| 
	 | 
	 Kinh Hoa Nghiêm 
	Phẩm Phạm Hạnh Thứ Mười Sáu Hán Dịch: Ðại-Sư 
	Thật-Xoa-Nan-Ðà 
 
	Lúc bấy giờ Chánh Niệm Thiên Tử bạch Pháp Huệ 
	Bồ Tát rằng: Thưa Phật tử! Trong tất cả thế giới, chư Bồ Tát y theo giáo 
	pháp của Như Lai nhuộm y xuất gia, thế nào mà được phạm hạnh thanh tịnh, từ 
	địa vị Bồ Tát đến đạo vô thượng bồ đề?' 
	 Pháp 
	Huệ Bồ Tát nói: 'Nầy Phật tử! Đại Bồ Tát lúc tu phạm hạnh, nên dùng mười 
	pháp làm cảnh sở duyên để tác ý quan sát. 
	 Đây là 
	mười pháp: thân, thân nghiệp, ngữ, ngữ nghiệp, ý, ý nghiệp, Phật, Pháp, Tăng 
	và giới. 
	 Nên 
	quan sát như vầy: Thân là phạm hạnh ư? Nhẫn đến giới là phạm hạnh ư? 
	 Nếu 
	thân là phạm hạnh, phải biết phạm hạnh thời là chẳng phải thiện, là phi 
	pháp, là lộn đục, là hôi xấu, là bất tịnh, là đáng nhàm, là trái nghịch, là 
	tạp nhiễm, là tử thi, là nhóm trùng. 
	 Nếu 
	thân nghiệp là phạm hạnh, thời phạm hạnh là hành, trụ, tọa, ngọa, là ngó bên 
	nầy bên kia, là co, duỗi, cúi, ngước. 
	 Nếu 
	ngữ ngôn là phạm hạnh, thời phạm hạnh là âm thinh, gió thở, là môi, lưỡi, 
	cuống họng, là thổ nạp, ngăn buông, là cao thấp, trong đục. 
	 Nếu 
	ngữ nghiệp là phạm hạnh, thời phạm hạnh là thưa chào hỏi thăm, là nói lược 
	nói rộng, là nói dụ nói thẳng, là lời khen lời chê, là lời an lập, lời tùy 
	tục, lời hiển liễu. 
	 Nếu ý 
	là phạm hạnh, thời phạm hạnh là giác, là quán, là phân biệt, ức niệm, tư 
	duy, là ảo thuật, là ngủ mơ. 
	 Nếu ý 
	nghiệp là phạm hạnh, thời phạm hạnh là tư tưởng lạnh nóng đói khát, khổ vui, 
	lo mừng. 
	 Nếu 
	Phật là phạm hạnh, thời sắc là Phật? hay thọ, tưởng, hành, thức là Phật? 
	Tướng hảo hay thần thông là Phật? Nghiệp hạnh hay quả báo là Phật? 
	 Nếu 
	pháp là phạm hạnh, thời tịch diệt hay niết bàn là pháp? Bất sanh hay bất 
	khởi là pháp? Bất khả thuyết hay vô phân biệt, vô sở hành, bất hiệp tập, bất 
	tùy thuận, vô sở đắc là pháp? 
	 Nếu 
	Tăng là phạm hạnh, thời Dự Lưu Hướng hay Dự Lưu Quả là Tăng? Nhứt Lai Hướng 
	hay Nhứt Lai Quả là Tăng? Bất Hoàn Hướng hay Bất Hoàn Quả, Vô Sanh Hướng hay 
	Vô Sanh Quả là Tăng? Tam minh hay lục thông là Tăng? 
	 Nếu 
	giới là phạm hạnh, thời đàn tràng là giới, hay hỏi thanh tịnh là giới? Dạy 
	oai nghi hay tam yết ma là giới? Hoà Thượng hay A Xà Lê là giới? Thế phát là 
	giới, hay đắp y ca sa, hay khất thực, hay chánh mạng là giới? 
	 Quan 
	sát như vậy, nơi thân không sở thủ, nơi tu không sở trước, nơi pháp không sở 
	trụ, quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến, hiện tại không tịch, không người tác 
	nghiệp, không kẻ thọ báo, đời nầy chẳng dời động, đời kia chẳng cải đổi. Như 
	vậy, trong đây pháp nào gọi là phạm hạnh? Phạm hạnh từ chỗ nào đến? Là sở 
	hữu của ai? Thể là gì? Do ai làm? Là có? Là không? Là Sắc? Là phi sắc? Là 
	thọ? Là phi thọ? Là tướng? Là phi tướng? Là hành? Là phi hành? Là thức? Là 
	phi thức? 
	 Quan 
	sát như vậy, vì pháp phạm hạnh bất khả đắc, vì pháp tam thế đều không tịch, 
	vì ý không thủ trước, vì tâm không chướng ngại, vì sở hành vô nhị, vì phương 
	tiện tự tại, vì thọ pháp vô tướng, vì quán pháp vô tướng, vì biết phật pháp 
	bình đẳng, vì đủ tất cả phật pháp. Như đây gọi là phạm hạnh thanh tịnh. 
	 Lại 
	phải tu tập mười pháp, chính là mười trí lực của Như Lai. Phải quan sát mỗi 
	trí lực. Trong mỗi trí lực có vô lượng nghĩa đều phải hạn hỏi. Sau khi nghe 
	phải khởi tâm đại từ bi, quan sát chúng sanh mà chẳng bỏ lìa, tư duy các 
	pháp không có thôi dứt, thật hành nghiệp vô thượng không cần quả báo, rõ 
	biết cảnh giới như ảo mộng, như bóng vang, như biến hóa. 
	 Nếu Bồ 
	Tát nào được tương ứng với quán hạnh như vậy, ở trong các pháp chẳng sanh 
	hai kiến giải, tất cả phật pháp mau được hiện tiền. Lúc sơ phát tâm liền 
	được a nậu đa la tam miệu tam bồ đề. 
	Biết tất cả pháp tức là tâm tự tánh, thành 
	tựu huệ thân giác ngộ chẳng do người khác. 
	  | 
| 
	 | « Trang Trước Trang Kế » |