| 
	 | 
	  Kinh Hoa Nghiêm 
	Phẩm Tịnh Hạnh Thứ mười một Hán Dịch: Ðại-Sư 
	Thật-Xoa-Nan-Ðà 
 
	Lúc bấy giờ Trí-Thủ Bồ-Tát hỏi Văn-Thù-Sư-Lợi 
	Bồ-Tát: 'Phật-tử! Bồ-Tát làm thế nào thân, ngữ, ý, ba nghiệp được không lỗi 
	lầm? Thân, ngữ, ý, ba nghiệp được chẳng tổn hại? Thân, ngữ, ý, ba nghiệp 
	được không thể bị hủy hoại? Thân, ngữ, ý, ba nghiệp được bất thối chuyển? 
	Thân, ngữ, ý, ba nghiệp được chẳng dao động? Thân, ngữ, ý ba nghiệp được 
	thù-thắng? Thân, ngữ, ý ba nghiệp được thanh tịnh? Thân, ngữ, ý, ba nghiệp 
	được vô nhiễm? Thân, ngữ, ý, ba nghiệp được trí dẫn đạo? 
	 Bồ-Tát 
	làm thế nào được sanh-xứ đầy đủ? Chủng-tộc đầy đủ? Gia-thế đầy đủ? Sắc-thân 
	đầy đủ? Tướng mạo đầy đủ? Niệm đầy đủ? Huệ đầy đủ? Hạnh đầy đủ? Vô-úy đầy 
	đủ? Giác-ngộ đầy đủ? 
	 Bồ-Tát 
	làm thế nào được thắng-huệ? Được đệ-nhứt-huệ? Được tối-thượng-huệ? Được 
	tối-thắng-huệ? Được vô-lượng-huệ? Được vô-số-huệ? Được bất-tư-nghì-huệ, Được 
	vô-giữ-đẳng-huệ ? Được bất-khả-lượng huệ? Được bất-khả-thuyết huệ? 
	 Bồ-Tát 
	làm thế nào được: nhơn-lực, duyên-lực, dục-lực, phương-tiện-lực, 
	sở-duyên-lực, căn-lực, quan-sát-lực, xa-ma-tha-lực, tỳ-bát-xá-na-lực, 
	tư-duy-lực? 
	 Bồ-Tát 
	làm thế nào được: uẩn thiện-xảo, xứ thiện-xảo, giới thiện-xảo, duyên-khởi 
	thiện-xảo, dục-giới thiện-xảo, sắc-giới thiện-xảo, vô-sắc-giới thiện-xảo, 
	quá-khứ thiện-xảo, vị-lai thiện-xảo, hiện-tại thiện-xảo? 
	 Bồ-Tát 
	làm thế nào khéo tu tập: niệm giác-phần, trạch-pháp giác-phần, tinh-tấn 
	giác-phần, hỉ giác-phần, khinh an giác phần, định giác phần, xả giác-phần, 
	không giác-phần, vô-tướng giác-phần, vô-nguyện giác-phần? 
	 Bồ-Tát 
	làm thế nào được viên-mãn: đàn ba-la-mật, thi ba-la-mật, sằn-đề ba-la-mật, 
	tỳ-lê-gia ba-la-mật, thiền-na ba-la-mật, thiền-na ba-la-mật, bát-nhã 
	ba-la-mật, từ, bi, hỉ, xả? 
	 Bồ-Tát 
	làm thế nào được thập lực : xứ-phi-xứ trí-lực, quả-vị hiện-tại nghiệp-báo 
	trí-lực, căn thắng liệt trí-lực, chủng-chủng giới trí-lực, chủng-chủng giải 
	trí-lực, nhứt-thiết-chí-xứ-đạo trí-lực, thiền giải-thoát tam-muội nhiễm tịnh 
	trí-lực, túc-trụ-niệm trí-lực, vô-chướng-ngại thiên-nhãn trí-lực, đoạn chư 
	tập trí-lực? 
	 Bồ-Tát 
	làm thế nào thường được sự thủ-hộ cung kính cúng-dường của: Thiên-Vương, 
	Long-Vương, Dạ-Xoa-Vương, Càn-thát-bà-Vương, A-tu-la-Vương, Ca-lâu-la-Vương, 
	Khẩn-na-la-Vương, Ma-hầu-la-già-Vương, Nhơn-Vương, Phạm-Vương? 
	 Bồ-Tát 
	làm thế nào được mình là những chỗ: y-tựa, cứu-độ, chỗ về, chỗ đến, là đuốc, 
	là sáng, là soi, là dẫn đạo, thắng đạo, phổ đạo cho tất cả chúng-sanh? 
	 Đối 
	với tất cả chúng-sanh, Bồ-Tát làm thế nào là: đệ-nhứt, là lớn, là thắng, là 
	tối-thắng, là diệu, là cực-diệu, là thượng, là vô-thượng, là vô-đẳng, là 
	vô-đẳng-đẳng? 
	 Văn-Thù-Sư-Lợi 
	Bồ-Tát bảo Trí-Thủ Bồ-Tát: 'Lành thay Phật-tử! Nay ngài vì muốn nhiều 
	lợi-ích, nhiều an-ổn, thương xót thế-gian, lợi-lạc thiên-nhơn mà hỏi những 
	nghĩa như vậy. 
	 Phật-tử! 
	Nếu Bồ-Tát khéo dụng tâm thời được tất cả công-đức thắng-diệu, nơi phật-pháp 
	được tâm vô-ngại, được trụ nơi đạo của tam-thế chư Phật, trụ theo chúng-sanh 
	hằng không bỏ rời, đều có thể thông-đạt đúng các pháp-tướng, dứt tất cả điều 
	ác, đầy đủ tất cả điều lành, sẽ được hình sắc đệ-nhứt như Phổ-Hiền, đầy đủ 
	tất cả hạnh-nguyện, với tất cả pháp đều được tự-tại, sẽ là đạo-sư thứ hai 
	của chúng-sanh. 
	 Phật-tử! 
	Bồ-Tát dụng tâm thế nào mà có thể được tất cả thắng-diệu công-đức? 
	 Phật-tử 
	lóng nghe đây: 
	 Bồ-Tát 
	ở nhà, nên nguyện chúng-sanh, biết nhà tánh không, khỏi sự bức ngặt. 
	 Hiếu 
	thờ cha mẹ, nên nguyện chúng-sanh, kính thờ chư Phật, hộ dưỡng tất cả. 
	 Vợ con 
	hội họp, nên nguyện chúng-sanh, oán thân bình-đẳng, lìa hẳn tham trước. 
	 Nếu 
	được ngũ-dục, nên nguyện chúng-sanh, nhổ mũi tên dục, rốt ráo an-ổn. 
	 Kỹ 
	nhạc tụ hội, nên nguyện chúng-sanh, vui nơi chánh-pháp, rõ nhạc chẳng thật. 
	 Nếu ở 
	cung thất, nên nguyện chúng-sanh, vào nơi thánh-địa, trừ hẳn uế-dục. 
	 Lúc 
	đeo trang-sức, nên nguyện chúng-sanh, bỏ tư-trang giả, đến chỗ chơn thật. 
	 Lên 
	trên lâu-các, nên nguyện chúng-sanh, lên lầu chánh-pháp, thấy suốt tất cả. 
	 Nếu có 
	bố-thí, nên nguyện chúng-sanh, bỏ được tất cả, lòng không ái trước. 
	 Chúng-hội 
	tu-tập, nên nguyện chúng-sanh, xả những tụ pháp, thành nhứt-thiết-trí. 
	 Nếu ở 
	ách nạn, nên nguyện chúng-sanh, tùy ý tự-tại, chỗ làm vô-ngại. 
	 Lúc bỏ 
	cư-gia, nên nguyện chúng-sanh, xuất-gia vô-ngại, tâm được giải-thoát. 
	 Vào 
	tăng già-lam, nên nguyện chúng-sanh, diễn-thuyết các thứ pháp không tranh 
	cãi. 
	 Đến 
	đại, tiểu sư, nên nguyện chúng-sanh, khéo thờ sư-trưởng, tập làm điều lành. 
	 Cầu 
	xin xuất-gia, nên nguyện chúng-sanh, được pháp bất-thối, lòng không 
	chướng-ngại. 
	 Thoát 
	bỏ tục nhãn, nên nguyện chúng-sanh, siêng tu căn lành, bỏ những tội ách. 
	 Cạo bỏ 
	râu tóc, nên nguyện chúng-sanh, lìa hẳn phiền-não, rốt ráo tịch-diệt. 
	 Đắp y 
	ca-sa, nên nguyện chúng-sanh, lòng không nhiễm trước, đủ đạo đại-tiên. 
	 Lúc 
	chánh xuất-gia, nên nguyện chúng-sanh, đồng Phật xuất-gia, cứu hộ tất cả. 
	 Tự 
	quy-y Phật, nên nguyện chúng-sanh, nối thạnh Phật-chủng, phát tâm vô-thượng. 
	 Tự 
	quy-y Pháp, nên nguyện chúng-sanh, sâu vào kinh-tạng, trí-huệ như biển. 
	 Tự 
	quy-y Tăng, nên nguyện chúng-sanh, thống-lý đại-chúng, tất cả vô-ngại. 
	 Lục 
	thọ học giới, nên nguyện chúng-sanh, khéo học nơi giới, chẳng làm điều ác. 
	 Thọ 
	Xà-Lê dạy, nên nguyện chúng-sanh, đầy đủ oai-nghi, chỗ làm chơn thật. 
	 Thọ 
	Hòa-Thượng dạy, nên nguyện chúng-sanh, vào trí vô-sanh, đến chỗ vô-y. 
	 Thọ 
	giới cụ-túc, nên nguyện chúng-sanh, đủ các phương-tiện, được pháp tối-thắng. 
	 Nếu 
	vào nhà cửa, nên nguyện chúng-sanh, lên nhà vô-thượng, an-trụ bất-động. 
	 Nếu 
	trải giường tòa, nên nguyện chúng-sanh, trải mở pháp lành, thấy tướng chơn 
	thật. 
	 Chánh 
	thân đoan tọa, nên nguyện chúng-sanh, ngồi bồ-đề toà, tâm không tham trước. 
	 Lúc 
	ngồi kiết-già, nên nguyện chúng-sanh, căn lành kiên-cố, được bực bất-động. 
	 Tu 
	hành nơi định, nên nguyện chúng-sanh, dùng định phục tâm, rốt ráo không 
	thừa. 
	 Nếu tu 
	pháp quán, nên nguyện chúng-sanh, thấy lý như thật, trọn không tranh cãi. 
	 Xả 
	ngồi kiết-già, nên nguyện chúng-sanh, quan-sát hành pháp, đều quy tan mất. 
	 Lúc để 
	chân đứng, nên nguyện chúng-sanh, tâm được giải-thoát, an-trụ bất động. 
	 Nếu 
	cất chân lên, nên nguyện chúng-sanh, khỏi biển sanh-tử, đủ các pháp lành. 
	 Lúc 
	mặc quần dưới, nên nguyện chúng-sanh, mặc những căn lành, đầy đủ hổ thẹn. 
	 Chỉnh 
	áo cột giải, nên nguyện chúng-sanh, kiểm thúc căn lành, chẳng để tan mất. 
	 Nếu 
	mặc áo trên, nên nguyện chúng-sanh, được căn lành lớn, đến bờ pháp kia. 
	 Đấp 
	tăng-già-lê, nên nguyện chúng-sanh, vào ngôi đệ-nhứt, được pháp bất-động. 
	 Tay 
	cầm nhành dương, nên nguyện chúng-sanh, đều được diệu-pháp, rốt-ráo 
	thanh-tịnh. 
	 Lúc 
	nhăn nhành dương, nên nguyện chúng-sanh, tâm-ý điều tịnh, nhai các 
	phiền-não. 
	 Lúc 
	đại tiểu tiện, nên nguyện chúng-sanh, bỏ tham sân si, dẹp trừ điều tội. 
	 Việc 
	rồi đến nước, nên nguyện chúng-sanh, trong pháp xuất-thế, qua đến mau chóng. 
	 Rửa 
	ráy thân nhơ, nên nguyện chúng-sanh, thanh-tịnh điều nhu, rốt ráo không nhơ. 
	 Xối 
	nước trên tay, nên nguyện chúng-sanh, được tay thanh-tịnh, thọ trì 
	phật-pháp. 
	 Dùng 
	nước rửa mặt, nên nguyện chúng-sanh, được tịnh pháp-môn, trọn không nhơ bợn. 
	 Tay 
	cầm tích-trượng, nên nguyện chúng-sanh, lập hội bố-thí, bày đạo như Phật. 
	 Tay 
	cầm ứng khí, nên nguyện chúng-sanh, thành-tựu pháp-khí, thọ trời người-cúng. 
	 Bước 
	chân lên đường, nên nguyện chúng-sanh, đến chỗ Phật đi, vào nơi vô-y. 
	 Nếu ở 
	nơi đường, nên nguyện chúng-sanh, hay đi đường Phật, hướng pháp vô-dư. 
	 Theo 
	đường mà đi, nên nguyện chúng-sanh, noi tịnh pháp-giới,tâm không chướng 
	ngại. 
	 Thấy 
	lên đường cao, nên nguyện chúng-sanh, khỏi hẳn ba cõi, tâm không khiếp 
	nhược. 
	 Thấy 
	xuống đường thấp, nên nguyện chúng-sanh, tâm ý khiêm hạ lớn căn lành Phật. 
	 
	 
	 Thấy 
	đường quanh co, nên nguyện chúng-sanh, bỏ đạo bất chánh, trừ hẳn ác-kiến. 
	 Nếu 
	thấy đường thẳng, nên nguyện chúng-sanh, tâm ý chánh-trực, không dua không 
	dối. 
	 Thấy 
	đường nhiều bụi, nên nguyện chúng-sanh, xa lìa bụi bặm, được pháp 
	thanh-tịnh. 
	 Thấy 
	đường không bụi, nên nguyện chúng-sanh, thường tu đại-bi, tâm ý nhuần thấm. 
	 Nếu 
	thấy đường hiểm, nên nguyện chúng-sanh, trụ chánh pháp-giới, lìa những tội 
	nạn. 
	 Nếu 
	thấy chúng-hội, nên nguyện chúng-sanh, nói pháp thậm-thâm, tất cả hòa hiệp. 
	 Nếu 
	thấy trụ lớn, nên nguyện chúng-sanh, lìa tâm chấp ngã, không có phẩn hận. 
	 Nếu 
	thấy tòng-lâm, nên nguyện chúng-sanh, chư thiên và nhơn, chỗ nên kính lễ. 
	 Nếu 
	thấy núi cao, nên nguyện chúng-sanh, căn lành siêu thoát, không thể tột 
	đảnh. 
	 Lúc 
	thấy cây gai, nên nguyện chúng-sanh, chóng được cắt bỏ, những gai tam độc. 
	 Thấy 
	cây lá rậm, nên nguyện chúng-sanh, dùng định giải thoát, để làm che chói. 
	 Nếu 
	thấy hoa nở, nên nguyện chúng-sanh, các pháp thần-thông, như hoa đua nở. 
	 Nếu 
	thấy cây hoa, nên nguyện chúng-sanh, tướng tốt như hoa, đủ ba mươi hai. 
	 Nếu 
	thấy trái hột, nên nguyện chúng-sanh, được pháp tối-thắng, chứng đạo bồ-đề. 
	 Nếu 
	thấy sông lớn, nên nguyện chúng-sanh, được dự pháp-lưu, vào Phật-trí-hải. 
	 Nếu 
	thấy bờ đầm, nên nguyện chúng-sanh, chóng ngộ diệu-pháp, nhứt vị của Phật. 
	 Nếu 
	thấy ao hồ, nên nguyện chúng-sanh, ngữ-nghiệp hoàn-toàn, hay khéo 
	diễn-thuyết. 
	 Nếu 
	thấy giếng nước, nên nguyện chúng-sanh, đầy đủ biện tài, diễn tất cả pháp. 
	 Nếu 
	thấy suối chảy, nên nguyện chúng-sanh, thêm lớn phương-tiện, thiện căn 
	vô-tận. 
	 Nếu 
	thấy kiều-lộ, nên nguyện chúng-sanh, rộng độ tất cả, dường như cầu đò. 
	 Nếu 
	thấy nước chảy, nên nguyện chúng-sanh, được ý nguyện lành, rửa nhơ 
	phiền-não. 
	 Thấy 
	dọn vườn tược, nên nguyện chúng-sanh, trong vườn ngũ dục, dọn sạch cỏ ái. 
	 Thấy 
	rừng vô-ưu, nên nguyện chúng-sanh, lìa hẳn tham-ái, chẳng còn lo sợ. 
	 Nếu 
	thấy công viên, nên nguyện chúng-sanh, siêng tu hạnh lành, đến Phật bồ-đề. 
	 Thấy 
	người nghiêm-sức, nên nguyện chúng-sanh, trang-nghiêm thân đẹp, ba mươi hai 
	tướng. 
	 Thấy 
	không nghiêm-sức, nên nguyện chúng-sanh, bỏ những trang-sức, đủ hạnh đầu-đà. 
	 Thấy 
	người ham vui, nên nguyện chúng-sanh, vui nơi chánh-pháp, ưa thích chẳng bỏ. 
	 Thấy 
	không ham vui, nên nguyện chúng-sanh, trong sự hữu-vi, lòng không ưa thích. 
	 Thấy 
	người vui sướng, nên nguyện chúng-sanh, thường được an vui, thích cúng-dường 
	Phật. 
	 Thấy 
	người khổ-não, nên nguyện chúng-sanh, được căn-bổn trí, dứt trừ sự khổ. 
	 Thấy 
	người mạnh khỏe, nên nguyện chúng-sanh, vào chơn-thật-huệ, trọn không bịnh 
	Khổ. 
	 Thấy 
	người tật bịnh, nên nguyện chúng-sanh, biết thân không tịch, lìa sự tranh 
	cãi. 
	 Thấy 
	người xinh đẹp, nên nguyện chúng-sanh, với Phật Bồ-Tát, thường kính thường 
	tin. 
	 Thấy 
	người xấu-xí, nên nguyện chúng-sanh, với điều bất thiện, chẳng ưa chẳng 
	thích. 
	 Thấy 
	người báo ơn, nên nguyện chúng-sanh, với Phật Bồ-Tát, hay biết ơn đức. 
	 Thấy 
	người bội ơn, nên nguyện chúng-sanh, với kẻ làm ác, chẳng trả thù oán. 
	 Nếu 
	thấy Sa-Môn, nên nguyện chúng-sanh, điều-nhu tịch-tịnh, rốt ráo đệ-nhứt. 
	 Thấy 
	Bà-La-Môn, nên nguyện chúng-sanh, giữ trọn phạm-hạnh, lìa tất cả ác. 
	 Thấy 
	người khổ hạnh, nên nguyện chúng-sanh, y nơi khổ hạnh, đến bực rốt ráo. 
	 Thấy 
	người hạnh tốt, nên nguyện chúng-sanh, giữ bền chí-hạnh, chẳng bỏ Phật-đạo. 
	 Thấy 
	mặc giáp-trụ, nên nguyện chúng-sanh, thường mặc giáp lành, đến pháp vô-sư. 
	 Thấy 
	không võ-trang, nên nguyện chúng-sanh, lìa hẳn tất cả, những nghiệp 
	bất-thiện. 
	 Thấy 
	người luận nghị, nên nguyện chúng-sanh, đều dẹp phá được, tất cả dị-luận. 
	 Thấy 
	người chánh-mạng, nên nguyện chúng-sanh, được mạng thanh-tịnh, không dối giả 
	dạng. 
	 Nếu 
	thấy Quốc-vương, nên nguyện chúng-sanh, được làm pháp-vương, thường chuyển 
	chánh-pháp. 
	 Nếu 
	thấy vương-tử, nên nguyện chúng-sanh, từ pháp hóa-sanh, mà làm phật-tử. 
	 Nếu 
	thấy trưởng-giả, nên nguyện chúng-sanh, xét đoán sáng suốt, chẳng làm điều 
	ác. 
	 Nếu 
	thấy đại-thần, nên nguyện chúng-sanh, hằng giữ chánh-niệm, tập làm điều 
	thiện. 
	 Nếu 
	thấy thành quách, nên nguyện chúng-sanh, được thân kiên cố, tâm không hèn 
	nhát. 
	 Nếu 
	thấy kinh-đô, nên nguyện chúng-sanh, công-đức đồng nhóm, lòng luôn vui vẻ. 
	 Thấy ở 
	rừng vắng, nên nguyện chúng-sanh, đáng được trời người, ca ngợi kính ngưỡng. 
	 Vào 
	xóm khất thực, nên nguyện chúng-sanh, nhập thâm pháp-giới, tâm không chướng 
	ngại. 
	 Đến 
	cửa nhà người, nên nguyện chúng-sanh, vào trong tất cả, cửa nhà phật-pháp. 
	 Vào 
	nhà người rồi, nên nguyện chúng-sanh, được vào phật-thừa, ba thời bình-đẳng. 
	 Thấy 
	không thí-xả, nên nguyện chúng-sanh, thường chẳng bỏ rời, pháp công-đức lớn. 
	 Thấy 
	người thí-xả, nên nguyện chúng-sanh, được bỏ lìa hẳn, khổ ba ác-đạo. 
	 Nếu 
	thấy bát không, nên nguyện chúng-sanh, tâm ý thanh-tịnh, trống sạch 
	phiền-não. 
	 Nếu 
	thấy bát đầy, nên nguyện chúng-sanh, đầy đủ trọn vẹn, tất cả thiện-pháp. 
	 Nếu 
	được cung-kính, nên nguyện chúng-sanh, cung-kính tu hành, tất cả phật-pháp. 
	 Chẳng 
	được cung-kính, nên nguyện chúng-sanh, chẳng làm tất cả, những điều bất 
	thiện. 
	 Thấy 
	người hổ-thẹn, nên nguyện chúng-sanh, đủ hạnh hổ-thẹn, che giữ căn-thân. 
	 Thấy 
	không hổ-thẹn, nên nguyện chúng-sanh, lìa bỏ không thẹn, trụ đạo đại-từ. 
	 Được 
	thực phẩm ngon, nên nguyện chúng-sanh, đều được mãn nguyện, không lòng tham 
	muốn. 
	 Được 
	thực phẩm dở, nên nguyện chúng-sanh, ai cũng đều được, pháp-vị tam-muội. 
	 Được 
	vật thực mềm, nên nguyện chúng-sanh, huân-tập đại-bi, tâm ý nhu nhuyến. 
	 Được 
	vật thực cứng, nên nguyện chúng-sanh, tâm không nhiễm trước, dứt hết tham 
	ái. 
	 Nếu 
	lúc ăn cơm, nên nguyện chúng-sanh, ăn món thiền-duyệt, pháp-hỉ no đủ. 
	 Lúc 
	thọ mùi vị, nên nguyện chúng-sanh, được Phật thượng-vị, cam-lộ đầy đủ. 
	 Lúc ăn 
	cơm xong, nên nguyện chúng-sanh, việc làm đều xong, đủ những phật-pháp. 
	 Nếu 
	lúc thuyết-pháp, nên nguyện chúng-sanh, biện-luận vô-tận, tuyên rộng pháp 
	yếu. 
	 Lúc ra 
	khỏi nhà, nên nguyện chúng-sanh, thâm nhập phật-trí, khỏi hẳn ba cõi. 
	 Nếu 
	lúc xuống nước, nên nguyện chúng-sanh, vào nhứt-thiết-trí, rõ ba thời đồng. 
	 Tắm 
	rửa thân thể, nên nguyện chúng-sanh, thân tâm không nhơ, trong ngoài sáng 
	sạch. 
	 Mùa 
	nắng nóng độc, nên nguyện chúng-sanh, bỏ lìa khổ não, tất cả đều hết. 
	 Hết 
	nắng vừa mát, nên nguyện chúng-sanh, chứng pháp vô-thượng, rốt ráo mát mẻ. 
	 Lúc 
	đọc tụng kinh, nên nguyện chúng-sanh, thuận lời Phật dạy, tổng trì chẳng 
	quên. 
	 Nếu 
	được thấy Phật, nên nguyện chúng-sanh, được vô-ngại-nhãn, thấy tất cả Phật. 
	 Lúc 
	ngắm kỹ Phật, nên nguyện chúng-sanh, đều như Phổ-Hiền, xinh đẹp nghiêm tốt. 
	 Lúc 
	thấy tháp Phật, nên nguyện chúng-sanh, tôn-trọng như tháp, thọ trời người 
	cúng. 
	 Cung 
	kính xem tháp, nên nguyện chúng-sanh, chư thiên và người, cùng nhau chiêm 
	ngưỡng. 
	 Đảnh 
	lễ tháp Phật, nên nguyện chúng-sanh, tất cả trời người, chẳng thấy đảnh 
	được. 
	 Đi 
	nhiễu tháp Phật, nên nguyện chúng-sanh, tu hành không trái, thành 
	nhứt-thiết-trí. 
	 Nhiễu 
	tháp ba vòng, nên nguyện chúng-sanh, siêng cầu phật-đạo, lòng không biếng 
	trễ. 
	 Khen 
	công-đức Phật, nên nguyện chúng-sanh, đều đủ công-đức, ca-ngợi vô-tận. 
	 Khen 
	tướng-hảo Phật, nên nguyện chúng-sanh, thành tựu phật-thân, chứng pháp 
	vô-tướng. 
	 Nếu 
	lúc rửa chân, nên nguyện chúng-sanh, đủ sức thần-túc, chỗ đi vô-ngại. 
	 Ngủ 
	nghỉ phải thời, nên nguyện chúng-sanh, thân được an-ổn, lòng không động 
	loạn. 
	 Ngủ 
	vừa tỉnh-giấc, nên nguyện chúng-sanh, tất cả trí-giác, ngó khắp mười phương. 
	 Phật-tử! 
	Nếu chư Bồ-Tát dụng tâm như vậy thời được tất cả công-đức thắng-diệu. Tất cả 
	thế-gian: chư thiên, ma, phạm, sa-môn, bà-la-môn, càn-thát-bà, a-tu-la 
	v.v... nhẫn đến tất cả Thanh-Văn, Duyên-Giác không thể làm lay động được. 
	  | 
| 
	 | « Trang Trước Trang Kế » |