấy giờ có Bồ-Tát bỗng nhiên 
	hóa-sanh trong lòng của ta. Người đời ấy cũng gọi ta là mẹ của Bồ-Tát. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Có vô-lượng tối-hậu-thân Bồ-Tát phương-tiện thị-hiện thọ 
	sanh nơi thế-giới nầy, ta đều làm mẹ của các Ngài. 
	
	Nầy Thiện-nam-từ! Như ở thế-giới Ta-Bà nầy, trong kiếp Hiền, quá khứ đức 
	Câu-Lưu-Tôn Phật, đức Câu-Na-Hàm-Mâu-Ni-Phật, đức Ca-Diếp Phật và đức 
	Thích-Ca-Mâu-Ni Phật, hiện nay thị hiện thọ sanh, ta đều làm mẹ, đời vị-lai, 
	Dị-Lặc Bồ-Tát từ Thiên-Cung Đâu-Suất lúc sắp giáng thần phóng đại quang-minh 
	chiếu khắp pháp-giới thị-hiện thấn-biến thọ sanh cùng chúng Bồ-Tát, ta cũng 
	sẽ làm mẹ. 
	
	Kế đó theo thứ tự, có Sư-Tử Phật, Pháp-Tràng Phật, Thiện-Nhãn Phật, Tịnh-Hoa 
	Phật, Hoa-Đức Phật, Đề-Xá Phật, Phất-Sa Phật, Thiện-Ý Phật, Kim-Cang Phật, 
	Ly-Cấu Phật, Nguyệt-Quang Phật, Trì-Cự Phật, Danh-Xưng Phật, Kim-Cang-Thuẩn 
	Phật, Thanh-Tịnh-Nghĩa Phật, Cám-Thân Phật, Đáo-Bỉ-Ngạn Phật, Bửu-Diệm-Sơn 
	Phật, Trì-Minh Phật, Liên-Hoa-Đức Phật, Danh-Xưng Phật, Vô-Lượng-Công-Đức 
	Phật, Tối-Thắng-Đăng Phật, Trang-Nghiêm-Thân Phật, Thiện-Oai-Nghi Phật, 
	Từ-Đức Phật, Vô-Trụ Phật, Đại-Oai-Quang Phật, Vô-Biên-Âm Phật, 
	Thắng-Oán-Địch Phật, Ly-Nghi-Hoặc Phật, Thanh-Tịnh Phật, Đại-Quang Phật, 
	Tịnh-Tâm Phật, Vân-Đức Phật, Trang-nghiêm-Đảnh-Kế Phật, Thọ-Vương Phật, 
	Bửu-Đăng Phật, Hải-Huệ Phật, Diệu-Bửu Phật, Hoa-Quan Phật, Mãn-Nguyện Phật, 
	Đại-Tự-Tại Phật, Diệu-Đức-Vương Phật, Tối-Tôn-Thắng Phật, Chiên-Đàn-Vân 
	Phật, Cám-Nhãn Phật, Thắng-Huệ Phật, Quán-Sát-Huệ Phật, Xí-Thạnh-Vương Phật, 
	Kiên-Cố-Huệ Phật, Tự-Tại-Danh Phật, Sư-Tử-Vương Phật, Tự-Tại Phật, 
	Tối-Thắng-Đảnh Phật, Kim-Cang-Trí-Sơn Phật, Diệu-Đức-Tạng Phật, 
	Bửu-Võng-Nghiêm-Thân Phật, Thiện-Huệ Phật, Tự-Tại-Thiên Phật, 
	Đại-Thiên-Vương Phật, Vô-Y-Đức Phật, Thiện-Thí Phật, Diệm-Huệ Phật, 
	Thủy-Thiên Phật, Đắc-Thượng-Vị Phật, Xuất-Sanh-Vô-Thượng-Công-Đức Phật, 
	Tiên-Nhân-Thị-Vệ Phật, Tùy-Thế-Ngữ-Ngôn Phật, Công-Đức-Tự-Tại-Tràng Phật, 
	Quang-Tràng Phật, Quán-Thân Phật, Diệu-Thân Phật, Hương-Diệm Phật, 
	Kim-Cang-Bửu-Nghiêm Phật, Hỉ-Nhãn Phật, Ly-Dục Phật, Cao-Đại-Thân Phật, 
	Tài-Thiên Phật, Vô-Thượng-Thiên Phật, Thuận-Tịch-Diệt Phật, Trí-Giác Phật, 
	Diệt-Tham Phật, Đại-Diệm-Vương Phật, Tịch-Chư-Hữu Phật, Tỳ-Xá-Khư-Thiên 
	Phật, Kim-Cang-Sơn Phật, Trí-Diệm-Đức Phật, An-Ổn Phật, Sư-Tử-Xuất-Hiện 
	Phật, Viên-Mãn-Thanh-Tịnh Phật, Thanh-Tịnh-Hiền Phật, Đệ-Nhất-Nghĩa Phật, 
	Bá-Quang-Minh Phật, Tối-Tăng-Thượng Phật, Thâm-Tự-Tại Phật, Đại-Địa-Vương 
	Phật, Trang-Nghiêm-Vương Phật, Giải-Thoát Phật, Diệu-Âm Phật, Thù-Thắng 
	Phật, Tự-Tại Phật, Vô-Thương-Y-Vương Phật, Công-Đức-Nguyệt Phật, 
	Vô-Ngại-Quang Phật, Công-Đức-Tụ Phật, Nguyệt-Hiện Phật, Nhựt-Thiên Phật, 
	Xuất-Chư-Hữu Phật, Dũng-Mãnh-Danh-Xưng Phật, Quang-Minh-Môn Phật, 
	Ta-La-Vương Phật, Tối-Thắng Phật, Dược-Vương Phật, Bửu-Thắng Phật, 
	Kim-Cang-Huệ Phật, Vô-Năng-Thắng Phật, Vô-Năng-Ánh-Tế Phật, Chúng-Hội-Vương 
	Phật, Đại-Danh-Xưng Phật, Mẫn-Trì Phật, Vô-Lương-Quang Phật, 
	Đại-Nguyện-Quang Phật, Pháp-Tự-Tại-Bất-Hư Phật, Bất-Thối-Địa Phật, 
	Tịnh-Thiên Phật, Thiện-Sư Phật, Kiên-Cố-Khổ-Hạnh Phật, Nhất-Thiết-Thiện-Hữu 
	Phật, Giải-Thoát-Âm Phật, Du-Hí-Vương Phật, Diệt-Tà-Khúc Phật, 
	Chiêm-Bặc-Tịnh-Quang Phật, Cụ-Chúng-Đức Phật, Tối-Thắng-Nguyệt Phật, 
	Chấp-Minh-Cự Phật, Thù Diệu-Thân Phật, Bất-Khả-Thuyết Phật, Tối-Thanh-Tịnh 
	Phật, Hữu-An-Chúng-Sanh Phật, Vô-Lượng-Quang Phật, Vô-Úy-Âm Phật, 
	Thủy-Thiên-Đức Phật, Bất-Động-Huệ-Quang Phật, Hoa-Thắng Phật, Nguyệt-Diêm 
	Phật, Bất-Thối-Huệ Phật, Ly-Ái Phật, Vô-Trước-Huệ Phật, Tập-Công-Đức-Uẩn 
	Phật, Diệt-Ác-Thú Phật, Phổ-Tán-Hoa Phật, Sư-Tử-Hống Phật, Đệ-Nhất-Nghĩa 
	Phật, Vô-Ngại-Kiến Phật, Phá-Tha-Quân Phật, Bất-Trước-Tướng Phật, 
	Ly-Phân-Biệt-Hải Phật, Đoan-Nghiêm-Hải Phật, Tu-Di-Sơn Phật, Vô-Trước-Trí 
	Phật, Vô-Biên-Toà Phật, Thanh-Tịnh-Trụ Phật, Tùy-Sư-Hành Phật, 
	Tối-Thượng-Thí Phật, Thường-Nguyệt Phật, Nhiêu-Ích-Vương Phật, Bất-Động-Tụ 
	Phật, Phổ-Nhiếp-Thọ Phật, Nhiêu-Ích-Huệ Phật, Trì-Thọ Phật, Vô-Diệt Phật, 
	Cụ-Túc-Danh-Xưng Phật, Đại-Oai-Lực Phật, Chủng-Chủng-Sắc-Tướng Phật, 
	Vô-Tướng-Huệ Phật, Bất-Động-Thiên Phật, Diệu-Đức-Nan-Tư Phật, Mãn-Nguyệt 
	Phật, Giải-Thoát-Nguyệt Phật, Vô-Thượng-Vương Phật, Hi-Hữu-Thân Phật, 
	Phạm-Cúng-Dường Phật, Bất-Thuấn Phật, Thuận-Tiên-Cổ Phật, Tối-Thượng-Nghiệp 
	Phật, Thuận-Pháp-Trí Phật, Vô-Thắng-Thiên Phật, Bất-Tư-Nghì-Công-Đức-Quang 
	Phật, Tùy-Pháp-Hành Phật, Vô-Lượng-Hiền Phật, Phổ-Tùy-Thuận-Tự-Tại Phật, 
	Tối-Tôn-Thiên Phật, nhẫn đến đức Lâu-Chí Như-Lai, tất cả là một ngàn đức 
	Phật đã và sẽ thành Phật trong Hiền-Kiếp nơi Ta-Bà thế-giới nầy, ta đều làm 
	mẹ của các Ngài. 
	
	Cũng như ở cõi Đại-Thiên nầy, vô-lượng thế-giới ở mười phương, trong tất cả 
	kiếp, những bực tu hành hạnh nguyện Phổ-Hiền để hóa độ chúng-sanh, ta đều tự 
	thấy thân mình làm mẹ của các Ngài. 
	
	Thiện-Tài bạch rằng: Đại-Thánh được môn giải-thoát nầy đến nay là bao nhiêu 
	thời-gian? 
	
	Ma-Gia Phu-Nhơn nói: Nầy Thiện-nam-tử! Thuở xưa, quá bất-tư-nghì kiếp số, 
	chẳng phải đạo-nhãn của bực tối-hậu-thân Bồ-Tát biết được, có kiếp tên là 
	Tịnh-Quang, thế-giới tên là Tu-Di-Đức, dầu là năm loài ở lộn lạo, nhưng cõi 
	đó bằng những chất báu thanh-tịnh trang-nghiêm không có sự nhơ uế xấu xí. 
	Cõi đó có ngàn ức Tứ-Thiên-Hạ. Trong đó có một Tứ-Thiên-Hạ tên là 
	Sư-Tử-Tràng. Nơi đây có tám mươi ức Vương-Thành. Có một Vương-Thành tên là 
	Tự-Tại-Tràng, ngự trị bởi Chuyển-Luân-Vương tên là Đại-Oai-Đức. 
	
	Phía bắc Vương-Thành Tự-Tại-Tràng, có một đạo-tràng tên là 
	Mãn-Nguyệt-Quang-Minh. Thần đạo-tràng nầy tên là Từ-Đức. 
	
	Bấy giờ có Bồ-Tát tên là Ly-Cấu-Tràng ngồi nơi đạo-tràng nầy thành 
	Đẳng-Chánh-Giác. 
	
	Có một ác-ma tên là Kim-Sắc-Quang cùng quyến thuộc vô-lượng chúng câu hội 
	đến chỗ Bồ-Tát. 
	
	Chuyển-Luân-Vương Đại-Oai-Đức đã được bồ-tát thần-thông tự-tại, biến hóa 
	binh chúng đông hơn quân ma bao vây đạo-tràng. Quân ma sợ hãi tự tan rã. Do 
	đó Bồ-Tát Ly-Cấu-Tràng thành Vô-Thượng Chánh-Giác. 
	
	Thần đạo-tràng thấy sự việc trên đây, lòng hoan hỉ vô-lượng, với 
	Chuyển-Luân-Vương tưởng là con trai của mình, đối trước Phật pháp nguyện 
	rằng: Chuyển-Luân-Vương nầy chẳng luận sanh chỗ nào, nguyện tôi đều làm mẹ 
	của Vương, nhẫn đến đời Vương thành Phật cũng vậy. 
	
	Sau khi phát nguyện, nơi đạo-tràng ấy, Thần lại từng cúng dường mười 
	na-do-tha đức Phật. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Thuở xưa ấy, Thần đạo-tràng tên Từ-Đức chính là tiền thân 
	của ta. 
	
	Chuyển-Luân-Vương Đại-Oai-Đức là tiền thân của đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai. 
	
	Từ lúc ta phát nguyện thuở xưa ấy, đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai phàm thọ sanh ở 
	xứ nào cõi nào tu bồ-tát hạnh gieo thiện-căn giáo-hóa chúng-sanh, nhẫn đến 
	thị-hiện tối-hậu-thân, mỗi niệm khắp tất cả thế-giới, thị-hiện thần-biến 
	Bồ-tát thọ sanh, thường làm con trai của ta, ta thường làm mẹ của Ngài. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Quá-khứ và hiện-tại thập phương thế-giới, vô-lượng chư 
	Phật lúc sắp thành Đẳng-Chánh-Giác, đều từ nơi rốn phóng đại-quang-minh 
	chiếu đến thân ta và cung-diện của ta ở tối-hậu-thân của các Ngài, ta đều 
	làm mẹ. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát bồ-tát đại-nguyện-trí-huyễn 
	nầy. Như chư đại Bồ-Tát có đủ tạng đại-bi giáo-hóa chúng-sanh thường không 
	nhàm đủ, dùng sức tự-tại mỗi mỗi lỗ lông thị-hiện thần-biến của vô lượng chư 
	Phật. Ta thế nào biết được nói được công-đức-hạnh ấy. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ở thế-giới nầy, nơi Đao-Lợi-Thiên, có Thiên-Vương tên là 
	Chánh-Niệm. Thiên-Vương có người con gái tên là Thiên Chủ-Quang. 
	
	Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, tu bồ-tát-đạo? 
	
	Thiện-Tài Đồng-Tử kỉnh lễ nơi chân Ma-Gia Phu-Nhơn, hữu nhiễu vô số vòng, 
	luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi. 
	
	42- Thiện-Tài đến Thiên-Cung Đao-Lợi, đảnh lễ Thiên-Nữ Thiên-Chủ-Quang, hữu 
	nhiễu cung kính, chắp tay thưa rằng: Đại-Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng 
	bồ-đề mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo? 
	Tôi nghe Đại-Thánh khéo có thể dạy bảo, xin chỉ dạy cho. 
	
	Thiện-Nữ nói: 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta được bồ-tát giải-thoát-môn tên là vô-ngại-niệm 
	thanh-tịnh trang-nghiêm. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta ở nơi thế-lực của môn giải-thoát nầy, ghi nhớ quá-khứ 
	có một kiếp tên là thanh-liên-hoa. Trong kiếp đó, ta cúng-dường 
	hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai. 
	
	Chư Như-Lai ấy từ khi mới xuất gia, ta đều săn sóc kính thờ kiến tạo 
	tăng-già-lam, sắm sửa vật dụng. 
	
	Lại lúc chư Phật ấy làm Bồ-Tát ở thai mẹ, lúc đản-sanh, lúc đi bảy bước, lúc 
	đại sư-tử-hống, lúc làm đồng-tử ở tại cung, lúc đến cội bồ-đề thành 
	Đẳng-Chánh-Giác, lúc chuyển pháp-luân hiện thần-biến giáo-hóa điều phục 
	chúng-sanh, tất cả sự việc nhẫn đến pháp-tận, ta đều ghi nhớ rõ không sai 
	sót. 
	
	Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Thiện-Địa, trong kiếp ấy ta cúng-dường mười 
	hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai. 
	
	Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Diệu-Đức, trong kiếp ấy ta cúng-dường một 
	phật-sát vi-trần-số chư Phật Như-Lai. 
	
	Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Vô-Sở-Đắc, trong kiếp ấy ta cúng-dường tám 
	mươi bốn ức trăm ngàn na-do-tha chư Phật Như-Lai. 
	
	Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Thiện-Quang trong kiếp ấy ta cúng-dường 
	diêm-phù-đề vi-trần-số chư Phật Như-Lai. 
	
	Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Vô-Lượng-Quang, trong kiếp ấy ta cúng-dường 
	hai mươi hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai. 
	
	Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Tối-Thắng-Đức, trong kiếp ấy ta cúng-dường 
	một hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai. 
	
	Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Thiện-Bi, trong kiếp ấy ta cúng-dường tám 
	mươi hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai. 
	
	Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Thắng-Du, trong kiếp ấy ta cúng-dường sáu 
	mươi hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai. 
	
	Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Diệu-Nguyệt, trong kiếp ấy ta cúng-dường bảy 
	mươi hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ghi nhớ quá-khứ hằng-hà-sa-số kiếp như vậy, ta thường 
	chẳng bỏ rời chư Phật Như-Lai Chánh-Đẳng-Giác. 
	
	Ở chỗ chư Như-Lai như vậy ta nghe môn giải-thoát bồ-tát vô-ngại-niệm 
	thanh-tịnh trang-nghiêm nầy thọ trì tu hành hằng chẳng quên mất. 
	
	Những kiếp trước như vậy có bao nhiêu đức Như-Lai từ sơ Bồ-Tát nhẫn đến pháp 
	tận, tất cả sự việc của chư Phật đã làm, ta dùng sức giải-thoát thanh-tịnh 
	trang-nghiêm, đều ghi nhớ rõ ràng như hiện trước mắt, và ta giữ gìn tùy 
	thuận tuân hành từng không bỏ phế. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát vô-ngại-niệm thanh-tịnh 
	trang-nghiêm nầy. 
	
	Như chư đại Bồ-Tát ra khỏi đêm sanh tử, sáng suốt rời hẳn si tối, chưa từng 
	mê ngủ, tâm không bị che chướng, thân luôn khinh an, thanh tịnh biết rõ các 
	pháp-tánh, thành tựu thập-lực khai ngộ quần sanh. 
	
	Ta thế nào biết được nói được công-đức-hạnh đó. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Thành Ca-Tỳ-La có Đồng-Tử-Sư tên là Biến-Hữu. Ngươi đến đó 
	hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, tu bồ-tát-đạo. 
	
	Nhờ nghe pháp, Thiện-Tài vui mừng hớn hở thiện-căn bất-tư-nghì tự-nhiên thêm 
	lớn rộng, bèn đảnh lễ nơi chân Thiên-Nữ Thiên-Chủ-Quang, hữu nhiễu vô-số 
	vòng từ tạ mà đi. 
	
	43- Thiện-Tài từ Thiên-Cung xuống đi lần đến thành Ca-Tỳ-La chỗ của Biến-Hữu 
	đảnh lễ hữu-nhiễu, đứng chắp tay cung kính thưa rằng: Đại-Thánh! Tôi đã phát 
	tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu 
	bồ-tát-đạo? Tôi nghe Đại-Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho. 
	
	Biến-Hữu nói: Nầy Thiện-nam-tử! Nơi đây có Đồng-Tử tên là 
	Thiện-Tri-Chúng-Nghệ-Học-Bồ-Tát-Tự-Trí, ngươi nên đến hỏi. 
	
	44- Thiện-Tài vâng lời đến đảnh lễ đồng-tử, cung kính thưa rằng: 
	
	Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề mà chưa biết Bồ-Tát thế nào 
	học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo. Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin 
	chỉ dạy cho. 
	
	Đồng-Tử nói: 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta được bồ-tát giải-thoát-môn tên là thiện-tri-chúng-nghệ. 
	
	Ta hằng xướng trì những tự-mẫu nầy: 
	
	Lúc xướng chữ A, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là Bồ-tát-oai-lực nhập 
	vô-sai-biệt cảnh-giới. 
	
	Lúc xướng chữ ĐA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là 
	vô-biên-sai-biệt-môn. 
	
	Lúc xướng chữ BA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là 
	phổ-chiếu-pháp-giới. 
	
	Lúc xướng chữ GIẢ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là 
	phổ-luân-đoạn-sai-biệt. 
	
	Lúc xướng chữ NA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là đắc-vô-y-vô-thượng. 
	
	Lúc xướng chữ LÃ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là y-chỉ-vô-cấu. 
	
	Lúc xướng chữ ĐẢ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là 
	bất-thối-chuyển-phương-tiện. 
	
	Lúc xướng chữ BÀ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là kim-cang-tràng. 
	
	Lúc xướng chữ ĐỒ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là nhật-phổ-luân. 
	
	Lúc xướng chữ SA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là hải-tạng. 
	
	Lúc xướng chữ PHƯỢC, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là phổ-sanh-an-trụ. 
	
	Lúc xướng chữ ĐÁ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là viên-mãn-quang. 
	
	Lúc xướng chữ DÃ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là sai-biệt-tích-tụ. 
	
	Lúc xướng chữ SẮC-TRA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là 
	phổ-quang-minh-tức-phiền-não. 
	
	Lúc xướng chữ CA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là Vô-sai-biệt-vân. 
	
	Lúc xướng chữ TA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là giáng-chú-đại-vũ. 
	
	Lúc xướng chữ MẠ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là 
	đại-lưu-thoan-khích-chúng-phong-tề-trĩ. 
	
	Lúc xướng chữ GIÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là phổ-an-lập. 
	
	Lúc xướng chữ THA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là 
	chơn-như-bình-đẳng-tạng. 
	
	Lúc xướng chữ XÃ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là 
	nhập-thế-gian-hải-thanh-tịnh. 
	
	Lúc xướng chữ TOẢ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là 
	niệm-nhứt-thiết-phật-trang-nghiêm. 
	
	Lúc xướng chữ ĐÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là 
	quán-sát-giản-trạch-nhất-thiết-pháp-tụ. 
	
	Lúc xướng chữ XA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là 
	tùy-thuận-nhất-thiết-phật-giáo-luân-quang-minh. 
	
	Lúc xướng chữ KHƯ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là 
	tu-nhơn-địa-trí-huệ-tạng. 
	
	Lúc xướng chữ XOA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là 
	tức-chư-nghiệp-hải-tạng. 
	
	Lúc xướng chữ TA-ĐA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là 
	quyên-chư-hoặc-chướng-khai-tịnh-quang-minh. 
	
	Lúc xướng chữ NHƯƠNG, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là 
	tác-thế-gian-trí-huệ-môn. 
	
	Lúc xướng chữ HẠT-LÃ-ĐA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là 
	sanh-tử-cảnh-giới-trí-huệ-luân. 
	
	Lúc xướng chữ BÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là 
	nhất-thiết-trí-cung-điện-viên-mãn-trang-nghiêm. 
	
	Lúc xướng chữ XA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là 
	tu-hành-phương-tiện-tạng-các-biệt-viên-mãn. 
	
	Lúc xướng chữ TA-MẠ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là 
	tùy-thập-phương-hiện-kiến-chư-phật. 
	
	Lúc xướng chữ HA-BÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là quán-sát 
	nhất-thiết vô-duyên chúng-sanh phương-tiện nhiếp-thọ linh xuất-sanh 
	vô-ngại-lực. 
	
	Lúc xướng chữ THA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là 
	tu-hành-xu-nhập-nhất-thiết-công-đức-hải. 
	
	Lúc xướng chữ GIÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là trì-nhất 
	thiết-pháp-vân-kiên-cố-hải-tạng. 
	
	Lúc xướng chữ TRA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là 
	tùy-nguyện-phổ-kiến-thập-phương-chư-Phật. 
	
	Lúc xướng chữ NÃ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là quán-sát tự-luân 
	hữu vô-tận chư ức tự. 
	
	Lúc xướng chữ TA-PHÃ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là 
	hóa-chúng-sanh-cứu-cánh-xứ. 
	
	Lúc xướng chữ TA-CA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là 
	quảng-đại-tạng-vô-ngại-biện-quang-minh-luân-biến-chiếu. 
	
	Lúc xướng chữ DÃ-TA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tuyên-thuyết 
	nhất-thiết-Phật-pháp cảnh-giới. 
	
	Lúc xướng chữ THẤT, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là nhất-thiết 
	chúng-sanh-giới pháp-lôi biến-hống. 
	
	Lúc xướng chữ SÁ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là dĩ vô-ngã-pháp 
	khai-hiểu chúng-sanh. 
	
	Lúc xướng chữ ĐÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là nhất-thiết 
	pháp-luân sai-biệt-tạng. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Lúc ta xướng những tự-mẫu như vậy, thời trước tiên ta nhập 
	bốn mươi hai môn bát-nhã ba-la-mật đây cùng với vô-lượng vô-số môn bát-nhã 
	ba-la-mật. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát bồ-tát thiện tri chúng nghệ 
	nầy. 
	
	Như chư đại Bồ-Tát có thể đối với pháp thiện-xảo thế-gian và xuất-thế-gian 
	dùng trí thông đạt đến bỉ-ngạn. Những phương-pháp lạ, những nghề nghiệp khéo 
	đều thấu đáo không sót. Hiểu rành những văn tự toán số, Y-phương, chú-thật, 
	trị lành bịnh tật. 
	
	Lại biết rành những chỗ sản xuất vàng, bạc, châu, ngọc, san-hô, lưu-ly, 
	ma-ni, xa-cừ, tất cả kho tàng bửu-vật, những phẩm-loại, những giá-trị. 
	
	Những xóm làng thành ấp, cung điện vườn tược, núi, rừng, suối, ao phàm những 
	chỗ ở của tất cả nhơn chúng, Bồ-Tát đều có thể phương-tiện nhiếp thọ. 
	
	Bồ-Tát lại khéo quán-sát thiên-văn, địa-lý, tướng người tốt xấu, tiếng của 
	chim thú, mây ráng khí hậu, trúng mùa, thất thu, quốc độ an nguy, tất cả kỹ 
	nghệ thế-gian Bồ-Tát đều rành rẽ tận nguyên bổn tất cả. 
	
	Bồ-Tát lại có thể phân biệt pháp xuất thế, chánh-danh biện-nghĩa quán-sát 
	thể tướng, tùy thuận tu hành, trí nhập trong đó, không nghi ngại, không ngu 
	tối, không ngoan độn, không ưu-não, không trầm một, đều hiện chứng tất cả. 
	Ta thế nào biết được, nói được công-đức-hạnh đó. 
	
	Nầy Thiện-nam-từ! Nước Ma-Kiệt-Đề có một tụ-lạc, trong đó có thành 
	Bà-Đát-Na. Trong thành ấy có một ưu-bà-di tên là Hiền-thắng. Ngươi đến đó 
	hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, tu bồ-tát-đạo? 
	
	Thiện-Tài đảnh lễ Tri-Nghệ Đồng-Tử, hữu-nhiễu vô-số vòng, luyến mộ chiêm 
	ngưỡng từ tạ mà đi. 
	
	45- Thiện-Tài đến thành Bà-Đát-Na đảnh lễ Hiền-Thắng, hữu-nhiễu cung kính, 
	chắp tay thưa rằng: Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa 
	biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo. 
	
	Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho. 
	
	Ưu-bà-di Hiền-Thắng nói: Nầy Thiện-nam-từ! Ta được môn bồ-tát giải-thoát tên 
	là vô-y-xứ đạo-tràng. Nơi môn giải-thoát nầy, ta đã thông đạt và đem dạy 
	người. 
	
	Ta lại được môn vô-tận tam-muội, vì có thể xuất sanh nhất-thiết-trí-tánh 
	nhãn vô-tận, nhĩ vô-tận, tỹ vô-tận, thiệt vô-tân, thân vô-tận, ý vô-tận, 
	công-đức vô-tận, trí-huệ vô-tận, thần-thông vô-tận. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn Bồ-tát giải-thoát vô-y-xứ đạo-tràng nầy. 
	
	Như chư đại Bồ-Tát tất cả công-đức-hạnh không chắp trước, ta thế nào biết 
	được nói được. 
	
	Nầy Thiện-nam-từ! Phương nam có thành Ốc-Điền. Trong thành ấy có trưởng-giả 
	Kiên-Cố-Giải-Thoát. 
	
	Ngươi nên đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học Bồ-tát-hạnh, thế nào tu Bồ-tát-đạo? 
	
	46- Thiện-Tài đảnh lễ Hiền-Thắng, hữu nhiễu vô-số vòng, luyến mộ chiêm 
	ngưỡng từ tạ mà đi qua hướng nam đến chỗ trưởng-giả đảnh lễ hữu nhiễu cung 
	kính chắp tay thưa rằng: Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà 
	chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo. 
	
	Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho. 
	
	Trưởng-giả nói: Nầy Thiện-nam-tử! Ta được môn bồ-tát-giải-thoát tên là 
	vô-trước-niệm-thanh-tịnh-trang-nghiêm. 
	
	Từ khi ta được môn giải-thoát nầy đến nay, ta siêng cầu chánh-pháp nơi thập 
	phương chư Phật không thôi dứt. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát vô-trước-niệm thanh-tịnh 
	trang-nghiêm. 
	
	Như chư đại Bồ-Tát được vô-úy sư-tử-hống, an trụ nơi phước trí quảng-đại, mà 
	ta thế nào biết được, nói được công-đức hạnh ấy. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Chính trong thành nầy có một trưởng-giả tên là 
	Diệu-Nguyệt, nhà ông thường có quang-minh. 
	
	Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học Bồ-tát-hạnh, thế nào tu Bồ-tát-đạo? 
	
	Thiện-Tài đảnh lễ trưởng-giả Kiên-Cố Giải-Thoát, hữu nhiễu vô-số vòng, từ tạ 
	đi đến nhà trưởng-giả Diệu-Nguyệt đảnh lễ hữu nhiễu, cung kính chắp tay thưa 
	rằng: 
	
	47- Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề mà chưa biết Bồ-Tát thế 
	nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo. 
	
	Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho. 
	
	Trưởng-giả Diệu-Nguyệt nói: Nầy Thiện-nam-tử! Ta được Bồ-tát giải-thoát tên 
	là tịnh-trí-quang-minh. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát nầy. Như chư đại Bồ-Tát chứng 
	được vô-lượng môn giải-thoát. Ta thế nào biết được nói được công-đức hạnh 
	ấy. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Phương nam có thành Xuất-Sanh. Nơi đó có trưởng-giả tên là 
	Vô-Thắng-Quân. 
	
	Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học Bồ-tát-hạnh, thế nào tu Bồ-tát-đạo? 
	
	Thiện-Tài đảnh lễ trưởng-giả Diệu-Nguyệt, hữu nhiễu vô-số vòng, từ tạ đi qua 
	phương nam, đến đảnh lễ trưởng-gia Vô-Thắng-Quân, cung kính thưa rằng: 
	
	48- Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết Bồ-Tát thế 
	nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo. 
	Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho. 
	
	Trưởng-giả Vô-Thắng-Quân nói: Nầy Thiện-nam-tử! Ta được bồ-tát giải-thoát 
	tên là vô-tận-tướng. 
	
	Ta do chứng môn bồ-tát giải-thoát nầy nên thấy vô-lượng chư Phật, được 
	vô-tận-tạng. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát vô-tận-tướng nầy, như chư đại 
	Bồ tát được vô hạng trí, được vô ngại biện tài ta làm sao biết đuợc nói được 
	công đức hạnh ấy. 
	
	Này thiện nam tử! Thành Nam này có tụ lạc Chi vi pháp, trong đó có một Bà la 
	môn tên là Tối Tịch Tịnh, ngươi đến đó hỏi thế nào học Bồ tát hạnh, tu Bồ 
	tát đạo? 
	
	Thiện Tài đảnh lể trưởng giả Vô Thắng Quân, hữu nhiễu vô số vòng, luyến mộ 
	chiêm ngưỡng từ tạ đi đến đảnh lể Tối Tịch Tịnh, hữu nhiễu cung kính chấp 
	tay thưa rằng: Bạch đức Thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề mà chưa biết 
	Bồ tát thế nào học Bồ tát hạnh, thế nào tu Bồ tát đạo? Tôi nghe đức Thánh 
	khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho. 
	
	Bà la môn nói: Này thiện nam tử! Ta được môn Bồi tát giải thoát tên là Thành 
	nguyện ngữ, chư Bồ tát quá khứ, hiện tại và vị lai, do dung lời nói chân 
	thành này nênn được không thối chuyển nơi đạo bồ đề; không đã thối, không 
	hiện thối, không sẽ thối; do ta trụ nơi lời nói thành nguyện nên làm điều 
	chi cũng được toại ý. 
	
	Này thiện nam tử! Ta chỉ boiết môn giải thoát Thành nguyện ngữ này, như chư 
	đại Bồ Tát đi đứng đều chẳng trái với Thành nguyện ngữ, lời nói ra quyết là 
	chân thành chưa bao giờ hư vọng, do đây xuất sanh vông lượng cộng đức, ta 
	làm sao biết được nói được công đức hạnh đó. 
	
	Này thiện nam tử! Phương Nam đây có thành tên là Diệy ý quang môn, nơi đó có 
	đồng tử tên là Đức Sanh lại có đồng nữ tên là Hữu Đức, ngươi đến đó hỏi, Bồ 
	tát thế nào học Bồ tát hạnh, thế nào tu Bồ tát đạo. 
	
	Thiện Tài đảnh lể Tối Tịch Tịnh, hữu nhiểu vô số vòng từ tạ đi qua phương 
	Nam, Thiện Tài đi lần đến thành Diệu ý quang môn, đảnh lễ đồng tử Đức Sanh 
	và đồng nữ Hữu Đức, hữu nhiễu cung kính chấp tay bạch rằng: 
	
	Đức Thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề, mà chưa biết thế nào học Bồ tát 
	hạnh, thế nào tu Bồ tát đạo? Xin đức Thánh từ mẫn chỉ dạy. 
	
	Đức Sanh và Hữu Đức nói: Này thiện nam tử! Chúng ta chứng được Bồ tát giải 
	thoát tên là Huyễn trụ, vì được môn giải thoát này nên thấy tất cả thế giới 
	đều là huyễn trụ, do nhân duyên mà sanh khởi; tất cả chúng sanh đều là huyễn 
	trụ do nghiệp phiền não mà khởi; tất cả chúng sanh đều là huyễn trụ do 
	nghiệp phiền não mà anh khởi, tất cả thế gian đều là huyễn trụ do vô minh 
	hữu ái, xoay vần là duyên sanh khởi; tất cả pháp đều là huyễn trụ, do những 
	huyễn duyên ngã kiến v.v… sanh khởi; tất cả tam thế đều là nhuyễn trụ, do 
	những điên đảo trí ngã kiến sanh khởi; tất cả chúng sanh, sanh diệt, sanh 
	lão bịnh tử, ưu bi khổ não đều là huyễn trụ do hư vọng phân biệt sanh khởi; 
	tất cả quốc độ đều là huyễn trụ do tưởng đảo, tâm đảo, kiến đảo và vô minh 
	hiện khởi; tất cả Thanh văn và Bích chi Phật đều là huyễn trụ do trí đoạn 
	phân biệt mà thành; 
	
	Tất cả Bồ-Tát đều là huyễn trụ, do những hạnh nguyện hay tự điều phục và 
	giáo-hóa chúng-sanh mà thành. 
	
	Tất cả Phật Bồ-Tát chúng-hội biến-hoá điều-phục, những công-hạnh đều là 
	huyễn-trụ, do nguyện-trí-huyễn mà thành. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Huyễn-cảnh tự-tánh bất-tư-nghì. Chúng ta chỉ biết môn 
	giải-thoát huyễn-trụ nầy. 
	
	Như chư đại Bồ-Tát khéo nhập vô-biên sự huyễn. Chúng ta thế nào biết được 
	nói được công-đức-hạnh đó. 
	
	Đồng-Tử và Đồng-Nữ nói môn giải-thoát của mình đã chứng xong, dùng sức 
	thiện-căn bất-tư-nghì làm cho thân Thiện-Tài được nhu nhuyến bóng sáng, mà 
	nói rằng: 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Phương nam đây có nước Hải-Ngạn. Trong nước ấy có khu vườn 
	Đại-Trang-Nghiêm. Trong vườn có một tòa lâu các rộng lớn tên là 
	Tỳ-Lô-Giá-Na-Trang-Nghiêm Tạng. 
	
	Lâu các nầy có ra là do Bồ-tát thiện-căn quả báo, do Bồ-tát niệm-lực, 
	nguyện-lực, tự-tại-lực, thần thông-lực, do Bồ-tát thiện-xảo phương-tiện, do 
	Bồ-tát phước-đức trí tuệ. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát trụ bất-tư-nghì giải-thoát dùng tâm đại-bi vì các 
	chúng-sanh mà hiện cảnh-giới như vậy, chứa họp những trang-nghiêm như vậy. 
	
	Di-Lặc đại Bồ-Tát ở trong lâu các ấy để nhiếp thọ phụ mẫu quyến-thuộc và 
	nhơn-dân làm cho họ được thành-thục. Lại muốn cho những chúng-sanh đồng 
	thọ-sanh, đồng tu-hành ở trong đại-thừa được kiên-cố. Lại muốn cho tất cả 
	chúng-sanh ấy, tùy bậc tùy thiện-căn, đều được thành-tựu. 
	
	Lại cũng muốn vì ngươi mà hiển-thị môn bồ-tát giải-thoát, hiển thị Bồ-Tát 
	khắp tất cả chỗ thọ-sanh tự-tại, hiển-thị Bồ-Tát dùng nhiều thân hiện khắp 
	nơi thường giáo hóa chúng-sanh, hiển-thị Bồ-Tát dùng sức đại-bi nhiếp tất cả 
	tài sản thế-gian mà chẳng nhàm, hiển-thị tu đủ tất cả công-hạnh biết rõ tất 
	cả hạnh lìa các tướng, hiển-thị Bồ-Tát thọ sanh khắp nơi vì biết rõ tất cả 
	sanh đều vô-tướng. 
	
	Ngươi đến đó hỏi: Bồ-Tát thế nào thật hành bồ-tát-hạnh, thế nào tu 
	bồ-tát-đạo, thế nào học bồ-tát-giới, thế nào tịnh bồ-tát-tâm, thế nào phát 
	bồ-tát-nguyện, thế nào chứa nhóm bồ-tát trợ-đạo, thế nào nhập bậc bồ-tát, 
	thế nào thành-mãn bồ-tát ba-la-mật, thế nào được bồ-tát vô-sanh-nhẫn, thế 
	nào đủ bồ-tát công-đức, thế nào thờ bồ-tát thiện-tri-thức? 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Di-Lặc Bồ-Tát thông đạt tất cả bồ-tát-hạnh, biết rõ tâm 
	chúng-sanh, thường hiện thân trước họ để giáo hóa điều phục. 
	
	Di-Lặc Bồ-Tát đã viên-mãn tất cả ba-la-mật, đã ở tất cả bậc bồ-tát, đã chứng 
	tất cả bồ-tát-nhẫn, đã nhập tất cả bồ-tát-vị, đã được Phật thọ ký, đã du tất 
	cả cảnh bồ-tát, đã được thần-lực của tất cả Phật, đã được đức Như-Lai đem 
	pháp-thủy cam-lộ nhất-thiết-trí quán đảnh. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Di-Lặc Bồ-Tát có thể nhuận trạch thiện-căn của ngươi, có 
	thể tăng trưởng tâm bồ-đề của ngươi, có thể kiên-cố chí của ngươi, có thể 
	thêm pháp lành cho ngươi, có thể lớn căn bồ-tát cho ngươi, có thể chỉ bày 
	pháp vô-ngại cho ngươi, có thể làm cho ngươi vào bậc Phổ-hiền, có thể nói 
	nguyện bồ-tát cho ngươi, có thể nói hạnh Phổ-hiền cho ngươi, có thể vì ngươi 
	mà nói tất cả bồ-tát-hạnh-nguyện làm thành công-đức. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi chẳng nên tu một điều lành, chiếu một pháp, hành một 
	hạnh, phát một nguyện, được một thọ-ký, trụ một nhẫn mà cho là rốt ráo. 
	
	Ngươi chớ nên đem tâm có hạn lượng mà thật hành lục-độ, trụ nơi thập-địa, 
	tịnh phật-độ, thờ thiện-tri-thức. 
	
	Tại sao vậy? Nầy Thiện-nam-tử! Vì Bồ-Tát phải gieo vô-lượng thiện-căn, phải 
	chứa vô-lượng bồ-đề-cụ, phải tu vô-lượng bồ-đề nhơn, phải học vô-lượng xảo 
	hồi-hướng, phải giáo hóa vô-lượng chúng-sanh-giới, phải biết vô-lượng 
	chúng-sanh-tâm, phải biết vô-lượng chúng-sanh-căn, phải rõ vô-lượng 
	chúng-sanh-giải, phải quán vô-lượng chúng-sanh-hạnh, phải điều-phục vô-lượng 
	chúng-sanh, phải đoạn vô-lượng phiền-não, phải tịnh vô-lượng nghiệp tập, 
	phải diệt vô-lượng tà kiến, phải trừ vô-lượng tâm tạp nhiễm, phải phát 
	vô-lượng tâm thanh-tịnh, phải nhổ vô-lượng tên độc khổ, phải cạn vô-lượng 
	biển ái dục, phải phá vô-lượng tối vô-minh, phải xô vô-lượng núi ngã mạn, 
	phải bức đứt vô-lượng dây sanh tử, phải qua khỏi vô-lượng giòng hữu-lậu, 
	phải khô vô-lượng biển thọ sanh, phải làm cho vô-lượng chúng-sanh ra khỏi 
	bùn lầy ngũ-dục, phải khiến vô-lượng chúng-sanh lìa ngục tù tam-giới, phải 
	đặt vô-lượng chúng-sanh ở trong thánh-đạo, phải tiêu diệt vô-lượng hạnh tham 
	dục, phải trừ sạch vô-lượng hạnh sân hận, phải phá trừ vô-lượng hạnh ngu-si, 
	phải siêu vô-lượng lưới ma, phải lìa vô-lượng nghiệp ma, phải rửa sạch 
	bồ-tát vô-lượng dục lạc, phải tăng trưởng bồ-tát vô-lượng phương-tiện, phải 
	xuất sanh bồ-tát vô-lượng căn tăng-thượng, phải sáng sạch bồ-tát vô-lượng 
	quyết-định-giải, phải xu nhập bồ-tát vô-lượng bình-đẳng, phải thanh-tịnh 
	bồ-tát vô-lượng công-đức, phải tu tập bồ-tát vô-lượng công-hạnh, phải 
	thị-hiện bồ-tát vô-lượng hạnh tùy thuận thế-gian, phải sanh vô-lượng sức 
	tịnh tín, phải trụ vô-lượng sức tinh-tấn, phải thanh-tịnh vô-lượng sức 
	chánh-niệm, phải thành-mãn vô-lượng sức tam-muội, phải khởi vô-lượng sức 
	tịnh-huệ, phải kiên-cố vô-lượng sức thắng-giải, phải tích tập vô-lượng sức 
	phước-đức, phải lớn vô-lượng sức trí-huệ, phải phát khởi vô-lượng sức 
	bồ-tát, phải viên-mãn vô-lượng sức Như-Lai, phải phân-biệt vô-lượng 
	pháp-môn, phải rõ biết vô-lượng pháp-môn, phải thanh-tịnh vô-lượng pháp-môn, 
	phải sanh vô-lượng pháp quang-minh, phải làm vô-lượng pháp chiếu-diệu, phải 
	chiếu vô-lượng phẩm loại-căn, phải biết vô-lượng phiền-não bịnh, phải chứa 
	vô-lượng diệu-pháp-dược, phải chữa vô-lượng bịnh của chúng-sanh, phải sắm 
	sửa vô-lượng đồ cúng cam-lộ, phải đến vô-lượng phật-độ, phải cúng-dường 
	vô-lượng Như-Lai, phải vào vô-lượng bồ-tát-hội, phải thọ vô-lượng phật-giáo, 
	phải nhẫn vô-lượng tội chúng-sanh, phải diệt vô-lượng nạn ác-đạo, phải khiến 
	vô-lượng chúng-sanh sanh về thiện-đạo, phải dùng pháp tứ-nhiếp để nhiếp 
	vô-lượng chúng-sanh, phải tu vô-lượng môn tổng-trì, phải sanh vô-lượng môn 
	đại-nguyện, phải tu vô-lượng sức đại-từ đại-nguyện, phải siêng cầu vô-lượng 
	phật-pháp thường không thôi dứt, phải khởi vô-lượng sức tư-duy, phải khỏi 
	vô-lượng sự thần-thông, phải tịnh vô-lượng trí quang-minh, phải qua đến 
	vô-lượng loài chúng-sanh, phải thọ vô-lượng đời trong các cõi, phải hiện 
	vô-lượng thân sai-biệt, phải biết vô-lượng pháp ngôn-từ, phải nhập vô-lượng 
	tâm sai-biệt, phải biết bồ-tát đại cảnh-giới, phải trụ bồ-tát đại cung-điện, 
	phải quán bồ-tát thậm-thâm diệu-pháp, phải biết cảnh-giới khó biết của 
	Bồ-Tát, phải thật-hành những hạnh khó làm của Bồ-Tát, phải đầy đủ oai-đức 
	tôn trọng của Bồ-Tát, phải đi theo chánh-vị khó nhập của bồ-Tát, phải biết 
	những hạnh của Bồ-Tát, phải hiện thần-lực phổ-biến của Bồ-Tát, phải thọ 
	pháp-vân bình-đẳng của Bồ-Tát, phải làm rộng vô-biên hạnh của Bồ-Tát, phải 
	viên-mãn vô-biên ba-la-mật của Bồ-Tát, phải thọ vô-lượng ký-biệt của Bồ-Tát, 
	phải nhập vô-lượng nhẫn-môn của Bồ-Tát, phải tu vô-lượng địa-vị của Bồ-Tát, 
	phải thanh-tịnh vô-lượng pháp-môn của Bồ-Tát, phải đồng với chư Bồ-Tát, trụ 
	vô-biên kiếp cúng-dường vô-lượng Phật, nghiêm-tịnh bất-khả-thuyết Phật-độ, 
	xuất sanh bất-khả-thuyết bồ-tát nguyện. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Tóm lại, phải khắp tu bồ-tát-hạnh, phải khắp giáo-hóa 
	chúng-sanh-giới, phải khắp vào tất cả kiếp, phải khắp sanh tất cả xứ, phải 
	khắp biết tất cả thế, phải khắp thật hành tất cả pháp, phải khắp tịnh tất cả 
	cõi, phải khắp mãn tất cả nguyện, phải khắp cúng tất cả Phật, phải khắp đồng 
	tất cả bồ-tát nguyện, phải khắp thờ tất cả thiện-tri-thức. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi cầu thiện-tri-thức chẳng nên nhàm mỏi. Ngươi thỉnh 
	hỏi thiện-trí-thức chớ sợ khổ nhọc. Ngươi gần gũi thiện-tri-thức chớ có thối 
	chuyển. Ngươi cúng-dường thiện-tri-thức chớ có thôi nghỉ. Ngươi lãnh thọ lời 
	dạy của thiện-tri-thức chớ có lầm lộn. Ngươi học hạnh của thiện-tri-thức chớ 
	có nghi hoặc. Ngươi nghe thiện-tri-thức diễn nói môn xuất ly chẳng nên dụ 
	dự. Thấy thiện-tri-thức tùy phiền-não hành chớ có hiềm lạ. Ở chỗ 
	thiện-chi-trức phải sanh lòng thâm tín tôn kính chẳng nên biến đổi. 
	
	Tại sao vậy? Nầy Thiện-nam-tử! Vì Bồ-Tát do nơi thiện-tri-thức mà được nghe 
	tất cả bồ-tát-hạnh, thành-tựu tất cả bồ-tát công-đức, xuất sanh tất cả 
	bồ-tát đại-nguyện, dẫn phát tất cả bồ-tát thiện-căn, tích tập tất cả bồ-tát 
	trợ-đạo, khai phát tất cả bồ-tát pháp-quang-minh, hiển thị tất cả bồ-tát 
	xuất-ly-môn, tu học tất cả bồ-tát thanh-tịnh-giới, an-trụ tất cả bồ-tát 
	công-đức-pháp, thanh-tịnh tất cả bồ-tát quảng-đại-chí, tăng trưởng tất cả 
	bồ-tát kiên-cố-tâm, đầy đủ tất cả bồ-tát đà-la-ni biện-tài môn, được tất cả 
	bồ-tát thanh-tịnh-tạng, sanh tất cả bồ-tát định-quang-minh, được tất cả 
	bồ-tát thù-thắng-nguyện, cùng tất cả Bồ-Tát đồng một nguyện, nghe tất cả 
	bồ-tát thù-thắng-pháp, được tất cả bồ-tát bí-mật-xứ, đến tất cả bồ-tát pháp 
	bửu sở, thêm tất cả bồ-tát mầm thiện-căn, lớn tất cả bồ-tát thân trí-huệ, hộ 
	tất cả bồ-tát tạng thâm-mật, trì tất cả bồ-tát phước-đức-tụ, tịnh tất cả 
	bồ-tát thọ-sanh-đạo, thọ tất cả bồ-tát chánh-pháp-vân, nhập tất cả bồ-tát 
	đại-nguyện-lộ, đến tất cả như-lai bồ-đề-quả, nhiếp thủ tất cả bồ-tát 
	diệu-hạnh, khai thị tất cả bồ-tát công-đức, qua tất cả phương thính thọ 
	diệu-pháp, khen tất cả bồ-tát oai-đức quảng đại, sanh tất cả bồ-tát 
	đại-từ-bi-lực, nhiếp tất cả bồ-tát thắng tự-tại-lực, sanh tất cả bồ-tát 
	bồ-đề phần, làm tất cả bồ-tát lợi-ích-sự. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát do thiện-tri-thức nhiệm trì nên chẳng đọa ác-đạo, 
	do thiện-tri-thức nhiếp thọ mà chẳng thối đại-thừa, do thiện-tri-thức 
	hộ-niệm mà chẳng phạm bồ-tát-giới, do thiện-tri-thức thủ-hộ mà chẳng theo 
	ác-tri-thức, do thiện-tri-thức dưỡng-dục mà chẳng khuyết bồ-tát-pháp, do 
	thiện-tri-thức nhiếp thủ mà siêu-việt hạng phàm-phu, do thiện-tri-thức giáo 
	hối mà siêu-việt bực nhị thừa, do thiện-tri-thức dìu-dắt mà được ra khỏi 
	thế-gian, do thiện-tri-thức trưởng-dưỡng mà có thể chẳng nhiễm thế-pháp, do 
	kính thờ thiện-tri-thức mà tu tất cả bồ-tát-hạnh, do cúng-dường 
	thiện-tri-thức mà đủ tất cả pháp trợ-đạo, do thân-cận thiện-tri-thức mà 
	chẳng bị nghiệp hoặc nhiếp phục, do nương dựa thiện-tri-thức mà thế-lực 
	kiên-cố chẳng sợ ma-chúng, do y chỉ thiện-tri-thức mà tăng-trưởng tất cả 
	pháp bồ-đề-phần. 
	
	Tại sao vậy? Nầy Thiện-nam-tử! Vì thiện-tri-thức có thể trừ sạch các điều 
	chướng ngại, có thể diệt các tội, có thể dứt các nạn, có thể ngăn các ác, có 
	thể phá đêm dài tối tăm vô-minh, có thể làm sập đổ lao ngục kiên cố 
	kiến-chấp, có thể thoát khỏi thành sanh tử, có thể bỏ nhà thế-tục, có thể 
	cắt lưới ma, có thể nhổ tên khổ, có thể lìa chỗ hiểm nạn vô-trí, có thể ra 
	khỏi đồng hoang rộng lớn tà-kiến, có thể qua khỏi dòng hữu-lậu, có thể lìa 
	những tà-đạo, có thể chỉ đường bồ-đề, có thể dạy pháp bồ-tát, có thể khiến 
	an trụ bồ-tát-hạnh, có thể khiến xu-hướng nhất-thiết-trí, có thể tịnh mắt 
	trí-huệ, có thể lớn tâm bồ-đề, có thể sanh đại-bi, có thể diễn diệu-hạnh, có 
	thể nói ba-la-mật, có thể tẩn ác tri-thức, có thể khiến trụ các bậc, có thể 
	khiến được các nhẫn, có thể khiến tu tập các thiện-căn, có thể khiến thành 
	xong tất cả đạo-cụ, có thể thí cho tất cả công-đức lớn, có thể khiến đến 
	ngôi nhất-thiết-chủng-trí, có thể khiến hoan hỉ nhóm công-đức, có thể khiến 
	hớn hở tu các công hạnh, có thể khiến xu-nhập nghĩa thậm-thâm, có thể khiến 
	khai thị môn xuất ly, có thể khiến trừ tuyệt các ác-đạo, có thể dùng 
	pháp-quang chiếu diệu, có thể dùng pháp-vũ nhuận trạch, có thể khiến tiêu 
	diệt tất cả phiền-não, có thể khiến bỏ lìa tất cả kiến chấp, có thể khiến 
	tăng-trưởng tất cả phật-trí-huệ, có thể khiến an-trụ tất cả phật pháp-môn. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Thiện-tri-thức như từ-mẫu, vì xuất sanh phật-chủng. Như 
	từ-phụ, vì lợi ích rộng lớn. Như nhũ-mẫu vì thủ hộ chẳng cho làm ác. Như 
	giáo-sư, vì dạy sở-học của Bồ-Tát. Như đạo-sư, vì hay chỉ đường ba-la-mật. 
	Như lương-y, vì hay chữa bịnh phiền-não. Như Tuyết-Sơn, vì tăng-trưởng thuốc 
	nhất-thiết-trí. Như dũng-tướng, vì dẹp trừ tất cả sự bố-úy. Như người đưa 
	đò, vì làm cho ra khỏi dòng sanh-tử. Như lái thuyền, vì khiến đến 
	bửu-sở-trí-huệ. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Thường phải chánh-niệm suy nghĩ thiện-tri-thức là như vậy. 
	
	Lại nầy Thiện-nam-tử! Ngươi kính thờ tất cả thiện-tri-thức phải phát tâm như 
	đại-địa, vì gánh vác trọng-nhiệm không mỏi nhọc. Phải phát tâm như kim-cang 
	vì chí nguyện kiên-cố chẳng hư hoại, phải phát tâm như núi Thiết-vi vì tất 
	cả các sự khổ không lay động. Phải phát tâm như người hầu hạ, vì đều tùy 
	thuận theo lời dạy. Phải phát tâm như đệ-tử, vì không chống trái lời dạy 
	bảo. Phải phát tâm như tôi tớ, vì tất cả lao vụ không nhàm. Phải phát tâm 
	như dưỡng-mẫu, vì chịu những sự cần khổ không biết nhọc. Phải phát tâm như 
	người làm thuê, vì không trái chỗ sai bảo. Phải phát tâm như người hốt phân, 
	vì lìa kiêu-mạn. Phải phát tâm như cây lúa đã chín, vì có thể hạ thấp. Phải 
	phát tâm như lương-mã, vì lìa ác-tánh. Phải phát tâm như xe lớn, vì có thể 
	chở nặng. Phải phát tâm như voi điều thuận, vì hằng phục tùng. Phải phát tâm 
	như núi Tu-Di, vì chẳng khuynh động. Phải phát tâm như lương-khuyển, vì 
	chẳng phản hại chủ. Phải phát tâm như chiên-đà-la, vì lìa kiêu-mạn. Phải 
	phát tâm như kiện-ngưu, vì không hung giận. Phải phát tâm như ghe thuyền, vì 
	qua lại chẳng mỏi. Phải phát tâm như cầu đò, vì tế độ không biết nhọc. Phải 
	phát tâm như hiếu-tử, vì thừ thuận nhan sắc. Phải phát tâm như vương-tử, vì 
	tuân hành giáo-mạng. 
	
	Lại nầy Thiện-nam-tử! Với tự-thân, ngươi phải tưởng là bịnh khổ. Với 
	thiện-tri-thức, ngươi phải tưởng là y-vương. Với pháp của thiện-tri-thức 
	dạy, ngươi phải tưởng là lương-dược. Với chỗ tu hành, tưởng trừ được bịnh. 
	
	Lại phải ở nơi tự-thân, tưởng là đi xa. Nơi thiện-tri-thức, tưởng là đạo-sư. 
	Nơi pháp của thiện-tri-thức dạy, tưởng là con đường chánh. Nơi chỗ tu hành, 
	tưởng là đến được xa. 
	
	Lại phải ở nơi tự thân, tưởng cầu được độ. Nơi thiện-tri-thức, tưởng là 
	người lái thuyền. Nơi pháp của thiện-tri-thức dạy, tưởng là thuyền, là chèo. 
	Nơi chỗ tu hành, tưởng là đến bờ kia. 
	
	Lại phải ở nơi tự-thân, tưởng là lúa mạ. Nơi thiện-tri-thức tưởng là 
	Long-Vương. Nơi pháp của thiện-tri-thức dạy, tưởng là mưa đúng thời tiết. 
	Nơi chỗ tu hành tưởng là có thể thành thục. 
	
	Lại phải ở nơi tự-thân, tưởng là nghèo cùng. Nơi thiện-tri-thức tưởng là 
	Tỳ-Sa-Môn Thiên-Vương. Nơi pháp của thiện-tri-thức dạy, tưởng là của cải 
	châu báu. Nơi chỗ tu hành, tưởng là giàu có. 
	
	Lại phải ở nơi tự-thân, tưởng là đệ-tử. Nơi thiện-tri-thức, tưởng là thợ 
	khéo. Nơi pháp của thiện-tri-thức dạy, tưởng là nghề khéo. Nơi chỗ tu hành, 
	tưởng là biết rõ. 
	
	Lại phải ở nơi tự-thân, tưởng là chỗ đáng sợ hãi. Nơi thiện-tri-thức, tưởng 
	là người dũng kiện. Nơi pháp của thiện-tri-thức dạy, tưởng là dao gậy. Nơi 
	chỗ tu hành, tưởng là dẹp trừ được kẻ oán địch. 
	
	Lại phải ở nơi tự-thân, tưởng là người đi buôn. Nơi thiện-tri-thức, tưởng là 
	đạo-sư. Nơi pháp của thiện-tri-thức dạy, tưởng là trân-bửu. Nơi chỗ tu hành, 
	tưởng là lượm châu báu. 
	
	Lại phải ở nơi tự-thân, tưởng là con cái. Nơi thiện-tri-thức, tưởng là cha 
	mẹ. Nơi pháp của thiện-tri-thức dạy, tưởng là gia nghiệp. Nơi chỗ tu hành, 
	tưởng là nối nghiệp nhà. 
	
	Lại phải ở nơi tự-thân, tưởng là vương-tử. Nơi thiện-tri-thức, tưởng là 
	đại-thần. Nơi pháp của thiện-tri-thức dạy, tưởng là lịnh của vua. Nơi chỗ tu 
	hành, tưởng là đội mão vua, mặc áo vua, cột đai vua, ngồi điện vua. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi phải phát tâm như vậy, suy nghĩ như vậy để gần 
	thiện-tri-thức. 
	
	Tại sao vậy? Vì có tâm như vậy để gần thiện-tri-thức thời chí nguyện trọn 
	được thanh-tịnh. 
	
	Lại nầy Thiện-nam-tử! Thiện-tri-thức làm lớn các thiện-căn, như núi Tuyết 
	sanh lớn các dược-thảo. 
	
	Thiện-tri-thức là pháp-khí của Phật, như đại-hải nhận thọ các dòng nước. 
	
	Thiện-tri-thức là chỗ công-đức, như đại-hải xuất sanh các châu báu. 
	
	Thiện-tri-thức thanh-tịnh tâm bồ-đề, như lửa hừng luyện chơn-kim. 
	
	Thiện-tri-thức vượt hơn thế-pháp như núi Tu-Di vọt lên mặt đại-hải. 
	
	Thiện-tri-thức chẳng nhiễm thế-pháp, như hoa sen chẳng dính nước. 
	
	Thiện-tri-thức chẳng thọ các điều ác, như đại-hải chẳng chứa tử-thi. 
	
	Thiện-tri-thức tăng trưởng pháp lành, như trăng tròn quang sắc viên-mãn. 
	
	Thiện-tri-thức soi sáng pháp-giới, như mặt nhựt chiếu khắp thế-gian. 
	
	Thiện-tri-thức làm lớn thân Bồ-Tát, như cha mẹ nuôi nấng con cái. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Tóm lại, Bồ-Tát nếu có thể tùy thuận lời dạy của 
	thiện-tri-thức, thời được mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha 
	công-đức, thời thanh-tịnh mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha 
	thâm-tâm, thời lớn mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-no-tha bồ-tát-căn, 
	thời thành mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha bồ-tát lực, thời dứt 
	mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức a-tăng-kỳ-chướng, thời siêu mười 
	bất-khả-thuyết trăm ngàn ức a-tăng-kỳ ma-cảnh, thời nhập mười bất-khả-thuyết 
	trăm ngàn ức a-tăng-kỳ pháp-môn, thời mãn mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức 
	a-tăng-kỳ trợ-đạo, thời tu mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức a-tăng-kỳ 
	diệu-hạnh, thời phát mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức a-tăng-kỳ đại-nguyện. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta lại lược nói bồ-tát-hạnh, tất cả bồ-tát ba-la-mật, tất 
	cả bồ-tát địa, tất cả bồ-tát-nhẫn, tất cả bồ-tát tổng-trì-môn, tất cả bồ-tát 
	tam-muội-môn, tất cả bồ-tát thần-thông-trí, tất cả bồ-tát hồi-hướng, tất cả 
	bồ-tát nguyện, tất cả bồ-tát thành-tựu Phật-pháp, đều do sức của 
	thiện-tri-thức. Đều dùng thiện-tri-thức làm căn-bổn. Đều nương 
	thiện-tri-thức mà sanh. Đều nương thiện-tri-thức mà ra. Đều nương 
	thiện-tri-thức mà lớn. Đều nương thiện-tri-thức mà trụ. Đều do 
	thiện-tri-thức làm nhân-duyên. Đều do thiện-tri-thức hay phát khởi. 
	
	Bấy giờ Thiện-Tài Đồng-Tử nghe thiện-tri-thức có công-đức như vậy, có thể 
	khai-thị vô-lượng diệu-hạnh bồ-tát, có thể thành-tựu phật-pháp quảng đại, 
	nên vui mừng hớn hở đảnh lễ Đức-Sanh và Hữu-Đức, hữu-nhiễu vô-số vòng, ân 
	cần chiêm-ngưỡng từ tạ đi qua phương nam. 
	
	51- Thiện-Tài được nghe lời thiện-tri-thức dạy nhuận trạch tâm mình, 
	chánh-niệm tư-duy công-hạnh của Bồ-Tát. Tự nhớ đời trước chẳng tu hạnh lễ 
	kính, tức thời phát tâm cố gắng tiến bước. 
	
	Lại nhớ đời trước thân tâm chẳng thanh-tịnh, tức thời phát tâm chuyên tự sửa 
	sạch. 
	
	Lại nhớ đời trước làm những ác-nghiệp, tức thời phát ý chuyên tự phòng ngừa 
	và dứt diệt. 
	
	Lại nhớ đời trước khởi những vọng-tưởng, tức thời phát ý hằng suy gẫm chơn 
	chánh. 
	
	Lại nhớ đời trước tu tập chỉ vì tự-thân, tức thời phát ý khiến tâm quảng-đại 
	lợi khắp chúng-sanh. 
	
	Lại nhớ đời trước theo cầu cảnh dục thường tự tổn hao không chút lợi ích, 
	tức thời phát ý tu hành phật-pháp nuôi lớn các căn để tự an-ổn. 
	
	Lại nhớ đời trước khởi tà tư-niệm điên-đảo, tức thời phát ý sanh tâm 
	chánh-kiến khởi nguyện bồ-tát. 
	
	Lại nhớ đời trước ngày đêm siêng nhọc làm những sự ác, tức thời phát ý khởi 
	đại tinh-tấn thành-tựu phật-pháp. 
	
	Lại nhớ đời trước thọ sanh ngũ-thú, thân mình thân người đều không lợi ích, 
	tức thời phát ý nguyện đem thân mình nhiêu ích chúng-sanh thành-tựu 
	phật-pháp kính thờ tất cả thiện-tri-thức. 
	
	Suy nghĩ như trên đây rồi trong lòng rất hoan-hỉ. 
	
	Thiện-Tài lại quán thân nầy là nhà khổ sanh lão bịnh tử. Nguyện tận kiếp 
	vị-lai tu bồ-tát-đạo giáo-hóa chúng-sanh, gặp chư Như-Lai thành tựu 
	phật-pháp, du hành tất cả cõi Phật, kính thờ tất cả pháp-sư, trụ-trì tất cả 
	phật-giáo, tìm cầu tất cả pháp-lữ, thấy tất cả thiện-tri-thức, chứa họp tất 
	cả những phật-pháp, làm nhơn-duyên cho tất cả bồ-tát nguyện-trí-thân. Lúc 
	nghĩ như vậy, Thiện-Tài được thêm lớn vô-lượng thiện-căn. Liền ở nơi tất cả 
	Bồ-Tát thâm tín tôn trọng, tưởng là hi-hữu, tưởng là đại-sư, các căn 
	thanh-tịnh, pháp lành càng thêm, khởi tất cả bồ-tát cung kính cúng-dường, 
	làm tất cả bồ-tát cúi mình chắp tay, sanh con mắt thấy khắp thế-gian của tất 
	cả Bồ-Tát, khởi lòng nhớ khắp chúng-sanh của tất cả Bồ-Tát, hiện vô-lượng 
	thân nguyện-hóa của tất cả Bồ-Tát, xuất âm-thanh nói khen thanh-tịnh của tất 
	cả Bồ-Tát, thấy tất cả chư Phật và Bồ-Tát quá-khứ, hiện-tại, thị-hiện thành 
	đạo và thần-thông biến-hóa ở khắp mọi nơi. Nhẫn đến không có một chỗ nhỏ nào 
	bằng đầu sợi lông mà chẳng châu biến. 
	
	Thiện-Tài lại được trí-nhãn quang-minh thanh-tịnh, thấy cảnh-giới sở-hành 
	của tất cả Bồ-Tát, Tâm vào khắp thập phương sát-võng, nguyện rộng khắp 
	hư-không pháp-giới, tam thế bình-đẳng không thôi nghỉ. 
	
	Tất cả những sự lợi ích lớn mà Thiện-Tài đã được, đều do tin thọ lời dạy của 
	thiện-tri-thức cả. 
	
	Đến nước Hải-Ngạn, Thiện-Tài dùng tâm tôn trọng như vậy, cúng-dường như vậy, 
	xưng tán như vậy, quán-sát như vậy, nguyện lực như vậy, tưởng niệm như vậy, 
	vô-lượng cảnh-giới trí-huệ như vậy, ở trước đại lâu-các Tỳ-Lô-Giá-Na 
	Trang-Nghiêm-Tạng gieo năm vóc đảnh lễ, tạm thời nhiếp niệm tư duy quán-sát. 
	
	Vì sức đại-nguyện tín giải sâu nên nhập môn trí-huệ-thân bình-đẳng khắp tất 
	cả xứ, hiện thân mình ở khắp trước chư Như-Lai, chư Bồ-Tát, chư 
	thiện-tri-thức, chư Phật tháp miếu, chư Phật hình tượng, ở trước tất cả chỗ 
	ở của chư Phật chư Bồ-Tát, tất cả pháp-bửu, tất cả Thanh-Văn, Bích-Chi-Phật 
	và tháp miếu của chư vị ấy. 
	
	Cũng hiện thân mình ở trước tất cả Thánh-Chúng, tất cả phụ-mẫu, tất cả 
	chúng-sanh. Tất cả chỗ, Thiện-Tài đều tôn trọng lễ tán suốt vị-lai-tế không 
	thôi nghỉ, khắp hư-không vì chẳng có biên-lượng, khắp pháp-giới vì không 
	chướng-ngại, khắp thiệt-tế vì khắp tất cả, khắp Như-Lai vì vô phân-biệt, 
	dường như bóng vì tùy trí hiện, dường như mộng vì từ tư-duy khởi, giống như 
	tượng vì thị hiện tất cả, dường như vang vì theo duyên mà phát, không có 
	sanh vì xoay vần khởi diệt, không có tánh vì theo duyên mà chuyển. 
	
	Lại quyết định biết tất cả báo đều do nghiệp, tất cả quả đều do nhơn, tất cả 
	nghiệp, đều do hoặc tập, tất cả Phật xuất thế đều do đức tin, tất cả sự hóa 
	hiện cúng-dường đều do quyết định giải, tất cả Hóa-Phật đều do tâm 
	cung-kính, tất cả phật-pháp đều do thiện-căn, tất cả hóa-thân đều do phương 
	tiện, tất cả Phật-sự đều do đại-nguyện, tất cả Bồ-Tát tu công-hạnh đều do 
	hồi-hướng, tất cả pháp-giới quảng-đại trang-nghiêm đều từ cảnh-giới 
	nhất-thiết-trí. 
	
	Rời đoạn-kiến nên biết hồi-hướng, rời thường-kiến nên biết vô-sanh, rời vô 
	nhơn-kiến nên biết chánh-nhơn, rời điên-đảo-kiến nên biết như-thật-lý, rời 
	tự-tại-kiến nên biết chẳng do nơi khác, rời tự-tha-kiến nên biết 
	từ-duyên-khởi, rời biên-chấp-kiến nên biết pháp-giới vô-biên, rời 
	vãng-lai-kiến nên biết như ảnh tượng, rời hữu-vô-kiến nên biết chẳng sanh 
	diệt, rời nhất thiết-pháp-kiến nên biết không, vô sanh, nên biết chẳng 
	tự-tại, nên biết do nguyện lực xuất sanh, rời nhất-thiết-tướng kiến nên nhập 
	vô-tướng-tế. 
	
	Vì biết tất cả pháp như hột giống nẩy mầm, như ấn sanh văn. 
	
	Vì biết chất như tượng, biết thanh-âm như vang, biết cảnh như mộng, biết 
	nghiệp như huyễn, rõ đời do tâm hiện, quả do nhơn khởi, rõ báo do nghiệp 
	tập. 
	
	Biết rõ tất cả pháp công-đức đều từ bồ-tát phương-tiện thiện-xảo mà lưu xuất 
	
	Thiện-Tài Đồng-Tử nhập quán-trí như vậy, đoan tâm khiết niệm, ở trước lâu 
	các mọp lạy sát đất, bất-tư-nghì thiện-căn lưu chú thân tâm mát mẻ thơ-thời. 
	Rồi đứng dậy chiêm ngưỡng, mắt không tạm rời, chắp tay hữu nhiễu vô-lượng 
	vòng. Tự nghĩ rằng: Đại lâu các nầy là chỗ ở của bậc đạt không, vô-tướng, 
	vô-nguyện. 
	
	Là chỗ ở bực nhất-thiết-pháp vô-phân-biệt. Là chỗ ở của bậc rõ pháp-giới 
	vô-sai-biệt. 
	
	Là chỗ ở của bậc biết tất cả chúng-sanh bất-khả-đắc. Là chỗ ở của bậc biết 
	tất cả pháp vô-sanh. 
	
	Là chỗ ở của bậc chẳng tham chấp tất cả thế-gian. Là chỗ ở của bậc chẳng 
	tham chấp tất cả nhà của. 
	
	Là chỗ ở của bậc chẳng thích tất cả tụ-lạc. Là chỗ ở của bậc chẳng dựa tất 
	cả cảnh-giới. 
	
	Là chỗ ở của bậc lìa tất cả tưởng. Là chỗ ở của bậc biết tất cả pháp không 
	tự-tánh. 
	
	Là chỗ ở của bậc dứt tất cả nghiệp phân-biệt. Là chỗ ở của bậc lìa tất cả 
	tưởng, tâm, ý, thức. 
	
	Là chỗ ở của bậc chẳng xuất, chẳng nhập tất cả đạo. Là chỗ ở của bậc nhập 
	thậm-thâm bát-nhã ba-la-mật. 
	
	Là chỗ ở của bậc hay dùng phương-tiện trụ phổ-môn pháp-giới. Là chỗ ở của 
	bậc tắt dứt tất cả lửa phiền não. 
	
	Là chỗ ở của bậc dùng tăng-thượng huệ dứt trừ tất cả kiến, ái, mạn. 
	
	Là chỗ ở của bậc xuất sanh tất cả thiền, giải-thoát, tam-muội, thông-sáng và 
	du-hí trong đó. 
	
	Là chỗ ở của bậc cảnh-giới tam-muội của tất cả Bồ-Tát. 
	Là chỗ ở của bậc an-trụ chỗ của tất cả Như-Lai. 
	
	Là chỗ ở của bậc đem một kiếp vào tất cả kiếp, đem tất cả kiếp vào một kiếp 
	mà không hư tướng thời-gian. 
	
	Là chỗ ở của bậc đem một thế-giới vào tất cả thế-giới, đem tất cả thế-giới 
	vào một thế-giới mà chẳng hoại tướng không-gian. 
	
	Là chỗ ở của bậc đem một pháp vào tất cả pháp, đem tất cả pháp vào một pháp 
	mà chẳng hư hoại tướng của pháp. 
	
	Là chỗ ở của bậc đem một chúng-sanh vào tất cả chúng-sanh, đem tất cả 
	chúng-sanh vào một chúng-sanh, mà không hư tướng chúng-sanh. 
	
	Là chỗ ở của bậc đem một Phật vào tất cả Phật, đem tất cả Phật vào một Phật, 
	mà chẳng hoại tướngPhật. 
	
	Là chỗ ở của bậc ở trong một niệm mà biết tất cả tam-thế. 
	
	Là chỗ ở của bậc trong khoảng một niệm qua đến tất cả quốc-độ. 
	
	Là chỗ ở của bậc hiện thân mình ra trước tất cả chúng-sanh. 
	
	Là chỗ ở của bậc tâm thường lợi ích tất cả thế-gian. 
	Là chỗ ở của bậc hay đến khắp tất cả chỗ. 
	
	La chỗ ở của bậc dầu đã thoát ly tất cả thế-gian, nhưng vì hóa độ chúng-sanh 
	nên hằng hiện thân ở trong-thế-gian. 
	
	Là chỗ ở của bậc chẳng chấp lấy tất cả cõi, nhưng vì cúng-dường chư Phật mà 
	du hành tất cả cõi. 
	
	Là chỗ ở của bậc chẳng động bổn-xứ, mà có thể đến khắp tất cả phật-độ để 
	trang-nghiêm. 
	
	Là chỗ ở của bậc thân cận tất cả Phật mà chẳng khởi phật-tưởng. 
	
	Là chỗ ở của bậc y chỉ tất cả thiện-tri-thức mà chẳng khởi thiện-tri-thức 
	tưởng. 
	
	Là chỗ ở của bậc ở tất cả ma-cung mà chẳng đắm nhiễm cảnh dục. 
	
	Là chỗ ở của bậc rời hẳn tất cả tâm tưởng. 
	
	Là chỗ ở của bậc dầu hiện thân trong tất cả chúng-sanh mà không có quan niệm 
	mình người riêng khác. 
	
	Là chỗ ở của bậc hay vào khắp tất cả thế-giới, mà đối với pháp-giới không có 
	tưởng sai biệt. 
	
	Là chỗ ở của bậc nguyên trụ tất cả kiếp vị-lai, nhưng đối với kiếp số không 
	có quan-niệm thời-gian dài vắn. 
	
	Là chỗ ở của bậc chẳng rời chỗ một đầu sợi lông mà hiện thân khắp tất cả 
	thế-giới. 
	
	Là chỗ ở của bậc hay diễn thuyết những pháp khó được gặp, được nghe. 
	
	Là chỗ ở của bậc hay trụ pháp khó biết, pháp thậm thâm, pháp không hai, pháp 
	vô-tướng, pháp không đối-trị, pháp vô-sở-đắc, pháp không hí-luận. 
	Là chỗ ở của bậc trụ đại-từ đại-bi. 
	
	Là chỗ ở của bậc đã vượt hẳn trí nhị-thừa, đã siêu cảnh-giới ma, đã không 
	nhiễm thế-pháp, đã đến bờ của Bồ-Tát đã đến, đã trụ nơi chỗ trụ của Như-Lai. 
	
	Là chỗ ở của bậc dầu rời tất cả tướng mà chẳng nhập chánh-vị của Thanh-Văn, 
	dầu rõ tất cả pháp vô-sanh mà cũng chẳng trụ pháp-tánh vô-sanh. 
	
	Là chỗ ở của bậc dầu quán bất-tịnh mà chẳng chứng pháp ly-tham cũng chẳng 
	cùng chung với tham-dục, dầu tu hạnh từ mà chẳng chứng pháp ly-sân cũng 
	chẳng cùng chung với sân hận, dầu quán duyên-khởi mà chẳng chứng pháp ly-si 
	cũng chẳng cùng chung với si hoặc. 
	
	Là chỗ ở của bậc dầu trụ tứ-thiền mà chẳng tùy thiền sanh, dầu tu hành 
	tứ-vô-lượng-tâm nhưng vì hóa độ chúng-sanh nên chẳng sanh cõi sắc, dầu tu 
	vô-sắc-định nhưng vì đại-bi nên chẳng trụ cõi vô-sắc. 
	
	Là chỗ ở của bậc dầu siêng tu chỉ quán nhưng vì hóa độ chúng-sanh nên chẳng 
	chứng quả giải thoát, dầu thật hành hạnh xả mà chẳng bỏ sự hóa độ 
	chúng-sanh. 
	
	Là chỗ ở của bậc dầu quán không mà chẳng khởi không-kiến, dầu hành vô-tướng 
	mà thường giáo-hóa chúng-sanh chấp tướng, dầu hành vô-nguyện mà chẳng bỏ 
	hạnh nguyện vô-thượng bồ-đề. 
	
	Là chỗ ở của bậc dầu ở trong tất cả nghiệp phiền-não mà vẫn tự-tại, vì để 
	hóa độ chúng-sanh nên tùy-thuân các nghiệp phiền-não, dầu không sanh tử mà 
	vì hóa độ chúng-sanh nên thị hiện thọ sanh tử, dầu đã rời tất cả loài mà vì 
	hóa độ chúng-sanh nên thị hiện vào các loài. 
	
	Là chỗ ở của bậc dầu thật hành hạnh từ mà không ái luyến chúng-sanh, dầu 
	thật hành hạnh bi mà không chấp trước chúng-sanh, dầu thật hành hạnh hỉ mà 
	thường ai mẫn chúng-sanh khổ, dầu thật hành hạnh xả mà chẳng bỏ sự lợi ích 
	cho người khác. 
	
	Là chỗ ở của bậc dầu hành cửu thứ-đệ-định mà chẳng nhàm lìa thọ sanh 
	dục-giới, dầu biết tất cả pháp vô sanh vô diệt mà chẳng tác chứng nơi 
	thiệt-tế, dầu nhập ba môn giải-thoát mà chẳng lấy quả giải-thoát của 
	Thanh-Văn, dầu quán tứ thánh-đế mà chẳng trụ quả tiểu-thừa, dầu quán duyên 
	khởi thậm-thâm mà chẳng trụ rốt ráo tịch-diệt, dầu tu bát thánh-đạo mà chẳng 
	cầu thoát hẳn thế-gian, dầu siêu phàm-phu-địa mà chẳng sa Thanh-Văn 
	Bích-Chi-Phật-Địa, dầu quán ngũ-thủ-uẩn mà chẳng diệt hẳn các uẩn, dầu 
	siêu-xuất tứ ma mà chẳng phân biệt các ma, dầu chẳng chấp lục xứ mà chẳng 
	dứt hẳn lục xứ, dầu an-trụ chân-như mà chẳng đọa thiệt-tế, dầu nói tất cả 
	thừa mà chẳng bỏ đại-thừa. 
	
	Bấy giờ Thiện-Tài nói kệ rằng: 
	
	Lâu các đây là chỗ ở của 
	
	Đức Từ-Thị lợi ích thế-gian 
	
	Quán-đảnh đại-bi thanh-tịnh-trí 
	
	Pháp-Vương-Tử nhập Như-Lai cảnh. 
	
	Tất cả Phật-tử có tiếng tăm 
	
	Đã nhập môn giải-thoát đại thừa 
	
	Du hành pháp-giới tâm không nhiễm 
	
	Bậc vô-đẳng ở lâu các nầy. 
	
	Thí, giới, nhẫn, tấn, thiền, trí, huệ, 
	
	Phương-tiện, nguyện, lực và thần thông 
	
	Những bậc đầy đủ đại-thừa-hạnh 
	
	Mười ba-la-mật ở lầu nầy. 
	
	Trí-huệ rộng lớn như hư-không 
	
	Khắp biết tam thế tất cả pháp 
	
	Vô-ngại, vô-y, không chấp lấy 
	
	Biết rõ các cõi ở lầu nầy. 
	
	Khéo biết rõ được tất cả pháp 
	
	Không tánh, không sanh, không sở-y 
	
	Như chim bay không, được tự-tại 
	
	Bậc có đại-trí ở lầu nầy. 
	
	Biết rõ phiền-não chân-thật-tánh 
	
	Phân-biệt nhơn-duyên hư-vọng khởi 
	
	Cũng chẳng nhàm nó mà cầu ra 
	
	Lầu nầy của bậc tịch-tịnh ở. 
	
	Ba môn giải-thoát, tám thánh-đạo 
	
	các uẩn, xứ, giới và duyên-khởi 
	
	Đều hay quán-sát chẳng nhập diệt 
	
	Bậc thiện-xảo đây ở lầu nầy. 
	
	Mười phương quốc-độ và chúng-sanh 
	
	Dùng trí vô-ngại đều quán-sát 
	
	Biết tánh đều không chẳng phân biệt 
	
	Bậc chứng tịch-diệt ở lầu nầy. 
	
	Đi khắp pháp-giới đều vô-ngại 
	
	Mà cầu tánh đi chẳng thể được 
	
	Như gió trong không chẳng chỗ đi 
	
	Lầu nầy của bậc vô-y ở. 
	
	Thấy khắp ác-đạo loài quần-sanh 
	
	Chịu những khổ độc không nơi về 
	
	Phóng đại-từ-quang đều trừ diệt 
	
	Lầu nầy của bậc từ-mẫn ở. 
	
	Thấy các chúng-sanh mất chánh-đạo 
	
	Như kẻ đui mù đi đường hiểm 
	
	Dẫn họ vào thẳng thành giải-thoát 
	
	Lầu nầy của bậc Đạo-Sư ở. 
	
	Thấy các chúng-sanh vào lưới ma 
	
	Sanh lão bệnh tử thường bức bách 
	
	Cứu họ thoát khổ được an vui 
	
	Lầu nầy của bậc dũng-kiện ở. 
	
	Thấy các chúng-sanh mang phiền-não 
	
	Nên sanh lòng bi-mẫn quảng đại 
	
	Dùng thuốc trí-huệ đều trừ diệt 
	
	Lầu nầy của bậc y-vương ở. 
	
	Thấy các quần-sanh chìm biển khổ 
	
	Nổi trôi chịu bao sanh tử khổ 
	
	Đều dùng pháp-thuyền cứu vớt họ 
	
	Lầu nầy của bậc khéo độ ở. 
	
	Thấy các chúng-sanh tại phiền-não 
	
	Hay phát tâm bồ-đề diệu-bửu 
	
	Đều vào trong đó để cứu họ 
	
	Lầu nầy của bậc khéo vớt ở. 
	
	Hằng dùng cập mắt đại từ-bi 
	
	Quán khắp tất cả các chúng-sanh 
	
	Cứu họ thoát khỏi biển sanh tử 
	
	Lầu nầy của Kim-Sí-Vương ở. 
	
	Như vầng nhật nguyệt tại hư-không 
	
	Tất cả thế-gian được soi sáng 
	
	Ánh sáng trí-huệ cũng như vậy 
	
	Lầu nầy của bậc Chiếu-Thế ở. 
	
	Bồ-Tát vì độ một chúng-sanh 
	
	Khắp cả vị-lai vô-lượng kiếp 
	
	Vì độ tất cả cũng như vậy 
	
	Lầu nầy của bậc Cứu-Thế ở. 
	
	Tại một quốc-độ cứu chúng-sanh 
	
	Tận vị-lai kiếp không thôi nghĩ 
	
	Mỗi mỗi quốc-độ đều như vậy 
	
	Lầu nầy của bậc kiên-cố ở. 
	
	Chánh-pháp của chư Phật diễn nói 
	
	Bồ-Tát nghe lãnh đều khắp hết 
	
	Suốt kiếp vị-lai đều vậy cả 
	
	Lầu nầy của bậc trí-hải ở. 
	
	Đi khắp tất cả thế-giới-hải 
	
	Vào khắp tất cả đạo tràng-hải 
	
	Cúng-dường tất cả Như-lai-hải 
	
	Lầu nầy của bậc tu hành ở. 
	
	Tu hành tất cả diệu-hạnh-hải 
	
	Phát khởi vô-biên đại-nguyện-hải 
	
	Như vậy trải qua những kiếp-hải 
	
	Lầu nầy của bậc công-đức ở. 
	
	Chỗ một đầu lông vô-lượng cõi 
	
	Phật, chúng-sanh, kiếp bất-khả-thuyết 
	
	Thấy rõ như vậy đều cùng khắp 
	
	Lầu nầy của bậc vô-ngại-nhãn. 
	
	Một niệm nhiếp khắp vô-biên kiếp 
	
	Quốc-độ, chư Phật và chúng-sanh 
	
	Trí-huệ vô-ngại đều chánh biết 
	
	Lầu nầy của bậc đủ đức ở. 
	
	Mười phương quốc-độ nghiền làm bụi 
	
	Tất cả đại-hải dùng lông chấm 
	
	Bồ-Tát phát nguyện số như vậy 
	
	Lầu nầy của bậc vô-ngại ở. 
	
	Thành-tựu tổng-trì môn tam-muội 
	
	Đại nguyện thiền-định và giải thoát 
	
	Mỗi mỗi đều trụ vô-biên kiếp 
	
	Lầu nầy của bậc chân Phật-Tử. 
	
	Vô-lượng vô-biên các Phật-Tử 
	
	Luôn luôn thuyết pháp độ chúng-sanh 
	
	Cũng nói thế-gian các kỹ-thuật 
	
	Lầu nầy của bậc tu hành ở. 
	
	Thành-tựu thần-thông trí phương-tiện 
	
	Tu hành như huyễn diệu-pháp-môn 
	
	Mười phương ngũ thú đều hiện sanh 
	
	Lầu nầy của bậc vô-ngại ở. 
	
	Bồ-Tát bắt đầu sơ-phát-tâm 
	
	Tu hành đầy đủ tất cả hạnh 
	
	Hoá-thân vô-lượng khắp pháp-giới 
	
	Lầu nầy của bậc thần-lực ở. 
	
	Một niệm thành-tựu đạo bồ-đề 
	
	Làm khắp vô-biên hạnh trí-huệ 
	
	Thế-tình suy toán rối loạn tâm 
	
	Lầu nầy của bậc nan-lượng ở. 
	
	Thành-tựu thần-thông không chướng-ngại 
	
	Du hành pháp-giới đều cùng khắp 
	
	Nơi tâm chưa từng có sở-đắc 
	
	Lầu nầy của bậc tịnh-huệ ở. 
	
	Bồ-Tát tu hành huệ vô-ngại 
	
	Vào các quốc-độ không nhiễm trước 
	
	Dùng trí vô-nhị chiếu khắp nơi 
	
	Lầu nầy của bậc vô-ngã ở. 
	
	Biết rõ các pháp không y-chỉ. 
	
	Bổn-tánh tịch-diệt đồng hư-không 
	
	Thường đi trong cảnh-giới như vậy 
	
	Lầu nầy của bậc ly-cấu ở. 
	
	Thấy khắp quần-sanh chịu khốn khổ 
	
	Pháp tâm nhơn từ đại trí-huệ 
	
	Nguyện thường lợi ích các thế-gian 
	
	Lầu nầy của bậc bi mẫn ở. 
	
	Phật-Tử ở lầu nầy 
	
	Hiện khắp chỗ chúng-sanh 
	
	Dường như vầng nhật nguyệt 
	
	Khắp trừ tối thế-gian. 
	
	Phật-Tử ở lầu nầy 
	
	Thuận khắp tâm chúng-sanh 
	
	Biến hiện vô-lượng thân 
	
	Sung-mãn mười phương cõi. 
	
	Phật-Tử ở lầu nầy 
	
	Đi khắp các thế-giới 
	
	Tất cả chỗ Như-Lai 
	
	Vô-lượng vô-số kiếp. 
	
	Phật-Tử ở lầu nầy 
	
	Tư-lương các phật-pháp 
	
	Vô-lượng vô-số kiếp 
	
	Tâm không hề nhàm mỏi. 
	
	Phật-Tử ở lầu nầy 
	
	Niệm niệm nhập tam-muội 
	
	Mỗi mỗi môn tam-muội 
	
	Xiển minh cảnh-giới Phật. 
	
	Phật-Tử ở lầu nầy 
	
	Đều biết tất cả cõi 
	
	Vô-lượng vô-số kiếp 
	
	Danh-hiệu Phật, chúng-sanh. 
	
	Phật-Tử ở lầu nầy 
	
	Một niệm nhiếp các kiếp 
	
	Chỉ tùy tâm chúng-sanh 
	
	Mà không lòng phân-biệt. 
	
	Phật-Tử ở lầu nầy 
	
	Tu tập các tam-muội 
	
	Trong mỗi mỗi tâm-niệm 
	
	Biết rõ pháp tam-thế. 
	
	Phật-Tử ở lầu nầy 
	
	Kiết-già thân bất-động 
	
	Hiện khắp tất cả cõi 
	
	Trong tất cả các loài. 
	
	Phật-Tử ở lầu nầy 
	
	Uống nước biển Phật-pháp 
	
	Vào sâu biển trí-huệ 
	
	Đầy đủ biển công-đức. 
	
	Phật-Tử ở lầu nầy 
	
	Biết rõ số các cõi 
	
	Số đời, số chúng-sanh 
	
	Số Phật-danh cũng vậy. 
	
	Phật-Tử ở lầu nầy 
	
	Một niệm đều biết rõ 
	
	Trong tất cả tam thế 
	
	Quốc-độ thành hay hoại. 
	
	Phật-Tử ở lầu nầy 
	
	Biết rõ hạnh nguyện Phật 
	
	Bồ-Tát hạnh tu hành 
	
	Chúng-sanh căn, tánh, dục. 
	
	Phật-Tử ở lầu nầy 
	
	Thấy trong một vị-trần 
	
	Vô-lượng cõi đạo-tràng 
	
	Chúng-sanh và các kiếp. 
	
	Như trong một vi-trần 
	
	Tất cả trần cũng vậy 
	
	Các thứ đều đầy đủ 
	
	Xứ xứ đều vô-ngại. 
	
	Phật-Tử trụ ở đây 
	
	Quán khắp tất cả pháp 
	
	Chúng-sanh, cõi và đời 
	
	không sanh, không sở-hữu. 
	
	Quán-sát những chúng-sanh 
	
	Chánh-pháp và Như-Lai 
	
	Quốc-độ cùng chí-nguyện 
	
	Tam-thế đều bình-đẳng. 
	
	Phật-Tử ở lầu nầy 
	
	Giáo-hóa các quần-sanh 
	
	Cúng-dường chư Như-Lai 
	
	Tư-duy các pháp-tánh. 
	
	Vô-lượng ngàn muôn kiếp 
	
	Tu tập nguyện, trí, hạnh 
	
	Rộng lớn chẳng thể lường 
	
	Tán dương chẳng thể hết. 
	
	Các bậc đại dũng-mãnh 
	
	Chỗ làm không chướng-ngại 
	
	An trụ ở trong đây 
	
	Tôi chắp tay kính lễ. 
	
	Trưởng-Tử của chư Phật 
	
	Đức Di-Lặc Bồ-Tát 
	
	Nay tôi cung kính lễ 
	
	Cúi xin thương tưởng tôi. 
	
	Sau khi dùng vô-lượng pháp xưng tán để tán dương chư Bồ-Tát ở trong đại 
	lâu-các Tỳ-Lô-Giá-Na-Trang-Nghiêm, Thiện-Tài cung kính đảnh lễ nhất-tâm 
	nguyện thấy Di-Lặc Bồ-Tát để thân-cận cúng-dường, bèn thấy đức Di-Lặc Bồ-Tát 
	từ chỗ khác đến, vô-lượng Thiên, Long, Bát-Bộ, Đế-Thích, Phạm-Vương, 
	Tứ-Thiện-Vương cùng vô-lượng thân-quyến và vô-số chúng-sanh theo Di-Lặc 
	Bồ-Tát. 
	
	Thiện-Tài vui mừng hớn hở, gieo mình mọp lạy. 
	
	Di-Lặc Bồ-Tát quan-sát Thiện-Tài, chỉ-thị với đại-chúng về công-đức của 
	Thiện-Tài mà nói kệ rằng: 
	
	Đại-chúng xem Thiện-Tài 
	
	Tâm trí-huệ thanh-tịnh 
	
	Vì cầu hạnh bồ-đề 
	
	Nên đến lầu của ta. 
	
	Lành thay viên-mãn-từ! 
	
	Lành thay thanh-tịnh-bi! 
	
	Lành thay tịch-tịch-nhãn! 
	
	Tu hành không lười mỏi. 
	
	Lành thay thanh-tịnh ý! 
	
	Lành thay quảng-đại-tâm! 
	
	Lành thay bất-thối-căn! 
	
	Tu hành không lười mỏi. 
	
	Lành thay bất-động-hạnh! 
	
	Thường cầu thiện-tri-thức 
	
	Thấu rõ tất cả pháp 
	
	Điều phục các quần-sanh. 
	
	Lành thay hành diệu-đạo! 
	
	Lành thay trụ công-đức! 
	
	Lành thay xu Phật-quả! 
	
	Chưa từng có mỏi nhọc. 
	
	Lành thay đức làm thể 
	
	Lành thay pháp tư nhuận 
	
	Lành thay vô-biên-hạnh 
	
	Thế-gian khó được thấy. 
	
	Lành thay lìa mê hoặc 
	
	Thế pháp chẳng nhiễm được 
	
	Lợi, suy, chê, khen thảy 
	
	Tất cả không phân biệt. 
	
	Lành thay chí an lạc 
	
	Điều-nhu kham dược độ 
	
	Tâm siểm cuống sân mạn 
	
	Tất cả đều trừ-diệt. 
	
	Lành thay chân Phật-Tử 
	
	Đến khắp cả mười phương 
	
	Thêm lớn các công-đức 
	
	Điều-nhu không lười mỏi. 
	
	Lành thay tam-thế trí 
	
	Biết khắp tất cả pháp 
	
	Khắp sanh tạng công-đức 
	
	Tu hành chẳng mỏi nhàm. 
	
	Văn-Thù, Đức-Vân thảy 
	
	Tất cả các Phật-Tử 
	
	Bảo ngươi đến gặp ta 
	
	Dạy ngươi chỗ vô-ngại. 
	
	Tu đủ hạnh bồ-tát 
	
	Nhiếp khắp các quần-sanh 
	
	Người quảng đại như đây 
	
	Nay đến tìm gặp ta. 
	
	Vì cầu những cảnh-giới 
	
	Thanh-tịnh của Như-Lai 
	
	Nên hỏi nguyện quảng-đại 
	
	Nay đến tìm gặp ta. 
	
	Phật quá, hiện, vị-lai 
	
	Đã thành tựu công-hạnh 
	
	Người muốn tu học cả 
	
	Nay đến tìm gặp ta. 
	
	Với chư thiện-tri-thức 
	
	Ngươi cầu pháp vi-diệu 
	
	Muốn thọ bồ-tát-hạnh 
	
	Nay đến tìm gặp ta. 
	
	Ngươi nghĩ thiện-tri-thức 
	
	Được chư Phật khen ngợi 
	
	Làm cho người thành đạo 
	
	Nay đến tìm gặp ta. 
	
	Ngươi nghĩ thiện-tri-thức 
	
	Như cha mẹ sanh thành 
	
	Nuôi nấng như nhũ-mẫu 
	
	Lớn bồ-đề cho mình. 
	
	Như y-sư trị-bệnh, 
	
	Như trời rưới cam-lộ, 
	
	Như mặt nhật soi đường, 
	
	Như mặt nguyệt thanh-tịnh, 
	
	Như núi vững không lay, 
	
	Như biển không tăng giảm, 
	
	Như lái thuyền tế độ, 
	
	Nay tìm đến gặp ta. 
	
	Ngươi xem thiện-tri-thức 
	
	Dường như tướng dũng-mãnh 
	
	Cũng như chủ thương-gia 
	
	Lại như đại đạo-sư, 
	
	Hay dựng tràng chánh-pháp, 
	
	Hay bày Phật công-đức, 
	
	Hay diệt các ác-đạo, 
	
	Hay mở cửa đường lành, 
	
	Hay hiển thân chư Phật, 
	
	Hay gìn tạng chư Phật, 
	
	Hay giữ pháp chư Phật, 
	
	Nên ngươi nguyện kính thờ. 
	
	Muốn đủ trí thanh-tịnh 
	
	Muốn đầy thân đoan-chánh 
	
	Muốn sanh nhà tôn-quý 
	
	Nay ngươi đến gặp ta. 
	
	Đại-chúng xem người nầy 
	
	Gần-gũi thiện-tri-thức 
	
	Chỗ người nầy tu học 
	
	Tất cả phải thuận hành. 
	
	Do phước-duyên thuở trước 
	
	Văn-Thù khiến phát tâm 
	
	Tùy thuận không trái nghịch 
	
	Tu hành chẳng mỏi nhọc. 
	
	Cha mẹ cùng thân thuộc 
	
	Cung-điện và tài sản 
	
	Tất cả đều bỏ lìa 
	
	Khiêm hạ cầu tri-thức. 
	
	Tịnh trị ý như vậy 
	
	Rời hẳn thân thế-gian 
	
	Thường sanh cõi nước Phật 
	
	Hưởng quả báo thù thắng. 
	
	Thiện-Tài thấy chúng-sanh 
	
	Khổ sanh, già, bệnh, chết 
	
	Vì phát ý đại-bi 
	
	Siêng tu đạo vô-thượng. 
	
	Thiện-Tài thấy chúng-sanh 
	
	Ngũ-thú thường lưu chuyển 
	
	Vì cầu kim-cang-trí 
	
	Để phá những khổ-luân. 
	
	Thiện-Tài thấy chúng-sanh 
	
	Tâm-điền rất hoang dơ 
	
	Vì trừ gai tam độc 
	
	Chuyên cầu cày trí bén. 
	
	Chúng-sanh ở si tối 
	
	Đui mù mất chánh-đạo 
	
	Thiện-Tài làm đạo-sư 
	
	Chỉ cho chỗ an ổn. 
	
	Giáp nhẫn, xe giải-thoát, 
	
	Trí-huệ làm gươm bén 
	
	Hay ở trong ba cõi 
	
	Phá các giặc phiền-não. 
	
	Thiện-Tài lái thuyền pháp 
	
	Tế độ khắp hàm-thức 
	
	Vượt qua biển lửa dữ 
	
	Mau đến xứ tịnh-bửu. 
	
	Thiện-Tài mặt nhật sáng 
	
	Vầng trí-quang đại-nguyện 
	
	Đi khắp pháp-giới-không 
	
	Chiếu khắp nhà quần-mê. 
	
	Thiện-Tài mặt nguyệt sáng 
	
	Pháp lành đều viên-mãn 
	
	Từ tam-muội thanh-lương 
	
	Chiếu khắp tâm chúng-sanh. 
	
	Thiện-Tài biển thắng-trí 
	
	An-trụ nơi trực-tâm 
	
	Hạnh bồ-đề lần sâu 
	
	Xuất sanh những pháp-bửu. 
	
	Thiện-Tài rồng đại-tâm 
	
	Bay lên pháp-giới-không 
	
	Nổi mây tuôn mưa ngọt 
	
	Sanh thành tất cả quả. 
	
	Thiện-Tài thắp đèn pháp 
	
	Tim: tin, dầu: từ bi, 
	
	Bình: niệm, sáng: công-đức 
	
	Diệt trù tối tam độc. 
	
	Giác-tâm: ca-la-lã, 
	
	Bi: bào thai, từ: thịt, 
	
	Bồ-đề phần: chi tiết 
	
	Lớn nơi Như-lai-tạng. 
	
	Thêm lớn phước-đức-tạng, 
	
	Thanh-tịnh trí-huệ-tạng, 
	
	Khai hiển phương-tiện-tạng, 
	
	Xuất sanh đại-nguyện-tạng, 
	
	Đại-trang-nghiêm như vậy 
	
	Cứu hộ các quần-sanh 
	
	Trong tất cả thiên nhơn 
	
	Khó nghe khó thấy được. 
	
	Cây trí-huệ như vậy 
	
	Rễ sâu chẳng lay động 
	
	Công-hạnh lần tăng trưởng 
	
	Che mát khắp quần-sanh. 
	
	Muốn sanh tất cả đức 
	
	Muốn hỏi tất cả pháp 
	
	Muốn dứt tất cả nghi 
	
	Chuyên cầu thiện-tri-thức. 
	
	Muốn phá những ma hoặc 
	
	Muốn trừ những kiến chấp 
	
	Muốn mở trói chúng-sanh 
	
	Chuyên cầu thiện-tri-thức. 
	
	Phải diệt các ác-đạo, 
	
	Phải chỉ đường nhơn thiên, 
	
	Khiến ta công-đức-hạnh, 
	
	Mau nhập thành niết-bàn, 
	
	Phải độ nạn chấp kiến, 
	
	Phải cắt lưới chấp kiến, 
	
	Phải khô nước ái dục, 
	
	Phải chỉ đường ba cõi, 
	
	Phải làm chỗ đời nương 
	
	Phải làm săng đời soi 
	
	Phải làm thầy ba cõi 
	
	Chỉ cho chỗ giải-thoát. 
	
	Cũng phải khiến thế-gian 
	
	lìa tất cả tưởng chấp 
	
	Đánh thức giấc phiền-não 
	
	Thoát bùn lầy ái dục. 
	
	Phải biết tất cả pháp, 
	
	Phải tịnh tất cả cõi 
	
	Tất cả đều rốt ráo 
	
	Trong lòng rất hoan-hỉ. 
	
	Hạnh ngươi rất điều-nhu 
	
	Tâm ngươi rất thanh-tịnh 
	
	Những công-đức muốn tu 
	
	Tất cả sẽ viên-mãn. 
	
	Ngươi sẽ thấy chư Phật 
	
	Thấu rõ tất cả pháp 
	
	Nghiêm tịnh tất cả cõi 
	
	Thành-tựu đại bồ-đề. 
	
	Sẽ viên-mãn hạnh-hải 
	
	Sẽ thấu rõ pháp hải 
	
	Sẽ độ chúng-sanh-hải 
	
	Tu các hạnh như vậy. 
	
	Sẽ đến bờ công-đức 
	
	Sẽ sanh những thiện-phẩm 
	
	Sẽ đồng chư Phật-Tử 
	
	Tâm quyết định như vậy. 
	
	Sẽ dứt tất cả hoặc 
	
	Sẽ sạch tất cả nghiệp 
	
	Sẽ phục tất cả ma 
	
	Đầy đủ nguyện như vậy. 
	
	Sẽ sanh diệu-trí-đạo 
	
	Sẽ khai chánh-pháp-đạo 
	
	Chẳng lâu sẽ bỏ rời 
	
	Hoặc, nghiệp và khổ-đạo. 
	
	Tất cả chúng-sanh-luân 
	
	Trầm mê tam-hữu-luân 
	
	Ngươi sẽ chuyển pháp-luân 
	
	Cho họ hết khổ-luân. 
	
	Ngươi sẽ gìn Phật-chủng 
	
	Ngươi sẽ tịnh pháp-chủng 
	
	Ngươi hay họp tăng-chủng 
	
	Tam-thế đều cùng khắp. 
	
	Sẽ cắt những lưới ái 
	
	Se xé những lưới chấp 
	
	Sẽ cứu những lưới khổ 
	
	Sẽ thành những lưới nguyện. 
	
	Sẽ độ chúng-sanh-giới 
	
	Sẽ tịnh quốc-độ-giới 
	
	Sẽ chứa tri-tuệ-giới 
	
	Sẽ thành tâm-nguyện-giới. 
	
	Sẽ làm chúng-sanh-mừng 
	
	Sẽ làm Bồ-Tát mừng 
	
	Sẽ làm chư Phật mừng 
	
	Sẽ thành sự vui mừng. 
	
	Sẽ thấy tất cả loài 
	
	Sẽ thấy tất cả cõi 
	
	Sẽ thấy tất cả pháp 
	
	Sẽ thành thấy của Phật. 
	
	Sẽ phóng sáng phá tối 
	
	Sẽ phóng sáng dứt nóng 
	
	Sẽ phóng sáng diệt ác 
	
	Trừ sạch khổ ba cõi. 
	
	Sẽ mở cửa thiên-đạo 
	
	Sẽ mở cửa Phật-đạo 
	
	Sẽ chỉ cửa giải-thoát 
	
	Sẽ bảo chúng-sanh vào. 
	
	Sẽ chỉ cho chánh-đạo 
	
	Sẽ dứt hết tà-đạo 
	
	Như vậy siêng tu hành 
	
	Thành-tựu bồ-đề đạo. 
	
	Sẽ tu công-đức-hải 
	
	Sẽ độ tam-hữu-hải 
	
	Khiến khắp chúng-sanh-hải 
	
	Thoát khỏi những khổ-hải. 
	
	Phải nơi chúng-sanh-hải 
	
	Tiêu diệt phiền-não-hải 
	
	Khiến tu những hạnh-hải 
	
	Mau vào đại-trí-hải. 
	
	Ngươi sẽ thêm trí-hải 
	
	Ngươi sẽ tu hạnh-hải 
	
	Ngươi sẽ đều đầy đủ 
	
	Chư Phật đại-nguyện-hải. 
	
	Ngươi sẽ nhập sát-hải 
	
	Ngươi sẽ quán chúng-hải 
	
	Ngươi sẽ dùng trí-lực 
	
	Uống tất cả pháp-hải. 
	
	Sẽ thấy chư-Phật-vân 
	
	Sẽ khởi cúng-dường-vân 
	
	Sẽ nghe diệu-pháp-vân 
	
	Sẽ nổi những nguyện vân. 
	
	Đi khắp nhà ba cõi 
	
	Phá khắp nhà phiền-não 
	
	Vào khắp nhà Như-Lai 
	
	Sẽ hành đạo như vậy. 
	
	Vào khắp môn tam-muội 
	
	Dạo khắp môn giải-thoát 
	
	Trụ khắp môn thần-thông 
	
	Đi khắp trong pháp-giới. 
	
	Hiện khắp trước chúng-sanh 
	
	Đối trước khắp chư Phật 
	
	Ví như sáng nhật nguyệt 
	
	Sẽ thành sức như vậy. 
	
	Chỗ đi không động loạn 
	
	Chỗ đi không nhiễm trước 
	
	Như chim bay hư không 
	
	Sẽ thành diệu-dụng nầy. 
	
	Ví như Phạm-Thiên-Võng 
	
	Sát-võng trụ như vậy 
	
	Ngươi sẽ đều qua đến 
	
	Như gió không chướng ngại. 
	
	Ngươi sẽ nhập pháp-giới 
	
	Qua khắp các thế-giới 
	
	Thấy khắp tam-thế Phật 
	
	Trong lòng rất hoan-hỉ. 
	
	Ngươi ở các pháp-môn 
	
	Đã được và sẽ được 
	
	Phải vui mừng hớn-hở 
	
	Không tham cũng không nhàm. 
	
	Người là công-đức-khí 
	
	Hay thuận lời Phật dạy 
	
	Hay tu hạnh bồ-tát 
	
	Được thấy sự lạ nầy. 
	
	Chư Phật-Tử như vậy 
	
	Ức kiếp khó gặp được 
	
	Huống thấy được công-đức 
	
	Và diệu-đạo đã tu. 
	
	Ngươi sanh trong nhơn-gian 
	
	Được những lợi lành lớn 
	
	Được thấy đức Văn-Thù 
	
	Vô-lượng công-đức lớn. 
	
	Đã rời các ác-đạo 
	
	Đã ra khỏi chỗ nạn 
	
	Đã vượt khỏi khổ hoạn 
	
	Lành thay! Chớ giải-đãi. 
	
	Đã rời phàm-phu-địa 
	
	Đã trụ bồ-tát-địa 
	
	Sẽ đầy trí-huệ-địa 
	
	Mau nhập như-lai-địa. 
	
	Bồ-tát-hạnh như biển 
	
	Phật-trí đồng hư-không 
	
	Nguyện của ngươi cũng vậy 
	
	Nên sanh lòng vui mừng. 
	
	Các căn chẳng lười trễ 
	
	Chí nguyện hằng quyết định 
	
	Thân cận thiện-tri-thức 
	
	Chẳng lâu sẽ thành mãn. 
	
	Bồ-Tát nhiều công-hạnh 
	
	Đều vì độ chúng-sanh 
	
	Làm khắp các pháp-môn 
	
	Cẩn thận chớ nghi hoặc. 
	
	Ngươi đủ phước nan-tư 
	
	Và cùng chân-thiệt-tín 
	
	Vì thế nên hôm nay 
	
	Được thấy các Phật-Tử. 
	
	Ngươi thấy các Phật-Tử 
	
	Đều được lợi rộng lớn 
	
	Mỗi mỗi những đại-nguyện 
	
	Tất cả đều tin thọ. 
	
	Ngươi ở trong ba cõi 
	
	Hay tu hạnh Bồ-tát 
	
	Thế nên các Phật-Tử 
	
	Dạy cho môn giải-thoát. 
	
	Người chẳng phải pháp-khí 
	
	Cùng ở với Phật-Tử 
	
	Dầu đến vô-luợng kiếp 
	
	Cũng chẳng biết cảnh-giới. 
	
	Ngươi thấy các Bồ-Tát 
	
	Được nghe pháp như vậy 
	
	Thế-gian rất khó có 
	
	Nên sanh lòng vui mừng. 
	
	Chư Phật hộ niệm ngươi 
	
	Bồ-Tát nhiếp thọ ngươi 
	
	Thuận hành theo lời dạy 
	
	Lành thay trụ thọ-mạng. 
	
	Đã sanh nhà Bồ-Tát 
	
	Đã đủ đức Bồ-Tát 
	
	Đã lớn giống Như-Lai 
	
	Sẽ lên bậc Quán-Đảnh. 
	
	Chẳng lâu ngươi sẽ được 
	
	Đồng với chư Phật-Tử 
	
	Thấy chúng-sanh khổ não 
	
	Đều đặt chỗ an ổn. 
	
	Đã gieo giống như vậy 
	
	Sẽ gặt trái như vậy 
	
	Nay ta khen tặng ngươi 
	
	Nên sanh lòng vui đẹp. 
	
	Vô-luợng chư Bồ-Tát 
	
	Hành đạo vô-lượng kiếp 
	
	Chưa thành được hạnh nầy 
	
	Nay ngươi đều được trọn. 
	
	Thiện-Tài thành những hạnh: 
	
	Tín, nguyện, kiên, tấn, lực, 
	
	Ai có lòng kính mộ 
	
	Cũng phải học như vậy. 
	
	Tất cả công-đức-hạnh 
	
	Đều từ tâm nguyện sanh 
	
	Thiện-Tài đã biết rõ 
	
	Thường thích siêng tu học. 
	
	Như rồng bủa mây dầy 
	
	Tất sẽ tuôn mưa lớn 
	
	Bồ-Tát khởi nguyện trí 
	
	Quyết định tu công-hạnh. 
	
	Nếu có thiện-trí-thức 
	
	Dạy ngươi hạnh Phổ-Hiền 
	
	Ngươi nên khéo kính thờ 
	
	Cẩn thận chớ nghi hoặc. 
	
	Ngươi trong vô-lượng kiếp 
	
	Vì dục vọng bỏ thân 
	
	Nay vì cầu bồ-đề 
	
	Xả thân mới là tốt. 
	
	Ngươi trong vô-lượng kiếp 
	
	Chịu đủ khổ sanh tử 
	
	Chẳng từng thờ chư Phật 
	
	Chưa nghe hạnh như vậy. 
	
	Nay ngươi được thân người 
	
	Gặp Phật, thiện-tri-thức 
	
	Nghe lãnh hạnh bồ-đề 
	
	Thế nào chẳng hoan-hỉ. 
	
	Dầu gặp Phật xuất thế 
	
	Cũng gặp thiện-tri-thức 
	
	Mà lòng chẳng thanh-tịnh 
	
	Chẳng nghe pháp như vậy. 
	
	Nếu nơi thiện-tri-thức 
	
	Tin mến lòng tôn trọng 
	
	Lìa nghi chẳng mỏi nhàm 
	
	Mới nghe pháp như vậy. 
	
	Nếu ai nghe pháp nầy 
	
	Mà phát lòng thệ nguyện 
	
	Phải biết người như vậy 
	
	Được lợi ích rộng lớn. 
	
	Tâm thanh tịnh như vậy 
	
	Thường được gần chư Phật 
	
	Cũng gần chư Bồ-Tát 
	
	Quyết định thành bồ-đề. 
	
	Nếu vào pháp-môn nầy 
	
	Thời đủ các công-đức 
	
	Lìa hẳn các ác-thú 
	
	Chẳng thọ tất cả khổ. 
	
	Chẳng lâu bỏ thân nầy 
	
	Vãng sanh về Phật-Độ 
	
	Thường thấy thập phương Phật 
	
	Và cùng chư Bồ-Tát. 
	
	Nhơn trước, nay trí-huệ 
	
	Và thờ thiện-tri-thức 
	
	Thêm lớn các công-đức 
	
	Như nước mọc hoa sen. 
	
	Thích thờ thiện-tri-thức 
	
	Siêng cúng tất cả Phật 
	
	Chuyên tâm nghe chánh-pháp 
	
	Thường tu chớ lười mỏi. 
	
	Ngươi là chân-pháp-khí 
	
	Thường đủ tất cả pháp 
	
	Sẽ tu tất cả đạo 
	
	Sẽ mãn tất cả nguyện. 
	
	Ngươi dùng tâm tín giải 
	
	Mà đến kính lễ ta 
	
	Chẳng lâu sẽ vào khắp 
	
	Tất cả phật-pháp-hội. 
	
	Lành thay chân Phật-Tử 
	
	Cung kính tất cả Phật 
	
	Chẳng lâu đủ các hạnh 
	
	Đến bờ Phật công-đức. 
	
	Ngươi nên mau đến chỗ 
	
	Của Đại-Trí Văn-Thù 
	
	Ngài sẽ khiến ngươi được 
	
	Hạnh thâm-diệu Phổ-Hiền. 
	
	Thiện-Tài nghe Di-Lặc Bồ-Tát ở trước đại-chúng tán dương công-đức tạng 
	quảng-đại của mình, liền vui mừng hớn hở, toàn thân rởn ốc, rơi lệ nghẹn 
	ngào, đứng dậy chắp tay cung kính hữu nhiễu vô-lượng vòng. 
	
	Do sức tưởng niệm đức Văn-Thù nên bất giác những hoa anh-lạc và diệu-bửu 
	bỗng nhiên đầy cả hai tay. Thiện-Tài liền rải lên cúng-dường Di-Lặc Bồ-Tát. 
	
	Bấy giờ Di-Lặc Bồ-Tát xoa đầu Thiện-Tài mà nói kệ rằng: 
	
	Lành thay, lành thay chơn Phật-Tử! 
	
	Tinh tấn các căn không lười mỏi 
	
	Chẳng lâu sẽ đủ các công-đức 
	
	Giống như Văn-Thù và Di-Lặc. 
	
	Thiện-Tài nói kệ kính thưa: 
	
	Tôi nghĩ thiện-tri-thức 
	
	Ức kiếp khó được gặp 
	
	Nay đều được thân-cận 
	
	Và đến gặp được Ngài. 
	
	Tôi nhờ đức Văn-Thù 
	
	Được thấy người khó thấy 
	
	Bậc đại công-đức kia 
	
	Nguyện sớm về thờ kính. 
	 
	Hán bộ quyển thứ 78 
	
	Bạch Đại-Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết Bồ-Tát thế nào 
	học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo? 
	Đức Như-Lai thọ ký cho Đại-Thánh một đời sẽ chứng quả vô-thượng 
	chánh-giác. 
	
	Nếu là một đời sẽ được vô-thượng chánh-giác thời là đã siêu-việt tất cả chỗ 
	sở-trụ của Bồ-Tát, thời đã xuất quá tất cả bậc ly sanh của Bồ-Tát, thời đã 
	viên-mãn tất cả ba-la-mật, thời đã thâm nhập tất cả nhẫn-môn, thời đã đầy đủ 
	bồ-tát-địa, thời đã du-hí tất cả giải-thoát-môn, thời đã thành-tựu tất cả 
	pháp tam-muội, thời đã thông đạt tất cả bồ-tát-hạnh, thời đã chứng được tất 
	cả đà-la-ni biện-tài, thời đã ở trong tất cả bồ-tát tự-tại mà được tự-tại, 
	thời đã chứa nhóm tất cả pháp trợ-đạo của Bồ-Tát, thời đã du-hí trí-huệ 
	phương-tiện, thời đã xuất sanh trí đại thần-thông, thời đã thành-tựu tất cả 
	học-xứ, thời đã viên mãn tất cả diệu-hạnh, thời đã đầy đủ tất cả đại-nguyện, 
	thời đã lãnh thọ tất cả ký-biệt của Phật, thời đã biết rõ tất cả các 
	thừa-môn, thời đã kham thọ chỗ hộ-niệm của tất cả chư Phật, thời đã có thể 
	nhiếp tất cả Phật bồ-đề, thời đã có thể trì pháp-tạng của tất cả Phật, thời 
	đã có thể trì tạng bí-mật của tất cả chư Phật và Bồ-Tát, thời đã có thể làm 
	thượng-thủ trong tất cả chúng Bồ-Tát, 
	
	Thời đã có thể làm đại-mãnh-tướng phá phiền-não ma-quân, thời đã có thể làm 
	đại-đạo-sư ra khỏi đồng-hoang sanh-tử, thời đã có thể làm đại y-vương trị 
	những bệnh nặng phiền-não, thời đã có thể làm bậc tối-thắng trong tất cả 
	chúng-sanh, thời đã có thể được tự-tại ở trong tất cả Thế-Chủ, thời đã có 
	thể tối-đệ-nhứt trong tất cả Thánh, thời đã có thể tối-tăng-thượng trong tất 
	cả Thanh-Văn và Bích-Chi-Phật, thời đã có thể làm lái thuyền trong biển sanh 
	tử, thời đã có thể bủa lưới điều phục tất cả chúng-sanh, thời đã có thể quán 
	căn của tất cả chúng-sanh, thời đã có thể nhiếp tất cả chúng-sanh giới, thời 
	đã có thể thủ hộ tất cả chúng Bồ-Tát, thời đã có thể luận nghị tất cả 
	Bồ-tát-sự, thời đã có thể qua đến tất cả chỗ Như-Lai, thời đã có thể ở trong 
	hội của tất cả Như-Lai, thời đã có để hiện thân ở trước tất cả chúng-sanh, 
	thời đã có thể không nhiễm trước tất cả thế-pháp, thời đã có thể siêu-việt 
	tất cả cảnh-giới ma, thời đã có thể an-trụ tất cả cảnh-giới Phật, thời đã có 
	thể đến cảnh vô-ngại của tất cả Bồ-Tát, thời đã có thể tinh-cần cúng-dường 
	tất cả chư Phật, thời đã đồng thể-tánh với tất cả phật-pháp, đã cột lụa 
	diệu-pháp, đã thọ Phật quán đảnh, đã trụ nhất-thiết-trí, đã có thể khắp sanh 
	tất cả phật-pháp, đã có thể mau lên bậc nhất-thiết-trí. 
	
	Bạch Đại-Thánh! Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh? Thế nào tu bồ-tát-đạo? 
	
	Thế nào tùy chỗ tu học mau được đầy đủ tất cả Phật-pháp, đều có thể độ thoát 
	chúng-sanh đã nhớ đến, có thể thành mãn những đại-nguyện đã phát, có thể 
	khắp rốt ráo những hạnh đã khởi, có thể an-ủi tất cả thiên nhơn, chẳng phụ 
	tự-thân, chẳng dứt Tam-Bảo, chẳng hư tất cả phật-chủng bồ-tát-chủng, có thể 
	gìn pháp-nhãn của tất cả chư Phật? 
	Những sự trên đây xin Đại-Thánh chỉ dạy cho. 
	
	Di-Lặc Bồ-Tát quán-sát tất cả chúng-hội nơi đạo-tràng, chỉ dạy Thiện-Tài 
	rằng: 
	
	Nầy đại-chúng! Các Ngài thấy Đồng-Tử nầy hiện đương hỏi tôi về công-đức của 
	bồ-tát-hạnh đây chăng? 
	
	Đồng-Tử nầy dũng-mãnh tinh-tấn, chí nguyện không tạp, thâm tâm kiên-cố hằng 
	chẳng thối-chuyển, đủ những hi-vọng thù-thắng như chữa dầu cháy không hề 
	nhàm đủ, mến chư thiện-tri-thức thân-cận cúng-dường, tìm cầu khắp nơi để 
	kính thờ thỉnh pháp. 
	
	Trước đây, Đồng-Tử nầy thọ giáo nơi đức Văn-Thù, rồi lần lượt đi qua phương 
	nam cầu thiện-tri-thức. Trải qua một trăm mười vị thiện-tri-thức, nay mới 
	đến đây gặp tôi. Đồng-Tử nầy chưa từng có một niệm lười mỏi. 
	
	Đồng-Tử nầy rất là khó có. 
	
	Đồng-Tử nầy xu hướng đại-thừa, đi nơi đại-huệ, phát đại dũng-mãnh, choàng 
	giáp đại-bi, dùng tâm đại-từ cứu hộ chúng-sanh, khởi đại hạnh đại-tinh-tấn 
	ba-la-mật, làm đại thương-chủ hộ trợ các chúng-sanh, làm thuyền pháp lớn 
	vượt qua biển hữu-lậu, trụ ở đại-đạo, chứa họp pháp-bửu lớn, tu những pháp 
	trợ-đạo rộng lớn. Người như thế rất khó được nghe, rất khó được thấy, rất 
	khó được gần-gũi, cùng ở cùng đi. 
	
	Tại sao vậy? Vì Đồng-Tử nầy phát tâm cứu hộ tất cả chúng-sanh, làm cho tất 
	cả chúng-sanh thoát khổ, khỏi ác-thú, rời hiểm nạn, phá vô-minh, khỏi sanh 
	tử, dứt các loài, khỏi cảnh ma, chẳng nhiễm thế-pháp, ra khỏi ái dục, dứt 
	tham, hết kiến chấp, phá tưởng, tuyệt mê, xô kiêu mạn, trừ phiền-não, triệt 
	ngủ nghỉ, xé lưới ái, diệt vô-minh, qua khỏi dòng hữu-lậu, lìa siểm nịnh, 
	tịnh tâm-cấu ra khỏi sanh tử. 
	
	Đồng-Tử nầy vì những người bị bốn dòng hữu lậu cuốn trôi mà tạo thuyền 
	đại-pháp. Vì những người bị sình lầy kiến chấp lún chìm mà lập cầu đại-pháp. 
	Vì những người bị si tối làm hôn mê mà thắp đèn đại-trí. Vì những người đi 
	trong đồng-hoang sanh tử mà khai thị thánh-đạo. Vì những người mang bệnh 
	nặng phiền-não mà điều hòa pháp-dược. Cho người bị khổ sanh lão tử uống 
	cam-lộ để được an-ổn. Vì người vào trong lửa tham sân si mà tưới định-thủy 
	cho họ được thanh-lương. 
	
	Với người nhiều lo sầu thời an-ủi cho họ được an. Với người bị nhốt trong 
	ngục hữu-lậu thời khuyên bảo họ thoát ra. Với người vào lưới kiến chấp thời 
	mở lưới bằng kiếm trí-huệ. Với người ở trong thành tam-giới thời chỉ cửa 
	giải-thoát. Với người ở chỗ hiểm nạn thời dắt họ đến chỗ an-ổn. Với người sợ 
	giặc kiết-sử thời cho họ pháp vô-úy. Với người đọa ác-đạo thời trao cho họ 
	tay từ-bi. Với người bị hại về ngũ uẩn thời chỉ cho họ thành niết-bàn. Với 
	người bị ràng buộc trong thập-bát-giới thời dùng thánh-đạo để mở.Với người 
	đắm nơi trong tụ lạc lục-xứ trống rỗng thời dùng ánh sáng trí-huệ để dẫn họ 
	ra. Người ở nơi đạo tà thời dùng chánh-đạo cứu-họ. Người gần ác-hữu thời chỉ 
	thiện-hữu cho họ. Người ưa phàm-pháp thời dạy cho thánh-pháp. Người ham sanh 
	tử thời làm cho họ xu hướng thành nhất-thiết-trí. 
	
	Đồng-Tử nầy hằng dùng những công-hạnh như vậy để cứu hộ chúng-sanh, phát 
	bồ-đề-tâm chưa từng thôi dứt, cầu đại-thừa-đạo chưa từng lười mỏi, uống 
	những pháp-thủy không lòng nhàm đủ, hằng siêng chứa nhóm hạnh trợ-đạo, 
	thường thích tịnh tu tất cả pháp-môn, tu hạnh Bồ-Tát chẳng bỏ tinh-tấn, 
	thành mãn đại-nguyện, khéo thật hành phương-tiện, luôn muốn được thấy 
	thiện-tri-thức, kính thờ thiện-tri-thức thân không lười mỏi, nghe 
	thiện-trí-thức dạy bảo thời luôn tùy thuận thật hành chưa từng trái nghịch. 
	
	Nầy đại-chúng! Nếu chúng-sanh nào có thể phát tâm vô-thượng bồ-đề thời là 
	rất hi-hữu. Nếu đã phát tâm lại có thể tinh-tấn phương-tiện chứa nhóm những 
	phật-pháp như vậy thời lại càng hi-hữu hơn. 
	
	Lại có thể cầu bồ-tát-đạo như vậy, tịnh bồ-tát-hạnh như vậy, thờ 
	thiện-tri-thức như vậy, như chữa dầu cháy như vậy, thuận theo lời dạy của 
	thiện-tri-thức như vậy. kiên-cố tu hành như vậy, chứa nhóm bồ-đề-phần như 
	vậy, chẳng cầu tiếng tăm lợi dưỡng như vậy, chẳng bỏ tâm bồ-tát thuần nhứt 
	như vậy, chẳng thích nhà cửa như vậy, chẳng ham dục lạc, chẳng luyến cha mẹ 
	thân-thích tri-thức, chẳng thích theo cầu Bồ-tát bạn-lữ, lại có thể chẳng 
	đoái đến thân mạng mà chỉ nguyện siêng tu đạo nhứt-thiết-trí như vậy, thời 
	nên biết đó là lần lượt càng khó hơn. 
	
	Nầy đại-chúng! Chư Bồ-Tát khác trải qua vô-lượng trăm ngàn muôn ức na-do-tha 
	kiếp mới có thể đầy đủ Bồ-tát hạnh nguyện, mới có thể gần Phật bồ-đề. 
	
	Đồng-Tử nầy trong một đời có thể tịnh Phật độ, có thể hóa chúng-sanh, có thể 
	dùng trí-huệ thâm-nhập pháp-giới, có thể thành-tựu các môn ba-la-mật, có thể 
	thêm rộng tất cả hạnh, có thể viên-mãn tất cả đại-nguyện, có thể siêu xuất 
	tất cả ma-nghiệp, có thể thừa sự tất cả thiện-hữu, có thể thanh-tịnh 
	Bồ-tát-đạo, có thể đầy đủ những hạnh Phổ-Hiền. 
	
	Di-Lặc Bồ-Tát khen ngợi công-đức của Thiện-Tài làm cho vô-lượng trăm ngàn 
	chúng-sanh phát tâm-bồ-đề, rồi bảo Thiện-Tài rằng: 
	
	Lành thay! Lành thay! Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi vì lợi ích tất cả thế-gian, vì 
	cứu hộ tất cả chúng-sanh, vì siêng cầu tất cả phật-pháp, nên phát tâm 
	vô-thượng bồ-đề. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi được lợi lành, khéo được thân người, khéo trụ 
	thọ-mạng, khéo gặp đức Như-Lai xuất hiện, khéo thấy Văn-Thù Sư-Lợi đại 
	thiện-tri-thức, thân của ngươi là thiện-khí được những thiện-căn đượm nhuần, 
	được pháp lành nuôi lớn, bao nhiêu giải-dục đều được thanh-tịnh, đã được chư 
	Phật đồng hộ-niệm, đã được thiện-hữu nhiếp thọ. 
	
	Tại sao vậy? Vì tâm bồ-đề như chủng-tử, vì có thể sanh tất cả phật-pháp. 
	Bồ-đề-tâm như ruộng tốt, vì có thể sanh trưởng bạch-tịnh-pháp cho tất cả 
	chúng-sanh. Bồ-đề-tâm như đại-địa, vì có thể giữ gìn tất cả thế-gian. 
	Bồ-đề-tâm như tịnh thủy, vì có thể rửa sạch phiền-não nhơ nhớp. Bồ-đề-tâm 
	như gió lớn, vì vô-ngại khắp ở thế-gian. Bồ-đề-tâm như lửa mạnh, vì có thể 
	đốt tiêu củi kiến chấp. Bồ-đề-tâm như tịnh-nhật, vì chiếu khắp tất cả 
	thế-gian. Bồ-đề-tâm như mặt nguyệt sáng, vì những pháp bạch-tịnh đều 
	viên-mãn. Bồ-đề-tâm như đèn sáng, vì có thể phóng những pháp quang-minh. 
	Bồ-đề-tâm như mắt sáng, vì thấy khắp tất cả chỗ an nguy. 
	
	Bồ-đề-tâm dường như con đường lớn, vì dẫn vào thành đại-trí. Bồ-đề-tâm như 
	con đường chánh, vì làm cho rời khỏi tà-pháp. Bồ-đề-tâm như cỗ xe lớn, vì có 
	thể chuyên chở chư Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như cửa nẻo, vì khai thị tất cả hạnh 
	Bồ-tát. Bồ-đề-tâm như cung-điện, vì an-trụ tu tập pháp tam-muội. Bồ-đề-tâm 
	như khu vườn vì, ở trong đó dạo chơi hưởng pháp-lạc. Bồ-đề-tâm như nhà cửa 
	vì an-ổn tất cả chúng-sanh. Bồ-đề-tâm là chỗ về, vì lợi ích tất cả thế-gian. 
	Bồ-đề-tâm là chỗ dựa, vì là dựa nương của những bồ-tát-hạnh. 
	
	Bồ-đề-tâm như từ-phụ, vì dạy dỗ tất cả chư Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như từ-mẫu, vì 
	sanh trưởng tất cả Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như nhũ-mẫu, vì dưỡng dục tất cả chư 
	Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như thiện-hữu, vì thành tựu lợi ích cho chư Bồ-Tát. 
	Bồ-đề-tâm như vua chúa, vì vượt hơn tất cả hàng nhị-thừa. Bồ-đề-tâm như 
	đế-vương, vì được tự-tại trong tất cả nguyện. Bồ-đề-tâm như đại-hải, vì tất 
	cả công-đức đều vào trong đó. 
	
	Bồ-đề-tâm như núi Tu-Di, vì-bình-đẳng nơi tâm các chúng-sinh, Bồ-đề-tâm như 
	Thiết-Vi vì nhiếp trì tất cả thế-gian. Bồ-đề-tâm như Tuyết-Sơn, vì sanh lớn 
	tất cả cây thuốc trí-huệ, Bồ-đề-tâm như Hương-Sơn, vì xuất sanh tất cả hương 
	công-đức, Bồ-đề-tâm như hư-không, vì những diệu công-đức rộng vô-biên. 
	
	Bồ-đề-tâm như liên-hoa, vì chẳng nhiễm tất cả pháp thế-gian. Bồ-đề-tâm như 
	voi thông-minh thuần thục, vì tâm ấy thuận lành chẳng ngang trái. Bồ-đề-tâm 
	như ngựa hiền hay, vì xa lìa tất cả những tánh ác. Bồ-đề-tâm như 
	điều-ngự-sư, vì thủ hộ tất cả pháp đại-thừa. 
	
	Bồ-đề-tâm như thuốc hay, vì trị được tất cả bậnh phiền-não. Bồ-đề-tâm như hố 
	sâu, vì có thể làm sụp đổ tất cả những ác-pháp. Bồ-đề-tâm như kim-cang, vì 
	đều có thể xuyên thấu tất cả các pháp. Bồ-đề-tâm như thấp hương, vì có thể 
	đựng tất cả hương công-đức. Bồ-đề-tâm như diệu-hoa, vì tất cả thế-gian đều 
	ưa thấy. Bồ-đề-tâm như bạch-chiên-đàn, vì trừ những nóng tham dục làm cho 
	mát-mẻ. Bồ-đề-tâm như hắc-trâm-hương, vì có thể xong khắp pháp-giới. 
	Bồ-đề-tâm như Thiên-Kiến dược-vương, vì phá được tất cả bệnh phiền-não, 
	Bồ-đề-tâm như thuốc tỳ-cấp-ma, vì nhổ được tất cả hoặc-tiển. 
	
	Bồ-đề-tâm như Đế-Thích, vì là tối tôn trong tất cả vua chúa. Bồ-đề-tâm như 
	Tỳ-Sa-Môn, vì dứt được tất cả khổ nghèo cùng. Bồ-đề-tâm như Công-Đức-Thiên, 
	vì trang-nghiêm với tất cả công đức. Bồ-đề-tâm như đồ trang-nghiêm, vì 
	trang-nghiêm tất cả chư Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như kiếp-hỏa đốt cháy, vì có thể 
	cháy tiêu tất cả hữu-vi. Bồ-đề-tâm như thuốc vô-sanh-căn, vì trưởng-dưỡng 
	tất cả phật-pháp. Bồ-đề-tâm như long-châu, vì tiêu được tất cả độc 
	phiền-não. Bồ-đề-tâm như thủy-thanh-châu, vì có thể thanh tất cả 
	phiền-não-trược. Bồ-đề-tâm như châu như-ý, vì châu cấp cho tất cả kẻ nghèo 
	thiếu. Bồ-đề-tâm như bình công-đức, vì làm cho tâm chúng-sanh được thoả-mãn. 
	Bồ-đề-tâm như cây như-ý, vì có thể mưa tất cả đồ trang-nghiêm. Bồ-đề-tâm như 
	áo lông ngỗng, vì chẳng dính bụi sanh-tử. Bồ-đề-tâm như chỉ bạch điệp, vì 
	bổn lai tánh thanh-tịnh. Bồ-đề-tâm như lưỡi cày bén, vì có thể dọn tất cả 
	ruộng chúng-sanh. Bồ-đề-tâm như na-la-diên, vì có thể dẹp tất cả kẻ địch 
	ngã-kiến. Bồ-đề-tâm như mũi tên đi mau, vì phá được tất cả đích khổ. 
	Bồ-đề-tâm như ngọn mâu nhọn, vì có thể xuyên thủng giáp phiền-não. Bồ-đề-tâm 
	như giáp cứng, vì có thể hộ tâm như-lý. Bồ-đề-tâm như dao bén, vì có thể 
	chặt tất cả đầu phiền-não. Bồ-đề-tâm như gươm bén, vì có thể chặt đức tất cả 
	giáp kiêu-mạn. Bồ-đề-tâm như dũng-tướng-tràng, vì có thể dẹp phục tất cả 
	ma-quân. Bồ-đề-tâm như cưa bén, vì có thể cưa đứt tất cả cây vô-minh. 
	Bồ-đề-tâm như búa bén, vì có thể chặt những cây khổ. Bồ-đề-tâm như binh-khí, 
	vì có thể đề phòng nạn khổ. Bồ-đề-tâm như cánh tay giỏi, vì phòng hộ tất cả 
	những pháp độ thân, Bồ-đề-tâm như đôi chân tốt, vì an lập tất cả những 
	công-đức. 
	
	Bồ-đề-tâm như thuốc chữa mắt, vì diệt trừ tất cả bệnh lòa vô-minh. Bồ-đề-tâm 
	như kìm nhiếp, vì có thể nhổ tất cả gai thân-kiến. Bồ-đề-tâm như ngọa-cụ, vì 
	dứt trừ những lao khổ sanh-tử. Bồ-đề-tâm như thiện-tri-thức, vì có thể mở 
	tất cả dây trói sanh-tử. Bồ-đề-tâm như tài-bửu, vì trừ tất cả sự nghèo cùng. 
	Bồ-đề-tâm như đại đạo-sư, vì khéo biết đạo xuất yếu của Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm 
	như phục-tạng, vì xuất sanh của công-đức không thiếu. 
	
	Bồ-đề-tâm như nước suối trào, vì sanh nước trí-huệ không cùng tận. Bồ-đề-tâm 
	như gương sáng, vì hiện khắp tất cả tượng pháp-môn. Bồ-đề-tâm dường như 
	liên-hoa, vì chẳng nhiễm tất cả tội cấu. Bồ-đề-tâm như sông lớn, vì chảy dẫn 
	ra tất cả nhiếp-pháp độ-pháp. Bồ-đề-tâm như đại Long-Vương, vì có thể mưa 
	tất cả diệu-pháp. 
	
	Bồ-đề-tâm dường như mạng-căn, vì nhậm trì thân đại-bi của Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm 
	như cam-lộ, vì có thể làm cho an-trụ nơi cõi bất-tử. Bồ-đề-tâm như tấm lưới 
	lớn, vì nhiếp khắp tất cả những chúng-sanh. Bồ-đề-tâm như lưới chài, vì 
	nhiếp lấy tất cả kẻ đáng được hóa-độ. Bồ-đề-tâm như câu mồi, vì bắt những kẻ 
	ở trong vực hữu-lậu. Bồ-đề-tâm như thuốc a-già-đà, vì có thể làm cho người 
	vô-bệnh vĩnh-viễn được an-ổn. Bồ-đề-tâm như thuốc trừ độc, vì có thể tiêu 
	hết độc tham ái. Bồ-đề-tâm như người trì chú giỏi, vì có thể trừ tất cả độc 
	điên-đảo. Bồ-đề-tâm như gió mạnh, vì có thể thổi cuốn tất cả sương mù che 
	chướng. Bồ-đề-tâm như xứ châu bửu, vì xuất sanh tất cả báu giác-phần. 
	Bồ-đề-tâm như chủng-tánh tốt, vì xuất sanh tất cả pháp bạch-tịnh. Bồ-đề-tâm 
	như nhà ở, vì là chỗ ở của những pháp công-đức. Bồ-đề-tâm như trị-tứ, vì là 
	chỗ đỗi chác cũa thương-gia Bồ-Tát. 
	
	Bồ-đề-tâm như thuốc luyện vàng, vì có thể trị tất cả căn phiền-não. 
	Bồ-đề-tâm như mật tốt, vì viên-mãn tất cả vị công-đức. Bồ-đề-tâm như 
	chánh-đạo, vì khiến chư Bồ-Tát vào trí-thành. Bồ-đề-tâm như chậu tốt, vì có 
	thể đựng tất cả pháp bạch-tịnh. Bồ-đề-tâm như mưa phải thời, vì có thể trừ 
	tất cả bụi phiền-não. Bồ-đề-tâm là chỗ ở, vì là chỗ ở của tất cả Bồ-Tát. 
	Bồ-đề-tâm là hạnh vô-tận, vì chẳng chứng lấy quả giải-thoát của Thanh-Văn. 
	
	Bồ-đề-tâm như tịnh lưu-ly, vì tự-tánh sáng sạch không nhơ, Bồ-đề-tâm như 
	châu Đế-thanh, vì hơn hẳn trí của thế-gian và nhị-thừa. Bồ-đề-tâm như tiếng 
	trống tan canh, vì đánh thức chúng-sanh say ngủ bởi phiền-não. Bồ-đề-tâm như 
	nước trong sạch, vì tánh vốn thuần sạch không nhơ đục. Bồ-đề-tâm như vàng 
	diêm-phù-đàn, vì che chói tất cả pháp lành hữu-vi. Bồ-đề-tâm như 
	đại-sơn-vương, vì siêu xuất tất cả thế-gian. Bồ-đề-tâm là chỗ về, vì chẳng 
	chối từ tất cả ai trở về. Bồ-đề-tâm là nghĩa lợi, vì có thể trừ tất cả sự 
	suy não. Bồ-đề-tâm là diệu-bửu, vì có thể làm cho tất cả tâm sanh hoan-hỉ. 
	Bồ-đề-tâm chư hội đại-thí, vì sung-mãn tất cả tâm chúng-sanh. Bồ-đề-tâm là 
	tôn-thắng, vì tâm chúng-sanh không tâm nào bằng. Bồ-đề-tâm như phục-tạng, vì 
	có thể nhiếp tất cả Phật-pháp. Bồ-đề-tâm như lưới nhơn-đà-la, vì có thể phục 
	a-tu-la phiền-não. Bồ-đề-tâm như gió bà-lâu-na, vì có thể chấn động những kẻ 
	đáng được hóa-độ. Bồ-đề-tâm như lửa nhân-đà-la, vì có thể đốt cháy tất cả 
	hoặc-tập. Bồ-đề-tâm như Phật-chi-đề, vì tất cả thế-gian nên cúng-dường. 
	
	Nầy Thiện-nam tử! Bồ-đề-tâm thành-tựu vô-lượng công đức như vậy. 
	
	Tóm lại, phải biết bồ-đề-tâm đồng với công-đức của tất cả phật-pháp. 
	
	Tại sao vậy? Vì nhân nơi bồ-đề-tâm mà xuất sanh tất cả bồ-tát-hạnh. Tam-thế 
	Như-Lai từ bồ-đề-tâm mà xuất sanh. 
	
	Vì thế nên nếu có ai phát tâm vô-thượng bồ-đề thời là đã xuất sanh vô-lượng 
	công-đức, có thể nhiếp thủ khắp nhất-thiết-trí-đạo. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ví như có người được thuốc vô-úy thời rời năm điều khủng 
	bố. 
	
	Những là lửa không cháy được. Độc không hại được. Gươm dao không đứt được. 
	Nước không làm trôi chìm được. Khói không xông ngộp được. 
	
	Cũng vậy, đại Bồ-Tát được thuốc nhất-thiết-trí bồ-đề-tâm, thời lửa tham 
	không cháy, độc sân chẳng hại, dao hoặc chẳng đứt, dòng hữu-lậu chẳng cuốn 
	trôi, khói giác quán không thể xông hại. 
	
	Ví như có người được thuốc giải thoát, thời vĩnh viễn không hoạn nạn. Cũng 
	vậy, đại Bồ-Tát được thuốc giải-thoát-trí bồ-đề-tâm, thời lìa hẳn sanh tử 
	hoạn nạn. 
	
	Ví như có người cầm thuốc ma-ha-ưng-già, rắn độc nghe mùi thời liền tránh 
	xa. Cũng vậy, đại Bồ-Tát gìn lấy thuốc đại-ưng-già bồ-đề-tâm, thời tất cả 
	rắn độc ác phiền-não nghe hơi thảy đều tan mất. 
	
	Ví như có người cầm thuốc vô-thắng, tất cả oán địch không hơn được. Cũng 
	vậy, đại Bồ-Tát cầm thuốc vô-thắng đại-bồ-đề-tâm, thời hàng phục được tất cả 
	ma-quân. 
	
	Ví như có người cầm thuốc tỳ-cấp-ma, có thể làm cho độc-tiển tự-nhiên rơi 
	rớt. Cũng vậy, đại Bồ-Tát cầm thuốc ty-cấp-ma bồ-đề-tâm, làm cho tên độc 
	tham sân si ác-kiến tự-nhiên rơi rớt. 
	
	Ví như có người cầm thuốc thiện-kiến, có thể trừ tất cả bệnh tật đã mang. 
	Cũng vậy, đại Bồ-Tát cầm thuốc thiện-kiến bồ-đề-tâm, trừ hết tất cả bệnh 
	phiền-não. 
	
	Như có dược-thọ tên san-đà-na, có ai lấy vỏ dùng thoa ghẻ, thời ghẻ liền 
	lành, vỏ cây ấy vừa lấy là sanh lại liền, lấy không hết được. Cũng vậy, đại 
	Bồ-Tát từ bồ-đề-tâm sanh cây nhất-thiết-trí, có ai thấy mà sanh lòng tin, 
	thời ghẻ phiền-não nghiệp đều được tiêu diệt, cây nhất-thiết-trí không hề 
	tổn. 
	
	Như có cây thuốc tên là vô-sanh-căn, do sức của cây nầy mà tăng trưởng tất 
	cả cây ở Diêm-Phù-Đề. Cũng vậy do sức cây bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát làm cho 
	tất cả thiện-pháp của hàng hữu-học vô-học và chư Bồ-Tát đều được tăng 
	trưởng. 
	
	Ví như thuốc A-lam-bà, nếu dùng thoa thân, thời thân và tâm đều có kham 
	năng. Cũng vậy bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát làm cho thân tâm tăng trưởng pháp 
	lành. 
	
	Ví như có người được thuốc nhiệm lực, phàm những sự đã được nghe thời ghi 
	nhớ chẳng quên. Đại Bồ-Tát được tâm bồ-đề thời nghe trì tất cả phật-pháp đều 
	không quên mất. 
	
	Ví như thuốc đại-liên-hoa, nếu ai uống thuốc nầy thời sẽ sống lâu một kiếp. 
	Cũng vậy, đại Bồ-Tát uống bồ-đề-tâm thời được thọ-mạng tự-tại trong vô-số 
	kiếp. 
	
	Ví như thuốc ẩn hình, người cầm thuốc nầy thời nhơn và phi-nhơn đều không 
	thấy được. Đại Bồ-Tát cầm bồ-đề-tâm thời tất cả ma-chúng không thấy được. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Như biển có châu-vương tên là Phổ-Tập-Chúng-Bửu. Châu nầy 
	nếu còn, giả-sử kiếp-hỏa đốt cháy thế-gian cũng không thể làm cho biển nầy 
	giảm được một giọt nước. Cũng vậy, tâm bồ-đề ở trong biển đại-nguyện của 
	Bồ-Tát, nếu thường ghi nhớ gìn-giữ chẳng thối-thất, thời không thể hư-hoại 
	một thiện-căn của Bồ-Tát. Nếu thối tâm bồ-đề thời tất cả pháp lành đều diệt 
	tan. 
	
	Như có châu ma-ni tên là Đại-Quang-Minh, nếu ai đeo châu nầy thời bao nhiêu 
	quang-minh của tất đồ trang-sức khác đều bị che chói khuất cả. Cũng vậy 
	bồ-đề tâm trang-nghiêm nơi thân của Bồ-Tát thời tất cả tâm nhị-thừa đều 
	khuất mất. 
	
	Như thủy-thanh-châu có thể lóng trong nước đục. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của 
	Bồ-Tát lóng sạch tất cả phiền-não. 
	
	Như có người đeo châu Trụ-Thủy xuống biển không bị nước làm hại. Cũng vậy, 
	đại Bồ-Tát được bồ-đề-tâm vào trong tất cả biển sanh-tử trọn không bị chìm. 
	
	Như có người được bửu châu của rồng rồi cầm đi vào long-cung, không bị các 
	loài rồng rắn làm hại. Cũng vậy, đại Bồ-Tát được tâm bồ-đề vào trong 
	dục-giới, tất cả phiền-não không làm hại được. 
	
	Như Thiên-Đế-Thích đội mão ma-ni che khuất tất cả thiên-chúng-khác. Cũng 
	vậy, đại Bồ-Tát đội mão đại-nguyện bồ-đề-tâm thời vượt hơn tất cả chúng-sanh 
	trong tam-giới. 
	
	Như có người được châu như-ý thời hết nghèo khổ. Cũng vậy, đại Bồ-Tát, được 
	bồ-đề-tâm thời xa lì tất cả tà-mạng bố-úy. 
	
	Như có người được châu Nhựt-Tinh cầm hướng về phía ánh nắng mặt trời thời 
	sanh ra lửa. Cũng vậy, đại Bồ-Tát được tâm bồ-đề cầm hướng đến trí-quang mà 
	sanh trí-hỏa. 
	
	Như có người được châu Nguyệt-Tinh, cầm hướng về phía ánh sáng mặt trăng 
	thời sanh ra nước. Cũng vậy, đại Bồ-Tát được tâm bồ-đề xoay về hồi-hướng 
	thời sanh tất cả thiện-căn đại-nguyện. 
	
	Như Long-Vương đội mão ma-ni-bửu thời rời khỏi tất cả oán-địch bố-úy. Cũng 
	vậy, đại Bồ-Tát đội mão bồ-đề-tâm đại-bi thời rời khỏi ác-đạo và các nạn. 
	
	Như có bửu-châu tên là nhất-thiết-thế-gian-trang-nghiêm-tạng, nếu ai được 
	châu nầy thời muốn chi cũng đều được thoả mãn, mà châu nầy không bị tổn 
	giảm. Cũng vậy, nếu ai được tâm bồ-đề nầy thời đều được toại nguyện, mà tâm 
	nầy không bị tổn giảm. 
	
	Như Chuyển-Luân-Vương có ma-ni-bửu để trong cung, phóng ánh sáng lớn phá tất 
	cả tối. Cũng vậy, đại Bồ-Tát đem bồ-đề-tâm để ở dục-giới phóng đại-trí-quang 
	phá vô-minh của mọi loài. 
	
	Như châu đế-thanh đại-ma-ni, ai được quang-minh của châu nầy chiếu nhằm thời 
	thân người ấy đồng màu với châu nầy. Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng bồ-đề-tâm 
	quán-sát các pháp hồi-hướng thiện-căn thời đều đồng, một màu bồ-đề-tâm. 
	
	Như châu lưu-ly trăm ngàn năm ở trong chỗ nhơ uế mà chẳng nhiễm nhơ-uế, vì 
	tánh nó bổn lai trong sạch. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát ở dục-giới 
	trăm ngàn kiếp mà chẳng bị sự lỗi ác của cõi dục làm nhiễm, vì tánh nó 
	thanh-tịnh như pháp-giới. 
	
	Như châu tịnh-quang-minh có thể chói khuất màu sắc của tất cả châu báu khác. 
	Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát, có thể chói khuất tất cả công-đức của 
	phàm-phu và nhị-thừa. 
	
	Như châu hỏa-diệm đều có thể trừ diệt tất cả tối tăm. Cũng vậy, bồ-đề-tâm 
	của đại Bồ-Tát có thể diệt-trừ tất cả sự tội tăm của vô-tri. 
	
	Như trong biển có vô-giá-bửu, người đi buôn châu báu lượm được đem về thành 
	thị, tất cả quang sắc của những châu ngọc khác không bằng được. Cũng vậy, 
	bồ-đề-tâm ở trong biển lớn sanh tử, đại Bồ-Tát dùng thuyền đại-nguyện chở 
	đem vô thành giải-thoát, công-đức của hàng nhị-thừa không bằng được. 
	
	Như có bửu-châu tên là tự-tại-vương ở tại châu Diêm-Phù-Đề cách mặt nhật mặt 
	nguyệt bốn vạn do-tuần, bao nhiêu cảnh vật trang-nghiêm của nhật nguyệt đều 
	hiện bóng rõ ràng trong bửu châu nầy. Cũng vậy, công-đức thanh-tịnh của đại 
	Bồ-Tát phát bồ-đề-tâm ở trong sanh-tử chiếu pháp-giới không, tất cả công-đức 
	của phật-trí đều hiện trong đó. 
	
	Như bửu-châu tự-tại-vương, tất cả tài vật châu báu y-phục mà ánh sáng nhật 
	nguyệt chiếu đến giá trị không bằng được bửu-châu nầy. Cũng vậy, tâm bồ-đề 
	của đại Bồ-Tát, tất cả công-đức của thiên nhơn nhị-thừa mà 
	nhất-thiết-trí-quang chiếu đến đều không bằng được. 
	
	Như trong biển có bửu-châu hải-tạng. Châu nầy hiện khắp những sự 
	trang-nghiêm trong biển. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của Bồ-Tát hiện khắp những sự 
	trang-nghiêm của nhất-thiết-trí. 
	
	Như vàng Diêm-Phù-Đàn trên trời chỉ trừ tâm-vương đại-ma-ni, không bảo vật 
	nào sánh bằng. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát, trừ nhất-thiất-trí, không 
	công-đức nào sánh bằng. 
	
	Như người giỏi phương-pháp thâu rồng, thời ở trong loài rồng được tự-tại. 
	Cũng vậy, bồ-đề-tâm của Bồ-Tát được tự-tại trong tất cả phiền-não. 
	
	Như dũng-sĩ mặc giáp cầm binh-khí, tất cả oán địch không chế phục được. Cũng 
	vậy, đại Bồ-Tát mặc và cầm tâm bồ-đề thời tất cả nghiệp hoặc không chế-ngự 
	được. 
	
	Như hắc-chiên-đàn-hương trên trời, nếu đốt một chỉ thời hơi hương xông khắp 
	Tiểu-Thiên thế-giới, giá trị của tất cả trân-bửu trong Đại-Thiên thế-giới 
	đều không bằng. Cũng vậy, một niệm công-đức của bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát 
	xông khắp pháp-giới, tất cả công-đức của Thanh-Văn Duyên-Giác đều không bằng 
	được. 
	
	Như bạch-chiên-đàn thoa trên thân thời có thể trừ tất cả nhiệt não làm cho 
	thân tâm được thanh-lương. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát có thể trừ tất 
	cả hư vọng phân biệt phiền não, làm cho được trí-huệ. 
	
	Như núi Tu-Di, nếu ai ở gần thời đồng một màu sắc với núi nầy. Cũng vậy, nếu 
	ai ở gần bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát thời đồng màu với nhất-thiết-trí của 
	Bồ-Tát. 
	
	Như cây ba-lợi-chất-đa-la, hương khí của vỏ cây nầy không cỏ cây hoa nào ở 
	Diêm-Phù-Đề thơm bằng. Cũng vậy, hương công đức đại-nguyện của bồ-đề-tâm của 
	đại Bồ-Tát hơn hẳn công-đức của hương giới, định, huệ, giải-thoát và 
	giải-thoát tri-kiến của tất cả hàng nhị-thừa. 
	
	Như cây ba-lợi-chất-đa-la dầu chưa đơm hoa, nhưng nên biết chính nơi cây nầy 
	là chỗ sản xuất vô-lượng hoa. Cũng vậy, tâm bồ-đề của đại Bồ-Tát dầu chưa 
	phát sanh nhất thiết-trí, nhưng nên biết tâm nầy là chỗ xuất sanh hoa 
	trí-giác cho vô-số chúng nhơn thiên. 
	
	Như dùng hoa ba-lợi-chất-đa-la để ướp y phục trong một ngày, thời mùi thơm 
	hơn hẳn dùng các thứ hoa thơm khác ướp y-phục trong ngàn năm. Cũng vậy, tâm 
	bồ-đề của đại Bồ-Tát huân tập công-đức trong một đời hơn hẳn công-đức vô-lậu 
	của hàng nhị-thừa huân tập trong trăm ngàn kiếp. 
	
	Như trong hải-đảo mọc cây Gia-tử, cây rễ nhánh lá bông trái của cây nầy, mọi 
	người thường lấy ăn dùng, mà vẫn không hết. Cũng vậy, tâm bồ-đề của đại 
	Bồ-Tát, từ sơ phát tâm đến thành Phật, chánh-pháp trụ thế luôn lợi ích tất 
	cả thế-gian không lúc nào tạm dứt. 
	
	Như có nước thuốc tên là ha-trạch-ca, nếu dùng một lượng nước thuốc nầy thời 
	biến được ngàn lượng đồng đều thành chân-kim, chẳng phải đồng biến được 
	thuốc nầy. Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng thuốc trí hồi-hướng của bồ-đề-tâm, biến 
	tất cả pháp nghiệp hoặc làm cho đều thành tướng nhất-thiết-trí, chẳng phải 
	nghiệp hoặc biến được tâm nầy. 
	
	Như chút ít lửa, tùy đem nhúm đốt chỗ nào thời ngọn lửa càng thêm mạnh. Cũng 
	vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát, tùy chỗ nào phan-duyên thời trí-huệ càng 
	mạnh. 
	
	Như một ngọn đèn đem thắp trăm ngàn đèn khác, mà ngọn đèn nầy không tổn 
	giảm. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát sanh thành tam-thế phật-trí, mà tâm 
	nầy không giảm không hết. 
	
	Như đem một ngọn đèn vào trong nhà tối, thời có thể phá trừ sự tối tăm đã 
	trăm ngàn năm. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát đem vào trong tâm của 
	chúng-sanh, thời có thể trừ hết những phiền-não nghiệp-chướng trong trăm 
	ngàn vạn ức bất-khả-thuyết kiếp. 
	
	Như tim đèn, tùy lớn hay nhỏ mà phát ánh sáng, nếu thêm dầu thời ánh sáng 
	chẳng tắt. Cũng vậy, đèn bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát, dùng đại-nguyện làm tim 
	quang-minh chiếu pháp-giới, thêm dầu đại-bi thời giáo-hóa chúng-sanh, tịnh 
	Phật-độ, thi hành Phật-sự không thôi dứt. 
	
	Như Tha-Hóa-Tự-Tại Thiên-Vương đội thiên-quan diêm-phù-đàn kim, tất cả vật 
	trang-nghiêm của chư Thiên-Tử cõi dục đều không bằng được. Cũng vậy, đại 
	Bồ-Tát đội bồ-đề-tâm đại-nguyện, thời tất cả công-đức của phàm-phu nhị-thừa 
	đều không bằng được. 
	
	Như lúc sư-tử-vương gầm rống, sư-tử con nghe tiếng đều thêm mạnh mẽ, còn các 
	muông thú khác đều kinh sợ lẩn trốn. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của Pháp-Vương gầm 
	rống, chư Bồ-Tát pháp-vương-tử nghe tiếng Phật thời thêm công-đức, còn người 
	có sở-đắc nghe tiếng Phật thời đều thối tán. 
	
	Như có người lấy gân sư-tử làm dây đờn, tấu đờn nầy thời tiếng của những đờn 
	khác đều tắt mất. Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng tâm bồ-đề làm dây pháp-nhạc, khi 
	tấu lên thời tất cả ngũ-dục và công-đức của nhị-thừa đều đoạn-tuyệt. 
	
	Như có người chứa sữa dê, sữa bò nhiều như biển lớn, đem một giọt sữa sư-tử 
	nhỏ vào trong đó, thời đều biến hoại, sữa sư-tử xuyên thẳng qua không bị trở 
	ngại. Cũng vậy, đại Bồ-Tát đem tâm bồ-đề để vào trong biển phiền-não nghiệp 
	đã chứa từ vô-lượng kiếp, thời đều hư hoại, mà bồ-đề-tâm thẳng qua vô-ngại, 
	trọn không trụ trong quả giải-thoát của nhị-thừa. 
	
	Như chim Ca-Lăng-Tần-Già lúc còn ở trong vỏ trứng đã có thế-lực, các loại 
	chim khác đều không bằng được. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát có những 
	thế-lực công-đức đại-bi, hàng Thanh-Văn và Duyên-giác không bằng được. 
	
	Như chim Kim-Sí lúc mới sanh cặp mắt sáng lanh, bay liệng mau chóng, tất cả 
	chim khác dầu đã sanh lâu đã trưởng thành vẫn không bằng được. Cũng vậy, đại 
	Bồ-Tát phát bồ-đề-tâm làm pháp-vương-tử thời trí-huệ thanh-tịnh, đại-bi 
	dũng-mãnh, tất cả hàng nhị-thừa dầu đã tu-hành trăm ngàn kiếp vẫn không bằng 
	được. 
	
	Như có tráng-sĩ cầm mâu nhọn đâm thủng giáp cứng dầy xuyên qua vô-ngại. Cũng 
	vậy, đại Bồ-Tát dùng bồ-đề-tâm đâm thủng hư những tà-kiến phiền-não, xuyên 
	qua vô-ngại. 
	
	Như đại-lực-sĩ Ma-Ha Na-Già, nếu phấn khởi oai lực, thời trên trán nổi bóng 
	ghẻ, nếu bóng ghẻ ấy chưa lặn, thời tất cả người trong Diêm-Phù-Đề không ai 
	đấu sức lại. Cũng vậy, đại Bồ-Tát nếu khởi đại-bi thời tất định phát 
	bồ-đề-tâm, lúc chưa xả tâm nầy thời tất cả thế-gian những ma và ma-dân không 
	làm hại được. 
	
	Như xạ-sư có các đệ-tử, dầu chưa tập quen nghề của thầy, nhưng sự khôn ngoan 
	khéo léo đã hơn những người khác. Đại Bồ-Tát lúc mới phát tâm cũng như vậy, 
	dầu chưa tập quen hạnh nhất-thiết-trí, nhưng bao nhiêu trí nguyện dục giải 
	đã hơn hẳn tất cả thế-gian và nhị-thừa. 
	
	Như người tập bắn tên, trước đặt chân sau mới tập cách bắn. Cũng vậy, đại 
	Bồ-Tát muốn học đạo nhất-thiết-trí của Như-Lai, trước phải an-trụ tâm bồ-đề, 
	rồi sau mới tu hành tất cả Phật-pháp. 
	
	Như nhà ảo-thuật sắp bày trò, trước phải nhớ và trì ảo-pháp, sau đó biến 
	hiện mới thành-tựu. Cũng vậy, đại Bồ-Tát sắp phát khởi thần-thông của chư 
	Phật Bồ-Tát, trước phải phát tâm bồ-đề, sau đó mọi sự mới được thành-tựu. 
	
	Như ảo-thuật, không có hình sắc mà hiện ra hình sắc. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của 
	đại Bồ-Tát dầu không hình sắc thấy được, nhưng có thể khắp thập phương 
	pháp-giới thị-hiên những công-đức trang-nghiêm. 
	
	Như mèo chồn vừa nhìn thấy chuột, thời chuột liền rút vô hang chẳng dám ra. 
	Cũng vậy, đại Bồ-Tát phát bồ-đề-tâm tạm dùng huệ-nhãn xem nghiệp hoặc, thời 
	nghiệp hoặc liền lẩn trốn chẳng còn sanh. 
	
	Như có người đeo đồ trang-sức bằng vàng diêm-phù-đàn, vàng nầy chói che 
	những vật khác, làm cho những vật khác như đống mực đen. Cũng vậy, đại 
	Bồ-Tát đeo bồ-đề-tâm, tâm nầy che chói tất cả công-đức của phàm-phu và 
	nhị-thừa, làm cho những công-đức nầy không còn quang sắc. 
	
	Như chút ít từ-thạch, sức của nó có thể hút những xiềng xích sắt. Cũng vậy, 
	đại Bồ-Tát khởi một niệm bồ-đề-tâm, thời có thể hoại diệt tất cả kiến dục 
	vô-minh. 
	
	Như có từ-thạch, sắt nếu đối diện thời đều bị hút đi không còn an-trụ được. 
	Bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát cũng như vậy, những nghiệp phiền-não và nhị-thừa 
	giải-thoát nếu tạm đối diện thời đều tan mất không còn lưu trú. 
	
	Như có người giỏi vào biển lớn, tất cả loài thủy-tộc không làm hại được, 
	giả-sử vào miệng cá Ma-Kiệt cũng không bi cắn nuốt. Cũng vậy, đại Bồ-Tát 
	phát tâm bồ-đề vào biển sanh-tử, những nghiệp phiền-não không làm hại được, 
	giả-sử vào trong pháp thiện-tế của Thanh-Văn Duyên-Giác cũng chẳng bị họ làm 
	lưu-nạn. 
	
	Như có người uống nước cam-lộ, tất cả vật độc không làm hại được. Cũng vậy, 
	đại Bồ-Tát uống bồ-đề-tâm thời chẳng sa vào hàng Thanh-Văn Bích-Chi-Phật, vì 
	đủ sức bi-nguyện quảng đại. 
	
	Như có người được thuốc an-thiện-na dùng thoa lên đôi mắt, dầu đi trong 
	nhân-gian mà không ai ngó thấy. Cũng vậy, đại Bồ-Tát được bồ-đề-tâm, có thể 
	dùng thiện-phương-tiện nhập cảnh-giới ma, nhưng tất cả chúng ma không thấy 
	được. 
	
	Như có người nương dựa Quốc-Vương thời chẳng sợ những người khác. Cũng vậy, 
	đại Bồ-Tát nương dựa thế-lực lớn của bồ-đề-tâm thời chẳng sợ những nạn 
	chướng cái ác-đạo. 
	
	Như có người ở trong nước thời chẳng sợ lửa cháy. Cũng vậy, đại Bồ-Tát ở 
	trong thiện-căn bồ-đề--tâm thời chẳng sợ trí giải-thoát của nhị-thừa. 
	
	Như người nương dựa mãnh-tướng thời không sợ tất cả kẻ oán địch. Cũng vậy, 
	đại Bồ-Tát nương dựa sức dũng-mãnh của bồ-đề-tâm thời chẳng sợ tất cả 
	ác-hạnh. 
	
	Như Thiện-Đế-Thích cầm chày kim-cang đánh dẹp tất cả chúng A-Tu-La. Cũng 
	vậy, đại Bồ-Tát cầm giữ tâm bồ-đề xô dẹp tất cả những ma ngoại-đạo. 
	
	Như có người uống thuốc diên-mạng thời mãi-mãi được tráng-kiện chẳng già 
	chẳng ốm. Cũng vậy, đại Bồ-Tát uống bồ-đề-tâm thời trong vô-số kiếp thật 
	hành bồ-tát-hạnh không nhàm mỏi, cũng không nhiễm trước. 
	
	Như có người điều hòa thuốc nước, thời trước hết phải lấy nước tốt trong 
	sạch. Cũng vậy, đại Bồ-Tát muốn tu tất cả hạnh nguyện đại-thừa thời trước 
	hết phải phát bồ-đề-tâm. 
	
	Như người giữ-gìn thân thể, thời trước hết phải gìn-giữ mạng-căn. Cũng vậy, 
	đại Bồ-Tát hộ-trì phật-pháp thời phải hộ-trì bồ-đề-tâm trước. 
	
	Như người nếu mạng-căn dứt thời không thể làm lợi-ích cho cha mẹ tôn thân. 
	Cũng vậy, đại Bồ-Tát nếu xả bỏ bồ-đề-tâm thời không thể làm lợi ích cho tất 
	cả chúng-sanh, không thể thành-tựu phật-công-đức. 
	
	Như đại hải không ai làm hư hoại được. Cũng vậy, những nghiệp hoặc và tâm 
	nhị-thừa chẳng thể làm hư hoại được. 
	
	Như ánh sáng mặt nhật, ánh sáng của tinh-tú không chói che được. Cũng vậy, 
	tất cả trí vô-lậu của nhị-thừa không thể chói che bồ-đề-tâm được. 
	
	Như Vương-Tử sơ sanh, thời được tất cả quan đều tôn trọng, vì là dòng Vua 
	tự-tại. Cũng vậy, đại Bồ-Tát ở trong Phật-pháp phát bồ-đề-tam thời được các 
	bực kỳ-túc tu phạm-hạnh, nhị-thừa đều tôn-trọng, vì đại-bi tự-tại. 
	
	Như Vương-Tử dầu tuổi còn nhỏ bé, nhưng các quan đều kính lễ. Cũng vậy, đại 
	Bồ-Tát dầu mới phát tâm tu bồ-tát-hạnh, nhưng được các bực kỳ-cựu Thanh-Văn 
	kính lễ. 
	
	Như Vương-Tử dầu chưa được tự-tại nơi tất cả các quan, nhưng đã đủ 
	vương-tướng nên chẳng đồng với tất cả các quan, vì dòng dõi tôn thắng. Cũng 
	vậy, đại Bồ-Tát dầu chưa được tự-tại trong tất cả nghiệp hoặc nhưng đã đủ 
	tướng bồ-đề nên chẳng đồng với tất cả hàng nhị-thừa, vì là chủng-tánh Phật 
	đệ nhất. 
	
	Như ma-ni-bửu thanh-tịnh, vì mắt lòa nên thấy là bất-tịnh. Cũng vậy, 
	bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát vốn thanh-tịnh, kẻ vô-trí chẳng tin cho là 
	bất-tịnh. 
	
	Như có thuốc được chú-lực gia-trì, nếu ai được thấy nghe cùng ở chung, thời 
	tiêu diệt được tất cả bệnh. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát được tất cả 
	thiện-căn, trí-huệ, phương-tiện, nguyện trí đồng-nhiếp-trì, nếu có 
	chúng-sanh thấy, nghe, ở chung, ghi nhớ, thời tất cả bệnh phiền-não đều được 
	trừ diệt. 
	
	Như có người thường uống cam-lộ, thân người nầy chẳng biến chẳng hoại. Cũng 
	vậy, nếu đại Bồ-Tát ghi nhớ giữ-gìn bồ-đề-tâm thời thân nguyện trí rốt ráo 
	chẳng hoại. 
	
	Như người máy bằng gỗ, nếu không có chốt thời ly tán chẳng vận động được. 
	Cũng vậy, đại Bồ-Tát nếu không bồ-đề-tâm thời công-hạnh phân tán chẳng thể 
	thành-tựu tất cả phật-pháp. 
	
	Như Chuyển-Luân-Vương có trầm hương-bửu tên là Tượng-Tạng, nếu đốt hương nầy 
	thời bốn binh-chủng của Luân-Vương đều bay lên không trung. Cũng vậy, đại 
	Bồ-Tát có bồ-đề-tâm, nếu phát tâm nầy thời tất cả thiện-căn của Bồ-Tát thoát 
	hẳn tam-giới đi trong trí vô-vi của Như-Lai. 
	
	Như chất kim-cang chỉ sản xuất từ mỏ kim-cang hoặc mỏ vàng, chẳng phải sản 
	xuất từ mỏ báu khác. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát chỉ phát sanh từ 
	lòng đại-bi cứu-hộ chúng-sanh, và từ cảnh giới thù-thắng nhất-thiết-chủng 
	trí, chẳng phải xuất sanh từ những thiện-căn khác. 
	
	Như cây vô-căn, chẳng có rễ mà nhánh lá bông trái đều sum-sê. Cũng vậy, 
	bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát vốn-không căn vô-sở-đắc mà có thể trưởng dưỡng 
	nhất-thiết-chủng trí thần-thông đại-nguyện che mát khắp thế-gian. 
	
	Như chất kim-cang chẳng phải chậu xấu chậu bể đựng được, chỉ trừ chậu lành 
	thật tốt. Cũng vậy, những chúng-sanh hạ-liệt tham sân phá giới giải-đãi 
	vọng-niệm vô-trí không thể chứa đựng bồ-đề-tâm, chỉ trừ Bồ-Tát thâm-tâm. 
	
	Như kim-cang có thể xoi lũng các chất báu khác. Cũng vậy, bồ-đề-tâm có thể 
	xuyên thấu tất cả pháp-bảo. 
	
	Như kim-cang có thể làm hoại các hòn núi. Cũng vậy, bồ-đề-tâm có thể phá vỡ 
	những núi tà-kiến. 
	
	Như kim-cang dầu đã bể, nhưng các thứ báu khác vẫn không bằng. Cũng vậy, 
	bồ-đề-tâm dầu vì chí liệt mà có chút suy tổn, nhưng vẫn còn hơn tất cả 
	công-đức của hàng nhị-thừa. 
	
	Như kim-cang dầu tổn khuyết nhưng vẫn trừ được sự nghèo cùng. Cũng vậy, 
	bồ-đề-tâm dầu bị tổn khuyết chẳng tăng tấn được các công-hạnh, nhưng còn bỏ 
	rời được tất cả sanh tử. 
	
	Như chút ít kim-cang có thể phá hoại tất cả vật. Cũng vậy, tâm bồ-đề nhập 
	chút ít cảnh-giới liền phá tất cả vô-tri phiền-não. 
	
	Như kim-cang chẳng phải người phàm có được. Cũng vậy, chẳng phải những 
	chúng-sanh ý liệt mà có được bồ-đề-tâm. 
	
	Như kim-cang, nếu là người chẳng biết rành chất báu thời không biết được 
	công-năng tác-dụng của nó. Cũng vậy, người chẳng biết chánh-pháp thời không 
	biết được công-năng tác-dụng của bồ-đề-tâm. 
	
	Như kim-cang không gì làm tiêu diệt được. Cũng vậy, tất cả pháp không thể 
	tiêu-diệt được bồ-đề-tâm. 
	
	Như chày kim-cang, những người có sức khoẻ đều không cầm được, chỉ trừ người 
	có sức đại na-la-diên. Cũng vậy, bồ-đề-tâm, tất cả hàng nhị-thừa đều không 
	cầm giữ được, chỉ trừ Bồ-Tát có thiện-lực kiên-cố nhơn-duyên quảng đại. 
	
	Như kim-cang, tất cả vật khác không làm hoại được, mà kim-cang lại có thể 
	làm hoại các vật, thể tánh nó vẫn không tổn giảm. Cũng vậy, bồ-đề-tâm khắp 
	tất cả kiếp giáo-hoá chúng-sanh tu hành khổ hạnh. Những sự mà hàng Thanh-Văn 
	Duyên-Giác không làm được, Bồ-Tát đều làm được, vẫn không nhàm mỏi, không 
	tổn giảm bồ-đề-tâm. 
	
	Như kim-cang, chỉ trừ đất kim-cang, những chỗ khác không thể giữ chịu được. 
	Cũng vậy, Thanh-Văn Duyên-Giác đều không thể giữ chịu được bồ-đề-tâm, chỉ 
	trừ người xu-hướng Phật-trí. 
	
	Như chậu kim-cang không nứt mẻ dùng đựng nước, thời vĩnh viễn nước không 
	chảy rịn vào đất. Cũng vậy, dùng bồ-đề-tâm chứa đựng thiện-căn, thời 
	vĩnh-viễn không lọt vào các loài. 
	
	Như kim-cang-tế có thể giữ vững đại địa. Cũng vậy, bồ-đề-tâm có thể giữ vững 
	hạnh nguyện Bồ-Tát chẳng sa vào tam giới. 
	
	Như kim-cang ở lâu trong nước chẳng rã chẳng ướt. Cũng vậy, bồ-đề-tâm ở 
	trong nghiệp hoặc sanh tử nhiều kiếp, vẫn không hư không đổi. 
	
	Như kim-cang, tất cả thứ lửa không đốt cháy được, chẳng làm nóng được. Bồ đề 
	tâm cũng vậy, tất cả lửa phiền-não sanh tử không đốt được, không làm nóng 
	được bồ-đề-tâm. 
	
	Như trên tòa kim-cang trong Đại-Thiên thế-giới có thể giữ vững chư Phật ngồi 
	đạo-tràng, hàng ma, thành đạo vô thượng chánh-giác, tất cả những tòa khác 
	không kham được. Cũng vậy, bồ-đề-tâm có thể giữ vững tất cả hạnh nguyện, các 
	môn ba-la-mật, các nhẫn, các địa, hồi-hướng thọ-ký, tu tập pháp bồ-đề trợ 
	đạo, cúng-dường chư Phật nghe pháp thọ hành của Bồ-Tát, tất cả tâm khác 
	không có công năng nầy. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-đề-tâm thành-tựu vô-lượng vô-biên nhẫn đến 
	bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết công đức thù thắng. 
	Nếu có chúng-sanh phát tâm vô-thượng bồ-đề thời được công-đức thù 
	thắng như vậy. 
	
	Vì thế nên ngươi đã được lợi lành lớn, vì ngươi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề 
	cầu bồ-tát-hạnh, đã được công-đức lớn như vậy. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Như ngươi hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu 
	bồ-tát-đạo? 
	
	Ngươi nên vào trong lâu các Tỳ-Lô-Giá-Na-Đại-Trang-Nghiêm nầy, ngươi 
	quán-sát khắp nơi thời có thể biết rõ học bồ-tát-hạnh, học rồi thời 
	thành-tựu vô-lượng công-đức. 
	 
	Hán bộ quyển thứ 79 
	
	(1) Thiện-Tài Đồng-Tử cung kính hữu-nhiễu Di-Lặc Bồ-Tát, rồi thưa rằng: 
	
	Xin Đại-Thánh mở cửa lâu các cho tôi được vào. 
	
	Lúc ấy Di-Lặc Bồ-Tát đến trước cửa lâu các đàn chỉ ra tiếng, cửa liền mở. 
	Bồ-Tát bảo Thiện-Tài vào. 
	
	Thiện-Tài rất hoan-hỷ đi vào trong lâu các, cửa liền đóng lại. 
	
	Thiện-Tài thấy trong lâu các rộng vô-lượng đồng như hư-không. Vô-số chất báu 
	làm đất. Vô-số cung điện, vô-số cửa cái, vô-số cửa sổ, vô-số thềm bậc, vô-số 
	lan-can, vô-số đường sá, tất cả đều bằng thất-bửu. 
	
	Vô-số tràng, vô-số phan, vô-số lọng hàng liệt khắp nơi. 
	
	Vô-số chuỗi báu, vô-số chuỗi chân châu, vô-số chuỗi xích-chân-châu, vô-số 
	chuỗi sư-tử châu, thòng rũ khắp nơi. 
	
	Vô-số bán-nguyệt, vô-số dải lụa, vô-số lưới báu dùng đề trang-sức. Vô-số 
	lục-lạc báu gió động thành tiếng. 
	
	Rải vô-số hoa trời đẹp. Treo vô-số dải tràng báu cõi trời. Vô-số lư-hương 
	báu trang-nghiêm. Rưới vô-số bột chân kim. Treo vô-số gương báu. Thắp vô-số 
	đèn báu. Trải vô-số y báu. Giăng vô-số trướng báu. 
	
	Trần thiết vô-số tòa báu, vô-số lụa báu trải trên tòa. 
	
	Vô-số tượng đồng-nữ bằng vàng diêm-phù-đàn. Vô-số hình tượng bằng chiều thứ 
	báu. 
	
	Khắp nơi có vô-số tượng Bồ-Tát bằng diệu-bửu.Vô-số chim hót tiếng hòa nhã. 
	
	Vô-số hoa sen xanh báu, vô-số hoa sen vàng báu, vô-số hoa sen đỏ báu, vô-số 
	hoa sen trắng báu, dùng để trang-nghiêm. 
	
	Vô-số cây báu thứ đệ hàng liệt. 
	
	Vô-số ma-ni-bửu phóng đại quang-minh. 
	
	Lại thấy trong đó có vô-lượng trăm ngàn lâu các đẹp, đều nghiêm-sức như 
	trên. Mỗi mỗi lâu các đều rộng rãi nghiêm-lệ, đồng như hư-không chẳng ngại 
	nhau cũng chẳng tạp loạn nhau. 
	
	Thiện-Tài ở một chỗ thấy tất cả chỗ. Nơi tất cả chỗ đều thấy như vậy. 
	
	Thiện-Tài thấy lâu các Tỳ-Lô-Giá-Na-Trang-Nghiêm-Tạng có bất-tư-nghì 
	cảnh-giới tự-tại như vậy, lòng rất vui mừng hớn hở vô-lượng, thân tâm nhu 
	nhuyến, rời tất cả tưởng, trừ tất cả chướng, diệt tất cả hoặc, chỗ thấy 
	chẳng quên, chỗ nghe đều nhớ, chỗ nghĩ chẳng tạp, chứng nhập môn vô-ngại 
	giải-thoát, vận dụng tâm cùng khắp, thấy cùng khắp, kính lễ cùng khắp. 
	
	Vừa mới cúi đầu, do thần-lực của Di-Lặc Bồ-Tát, Thiện-Tài tự thấy thân của 
	mình ở khắp trong tất cả lâu các, thấy đủ những cảnh-giới tự-tại 
	bất-tư-nghì: 
	
	Những là thấy Di-Lặc Bồ-Tát lúc mới phát tâm tên hiệu như vậy, chủng-tộc như 
	vậy, thiện-hữu khai ngộ khiến gieo trồng căn lành như vậy, thọ mạng như vậy, 
	ở kiếp như vậy, gặp Phật tại quốc-độ như vậy, tu hành như vậy, phát nguyện 
	như vậy.  Chư Phật Như-Lai ấy, 
	những chúng-hội, thọ-mạng, thân-cận cúng-dường đều thấy rõ cả. 
	
	Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát tối-sơ chứng được từ-tâm tam-muội, từ đó đến nay 
	hiệu là từ-thị. 
	
	Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát tu những diệu-hạnh, thành mãn tất cả môn ba-la-mật. 
	
	Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát đắc nhẫn, trụ địa, thành-tựu quốc-độ thanh-tịnh, 
	hô-trì phật-pháp, làm đại Pháp-Sư, được vô-sanh-nhẫn. 
	
	Hoặc thấy thời-gian ấy, tại xứ ấy, Đức Phật ấy thọ ký thành Phật cho Di-Lặc 
	Bồ-Tát. 
	
	Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát làm Chuyển-Luân-Vương khuyên các chúng-sanh an trụ 
	nơi thập-thiện-đạo. 
	
	Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát làm Hộ-Thế lợi ích chúng sanh, hoặc làm Đế-Thích quở 
	trách ngũ-dục, hoặc làm Dạ-Ma Thiên-Vương tán dương hạnh bất-phóng-dật, hoặc 
	làm Đâu-Suất Thiên-Vương khen ngợi công-đức của Bồ-Tát nhất-sanh bổ-xứ, hoặc 
	làm Hóa-Lạc Thiên-Vương vì chư thiên-chúng mà hiện những sự biến-hóa 
	trang-nghiêm của chư Bồ-Tát, hoặc làm Tha-Hóa-Tự-Tại Thiên-Vương vì chư 
	thiên-chúng mà diễn thuyết tất cả phật-pháp, hoặc làm Ma-Vương tuyên nói tất 
	cả pháp thảy đều vô-thường, hoặc làm Phạm-Vương tuyên nói chư thiền-định có 
	vô-lượng hỉ-lạc, hoặc làm A-Tu-La Vương vào biển đại-trí rõ pháp như huyễn 
	vì chúng A-Tu-Ta mà thường thuyết pháp dứt trừ tất cả kiêu mạn ngạo nghễ. 
	
	Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát ở xứ Diêm-La cứu khổ địa-ngục, hoặc thấy ở xứ 
	ngạ-quỷ bố-thí đồ uống ăn cứu sự đói khát, hoặc thấy ở đạo súc-sanh dùng 
	những phương-tiện điều-phục chúng-sanh. 
	
	Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát vì chúng hội Hộ-Thế Thiên-Vương mà thuyết pháp, hoặc 
	thấy vì chúng-hội Đao-Lợi Thiên-Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội 
	Dạ-Ma Thiên-Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Đâu-Suất 
	Thiên-Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Hóa-lạc Thiên-Vương mà 
	thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Tha-hóa Thiên-Vương mà thuyết pháp, hoặc 
	thấy vì chúng-hội Đại-Phạm Thiên-Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì 
	chúng-hội Long-Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Dạ-Xoa-Vương, 
	La-Sát-Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Càn-Thát-Bà Vương và 
	Khẩn-Na-La Vương mà thuyết pháp hoặc thấy vì chúng-hội A-Tu-La Vương và 
	Đà-Na-Bà Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Ca-Lâu-La Vương và 
	Ma-Hầu-La-Già Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì những chúng-hội nhân 
	phi-nhân khác mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Thanh-Văn Duyên-Giác mà 
	thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Bồ-Tát sơ-phát-tâm nhẫn đến Bồ-Tát 
	nhất-sanh bổ-xứ trụ quán-đảnh vị mà thuyết pháp. 
	
	Hoặc lại thấy Di-Lặc Bồ-Tát khen nói những công đức của sơ-địa nhẫn đến 
	thập-địa. 
	
	Hoặc thấy khen nói đầy đủ tất cả ba-la-mật. Hoặc thấy khen nói pháp môn nhập 
	các nhẫn. 
	
	Hoặc thấy khen nói những môn đại tam-muội. Hoặc thấy khen nói những môn 
	giải-thoát thậm-thâm. 
	
	Hoặc thấy khen nói cảnh-giới của những tam-muội thần-thông. Hoặc thấy khen 
	nói những bồ-tát-hạnh. 
	
	Hoặc thấy khen nói những thệ nguyện lớn. 
	
	Hoặc thấy cùng với chư Bồ-Tát đồng hành khen nói những phương-tiện lợi ích 
	chúng-sanh. 
	
	Hoặc thấy cùng với chư Bồ-Tát nhất-sanh bổ-xứ khen nói tất cả môn Phật quán 
	đảnh. 
	
	Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát trong trăm ngàn năm kinh hành, đọc tụng, thơ tả kinh 
	quyển, siêng cầu quán sát vì đại-chúng mà thuyết pháp. 
	
	Hoặc nhập tứ-thiền, tứ vô-lượng tâm. Hoặc nhập biến-xứ và những giải-thoát. 
	
	Hoặc nhập tam-muội dùng sức phương-tiện hiện những thần-biến. 
	
	Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát nhập biến-hóa tam-muội, nơi mỗi lỗ lông trên thân 
	hiện ra tất cả biến-hóa thân-vân. Hoặc hiện ra thiên-chúng thân-vân. Hoặc 
	hiện ra long-chúng thân-vân. hoặc hiện ra bát-bộ-chúng thân-vân. Hoặc hiện 
	ra Thích, Phạm, Hộ-Thế, Chuyển-Luân Thánh-Vương, Tiều-Vương, Vương-Tử, 
	Đại-Thần, Quan-Thuộc, Trưởng-Giả, Cư-Sĩ thân-vân. Hoặc hiện ra Thanh-Văn, 
	Duyên-Giác, Bồ-Tát, Như-Lai thân-vân. 
	
	Hoặc hiện ra tất cả chúng-sanh thân-vân. Hoặc phát ra tiếng vi-diệu khen 
	những pháp-môn của chư Bồ-Tát. 
	
	Hoặc khen nói môn công-đức của đàn-ba-la-mật nhẫn đến công-đức của 
	trí-ba-la-mật. Khen nói các nhiếp pháp, các thiền, các vô-lượng-tâm, các 
	tam-muội chánh-quán, các thông, các minh, tổng-trì, biện-tài, các đế, các 
	trí, chỉ, quán, giải-thoát, các duyên, các y, các thuyết, các pháp-môn. Khen 
	nói niệm-xứ, chánh-cần, thần-túc, căn, lực, bảy phần bồ-đề, tám thánh-đạo, 
	những thanh-văn-thừa, những duyên-giác-thừa, những bồ-tát-thừa, những địa, 
	những nhẫn, những hạnh, những nguyện, tất cả những công-đức-môn như vậy. 
	
	Hoặc ở trong những lỗ lông ấy lại thấy chư Như-Lai có đại-chúng vây quanh. 
	Cũng thấy chư Phật nầy: chỗ sanh, chủng-tánh, thân hình, thọ-mạng, quốc-độ, 
	kiếp-số, danh-hiệu, thuyết pháp lợi ích, chánh-pháp ở đời mau hay lâu, nhẫn 
	đến đạo-tràng chúng-hội đều thấy rõ cả. 
	
	Lại ở nơi những lâu các trong phạm-vi Trang-Nghiêm-Tạng nầy, mỗi lâu các đều 
	cao rộng trang-nghiêm tối thượng, trong đó đều thấy Đại-Thiên thế-giới, trăm 
	ức Tứ-Thiên-Hạ, trăm ức Đâu-Suất-Thiên. 
	
	Mỗi mỗi đều có Di-Lặc Bồ-Tát giáng thần đản-sanh. Thích, Phạm và Thiên-Vương 
	ẫm bồng cung kính. 
	
	Bồ-Tát sơ sanh kinh hành bảy bước, nhìn xem mười phương, tuyên bố độc tôn, 
	làm đồng-tử, ở cung-điện, dạo chơi viên-uyển, vì cầu nhất-thiết-trí mà 
	xuất-gia khổ-hạnh, thị hiện thọ cháo sữa, đến ngồi đạo-tràng hàng phục 
	ma-quân, thành Đẳng-Chánh-Giác, quán-sát bồ-đề-thọ. Phạm-Vương thỉnh chuyển 
	pháp-luân. 
	
	Lên cung trời mà thuyết pháp. Kiếp số thọ-lượng, chúng-hội trang-nghiêm, 
	nghiêm tịnh quốc-độ, thật hành hạnh nguyện, phương-tiện giáo-hóa thành-thục 
	chúng-sanh, phân chia xá-lợi, trụ-trì giáo-pháp, những sự việc chẳng đồng 
	như vậy thảy đều thấy rõ. 
	
	Thiện-Tài lại thấy thân mình ở tại chỗ chư Phật Như-Lai ấy, cũng dự trong 
	chúng-hội ấy, đều nhớ rõ tất cả phật-sự và thông đạt vô-ngại. 
	
	Lại nghe tất cả lưới, linh, nhạc-khí trong tất cả lâu-các ấy đều diễn sướng 
	bất-tư-nghì pháp-âm vi-diệu: hoặc nói Bồ-Tát phát bồ-đề-tâm, hoặc nói tu 
	hành các môn ba-la-mật, hoặc nói các nguyện, các địa, hoặc nói cung kính 
	cúng-dường Như-Lai, hoặc nói trang-nghiêm Phật-độ, hoặc nói chư Phật thuyết 
	pháp sai biệt. 
	
	Lại nghe xứ đó có Bồ-Tát nghe pháp-môn như vậy. Thiện-tri-thức ấy khuyên 
	phát tâm bồ-đề ở cõi ấy, kiếp ấy, chỗ đức Phật ấy, trong đại-chúng ấy, phát 
	tâm, khởi nguyện, gieo thiện-căn quảng đại như vậy, trải qua bao nhiêu kiếp 
	tu bồ-tát-hạnh, bao nhiêu thời gian sẽ thành chánh-giác danh hiệu như vậy, 
	thọ lượng như vậy, quốc-độ trang-nghiêm như vậy, mãn nguyện như vậy, 
	giáo-hóa chúng-sanh như vậy, chúng Thanh-Văn Bồ-Tát như vậy. Sau khi nhập 
	niết-bàn, chánh-pháp ở đời bao lâu năm lợi ích vô-lượng chúng-sanh. 
	
	Hoặc lại nghe xứ ấy có Bồ-Tát tu lục ba-la-mật. 
	
	Hoặc nghe xứ ấy có bồ-tát vì cầu pháp mà rời bỏ ngôi vua, cung-điện, vợ con 
	quyến-thuộc, tài-sản, nhẫn đến xả thí tay, chân, đầu, mắt, thân thể. 
	
	Hoặc nghe xứ ấy có Bồ-Tát thủ hộ chánh-pháp làm đại Pháp-Sư rộng hành 
	pháp-thí, dựng pháp-tràng, thổi pháp-loa đánh pháp-cổ, mưa pháp-vũ, xây phật 
	tháp miếu, làm hình tượng Phật, bố-thí tất cả đồ an vui cho chúng-sanh. 
	
	Hoặc nghe xứ ấy có đức Như-Lai ở kiếp ấy thành Đẳng-Chánh-Giác thuyết pháp 
	độ sanh. 
	
	Thiện-Tài nghe bất-tư-nghì vi-diệu pháp-âm như vậy, thân tâm hoan-hỉ 
	nhu-nguyến liền được vô-lượng môn tổng-trì, vô-lượng môn biện-tài, các 
	thiền, các nhẫn, các nguyện, các độ, các thông, các minh và các giải-thoát, 
	các môn tam-muội. 
	
	Lại thấy những hình tượng trong các gương báu: những là chư Phật chúng-hội 
	đạo-tràng, Bồ-Tát chúng-hội đạo-tràng, Thanh-Văn chúng-hội đạo-tràng, 
	Duyên-Giác chúng-hội đạo-tràng. 
	
	Những tịnh thế-giới, những uế thế-giới, hoặc những tịnh uế thế-giới, những 
	thế-giới có Phật, những thế-giới không Phật, những tiểu thế-giới, những 
	trung thế-giới, những đại thế-giới, những nhân-đà-la-võng thế-giới những 
	thế-giới úp, những thế-giới ngửa, những thế-giới bình-thản, những thế-giới 
	của địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh ở, những thế-giới đầy chúng nhân thiên. 
	
	Ở trong những thế-giới như vậy, thấy có vô-số chúng đại Bồ-Tát hoặc đi hoặc 
	ngồi làm nhiều sự-nghiệp: 
	
	Những là hoặc khởi đại-bi thương xót chúng sanh, hoặc soạn những bộ luận lợi 
	ích chúng-sanh, hoặc thọ, hoặc trì, hoặc biên, hoặc tụng, hoặc hỏi, hoặc 
	đáp, ba thời sám-hối hồi-hướng phát nguyện. 
	
	Thiện-Tài lại thấy trong tất cả cột báu phóng lưới đại quang-minh 
	ma-ni-vương, hoặc xanh, hoặc vàng, hoặc đỏ, hoặc trắng, hoặc màu pha-lê, 
	hoặc màu thủy-tinh, hoặc màu đế-thanh, hoặc màu hồng-nghệ, hoặc màu vàng 
	diêm-phù-đàn, hoặc làm thành màu tất cả quang-minh. 
	
	Lại thấy những bửu-tượng và hình đồng-nữ bằng vàng diêm-phù-đàn, hoặc tay 
	cầm hoa-vân, y-vân, tràng-phan, táng cái. Hoặc cầm những hương thoa, hương 
	bột. Hoặc cầm thượng-diệu ma-ni-bửu võng. Hoặc thòng xích vàng, hoặc mang 
	anh-lạc. Hoặc dơ cánh tay bưng đồ trang-nghiêm. hoặc cúi đầu trút mão ma-ni 
	khom mình chiêm ngưỡng mắt chẳng tạm rời. 
	
	Lại thấy chuỗi chân-châu thường xuất sanh nước thơm đủ tám công-đức. Thấy 
	chuỗi lưu-ly phóng trăm ngàn quang-minh đồng thời chiếu sáng. Những tràng 
	phan bửu-cái, bửu võng tất cả đều trang-nghiêm với những châu bửu. 
	
	Lại thấy bốn màu hoa sen, mỗi mỗi đều sanh vô-lượng hoa: hoặc bằng cánh tay, 
	hoặc bằng bánh xe. Trong mỗi hoa thảy đều thị-hiện nhiều thứ hình tượng để 
	trang-nghiêm: 
	
	Như là tượng nam, tượng nữ, tượng đồng-nam, tượng đồng-nữ, tượng Thích, 
	Phạm, Hộ-Thế, Thiên, Long, Dạ-Xoa, Càn-Thát-Bà, A-Tu-La, Ca-Lâu-La, 
	Khẩn-Na-La, Ma-Hầu-La-Già, tượng Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát. 
	
	Tất cả những sắc tượng trên đây đều khom mình chắp tay kính lễ. 
	
	Cũng thấy đức Như-Lai ngồi kiết-già, thân ba mười hai tướng trang-nghiêm. 
	
	Lại thấy nơi đất tịnh lưu-ly, trong khoảng mỗi bước hiện bất-tư-nghì những 
	sắc-tượng: 
	
	Như là sắc-tượng thế-giới, sắc-tượng Bồ-Tát, sắc-tượng Như-Lai, sắc-tượng 
	những lâu các trang-nghiêm. 
	
	Lại nơi nhưng nhánh lá bông-trái của bửu-thọ, đều thấy những sắc-tượng 
	bán-thân: 
	
	Như là sắc-tướng bán-thân của Phật, của Bồ-Tát, của Thiên, Long, bát-bộ. Sắc 
	tượng bán thân của Hộ-Thế Tứ-Thiên-vương, của Chuyển-Luân-Vương, của Tiểu 
	vương, Vương tử, Đại-Thần, Quan-Trưởng và của tứ chúng. 
	
	Những sắc-tượng bán-thân nầy hoặc cầm tràng hoa, hoặc cầm anh-lạc, hoặc cầm 
	những đồ trang-nghiêm, hoặc khom mình chắp tay lễ kính, nhất tâm 
	chiêm-ngưỡng mắt chẳng tạm rời. Hoặc ca ngợi, hoặc nhập tam-muội nơi thân 
	đều dùng tướng hảo trang-nghiêm phóng những quang-minh nhiều màu: 
	
	Như là quang-minh màu chân-kim, màu bạch-ngân, màu san-hô, màu đâu-sa-la, 
	màu đế-thanh, màu tỳ-lô-giá-na bửu, màu châu bửu, màu bông chiêm-ba-ca. 
	
	Lại thấy trong tượng bán nguyệt phóng ra vô-số quang-minh của nhật nguyệt 
	tinh tú chiếu khắp mười phương. 
	
	Lại thấy bốn phía vách trong mỗi bước đều dùng châu bửu để trang-nghiêm. 
	
	Trong mỗi châu bửu đều hiện hình Di-Lặc Bồ-Tát thuở kiếp xưa tu hành 
	Bồ-tát-đạo: hoặc bố-thí đầu, mắt, tay, chân, môi, lưỡi, răng, nướu, tai, 
	mũi, máu, thịt, da thứa, xương tủy, nhẫn đến móng, tóc. Hoặc bố-thí vợ con, 
	thành ấp, tụ lạc, quốc-độ, ngôi vua. Làm cho người ở lao ngục thời được ra 
	khỏi, kẻ bị trói buộc thời được cởi mở, người bệnh tật thời được lành, người 
	vào đường tà thời chỉ cho đương chánh. 
	
	Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát làm lái thuyền đưa qua biển lớn. Hoặc làm Mã-vương 
	cứu hộ ác nạn. Hoặc làm đại-tiên khéo giảng-luận. Hoặc làm Luân-vương khuyên 
	tu thập thiện. Hoặc làm y-vương khéo chữa các bệnh. Hoặc hiếu thuận cha mẹ. 
	Hoặc thân cận thiện-hữu. Hoặc làm Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát. Hoặc làm 
	Như-Lai giáo-hóa điều-phục tất cả chúng-sanh. Hoặc làm Pháp-sư phụng hành 
	phật-giáo, thọ-trì, độc tụng, tư-duy đúng lý. Lập phật-tháp, tạo Phật-tượng. 
	Hoặc mình cúng dường, hoặc khuyên người cúng, thoa hương, rải hoa, cung kính 
	lễ bái. Những sự như trên thật hành luôn không dứt. 
	
	Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát ngồi tòa sư-tử thuyết pháp khuyên chúng-sanh an-trụ 
	thập-thiện, nhất tâm quy hướng Tam-Bửu, thọ-trì năm giới và tám giới, xuất 
	gia nghe pháp, thọ-trì đọc tụng, tu hành đúng pháp. 
	
	Nhẫn đến hoặc thấy những sắc-tượng của Di-Lặc Bồ-Tát tu hành các môn 
	ba-la-mật trong trăm ngàn ức na-do-tha vô-số kiếp. 
	
	Lại thấy Di-Lặc Bồ-Tát từng kính thờ chư thiện-tri-thức đều dùng tất cả 
	công-đức trang-nghiêm. 
	
	Lại thấy Di-Lặc Bồ-Tát tại chỗ của mỗi thiện-tri-thức thân-cận cúng-dường, 
	tuân hành lời dạy, nhẫn đến trụ bực Quán-Đảnh. 
	
	Bấy giờ chư thiện-tri-thức ấy bảo Thiện-Tài rằng: 
	
	Lành thay Đồng-Tử! Ngươi nhìn xem những sự bất-tư-nghì của Di-Lặc Bồ-Tát chớ 
	có nhàm mỏi. 
	
	Lúc đó vì được sức ghi nhớ chẳng quên, vì được mắt thanh-tịnh thấy mười 
	phương, vì được trí vô-ngại khéo quán-sát, vì được trí tự-tại của Bồ-Tát, vì 
	được quảng-đại-giải của chư Bồ-Tát đã nhập trí-địa, nên Thiện-Tài ở trong 
	mỗi vật của tất cả lâu các đều thấy vô-lượng cảnh-giới bất-tư-nghì như vậy. 
	
	Như người nằm mộng thấy những cảnh vật, khi thức dậy bèn biết là cảnh mộng, 
	nhưng có thể nhớ rõ không quên mất. Cũng vậy, nhờ thần lực gia-trì của 
	Di-Lặc Bồ-Tát, vì biết những pháp trong tam-giới như mộng, vì diệt được tâm 
	tưởng hèn kém của chúng-sanh, vì được tri-giải rộng lớn vô-ngại, vì an trụ 
	cảnh-giới thù-thắng của Bồ-Tát, vì nhập trí phương-tiện bất-tư-nghì, nên 
	Thiện-Tài thấy được cảnh-giới tự-tại như vậy. 
	
	Như người sắp mạng-chung, thấy tướng thọ báo theo nghiệp của họ: người gây 
	ác-nghiệp thời thấy tất cả cảnh-giới khổ nơi địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh. 
	Hoặc thấy lính ngục tay cầm binh khí sân mắng trói bắt dẫn đi. Cũng nghe 
	những tiếng kêu khóc than van. Hoặc thấy sông tro, vạc nước sôi, núi dao, 
	cây gươm, rồi bị bức vào chịu khổ. 
	
	Người làm lành thời thấy cung-điện trời, vô-lượng thiên-chúng, thiên-nữ, 
	y-phục trang-nghiêm, cung-điện viên lâm đều đẹp tốt. 
	
	Dầu thân chưa chết, nhưng do nghiệp-lực thấy những sự như vậy. 
	
	Cũng vậy, do sức bất-tư-nghì của bồ-tát-nghiệp nên Thiện-Tài được thấy tất 
	cả cảnh-giới trang-nghiêm. 
	
	Như có người bị quỷ nhiếp trì thấy các sự việc tùy nơi người hỏi đều đáp 
	được cả. 
	
	Cũng vậy, do bồ-tát trí-huệ nhiếp-trì nên Thiện-Tài được thấy tất cả sự 
	trang-nghiêm, nếu có ai hỏi đều đáp được cả. 
	
	Như có người bị rồng nhiếp trì, tự cho mình là rồng rồi vào long-cung, trong 
	thời-gian ngắn tự cho là đã trải qua nhiều ngày nhiều tháng nhiều năm. 
	
	Cũng vậy, vì trụ Bồ-tát trí-huệ, vì Di-Lặc Bồ-Tát da-trì, nên trong một ít 
	thời-gian mà Thiện-Tài cho là vô-lượng kiếp. 
	
	Như Phạm-thiên-cung tên là Trang-Nghiêm-Tạng, trong đó hiện tất cả sự vật 
	trong Đại-Thiên thế-giới chẳng tạp loạn nhau. 
	
	Cũng vậy, Trong lâu các nầy, Thiện-Tài thấy khắp tất cả cảnh-giới 
	trang-nghiêm, nhiều thứ sai khác chẳng tạp loạn nhau. 
	
	Như Tỳ-Kheo nhập biến-xứ-định, khi đi đứng ngồi nằm, tùy theo định đã nhập, 
	cảnh-giới ấy hiện tiền. 
	
	Cũng vậy, Thiện-Tài nhập lâu-các nầy, tất cả cảnh-giới đều hiện rõ. 
	
	Như có người ở không-trung thấy thành Càn-Thát-Bà đủ sự trang-nghiêm đều 
	thấy biết rõ không chướng ngại. 
	
	Như cung-điện của thần Dạ-Xoa cùng cung-điện của người đồng ở một chỗ mà 
	chẳng tạp loạn nhau, đều tùy theo nghiệp nên chỗ thấy chẳng đồng. 
	
	Như nơi đại-hải, tất cả sắc tượng của thế-giới đều hiện trong đó. 
	
	Như nhà ào-thuật, dùng ảo-lực hiện những ảo-sự. 
	
	Cũng vậy, do sức oai-thần của Di-Lặc Bồ-Tát, do sức huyễn-trí bất-tư-nghì, 
	do có thể dùng huyễn-trí biết các pháp, do được sức tự-tại của Bồ-Tát, nên 
	Thiện-Tài thấy tất cả cảnh giới tự-tại trang-nghiêm trong lâu các. 
	
	Bấy giờ Di-Lặc Bồ-Tát nhiếp thần-lực vào trong lâu-các, đàn-chỉ ra tiếng bảo 
	Thiện-Tài rằng: 
	
	Thiện-nam-tử dậy! Pháp-tánh như vậy. Đây là những tướng của trí biết các 
	pháp của Bồ-Tát làm nhơn-duyên tụ tập mà hiện ra. Tự-tánh như vậy, như 
	huyễn, như mộng, như-ảnh, như tượng, đều chẳng thành-tựu. 
	
	Nghe tiếng đàn-chỉ, Thiện-Tài liền từ tam-muội dậy. 
	
	Di-Lặc Bồ-Tát nói: Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi ở trong giải-thoát tự-tại 
	bất-tư-nghì của Bồ-Tát thọ những hỉ-lạc tam-muội của Bồ-Tát, có thể thấy 
	cung-điện trang-nghiêm của Bồ-Tát thần-lực gia-trì, của trợ-đạo lưu xuất, 
	của nguyện-trí hiển hiện. Ngươi thấy bồ-tát-hạnh, nghe bồ-tát-pháp, biết 
	bồ-tát-đức, rõ như-lai nguyện. 
	
	Thiện-Tài thưa: Bạch Đại-Thánh! Đây là sức oai-thần gia hộ ghi nhớ của 
	thiện-tri-thức. 
	
	Bạch Đại-Thánh! Môn giải-thoát nầy tên là gì? 
	
	Di-Lặc Bồ-Tát nói: Nầy Thiện-nam-tử! Môn giải-thoát nầy tên là tạng trí 
	trang-nghiêm nhập tất cả cảnh-giới ba đời chẳng quên mất. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Trong môn giải-thoát nầy có bất-khả-thuyết bất khả-thuyết 
	môn giải-thoát, là chỗ chứng đắc của Bồ-Tát nhất-sanh bổ-xứ. 
	
	Thiện-Tài hỏi: Sự trang-nghiêm nầy đi về đâu? 
	
	Di-Lặc Bồ-Tát nói: Đi về nơi chỗ đến. 
	
	Thiện-Tài hỏi: Từ chỗ nào đến? 
	
	Di-Lặc Bồ-Tát nói: Từ trong trí-huệ thần-lực của Bồ-Tát mà đến, nương 
	thần-lực của Bồ-Tát mà an-trụ, không có chỗ đi, cũng không có chỗ trụ, chẳng 
	phải tích tập, chẳng phải thường hằng, xa rời tất cả. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Như Long-Vương làm mưa: chẳng từ thân ra, chẳng từ tâm ra, 
	chẳng có tích tập, mà chẳng phải là chẳng thấy. Chỉ do sức tâm-niệm của 
	Long-Vương mà mưa tuôn khắp thiên-hạ. 
	
	Cảnh-giới như vậy chẳng thể nghĩ bàn. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Cũng vậy, những sự trang-nghiêm trong lâu-các nầy chẳng ở 
	trong cũng chẳng ở ngoài, mà chẳng phải là không thấy. Chỉ do thần-lực của 
	Bồ-Tát và sức thiện-căn của ngươi, mà ngươi được thấy như vậy. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Như nhà ảo-thuật làm những ảo-sự: không từ đâu lại, không 
	đi đến đâu. Dầu không lại không đi, nhưng do ảo-lực mà thấy rõ ràng 
	
	Cũng vậy, sự trang-nghiêm nầy không từ đâu lại, cũng không chỗ đi. Dầu không 
	lại không đi, nhưng do quen tập sức huyễn-trí bất-tư-nghì và do sức 
	đại-nguyện thuở xưa mà hiển- hiện như vậy. 
	
	Thiện-Tài thưa: Đại-Thánh từ-xứ nào đến đây? 
	
	Di-Lặc Bồ-Tát nói: Nầy Thiện-nam-tử! Chư Bồ-Tát không đến không đi, như vậy 
	mà đến. Không đi không ở, như vậy mà đến. Không chỗ, không chấp, không mất, 
	không sanh, chẳng ở, chẳng dời, chẳng động, chẳng khởi, không luyến, không 
	nhiễm, không nghiệp, không báo, chẳng khởi, chẳng diệt, chẳng đoạn, chẳng 
	thường, như vậy mà đến. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát từ chỗ đại-bi mà đến, vì muốn điều phục các 
	chúng-sanh. 
	
	Từ chỗ đại-từ mà đến, vì muốn cứu hộ các chúng-sanh. 
	
	Từ chỗ tịnh-giới mà đến, vì tùy sở-thích mà thọ sanh. 
	
	Từ chỗ đại-nguyện mà đến, vì nguyện-lực thuở xưa gia-trì. 
	
	Từ chỗ thần-thông mà đến, vì nơi tất cả xứ, tùy thích mà hiện. 
	
	Từ chỗ không lay động mà đến, vì hằng chẳng bỏ rời tất cả Phật. 
	
	Từ chỗ không thủ xả mà đến, vì chẳng bắt buộc thân tâm phải qua lại. 
	
	Từ chỗ phương-tiện trí-huệ mà đến, vì tùy thuận tất cả chúng-sanh. 
	
	Từ chỗ thi-hiện biến-hóa mà đến, vì dường như ảnh tượng mà hóa hiện. 
	
	Nhưng nầy Thiện-nam-tử! Ngươi hỏi ta từ chỗ nào mà đến? 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta từ sanh-quán, nước Ma-La-Đề mà đến nơi đây 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Nước ấy có tụ-lạc tên là Phòng-xá. Trong tụ-lạc có 
	Trưởng-Giả-Tử tên là Cù-Ba-La, ta vì hóa độ người ấy vào phật-pháp mà ở nơi 
	đó. Lại vì tất cả nhân-dân đáng được hóa-độ nên sanh nơi đó để thuyết pháp. 
	Lại cũng vì cha mẹ quyến thuộc nói pháp đại thừa cho được xu nhập nên ở nơi 
	đó, rồi từ đó đến đây. 
	
	Thiện-Tài thưa: Bạch Đại-Thánh! Những gì là sanh-xứ của Bồ-Tát? 
	
	Di-Lặc Bồ-Tát nói: Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát có mười thứ sanh-xứ: 
	
	Bồ-dề-tâm là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh ra Bồ-Tát. 
	
	Thâm-tâm là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh thiện-tri-thức. 
	
	Chư-địa là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh các môn ba-la-mật. 
	
	Đại-nguyện là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh diệu-hạnh. 
	
	Đại-bi là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh tứ-nhiếp-pháp. 
	
	Quán-sát đúng lý là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh bát-nhã ba-la-mật. 
	
	Đại-thừa là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh thiện-xảo phương-tiện. 
	
	Giáo-hóa chúng-sanh là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh chư Phật. 
	
	Trí-huệ phương-tiện là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh vô-sanh pháp-nhẫn. 
	
	Tu hành tất cả pháp là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh tam thế tất cả 
	Như-Lai. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Đại Bồ-Tát dùng bát-nhã ba-la-mật làm mẹ, phương-tiện 
	thiện-xảo làm cha, thí-ba-la-mật làm nhũ-mẫu, giới-ba-la-mật làm dưỡng-mẫu, 
	nhẫn-ba-la-mật làm đồ-trang-nghiêm, tinh-tấn ba-la-mật làm ông gìa 
	dưỡng-dục, thiền ba-la-mật làm người rửa giặt, thiện-tri-thức làm thầy dạy, 
	tất cả phần bồ-đề làm bạn, tất cả pháp lành làm quyến-thuộc, tất cả Bồ-Tát 
	làm huynh đệ, bồ-đề-tâm làm nhà, tu hành đúng lý làm gia-pháp, chư địa làm 
	gia-xứ, chư nhẫn làm gia-tộc, đại-nguyện làm gia-giáo, đầy đủ các hạnh làm 
	thuận gia-pháp, khuyên phát đại-thừa làm nối gia-nghiệp, pháp-thủy rưới đầu 
	nhất-sanh bổ-xứ Bồ-Tát làm Thái-Tử, thành-tựu bồ-đề là hay tịnh gia-tộc. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát siêu phàm-phu-địa, nhập bồ-tát-vị, sanh nhà 
	Như-Lai, trụ chủng-tánh Phật như vậy, có thể tu các hạnh chẳng dứt Tam-Bảo, 
	khéo giữ được chủng-tộc Bồ-Tát, tịnh bồ-tát-chủng, chỗ sanh tôn-thắng, không 
	lỗi ác, tất cả thế-gian, thiên, nhơn, ma, phạm, sa-môn, bà-la-môn cung-kính 
	ngợi khen. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Đại Bồ-Tát sanh nhà tôn-thắng như vậy rồi, vì biết tất cả 
	pháp như ảnh tượng nên đối với thế-gian không ghét chê. Vì biết tất cả pháp 
	như biến-hóa nên không nhiễm trước các cõi hữu-lậu. 
	
	Vì biết tất cả pháp không có ngã nên giáo-hóa chúng-sanh lòng không nhàm 
	mỏi. 
	
	Vì dùng đại-từ-bi làm thể tánh nên nhiếp thọ chúng-sanh chẳng biết lao khổ. 
	
	Vì liễu đạt sanh tử dường như mộng nên trải qua tất cả kiếp mà không e sợ. 
	
	Vì biết rõ các uẩn đều như huyễn nên thị hiện thọ sanh mà không nhàm mỏi. 
	
	Vì biết các giới, xứ, đồng pháp-giới nên nơi các cảnh-giới không bi hoại 
	diệt. 
	
	Vì biết tất cả tưởng như dương-diệm nên vào trong các loài mà chẳng sanh 
	điên-đảo mê hoặc. 
	
	Vì đạt tất cả pháp đều như huyễn nên vào cảnh-giới ma chẳng sanh nhiễm 
	trước. 
	
	Vì biết pháp-thân nên tất cả phiền-não chẳng khi dối được. Vì được tự-tại 
	nên nơi tất cả loài đều thông đạt vô-ngại. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Thân ta sanh khắp tất cả pháp-giới, đồng sắc tướng 
	sai-biệt với tất cả chúng-sanh, đồng ngôn âm sai khác với tất cả chúng-sanh, 
	đồng những danh hiệu với tất cả chúng-sanh, đồng những cử chỉ sở thích của 
	tất cả chúng-sanh để tùy thuận thế-gian giáo-hóa điều-phục, thị-hiện thọ 
	sanh đồng với tất cả chúng-sanh thanh-tịnh, những sự nghiệp làm ra đồng với 
	tất cả phàm-phu chúng-sanh. 
	
	Đồng với tâm tưởng của tất cả chúng-sanh, đồng thệ nguyện với tất cả Bồ-Tát 
	mà hiện thân mình đầy khắp pháp-giới. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta vì hóa độ những người thuở xưa cùng ta đồng tu 
	công-hạnh mà nay thối thất tâm bồ-đề. Cũng vì giáo-hóa cha mẹ thân thuộc. 
	Cũng vì giáo-hóa các Bà-La-Môn khiến họ bỏ tánh kiêu-mạn để được sanh trong 
	chủng-tánh Như-Lai, nên ta sanh tại nhà bà-la-môn nơi tụ-lạc Phòng-Xá trong 
	nước Ma-La-Đề ở Diêm-Phù-Đề nầy. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta ở trong đại-lâu-các nầy tùy tâm sở-thích của các 
	chúng-sanh dùng nhiều phương-tiện để giáo-hóa đều-phục. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta vì tùy thuận tâm chúng-sanh, ta vì thành-thục chư Thiên 
	đồng hành nơi cung Đâu-Suất, ta vì thị-hiện bồ-tát phước trí biến-hóa 
	trang-nghiêm siêu quá tất cả dục-giới cho họ bỏ rời những dục lạc, vì cho họ 
	biết hữu-vi đều vô-thường, vì cho họ biết chư Thiên hễ thạnh tất có suy, vì 
	muốn thị-hiện lúc sắp giáng sanh dùng đại-trí pháp-môn cùng chư Bồ-Tát 
	nhất-sanh bổ-xứ cùng nhau đàm luận, vì muốn nhiếp hóa những người đồng hành, 
	vì muốn giáo-hóa những kẻ mà đức Thích-Ca Như-Lai để sót lại cho họ đều được 
	khai ngộ như hoa sen nở, nên khi mạng chung ta sẽ sanh lên trời Đâu-Suất. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Lúc ta viên-mãn bổn-nguyện thành nhất-thiết-trí, chứng 
	vô-thượng bồ-đề, thời ngươi và Văn-Thù Sư-Lợi đều được thấy ta. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi nên qua đến chỗ Văn-Thù Sư-Lợi thiện-tri-thức mà hỏi 
	rằng: Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào nhập Phổ-Hiền hạnh-môn, thế 
	nào thành-tựu, thế nào quảng đại, thế nào tùy thuận, thế nào thanh-tịnh, thề 
	nào viên-mãn? Văn-Thù Sư-Lợi sẽ vì ngươi mà phân-biệt diễn nói. 
	
	Tại sao vậy? Vì những đại-nguyện của Văn-Thù Sư-Lợi, chẳng phải vô-lượng 
	trăm ngàn ức na-do-tha Bồ-Tát khác có được. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Văn-Thù Sư-Lợi có hạnh quảng đại, nguyện vô-biên, xuất 
	sanh tất cả Bồ-Tát công-đức không thôi dứt. 
	
	Văn-Thù Sư-Lợi thường làm mẹ của vô-lượng trăm ngàn ức na-do-tha chư Phật. 
	Thường làm thầy của vô-lương trăm ngàn ức na-do-tha Bồ-Tát. Giáo hóa 
	thành-tựu vô-lượng chúng-sanh. Tiếng đồn vang khắp mười phương thế-giới. 
	Thường làm Thuyết-Pháp-Sư trong tất cả chúng hội của chư Phật. Được tất cả 
	Như-Lai khen ngợi, trụ nơi trí thậm-thâm, có thể thấy tất cả pháp như thiệt, 
	thông đạt tất cả cảnh-giới giải-thoát, rốt ráo những hạnh của Phổ-Hiền. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Văn-Thù Sư-Lợi là thiện-tri-thức của ngươi, làm cho ngươi 
	được sanh nhà Như-Lai, trưởng dưỡng tất cả thiện-căn, phát khởi tất cả pháp 
	trợ-đạo, gặp thiện-tri-thức chơn thiệt khiến người tu tất cả công-đức, nhập 
	tất cả nguyện võng, trụ tất cả đại-nguyện, vì ngươi mà nói tất cả pháp 
	bí-mật của Bồ-Tát, hiện tất cả hạnh bất-tư-nghì của bồ-tát, thuở xưa cùng 
	người đồng sanh đồng hành. 
	
	Vì thế nên nguơi phải đến chỗ Văn-Thù Sư-Lợi chớ có nhàm mỏi. 
	
	Văn-Thù Sư-Lợi sẽ vì ngươi mà nói tất cả công-đức. Tại sao vậy? Vì trước kia 
	ngươi thấy thiện-tri-thức, nghe bồ-tát-hạnh, nhập môn giải-thoát, đầy đủ 
	đại-nguyện, đều do thần-lực của Văn-Thù Sư-Lợi. 
	
	Văn-Thù Sư-Lợi đều được rốt ráo tất cả xứ. 
	
	Lúc đó Thiện-Tài Đồng-Tử đảnh lễ chân Di-Lặc Bồ-Tát, hữu-nhiễu vô-lượng 
	vòng, ân-cần chiêm-ngưỡng từ tạ mà đi. 
	 
	Hán bộ quyển thứ 80 
	
	52- (1) Y lời dạy của Di-lặc Bồ-Tát, Thiện-Tài đi qua hơn một trăm mười 
	thành đến nước Phồ-Môn, thành Tô-Ma-Na, ở nơi cửa thành suy tìm Văn-Thù 
	Sư-Lợi, trông được gặp gỡ kính thờ. 
	
	Bây giờ Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát từ xa đưa tay hữu qua khỏi một trăm mười 
	do-tuần áp trên đầu Thiện-Tài mà nói rằng: 
	
	Lành thay! Lành thay! Nầy Thiện-nam-tử! Nếu rời tín-căn thời tâm yếu kém, lo 
	sợ ăn-năn công-hạnh chẳng tròn đủ, thối thất tinh-cần, nơi một thiện-căn 
	sanh lòng trụ trước, với chút ít công-đức đã cho là đủ. Chẳng thể phát khởi 
	hạnh nguyện, chẳng được thiện-tri-thức nhiếp thọ, chẳng được Như-Lai ức 
	niệm, chẳng biết được pháp-tánh như vậy, lý-thú như vậy, pháp-môn như vậy, 
	công-hạnh như vậy, cảnh-giới như vậy, đều không thể biết khắp, biết nhiều, 
	tột nguồn đáy, hiểu rõ, xu nhập giải-thoát, phân-biệt, chứng biết, chứng 
	đắc, tất cả điều trên đây đều không thể được. 
	
	Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát tuyên nói pháp ấy cho Thiện-Tài được lợi ích hoan-hỷ 
	thành-tựu vô-số pháp-môn, đầy đủ vô-lượng đại-trí quang-minh, khiến được 
	Bồ-Tát vô-biên-tế đà-la-ni, vô-biên-tế nguyện, vô-biên-tế tam-muội, 
	vô-biên-tế thần-thông, vô-biên-tế trí, khiến vào đạo-tràng Phổ-hiền-hạnh. 
	
	Lại để Thiện-Tài ở tại chỗ cũ, Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát nhiếp thần-lực chẳng 
	hiện. 
	
	53- Thiện-Tài tư-duy quán-sát nhất-tâm nguyện thấy Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát, và 
	muốn thấy Đại-Thiên thế-giới vi-trần-số thiện-tri-thức để gần-gũi cung-kính 
	phụng thờ tuân hành giáo-pháp không chống trái, tăng trưởng xu cầu tất cả 
	trí-huệ, làm rộng biển đại-bi, thêm mây đại-từ, quán-sát khắp mọi loài sanh 
	lòng hoan-hỷ, an-trụ pháp-môn tịch-tịnh của Bồ-Tát, duyên khắp tất cả 
	cảnh-giới quảng-đại, học tất cả công-đức quảng đại của Phật, nhập tất cả 
	tri-kiến quyết định của Phật, thêm pháp trợ-đạo cho nhất-thiết-trí, khéo tu 
	thâm-tâm của tất cả Bồ-Tát, biết tam-thế Phật thứ đệ xuất thế, vào biển 
	nhất-thiết-pháp, chuyển xe nhất-thiết-pháp, sanh trong tất cả thế-gian, nhập 
	nơi tất cả bồ-tát nguyện-hải, trụ tất cả kiếp tu bồ-tát-hạnh, chiếu rõ tất 
	cả cảnh-giới Như-Lai, trưởng dưỡng chư căn của tất cả Bồ-Tát, được 
	quang-minh thanh-tịnh của nhất-thiết-trí, chiếu khắp mười phương, trừ hết 
	tôi tăm chướng-ngại, biết khắp pháp-giới, hiện thân mình khắp tất cả cõi, 
	tất cả loài, dẹp tất cả chướng, vào khắp vô-ngại, trụ nơi bực pháp-giới 
	bình-đẳng, quán-sát cảnh-giới giải-thoát của Phổ-Hiền, được nghe danh tự 
	hạnh nguyện của Phổ-Hiền đại Bồ-Tát, cũng nghe trợ-đạo, chánh-đạo, bậc chư 
	địa, phương-tiện-địa, nhập-địa, thắng-tấn-địa, trụ-địa, tu-tập-địa, 
	cảnh-giới-địa, oai-lực-địa, đồng-trụ khát ngưỡng. 
	
	Thiện-Tài muốn thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát, liền ở trước tòa sư-tử của Tỳ-Lô-Giá-Na 
	Như-Lai nơi Kim-Cang-Tạng Bồ-Đề-Tràng, trên tòa Bửu-Liên-Hoa-Tạng, phát tâm 
	rộng lớn như hư-không-giới, khởi tâm vô-ngại, bỏ tất cả cõi, rời tất cả 
	chấp, tâm vô-ngại đi trong tất cả pháp vô-ngại, tâm vô-ngại vào khắp tất cả 
	thập phương, tâm thanh-tịnh vào cảnh-giới của nhất-thiết-trí, tâm minh-liễu 
	quán-sát đạo-tràng trang-nghiêm, tâm quảng-đại nhập tất cả phật-pháp-hải, 
	tâm châu-biến hóa-độ tất cả chúng-sanh-giới, tâm vô-lượng tịnh tất cả 
	phật-độ, tâm vô-tận trụ tất cả kiếp, tâm cứu-cánh xu hướng Như-Lai thập-lực. 
	
	Lúc Thiện-Tài phát khởi những tâm như vậy, do sức thiện-căn của mình, được 
	sức-gia-hộ của tất cả Như-Lai, do sức đồng thiện-căn của Phổ-Hiền Bồ-Tát, 
	nên Thiện-Tài thấy mười thứ thoại-tướng, như là: 
	
	Thấy tất cả Phật-độ thanh-tịnh, tất cả Như-Lai thành đẳng-chánh-giác. 
	
	Thấy tất cả Phật-độ thanh-tịnh không các ác-đạo. 
	
	Thấy tất cả Phật-độ thanh-tịnh nghiêm-sức với những diệu-liên-hoa. 
	
	Thấy tất cả Phật-độ thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh thân tâm thanh-tịnh. 
	
	Thấy tất cả Phật-độ thanh-tịnh, trang-nghiêm với những châu bửu. 
	
	Thấy tất cả Phật-độ thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh tướng tốt nghiêm thân. 
	
	Thấy tất cả Phật-độ thanh-tịnh, những mây trang-nghiêm che phía trên. 
	
	Thấy tất cả Phật-độ thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh mến yêu nhau, giúp ích 
	nhau, chẳng hại nhau. 
	
	Thấy tất cả Phật-độ thanh-tịnh, đạo-tràng trang-nghiêm. 
	
	Thấy tất cả Phật-độ thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh tâm thường niệm Phật. 
	
	Thiện-Tài lại thấy mười tướng quang-minh, như là: Thấy bao nhiêu vi-trần của 
	tất cả thế-giới, trong mỗi mỗi vi-trần xuất-sanh tất cả thế-giới vi-trần-số 
	phật-quang-minh võng-vân chiếu sáng khắp nơi. 
	
	Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số phật quang-minh 
	luân-vân nhiều thứ sắc-tướng cùng khắp pháp-giới. 
	
	Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số phật sắc-tượng 
	bửu-vân cùng khắp pháp-giới. 
	
	Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số phật-quang-diệm 
	luân-vân cùng khắp pháp-giới. 
	
	Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số những 
	diệu-hương-vân cùng khắp mười phương khen ngợi tất cả hạnh nguyện đại 
	công-đức-hải của Phổ-Hiền. 
	
	Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trấn-số nhựt nguyệt tinh 
	tú vân, đều phóng quang-minh của Phổ-Hiền Bồ-Tát chiếu khắp pháp-giới. 
	
	Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số tất cả chúng-sanh 
	thân sắc tượng vân phóng phật-quang-minh chiếu khắp pháp-giới. 
	
	Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số tất cả 
	Phật-sắc-tượng ma-ni-vân cùng khắp pháp-giới. 
	
	Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế giới vi-trần-số Bồ-Tát thân 
	sắc-tượng-vân đầy khắp pháp-giới, khiến tất cả chúng-sanh đều được xuất ly, 
	đều mãn sở-nguyện. 
	
	Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số Như-Lai thân 
	sắc-tượng-vân, nói thệ nguyện quảng đại của tất cả Phật cùng khắp pháp-giới. 
	
	Thiện-Tài thấy mười thứ quang-minh nầy rồi, nghĩ rằng: nay tôi sẽ được thấy 
	Phổ-Hiền Bồ-Tát thêm lớn thiện-căn. Thấy tất cả Phật, nơi tất cả Bồ-Tát sanh 
	tri giải quyết định, được nhất-thiết-trí. 
	
	Thiện-Tài nhiếp khắp thiện-căn, nhứt tâm cầu thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát, khởi đại 
	tinh-tấn tâm không thối chuyển, liền dùng phổ-nhãn quán-sát mười phương tất 
	cả chư Phật và chúng Bồ-Tát. Bao nhiêu cảnh-giới đã thấy đều tưởng là đuợc 
	thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát. 
	
	Dùng trí-huệ-nhãn quán-sát Phổ-hiền đạo, tâm quảng-đại dường như hư-không, 
	đại-bi kiên-cố như Kim-Cang. Nguyện tận vị-lai thường được theo Phổ-Hiền, 
	niệm niệm tùy thuận tu phổ-hiền-hạnh, thành-tựu trí-huệ, nhập như-lai-cảnh, 
	trụ phổ-hiền-địa. 
	
	Bấy giờ Thiện-Tài Đồng-Tử liền thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát ở trong chúng-hội trước 
	đức Như-Lai, ngồi tòa sư-tử Bửu-Liên-Hoa, chúng Bồ-Tát vây quanh rất là tôn 
	nghiêm, thế-gian không sánh được, cảnh-giới trí-huệ vô-lượng vô-biên khó 
	lường khó nghĩ, đồng tam-thế Phật, tất cả Bồ-Tát không quán-sát được. 
	
	Thấy thân Phổ-Hiền, mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số 
	quang-minh-vân, khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả thế-giới, trừ diệt tất 
	cả chúng-sanh khổ hoạn, khiến các Bồ-Tát sanh đại hoan-hỷ. 
	
	Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số những 
	sắc-hương-diệm-vân, khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả chư Phật chúng-hội 
	đạo-tràng, để huân tập tất cả. 
	
	Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số tạp-hoa-vân, khắp 
	pháp-giới hư-không-giới tất cả chư Phật chúng-hội đạo-tràng mưa những 
	diệu-hoa. 
	
	Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số hương thọ vân, 
	khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả chư Phật chúng-hội đạo-tràng mưa những 
	diệu hương. 
	
	Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số diệu-y vân, khắp 
	pháp-giới hư-không-giới chư Phật chúng-hội đạo tràng mưa những diệu-y. 
	
	Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số bửu-thọ-vân, khắp 
	pháp-giới hư-không-giới tất cả chư Phật chúng-hội đạo tràng, mưa ma ni bửu. 
	
	Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số sắc-giới 
	thiên-thân-vân sung-mãn pháp-giới, khen ngợi bồ-đề-tâm. 
	
	Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số phạm-thiên thân 
	vân, khuyến thỉnh chư như lai chuyển diệu pháp luân. 
	
	Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số dục-giới thiên 
	vương thân vân, hộ trì pháp-luân của tất cả như-lai. 
	
	Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số 
	tam-thế phật-sát-vân, khắp pháp-giới hư-không-giới vì các chúng-sanh, những 
	người không chỗ về nương mà làm chỗ về nương, những người không chỗ che chở 
	mà làm chỗ che chở, những người không chỗ y-chỉ mà làm chỗ y chỉ. 
	
	Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số 
	thanh-tịnh phật-sát-vân khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả chư Phật xuất 
	thế trong đó, chúng hội Bồ-Tát thảy đều sung-mãn. 
	
	Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số 
	tịnh bất-tịnh phật-sát-vân khắp pháp-giới hư-không-giới, khiến tạp nhiễm 
	chúng-sanh đều được thanh-tịnh. 
	
	Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số 
	bất tịnh-tịnh phật-sát-vân khắp pháp-giới hư-không-giới, khiến tạp nhiễm 
	chúng-sanh đều được thanh-tịnh. 
	
	Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số 
	bất-tịnh phật-sát-vân khắp pháp-giới hư-không-giới, khiến thuần nhiễm 
	chúng-sanh đều được thanh-tịnh. 
	
	Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số 
	chúng-sanh thân-vân khắp pháp-giới hư-không-giới, tùy sở nghi giáo hóa 
	chúng-sanh đều khiến phát tâm vô-thượng bồ-đề. 
	
	Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số 
	bồ-tát thân-vân biến pháp-giới hư-không-giới tán dương những danh hiệu của 
	chư Phật làm cho chúng-sanh tăng trưởng thiện-căn. 
	
	Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số 
	bồ-tát thân-vân khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả phật-sát tuyên dương tất 
	cả chư Phật Bồ-Tát, những thiện-căn sanh khởi từ khi sơ phát tâm. 
	
	Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số 
	bồ-tát thân-vân khắp pháp-giới hư-không-giới, trong mỗi phật-sát nơi tất cả 
	phật-sát tuyên dương tất cả bồ-tát nguyện-hải và thanh-tịnh diệu-hạnh của 
	Phổ-Hiền Bồ-Tát. 
	
	Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh Phổ-Hiền Bồ-Tát hạnh-vân 
	khiến tâm tất cả chúng-sanh được mãn túc, tu tập đầy đủ đạo nhất-thiết-trí. 
	
	Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số chánh-giác 
	thân-vân, nơi tất cả phật-sát hiện thành chánh-giác, khiến các Bồ-Tát thêm 
	lớn pháp đại-thừa thành nhất-thiết-trí. 
	
	Thiện-Tài thấy cảnh-giới thần-thông tự-tại của Phổ-Hiền Bồ-Tát như vậy, thân 
	tâm hoan hỉ, hớn hở vô-lượng. 
	
	Lại thấy mỗi mỗi thân phần, mỗi mỗi lỗ chân lông của Phổ-Hiền đều có 
	Đại-Thiên thế-giới phong-luân, thủy-luân, địa-luân, hỏa-luân, đại-hải, 
	giang-hà và những Bửu-Sơn, Tu-Di, Thiết-vi, thành ấp, cung điện, viên lâm, 
	tất cả xứ của địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh, Diêm-La-Vương, những cung điện 
	của Thiên, Long, Bát-Bộ, nhân và phi-nhân, cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô-Sắc, 
	nhật, nguyệt, tinh-tú, gió, mây, sấm, chớp, ngày, đêm, tháng, giờ đến năm, 
	kiếp, chư Phật xuất thế, chúng hội Bồ-Tát, đạo-tràng trang-nghiêm, những sự 
	như vậy đều thấy rõ cả. 
	
	Như thấy rõ tại thế-giới nầy, tất cả thế-giới ở mười phương đều thấy rõ cả. 
	
	Như thấy thập phương thế-giới hiện-tại, tất cả thế-giới tiền-tế hậu-tế cũng 
	thấy như vậy, nhưng vẫn chẳng tạp loạn nhau. 
	
	Như ở chỗ Tỳ-Lô-Giá-Na-Như-Lai thị-hiện sức thần-thông như vậy, tại 
	Liên-Hoa-Đức thế-giới, chỗ của Hiền-Thủ Phật, hiện sức thần-thông cũng như 
	vậy. 
	
	Nhẫn đến tại tất cả thế-giới mười phương, chỗ của tất cả chư Phật Như-Lai, 
	cũng hiện sức thần-thông như vậy. 
	
	Mười phương tất cả thế-giới trong mỗi mỗi vi-trần đều có pháp-giới chư Phật 
	chúng-hội. Chỗ mỗi đức Phật, Phổ-Hiền Bồ-Tát ngồi trên tòa Bửu-Liên-Hoa 
	Sư-Tử hiện sức thần-thông cũng đều như vậy. 
	
	Trong thân của mỗi mỗi Phổ-Hiền đều hiện tất cả cảnh-giới tam-thế, tất cả 
	cõi Phật, tất cả chúng-sanh, tất cả Phật xuất-hiện, tất cả bồ-tát-chúng, 
	nghe ngôn âm của tất cả chúng-sanh, ngôn âm của tất cả Phật, pháp-luân của 
	tất cả Như-Lai chuyển. Lại thấy công-hạnh của tất cả Bồ-Tát, thần-thông 
	du-hí của tất cả Như-Lai. 
	
	Thiện-Tài thấy vô-lượng đại-thần-thông-lực bất-tư-nghì của Phổ-Hiền Bồ-Tát 
	như vậy, liền được mười thứ trí ba-la-mật. Như là: 
	
	Trí ba-la-mật trong mỗi niệm đều có thể đi khắp tất cả cõi Phật. 
	
	Trí ba-la-mật trong mỗi niệm đều có thể qua đến tất cả chỗ Phật. 
	
	Trí ba-la-mật trong mỗi niệm đều có thể cúng-dường tất cả Như-Lai. 
	
	Trí ba-la-mật trong mỗi niệm ở khắp chỗ của tất cả Như-Lai để nghe pháp và 
	thọ trì. 
	
	Trí ba-la-mật trong mỗi niệm tư-duy pháp-luân của tất cả Như-Lai. 
	
	Trí ba-la-mật trong mỗi niệm biết sự đại thần-thông bất-tư-nghì của tất cả 
	Phật. 
	
	Trí ba-la-mật trong mỗi niệm nói một câu pháp tột thuở vị-lai biện-tài 
	vô-tận. 
	
	Trí ba-la-mật trong mỗi niệm dùng thân bát-nhã quán tất cả pháp. 
	
	Trí ba-la-mật trong mỗi niệm nhập tất cả pháp-giới thiệt-tướng-hải. 
	
	Trí ba-la-mật trong mỗi niệm biết tâm của tất cả chúng-sinh. 
	
	Trí ba-la-mật trong mỗi niệm huệ hạnh của Phổ-Hiền đều hiện-tiền. 
	
	Thiện-Tài đã được mười trí ba-la-mật nầy rồi, Phổ-Hiền Bồ-Tát liền dơ tay 
	hữu xoa đầu Thiện-Tài. 
	
	Được xoa đầu, Thiện-Tài liền được tất cả phật-sát vi-trần-số môn tam-muội, 
	mỗi tam-muội lại dùng phật-sát vi-trần-số tam-muội làm quyến-thuộc. 
	
	Mỗi mỗi tam-muội đều thấy tất cả phật-sát vi-trần-số phật-đại-hải mà từ xưa 
	chưa thấy, tích tập tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí trợ-đạo, sanh 
	đủ tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí thượng-diệu-pháp, phát tất cả 
	phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí đại-thệ-nguyện, nhập tất cả phật-sát 
	vi-trần-số đại-nguyện-hải, trụ tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí 
	xuất-yếu-đạo, tu tất cả phật-sát vi-trần-số bồ-tát-hạnh, khởi tất cả 
	phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí đại-tinh-tấn, được tất cả phật-sát 
	vi-trần-số nhất-thiết-trí tịnh-quang-minh. 
	
	Như ở Ta-Bà thế-giới chỗ của Tỳ-Lô-Giá-Na Phật nầy, Phổ-Hiền Bồ-Tát xoa đầu 
	Thiện-Tài Đồng-Tử, khắp mười phương thế-giới, trong mỗi vi-trần nơi những 
	thế-giới ấy, tất cả thế-giới, tất cả chỗ Phật, Phổ-Hiền Bồ-Tát cũng xoa đầu 
	Thiện-Tài như vậy, những pháp-môn tam-muội chứng được cũng đồng. 
	
	Bấy giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát bảo Thiện-Tài rằng: Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi thấy 
	thần-lực của ta chăng? 
	
	Thiện-Tài thưa: Bạch vâng! Những sự thần thông quảng đại bất-tư-nghì nầy chỉ 
	đức Như-Lai mới biết được. 
	
	Phổ-Hiền Bồ-Tát nói: Nầy Thiện-nam-tử! Thuở quá-khứ bất-khả-thuyết 
	bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số kiếp, ta thật hành bồ-tát-hạnh cầu 
	nhất-thiết-trí. Trong mỗi mỗi kiếp vì muốn thanh-tịnh bồ-đề-tâm, nên kính 
	thờ bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số Phật. 
	
	Trong mỗi mỗi kiếp vì tích tập nhất-thiết-trí phước đức nên thiết lập 
	bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thí-hội quảng đại, khiến 
	tất cả thế-gian đều nghe biết, phàm ai đến cầu xin thời đều làm cho họ đầy 
	đủ cả. 
	
	Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu pháp nhất-thiết-trí nên ta đem bất-khả-thuyết 
	bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số tài vật bố-thí. 
	
	Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu Phật-trí, nên ta đem bất-kha-thuyết bất-khả-thuyết 
	phật-sát vi-trần-số thành ấp, tụ lạc, quốc độ, vương vị, thê tử, quyến 
	thuộc, mắt tai mũi lưỡi, thân thịt tay chân đến cả mạng sống để bố thí. 
	
	Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu nhất-thiết-trí-thủ, nên ta đem bất-khả-thuyết 
	bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số đầu để bố-thí. 
	
	Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu nhất-thiết-trí, nên ở chỗ bất-khả-thuyết 
	bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số Như-Lai, ta cung kính tôn trọng, kính thờ 
	cúng-dường, rồi xuất-gia học đạo, trong phật-pháp tu hành hộ giáo. 
	
	Nầy Thiện-nam-từ! Ta ở trong những số kiếp như vậy, tự nhớ chưa từng có một 
	niệm chẳng thuận Phật-giáo, chưa từng có một niệm sanh lòng sân hại, cũng 
	chưa từng có một niệm sanh tâm ngã ngã-sở, tâm mình người sai biệt, tâm xa 
	rời bồ-đề, tâm nhàm mỏi sanh tử, tâm lười biếng, tâm chướng ngại, tâm mê 
	hoặc. Mà ta chỉ an trụ tâm đại bồ-đề vô-thượng chẳng thể trở hoại tích tập 
	pháp trợ-đạo nhất-thiết-trí. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta trang-nghiêm phật-độ, dùng tâm đại-bi cứu hộ 
	chúng-sanh, giáo-hóa thành-tựu, cúng-dường chư Phật, thờ thiện-tri-thức, vì 
	cầu chánh-pháp nên hoằng tuyên hộ-trì, trong thân ngoài vật đều có thể xả 
	tất cả, đến mạng sống cũng không tiếc. 
	
	Nếu dùng thời-gian kiếp-hải để nói nhơn-duyên đó, kiếp-hải còn có thể hết 
	chớ nhơn duyên đó không cùng tận. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Trong pháp-hải của ta, không có một chữ không có một câu, 
	Chẳng phải thí xả ngôi Chuyển-Luân-Vương mà cầu được. Chẳng phải thí xả tất 
	cả sở-hữu mà cầu được. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Pháp của ta cầu đều vì cứu hộ tất cả chúng-sanh. Một lòng 
	suy nghĩ mong cho chúng-sanh đưọc nghe pháp nầy. Nguyện dùng trí-quang chiếu 
	khắp thế-gian. Nguyện vì chúng-sanh mà khai thị trí xuất-thế-gian. Nguyện 
	cho chúng-sanh đều được an lạc. Nguyện khắp tán dương những công-đức của chư 
	Phật. 
	
	Thuở xưa, nhơn-duyên của ta như vậy, trong bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết 
	phật-sát vi-trần-số kiếp-hải nói không hết được. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Vì thế nên ta dùng sức trợ đạo pháp như vậy, những sức 
	thiện-căn, sức đại chí-nguyện, sức tu công-đức, sức như thiệt tư-duy tất cả 
	pháp, sức trí-huệ-nhãn, sức Phật-oai-thần, sức đại-từ-bi, sức 
	tịnh-thần-thông, sức thiện-tri-thức như vậy nên ta được pháp-thân thanh-tịnh 
	tam thế bình-đẳng rốt ráo nầy. 
	
	Ta lại được sắc-thân thanh-tịnh vô-thượng siêu các thế-gian, tùy sở thích 
	của tâm chúng-sanh mà hiện hình vào tất cả cõi khắp tất cả xứ, nơi các 
	thế-giới rộng hiện thần-thông, làm cho người thấy đều vui mừng. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi quan-sát sắc-thân của ta như vậy. 
	
	Sắc-thân của ta đây đã thành-tựu từ vô-biên kiếp hải. Vô-lượng ngàn ức 
	na-do-tha kiếp khó thấy khó nghe. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Nếu có chúng-sanh chưa gieo thiện-căn và gieo ít 
	thiện-căn, Thanh-Văn, Bồ-Tát thời còn chẳng được nghe danh hiệu của ta huống 
	là thấy được thân ta. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Nếu có chúng-sanh được nghe danh hiệu của ta thời không 
	còn thối chuyển nơi vô-thượng bồ-đề. Nếu ai hoặc thấy, hoặc chạm, hoặc rước, 
	hoặc đưa, hoặc tạm theo dõi, nhẫn đến trong mộng được thấy nghe ta, thời đều 
	cũng được bất thối chuyển cả. 
	
	Hoặc có chúng-sanh một ngày một đêm nhớ nghĩ đến ta thời liền được 
	thành-thục. 
	
	Hoặc bảy ngày bảy đêm, nửa tháng, một tháng, nửa năm, một năm, trăm năm, 
	ngàn năm, một kiếp, trăm kiếp, nhẫn đến bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết 
	phật-sát vi-trần-số kiếp nghĩ nhớ đến ta mà được thành-thục. 
	
	Hoặc một đời, hoặc trăm đời, nhẫn đến bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát 
	vi-trần-số đời nghĩ nhớ đến ta mà thành-thục. 
	
	Hoặc thấy ta phóng đại quang-minh, hoặc thấy ta chấn động cõi Phật, hoặc 
	sanh e sợ, hoặc sanh hoan-hỉ thảy đều thanh-thục. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ta dùng phật-sát vi-trần-số môn phương-tiện như vậy, làm 
	cho các chúng-sanh chẳng thối chuyển nơi vô-thượng bồ-đề. 
	
	Nếu có chúng-sanh nào thấy nghe cõi thanh-tịnh của ta thời tất được sanh 
	trong cõi thanh-tịnh nầy. 
	
	Nếu có chúng-sanh nào thấy nghe thân thanh-tịnh của ta thời tất được sanh 
	trong thân thanh-tịnh của ta. 
	
	Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi nên quan-sát thân thanh-tịnh của ta đây. 
	
	Thiện-Tài quán-sát tướng-hảo chi tiết nơi thân Phổ-Hiền Bồ-Tát. Trong mỗi 
	mỗi lỗ lông đều có bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát-hải. Mội mỗi 
	sát-hải đều có chư Phật xuất thế và chúng-hội Bồ-Tát. 
	
	Và lại thấy tất cả sát-hải đó: những kiến lập, những hình trạng, những 
	trang-nghiêm, những đại-sơn bao quanh, những sắc mây che trùm hư-không, 
	những Phật Như-Lai xuất thế thuyết những pháp-luân. 
	
	Lại thấy ở trong mỗi mỗi thế-giới hải, Phổ-Hiền xuất hiện tất cả phật-sát 
	vi-trần-số phật-hóa thân-vân, cùng khắp thập phương tất cả thế-giới giáo hóa 
	chúng-sanh khiến hướng về vô-thượng bồ-đề. 
	
	Bấy giờ Thiện-Tài lại thấy tự thân ở trong thân Phổ-Hiền giáo-hóa chúng-sanh 
	trong mười phương tất cả thế-giới. 
	
	Bao nhiêu thiện-căn trí-huệ quang-minh của Thiện-Tài đã được, khi thân cận 
	phật-sát vi-trần-số chư thiện-tri-thức, sánh với thiện-căn khi thấy Phổ-Hiền 
	Bồ-Tát mà được, thời không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm 
	ngàn, một phần trăm ngàn ức, nhẫn đến không bằng một phần toán-số thí-dụ. 
	
	Trong một niệm mà hiện nay Thiện-Tài nhập sát-hải của chư Phật ở trong một 
	lỗ lông của Phổ-Hiền, sánh với thời-gian từ sơ phát tâm đến nay đã nhập 
	sát-hải, thời nhiều hơn đến số bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát 
	vi-trần. Như nơi một lỗ lông, tất cả lỗ lông cũng đều như vậy. 
	
	Trong lỗ lông của Phổ-Hiền Bồ-Tát, Thiện-Tài bước một bước qua khỏi 
	bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế-giới, đi mãi như vậy 
	tột thuở vi-lai vẫn còn chẳng biết được thứ đệ sát-hải của trong một lỗ 
	long, 
	
	Cũng chẳng biết ngằn mé của sát-hải-tạng, sát-hải sai-biệt, sát-hải 
	phổ-nhập, sát-hải-thành, sát-hải-hoại, sát-hải trang-nghiêm. Cũng chẳng biết 
	được ngằn mé của phật-hải thứ đệ, phật-hải tạng, phật-hải sai-biệt, phật-hải 
	phổ nhập, phật-hải sanh, phật-hải-diệt. 
	
	Cũng chẳng biết được ngằn mé của bồ-tát-chúng-hải thứ đệ, bồ-tát-chúng-hải 
	tạng, bồ-tát chúng-hải sai-biệt, bồ-tát chúng-hải phổ nhập, bồ-tát chúng-hải 
	tập, bồ-tát chúng-hai tán. 
	
	Cũng chẳng thể biết ngằn mé của trí nhập chúng-sanh-giới, biết căn chúng 
	sanh, giáo-hóa điều-phục chúng-sanh, chỗ trụ thậm-thâm tự-tại của Bồ-Tát 
	những địa những đạo của Bồ-Tát nhập. 
	
	Nơi sát hải trong lỗ lông của Phổ-Hiền Bồ-Tát, Thiện-Tài đi như vậy hoặc nơi 
	một cõi trải qua một kiếp, nhẫn đến hoặc trải qua bất-khả-thuyết 
	bất-khả-thuyệt phật-sát vi-trần-số kiếp mà đi như vậy. 
	
	Cũng chẳng mất nơi đây mà hiện nơi kia. Mỗi niệm Thiện-Tài cùng khắp vô-biên 
	sát-hải giáo-hóa chúng-sanh khiến họ hướng về vô-thượng bồ-đề. 
	
	Đương lúc đó, Thiện-Tài thứ đệ được những hạnh-nguyện-hải của Phổ-Hiền 
	Bồ-Tát, đồng với Phổ-Hiền, đồng với chư Phật một thân sung-mãn tất cả 
	thế-giới, đồng quốc-độ, đồng hạnh, đồng chánh-giác, đồng thần-thông, đồng 
	pháp-luân, đồng biện-tài, đồng ngôn từ, đồng âm thanh, đồng lực vô-úy, đồng 
	phật-sở-trụ, đồng đại từ-bi, bất-tư-nghì giải-thoát tự-tại đều đồng. Lúc đó 
	Phổ-Hiền đại Bồ-Tát liền nói kệ rằng: 
	
	Các ngài phải trừ những phiền-não 
	
	Nhất tâm bất loạn mà lắng nghe 
	
	Tôi nói Như-Lai đủ các độ 
	
	Tất cả đạo chân-thiệt giải-thoát. 
	
	Xuất thế điều nhu Thắng-Trượng-Phu 
	
	Trong lòng thanh-tịnh như hư-không 
	
	Hằng phóng trí-nhật đại quang-minh 
	
	Khiến khắp quần-sanh diệt si ám. 
	
	Như-Lai rất khó được thấy nghe 
	
	Vô-lượng ức kiếp nay mới gặp 
	
	Như hoa ưu-đàm một lần hiện 
	
	Vì thế nên nghe Phật công-đức. 
	
	Tùy thuận việc làm của thế-gian 
	
	Ví như thuật-sĩ hiện những sự 
	
	Chỉ để làm vui lòng chúng-sanh 
	
	Chưa từng phân-biệt khởi tưởng niệm. 
	
	Chư Bồ-Tát nghe lời kệ trên đây, tất cả đều khát ngưỡng mong được nghe 
	công-đức chơn-thiệt của đức Thế-Tôn, đều nghĩ rằng: Phổ-Hiền Bồ-Tát tu đủ 
	các hạnh, thể tánh thanh-tịnh, những lời nói ra đều chẳng hư luống, tất cả 
	Như-Lai đều khen ngợi ngài. 
	
	Phổ-Hiền Bồ-Tát công-đức trí-huệ trang-nghiêm đầy đủ, như hoa sen chẳng dính 
	trần, cấu tam-giới. Ngài bảo chúng Bồ-Tát rằng: Các ngài lắng nghe! Nay tôi 
	muốn nói tướng một giọt trong biển công-đức của Phật. 
	
	Phổ-Hiền Bồ-Tát liền nói kệ rằng: 
	
	Phật-trí rộng lớn đồng hư-không 
	
	Khắp cùng tất cả tâm chúng-sanh 
	
	Đều rõ thế-gian những vọng-tưởng 
	
	Chẳng khởi những phân-biệt sai khác. 
	
	Một niệm đều biết pháp tam thế 
	
	Cũng rõ tất cả căn chúng-sanh 
	
	Ví như nhà ảo-thuật thiện-xảo 
	
	Mỗi niệm thị-hiện vô-biên sự. 
	
	Tùy tâm chúng-sanh hiện những hạnh 
	
	Thuở xưa các nghiệp, sức thệ nguyện 
	
	Khiến họ thấy biết đều chẳng đồng 
	
	Mà Phật bổn-lai không động niệm. 
	
	Hoặc có xứ xứ thấy Phật ngồi 
	
	Sung mãn thập phương các thế-giới, 
	
	Hoặc có chúng-sanh tâm bất tịnh 
	
	Trong vô lượng kiếp chẳng thấy Phật. 
	
	Hoặc có tín giải rời kiêu mạn 
	
	Phát ý liền được thấy Như Lai, 
	
	Hoặc kẻ siểm cuống tâm bất-tịnh 
	
	Ức kiếp tìm cầu chẳng thấy Phật. 
	
	Hoặc người mọi xứ nghe tiếng Phật 
	
	Âm thanh mỹ Diệu làm tâm vui, 
	
	Hoặc kẻ trăm ngàn muôn ức kiếp 
	
	Vì tâm bất tịnh chẳng được nghe. 
	
	Hoặc thấy thanh-tịnh Đại Bồ-Tát 
	
	Đầy khắp Tam-thiên đại-thiên giới 
	
	Đều đã đầy đủ hạnh Phổ-Hiền 
	
	Trong đó Như-Lai nghiễm nhiên tọa. 
	
	Hoặc thấy cõi nầy diệu vô-tỷ 
	
	Phật vô-lượng kiếp đã nghiêm tịnh 
	
	Tỳ-Lô-Giá-Na Tối-Thắng-Tôn 
	
	Trong đây đại ngộ thành Chánh-Giác. 
	
	Hoặc-thấy Liên-Hoa cõi thắng-diệu 
	
	Hiền-Thủ Như-Lai ở trong đó 
	
	Vô-lượng Bồ Tát chúng vi-nhiễu 
	
	Thảy đều siêng tu hạnh Phổ-Hiền. 
	
	Hoặc có thấy Phật Vô-lượng-thọ 
	
	Quan Âm Thế-Chí hầu hai bên 
	
	Đều bậc quán-Đảnh Bổ-xứ cả 
	
	Sung mãn mười phương các quốc độ. 
	
	Hoặc có thấy cõi Đại-Thiên nầy 
	
	Thanh-tịnh trang-nghiêm như Diệu-Hỉ 
	
	A-Súc Như-Lai ngự tại đây 
	
	Chúng đại Bồ-Tát bao quanh Phật. 
	
	Hoặc thấy Nguyệt-Giác Danh-Xưng Phật 
	
	Cùng Kim-Cang-Tràng chư Bồ-Tát 
	
	Ở cõi Viên-Cảnh Diệu-Trang-Nghiêm 
	
	Khắp đến mười phương các quốc-độ. 
	
	Hoặc thấy Nhựt-Tạng Phật Thế-Tôn 
	
	Ở cõi thanh-tịnh Thiện-Quang-Minh 
	
	Cùng với quán-đảnh chư Bồ-Tát 
	
	Sung mãn mười phương mà thuyết pháp. 
	
	Hoặc thấy Kim-Cang-Đại-Diệm Phật 
	
	Câu hội với Trí-Tràng Bồ-Tát 
	
	Châu hành tất cả cõi quảng đại 
	
	Thuyết pháp diệt trừ chúng-sanh-mê. 
	
	Mỗi mỗi đầu lông bất-khả-thuyết 
	
	Chư Phật tướng hảo ba mươi hai 
	
	Bồ-Tát quyến-thuộc đồng vây quanh 
	
	Vì độ chúng-sanh luôn thuyết pháp. 
	
	Hoặc có xem thấy một lỗ lông 
	
	Đầy đủ cõi trang-nghiêm quảng đại 
	
	Vô-luợng Như-Lai đều ở trong 
	
	Thanh-tịnh phật-tử đều sung-mãn. 
	
	Hoặc có thấy trong một vi-trần 
	
	Có đủ hằng-sa Phật quốc-độ 
	
	Vô-lượng Bồ-Tát đều sung-mãn 
	
	Bất-khả-thuyết kiếp tu các hạnh. 
	
	Hoặc có thấy chỗ một đầu lông 
	
	Vô-lượng trần-sa những sát-hải 
	
	Bao nhiêu nghiệp khởi đều sai khác 
	
	Tỳ-Lô-Giá-Na chuyển pháp-luân. 
	
	Hoặc thấy thế-giới chẳng thanh-tịnh 
	
	Hoặc thấy thanh-tịnh báu làm thành 
	
	Như-Lai trụ thọ lâu vô-lượng 
	
	Nhẫn đến niết-bàn đều hiện đủ. 
	
	Cùng khắp mười phương các thế-giới 
	
	Thị hiện nhiều thứ bất-tư-nghì 
	
	Tùy các chúng-sanh tâm trí nghiệp 
	
	Thảy đều hóa độ khiến thanh-tịnh. 
	
	Vô-Thượng Đạo-Sư như vậy thảy 
	
	Sung-mãn thập phương các quốc-độ 
	
	Thị-hiện nhiều loại thần-thông-lực 
	
	Tôi nói một ít ngài nên nghe. 
	
	Hoặc thấy Thích-Ca thành Phật-đạo 
	
	Đã trải kiếp số bất-tư-nghì, 
	
	Hoặc thấy nay mới làm Bồ-Tát 
	
	Mười phương lợi ích các chúng-sanh. 
	
	Hoặc người lại thấy Thích Sư-Tử 
	
	Cúng-dường chư Phật tu đạo hạnh, 
	
	Hoặc thấy Thế-Tôn đủ phước trí 
	
	Hiển hiện những sự đại thần-thông. 
	
	Hoặc thấy bố-thí, hoặc trì giới, 
	
	Hoặc nhẫn, tinh-tấn, hoặc thiền định, 
	
	Bát-nhã, phương-tiện, nguyện, lực, trí 
	
	Tùy tâm chúng-sanh đều thị-hiện. 
	
	Hoặc thấy rốt ráo ba-la-mật 
	
	Hoặc thấy an trụ ở các địa 
	
	Tổng-trì, tam-muội, thần-thông trí 
	
	Như vậy đều hiện đầy đủ cả. 
	
	Hoặc hiện tu hành vô-lượng kiếp 
	
	Trụ nơi bồ-tát, bậc kham-nhẫn 
	
	Hoặc hiện trụ nơi bực bất-thối 
	
	Hoặc hiện pháp-thủy rưới trên đầu. 
	
	Hoặc hiện thân Phạm, Thích Tứ Vương 
	
	Hoặc hiện Sát-Lợi, Bà-La-Môn, 
	
	Nhiều loại sắc tướng thân trang-nghiêm 
	
	Dường như thuật-sĩ hiện hình tượng. 
	
	Hoặc hiện Đâu-Suất mới giáng thần 
	
	Hoặc thấy trong cung thọ dục lạc 
	
	Hoặc thấy rời bỏ những vinh hoa 
	
	Xuất gia lìa tục đi học đạo. 
	
	Hoặc thấy mới sanh, hoặc thấy chết, 
	
	Hoặc thấy xuất gia học dị-hạnh 
	
	Hoặc thấy ngồi dưới cội Bồ-Đề 
	
	Hàng phục ma-quân thành Chánh-Giác. 
	
	Hoặc lại thấy Phật mới niết-bàn 
	
	Hoặc thấy dựng tháp khắp thế-gian 
	
	Hoặc thấy trong tháp thờ tượng Phật 
	
	Vì biết thời cơ hiện như vậy. 
	
	Hoặc thấy Như-Lai Vô-Lượng-Thọ 
	
	Thọ Phật ký cho chư Bồ-Tát 
	
	Mà thành vô-thượng Đại-Đạo-Sư 
	
	Kế bổ nhậm ở cõi An-Lạc. 
	
	Hoặc thấy vô-lượng ngàn ức kiếp 
	
	Phật-sự đã xong nhập niết-bàn 
	
	Hoặc thấy nay mới thành bồ-đề 
	
	Hoặc thấy chánh tu những diệu-hạnh. 
	
	Hoặc thấy Như-Lai Thanh-Tịnh Nguyệt 
	
	Ở tại Phạm-Thế và Ma-Cung, 
	
	Tư-Tại Thiên-Cung, Hóa-Lạc-Cung, 
	
	Thị-hiện thần-thông những biến-hóa. 
	
	Hoặc thấy ở tại cung Đâu-Suất 
	
	Vô-lượng chư Thiên-đồng vây quanh 
	
	Vì họ thuyết pháp cho hoan-hỉ 
	
	Chư Thiên phát tâm cúng-dường Phật. 
	
	Hoặc thấy ở tại Dạ-Ma Thiên 
	
	Đao-Lợi, Tứ-Thiên, cung Long Thần, 
	
	Nơi cung-điện Thiên, Long, Bát-Bộ 
	
	Không chỗ nào Phật chẳng hiện thân. 
	
	Ở chỗ Nhiên-Đăng Phật Thế-Tôn 
	
	Rải hoa, trải tóc để cúng-dường 
	
	Từ đây biết rõ pháp thâm diệu 
	
	Hằng dùng đạo nầy độ quần-sanh. 
	
	Hoặc người thấy Phật lâu niết-bàn, 
	
	Hoặc thấy Phật mới thành bồ-đề, 
	
	Hoặc thấy Phật trụ vô-lượng kiếp 
	
	Hoặc thấy giây lát liền nhập diệt. 
	
	Thân-tướng quang-minh cùng thọ-mạng 
	
	Trí-huệ bồ-đề và niết-bàn 
	
	Chúng-hội được độ, tiếng oai-nghi 
	
	Mỗi mỗi như vậy đều vô-số. 
	
	Hoặc hiện thân mình rất rộng lớn 
	
	Như núi Tu-Di, Đại-Bửu Sơn, 
	
	Hoặc thấy Phật ngồi chẳng động lay 
	
	Sung-mãn vô-biên những thế-giới. 
	
	Hoặc thấy viên-quang lượng một tầm 
	
	Hoặc thấy ngàn vạn ức do-tuần 
	
	Hoặc thấy chiếu khắp vô-lượng cõi 
	
	Hoặc thấy sung mãn tất cả cõi. 
	
	Hoặc thấy Phật thọ tám mươi năm 
	
	Hoặc thấy thọ ngàn muôn ức tuổi 
	
	Hoặc thọ bất-khả-tư-nghì kiếp 
	
	Như vậy lần lượt bội hơn đây. 
	
	Phật-trí thông đạt tịnh vô-ngại 
	
	Một niệm biết khắp pháp tam-thế 
	
	Đều từ tâm thức nhơn duyên sanh 
	
	Sanh diệt vô-thường không tự-tánh. 
	
	Ở trong một cõi thành Chánh-Giác 
	
	Ở tất cả cõi cũng đều thành 
	
	Tất cả vào một, một vào khắp 
	
	Tùy tâm chúng-sanh đều thị-hiện. 
	
	Như-Lai trụ nơi đạo vô thượng 
	
	Thành-tựu thập-lực, tứ vô-úy 
	
	Đầy đủ trí-huệ không chướng-ngại 
	
	Chuyển thập nhị hành chánh pháp-luận. 
	
	Biết rõ khổ, tập và diệt, đạo 
	
	Phân biệt mười hai pháp nhơn duyên 
	
	Pháp, nghĩa, từ, nhạo-thuyết vô-ngại 
	
	Dùng biện-tài đây khai diễn rộng. 
	
	Các pháp không ngã, không có tướng 
	
	Nghiệp tánh chẳng sanh cũng chẳng mất 
	
	Tất cả xa lìa như hư-không 
	
	Phật dùng phương-tiện để phân biệt. 
	
	Như-Lai như vậy chuyển pháp-luân 
	
	Chấn khắp mười phương các quốc-độ 
	
	Cung-điện núi sông đều động lay 
	
	Chúng-sanh hoan-hỉ chẳng kinh sợ. 
	
	Phật diễn pháp-âm khắp rộng lớn 
	
	Tùy căn chúng-sanh đều khiến hiểu 
	
	Đều khiến phát tâm trừ hoặc cấu 
	
	Nhưng Phật chưa từng sanh tâm niệm. 
	
	Hoặc nghe Phật diễn thí, giới, nhẫn, 
	
	Tấn, định, bát-nhã, phương-tiện, trí, 
	
	Hoặc nghe từ, bi và hỉ, xả, 
	
	Ngôn từ thuyết pháp đều sai khác. 
	
	Hoặc nghe tứ niệm, tứ chánh-cần, 
	
	Thần-túc, căn, lực và giác đạo, 
	
	Niệm, huệ, thần-thông và chỉ, quán 
	
	Vô-lượng phương-tiện những pháp-môn. 
	
	Long, Thần, Bát-Bộ, Nhơn, Phi-Nhơn, 
	
	Phạm, Thích, Hộ-Thế, các Thiên-Chúng, 
	
	Phật dùng nhất âm để thuyết pháp 
	
	Chúng-sanh tùy loại đều được hiểu. 
	
	Nếu có tham dục, sân và si 
	
	Phẩn, phú, xan, tật và kiêu, siểm 
	
	Tám muôn bốn ngàn phiền não chướng 
	
	Đều nghe Phật dạy pháp chữa trị. 
	
	Nếu chưa tu đủ pháp bạch-tịnh 
	
	Khiến họ nghe nói mười giới-hạnh, 
	
	Đã hay bố-thí điều-phục người 
	
	Cho nghe tiếng niết-bàn tịch-diệt. 
	
	Nếu người chí kém, không từ mẫn 
	
	Nhàm ghét sanh-tử, tụ cầu lìa 
	
	Khiến họ nghe nói tam thoát-môn 
	
	Cho họ thoát khổ, hưởng tịch-diệt. 
	
	Nếu người tự-tánh ít tham dục 
	
	Nhàm bỏ ba cõi cầu tịch tịnh 
	
	Khiến họ nghe nói các duyên-khởi 
	
	Theo độc-giác-thừa để xuất ly. 
	
	Nếu người thanh-tịnh tâm quảng-đại 
	
	Đầy đủ thí giới các công-đức 
	
	Thân-cận Như-Lai đủ từ bi 
	
	Khiến họ nghe tiếng đại-thừa-đạo. 
	
	Hoặc có quốc-độ nghe nhất-thừa 
	
	Hoặc nhị, hoặc tam, hoặc tứ, ngũ 
	
	Như vậy nhẫn đến vô-lượng thừa 
	
	Đều là Như-Lai phương-tiện-lực. 
	
	Niết-bàn tịch-tịnh chưa tùng khác, 
	
	Trí hạnh thắng liệt có sai khác, 
	
	Như hư-không thể tánh là một 
	
	Chim bay gần xa tự sai khác. 
	
	Phật thể âm-thanh cũng duy nhứt 
	
	Phổ biến tất cả cõi hư-không, 
	
	Tùy tâm chúng-sanh sai khác nhau 
	
	Nên nghe và thấy cũng tự khác. 
	
	Do Phật quá-khứ tu công hạnh 
	
	Hay theo sở-thích diễn diệu-âm 
	
	Không lòng tính nghĩ đây và kia 
	
	Ai là đáng nói, ai thời không. 
	
	Nơi mặt Như-Lai phóng đại quang 
	
	Đủ số tám muôn bốn ngàn sáng 
	
	Pháp-môn Phật nói cũng như vậy 
	
	Chiếu khắp thế-giới trừ phiền-não. 
	
	Đầy đủ thanh-tịnh công-đức trí 
	
	Mà thường tùy thuận tam thế Phật 
	
	Ví như hư-không chẳng nhiễm trước 
	
	Vì chúng-sanh nên Phật xuất hiện. 
	
	Hiện có sanh lão bệnh tử khổ 
	
	Cũng hiện trụ thọ ở thế-gian 
	
	Dầu thuận thế-gian hiện như vậy 
	
	Thể tánh thanh-tịnh đồng hư-không. 
	
	Tất cả quốc-độ vô-lượng biên 
	
	Chúng-sanh căn dục cũng vô-lượng 
	
	Trí-nhãn Như-Lai đều thấy rõ 
	
	Tùy theo cơ nghi dạy Phật-đạo. 
	
	Cùng khắp hư-không mười phương cõi 
	
	Bao nhiêu Trời, Người, trong đại chúng 
	
	Theo thân hình họ đều chẳng đồng 
	
	Phật hiện thân hình cũng như vậy. 
	
	Nếu ở trong đại hội Sa-Môn 
	
	Cạo bỏ tóc râu mặc ca-sa 
	
	Đắp y, cầm bát nhiếp các căn 
	
	Cho họ hoan-hỷ trừ phiền-não. 
	
	Có lúc thân-cận Ba-La-Môn 
	
	Vì họ Phật hiện thân gầy ốm 
	
	Chống gậy mang bình hằng trong sạch 
	
	Đầy đủ trí-huệ giảng nói giỏi. 
	
	Nhả cũ nuốt mới tự no đủ 
	
	Hớp gió uống sương không ăn nuốt 
	
	Hoặc ngồi hoặc đứng chẳng động lay 
	
	Hiện tu khổ-hạnh dẹp ngoại-đạo. 
	
	Hoặc trì giới cấm làm thế-sư 
	
	Khéo thông phương thuốc các môn luận 
	
	Toán số, thiên-văn, địa-lý, tướng 
	
	Những điều lành dữ đều biết rõ. 
	
	Thâm nhập các thiền và giải-thoát 
	
	Tam-muội, thần-thông, trí-huệ, hạnh 
	
	Luận bàn, ngâm vịnh và đùa vui 
	
	Phương-tiện dẫn họ vào phật-đạo. 
	
	Hoặc hiện thượng-phục để nghiêm thân 
	
	Đầu đội mão xinh, che lọng tốt 
	
	Binh-chủng trước sau theo hộ vệ 
	
	Ra oai hùng mãnh phục Tiểu-Vương. 
	
	Hoặc làm quan tòa đoán kiện tụng 
	
	Giải quyết thế-pháp đều hay giỏi 
	
	Hoặc thưởng hoặc phạt đều công minh 
	
	Cho họ tất cả đều vui phục. 
	
	Hoặc làm Đại-Thần chuyên phụ bật 
	
	Giỏi dùng chánh-trị an lê-dân 
	
	Lợi ích mười phương đều cùng khắp 
	
	Tất cả chúng-sanh chẳng rõ biết. 
	
	Hoặc làm Túc-Tán Tiểu-quốc-Vương 
	
	Hoặc làm Đại-Đế Chuyển-Luân-Vương 
	
	Khiến các Vương-Tử cùng thể-nữ 
	
	Đều theo chánh-pháp, không ai biết. 
	
	Hoặc làm Hộ-Thế Tứ-Thiên-Vương 
	
	Thống lãnh Dạ-Xoa, Long-Thần thảy 
	
	Vì chúng hội đó mà thuyết pháp 
	
	Đều khiến tất cả đồng vui thích. 
	
	Hoặc làm Đạo-Lợi Đại-Thiên-Vương 
	
	Ở Thiện-Pháp-Đường, vườn Hoan-Hỉ 
	
	Đầu đội thiên-quan diễn pháp mầu 
	
	Chư Thiên ngưỡng mộ chẳng lường được. 
	
	Hoặc trụ Dạ-Ma, Đâu-Suất thiên 
	
	Hóa-Lạc, Tự-Tại, cung Ma-Vương 
	
	Ngự cung Ma-Ni, điện trân-bửu 
	
	Giảng pháp chơn thiệt khiến điều-phục. 
	
	Hoặc đến trong chúng hội Phạm-Thiên 
	
	Nói tứ-vô-lượng, các thiền định 
	
	Cho họ hoan-hỉ, bèn bỏ đi 
	
	Không ai biết được tướng qua lại. 
	
	Hoặc đến Sắc-Cứu-Cánh thiên-cung 
	
	Để giảng giác-phần những bửu-hoa 
	
	Cùng những vô-lượng thánh-công-đức 
	
	Sau đó bỏ đi chẳng ai biết. 
	
	Phật-trí vô-ngại thấy khắp nơi 
	
	Trong đó tất cả những hàm-thức 
	
	Đều dùng vô-biên phương-tiện môn 
	
	Nhiều cách giáo-hóa khiến thành-tựu. 
	
	Ví như thuật-sĩ giỏi ảo thuật 
	
	Hiện ra các thứ hình tượng huyễn, 
	
	Phật hóa chúng-sanh cũng như vậy 
	
	Vì họ mà hiện nhiều thân hình. 
	
	Ví như trăng sáng giữa hư-không 
	
	Thế-gian chúng-sanh thấy tròn khuyết 
	
	Tất cả sông ao hiện bóng trăng 
	
	Tất cả tinh tú bị khuất sáng. 
	
	Như-Lai trí-nguyện hiện thế-gian 
	
	Cũng dùng phương-tiện hiện tăng giảm 
	
	Tâm-thủy Bồ-Tát hiện bóng Phật 
	
	Thanh-Văn, Duyên-Giác khuất quang sắc. 
	
	Như trong đại-hải đầy châu báu 
	
	Trong sạch không nhơ không hạn lượng 
	
	Bao nhiêu chúng-sanh ở bốn châu 
	
	Tất cả hiện bóng ở trong biển. 
	
	Phật-thân công-đức cũng như vậy 
	
	Không nhơ không đục không ngằn mé 
	
	Nhẫn đến pháp-giới các chúng-sanh 
	
	Không ai chẳng hiện trong thân Phật. 
	
	Ví Như mặt nhật phóng quang-minh 
	
	Chẳng rời bổn-xứ chiếu mười phương, 
	
	Phật-quang chiếu khắp cũng như vậy 
	
	Không khứ không lai trừ si tối. 
	
	Ví như Long-Vương tuôn mưa lớn 
	
	Chẳng từ thân ra, chẳng từ tâm 
	
	Mà mưa cùng khắp đều nhuần thấm 
	
	Trừ hết viêm nhiệt được thanh-lương. 
	
	Như-Lai pháp-vũ cũng như vậy 
	
	Chẳng từ thân tâm Phật phát ra 
	
	Mà hay khai ngộ tất cả chúng 
	
	Khiến khắp diệt trừ lửa tam độc. 
	
	Như-Lai thanh-tịnh diệu-pháp-thân 
	
	Tất cả ba cõi không gì sánh 
	
	Vì ngoài đường ngôn ngữ thế-gian 
	
	Bởi tánh phi-hữu phi-vô vậy. 
	
	Dầu không sở-y mà ở khắp, 
	
	Dầu đến tất cả mà không đi, 
	
	Như vẽ không trung, cảnh trong mộng, 
	
	Phải quán thân Phật là như vậy. 
	
	Những pháp có, không, trong ba cõi 
	
	Chẳng thể ví-dụ cùng Phật được, 
	
	Ví như chim muông trong núi rừng 
	
	Không nương không-gian mà ở được. 
	
	Đại hải ma-ni vô-lượng màu, 
	
	Thân Phật sai khác cũng như vậy, 
	
	Như-Lai phi-sắc phi-phi-sắc 
	
	Tùy nghi mà hiện, không sở-trụ. 
	
	Hư-không, chơn-như và thiệt-tế, 
	
	Niết-bàn, pháp-tánh, tịch-diệt thảy 
	
	Chỉ có những pháp chơn thiệt nầy 
	
	Khả dĩ hiển thị được Như-Lai. 
	
	Sát-trần tâm niệm đếm biết được, 
	
	Nước trong đại-hải uống hết được, 
	
	Hư-không lường được, gió buộc được, 
	
	Không thể nói hết công-đức Phật. 
	
	Nếu ai nghe biển công-đức nầy 
	
	Mà sanh lòng vui mừng xin tin hiểu 
	
	Tất sẽ được những công-đức nầy 
	
	Thận trọng chớ sanh lòng ngờ vực. 
	
	40 (1). – Hán bộ quyển thứ bảy mươi lăm. 
	
	41 (1). – Hán bộ quyển thứ bảy mươi sáu. 
	
	50 (1). – Hán bộ quyển thứ bảy mươi bảy. 
	
	(1). – Hán bộ quyển thứ bảy mươi tám. 
	
	(1). – Hán bộ quyển thứ bảy mươi chín. 
	
	52 (1) – Hán bộ quyển thứ tám mươi. 
	
	40 (1) page 210 
	
	41 (1) page 276 
	
	50 (1) page 337 
	
	(1) page 407 
	
	(1) page 458 
	
	52 (1) page 498 
	  | 
| 
	 | « Trang Trước Trang Kế » |