| 
	 | 
	 
 Kinh Hoa Nghiêm 
	Phẩm Thập Ðịa Thứ Hai Mươi 
	Sáu Hán Dịch: Ðại Sư 
	Thật-Xoa-Nan-Ðà Việt Dịch: HT 
	Thích Trí Tịnh 
	 (Hán bộ quyển ba mươi bốn) 
	
	 Bấy giờ đức Thế Tôn ngự ở điện Ma Ni 
	Bửu Tạng trong cung của Tha Hoá Tự Tại Thiên Vương câu hội với chư đại Bồ 
	Tát từ phương khác đến. 
	
	 Chư Bồ Tát này không thối chuyển vô 
	thượng Đẳng Chánh Giác, an trụ trong cảnh giới của Bồ Tát trí, vào chỗ của 
	Đức Phật vào, siêng tu không ngớt, hay khéo hiển hiện những sự thần thông, 
	giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh rất đúng thời. 
	
	 Vì thành tựu tất cả đại nguyện, chư 
	Bồ Tát này trong tất cả kiếp, tất cả đời, tất cả cõi, thường siêng tu tập 
	không tạm lười nghỉ. Đã đầy đủ phước, trí, trợ đạo, khắp lợi ích chúng sanh 
	mà luôn không thiếu sót, đạt đến trí huệ phương tiện Ba la mật của Bồ Tát. 
	Thị hiện vào sanh tử và nhập Niết Bàn, mà vẫn chẳng bỏ phế thật hành Bồ Tát 
	hạnh. Khéo vào tất cả thiền định giải thoát tam muội của Bồ Tát. Trí huệ 
	thần thông đều được tự tại với tất cả việc làm. Được tất cả thần lực tự tại 
	của Bồ Tát. Không hề động tác, mà trong khoảng một niệm có thể qua đến tất 
	cả đạo tràng của chư Phật, làm thượng thủ trong chúng để thỉnh Phật thuyết 
	pháp, hộ trì chánh pháp của Phật, cúng dường phụng thờ tất cả Chư Phật với 
	tâm quảng đại, thường siêng tu hạnh Bồ Tát. Thân các Ngài hiện khắp thế 
	gian. Tiếng các Ngài khắp mười phương pháp giới. Tâm trí các ngài vô ngại 
	thấy khắp tam thế tất cả Bồ Tát. 
	
	Các Ngài đều đã tu hành viên mãn tất cả công đức, trải bất khả thuyết kiếp 
	cũng không thể nói hết. 
	
	 Danh hiệu của các Ngài là: 
	
	 Kim Cang Tạng Bồ Tát, Bửu Tạng Bồ 
	Tát, Liên Hoa Tạng Bồ Tát, Đức Tạng Bồ Tát, Liên Hoa Đức Tạng Bồ Tát, Nhựt 
	Tạng Bồ Tát, Tô Lợi Gia Tạng Bồ Tát, Vô Cấu Nguyệt Tạng Bồ Tát, Phổ Hiện 
	Trang Nghiêm Tạng Bồ Tát, Tỳ Lô Giá Na Trí Tạng Bồ Tát, Diệu Đức Tạng Bồ 
	Tát, Chiên Đàn Đức Tạng Bồ Tát, Hoa Đức Tạng Bồ Tát, Câu Tô Ma Đức Tạng Bồ 
	Tát, Ưu Bát La Đức Tạng Bồ Tát, Thiên Đức Tạng Bồ Tát, Phước Đức Tạng Bồ 
	Tát, Vô Ngại Thanh Tịnh Đức Tạng Bồ Tát, Công Đức Tạng Bồ Tát, Na La Diên 
	Đức Tạng Bồ Tát, Vô Cấu Tạng Bồ Tát, Ly Cấu Tạng Bồ Tát, Biện Tài Trang 
	Nghiêm Tạng Bồ Tát, Đại Quang Minh Võng Tạng Bồ Tát, Tịnh Oai Đức Quang Minh 
	Vương Tạng Bồ Tát, Kim Trang Nghiêm Đại Công Đức Quang Minh Vương Tạng Bồ 
	Tát, Nhứt Thiết Tướng Trang Nghiêm Tịnh Đức Tạng Bồ Tát, Kim Cang Diệm Đức 
	Tướng Trang Nghiêm Tạng Bồ Tát, Quang Minh Diệm Tạng Bồ Tát, Tinh Tú Vương 
	Quang Chiếu Tạng Bồ Tát, Hư Không Vô Ngại Trí Tạng Bồ Tát, Diệu Âm Vô Ngại 
	Tạng Bồ Tát, Đà La Ni Công Đức Trì Nhứt Thiết Chúng Sanh Nguyện Tạng Bồ Tát, 
	Hải Trang Nghiêm Tạng Bồ Tát, Tu Di Đức Tạng Bồ Tát, Tịnh Nhất Thiết Công 
	Đức Tạng Bồ Tát, Như Lai Tạng Bồ Tát, Phật Đức Tạng Bồ Tát, Giải Thoát 
	Nguyệt Bồ Tát… 
	
	 Vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, 
	bất khả sổ, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết đại Bồ 
	Tát như vậy, Kim Cang tạng Bồ Tát là thượng thủ trong đại chúng này. 
	
	 Bấy giờ Kim Cang Tạng Bồ Tát, thừa 
	thần lực của Phật, nhập Bồ Tát đại trí huệ quang minh tam muội. 
	
	Ngài nhập tam muội này rồi, liền đó khắp mười phương quá ngoài mười ức Phật 
	sát vi trần số thế giới, mỗi phương đều có mười ức Phật sát vi trần số Phật 
	đồng hiệu Kim Cang Tạng, Phật hiện ra trước Ngài mà bảo rằng: 
	
	"Lành thay! Lành thay ! Kim Cang Tạng Bồ Tát có thể nhập Bồ Tát đại trí huệ 
	quang minh tam muội này. 
	
	 Thiện nam tử! Mười ức Phật sát vi 
	trần số Phật ở mỗi phương khắp mười phương đồng gia hộ ông. Do bổn nguyện 
	lực và oai thần lực của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai, cũng do thắng trí lực của 
	ông, vì muốn ông tuyên thuyết Phật pháp quang minh bất tư nghì cho chúng hội 
	Bồ Tát. Như là: 
	
	 Vì khiến nhập trí địa, vì nhiếp tất 
	cả thiện căn, vì khéo lựa chọntất cả Phật pháp, vì biết rộng các pháp, vì 
	khéo hay thuyết pháp, vì vô phân biệt trí thanh tịnh, vì tất cả thế pháp 
	chẳng nhiễm, vì thiện căn xuất thế thanh tịnh, vì được cảnh giới trí bất tư 
	nghì, vì được cảnh giới trí của bực Nhứt thiết trí. 
	
	 Lại vì khiến được bực Bồ Tát Thập Địa 
	thủy chung, vì tuyên thuyết tướng sai biệt của Bồ Tát Thập Địa đúng thật, vì 
	duyên niệm tất cả Phật pháp, vì tu tập phân biệt pháp vô lậu, vì khéo lựa 
	chọn quan sát đại trí quang minh khéo trang nghiêm, vì khéo nhập môn trí 
	quyết định, vì tùy ở chỗ nào đều thứ đệ thuyết pháp vô sở úy, vì được quang 
	minh biện tài vô ngại, vì trụ bực đại biện tài khéo quyết định, vì ghi nhớ 
	tâm Bồ Tát không quên mất, vì thành thục tất cả chúng sanh giới, vì đến khắp 
	tất cả xứ quyết định khai ngộ tất cả. 
	
	 Thiện nam tử! Ông nên biện thuyết 
	pháp sai biệt thiện xảo của pháp môn này. 
	
	Những là: Vì nương thần lực và trí huệ của Phật gia hộ, vì thanh tịnh thiện 
	căn của mình, vì thanh tịnh khắp pháp giới, vì nhiếp khắp chúng sanh, vì 
	thâm nhập Pháp thân, Trí thân, vì thọ quán đảnh của Chư Phật, vì được thân 
	cao lớn nhứt trong tất cả thế gian, vì vượt hơn tất cả thế gian đạo, vì 
	thanh tịnh thiện căn xuất thế, vì đầy đủ Nhứt thiết chủng trí. 
	
	 Bấy giờ Chư Phật ở mười phương đồng 
	ban cho Kim Cang Tạng Bồ Tát thân chói sáng nhứt, ban cho trí biện tài vô 
	ngại, ban cho trí thanh tịnh khéo phân biệt, ban cho sức khéo ghi nhớ không 
	quên, ban cho huệ khéo quyết định rõ ràng, ban cho trí đến tất cả xứ để khai 
	ngộ, ban cho sức thành đạo tự tại, ban cho đức vô úy của Phật, ban cho trí 
	biện tài quan sát phân biệt các pháp môn của bực Nhứt thiết trí, ban cho 
	thân, ngữ, ý trang nghiêm toàn vẹn thượng diệu của Như Lai. 
	
	 Tại sao vậy? Vì được tam muội này 
	thời tất nhiên như vậy, vì bổn nguyện phát khởi, vì thâm tâm thiện tịnh, vì 
	trí luân thiện tịnh, vì khéo chứa nhóm trợ đạo, vì khéo tu sửa công hạnh, vì 
	nhớ vô lượng pháp khí, vì biết tín giải thanh tịnh, vì được tổng trì không 
	lầm lộn, vì khéo ấn khả với pháp giới trí ấn. 
	
	 Bấy giờ mười phương Chư Phật đều đưa 
	tay hữu xoa đầu Kim Cang Tạng Bồ Tát. 
	
	 Chư Phật xoa đầu xong, Kim Cang Tạng 
	Bồ Tát xuất định bảo khắp chúng đại Bồ Tát rằng: 
	
	 Chư Phật tử! Thệ nguyện của các vị Bồ 
	tát khéo quyết định không tạp chẳng thể thấy, rộng lớn như pháp giới, rốt 
	ráo như hư không, khắp tất cả Phật độ, suốt thuở vị lai, cứu độ tất cả chúng 
	sanh, được chư Phật gia hộ, vào trí địa của tam thế Chư Phật. 
	
	 Chư Phật tử! Những gì là trí địa của 
	đại Bồ Tát? 
	
	 Chư Phật tử! Trí địa của đại Bồ tát 
	có mười bực. Tam thế Chư Phật đã nói, sẽ nói, đương nói, tôi cũng nói như 
	vậy. 
	
	 Đây là mười trí địa 
	
	 Một là hồi hướng địa. Hai là Ly Cấu 
	địa. Ba là Phát Quang địa. Bốn là Diệm Huệ địa. Năm là Nan Thắng địa. 
	
	Sáu là hiện Tiền địa. Bảy là Viễn Hành địa. Tám là Bất Động địa. Chín là 
	Thiện Huệ địa. Mười là Pháp Vân địa. 
	
	 Chư Phật tử! Tôi chẳng thấy có quốc 
	độ nào mà Chư Phật nơi đó chẳng nói mười trí địa này. 
	
	 Tại sao vậy? Vì đây là đạo tối thượng 
	hướng Bồ đề của đại Bồ Tát, cũng là pháp môn thanh tịnh quang minh. 
	
	 Chư Phật tử! Nơi đây chẳng thể nghĩ 
	bàn đến được, chính là chứng trí của chư đại Bồ Tát. 
	
	 Kim Cang Tạng Bồ Tát nói song liền im 
	lặng không giảng giải nữa. 
	
	 Bấy giờ chúng Bồ Tát nghe tên mười 
	bực trí địa mà chẳng nghe giải thích thời đều khát ngưỡng nghĩ rằng: Do cớ 
	gì Ngài Kim Cang Tạng Bồ Tát chỉ nói tên mười trí địa mà chẳng giải thích? 
	
	 Giải thoát Nguyệt Bồ Tát biết tâm 
	niệm của chúng Bồ Tát, liền nói kệ để hỏi Kim Cang Tạng Bồ Tát: 
	
	 Cớ sao bực Tịnh Giác 
	
	 Đủ niệm trí công đức 
	
	 Nói tên mười Trí Địa 
	
	 Biết rõ chẳng giải thích? 
	
	 Tất cả đều quyết định 
	
	 Dũng mãnh không khiếp nhược 
	
	 Cớ sao nói tên Địa 
	
	 Rồi im không giải thích? 
	
	 Nghĩa thú mười Trí Địa 
	
	 Trong chúng đều muốn nghe 
	
	 Lòng chúng không khiếp nhược 
	
	 Vì chúng xin giải thích. 
	
	 Chúng hội đều thanh tịnh 
	
	 Nghiêm khiết không lười biếng 
	
	 Hay vững vàng bất động 
	
	 Đủ công đức trí huệ, 
	
	 Nhìn nhau đều cung kính 
	
	 Tất cả đồng khát ngưỡng 
	
	 Như ong nhớ mật ngọt 
	
	 Như khát tưởng cam lồ 
	
	 Kim Cang Tạng Bồ Tát, bực đại trí vô 
	úy nghe Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát nói kệ muốn cho lòng chúng hội hoan hỷ, 
	liền nói kệ rằng: 
	
	 Hạnh địa của Bồ Tát 
	
	 Gốc tối thượng của Phật 
	
	 Giải thích nói rõ ràng 
	
	 Hy hữu khó thứ nhứt. 
	
	 Vi tế khó thấy được 
	
	 Ly niệm siêu tâm địa 
	
	 Phát sanh cảnh giới Phật 
	
	 Người nghe sẽ mê lầm. 
	
	 Gìn lòng như Kim Cang 
	
	 Tin chắc nơi Phật trí 
	
	 Biết tâm địa vô ngã 
	
	 Thời nghe được pháp này. 
	
	 Như màu vẽ trên không 
	
	 Như tướng gió trên không 
	
	 Phật trí cũng như vậy 
	
	 Phân biệt rất khó thấy 
	
	 Tôi nghĩ phật trí huệ 
	
	 Tối thắng khó nghĩ bàn 
	
	 Người đời không thọ được 
	
	 Nên im lặng chẳng nói. 
	
	 Giải thoát Nguyệt Bồ Tát bạch Kim 
	Cang Tạng Bồ Tát: Nay đại chúng đây đều đã hội họp, tất cả đều khéo lóng 
	thâm tâm, khéo sạch tư niệm, khéo tu các hạnh, khéo tập trợ đạo, khéo gần 
	gũi trăm ngàn ức Phật, thành tựu vô lượng công đức thiện căn, lìa bỏ mê lầm, 
	không còn cấu nhiễm, thâm tâm tin hiểu, ở trong Phật pháp chẳng theo người 
	khác dạy. 
	
	 Thưa Phật tử! xin Ngài nên thừa oai 
	thần của Phật, vì chúng mà diễn nói.  
	
	Đại chúng Bồ Tát đây đối với chỗ thậm thâm như vậy đều có thể chứng biết. 
	
	 Giải thoát Nguyệt Bồ Tát muốn tuyên 
	lại nghĩa này bèn nói kệ rằng: 
	
	 Xin nói hạnh Bồ Tát 
	
	 Vô thượng rất an ổn 
	
	 Phân biệt rõ các địa 
	
	 Trí tịnh thành Chánh giác. 
	
	 Chúng đây không cấu nhiễm 
	
	 Chí hiểu đều sáng sạch 
	
	 Kính thờ vô lượng Phật 
	
	 Hiểu được nghĩa các địa. 
	
	 Kim Cang Tạng Bồ Tát nói: Thưa Phật 
	tử! Dầu đại chúng y đây đã khéo lóng sạch tu niệm, rời bỏ ngu si nghi lầm, 
	nơi Phật pháp thậm thâm không theo người dạy, nhưng còn có chúng sanh trí 
	cạn cợt, nếu nghe những sự thậm thâm khó nghĩ bàn này họ sẽ sanh lòng nghi 
	lầm mà phải chịu khổ lâu dài. Tôi vì thương xót hạng này nên im lặng. 
	
	 Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại 
	nghĩa này mà nói kệ rằng: 
	
	 Dầu chúng đây trí rộng thanh tịnh 
	
	 Pháp sâu trí lẹ hay hiểu thấu 
	
	 Tâm họ bất động như Sơn Vương 
	
	 Chẳng thể úp nghiên dường đại hải. 
	
	 Có hạng mới tu hiểu chưa tới 
	
	 Theo thức phân biệt chẳng theo trí 
	
	 Nghe đây sanh nghi đọa ác đạo 
	
	 Tôi thương hạng này nên chẳng nói. 
	
	 Giải thoát Nguyệt Bồ Tát lại bạch với 
	Kim Cang Tạng Bồ Tát: Thưa Phật tử! xin Ngài thừa thần lựccủa Phật mà phân 
	biệt diễn nói pháp bất tư nghì này, những hạng đây sẽ được đức Như Lai gia 
	hộ cho họ tin thọ được. 
	
	Vì lúc nói pháp Thập Địa, tất cả Bồ Tát tất nhiên được Phật hộ niệm. Vì được 
	Phật hộ niệm nên đối với trí địa này sanh lòng dũng mãnh. Vì đây là công 
	hạnh tối sơ mà Bồ Tát thật hành để thành tựu tất cả Phật pháp. 
	
	 Ví như viết chữ, tất cả đều từ mẫu tự 
	làm gốc. Tự mẫu rốt ráo không có chút phân rời tự mẫu. 
	
	 Tất cả Phật pháp đều dùng Thập Địa 
	làm căn bổ. Thập địa rốt ráo ru hành thành tựu được Nhứt thiết chủng trí. 
	
	Do đây xin Phật tử diễn nói cho. Những người này tất được đức Như Lai hộ 
	niệm làm cho họ tin thọ. 
	
	 Giải thoát Nguyệt Bồ Tát muốn tuyên 
	lại nghĩa này mà nói kệ rằng: 
	
	 Lành thay Phật tử xin diễn thuyết 
	
	 Các trí địa đưa vào Bồ đề 
	
	 Mười phương tất cả đấng Tự Tại 
	
	 Thảy đều hộ niệm trí căn bổn. 
	
	 An trụ trí này cũng rốt ráo 
	
	 Tất cả Phật pháp từ đây sanh 
	
	 Ví như viết chữ do mẫu tự 
	
	 Cũng thế, Phật pháp y trí địa. 
	
	 Lúc đó chúng đại Bồ Tát đồng thời ứng 
	tiếng hướng về Kim Cang Tạng Bồ Tát mà nói kệ rằng: 
	
	 Trí thượng diệu vô cấu 
	
	 Vô biên trí biện tài 
	
	 Tuyên xướng lời sâu đẹp 
	
	 Tương ưng Đệ nhứt nghĩa. 
	
	 Niệm trì hạnh thanh tịnh 
	
	 Thập lực chứa công đức 
	
	 Biện tài phân biệt nghĩa 
	
	 Nói địa tối thắng này. 
	
	 Định, giới chứa chánh tâm 
	
	 Lìa ngã mạn tà kiến 
	
	 Chúng đây không lòng nghi 
	
	 Cầu xin được nghe giảng. 
	
	 Như khát tưởng nước mát 
	
	 Như đói nhớ món ngon 
	
	 Như bịnh cầu thuốc hay 
	
	 Như ong tham mật tốt. 
	
	 Chúng tôi cũng như vậy. 
	
	 Mong nghe pháp cam lồ 
	
	 Lành thay bực đại trí 
	
	 Nguyện giải thoát Thập Địa, 
	
	 Thành Thập lực vô ngại 
	
	 Tất cả hạnh của Phật 
	
	 Chúng tôi nếu được nghe 
	
	 Tin thọ siêng tu tập. 
	
	 Bấy giờ đức Thế Tôn từ chặng mày 
	phóng quang minh thanh tịnh tên là Bồ Tát Lực Diệm Minh, kèm theo vô số trăm 
	ngàn quang minh chiếu khắp tất cả thế giới mười phương. Ba ác đạo đều được 
	hết khổ.  
	
	Quang Minh này lại chiếu suốt tất cả chúng hội của tất cả Phật, hiển hiện 
	thần lực bất tư nghì của Phật. 
	
	Lại chiếu đến thân Bồ Tát được Phật gia hộ thuyết pháp trong tất cả thế giới 
	khắp mười phương. 
	
	Quang Minh này là những sự trên đây rồi kết thành đài lưới mây rất sáng chói 
	dừng ở trên không. 
	
	 Lúc đó Chư Phật ở mười phương cũng 
	phóng quang như vậy, và cũng hiện thành những sự như vậy. Lại chiếu đến Phật 
	và đại chúng ở thế giới Ta Bà này, cùng chiếu đến thân và tòa sư tử của Kim 
	Cang Tạng Bồ Tát. 
	
	 Trong đài lưới mây sáng chói dừng ở 
	trên không, do thần lực của Phật, có tiếng nói kệ rằng: 
	
	 Phật Vô đẳng đẳng như hư không 
	
	 Thập lực vô lượng thắng công đức 
	
	 Tối thắng vô thượng trong thế gian 
	
	 Thích Ca Như Lai gia hộ đó. 
	
	 Phật tử nên thừa thần lực Phật 
	
	 Giải bày tạng tối thắng tối tôn 
	
	 Trí địa quảng đại hạnh thắng diệu 
	
	 Nương Phật oai thần phân biệt nói. 
	
	 Nếu được Như Lai gia hộ cho 
	
	 Sẽ được pháp bửu vào tâm mình 
	
	 Bồ Tát Thập Địa tuần tự đầy 
	
	 Cũng đủ Chư Phật mười trí lực. 
	
	 Dầu ở biển sâu hay kiếp hỏa 
	
	 Kham thọ pháp này tất được nghe 
	
	 Những ai sanh nghi không lòng tin 
	
	 Trọn không được nghe nghĩa như vậy. 
	
	 Nói rộng Thập Địa: đạo Thắng Trí 
	
	 Nhập trụ tuần tự tu tập lần 
	
	 Theo hạnh phát sanh cảnh giới trí 
	
	 Vì lợi ích chúng sanh tất cả. 
	
	 Kim Cang Tạng Bồ Tát quan sát mười 
	phương muốn cho đại chúng thêm lòng tin thanh tịnh nên nói kệ rằng: 
	
	 Đạo lớn của Như Lai 
	
	 Vi diệu khó biết được 
	
	 Lìa niệm chẳng phải niệm 
	
	 Cầu thấy chẳng thể được 
	
	 Không sanh cũng không diệt 
	
	 Tánh tịnh thường vắng lặng 
	
	 Người ly cấu thông huệ 
	
	 Đang đi trong cảnh đó. 
	
	 Tự tánh vốn không tịch 
	
	 Vô nhị cũng vô tận 
	
	 Giải thoát khỏi các loài 
	
	 Trụ Niết Bàn bình đẳng. 
	
	 Chẳng phải sơ, trung, hậu 
	
	 Chẳng phải ngôn từ đến được 
	
	 Vượt qua ngoài thời gian 
	
	 Tướng đó dường hư không. 
	
	 Cảnh giới Phật tịch diệt 
	
	 Lời nói không đến được 
	
	 Cảnh Thập địa cũng vậy 
	
	 Khó nói cũng khó nhận. 
	
	 Trí phát sanh cảnh Phật 
	
	 Rời hẳn ngoài tâm niệm 
	
	 Chẳng phải uẩn xứ giới 
	
	 Trí biết, ý chẳng biết. 
	
	 Như dấu chim bay qua 
	
	 Khó chỉ cũng khó nói 
	
	 Nghĩa của mười trí địa. 
	
	 Tâm ý không rõ được. 
	
	 Từ bi và nguyện lực 
	
	 Sanh hạnh vào Thập địa 
	
	 Tuần tự tâm viên mãn 
	
	 Chẳng phải cảnh tư lự. 
	
	 Cảnh giới này khó thấy 
	
	 Biết được không nói được 
	
	 Do Phật lực nên nói 
	
	 Đại chúng phải kính nhận. 
	
	 Cảnh giới của trí địa 
	
	 Ức kiếp nói không hết 
	
	 Nay tôi chỉ nói lược 
	
	 Nghĩa chơn thiệt của kia. 
	
	 Đại chúng cung kính chờ 
	
	 Tôi thừa Phật lực nói 
	
	 Tiếng pháp diệu thù thắng 
	
	 Tương ưng chữ ví dụ. 
	
	 Thần lực vô lượng Phật 
	
	 Đều đến vào thân tôi 
	
	 Nơi đây khó hiển bày 
	
	 Nay tôi nói phần ít 
	
	Chư Phật tử! Nếu có chúng sanh trồng 
	sâu căn lành, khéo tu tập những hạnh trợ đạo, hay cúng dường Chư Phật, làm 
	thiện tri thức, khéo chứa nhóm những pháp trắng trong, giỏi nhiếp và khéo 
	làm thanh tịnhthâm tâm, lập chí quảng đại phát sanh trí biết rộng lớn, lòng 
	từ bi luôn hiện tiền, vì cầu Phật trí, vì được Thập lực, vì được đại vô úy, 
	vì được Phật pháp bình đẳng, vì cứu tất cả thế gian, vì thanh tịnh đại từ 
	bi, vì được Thập lực Nhứt thiết chủng trí, vì thanh tịnh Phật độ vô ngại, vì 
	khoảng một niệm biết cả tam thế, vì chuyển đại pháp luân vô úy. 
	
	 Chư Phật tử! Bồ tát phát khởi những 
	tâm như vậy bèn lấy đại bi làm trước, trí huệ tăng thượng, phương tiện khéo 
	diệu, thâm tâm tối thượng là chỗ nhiếp lấy, Phật lực là chỗ giữ gìn, vô 
	lượng trí khéo quan sát, sức phân biệt dũng mãnh, sức trí huệ vô ngại hiện 
	tiền, tùy thuận tự nhiên trí, có thể thọ lãnh tất cả Phật pháp dùng trí huệ 
	để giáo hóa, quảng đại như pháp giới, rốt ráo dường hư không suốt thuở vị 
	lai. 
	
	Này Phật tử! Bồ Tát mới bắt đầu phát 
	tâm như vậy liền được vượt khỏi hạng phàm phu mà vào ngôi Bồ Tát, sanh vào 
	nhà Như Lai. Không ai có thể nói chủng tộc của Ngài lỗi lầm. Ngài đã rời 
	loài thế gianmà vào đạo xuất thế, được pháp Bồ Tát, ở chỗ Bồ Tát, nhập tam 
	thế bình đẳng, ở trong chủng tánhNhư Lai quyết định sẽ thành Vô Thượng Giác. 
	Bồ Tát an trụ những pháp như vậy gọi là trụ bực "Bồ Tát Hoan Hỷ Địa", vì đã 
	tương ưng với chơn như bất động. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát trụ bực Hoan Hỷ 
	Địa thời thành tựu nhiều hoan hỷ, nhiều tịnh tín, nhiều ái lạc, nhiều thích 
	duyệt, nhiều hân khánh, nhiều dũng dước, nhiều dũng mãnh, nhiều bất đấu 
	tránh, nhiều vô não hại, nhiều vô sân hận. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát trụ bực Hoan Hỷ 
	Địa vì nhớ Chư Phật nên sanh vui mừng, vì nhớ Phật pháp nên sanh vui mừng, 
	vì nhớ chư Bồ Tát nên sanh vui mừng, vì nhớ hạnh Bồ Tát nên sanh vui mừng, 
	vì nhớ thanh tịnh Ba la mật nên sanh vui mừng, vì nhớ Bồ Tát địa thù thắng 
	nên sanh vui mừng, vì nhớ Bồ Tát không hư hoại nên sanh vui mừng, vì hớ Chư 
	Phật giáo hóa chúng sanh nên sanh vui mừng, vì nhớ có thể làm lợi ích cho 
	chúng sanh nên sanh vui mừng, vì nhớ vào trí phương tiện của Chư Phật nên 
	sanh vui mừng. 
	
	 Bồ Tát này lại tự nghĩ: Vì tôi đã 
	chuyển và rời tất cả cảnh giới thế gian mà hoan hỷ, vì thân cận tất cả Phật 
	mà hoan hỷ, vì lìa xa hạng phàm phu mà hoan hỷ, vì gần bực trí huệ mà hoan 
	hỷ, vì dứt hẳn tất cả ác thú mà hoan hỷ, vì làm chỗ y chỉ cho tất cả chúng 
	sanh mà hoan hỷ, vì thấy tất cả Như Lai mà hoan hỷ, vì sanh vào cảnh giới 
	Phật mà hoan hỷ, vì vào trong tánh bình đẳng của tất cả Bồ Tát mà hoan hỷ, 
	vì xa lìa tất cả những sự kinh sợ rùng mình mà hoan hỷ. 
	
	 Tại sao vậy? Vì Bồ Tát đã được bực 
	Hoan Hỷ Địa thời được khỏi hẳn tất cả sự kinh sợ. Như là xa lìa hẳn sự sợ 
	chẳng sống, sợ tiếng xấu, sợ chết, sợ sa ác đạo, sợ oai đức của đại chúng. 
	
	 Tại sao lại được khỏi hẳn những sự 
	kinh sợ? 
	
	 Vì Bồ Tát này đã lìa ngã tưởng, thân 
	mình còn không mến tiếc huống là của cải, vì thế nên không kinh sợ về sự 
	không sống. 
	
	 Vì Bồ Tát này không trông cầu người 
	khác cúng dường mình, chỉ chuyên cấp thí tất cả chúng sanh nên không kinh sợ 
	về sự tiếng xấu. 
	
	 Vì Bồ Tát này đã lìa ngã kiến không 
	có ngã tưởng nên không kinh sợ về sự chết. 
	
	 Vì Bồ Tát này tự biết sau khi chết 
	quyết định không rời Chư Phật Bồ Tát nên không kinh sợ về sự sa ác đạo. 
	
	 Vì chí nguyện của Bồ Tát này, trong 
	tất cả thế gian còn không ai bằng huống là hơn, nên không kinh sợ đối với 
	oai đức của đại chúng. 
	
	 Chư Phật tử! Bồ tát này lấy đại bi 
	làm trước, chí nguyện rộng lớn không có gì trở hoại được. 
	
	Lại thêm siêng tu tất cả thiện căn mà được thành tựu. 
	
	 Những thiện căn đó như: Lòng tin tăng 
	thượng, nhiều lòng tin thanh tịnh, hiểu biết thanh tịnh, lòng quyết định, 
	phát sanh lòng bi mẫn, thành tựu đức đại từ, không nhàm mỏi, lòng hổ thẹn 
	trang nghiêm, thành tựu hạnh nhu hòa, kính thuận tôn trọng giáo pháp của Chư 
	Phật, ngày đêm tu tập các căn lành không nhàm đủ, gần gũi thiện tri thức, 
	luôn mến thích chánh pháp, cầu đa văn không nhàm đủ, chánh quan sát đúng với 
	pháp đã được nghe, lòng không y tựa chấp trước, không tham muốn lợi danh 
	cung kính, chẳng mong cầu tất cả vật dụng nuôi sống, phát sanh tâm như thật 
	không nhàm đủ, cầu bực Nhứt thiết trí, cầu Phật lực, vô úy, Phật pháp bất 
	cộng, cầu các môn trợ đạo Ba la mật, lìa những dua dối, có thể thật hành 
	đúng như lời nói, luôn gìn lời như thật, chẳng làm nhơ nhớp nhà Như Lai, 
	chẳng bỏ giới Bồ Tát, sanh Nhứt thiết trí, lòng vững như Sơn Vương bất động, 
	chẳng bỏ tất cả sự thế gian mà thành tựu tất cả đạo xuất thế, tu tập pháp 
	trợ đạo Vô thượng Bồ đề không mỏi nhàm, thường cầu đạo Vô thượng. 
	
	 Chư Phật tử! Bồ tát thành tựu pháp tu 
	tập thanh tịnh tâm địa như vậy thời gọi là an trụ bực "Bồ Tát Hoan Hỷ Địa". 
	
	 Bồ Tát này thành tựu đại nguyện, đại 
	dũng, đại dụng như vầy; 
	
	 Phát sanh trí hiểu biết quyết định 
	thanh tịnh quảng đại, đem tất cả đồ cúng dường cung kính dâng lên tất cả Chư 
	Phật không thiếu sót, rộng lớn dường pháp giới, rốt ráo như hư không, suốt 
	tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ. 
	
	 Lại phát đại nguyện: Nguyện thọ lãnh 
	tất cả Phật pháp, nguyện nhiếp tất cả Phật trí, nguyện hộ tất cả Phật giáo, 
	nguyện trì tất cả Phật pháp, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không 
	suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ. 
	
	 Lại phát đại nguyện: Nguyện trong tất 
	cả thế giới, lúc Phật xuất thế; Giáng thần, nhập thai, trụ thai, sơ sanh, 
	xuất gia, thành đạo, thuyết pháp, nhập Niết Bàn, tôi đều đến gần gũi cúng 
	dường, làm thượng thủ trong chúng, thọ lãnh và thật hành chánh pháp, đồng 
	thời chuyển pháp khắp tất cả mọi nơi, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường 
	hư không, suốt tất cả kiếp số vi lai không thôi nghỉ. 
	
	 Lại phát đại nguyện: Nguyện tất cả Bồ 
	Tát hạnh quảng đại chẳng hoại, chẳng tạp nhiếp các môn Ba la mật, tu tập 
	thanh tịnh các trí địa. Tổng tướng, biệt tướng, đồng tướng, dị tướng, thành 
	tướng, hoại tướng, tất cả Bồ Tát hạnh đều nói đúng như thiệt. Giáo hóa tất 
	cả chúng sanh cho họ lãnh thọ thật hành tâm địa được tăng trưởng, rộng lớn 
	như pháp giới, rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi 
	nghỉ. 
	
	 Lại phát đại nguyện: Nguyện tất cả 
	giới chúng sanh, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng có tưởng, 
	chẳng không tưởng, noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, hệ thuộc ba 
	cõi, vào sáu loài tất cả chỗ thác sanh, nhiếp về danh sắc, những loài như 
	vậy tôi đều giáo hóa cho họ vào Phật pháp, dứt hẳn tất cả loài thế gian mà 
	an trụ đạo Nhứt thiết chủng trí. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường hư 
	không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ. 
	
	 Lại phát đại nguyện: Nguyện tất cả 
	thế giới rộng lớn vô lượng: Thô, tế, loạn trụ, đảo trụ, chánh trụ, hoặc vào, 
	hoặc đi, hoặc đến, sai khác như đế võng, mười phương vô lượng thế giới nhiều 
	loại không đồng, đều thấy biết rõ với trí lực. Rộng lớn như pháp giới, rốt 
	ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ. 
	
	 Lại phát đại nguyện: Nguyện tất cả 
	quốc độ vào một quốc độ, một quốc độ vào tất cả quốc độ, vô lượng Phật độ 
	đều khắp thanh tịnh. Những đồ vật sáng chói dùng để trang nghiêm. 
	
	Lìa tất cả phiền não thành đạo thanh tịnh. Chúng sanh trí huệ số đông vô 
	lượng ở đầy trong đó. Vào khắp cảnh giới quảng đại của Chư Phật, tùy thuận 
	tâm chúng sanh để thị hiện cho họ đều hoan hỷ. 
	
	Rộng lớn như pháp giới rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai 
	không thôi nghỉ. 
	
	 Lại phát đại nguyện: Nguyện cùng tất 
	cả Bồ Tát đồng một chí một hạnh không ganh thù, chứa nhóm các căn lành, tất 
	cả Bồ Tát bình đẳng một duyên, thường tập hội không rời bỏ nhau, tùy ý có 
	thể hiện nhiều thân Phật, tự tâm nhậm vận có thể biết cảnh giới của Chư 
	Phật, oai lực trí huệ được thần thông bất thối tùy ý du hành tất cả thế 
	giới, hiện thân trong tất cả chúng hội, vào khắp tất cả chỗ thác sanh, thành 
	tựu đại thừa tu hạnh Bồ Tát bất tư nghì. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo 
	dường như không suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ. 
	
	 Lại phát đại nguyện: Nguyện thừa pháp 
	luân bất thối tu hạnh Bồ Tát, thân, ngữ, ý ba nghiệp đều không để luống, nếu 
	ai tạm thấy thời được quyết định nơi Phật pháp, nếu ai tạm nghe âm thanh 
	thời được thật trí, vừa sanh lòng tịnh tín thời dứt hẳn phiền não, được thân 
	như cây đại Dược Vương, được thân như châu như ý, tu hành tất cả hạnh Bồ 
	Tát. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị 
	lai không thôi nghỉ. 
	
	 Lại phát đại nguyện: Nguyện ở khắp 
	tất cả thế giới thành Vô thượng Chánh giác, chẳng rời một chân lông mà nơi 
	tất cả chân lông thị hiện sơ sanh, xuất gia, đến đạo tràng, thành Chánh 
	giác, chuyển pháp luân, nhập Niết Bàn, được sức đại trí huệ cảnh giới của 
	Phật trong mỗi niệm thuận theo tâm của tất cả chúng sanh mà thị hiện thành 
	Phật làm cho họ được tịch diệt, dùng Nhứt thiết trí biết tất cả pháp giới 
	chính là tướng Niết Bàn, dùng một âm thanh thuyết pháp làm cho tâm tất cả 
	chúng sanh đều hoan hỷ. Thị hiện nhập đại Niết Bàn mà chẳng dứt hạnh Bồ Tát, 
	thị hiện bực đại trí huệ an lập tất cả pháp. Dùng pháp Trí thông, Thần túc 
	thông, Huyễn thông, tự tại biến hóa khắp tất cả pháp giới. Rộng lớn như pháp 
	giới, rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ. 
	
	 Chư Phật tử! Bồ tát trụ bực Hoan Hỷ 
	Địa phát đại nguyện như vậy, dũng mãnh như vậy, đại dụng như vậy. Dùng mười 
	nguyện môn này làm đầu đầy đủ trăm vạn vô số đại nguyện. 
	
	 Chư Phật tử! Đại nguyện này do mười 
	tận cú mà được thành tựu. 
	
	 Đây là mười tận cú: 
	
	 Chúng sanh giới tận, thế giới tận, hư 
	không giới tận, pháp giới tận, Niết bàn giới tận, Phật xuất hiện giới tận, 
	Như Lai trí giới tận, tâm sở duyên giới tận, Phật trí sở nhập cảnh giới giới 
	tận, thế gian chuyển pháp chuyển trí, chuyển giới tận. 
	Nếu chúng sanh giới tận thệ nguyện của tôi mới tận, nhẫn đến thế gian 
	chuyển pháp, chuyển trí, chuyển giới tận thệ nguyện của tôi mới tận. Nhưng 
	chúng sanh giới nhẫn đến trí chuyển giới không cùng tận, nên thiện căn đại 
	nguyện của tôi đây cũng không cùng tận. 
	
	 Chư Phật tử! Bồ tát phát đại nguyện 
	như vậy rồi thời được: Tâm lợi ích, tâm nhu nhuyến, tâm tùy thuận, tậm tịch 
	tịnh, tâm điều phục, tâm tịch diệt, tâm khiêm hạ, tâm nhuận trạch, tâm bất 
	động, tâm bất trược, thành bực tịnh tín, có công dụng của đức tin, có thể 
	tin bổn hạnh chứng nhập của Như Lai, tin thành tựu được các môn Ba la mật, 
	tin vào những bực thắng địa, tin sức thành tựu tin đầy đủ vô sở úy, tin sanh 
	trưởng Phật pháp bất cộng bất hoại, tin Phật pháp bất tư nghì, tin xuất sanh 
	Phật cảnh giới không trung biên, tin tùy nhập vô lượng cảnh giới của Phật, 
	tin thành tựu quả. Tóm lại, tin tất cả Bồ Tát hạnh, nhẫn đến tin trí, địa, 
	thuyết, lực của Như Lai. 
	
	 Chư Phật tử! Bồ tát này lại nghĩ 
	rằng: Chánh pháp của Chư Phật thậm thâm như vậy, tịch tịnh như vậy, tịch 
	diệt như vậy, không, vô tướng, vô nguyện như vậy, vô nhiễm như vậy, vô 
	lượng, quảng đại như vậy, mà hàng phàm phu sa vào tà kiến, bị vô minh che 
	lòa, dựng cao tràng kiêu mạn, vào trong lưới khát ái, đi trong rừng rậm dua 
	dối không tự ra được. Lòng luôn đi đôi với tham lam ganh ghét, thường tạo, 
	những nhơn duyên thọ sanh trong các loài, tham, sân, si gây thành những 
	nghiệp ngày đêm thêm lớn mãi, do gió phẫn hận thổi ngọn lửa tâm thức hực hực 
	không tắt, phàm họ nói hay làm đều là điên đảo. 
	
	Dục lưu, hữu lưu, vô minh lưu, kiến lưu nói luôn phát khởi chủng tử tâm ý 
	thức. Trong ruộng tam giới lại mọc mầm khổ, chính là chẳng rời danh sắc. 
	Danh sắc này thêm lớn, thành tụ lạc của sáu loài. Trong đó đối nhau mà sanh 
	ra xúc, do xúc sanh thọ, nhơn thọ sanh ái, vì ái tăng trưởng nên sanh thủ, 
	vì thủ tăng trưởng nên sanh hữu, do hữu mà có sanh lão tử ưu bi khổ não. 
	Chúng sanh thêm hớn quả khổ, trong đây là trống rỗng lìa ngã và ngã 
	sở, vô tri vô giác, vô giác vô thọ như cỏ cây, đá vách, cũng như vang bong, 
	nhưng chúng sanh vẫn không hay không biết. 
	
	 Bồ Tát thấy chúng sanh không thể 
	thoát khỏi khổ quả như vậy, liền phát sanh đại bi trí huệ tự nghĩ rằng: Tôi 
	phải cứu vớt tất cả chúng sanh này đặt họ ở chỗ rốt ráo an lạc. Do vì suy 
	nghĩ phát tâm như vậy nên sanh trí huệ quang minh đại từ. 
	
	 Chư Phật tử! Đại Bồ Tát tùy thuận đại 
	bi đại từ như vậy, lúc dùng tâm thâm trọng trụ bực Sơ địa, đối với tất cả 
	vật không hề lẫn tiếc, cầu Phật trí, tu đại xả. Phàm có thứ chi đều có thể 
	bố thí cả. Những là tiền, lúa, kho, đụn, vàng, bạc, ma ni, châu ngọc, đồ 
	trang sức, voi, ngựa, xe cộ, tôi tớ, nhơn dân, thành ấp, tụ lạc, vườn rừng, 
	lầu đài, vợ con quyến thuộc, đầu, mắt, tay, chân, máu, thịt, xương, tủy, tất 
	cả đều không tiếc, để cầu trí huệ rộng lớn của chư Phật. 
	
	 Đây gọi là thành tựu đại xả của bực 
	Bồ Tát trụ "Sơ Địa". 
	
	 Chư Phật tử! Bồ Tát dùng tâm từ bi 
	đại thí này là vì muốn cứu hộ tất cả chúng sanh. Thêm cầu những sự lợi ích 
	thế gian và xuất thế, vì không nhàm đủ liền được thành tựu tâm không mỏi 
	nhàm. 
	
	Được tâm không mỏi nhàm rồi, với tất cả kinh luận, không lòng khiếp nhược, 
	vì lòng không khiếp nhược liền được thành tựu nhứt thiết kinh luận trí. Được 
	trí này rồi thời có thể hay so lường việc nên làm, việc chẳng nên làm. Với 
	tất cả chúng sanh căn cơ thượng, trung, hạ, thuận theo chỗ đáng độ, năng lực 
	và thói quen của họ mà làm cho họ đều được lợi ích. Do đây Bồ Tát được thành 
	thế trí. Thành được thế trí rồi liền biết thời tiết, biết lượng số. Vì tàm 
	quý mà siêng tu đạo hạnh tự lợi lợi tha nên thành tựu tàm quý trang nghiêm. 
	
	Trong hạnh này siêng tu hạnh giải thoát không thối chuyển thành sức kiên cố. 
	Được sức kiên cố rồi thời siêng cúng dường chư Phật. Nơi giáo pháp của Phật 
	có thể thật hành đúng như lời dạy 
	
	 Chư Phật tử! Bồ Tát thành tựu mười 
	pháp thanh tịnh các trí địa như vậy, chính là: Bi, từ, xả, không mỏi nhàm, 
	biết kinh luận, hiểu thế pháp, tàm quý, sức kiên cố, cúng dường chư Phật và 
	y giáo tu hành. 
	
	 Chư Phật tử! Bồ Tát đã trụ bực Hoan 
	Hỷ Địa này rồi, do sức đại nguyện được thấy nhiều đức Phật. 
	
	Như là thấy trăm đức Phật, thấy ngàn đức Phật, trăm ngàn đức Phật, ức Phật, 
	trăm ức Phật, ngàn ức Phật, trăm ngàn ức Phật, ức na do tha Phật, trăm ức na 
	do tha Phật, ngàn ức na do tha Phật, trăm ngàn ức na do tha Phật. 
	
	Với chư Phật này, Bồ Tát đều dùng đại tâm, thâm tâm, cung kính tôn trọng 
	phụng thờ cúng dường những y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược và tất cả đồ 
	dùng, cũng cúng dường tất cả chúng Tăng, Bồ Tát đem công đức thiện căn này 
	đều hồi hướng Vô thượng Bồ đề. 
	
	 Chư Phật tử! Vì cúng dường chư Phật, 
	Bồ Tát này thành tựu được chúng sanh pháp, dùng hai nhiếp pháp trước là bố 
	thí và ái ngữ để nhiếp lấy chúng sanh. Còn hai nhiếp pháp sau thời chỉ do 
	sức tín giải mà thật hành chớ chưa thông đạt. 
	
	 Bồ Tát này ở trong mười Ba la mật, 
	thời đàn Ba la mật được tăng thượng; với chín Ba la mật kia thời tùy sức tùy 
	phần mà thật hành. 
	
	 Bồ Tát này trong lúc siêng cúng dường 
	chư Phật giáo hóa chúng sanh đều để tu hành thanh tịnh pháp trí địa. 
	
	Bao nhiêu thiện căn đều hồi hướng bực Nhứt thiết chủng trí, lần thêm sáng 
	sạch, điều nhu thành tựu, tùy ý đều dùng được. 
	
	 Chư Phật tử! Ví như thợ kim hoàn, 
	khéo luyện vàng, cho vào lửa thường thời vàng càng thêm sáng sạch mịn nhuyễn 
	tùy ý người thợ dùng. 
	
	 Cũng vậy, Bồ Tát này cúng dường chư 
	Phật giáo hóa chúng sanh đều để tu hành thanh tịnh pháp trí địa, bao nhiêu 
	thiện căn đều hồi hướng bực Nhứt thiết chủng trí, càng thêm sáng sạch điều 
	nhu thành tựu có thể dùng tùy ý. 
	
	 Chư Phật tử! Đại Bồ tát trụ bực Sơ 
	địa phải đến chỗ Chư Phật, Bồ Tát, Thiện tri thức tìm cầu thưa hỏi. 
	
	Ở trong địa này, từ nơi tướng và đắc quả không nhàm đủ, vì muốn thành tựu 
	pháp của trí địa này. 
	
	Lại cũng phải đến chỗ Phật, Bồ Tát, Thiện tri thức tìm cầu thưa hỏi tướng và 
	đắc quả của Nhị địa, Tam địa nhẫn đến Thập địa không nhàm đủ, vì muốn thành 
	tựu pháp của các trí địa đó. 
	
	 Bồ Tát này khéo biết trong các trí 
	địa: Chướng và đối trị, địa thành hay hoại, địa tướng và quả; cũng biết rõ 
	địa đắc tu, địa pháp thanh tịnh, địa tiến tu lên, phải địa chẳng phải địa, 
	trí thù thắng của các địa, bất thối chuyển của các địa. Cũng khéo biết thanh 
	tịnh tu trị tất cả trí địa, nhẫn đến chuyển vào Như Lai địa. 
	
	 Chư Phật tử! Bồ tát khéo biết địa 
	tướng như vậy. Ban đầu ở bực Sơ địa phát khởi tu hành không giám đoạn, nhẫn 
	đến nhập bực Thập địa không gián đoạn. 
	
	 Do trí huệ sáng suốt của các trí địa 
	đây mà thành trí huệ quang minh của Như Lai. 
	
	 Chư Phật tử! Ví như vị thương chủ 
	biết rành phương tiện muốn dắt các thương gia đến đại thành, lúc chưa khởi 
	hành, trước hỏi rõ sự lành dữ dọc đường và chỗ đến ở an hay nguy, được hay 
	không. 
	
	Sau đó trang bị tu lương vật dụng đầy đủ rồi mới cùng nhau lên đường. 
	
	 Chư Phật tử! Vị thương chủ kia dầu 
	chưa khởi hành mà đã biết rõ lộ trình lành dữ tất cả sự an nguy, khôn khéo 
	suy tính sắm sửa hành trang lương thực không để thiếu sót, mới có thể dắt 
	đoàn thương gia đến đại thành một các toàn vẹn an ổn 
	
	 Chư Phật tử! Bồ tát cũng như vậy. Trụ 
	bực Sơ địa biết rành chướng và đối trị của các trí địa, nhẫn đến biết rành 
	tất cả trí địa thanh tịnh chuyển nhập Như Lai địa, sau đó mới lo đủ tư lương 
	phước và trí, dắt các chúng sanh đi qua đường hiểm sanh tử, đến thành Nhứt 
	thiết chủng trí một các an toàn. 
	
	 Vì lẽ trên đây nên Bồ Tát phải thường 
	siêng tu công hạnh thanh tịnh thù thắng của các trí địa nhẫn đến chứng nhập 
	Như Lai địa. 
	
	 Chư Phật tử! Đây gọi là lược nói môn 
	nhập bực Sơ địa của đại Bồ Tát. Nói rộng ra thời có vô lượng vô biên trăm 
	ngàn vô số sự sai khác. 
	
	 Chư Phật tử! Đại Bồ tát trụ bực Sơ 
	địa này phần nhiều hiện làm vua ở Diêm Phù Đề, giàu mạnh tự tại thường hộ 
	trì chánh pháp. Hay dùng hạnh đại thí để nhiếp thủ chúng sanh, khéo trừ tật 
	tham lam bỏn sẻn của chúng sanh. 
	
	Tất cả công việc làm như là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều chẳng rời 
	niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Chẳng rời niệm Bồ Tát đồng hạnh, chẳng rời 
	niệm hạnh Bồ Tát, các môn Ba la mật, các trí địa. Chẳng rời Niệm lực, Vô úy, 
	pháp Bất cộng. Chẳng rời niệm Nhứt thiết chủng trí. 
	
	 Bồ Tát này lại nghĩ rằng: Tôi phải ở 
	trong tất cả chúng sanh làm thượng thủ, làm thắng, làm thù thắng, làm diệu, 
	làm vi diệu, làm thượng, làm vô thượng, làm Đạo Sự, làm tướng, làm soái, 
	nhẫn đến làm người y chỉ của Nhứt thiết chủng trí. 
	
	 Bồ Tát này nếu muốn bỏ nhà để siêng 
	tu Phật pháp, liền có thể bỏ nhà, vợ con ngũ dục, vào nhà Như Lai xuất gia 
	học đạo. Đã xuất gia rồi thời tinh tấn tu hành, trong khoảng một niệm trăm 
	tam muội, được thấy trăm đức Phật, biết thần lực của trăm Đức Phật, có thể 
	chấn động thế giới của trăm Đức Phật, có thể qua thế giới của trăm Đức Phật, 
	có thể chiếu thế giới của trăm Đức Phật, có thể giáo hóa chúng sanh trong 
	trăm thế giới, có thể trụ thọ trăm kiếp, có thể biết những việc đã qua và sẽ 
	tới trong trăm kiếp, có thể vào trăm pháp môn, có thể thị hiện trăm thân, ở 
	mỗi thân có thể thị hiện trăm vị Bồ Tát làm quyến thuộc. 
	
	 Nếu dùng nguyện lực thù thắng của Bồ 
	Tát tự tại thị hiện hơn nơi số trên đây, thời cả trăm kiếp ngàn kiếp, nhẫn 
	đến trăm ngàn ức na do tha kiếp cũng chẳng tính biết được. 
	
	 Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại 
	nghĩa này nên nói kệ rằng: 
	
	 Nếu người tu điều là 
	
	 Đủ những pháp bạch tịnh 
	
	 Cúng dường chư Thế Tôn 
	
	 Tùy thuận đạo từ bi. 
	
	 Tin hiểu rất rộng lớn 
	
	 Chí nguyện cũng thanh tịnh 
	
	 Vì cầu trí huệ Phật 
	
	 Phát tâm vô thượng này. 
	
	 Tu tất cả trí lực 
	
	 Và cùng vô sở úy 
	
	 Thành tựu các Phật pháp 
	
	 Cứu nhiếp các quần sanh. 
	
	 Vì được đại từ bi 
	
	 Và chuyển thắng pháp luân 
	
	 Nghiêm tịnh Phật quốc độ 
	
	 Phát tâm tối thắng này. 
	
	 Một niệm biết tam thế 
	
	 Mà không có phân biệt 
	
	 Thời gian sai khác nhau 
	
	 Để hiển thị thế gian 
	
	 Lược nói cầu Chư Phật 
	
	 Tất cả thắng công đức 
	
	 Phát sanh tâm quảng đại 
	
	 Lượng đồng cõi hư không. 
	
	 Bi trước, huệ làm chủ 
	
	 Tương ưng cùng phương tiện 
	
	 Tâm tín giải thanh tịnh 
	
	 Phật vô lượng thần lực. 
	
	 Trí vô ngại hiện tiền 
	
	 Tự ngộ chẳng do người 
	
	 Đầy đủ đồng Chư Phật 
	
	 Phát tâm tối thắng này. 
	
	 Phật tử mới phát sanh 
	
	 Tâm diệu bửu như vậy 
	
	 Thời siêu hạng phàm phu 
	
	 Vào chỗ đi của Phật. 
	
	 Sanh tại nhà Như Lai 
	
	 Chủng tộc không tội lỗi 
	
	 Đồng bình đẳng với Phật 
	
	 Quyết thành Vô Thượng Giác, 
	
	 Vừa sanh lòng như vậy 
	
	 Liền được vào Sơ địa 
	
	 Chí nguyện chẳng bị động 
	
	 Dường như núi Tu Di. 
	
	 Nhiều vui, nhiều ưa thích 
	
	 Lại cũng nhiều tịnh tín 
	
	 Tâm dũng mãnh rất lớn 
	
	 Và cùng tâm mừng rỡ. 
	
	 Xa rời sự đấu tránh 
	
	 Não hại và giận hờn 
	
	 Kính thuận mà chất trực 
	
	 Khéo gìn giữ sáu căn. 
	
	 Đấng cứu thế vô thượng 
	
	 Có bao nhiêu trí huệ 
	
	 Bực này tôi sẽ được 
	
	 Ghi nhớ sanh hoan hỷ. 
	
	 Mới được vào Sơ 
	
	 Liền siêu năm điều sợ: 
	
	 Chẳng sống, tiếng xấu, chết, 
	
	 Ác đạo, chúng oai đức. 
	
	 Vì chẳng tham chấp ngã 
	
	 Và chẳng chấp ngã sở 
	
	 Các Phật tử như đây 
	
	 Xa rời năm điều sợ. 
	
	 Thường thật hành đại từ 
	
	 Luôn kính tin tùy thuận. 
	
	 Đủ công đức tàm qúy 
	
	 Ngày đêm thêm pháp lành. 
	
	 Thích thật lợi chánh pháp 
	
	 Chẳng ưa thọ dục lạc 
	
	 Tư duy pháp đã nghe 
	
	 Rời xa hạnh chấp trước. 
	
	 Chẳng tham cầu lợi dưỡng 
	
	 Chỉ thích Phật Bồ đề 
	
	 Nhứt tâm cầu Phật trí 
	
	 Chuyên ròng không niệm khác. 
	
	 Tu tập Ba la mật 
	
	 Xa rời dua dối gạt 
	
	 Thật hành đúng lời Phật 
	
	 An trụ trong thật ngữ. 
	
	 Chẳng nhơ nhà Chư Phật 
	
	 Chẳng bỏ giới Bồ Tát 
	
	 Chẳng thích những thế sự 
	
	 Thường lợi ích thế gian. 
	
	 Làm lành không nhàm đủ 
	
	 Thêm cầu đạo tăng thắng 
	
	 Ưa thích pháp như vậy 
	
	 Tương ưng nghĩa công đức. 
	
	 Thường phát khởi đại nguyện 
	
	 Nguyện thấy chư Như Lai 
	
	 Hộ trì Phật chánh pháp 
	
	 Nhiếp lấy đạo vô thượng. 
	
	 Thường sanh nguyện như vầy: 
	
	 Tu hành hạnh tối thắng. 
	
	 Thành thục mọi quần sanh 
	
	 Nghiêm tịnh Phật quốc độ. 
	
	 Tất cả các cõi Phật 
	
	 Đều đông đầy Phật tử 
	
	 Bình đẳng chung một lòng 
	
	 Việc làm đều chẳng luống. 
	
	 Nơi tất cả chân lông 
	
	 Đồng thời thành Chánh giá 
	
	 Những đại nguyện như vậy 
	
	 Vô lượng vô biên tế. 
	
	 Hư không cùng chúng sanh 
	
	 Pháp giới và Niết Bàn 
	
	 Thế gian Phật ra đời 
	
	 Phật trí tâm cảnh giới, 
	
	 Trí của Như Lai chứng 
	
	 Cùng Tam chuyển pháp tận 
	
	 Tất cả đó có tận 
	
	 Nguyện của tôi mới tận, 
	
	 Như đó không cùng tận 
	
	 Nguyện của tôi cũng vậy, 
	
	 Phát nguyện lớn như thế 
	
	 Tâm nhu nhuyến điều thuận. 
	
	 Hay tin công đức Phật 
	
	 Quan sát nơi chúng sanh 
	
	 Biết từ nhơn duyên khởi 
	
	 Liền sanh lòng từ mẫn: 
	
	 Chúng sanh khổ như vậy 
	
	 Nay tôi phải cửu thoát 
	
	 Vì những chúng sanh này 
	
	 Thật hành việc bố thí. 
	
	 Ngôi vua và trân bửu 
	
	 Nhẫn đến voi, ngựa, xe, 
	
	 Đầu, mắt, cùng tay, chân, 
	
	 Nhẫn đến máu, thịt, xương 
	
	 Tất cả đều xả thí 
	
	 Không có lòng hối tiếc. 
	
	 Cầu các thứ kinh thơ 
	
	 Không hề biết nhàm mỏi 
	
	 Khéo hiểu nghĩa thú kia 
	
	 Hay thuận theo thế gian. 
	
	 Tàm quý tự trang nghiêm 
	
	 Tu hành càng kiên cố 
	
	 Cúng dường vô lượng Phật 
	
	 Cung kính và tôn trọng. 
	
	 Thường tu tập như vậy 
	
	 Ngày đêm không nhàm mỏi 
	
	 Thiện căn càng sáng sạch 
	
	 Như lửa luyện chơn kim. 
	
	 Bồ Tát trụ nơi đây 
	
	 Tịnh tu mười trí địa 
	
	 Chỗ làm không chướng ngại 
	
	 Đầy đủ chẳng đoạn tuyệt. 
	
	 Ví như vị thương chủ 
	
	 Vì lợi cho thương gia 
	
	 Hỏi rõ đường dễ khó 
	
	 An ổn đến đại thành 
	
	 Bồ Tát trụ Sơ địa 
	
	 Phải biết cũng như vậy. 
	
	 Dũng mãnh không chướng ngại 
	
	 Đến bực đệ Thập địa. 
	
	 Trụ trong Sơ địa này 
	
	 Làm chủ công đức lớn 
	
	 Đem pháp dạy chúng sanh 
	
	 Tâm từ không tổn hại. 
	
	 Thống lãnh Diêm Phù Đề 
	
	 Giáo hóa tất cả chúng 
	
	 Đều trụ hạnh đại xả 
	
	 Thành tựu trí huệ Phật. 
	
	 Muốn cầu đạo tối thắng 
	
	 Bỏ ngôi Quốc Vương mình 
	
	 Hay ở trong Phật giáo 
	
	 Dũng mãnh siêng tu tập, 
	
	 Liền được trăm tam muội 
	
	 Và thấy trăm đức Phật 
	
	 Chấn động trăm thế giới 
	
	 Quang minh chiếu trăm cõi, 
	
	 Độ trăm cõi chúng sanh 
	
	 Chứng nhập trăm pháp môn 
	
	 Hay biết việc trăm kiếp 
	
	 Thị hiện trăm thân Phật 
	
	 Và hiện trăm Bồ Tát 
	
	 Để dùng làm quyến thuộc, 
	
	 Nếu nguyện lực tự tại 
	
	 Hơn số này vô lượng 
	
	 Ở trong nghĩa Sơ địa 
	
	 Tôi lược thuật phần ít, 
	
	 Nếu muốn giảng giải rộn 
	
	 Ức kiếp chẳng hết được. 
	
	 Bồ Tát đạo tối thắng 
	
	 Lợi ích mọi quần sanh 
	
	 Pháp Sơ địa như vậy 
	
	 Nay tôi đã nói xong.  
	(Hán bộ quyển 35) 
	
	Chúng Bồ Tát đã nghe 
	
	Địa tối thắng vi diệu 
	
	Tâm các Ngài thanh tịnh 
	
	Tất cả đều vui mừng 
	
	Đồng rời tòa đứng dậy 
	
	Vọt bay dừng trên không 
	
	Khắp rải hoa báu đẹp 
	
	Đồng thời chung khen ngợi : 
	
	Lành thay Kim Cang Tạng 
	
	Bực đại trí vô úy 
	
	Khéo nói những pháp lành 
	
	Của Sơ địa Bồ Tát. 
	
	Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt 
	
	Biết lòng chúng thanh tịnh 
	
	Thích nghe những hành tướng 
	
	Của đệ nhị "Ly Cấu" 
	
	Liền thỉnh Kim Cang Tạng: 
	
	Đại trí xin diễn thuyết 
	
	Phật tử đều thích nghe 
	
	Đệ nhị Ly Cấu Địa. 
	
	Bấy giờ Kim Cang Tạng Bồ Tát bảo Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát rằng: Thưa Phật 
	Tử! Đại Bồ Tát đã tu Sơ địa muốn vào đệ nhị địa thời phải phát khởi mười thứ 
	thâm tâm.  
	
	Đây là mười thứ thâm tâm: 
	
	Tâm chánh trực, tâm nhu nhuyến, tâm kham năng, tâm điều phục, tâm tịch tịnh, 
	tâm thuần thiện, tâm chẳng tạp, tâm không cố luyến, tâm rộng, tâm lớn. 
	
	Bồ Tát dùng mười thâm tâm này thời được vào bực Ly Cấu Địa thứ hai. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát trụ Ly Cấu Địa thời tánh tự xa rời tất cả sát sanh, 
	chẳng chứa dao gậy, chẳng có lòng oán hận, có tàm có quý, đầy đủ lòng nhơn 
	thứ. Với tất cả chúng sanh có mạng sống thời thương, sanh lòng từ làm lợi 
	ích. 
	
	Bồ Tát này còn chẳng có lòng ác não hại chúng sanh, huống là với họ mà có 
	chúng sanh tưởng cố ý làm việc giết hại. 
	
	Tánh tự chẳng trộm cắp. Với của cải mình Bồ Tát thường biết vừa đủ, với 
	người thời thương yêu tha thứ chẳng hề xâm tổn. Nếu đồ vật thuộc người khác 
	thời tưởng là của người khác, trọn không sanh lòng trộm cắp, nhẫn đến lá cây 
	của người không cho thời không lấy, huống là đồ vật dụng khác. Tánh tự chẳng 
	tà dâm. Với tự thê, Bồ Tát tri túc chẳng mong vợ người. Với thê thiếp của 
	người cùng con gái của người, trọn không móng lòng tham nhiễm, huống là tùng 
	sự dâm dục, huống là nơi phi đạo. 
	
	Tánh tự chẳng vọng ngữ. Bồ Tát luôn thật ngữ, chơn ngữ, thời ngữ, nhẫn đến 
	trong chiêm bao cũng còn chẳng nói lời phú tàng, vô tâm, vọng ngữ, huống là 
	cố ý nói dối. 
	
	Tánh tự chẳng lưỡng thiệt. Bồ Tát đối với chúng sanh không tâm ly gián, 
	không tâm não hại, chẳng đem lời người này đến nói với người kia để phá 
	người kia, chẳng đem lời người kia đến nói với người này để phá người này, 
	người chưa ly phá thời chẳng cho ly phá, người đã ly phá thời chẳng cho thêm 
	hơn. Chẳng mừng sự ly gián, chẳng ưa sự ly gián, chẳng nói lời ly gián. 
	Chẳng cho lời ly gián là thiệt hay chẳng thiệt. 
	
	Tánh tự chẳng ác khẩu, như là lời độc hại, lời thô tục, lời làm khổ người 
	khác, lời làm người khác sân hận, lời hiện tiền, lời chẳng hiện tiền, lời 
	xấu ác, lời dung tiện, lời bất nhã, lời làm người nghe không ưa, không vui, 
	lời giận dữ, lời như lửa đốt lòng, lời oán kết, lời nhiệt não, lời có thể 
	làm hại mình và người. Những ác khẩu như vậy đều bỏ lìa cả. Thường nói lời 
	lợi ích, lời mềm mỏng, lời đẹp dạ, lời thích nghe, lời làm người nghe vui 
	mừng, lời khéo vào tâm người, lời phong nhã điển tắc, lời nhiều người mến 
	thích, lời nhiều người vui đẹp, lời thân tâm hớn hở. 
	
	Tánh tự chẳng ỷ ngữ. Bồ Tát thường thích nói lời chín chắn, lời phải thời, 
	lời thiệt, lời đúng nghĩa, lời đúng pháp, lời thuận đạo lý, lời khéo điều 
	phục, lời tùy thời tính lường quyết định. Bồ Tát này nhẫn đến chơi cười còn 
	luôn suy nghĩ kỹ, huống là cố ý nói ra lời tán loạn. 
	
	Tánh tự chẳng tham lam. Bồ Tát này đối với tài vật đồ dùng của kẻ khác chẳng 
	móng tâm tham, chẳng mong cầu. 
	
	Tánh tự rời giận hờn. Bồ Tát này đối với tất cả chúng sanh luôn khởi tâm từ 
	mẫn, tâm lợi ích, tâm đau xót, tâm hoan hỷ, tâm hoà thuận, tâm nhiếp thọ, bỏ 
	hẳn sân hận oán hại nhiệt não, thường nghĩ đến thật hành nhơn từ lợi ích. 
	
	Tánh tự lìa tà khiến. Bồ Tát trụ nơi chánh đạo, chẳng coi bói, chẳng thọ lấy 
	cấm giới tà ác, tâm kiến chánh trực, không dua dối, quyết định tin nơi Phật, 
	Pháp, Tăng. 
	
	Chư Phật tử! Đại Bồ tát hộ trì mười nghiệp đạo lành như vậy không hề gián 
	đoạn. Lại tự nghĩ rằng, tất cả chúng sanh sa đọa nơi ác đạo đều do mười 
	nghiệp ác. Vì thế nên tôi phải tự tu chánh hạnh, cũng khuyên người khác tự 
	tu chánh hạnh. Vì mình không tự tu thời không thể bảo kẻ khác tu. 
	
	Chư Phật tử! Đại Bồ tát này lại nghĩ rằng: Mười nghiệp đạo ác là nhơn thọ 
	sanh nơi địa ngục, súc sanh và ngạ quỷ. Mười nghiệp đạo lành là nhơn thọ 
	sanh nơi loài người cõi Trời. 
	
	Lại thượng phẩm mười nghiệp đạo lành này dùng trí huệ để tu tập, vì tâm hẹp 
	kém, vì sợ sanh tử, vì thiếu đại bị, vì theo người Thanh Văn khác mà tỏ ngộ 
	thời thành Thanh Văn thừa. 
	
	Lại thượng phẩm mười nghiệp đạo lành này tu tập thanh tịnh, chẳng do người 
	khác dạy mà tự giác ngộ, vì chẳng đủ đại bi phương tiện, mà tỏ ngộ pháp nhơn 
	duyên thậm thâm thời thành Độc Giác thừa. 
	
	Lại thượng phẩm mười nghiệp đạo lành này tu tập thanh tịnh, vì tâm rộng vô 
	lượng, vì đầy đủ bi mẫn, vì phương tiện nhiếp thọ, vì phát sanh đại nguyện, 
	vì chẳng bỏ chúng sanh, vì mong cầu Phật trí, vì tu tập trí địa của Bồ Tát, 
	vì tịnh tu tất cả Ba la mật, mà thành hạnh quảng đại của Bồ Tát. 
	
	Lại thượng thượng phẩm mười nghiệp đạo lành này, vì Nhứt thiết chủng thanh 
	tịnh nhẫn đến chứng Thập lực, Tứ vô úy nên tất cả Phật pháp đều được thành 
	tựu. Vì những lẽ trên đây nên tôi bình đẳng thật hành mười nghiệp lành làm 
	cho tất cả đều thanh tịnh đầy đủ. 
	Những phương tiện như vậy Bồ Tát phải học. 
	
	Chư Phật tử! Đại Bồ tát này lại nghĩ rằng: Mười nghiệp đạo ác : Thượng phẩm 
	là nhơn địa ngục, trung phẩm là nhơn súc sanh, hạ phẩm là nhơn ngạ quỷ. 
	
	Trong đây về tội sát sanh có thể làm cho chúng sanh đọa địa ngục, súc sanh, 
	ngạ qủy. Nếu sanh trong loài người thời mắc hai quả báo: Mạng vắn và nhiều 
	bịnh. 
	
	Tội trộm cấp cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài 
	người thời mắc hai quả báo: Nghèo cùng và tài sản chung không được tự do 
	dùng. 
	
	Tội tà dâm cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người 
	thời mắc hai quả báo: Vợ không trinh lương và quyến thuộc không được tùy ý. 
	
	Tội vọng ngữ cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài 
	người thời mắc hai quả báo: Bị phỉ báng và bị khi dối. 
	
	Tội lưỡng thiệt cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài 
	người thời mắc hai quả báo: Quyến thuộc trái lìa và thân tộc tệ ác. 
	
	Tội ác khẩu cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người 
	thời mắc hai quả báo: Thường nghe tiếng ác và lời nói nhiều tranh cãi. 
	
	Tội ỷ ngữ cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người 
	thời mắc hai quả báo: Lời nói người không lãnh thọ và lời không rõ ràng. 
	
	Tội tham dục cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài 
	người thời mắc hai quả báo: Lòng không biết đủ và quá tham muốn không nhàm. 
	
	Tội sân hận cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người 
	thời mắc hai quả báo: Thường bị người khác tìm chỗ hay dở và luôn bị người 
	khác não hại. 
	
	Tội tà kiến cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người 
	thời mắc hai quả báo: sanh nhà tà kiến và tâm dua vạy. 
	
	Chư Phật tử! Mười nghiệp đạo ác có thể sanh vô lượng vô biên những quả khổ. 
	Do đây Bồ Tát nghĩ rằng: Tôi phải xa rời mười nghiệp ác. Làm vườn pháp an ổn 
	thích thú tự ở trong đó, cũng khuyên người khác cùng ở trong đó. 
	
	Chư Phật tử! Đại Bồ tát này với tất cả chúng sanh phát sanh tâm lợi ích, tâm 
	an lạc, tâm từ, tâm bi, tâm lân mẫn, tâm nhiếp thọ, tâm thủ hộ, tâm tự kỷ, 
	tâm Sư, tâm Đại Sư. 
	
	Bồ Tát nghĩ rằng: chúng sanh đáng thương đọa nơi rừng rậm tà kiến, trí ác, 
	muốn ác, đạo ác. Tôi phải làm cho họ trụ nơi chánh kiến tu hành đạo hành đạo 
	chơn thiệt. 
	
	Bồ Tát lại nghĩ rằng: Tất cả chúng sanh phân biệt bỉ ngã phá hoại lẫn nhau, 
	đấu tranh sân hận hẩy hừng không ngớt, tôi phải làm cho họ an trụ trong vô 
	thượng đại từ. 
	
	Bồ Tát lại nghĩ rằng: Tất cả chúng sanh tham lấy không biết nhàm, chỉ cầu 
	của cải tự sống bằng cách tà mạng. Tôi phải làm cho họ an trụ trong chánh 
	pháp thân, ngữ, ý thanh tịnh chánh mạng. 
	
	Bồ Tát lại nghĩ rằng: Tất cả chúng sanh thường theo tham, sân, si, các thứ 
	phiền não nhơn đó mà hẩy hừng, họ chẳng biết lập chí cầu phương tiện giải 
	thoát. Tôi phải làm cho họ dứt trừ tất cả lửa lớn phiền não, đặt họ vào chỗ 
	Niết Bàn thanh lương. 
	
	Bồ Tát lại nghĩ rằng: Tất cả chúng sanh bị màn đầy ngu si vọng kiến tối tăm 
	che đậy mà phải vào trong rừng rậm tối lòa, mất ánh sáng trí huệ, đi đường 
	hiểm đồng hoang sanh ác kiến. Tôi phải làm cho họ được trí nhãn thanh tịnh 
	không chướng ngại, biết tướng như thật của các pháp, chẳng theo người khác 
	dạy. 
	
	Bồ Tát lại nghĩ rằng: Tất cả chúng sanh ở trong đường hiểm sanh tử, sắp đọa 
	địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, vào trong lưới ác khiến, bị rừng tậm ngu si làm 
	mê, theo dõi đạo tà, làm hạnh điên đảo, ví như người mù không kẻ dắt đường. 
	Chẳng phải đạo giải thoát mà cho là đạo giải thoát. Vào cảnh giới ma, bị bọn 
	giặc ác nhiếp lấy, thuận theo tâm mà, xa lìa ý Phật. Tôi phải cứu họ ra khỏi 
	nạn hiểm như vậy, cho họ an trụ nơi thành Nhứt thiết trí vô úy. 
	
	Bồ Tát lại nghĩ rằng: Tất cả chúng sanh bị dòng nước chảy xiết sóng lớn nhận 
	chìm vào dòng dục, dòng sanh tử, dòng vô minh, dòng tà kiến, xoay lăn trong 
	sanh tử, trôi nổi trong sông ái nhiễm, mãi bị dồi giập không rảnh để quan 
	sát, rồi bị quan niệm tham dục, sân hận, độc hại không rời tâm họ, nên họ bị 
	quỷ La sát thân kiến bắt đem nhốt hẳn trong rừng rậm ái dục. Họ lại quá 
	nhiễm trước nơi chỗ tham ái, ở nơi gò ngã mạn, ngụ trong tụ lạc sáu căn. Nếu 
	không người cứu giỏi, thời không thể độ họ được. 
	
	Tôi phải phát khởi tâm đại bi đối với họ, dùng những thiện căn để cứu tế họ, 
	cho họ khỏi tai hoạn lìa nhiễm ô được thanh tịnh, mà ở an nơi thành báu Nhứt 
	thiết trí. 
	
	Bồ Tát lại nghĩ rằng: Tất cả chúng sanh ở trong lao ngục thế gian bị nhiều 
	khổ não, thường ôm lòng yêu ghét, tự mang lấy gông xiềng lo sợ tham dục, 
	rừng rậm vô minh che chướng họ, không thể thoát khỏi ba cõi. Tôi phải làm 
	cho họ ra khỏi hẳn ba cõi mà ở an nơi đại Niết Bàn vô ngại. 
	
	Bồ Tát lại nghĩ rằng: Tất cả chúng sanh chấp trước nơi ngã và ngã sở, chẳng 
	có ý muốn ra khỏi nhà tù ngũ uẩn, nương nơi tụ lạc trống rỗng, sáu căn phát 
	khởi bốn hạnh điên đảo, bị bốn rắn độc tứ đại cắn mổ, bị giặc thù ngũ uẩn 
	giết hại chịu vô lượng đau khổ. 
	
	Tôi phải làm cho họ ở an nơi chỗ tối thắng vô trước, chính là Vô thượng Niết 
	Bàn dứt hết mọi chướng ngại. 
	
	Bồ Tát lại tự nghĩ rằng: Tâm của chúng sanh hèn kém, chẳng chịu thật hành 
	đạo có thể Nhứt thiết trí. Dầu họ muốn giải thoát, nhưng họ chỉ thích hai 
	thừa Thanh Văn và Bích Chi Phật. Tôi phải làm cho họ an trụ nơi Phật pháp 
	quảng đại, nơi trí huệ quảng đại. 
	
	Bồ Tát này hộ trì giới cấm như vậy khéo có thể thêm lớn tâm từ bi. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát ở bực Ly Cấu Địa này, do nguyện lực mà được thấy nhiều 
	Phật, như là thấy trăm Đức Phật, ngàn đức Phật, trăm ngàn Đức Phật, nhẫn đến 
	thấy trăm ngàn ức na do tha đức Phật. 
	
	Ở chỗ Chư Phật, Bồ Tát này dùng tâm quảng đại thâm tâm cung kính tôn trọng 
	phụng thờ, cúng dường những thứ y phục, ăn uống, thuốc men, ngọa cụ, tất cả 
	đồ dùng. Và cũng cúng dường tất cả chúng Tăng. Đem công đức này hồi hướng Vô 
	thượng Bồ đề. 
	
	Ở chỗ Chư Phật, do tâm tôn trọng, Bồ Tát này lại thọ hành mười đạo pháp 
	lành, tùy chỗ đã thọ nhẫn đến Bồ đề trọn không quên mất. 
	
	Bồ Tát này từ vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp vì đã xa rời tội tham 
	giận phá giới nên hạnh bố thí, trì giới được thanh tịnh toàn vẹn. 
	
	Ví như Chơn kim để trong phàn thạch, đúng theo cách thức luyện xong thời lìa 
	tất cả cấu nhơ càng sáng sạch hơn. 
	
	Bồ Tát trụ bực Ly Cấu Địa này cũng như vậy. Trải qua vô lượng trăm ngàn ức 
	na do tha kiếp, vì xa lìa bợn nhơ tham sân phá giới, nên hạnh bố thí, trì 
	giới được thanh tịnh đầy đủ. 
	
	Chư Phật tử! Trong bốn nhiếp pháp, Bồ tát này thiên về ái ngữ nhiều. 
	
	Trong mười môn Ba la mật Bồ Tát này thiên nhiều về trì giới, với các pháp 
	khác thời tùy phần tùy sức. 
	
	Chư Phật tử! Đây là lược nói về bực Ly Cấu Địa. 
	
	Đại Bồ Tát trụ bực này, phần nhiều hiện thân làm Chuyển Luân Thánh Vương, 
	làm Đại pháp chủ, đầy đủ thất bửu, có sức tự tại, có thể trừ cấu nhiễm tham, 
	sân, phá giới của tất cả chúng sanh. 
	
	Dùng phương tiện khéo làm cho họ an trụ trong mười nghiệp đạo lành. Làm vị 
	đại thí chủ châu ấp vô tận. 
	
	Bao nhiêu công hạnh như bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều không rời niệm 
	Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, nhẫn đến chẳng rời niệm Nhứt thiết chủng trí. 
	
	Bồ Tát này lại nghĩ rằng: Nơi tất cả chúng sanh tôi sẽ là thượng thủ, là 
	thắng, là tối thắng, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, nhẫn đến 
	là chỗ y chỉ của Nhứt thiết chủng trí. 
	
	Bồ Tát này lúc muốn bỏ nhà để ở trong Phật pháp tinh tấn tu hành. Liền có 
	thể rời nhà vợ con, quyến thuộc, ngũ dục. Khi đã xuất gia thời siêng năng tu 
	tập, khoảng một niệm được ngàn tam muội, được thấy ngàn Đức Phật, biết thần 
	lực của ngàn Đức Phật, có thể chấn động ngàn thế giới, nhẫn đến có thể thị 
	hiện ngàn thân, mỗi thân thị hiện ngàn Bồ Tát làm quyến thuộc. Nếu dùng 
	nguyện lực thù thắng tự tại để thị hiện thời hơn số này, trong trăm ngàn ức 
	na do tha kiếp cũng chẳng đếm biết được. 
	
	Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này bèn nói kệ rằng: 
	
	Chất trực, nhu nhuyến và kham năng 
	
	Điều phục, tịch tịnh và thuần thiện 
	
	Ý rộng lớn mau thoát sanh tử 
	
	Do mười tâm vào đệ Nhị địa. 
	
	Ở đây thành tựu giới công đức 
	
	Xa lìa sát sanh chẳng não hại 
	
	Cũng lìa trộm cắp và tà dâm 
	
	Lìa hẳn vọng, ác, ly, ỷ ngữ. 
	
	Chẳng tham của cải thường xót thương 
	
	Chánh đạo, trực tâm không siểm ngụy 
	
	Rời hiểm, bỏ mạn, rất điều nhu 
	
	Y giáo thật hành chẳng phóng dật. 
	
	Địa ngục, súc sanh chịu khốn khổ 
	
	Ngạ quỷ đói khát miệng tuôn lửa 
	
	Tất cả đều do tội ác gây 
	
	Tôi phải lìa xa trụ thật pháp 
	
	Nhơn gian tùy ý được thọ sanh 
	
	Nhẫn đến thiền định Sắc, Vô sắc 
	
	Thanh Văn, Độc Giác đến Phật thừa 
	
	Điều nhơn thập thiện mà thành tựu. 
	
	Tư duy như vậy chẳng phóng dật 
	
	Tự gìn tịnh giới dạy người trì 
	
	Lại thấy quần sanh chịu đau khổ 
	
	Lại càng thêm lớn tâm đại bi. 
	
	Phàm phu tà kiến hiểu bất chánh 
	
	Thường giận hay hờn nhiều tranh cãi. 
	
	Tham cầu nhiễm trước không nhàm đủ 
	
	Tôi phải độ họ, trừ ba độc 
	
	Ngu si đen tối che trùm lấp 
	
	Vào đường hiểm lớn lưới tà kiến 
	
	Nhà giam sanh tử bị nhốt bắt 
	
	Tôi phải khiến họ dẹp giặc ma. 
	
	Bốn dòng đẩy trôi tâm chìm đắm 
	
	Ba cõi đốt thui vô lượng khổ 
	
	Chấp uẩn làm nhà, ngã ở trong 
	
	Vì muốn độ họ siêng hành đạo. 
	
	Dầu muốn giải thoát tâm lại kém 
	
	Bỏ xa vô thượng Phật trí huệ 
	
	Tôi muốn khiến họ trụ Đại thừa 
	
	Chuyên cần tinh tấn không nhàm đủ. 
	
	Bồ Tát ở đây chứa công đức 
	
	Thấy vô lượng Phật đều cúng dường 
	
	Ức kiếp tu hành thêm sáng sạch 
	
	Như dùng thuốc tốt luyện chơn kim, 
	
	Bồ Tát ở đây hiện Luân Vương 
	
	Độ khắp chúng sanh tu thập thiện 
	
	Bao nhiêu pháp lành đều tu tập 
	
	Để thành Thập lực cứu thế gian 
	
	Muốn bỏ Vương vị và tài bửu 
	
	Liền lìa nhà tục nương Phật giáo 
	
	Dũng mãnh tinh tấn trong một niệm 
	
	Được ngàn tam muội, thấy ngàn Phật. 
	
	Bao nhiêu tất cả sức thần thông 
	
	Bồ Tát Nhị địa đều hiện được 
	
	Nguyện lực đã làm lại hơn đây 
	
	Vô lượng tự tại độ quần sanh. 
	
	Người làm lợi ích khắp thế gian 
	
	Đã tu Bồ Tát hạnh tối thắng 
	
	Công đức đệ nhị địa như vậy 
	
	Vì các Phật tử đã khai diễn. 
	
	Phật tử được nghe công hạnh này 
	
	Cảnh giới Bồ Tát khó nghĩ bàn 
	
	Thảy đều cung kính lòng hoan hỷ 
	
	Rải hoa hư không để cúng dường. 
	
	Khen rằng: Lành thay đấng Đại Sĩ 
	
	Lòng từ thương xót các chúng sanh 
	
	Khéo nói luật nghi của trí giả 
	
	Và hành tướng trong đệ Nhị địa. 
	
	Đây diệu hạnh của chư Bồ Tát 
	
	Chơn thiệt không lạ không sai biệt. 
	
	Vì muốn lợi ích các quần sanh 
	
	Diễn nói như vậy rất thanh tịnh. 
	
	Tất cả Nhơn, Thiên đến cúng dường 
	
	Mong được nghe giảng đệ Tam địa 
	
	Những trí hạnh cùng pháp tương ưng 
	
	Cảnh giới như vậy mong nói đủ. 
	
	Phật có tất cả pháp: thí, giới, 
	
	Nhẫn nhục, tinh tấn, thiền, trí huệ. 
	
	Cùng với phương tiện đạo từ bi 
	
	Phật hạnh thanh tịnh xin nói hết. 
	
	Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát lại thưa: 
	
	Mong Kim Cang Tạng đại Bồ Tát 
	
	Giảng nói tiến vào đệ Tam địa 
	
	Tất cả công đức của bực này. 
	
	Kim Cang Tạng Bồ Tát nói với Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát: "Thưa Phật tử! Đại Bồ 
	Tát đã thanh tịnh đệ Nhị địa muốn vào đệ Tam địa, phải phát khởi mười thâm 
	tâm". 
	
	Đây là mười thâm tâm: 
	
	Tâm thanh tịnh, tâm an trụ, tâm nhàm bỏ, tâm lìa tham, tâm bất thối, tâm 
	kiên cố, tâm minh thành, tâm dũng mãnh, tâm rộng, tâm lớn. Bồ Tát do mười 
	tâm này mà được vào đệ Tam địa. 
	
	Chư Phật tử! Đại Bồ tát đã an trụ nơi đệ Tam địa quán sát tất cả pháp hữu vi 
	đúng với tướng chơn thật của nó. Chính là: Vô thường, khổ, bất tịnh, chẳng 
	an ổn, bại hoại, chẳng ở lâu, sát na sanh diệt, chẳng phải từ thuở trước 
	sanh, cũng chẳng phải theo thuở sau diệt, và chẳng phải trụ ở hiện tại. 
	
	Bồ Tát lại quan sát những pháp này không được cứu, không chỗ tựa, mà đồng ở 
	với lo, buốn, khổ, não, ràng buộc bởi yêu ghét, sầu thảm càng nhiều không hề 
	dừng, tham, sân, si hẩy hừng chẳng hề dứt, những họa hoạn vấn vít ngày đêm 
	thêm lớn, toàn là như huyễn hóa không thiệt. 
	
	Bồ Tát quan sát thấy như thế rồi, đối với pháp hữu vi càng thêm nhàm lìa mà 
	hướng đến Phật trí huệ. 
	
	Thấy Phật trí chẳng thể nghĩ bàn, vô đẳng vô lượng khó được, không tạp, 
	không não, không lo, đến thành trì vô úy không còn lui lại, có thể cứu thoát 
	vô lượng chúng sanh khổ nạn. 
	
	Bồ Tát thấy Phật trí vô lượng lợi ích, thấy tất cả pháp hữu vi vô lượng tội 
	lỗi, thời đối với tất cả chúng sanh phát sanh mười tâm xót thương. 
	
	Đây là mười tâm xót thương: 
	
	Thấy chúng sanh cô độc không chỗ tựa nương mà sanh lòng thương. 
	
	Thấy chúng sanh nghèo cùng khốn thiếu mà sanh lòng thương. 
	
	Thấy chúng sanh bị lửa tam độc đốt cháy mà sanh lòng thương. 
	
	Thấy chúng sanh bị lao tù mà sanh lòng thương. 
	
	Thấy chúng sanh bị rừng rậm phiền não luôn che chướng mà sanh lòng thương. 
	
	Thấy chúng sanh chẳng khéo quan sát mà sanh lòng thương. 
	
	Thấy chúng sanhkhông thích muốn pháp lành mà sanh lòng thương. 
	
	Thấy chúng sanh bỏ mất Phật pháp mà sanh lòng thương. 
	
	Thấy chúng sanh theo dòng sanh tử mà sanh lòng thương. 
	
	Thấy chúng sanh mất phương tiệngiải thoát mà sanh lòng thương. 
	
	Bồ Tát thấy chúng sanh giới vô lượng khổ não như vậy phát đại tinh tấn mà 
	nghĩ rằng: Với tất cả chúng sanh này tôi phải cứu, tôi phải giải thoát, tôi 
	phải thanh tịnh, tôi phải độ, tôi phải đặt họ ở chỗ lành, phải làm cho họ ở 
	an, cho họ hoan hỷ, cho họ thấy biết, cho họ điều phục, cho họ tịch diệt. 
	
	Bồ Tát nhàm lìa pháp hữu vi như vậy, lòng thương như vậy, biết Nhứt thiết 
	chủng trí có lợi ích thù thắng, muốn nương Phật trí để cứu độ chúng sanh. 
	
	Bồ Tát suy nghĩ rằng: Những chúng sanh này đọa trong khổ lớn phiền não, dùng 
	phương tiện gì để có thể cứu tế, cho họ an trụ trong sự vui cứu cánh Niết 
	Bàn?  
	
	Bồ Tát lại nghĩ rằng: Muốn độ chúng sanhcho họ an trụ nơi Niết Bàn quyết 
	không thể rời trí giải thoát vô ngại. 
	
	Trí này không rời như thiệt giác ngộ tất cả pháp. Giác ngộ này không rời huệ 
	quang của hạnh vô hành vô sanh. 
	
	Huệ quang này không rời thiền trí thiện xảo quyết định quán sát. Thiền trí 
	này chẳng rời đa văn hay khéo. 
	
	Bồ Tát suy gẫm như vậy rồi, đối với chánh pháp càng thêm siêng năn tu tập. 
	Ngày đêm chỉ mong nghe được pháp, vui nơi pháp, nương với pháp, thuận theo 
	pháp, hiểu nơi pháp, đến pháp, trụ tại pháp và thật hành chánh pháp. 
	
	Bồ Tát cần cầu Phật pháp như vậy, bao nhiêu của báu đều không lẫn tiếc, 
	chẳng thấy có vật khó được đáng trọng. Chỉ ở nơi người hay giảng thuyết Phật 
	pháp thời sanh lòng kính ngưỡng. Vì thế nên đối với tài vật và thân thể của 
	mình, Bồ Tát đều có thể xả thí để cầu Phật pháp. không có sự cung kính nào 
	mà chẳng làm được, không có sự kiêu mạn nào mà không bỏ được, không có sự 
	phụng thờ nào mà không làm được, không có sự cần khổ nào mà không chịu được. 
	
	Nếu được nghe một câu chánh pháp chưa từng nghe, lòng Bồ Tát rất vui mừng 
	hơn là được trân bửu đầy cả cõi Đại Thiên. Nếu nghe được một kệ chánh pháp 
	chưa từng nghe thời Bồ Tát rất vui mừng hơn là được ngôi Chuyển Luân Vương. 
	Nếu được nghe một kệ chánh pháp có thể thanh tịnh hạnh Bồ Tát, thời xem hơn 
	là được trăm ngàn vô lượng kiếp ở ngôi Đế Thích Phạm Vương. 
	
	Nếu có người bảo: Tôi có một câu Phật pháp có thể thanh tịnh hạnh Bồ Tát, 
	nếu Ngài có thể vào hầm lửa chịu nổi sự nóng cháy thời tôi sẽ cho Ngài. 
	
	Bấy giờ Bồ Tát tự nghĩ rằng: Tôi do một câu pháp của Phật nói mà được thanh 
	tịnh Bồ Tát hạnh, thời dầu ngọn lửa lớn đầy cõi Đại Thiên, tôi còn muốn từ 
	trên trời Phạm Thiên nhảy xuống lửa để lấy được câu Phật pháp, huống là hầm 
	lửa nhỏ này mà vào không được. Hiện tại tôi vì Phật pháp đáng lẽ phải lãnh 
	lấy tất cả sự khổ nơi địa ngục, huống là sự khổ nhỏ mọn nơi nhơn gian. 
	
	Bồ Tát này phát tâm tinh tấn cần cầu Phật pháp như vậy, như chỗ đã được nghe 
	mà suy gẫm tu hành. 
	
	Bồ Tát này khi đã nghe pháp liền nhiếp tâm an trụ nơi chỗ vắng lặng suy nghĩ 
	rằng: Như lời Phật dạy tu hành mới chứng được Phật pháp, chẳng phải chỉ 
	miệng nói mà thanh tịnh được. 
	
	Chư Phật tử! Lúc Bồ Tát này an trụ nơi Phát Quang Địa liền xa lìa dục ác, có 
	giác có quán, ly dục sanh hỷ lạc, trụ nơi Sơ thiền. Diệt giác quán, nhứt tâm 
	thanh tịnh không giác quán, định sanh hỷ lạc, trụ nơi đệ Nhị thiền. 
	
	Lìa hỷ trụ nơi xả, có niệm chánh biết thân thọ lạc Chư Phật đã nói, hay bỏ 
	có niệm, thọ lạc trụ đệ Tam thiền. 
	
	Dứt lạc, trước trừ sự khổ mừng lo, diệt bất khổ, bất lạc, xả niệm thanh tịnh 
	trụ đệ Tứ thiền. 
	
	Siêu tất cả sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, chẳng nhớ các thứ tưởng, vào hư 
	không vô biên, trụ hư không vô biên xứ Siêu tất cả hư không vô biên xứ nhập 
	vô biên thức, trụ thức vô biên xứ. 
	
	Siêu tất cả thức vô biên xứ, nhập vô thiểu sở hữu, trụ vô sở hữu xứ. 
	
	Siêu tất cả vô sở hửu xứ, trụ phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ. 
	
	Đây chỉ do tùy thuận theo pháp lành, trọn không thích không chấp. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát này tâm tùy nơi đức từ duy nhứt rộng lớn vô lượng, không 
	oán, không đối, không chướng, không não, đến khắp tất cả chỗ, khắp pháp giới 
	hư không giới, khắp tất cả thế gian. An trụ đức bi, hỷ và xả cũng như vậy. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát này được vô lượng sức thần thông, có thể chấn động đại 
	địa. Một thân hiện nhiều thân, nhiều thân làm một thân, hoặc ẩn hoặc hiển, 
	núi vách đá các vật chướng đều qua lại vô ngại như hư không. Ở giữa hu không 
	ngồi kiết già bay đi như chim bay. Vào đất như vào nước, đi trên nước như 
	trên đất. Thân phát khói lửa như đám lửa lớn, lại tuôn nước mưa như mây lớn. 
	Mặt trời, mật trăng ở hư không có oai lực lớn mà có thể lấy tay rờ rẫm bưng 
	nắm. Thân thể tự tại cao đến Phạm Thiên. 
	
	Thiên nhĩ của Bồ Tát này thanh tịnh hơn tai người, nghe được cả tiếng trời, 
	người nhẫn đến tiếng muỗi mòng không luận gần hay xa. 
	
	Bồ Tát này dùng tha tâm trí, biết tâm chúng sanh khác đúng như thật. Như 
	chúng sanh có tâm tham thời biết là có tâm tham, lìa tâm tham thời biết là 
	lìa tâm tham, có tâm sân hay tâm si, thời biết là có tâm sân hay tâm si, lìa 
	tâm sân hay lìa tâm si thời biết là lìa tâm sân, lìa tâm si. Nhẫn đến tán 
	tâm, định tâm, quảng đại tâm, vô lượng tâm, vô thượng tâm đều biết đúng như 
	thiệt. 
	
	Bồ Tát này nhớ biết vô lượng đời trước sai khác nhau. Như là nhớ biết một 
	đời, hai đời, nhẫn đến vô lượng trăm ngàn đời; kiếp thành, kiếp hoại, vô 
	lượng kiếp thành hoại. Thuở đó tôi từng ở xứ đó, tên họ đó, dòng họ như vậy, 
	ăn uống như vậy, sống bao lâu khổ vui như vậy. Từ xứ đó chết sanh đến xứ 
	này, hình dạng như vậy, tướng mạo như vậy, tiếng nói như vậy. Quá khứ vô 
	lượng đời sai khác như vậy đều có thể nhớ biết. 
	
	Bồ Tát này Thiên nhãn thanh tịnh hơn mắt người. Thấy các chúng sanh lúc sống 
	lúc chết, sắc tốt sắc xấu, đường lành đường dữ theo nghiệp mà đi. Nếu chúng 
	sanh đó gây tạo nghiệp ác nơi thân, nơi lời, nơi ý tưởng, chế nhạo Hiền 
	Thánh, đầy đủ tà kiến và nghiệp nhơn duyên tà kiến, sau khi chết tất đọa ác 
	đạo, sanh vào địa ngục. Nếu chúng sanh thân tạo nghiệp lành, lời và ý cũng 
	lành, chẳng khinh Hiền Thánh, đầy đủ chánh kiến và nghiệp nhơn duyên chánh 
	kiến, sau khi chết tất sanh thiện đạo trong loài trời, loài người.  
	
	Thiên nhãn của Bồ Tát đều thấy biết như thiệt. 
	
	Bồ Tát này đối với các Thiền, Tam muội, Tam ma bát đề, có thể nhập, có thể 
	xuất, nhưng chẳng nương sức thiền định để thọ sanh, mà chỉ theo chỗ có thể 
	viên mãn Bồ đề phần, dùng sức ý nguyện mà thọ sanh trong đó. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát này trụ bực Phát Quang Địa, do nguyện lực mà được thấy 
	nhiều đức Phật, được thấy trăm đức Phật, ngàn đức Phật, trăm ngàn đức Phật, 
	nhẫn đến thấy trăm ngàn ức na do tha đức Phật. Đều dùng quảng đại tâm, thâm 
	tâm để cung kính, tôn trọng, phụng thờ, cúng dường và cũng cúng dường chúng 
	Tăng.  
	
	Bồ Tát đem thiện căn này hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Ở chỗ Đức Phật, cung 
	kính nghe pháp nghe xong thọ trì rồi tùy sức mà tu hành. 
	
	Bồ Tát này quán sát tất cả pháp nhơn duyên bất sanh bất diệt mà có kiến 
	phược. 
	
	Trước dứt trừ tất cả dục phược, sắc phược và hữu phược, cả vo minh phược đều 
	càng yếu mỏng. 
	
	Vì trong vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng tích tập nên tham, sân, 
	si đều được trừ diệt. 
	
	Tất cả căn lành càng thêm sáng sạch. 
	
	Chư Phật tử! Ví như chơn kim khéo luyện thời cân chẳng giảm mà càng thêm 
	sáng sạch. 
	
	Cũng vậy, Bồ Tát trụ bực Phát Quang Địa này, vì chẳng tích tập nên tham, 
	sân, si đều dứt trừ, bao nhiêu thiện căn càng thêm sáng sạch. 
	
	Bồ Tát này về những tâm nhẫn nhục, nhu hòa, thuận hiệp, vui đẹp, chẳng sân, 
	chẳng động, chẳng trược, không cao hạ, chẳng mong đền đáp, lòng báo ân, tâm 
	chẳng dua vạy, chẳng phỉnh dối, không thâm hiểm, càng thêm thanh tịnh. 
	
	Trong bốn nhiếp pháp, Bồ Tát này thiên nhiều về lợi hành, và thiên nhiều về 
	nhẫn nhục trong mười môn Ba la mật. Với những pháp môn khác tùy phần, tùy 
	sức mà tu tập. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát trụ bực Phát Quang Địa thứ ba này phần nhiều hiện thân 
	làm Đao Lợi ThiênVương, có thể dùng phương tiện làm cho chúng sanh lìa bỏ 
	tham dục. Những công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều không rời 
	niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, nhẫn đến chẳng rời niệm đầy đủ Nhứt thiết 
	chủng trí. 
	
	Bồ Tát này lại nghĩ rằng: Nơi tất cả chúng sanh, tôi sẽ là thượng thủ, là 
	thắng, là thù thắng, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, nhẫn đến 
	là người y chỉ của Nhứt thiết chủng trí. 
	
	Bồ Tát này nếu chuyên cần tinh tấn, trong khoảng một niệm được trăm ngàn tam 
	muội, được thấy trăm ngàn đức Phật, biết thần lực của trăm ngàn đức Phật, có 
	thể chấn động trăm ngàn thế giới, nhẫn đến thị hiện trăm ngàn thân Phật, mỗi 
	mỗi thân Phật hiện trăm ngàn Bồ Tát làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực thù 
	thắng, Bồ Tát này tự tại thị hiện hơn số trên, trăm kiếp, ngàn kiếp, nhẫn 
	đến trăm ngàn ức na do tha kiếp không thể tính đếm biết được. 
	
	Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng: 
	
	Thanh tịnh an trụ tâm sáng thạnh 
	
	Tâm nhàm lìa, không tham, không hại 
	
	Tâm kiên cố, dũng mãnh, rộng lớn 
	
	Bực trí dùng đây vào Tam Địa 
	
	Bồ Tát trụ bực Phát Quang Địa 
	
	Quán thấy hữu vi, khổ, vô thường 
	
	Bất tịnh, bại hoại mau tan diệt 
	
	Không bền, không dừng, không qua lại. 
	
	Xem pháp hữu vi như bịnh nặng 
	
	Buộc ràng bởi ưu bi, khổ não 
	
	Lửa mạnh tam độc hằng cháy hực 
	
	Từ vô thủy đến nay chẳng dứt 
	
	Nhàm lìa ba cõi chẳng tham chấp 
	
	Chuyên cầu Phật trí không niệm lạ 
	
	Khó nghĩ khó lường không sánh kịp 
	
	Vô lượng vô biên không bức não 
	
	Thấy Phật trí rồi thương chúng sanh 
	
	Cô độc không chỗ nương cứu hộ 
	
	Ba độc cháy hừng thường thiếu khốn 
	
	Ở ngục ba cõi luôn chịu khổ. 
	
	Phiền não cột trói mê không trí 
	
	Chí nguyện hạ liệt mất pháp bửu 
	
	Tùy thuận sanh tử sợ Niết Bàn 
	
	Tôi phải cứu họ siêng tinh tấn. 
	
	Toan cầu trí huệ lợi chúng sanh 
	
	Nghĩ phương tiện gì khiến giải thoát. 
	
	Chẳng rời Như Lai trí vô ngại 
	
	Kia lại phát khởi huệ vô sanh. 
	
	Nghĩ rằng huệ này do nghe pháp 
	
	Suy nghĩ như vậy tự siêng gắng 
	
	Ngày đêm nghe tu không xen hở 
	
	Chỉ dùng chánh pháp làm tôn trọng. 
	
	Quốc thành, tiền của, các trân bửu 
	
	Vợ con, quyến thuộc và ngôi vua 
	
	Bồ Tát vì pháp tâm cung kính 
	
	Tất cả như vậy đều thí xả 
	
	Đầu, mắt, tai, mũi, lưỡi và răng 
	
	Tay, chân, xương, tủy, tim, máu, thịt 
	
	Thí xả tất cả chưa là khó 
	
	Chỉ cho nghe pháp là rất khó. 
	
	Dầu có ai đến nói Bồ Tát. 
	
	Nếu nhảy vào được trong hầm lửa 
	
	Tôi sẽ truyền cho Phật pháp bửu 
	
	Nghe nói vào lửa không khiếp sợ. 
	
	Dầu cho lửa đầy cõi Đại Thiên 
	
	Thân từ trời Phạm mà nhảy vào 
	
	Vì cầu Phật pháp xem không khó 
	
	Huống là nhơn gian những khổ nhỏ. 
	
	Từ sơ phát tâm đến thành Phật 
	
	Tất cả sự khổ ngục A Tỳ 
	
	Vì nghe Phật pháp đều chịu được 
	
	Huống là sự khổ của nhơn gian. 
	
	Nghe Phật pháp rồi Chánh tư duy 
	
	Lại được Tứ thiền, Vô sắc định 
	
	Tứ đẳng, Ngũ thông lần lượt khởi 
	
	Chẳng theo định lực để thọ sanh. 
	
	Bồ Tát ở đây thấy nhiều Phật 
	
	Cúng dường nghe pháp tâm quyết định 
	
	Dứt các tà hoặc càng thanh tịnh 
	
	Như luyện chơn kim chất không giảm. 
	
	Bực này thường làm Thiên Đế Thích 
	
	Hóa đạo vô lượng chúng cõi Trời 
	
	Khiến bỏ tâm tham ở đạo lành 
	
	Một bề chuyên cầu công đức Phật 
	
	Phật tử ở đây siêng tinh tấn 
	
	Trăm ngàn tam muội đều đầy đủ 
	
	Thấy trăm ngàn Phật thân oai nghiêm 
	
	Nếu dùng nguyện lực hơn vô lượng 
	
	Lợi ích khắp tất cả chúng sanh 
	
	Công hạnh tối thượng của Bồ Tát 
	
	Pháp Quang Địa có như vậy thảy 
	
	Tôi y theo nghĩa đã giải thích.  
	(Hán bộ quyển 36) 
	
	Phật tử đã nghe hạnh rộng lớn 
	
	pháp thù thắng thâm diệu đáng ưa 
	
	Lòng đều hớn hở rất mừng vui 
	
	Rải khắp hoa thơm cúng dường Phật. 
	
	Lúc Bồ Tát diễn diệu pháp này 
	
	Đại địa, biển cả đều chấn động 
	
	Tất cả Thiên nữ đều hoan hỷ 
	
	Đều phát diệu âm đồng ca ngợi 
	
	Tự Tại Thiên Vương rất vui mừng. 
	
	Rải ma ni bửu cúng dường Phật 
	
	Khen rằng: Phật vì ta xuất thế 
	
	Diễn nói công hạnh pháp đệ nhứt. 
	
	Nghĩa của các Địa như đã giải 
	
	Trong trăm ngàn kiếp rất khó gặp 
	
	Nay tôi bỗng nhiên mà được nghe 
	
	Diệu pháp thắng hạnh của Bồ Tát. 
	
	Mong lại diễn nói bực thông huệ 
	
	Đạo hạnh quyết định của Địa sau 
	
	Lợi ích tất cả hàng Trời, người 
	
	Đại chúng hội này đều mong mỏi. 
	
	Dũng mãnh đại tâm Giải Thoát Nguyệt 
	
	Thỉnh Kim Cang Tạng đại Bồ Tát: 
	
	Đệ tam chuyển vào đệ Tứ địa 
	
	Có hành tướng gì xin tuyên nói. 
	
	Kim Cang Tạng Bồ Tát bảo Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát rằng: Thưa Phật tử! Đại Bồ 
	Tát từ Đệ tam Phát Quang Địa đã khéo thanh tịnh, muốn vào Đệ tứ Diệm Huệ 
	Địa, phải tu hành mười pháp minh môn. 
	
	Đây là mười pháp: 
	
	Quán sát chúng sanh giới, quán sát pháp giới, quán sát thế giới, quán sát hư 
	không giới, quán sát thức giới, quán sát dục giới, quán sát sắc giới, quán 
	sát vô sắc giới, quán sát quảng tâm tín giải giới, quán sát đại tâm tín giải 
	giới, Bồ Tát do mười pháp minh môn này mà được vào Đệ tứ Diệm Huệ Địa. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát an trụ nơi Diệm Huệ Địa này thời vì có thể dùng mười 
	pháp do trí thành thục nên được nội pháp của đệ Tứ địa sanh vào nhà Như Lai. 
	
	Đây là mười pháp do trí thành thục: 
	
	Vì thâm tâm bất thối, vì trong Tam Bảo sanh tịnh tín rốt ráo chẳng hoại, vì 
	quán hành pháp sanh diệt, vì quán các pháp tự tánh vô sanh, vì quán thế gian 
	thành hoại, vì quán nhơn nơi nghiệp mà có sanh, vì quán sanh tử và Niết Bàn, 
	vì quán chúng sanh quốc độ nghiệp, vì quán thời gian trước thời gian sau, vì 
	quán vô sở hữu tận. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát trụ bực đệ Tứ địa này quán nội thân, theo thân quán niệm 
	siêng năng dũng mãnh trừ sự tham lo của thế gian. Quán ngoại thân, theo thân 
	quán niệm siêng năng dũng mãnh trừ sự tham lo của thế gian. Quán nội ngoại 
	thân, theo thân quán niệm siêng năng dũng mãnh trừ sự tham lo của thế gian. 
	
	Cũng vậy, quán nội thọ, ngoại thọ, nội ngoại thọ, theo thọ quán. Quán nội 
	tâm, ngoại tâm, nội ngoại tâm, theo tâm quán. Quán nội pháp, ngoại pháp, nội 
	ngoại pháp, theo pháp quán niệm siêng năng dũng mãnh trừ sự tham lo của thế 
	gian. 
	
	Bồ Tát này đối với pháp bất thiện chưa sanh, vì cho nó chẳng sanh mà muốn 
	siêng tinh tấn phát tâm chánh đoạn. Với pháp bất thiện đã sanh, vì dứt nó mà 
	muốn siêng tinh tấn phát tâm chánh đoạn. Với pháp thiện chưa sanh, vì cho nó 
	sanh mà muốn siêng tinh tấn phát tâm chánh hành. Với pháp thiện đã sanh, vì 
	cho nó còn mãi không mất càng thêm rộng lớn, mà muốn siêng tinh tấn phát tâm 
	chánh hành. 
	
	Bồ Tát này tu hành dục định, dứt hành pháp thành tựu thần túc, y chỉ nơi 
	yểm, y chỉ nơi ly, y chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả. Tu hành tinh tấn định, 
	tâm định, quán định, dứt hành pháp thành tựu thần túc, y chỉ nơi yểm, y chỉ 
	nơi ly, y chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả. 
	
	Bồ Tát này tu hành tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn, y chỉ 
	nơi yểm, y chỉ nơi ly, y chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả. 
	
	Bồ Tát này tu hành tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, huệ lực, y chỉ 
	nơi yểm, y chỉ nơi ly, y chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả. 
	
	Bồ Tát này tu hành niệm giác phần, trạch pháp giác phần, tinh tấn giác phần, 
	hỷ giác phận, khinh an giác phần, định giác phần, xả giác phần, y chỉ nơi 
	yểm, y chỉ nơi ly, y chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả. 
	
	Bồ Tát này tu hành chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh 
	mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, y chỉ nơi yểm, y chỉ nơi ly, y 
	chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả. 
	
	Bồ Tát tu hành những công đức như vậy, vì chẳng bỏ chúng sanh, vì bổn nguyện 
	giữ gìn, vì đại bi làm đầu, vì đại từ thành tựu, vì tư niệm Nhứt thiết chủng 
	trí, vì thành tựu trang nghiêm Phật độ, vì thành tựu đầy đủ lực, vô úy, bất 
	động, tướng hảo, âm thanh của Như Lai, vì cầu đạo thượng thượng thù thắng, 
	vì tùy thuận Phật pháp giải thoát thậm thâm đã nghe, vì tư duy đại trí thiện 
	xảo phương tiện. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát trụ bực Diệm Huệ Địa này, xuất nhập nơi tất cả chấp 
	trước thân kiến, ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, uẩn, xứ, giới, để tu duy 
	quán sát đối trị, tất cả sự chấp trước đều xa rời. 
	
	Bồ Tát này nếu thấy những nghiệp nào bị đức Như Lai quở trách, bị phiền não 
	nhiễm ô thời đều xa lìa. 
	
	Thấy những nghiệp nào được đức Như Lai khen ngợi, thuận đạo Bồ Tát, thời đều 
	tu hành. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát này tùy phát khởi huệ phương tiện đều tu tập đạo và trợ 
	đạo, vì vậy mà được tam nhuận trạch, tâm nhu nhuyến, tâm điều thuận, tâm lợi 
	ích an lạc, tâm không tạp nhiệm, tâm cầu pháp thù thắng thượng thượng, tâm 
	cầu trí huệ thù thắng, tâm cứu tất cả thế gian, tâm cung kính bực Tôn Đức 
	không trái lời dạy bảo, tâm khéo tu hành nơi pháp đã được nghe. 
	
	Bồ Tát này biết ơn, biết báo ơn, rất hòa lành đồng ở an vui, chất trực dịu 
	dàng, không tạp loạn, không ngã mạn, khéo lãnh lời dạy được lòng của người 
	nói. 
	
	Bồ Tát này thành tựu nhẫn như vậy, thành tựu điều như vậy, thành tựu tịch 
	diệt như vậy, thành tựu nhẫn điều nhu tịch diệt như vậy, lúc tác ý tu tập 
	công hạnh của địa sau, liền được tinh tấn không thôi nghỉ, tinh tấn chẳng 
	tạp nhiễm, tinh tấn chẳng thối chuyển tinh tấn rộng lớn, tinh tấn vô biên, 
	tinh tấn hẩy hừng, tinh tấn vô đẳng đẳng, tinh tấn vô năng hoại, tinh tấn 
	thành thục tất cả chúng sanh, tinh tấn khéo phân biệt là đạo hay phi đạo. 
	
	Bồ Tát này tâm giới thanh tịnh thâm tâm chẳng mất, ngộ giải sáng lanh, thiện 
	căn tăng trưởng, lìa cấu trược thế gian, dứt nghi lầm, đầy đủ minh đoán, đầy 
	đủ hỷ lạc, được chính đức Phật hộ niệm nên vô lượng chí nguyện đều được 
	thành tựu. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát ở bực đệ tứ Phát Quang Địa này do nguyện lực nên được 
	thấy nhiều đức Phật, nhẫn đến thấy trăm ngàn ức na do tha đức Phật, đều kính 
	trọng, phụng thờ, cúng dường và cũng cúng dường tất cả chúng Tăng. Đem thiện 
	căn này đều hồi hướng Vô thượng Chánh giác. Ở chỗ Chư Phật cung kính nghe 
	pháp, nghe xong thọ trì tu hành toàn vẹn. Rồi lại ở trong pháp của đức Phật 
	đó xuất gia tu hành. Rồi lại tu tập thâm tâm tín giải, trải qua vô lượng 
	trăm ngàn ức na do tha kiếp, cho các căn lành càng thêm sáng sạch. 
	
	Chư Phật tử! Ví như thợ kim hoàn luyện chơn kim làm thành đồ trang sức, 
	những kim khí khác không thể sánh kịp. 
	
	Cũng vậy, đại Bô`Tát trụ bực đệ Tứ địa này có bao nhiêu thiện căn, những 
	thiện căn của các bực dưới không thể sánh kịp. Như ma ni bửu thanh tịnh hay 
	phóng quang minh, những châu báu khác không thể sánh kịp, gió mưa không làm 
	hư được. 
	
	Cũng vậy, đại Bồ Tát trụ bực đệ Tứ địa này có bao nhiêu thiện căn, những 
	thiện căn của các bực dưới không thể so sánh kịp  
	
	Như ma ni bửu thanh tịnh hay phóng quang minh, những châu báu khác không thể 
	sánh kịp, gió mưa không làm hư được . 
	
	Cũng vậy, Đại bồ tát trụ bực đệ tứ địa này, các bồ tát bực dưới không thể 
	sánh kịp,các ma phiền nãođều không thể pháp hoại . 
	
	Trong bốn nhiếp pháp, Bồ Tát này thiên nhiều về đồng sự, trong mười môn ba 
	la mật thiên nhiều về tinh tấn. Với các pháp môn khác thời tuỳ phần tuỳ sức 
	mà tu tập . 
	
	Chư phật tử! đây là lược nói về bồ tát đệ tứ diệm huệ địa . 
	
	Bồ tát trụ bực này phần nhiều làm dạ ma thiên vương. Dùng thiện phương tiện 
	hay trừ thân kiến các thứ phiền não cho chúng sanh, khiến họ ở nơi chánh 
	kiến .  
	
	Tất cả công hạnh bố thí, ái ngư, lợi hành, đồng sự thảy đều không rời niệm 
	phật, niệm pháp, niệm tăng, nhẫn đến không rời niệm nhứt thiết chủng trí.  
	
	Bồ tát này lại nghĩ rằng: Trong tất cả chúng sanh, tôi sẽ là thượng thủ, là 
	thắng, là thù thắng, là diệu, là vi diệu, là thượng là vô thượng, nhẫn đến 
	là bực y chỉ của nhứt thiết chủng trí . 
	
	Bồ tát này nếu siêng tinh tấn thời trong khoảng một niệm được nhập ức số tam 
	muội, được thấy ức số đức phật, được biết thần lực của ức số đức phật, hay 
	chấn động ức số thế giới, nhẫn đến hay thị hiện ức số thân phật, mỗi mỗi 
	thân hiện ức số bồ tát làm quyến thuộc. Nếu do nguyện lực thù thắng thời bồ 
	tát này tự tại thị hiện hơn số trên đây, trong trăm ngàn ức na do tha kiếp 
	chẳng tính đếm mà biết được. 
	
	Kim cang tạng bồ tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:  
	
	Bồ tát đã tịnh đệ tam địa . 
	
	Kế quán chúng sanh, thế, pháp giới , 
	
	Không giới, thức giới và tam giới  
	
	Tâm hiểu thấu rõ hay thẳng vào . 
	
	Mới lên diệm địa thêm thế lực  
	
	Sanh nhà như lai trọn bất thối  
	
	Với phật, pháp, tăng tin sâu chắc  
	
	Quán pháp vô thượng và vô sanh  
	
	Quán thế thành hoại, nghiệp có sanh  
	
	Nghiệp có sanh tử, niết bàn cõi  
	
	Quán tiền hậu tế cũng quán tận  
	
	Tu hành như vậy sanh nhà phật . 
	
	Được pháp náy rồi sanh lòng từ  
	
	Càng thêm siêng tu tứ niệm xứ  
	
	Thân, thọ, tâm, pháp, nội ngoại quán  
	
	Tham ái thế gian đều trừ dứt .  
	
	Bồ tát siêng tu tứ chánh cần 
	
	Dứt trừ pháp ác, thêm thiện pháp  
	
	Thần túc, căn, lực đều khéo tu 
	
	Giác phần, chánh đạo cũng tinh tấn . 
	
	Vì độ chúng tu trợ đạo  
	
	Từ bi làm trước, bổn nguyện gìn  
	
	Cầu nhứt thiết trí và phật độ  
	
	Cũng nhớ thập lực của Như Lai  
	
	Tứ vô uý, thập bát bất cộng,  
	
	Tướng hảo trang nghiêm tiếng thâm mỹ  
	
	Cũng cầu diệu đạo chổ giải thoát  
	
	Và công hạnh tu hành đại phương tiện . 
	
	Thân kiến làm đầu sáu mươi hai  
	
	Ngã; ngã sở vô lượng thứ  
	
	Uẩn, xứ, giới thảy những chấp trước  
	
	Trong đệ tử địa lìa tất cả. 
	
	Như lai quở trách nghiệp phiền não  
	
	Là nhơn khổ hoạn đều dứt trừ, 
	
	Trí giả tu hành nghiệp thanh tịnh  
	
	Vì độ chúng sanh tu tất cả. 
	
	Bồ tát siêng tu chẳng giải đãi. 
	
	Liền được đầy đủ cả mười tâm  
	
	Chuyên cầu Phật đạo chẳng mỏi nhàm 
	
	Chí mong thọ chức độ muôn loại. 
	
	Kính trọng Tôn Đức tuân lời dạy 
	
	Biết ơn, dễ bảo không hờn giận 
	
	Bỏ mạn, lìa nịnh, lòng dịu dàng 
	
	Lại thêm siêng năng chẳng thối chuyển. 
	
	Bồ Tát trụ bực Diệm Huệ này 
	
	Tâm Ngài thanh tịnh trọn không mất 
	
	Ngộ giải quyết định, thêm căn lành 
	
	Lưới nghi uế trược đều dứt hết. 
	
	Bực Tứ Địa, tối thắng trong người 
	
	Cúng dường na do vô lượng Phật. 
	
	Được nghe chánh pháp cũng xuất gia 
	
	Không phá hoại được như vàng thiệt. 
	
	Bồ Tát Tứ Địa đủ công đức  
	
	Dùng trí phương tiện tu đạo hạnh 
	
	Chẳng bị loài ma tâm thối chuyển 
	
	Ví như ma ni không hư hoại. 
	
	Tứ Địa thường làm Dạ Thiên Vương 
	
	Tự tại nơi pháp chúng tôn trọng 
	
	Độ khắp quần sanh trừ ác kiến 
	
	Chuyên cầu Phật trí tu thiện nghiệp. 
	
	Bồ Tát càng thêm sức tinh tấn  
	
	Được chứng tam muội đều số ức 
	
	Nếu dùng nguyện lực tự tại làm 
	
	Quá hơn số ức không đếm được. 
	
	Như vậy Bồ Tát Diệm Huệ Địa 
	
	Diệu hạnh thanh tịnh đã thật hành 
	
	Công đức nghĩa trí cùng tương ưng 
	
	Vì chư Phật tử, tôi đã nói. 
	
	Đại chúng được nghe Diệm Huệ Hạnh 
	
	Tỏ ngộ diệu pháp lòng hoan hỷ 
	
	Rải hoa hư không khen ngợi rằng: 
	
	Lành thay Đại Sĩ Kim Cang Tạng! 
	
	Tự tại Thiên Vương cùng Thiên chúng 
	
	Nghe pháp hớn hở trụ hư không 
	
	Khắp phóng những mây sáng vi diệu 
	
	Cúng dường Như Lai lòng vui đẹp. 
	
	Chúng Thiên nữ hòa tấu Thiên nhạc 
	
	Cũng dùng lời ca khen ngợi Phật,  
	
	Đều do Bồ Tát sức oai thần 
	
	Trong tiếng đờn ca phát lời này: 
	
	Phật nguyện lâu xa nay mới đầy, 
	
	Phật đạo lâu xa nay mới được, 
	
	Thích Ca Mâu Ni đến Thiên cung 
	
	Đấng Thiên Nhơn Sư nay mới thấy, 
	
	Đại hải lâu xa nay mới động, 
	
	Phật quang lâu xa nay mới phóng. 
	
	Chúng sanh lâu xa mới an vui, 
	
	Tiếng đại từ bi lâu được nghe,  
	
	Hạnh Ba la mật đều đã đến 
	
	Kiêu mạn tối tăm đều đã trừ 
	
	Cùng tột thanh tịnh như hư không 
	
	Như hoa sen chẳng nhiễm thế pháp. 
	
	Đấng Đại Mâu Ni hiện ra đời 
	
	Ví như Tu Di vọi trên biển 
	
	Cúng Phật có thể dứt các khổ 
	
	Cúng dường tất được Như Lai trí,  
	
	Chỗ đây đáng cúng, không gì bằng 
	
	Thế nên hoan hỷ cúng dường Phật. 
	
	Vô lượng Thiên nữ như vậy thảy 
	
	Phát diệu âm thanh ca ngợi Phật  
	
	Tất cả cung kính rất vui mừng 
	
	Chiêm ngưỡng Như Lai, đứng yên lặng. 
	
	Bấy giờ Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt 
	
	Lại thỉnh Đại Sĩ Kim Cang Tạng 
	
	Hành tướng của Đệ Ngũ Địa kia 
	
	Mong đại Bồ Tát vì tuyên thuyết. 
	
	Kim Cang Tạng Bồ Tát bảo Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát rằng: Thưa Phật tử! Đại Bồ 
	Tát đệ tứ Diệm Huệ Địa công hạnh đã khéo viên mãn muốn vào đệ ngũ Nan Thắng 
	Địa, phải dùng mười thứ tâm bình đẳng thanh tịnh. 
	
	Đây là mười tâm: 
	
	Tâm bình đẳng thanh tịnh đối với Phật pháp quá khứ, tâm bình đẳng thanh tịnh 
	đối với Phật pháp vị lai, tâm bình đẳng thanh tịnh đối với Phật pháp hiện 
	tại, tâm bình đẳng thanh tịnh đối với giới, tâm bình đẳng thanh tịnh đối với 
	tâm, tâm bình đẳng thanh tịnh dứt trừ kiến nghi hối, tâm bình đẳng thanh 
	tịnh nơi trí đạo phi đạo, tâm bình đẳng thanh tịnh tu hành tri kiến, tâm 
	bình đẳng thanh tịnh nơi thượng thượng quán sát tất cả pháp Bồ đề phần, tâm 
	bình đẳng thanh tịnh giáo hóa tất cả chúng sanh.  
	
	Đại bồ tát dùng mười tâm bình đẳng thanh tịnh này mà được vào bực đệ ngũ nan 
	thắng địa. 
	
	Chư phật tử! Đại bồ tát đã an trụ bực đệ ngũ địa do khéo tu pháp bồ đề phần, 
	do khéo tịnh thâm tâm, do cầu thêm đạo thượng thắng, do tuỳ thuận chơn như, 
	do nguyện lực chấp trì, do từ mẫn không bỏ tất cả chúng sanh, do chứa nhóm 
	phước trí trợ đạo, do tinh tấn tu tập chẳng nghỉ, do xuất sanh phương tiện 
	thiện xảo, do quán sát chiếu rõ các bực trên, do được Như Lai hộ niệm, do 
	sức niệm trí chấp trì, mà được tâm bất thối chuyển.  
	
	Chư phật tử! Đại bồ tát này biết như thiệt đây là khổ thánh đế, đây thật là 
	khổ tập thánh đe, đây là khổ diệt thánh đế, đây là diệt đạo đế. 
	
	Bồ tát này khéo biết tục đế, khéo biết tướng đe, khéo biết sai biệt đế, khéo 
	biết thành lập đế, khéo biết sự đế, khéo biết sanh đế, khéo biết tận vô sanh 
	đế, khéo biết nhập đạo trí đế khéo biết tất cả bồ tát địa thứ đệ thành tựu 
	đế, nhẫn đến khéo biết Như Lai trí thành tựu đế. 
	
	Bồ tát này vì tuỳ lòng sở thích của chúng sanh làm cho họ hoan hỷ nên biết 
	tục đế. Vì thông đạt nhứt thiết tướng nên biết đệ nhứt nghĩa đế. Vì tỏ thấu 
	tự tướng cộng tướng của các pháp nên biết tướng đế. Vì rõ phần vị sai biệt 
	của các pháp nên biết sai biệt đế . Vì khéo phân biệt uẩn xứ giới nên thành 
	lập đế. Vì tỏ ngộ thân tâm khổ não nên biết sự đế. 
	Vì tỏ ngộ các loài sanh tương tục nên biết sanh đế . Vì tất cả nhiệt 
	não rốt ráo diệt nên biết tận vô sanh trí đế. Vì xuất sanh vô nhị nên biết 
	nhập đạo trí đế. Vì chánh giác ngộ tất cả hành tướng nên biết tất cả bồ tát 
	địa thứ đệ thành tựu đế nhẫn đến biết Như Lai trí thành tựu đế. 
	
	Đây là dùng sức tín giải trí mà biết chẳng phải dùng sức cứu cánh trí. 
	
	Chư phật tử! Đại bồ tát này được các đế trí thời biết như thiệt tất cả pháp 
	hửu vi hư vọng dối trá gạt phỉnh kẻ ngu, vì thế nên đối với tất cả chúng 
	sanh càng tăng thêm quang minh đại bi và đại từ. 
	
	Chư phật tử! Đại bồ tát được trí lực như vậy chẳng bỏ một chúng sanh, thường 
	cầu phật trí, quán sát như thiệt tất cả hạnh hửu vi về tiến tế và hậu tế; rõ 
	biết từ tiền tế vô minh, ái, hửu mà sanh, do đây sanh tử lưu chuyển. 
	
	Nơi các nhà ngũ uẩn không thể thoát ra, thêm lớn sự khổ, không ngã, không 
	thọ giả, không gì kẻ dưỡng dục, không gì là kẻ luôn thọ lấy than loài sau, 
	rời ngã và ngã sở. 
	
	Như tiền tế, hậu tế cũng như vậy đều là vô sở hửu, hư vọng tham trước, dứt 
	hết thời được giải thoát. Hoặc có hoặc không điều biết như thiệt. 
	
	Chư phật tử! Đại bồ tát này lại nghĩ rằng: Hàng phàm phu này ngu si vô trí 
	thật là đáng thương. Có vô số thân đã mất, nay mất, sẽ mất. Diệt mất như vậy 
	mà chẳng thể đối với thân có quan niệm nhàm lìa, lại thêm lớn cơ quan khổ 
	sở, theo dòng sanh tử chẳng trở lại được. Nơi những nhà ngũ uẩn chẳng cầu 
	thoát khỏi, chẳng biết lo sợ bốn rắn độc lớn, không nhổ đượcnhững mũi tên 
	kiêu mạn kiến chấp, không dập tắt được ngọn lưởi tham, sân, si, không pháp 
	tan được màn vô minh, không làm khô cạn được biển lớn ái dục. Họ chẳng biết 
	cầu đấng đại thánh đạo sư đủ mười trí lực, mà vào trong rừng rậm ma ý . Ở 
	trong biển sanh tử họ bị lượng sóng giác quán cuốn trôi nhận chìm.  
	
	Chư phật tử! Đại bồ tát này lại nghĩ rằng: những chúng sanh này thọ khổ như 
	vậy, có cùng khốn đốn, không chổ nương, không ai cứu, không đất, không nhà, 
	không mắt, không người dẫn dắt. Họ bị vô minh che loà, màn tối chụp trùm. 
	
	Nay tôi vì họ mà tu hành những pháp trợ đạo phước trí. Đơn độc pháp tâm 
	chẳng cầu bè bạn. Đem công đức này làm cho chúng sanh được rốt ráo thanh 
	tịnh, nhẫn đến chứng được mười trí lực vô ngại của Như Lai.  
	
	Chư phật tử! Đại bồ tát này dùng trí huệ quán sát thiện căn đã tu như vậy, 
	đều vì cứu hộ tất cả chúng sanh, lợi ích tất cả chúng sanh, an lạc tất cả 
	chúng sanh, thương xót tất cả chúng sanh, thành tựu tất cả chúng sanh, 
	thương xót tất cả chúng sanh, thành tựu tất cả chúng sanh, giải thoát tất cả 
	chúng sanh nhiếp thọ tất cả chúng sanh, khiến tất cả chúng sanh lìa những 
	khổ não, khiến tất cả chúng sanh đều được thanh tịnh, khiến tất cả chúng 
	sanh đều được điều phục, khiến tất cả chúng sanh chứng nhập niết bàn. 
	
	Chư phật tử! Đại bồ tát an trụ bực đệ ngũ nan thắng địa, gọi là " niệm" là 
	vì chẳng quên chánh pháp, gọi là " trí " là vì hay khéo nói quyết rõ, gọi là 
	" hửu thú" là vì biết ý thú kinh thứ đệ liên hiệp, gọi là " tàm quý" là vì 
	hộ mình hộ người, gọi là " kiên cố" là vì chẳng bỏ giới hạnh, gọi là "giác" 
	là vì hay quán sát thị xứ phi xứ, gọi là " tuỳ trí" là vì chẳng tuỳ nơi 
	khác, gọi là " tuỳ huệ" là vì khéo biết câu sai biệt đúng nghĩa hay chẳng 
	đúng nghĩa, gọi là " thần thông", là vì khéo tu thiền định, gọi là " phương 
	tiện thiện xảo" là vì có thể thật hành theo thế gian, gọi là " vô yểm túc" 
	là vì khéo chứa phước đức, gọi là " bất hưu tức " là vì thường cầu trí huệ, 
	gọi là " bất bì quyện " là vì chứa đại từ bi, gọi là " siêng tu vì người " 
	là vì muốn cho tất cả chúng sanh chứng nhập niết bàn, gọi là "cần cầu chẳng 
	giải đãi" là vì cầu trí lực, vô uý, bất cộng pháp của Như Lai, gọi là "mống 
	ý hay làm" là vì thành tựu trang nghiêm phật độ, gọi là " siêng tu công hạnh 
	lành" là vì hay đầy đủ tướng hảo, gọi là " thường siêng tu tập" là vì cầu 
	trang nghiêm thân, ngữ, ý Như Lai, gọi là " rất tôn trọng cung kính pháp" là 
	vì đúng như lời dạy của tất cả đại bồ tát mà thật hành, gọi là " tâm không 
	chướng ngại" là vì dùng đại phương tiện thường du hành thế gian, gọi là 
	"ngày đêm xa lìa những tâm khác" là vì thích giáo hoá chúng sanh. 
	
	Chư Phật tử! Lúc đại Bồ Tát siêng tu hành như vậy, dùng Bố thí để giáo hoá 
	chúng sanh, dùng ái ngữ lợi hành và đồng sự để giáo hoá chúng sanh. Thị hiện 
	sắc thân để giáo hoá chúng sanh, diễn thuyết các pháp để giáo hoá chúng 
	sanh, khai thị Bồ Tát hạnh để giáo hoá chúng sanh. Hiển thị oai lực lớn của 
	Như Lai để giáo hóa chúng sanh.  
	Hiển thị lỗi lầm khổ sở của sanh tử để giáo hoá chúng sanh. Khen ngợi trí 
	huệ lợi ích của Như Lai để giáo hoá chúng sanh. Hiện sức đại thần thông để 
	giáo hoá chúng sanh.  Dùng các 
	môn phương tiện để giáo hoá chúng sanh. 
	
	Chư Phật tử! Đại Bồ Tát này có thể siêng năng phương tiện như vậy để giáo 
	hoá chúng sanh. lòng luôn tương tục thẳng đến phật trí. Thiện căn đã tu 
	không hề thối chuyển. Thường siêng tu học những pháp hành thù thắng. 
	
	Chư Phật tử! Đại Bồ Tát này vì lợi ích chúng sanh nên gồm học tập tất cả kỹ 
	nghệ thế gian, thông đạt cả những môn văn tự, toán số, đồ thơ, ấn loát, các 
	sách luận về địa, thuỷ, hoả phong. 
	
	Lại giỏi phương thuốc trị lành các bịnh: điên cuồng, càn tiêu, quỷ mị, cổ 
	độc. 
	
	Lại giỏi những thứ văn bút, tán vịnh, ca vũ, kỷ nhạc,diễu cười, đàm luận. 
	
	Biết rành cách thức kiến thiết thành trì, thôn ấp, nhà cửa, vườn tược, suối 
	ao, cây cỏ, hoa trái, dược thảo. 
	
	Biết những nơi có mõ vàng, bạc, châu, ngọc. Giỏi xem biết rành mặt trời, mặt 
	trăng, tinh tú, chim hót, địa chấn, chiêm bao tốt xấu, thân tướng sang hèn. 
	
	Những môn trì giới, nhập thiền định, vô lượng thần thông, tứ vô sắc và tất 
	cả việc thế gian khác, nếu là những sự không làm tổn chúng sanh mà đem lại 
	lợi ích thời đều khai thị cho họ, lần đưa họ đến phật pháp vô thượng . 
	
	Chư Phật tử! Đại Bồ Tát trụ bực Nan Thắng Địa này, do nguyện lực được thấy 
	nhiều Đức phật, nhẫn đến thấy trăm ngàn ức na do tha đức phật, đều kính 
	trọng cúng dường, cũng cúng dường tất cả chúng tăng. 
	
	Đem thiện căn này hồi hướng vô thượng Bồ đề, nơi Chư Phật cung kính nghe 
	pháp, nghe xong thọ trì tuỳ sức tu hành. Sau đó xuất gia lại nghe Phật pháp 
	được đà la ni làm bật văn trì pháp sư, ở nơi địa này trãi qua trăm kiếp nhẫn 
	đến vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp, những thiện căn đã có càng thêm 
	sáng sạch. 
	
	Chư Phật tử! Ví như chơn kim dùng ngọc xa cừ để dồi bóng thời càng thêm sáng 
	sạch. 
	
	Cũng vậy, Bồ Tát này dùng phương tiện huệ tư duy quán sát, những thiện căn 
	đã có càng thêm sáng sạch. 
	
	Chư Phật tử! Bồ Tát trụ bực Nan Thắng Địa dùng tiện trí thành tựu công đức, 
	những thiện căn của bực dưới không thể sánh kịp. 
	
	Chư Phật tử! như mặt trời mặt trăng cung điện quang minh do sức gió chấp trì 
	nên không bị chướng ngăn phá hoại, cũng chẳng phải sức gió khác làm khuynh 
	động được. 
	
	Cũng vậy, những thiện căn của bực Bồ Tát này, do phương tiện trí theo dõi 
	quán sát nên không bị ngăn hoại, cũng chẳng phải thiện căn của tất cả Độc 
	giác, Thanh văn và thế gian làm khuynh động được. 
	
	Trong mười môn ba la mật, Bồ Tát này thiên nhiều về thiền ba la mật, với các 
	môn khác thời tuỳ phần tuỳ sức. 
	
	Chư Phật tử! đây là lược nói về đệ ngũ Nan Thắng Địa Bồ Tát. 
	
	Bồ Tát ở bực này thường làm Đâu suất thiên vương. Đối với chúng sanh đều 
	được tự tại, dẹp trừ tất cả ngoại đạo tà kiến, có thể làm cho chúng sanh trụ 
	trong thiệt đế. 
	
	Tất cả công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều chẳng rời niệm phật, 
	niệm pháp, niệm tăng, nhẫn đến chẳng rời niệm đầy đủ nhứt thiết chủng trí. 
	
	Bồ Tát này lại nghĩ rằng: Tôi sẽ ở trong chúng sanh làm thượng thủ, làm 
	thắng, làm thù thắng, làm diệu, làm vi diệu, làm thượng làm vô thượng, nhẫn 
	đến làm bực y chỉ của nhứt thiết chủng trí. 
	
	Bồ Tát này nếu phát cần tinh tấn, trong khoảng một niệm được ngàn ức tam 
	muội, thấy ngàn ức Đức Phật, biết thần lực của ngàn ức Đức Phật, có thể chấn 
	động ngàn ức thế giới, nhẫn đến thị hiện ngàn ức thân phật, mỗi mỗi thân 
	hiện ngàn ức Bồ Tát làm quyến thuộc . 
	
	Nếu dùng nguyện lực thù thắng tự tại để thị hiện thời hơn số trên đây, nhẫn 
	đến trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể đếm được. 
	
	Kim cang tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng: 
	
	Bồ Tát tứ địa đã thanh tịnh  
	
	Tư duy tam thế phật bình đẳng  
	
	Giới,tâm,trừ nghi,đạo phi đạo,  
	
	Quán sát như vậy vào ngũ địa. 
	
	Niệm xứ làm cung, căn làm tên 
	
	Chánh cần làm ngựa, xe, thần túc, 
	
	Giáp sắt ngũ lực phá oán địch,  
	
	Mạnh mẽ bất thối vào ngũ địa,  
	
	Tàm quý y phục, hoa giác phần  
	
	Tịnh giới y phục, hoa giác phần  
	
	Tịnh giới làm hương, thiền hương thoa  
	
	Trí huệ phương tiện diệu trang nghiêm  
	
	Vào rừng tổng trì, vườn tam muội. 
	
	Như ý làm chân, cổ chánh niệm, 
	
	Từ bi làm mắt, răng trí huệ, 
	
	Đấng sư tử vô ngã rống vang động. 
	
	Phá giặc phiền não vào ngũ địa  
	
	Bồ Tát trụ bực đệ ngũ này  
	
	Chuyển tu thắng thượng đạo thanh tịnh  
	
	Chí cầu Phật pháp chẳng bất thối chuyển  
	
	Gẩm nhớ từ bi không nhàm mõi. 
	
	Chứa nhóm phước trí thắng công đức  
	
	Tinh tấn phương tiện quán bực trên  
	
	Phật lực gia hộ đủ niệm huệ  
	
	Rõ biết tứ đế như thiệt. 
	
	Khéo biết thế đế, thắng nghĩa đế  
	
	Tướng đế, sai biệt thành lập đế 
	
	Sự đế, sanh, tận và đạo đế. 
	
	Nhẫn đến Như Lai vô ngại đế. 
	
	Quán đế như vậy đầu vi diệu  
	
	Chưa được vô ngại thắng giải thoát 
	
	Do đây hay sanh thắng công đức 
	
	Cho nên vượt hơn thế trí huệ 
	
	Đã quán đế rồi biết hửu vi 
	
	Thể tánh hư dối không bền chắc  
	
	Được phần từ quang của chư phật 
	
	vì lợi chúng sanh cầu phật trí  
	
	Quán pháp hửu vi thuở trước sau 
	
	Vô minh tối tăm, ái ràng buộc  
	
	Lưu chuyển xoắn trong quả khổ  
	
	Không ngã, không nhơn, không thọ mạng  
	
	Ái thủ làm nhơn thọ khổ sau  
	
	Muốn tìm ngằn mé không thể được 
	
	Mê vọng trôi chìm không thuở về  
	
	Bọn này đáng thương tôi phải độ 
	
	Nhà: uẩn, rắn: cõi, mũi tên: chấp  
	
	Tâm hoả hừng hực, si tối nặng  
	
	Sông ái cuốn trôi chẳng rảnh xem  
	
	Biển khổ dật dờ không người dắt 
	
	Rõ biết như vậy siêng tinh tấn  
	
	Chổ làm đều vì độ chúng sanh  
	
	Gọi là người có niệm có huệ  
	
	Nhẫn đến có giác giải phương tiện  
	
	Tu tập phước trí không nhàm đủ 
	
	Cung kính đa văn chẳng mõi nhàm  
	
	Cõi nước tướng hảo đều trang nghiêm  
	
	Như vậy đều ví chúng sanh cả  
	
	Vì muốn giáo hoá các thế gian  
	
	Giỏi biết thơ số cách ấn loát  
	
	Và cũng biết rành các phương thuốc  
	
	Chửa trị bịnh tật đều được lành 
	
	Văn từ, ca vũ đều khéo giói  
	
	Nhà cửa, vườn ao đều an ổn  
	
	Mõ vàng, bạc ngọc đều pháp hiện  
	
	Vô lượng chúng sanh nhờ lợi ích  
	
	Nhựt, nguyệt, tinh tú và địa chấn 
	
	Nhẫn đến thân tướng cũng quán sát  
	
	Tứ thiền, vô sắc và thần thông  
	
	Vì lợi thế gian đều hiển thị  
	
	Trí giả trụ bực nan thắng này  
	
	Cúng vô lượng phật và nghe pháp  
	
	Như dùng diệu bửu trau chơn kim 
	
	Thiện căn đã có càng sáng sạch 
	
	Ví như tinh tú ở hư không  
	
	Phong lực chấp trì không tổn động . 
	
	Cũng như hoa sen không dính nước  
	
	Bồ Tát độ đời cũng như vậy 
	
	Bực này thường làm Đâu suất vương  
	
	Hay dẹp ngoại đạo các tà kiến 
	
	Nguyện được thập lực độ tận chúng sanh  
	
	Ngài tu hành đại tinh tấn  
	
	Liền được cúng dường ngàn ức phật  
	
	Đắc định, động cõi cũng ngàn ức  
	
	Nếu là nguyện lực lại hơn đây 
	
	Bồ Tát đệ ngũ nan thắng địa  
	
	Chơn đạo tối thượng trong nhơn gian  
	
	Tôi cùng các môn phương tiện lực  
	
	Vì Chư Phật đã tuyên thuyết  
	(Hán bộ quyển 37) 
	
	Bồ Tát đã nghe những thắng hạnh  
	
	Lòng rất hoan hỷ rải hoa thơm  
	
	Phóng tịnh quang minh rải bửu châu  
	
	Cúng duờng Như Lai khen nói giỏi 
	
	Trăm ngàn thiên chúng đều vui mừng  
	
	Đồng ở hư không rải các báu 
	
	Tràng hoa, chuổi ngọc và tràng phan  
	
	Lọng báu, hương thoa đều cúng phật 
	
	Tự tại thiên vương cùng quyến thuộc  
	
	Lòng sanh hoan hỷ trụ hư không  
	
	Rải báu thành mây dùng cúng dường  
	
	Khen rằng Phật tử khéo tuyên thuyết! 
	
	Vô lượng thiên nữ ở hư không  
	
	Đồng tấu nhạc âm ca ngợi phật  
	
	Trong tiếng ca nhạc đều nói rằng  
	
	Lời phật hay trừ bịnh phiền não  
	
	Pháp tánh bổn tịch không hình tướng  
	
	Dường như hư không chẳng phân biệt  
	
	Ngoài những chấp trước, tuyệt nói phô  
	
	Chơn thiệt bình đẳng thường thanh tịnh  
	
	Nếu muốn thông đạt các pháp tánh  
	
	Nơi có, nơi không lòng chẳng động  
	
	Vì muốn cứu đời siêng tu hành  
	
	Từ miệng phật sanh chơn Phật tử 
	
	Bố thí vẫn không thấy có tướng 
	
	Vốn đứt điều ác gìn giử tịnh giới  
	
	Hiểu pháp không hại, thường nhẫn nhịn 
	
	Biết pháp tánh ly, chuyên tinh tấn 
	
	Đã hết phiền não vào thiền định  
	
	Khéo đạt tánh không,phan biệt pháp 
	
	Đầy đủ trí lực, hay cứu rộng  
	
	Diệt trừ điều ác xưng đại sĩ  
	
	Diệu âm như vậy ngàn vạn thứ  
	
	Khen rồi đứng yên chiêm ngưỡng phật . 
	
	Giải thoát nguyệt Bồ Tát rằng: Thưa Phật tử! Đại Bồ Tát đã đủ đệ ngũ địa 
	muốn vào đệ lục hiện tiền địa phải quán sát mười pháp bình đẳng  
	
	Đây là mười pháp: 
	
	Tất cả pháp vì vô tướng nên bình đẳng vì vô thể nên bình đẳng, vì vô sanh 
	nên bình đẳng, vì vô diệt nên bình đẳng, vì bổn lai thanh tịnh nên bình 
	đẳng, vì không hý luận nên bình đẳng, vì không thủ xã nên bình đẳng, vì tịch 
	tịnh nên bình đẳng. Vì như huyễn, như mộng, như bóng, như vang, như trăng 
	trong nước, như tượng trong gương, như dương diệm, như biến hoá nên bình 
	đẳng, vì có không bất nhị nên bình đẳng. 
	
	Bồ Tát quán sát các pháp như vậy, tự tánh thanh tịnh, tuỳ thuận không trái 
	được vào đệ lục Hiện Tiền Địa, được minh lợi tuỳ thuận nhẫn, chưa được vô 
	sanh pháp nhẫn. 
	
	Chư Phật tử! Đại Bồ Tát này quán như vậy rồi, lại lấy đại bi làm đầu, đại bi 
	tăng thượng, đại bi đầy đủ, quán thế gian sanh diệt mà nghĩ rằng: 
	
	Thế gian thọ sanh đều do chấp ngã, nếu lìa chấp ngã thời không chỗ sanh. 
	
	Lại nghĩ rằng: phàm phu không trí huệ chấp lấy ngã thường tìm có không, suy 
	xét bất chánh, khởi vọng hạnh, làm đạo tà, nghiệp tội, nghiệp phước, nghiệp 
	bất động tích tập thêm lớn. Ở trong các nghiệp hành trồng hột giống tâm hửu 
	lậu hữu thú, lại khởi hậu hữu: sanh và lão tử. chính là: nghiệp làm đồng 
	ruộng, thức làm hột giống, vô minh che rợp, nước ái thấm nhuần, ngã mạn tưới 
	bón, lưới chấp kiến thêm lớn, mọc mầm danh sắc, danh sắc thêm lớn nẩy chồi 
	ngũ căn, các căn đối nhau sanh ra xúc, xúc đối sanh có thọ, sau khi thọ rồi 
	mong cầu sanh có ái, ái tăng thêm sanh ra thủ, thêm lớn thủ sanh ra hữu, đã 
	sanh hữu thời ở trong các loài khởi thân ngũ uẩn gọi là sanh, suy biến gọi 
	là lão,chết mất gọi là tử. Lúc lão tử sanh ra những nhiệt não, Do nhiệt não 
	nên đủ thứ khổ ưu sầu, buồn than tập họp lại. Đây là do duyên mà tập họp chớ 
	không có cái tập họp.Lần lượt mà diệt chớ không có cái diệt. 
	
	Bồ Tát tuỳ thuận quán sát tương duyên khởi như vậy. 
	
	Chư Phật tử! Đại Bồ Tát này lại nghĩ rằng: vì chẳng tỏ ngộ nơi đệ nhứt nghĩa 
	đế nên gọi là vô minh. 
	
	Nghiệp quả là hành, sơ tâm của hành y chỉ là thức. Bốn uẩn cùng thức sanh 
	chung là danh sắc. Danh sắc tăng trưởng là lục nhập. Căn, cảnh, thức ba thứ 
	hòa hiệp là xúc. Xúc sanh chung mà có thọ. Nhiễn trước nơi thọ là ái thêm 
	lớn ái thành ra thủ. Nghiệp hữu lậu do thủ khởi lên là hữu. Từ nghiệp khởi 
	ra uẩn là sanh. Uẩn chín mùi là lão. Uẩn hư hoại là tử. Lúc tử ly biệt ngu 
	mê tham luyến trong lòng phiền muộn là sầu. Rơi lệ than thở là thán. 
	Tại năm căn là khổ Tại ý tưởng là ưu. Ưu khổ càng nhiều là não. 
	
	Như thế thì chỉ có cây khổ làm tăng trưởng, trọn không ngã không ngã sở, 
	không tác giả, không thọ giả. 
	
	Lại nghĩ rằng: Nếu có tác giả thời có tác sự, Nếu không tác giả thời không 
	tác sự .Trong đệ nhứt nghĩa đế hoàn toàn bất khả đắc . 
	
	Chư Phật tử! Đại Bồ Tát này lại nghĩ rằng: toàn cả tam giới chỉ có nhứt tâm, 
	ở đây đức Như Lai phân biệt diễn nói mười hai chi, đều y cứ nhứt tâm mà an 
	lập như vậy. 
	
	Tại sao vậy? vì theo sự tham dục cùng tâm sanh chung .Tâm là thức, sự là 
	hành, Mê lầm nơi hành là vô minh .Cùng vô minh và tâm sanh chung là danh sắc 
	.Tăng trưởng danh sắc là lục nhập. 
	Lục nhập ba phần là xúc. Xúc sanh chung là thọ. Thọ không nhàm đủ là 
	ái. Ái nhiếp chẳng bỏ là thủ. Các hữu chi sanh là hữu, của hữu phát khởi gọi 
	là sanh .Sanh thục là lão, Lão hoại là tử 
	
	Chư Phật tử! Trong đây vô minh có hai thứ nghiệp: một là làm cho chúng sanh 
	mê nơi cảnh sở duyên, hai là làm nhơn sanh khởi cho hành . 
	
	Hành cũng có hai thứ nghiệp: một là có thể sanh ra báo vị lai, hai là làm 
	nhơn sanh khởi cho thức. 
	
	Thức cũng có hai thứ nghiệp: một là khiến các hữu nối tiếp, hai là làm nhơn 
	sanh khởi cho danh sắc . 
	
	Danh sắc cũng có hai thứ nghiệp: một là trợ thành lẫn nhau, hai là làm nhơn 
	sanh khởi cho lục nhập. 
	
	Lục nhập cũng có hai thứ nghiệp một là đều riêng lấy cảnh giới của tự mình, 
	hai là làm nhơn sanh khởi cho xúc. 
	
	Xúc cũng có hai thứ nghiệp: một là hay xúc cảnh sở duyên, hai là làm nhơn 
	sanh khởi cho thọ. 
	
	Thọ cũng có hai nghiệp: một là hay lãnh thọ các sự yêu ghét, hai là làm nhơn 
	sanh khởi cho ái. 
	
	Ái cũng có hai nghiệp: một là nhiễm trước sự khả ái, hai là làm nhơn sanh 
	khởi cho thủ. 
	
	Thủ cũng có hai nghiệp: một là làm cho các phiền não nối tiếp, hai là làm 
	nhơn sanh khởi cho hữu. 
	
	Hữu cũng có hai nghiệp: một là hay làm cho sanh trong các loài, hai là làm 
	nhơn sanh khởi cho sanh. 
	
	Sanh cũng có hai nghiệp: một là hay khởi các uẩn, hai là làm nhơn sanh khởi 
	cho lão. 
	
	Lão cũng có hai nghiệp: một là làm cho các căn biến đổi, hai là làm nhơn 
	sanh khởi cho tử. 
	
	Tử cũng có hai thứ nghiệp: một là hay làm hoại cách hành, hai là vì chẳng 
	giác tri nên nối tiếp chẳng dứt. 
	
	Chư Phật tử! Trong đây vô minh, duyên hành, nhẫn đến sanh duyên lão tử. Do 
	vô minh làm duyên, nhẫn đến sanh làm duyên làm cho hành nhẫn đến lão tử 
	chẳng dứt, vì nó trợ thành vậy. 
	
	Vô minh diệt thời hành diệt, nhẫn đến sanh diệt thời lão tử diệt. Do vô minh 
	chẳng làm duyên nhẫn đến sanh chẳng làm duyên, khiến cho hành nhẫn đến lão 
	tử dứt diệt, vì nó chẳng trợ thành vậy. 
	
	Chư Phật tử! Trong đây vô minh ái và thủ chẳng dứt là phiền não đạo. Hành và 
	hữu chẳng dứt là nghiệp đạo. Những phần khác chẳng dứt là khổ đạo. 
	
	Tiền tế hậu tế phân biệt dứt diệt thời ba đạo dứt diệt. 
	
	Ba đạo như vậy lìa ngã, lìa ngã sở, chỉ có sanh diệt dường như bó lau. 
	
	Lại vô minh duyên hành là quán quá khứ. Thức nhẫn đến thọ là quán hiện tại. 
	Ái nhẫn đến hữu là quán vị lai .Từ đây về sau xoay vần tiếp nối. 
	Vô minh diệt, hành diệt, đó là quán chờ dứt diệt. 
	
	Lại mười hai hữu chi gọi là tam khổ. 
	Trong đây vô minh, hành đến lục nhập là hành khổ. Xúc, thọ là khổ 
	khổ. Những chi khác là hoại khổ. 
	
	Vô minh diệt, hành diệt đó là ba khổ dứt. 
	
	Lại vô minh duyên hành là vô minh làm nhơn hay sanh các hành. 
	Các chi khác cũng vậy. 
	
	Vô minh diệt hành diệt đó là do không vô minh thời hành cũng không. Các chi 
	khác cũng vậy. 
	
	Lại vô minh duyên hành đó là sanh phược, vô minh diệt hành diệt đó là diệt 
	hệ phược. Các chi khác cũng vậy. 
	
	Lại vô minh duyên hành đó là tùy thuận vô sở hữu quán, vô minh diệt hành 
	diệt đó là tùy thuận tận diệt quán. Các chi khác cũng vậy. 
	
	Chư Phật tử! Đại Bồ Tát quán nghịch thuận các duyên khởi có mười cách như 
	vậy là vì hữu chi nối tiếp, vì nhiếp tại nhứt tâm, vì tự nghiệp sai biệt, vì 
	chẳng bỏ lìa nhau, vì tam đạo chẳng dứt, vì quán quá khứ, hiện tại, vị lai, 
	vì ba khổ tụ tập, vì nhơn duyên sanh diệt, vì sanh diệt hệ phược, vì vô sở 
	hữu quán và tận quán. 
	
	Chư Phật tử! Đại Bồ Tát dùng mười tướng như vậy quán các duyên khởi biết là 
	vô ngã, vô nhơn, vô thọ mạng, tự tánh không, chẳng có tác giả, không có thọ 
	giả, liền được môn không giải thoát hiện tiền. 
	
	Quán các hữu chi đều là tự tánh diệt, rốt ráo giải thoát, không có chút pháp 
	tướng sanh, liền được môn vô tướng giải thoát hiện tiền. 
	
	Nhập không, vô tướng rồi, không nguyện cầu, chỉ trừ đại bi làm đầu giáo hoá 
	chúng sanh , liền được môn vô nguyện giải thoát hiện tiền. 
	
	Bồ Tát tu ba môn giải thoát như vậy, lìa tưởng ngã, lìa tưởng tác giả, tưởng 
	thọ giả, lìa tưởng hữu vô 
	
	Chư Phật tử! Đại Bồ Tát này đại bi càng tăng thêm siêng năng tu tập, vì chưa 
	viên mãn pháp Bồ đề phần nên làm cho viên mãn. 
	
	Bồ Tát nghĩ rằng: Tất cả hữu vi, có hoà hiệp thời chuyển, không hoà hiệp 
	thời không chuyển. 
	
	Duyên nhóm thời chuyển, duyên không nhóm thời chẳng chuyển. 
	
	Tôi biết pháp hữu vi có nhiều lỗi hoạ như vậy, nay phải dứt nhơn duyên hoà 
	hiệp này, nhưng vì phải thành tựu chúng sanh nên cũng chẳng dứt các công 
	hạnh. 
	
	Chư Phật tử! Bồ Tát như vậy quán sát các pháp hữu vi có nhiều lỗi ác, không 
	có tự tánh, không sanh không diệt mà hằng khởi đại bi chẳng bỏ chúng sanh, 
	liền được bát nhã ba la mật hiện tiền, gọi là vô chướng ngại trí quang minh. 
	
	Thành tựu trí quang minh như vậy rồi, dầu tu tập Bồ đề phần nhơn duyên mà 
	chẳng trụ trong hữu vi, dầu quán pháp hữu vi tự tánh tịch diệt, cũng chẳng 
	trụ trong tịch diệt. Vì pháp Bồ đề phần chưa viên mãn. 
	
	Chư Phật tử! Bồ Tát trụ bực hiện tiền địa này, được nhập không tam muội, tự 
	tánh không tam muội, đệ nhứt không tam muội, đại không tam muội, hiệp không 
	tam muội, khởi không tam muội, như thiệt bất phân biệt không tam muội, bất 
	xã ly không tam muội . 
	
	Bồ Tát này được mười môn không tam muội như vậy làm đầu. Kế đó trăm ngàn 
	không tam muội đều hiện tiền cả. 
	
	Mười môn vô tướng không tam muội, mười môn vô nguyện tam muội như vậy làm 
	đầu, kế đó trăm ngàn môn vô tướng, vô nguyện đều hiện tiền cả. 
	
	Chư Phật tử! Bồ Tát trụ bực hiện tiền địa này lại tu tập đầy đủ tâm bất khả 
	hoại, tâm quyết định, tâm thuần thiện, tâm thậm thâm, tâm bất thối chuyển, 
	tâm bất hưu tức, tâm quảng đại, tâm vô biên, tâm cầu trí, tâm phương tiện 
	huệ tương ưng, tất cả tâm đều viên mãn. 
	
	Chư Phật tử! Bồ Tát dùng mười tâm này thuận Phật Bồ đề, chẳng sợ dị luận, 
	vào các trí địa, lìa đạo nhị thừa, thẳng đến Phật trí, các ma phiền não 
	không trở lại hoại được, trụ nơi Bồ Tát trí huệ quang minh. 
	
	Trong pháp không, vô tướng, vô nguyện đều khéo tu tập, trí huệ phương tiện 
	luôn chung tương ưng, pháp Bồ đề phần thường thật hành chẳng bỏ. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát trụ trong bực hiện tiền địa này được tăng thượng hạnh 
	bát nhã ba la mật, được đệ tam minh lợi thuận nhẫn, vì tuỳ thuận không trái 
	với tướng như thiệt của các pháp . 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát đã an trụ nơi bực hiện tiền địa này, do nguyện lực nên 
	được thấy nhiều Đức Phật, nhẫn đén thấy trăm ngàn ức na do tha Đức Phật đều 
	dùng tâm quãng đại, thâm tâm để cúng dường cung kính tôn trọng tán thán, 
	cũng cúng dường tất cả chúng tăng. Đem thiện căn này hồi hướng vô thượng Bồ 
	đề. 
	
	Nơi Chư Phật, Bồ Tát này cung kính nghe pháp, nghe xong thọ trì, được như 
	thiệt tam muội trí huệ quang minh, tuỳ thuận tu hành ghi nhớ chẳng bỏ. Lại 
	được pháp tạng thậm thâm của Chư Phật. Trải qua vô lượng trăm ngàn ức na do 
	tha kiếp, những thiện căn đã có lại càng sáng sạch. 
	
	Ví như chơn kim. Dùng báu tỳ lưu ly luôn dồi bóng, thời càng thêm sáng sạch. 
	
	Cũng vậy, Bồ Tát đệ lục địa này dùng phương tiện huệ theo dõi quán sát, 
	những thiện căn đã được càng thêm sáng sạch, càng thêm tịch diệt, không gì 
	che khuất được. 
	
	Ví như ánh sáng của mặt trăng chiếu đến thân chúng sanh làm cho được mát mẽ, 
	bốn thứ phong luân không ngăn hoại được. 
	
	Cũng vậy, những thiện căn của bực Bồ Tát này hay dập tắt ngọn lửa phiền não 
	của vô lượng trăm ngàn ức na do tha chúng sanh. Bốn thứ ma đạo không phá 
	hoại được. 
	
	Trong mười môn ba la mật, Bồ Tát này thiên nhiều về bát nhã ba la mật, ngoài 
	ra tuỳ sức tuỳ phần tu các môn khác. 
	
	Chư Phật tử! đây là lược nói về đại Bồ Tát đệ lục hiện tiền địa. Bồ Tát an 
	trụ nơi bực này, thường hiện làm. Thiện Hóa Thiên Vương, việc làm tự tại. 
	Tất cả sự vấn nạn của hàng Thanh văn không làm thối khuất được, có thể làm 
	cho chúng sanh trừ diệt ngã mạn, thâm nhập duyên khởi. 
	
	Tất cả công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều chẳng rời niệm phật, 
	niệm pháp, niệm tăng, nhẫn đến chẳng rời niệm đầy đủ Nhứt thiết chủng trí. 
	
	Bồ Tát này lại nghĩ rằng: Với tất cả chúng sanh, tôi sẽ là thượng thủ, là 
	thắng, nhẫn đến bực y chỉ của Nhứt thiết chủng trí. 
	
	Bồ Tát này nếu chuyên cần tinh tấn, trong khoảng một niệm được trăm ngàn ức 
	tam muội, nhẫn đến thị hiện trăm ngàn ức thân Phật, mỗi mỗi thân Phật thị 
	hiện trăm ngàn ức Bồ Tát làm quyến thuộc. 
	
	Nếu dùng nguyện lực thị hiện tự tại thời hơn đây, nhẫn đến trăm ngàn ức na 
	do tha kiếp chẳng thể đếm biết được. 
	
	Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng: 
	
	Bồ Tát viên mãn Ngũ Địa rồi 
	
	Quán pháp vô tướng cũng vô tánh 
	
	Vô sanh vô diệt vốn thanh tịnh  
	
	Không có hỷ luận không thủ xả. 
	
	Thể tướng tịch diệt như huyễn thảy 
	
	Hữu vô bất nhị rời phân biệt 
	
	Tùy thuận pháp tánh quán như vậy  
	
	Trí này được thành nhập Lục Địa. 
	
	Đầy đủ trí minh lợi thuận nhẫn 
	
	Quán sát thế gian tướng sanh diệt 
	
	Do sức si tối có thế gian  
	
	Si tối diệt mất không thế gian. 
	
	Quán các nhơn duyên không thiệt tánh 
	
	Chẳng hoại giả, gọi hoà hiệp dụng  
	
	Vô tác, vô thọ, không nghĩ nhớ  
	
	Hành pháp như mây nổi khắp nơi . 
	
	Chẳng biết chơn đế gọi vô minh  
	
	Gây tạo tư: nghiệp,ngu si: quả . 
	
	Thức khởi sanh chung gọi là danh sắc , 
	
	Như vậy nhẫn đến những khổ tụ, 
	
	Rõ thấu ba cõi nương nơi tâm  
	
	Mười hai nhơn duyên cũng nương tâm  
	
	Sanh tử đều do tâm làm ra 
	
	Tâm nếu diệt dứt, sanh tử hết. 
	
	Vô minh công dụng có hai thứ: 
	
	Mê lầm sở duyên, làm thành nhơn,  
	
	Như vậy nhẫn đến lão và tử  
	
	Do đây quả khổ không cùng tận . 
	
	Vô minh làm duyên chẳng thể dứt, 
	
	Duyên đó nếu dứt tất cả dứt, 
	
	Ngu si, ái, thủ: phiền não chi  
	
	Hành, hữu là nghiệp, nghiệp, chi khác: khổ. 
	
	Si đến lục nhập là hành khổ, 
	
	Xúc thọ thêm lớn là khổ khổ,  
	
	Còn những chi khác là hoại khổ,  
	
	Nếu thay vô ngã ba khổ dứt.  
	
	Vô minh cùng hành thuộc quá khứ, 
	
	Thức đến xúc, thọ thuộc hiện tại  
	
	Ái, thủ, hữu sanh khổ vị lai. 
	
	Quán đãi nếu dứt: biên tế dứt . 
	
	Vô minh làm duyên: là sanh phược  
	
	Rời được nơi duyên phược mới hết 
	
	Từ nhơn sanh quả, lìa thời dứt, 
	
	Quán sát nơi đây biết tánh không . 
	
	Tuỳ thuận vô minh khởi ba cỏi. 
	
	Nếu không tuỳ thuận ba cõi dứt,  
	
	Có đây có kia, không cũng vậy  
	
	Mười cách tư duy tâm lìa chấp. 
	
	Hữu chi tiếp nói nhiếp nhứt tâm  
	
	Tự nghiệp chẳng rời và tam đạo,  
	
	Tam tế, tam khổ nhơn duyên sanh  
	
	Hệ phược khởi diệt thuận vô tận, 
	
	Như vậy, quán khắp pháp duyên khởi  
	
	Vô tác, vô thọ, không chơn thiệt  
	
	Như huyễn, như mộng, như bóng vang  
	
	Như kẻ ngu chạy theo dương diệm. 
	
	Quán sát như vậy vào nơi không  
	
	Biết duyên tánh ly được vô tướng  
	
	Rõ pháp hư vọng không nguyện cầu  
	
	Chỉ có từ mẫn độ muôn loại. 
	
	Đại sĩ tu hành môn giải thoát 
	
	Càng thêm đại bi cầu phật pháp  
	
	Biết các hữu vi hòa hiệp làm  
	
	Chí nguyện quyết định siêng hành đạo. 
	
	Môn không tam muội đủ trăm ngàn  
	
	Vô tướng, vô nguyện cũng như vậy  
	
	Bát nhã thuận nhẫn đều không tăng thượng  
	
	Giải thoát trí huệ được viên mãn. 
	
	Lại dùng thâm tâm cúng nhiều phật  
	
	Ở trong phật giáo tu tập đạo  
	
	Được Phật pháp tạng thêm thiện căn  
	
	Như vàng dùng lưu ly trau sáng. 
	
	Như trăng sáng mát lợi muôn loài. 
	
	Bốn phong luân không ngăn hoại được, 
	
	Bực Bồ Tát này siêu ma đạo  
	
	Dứt trừ phiền não cho quần sanh . 
	
	Bực này thường làm Thiện Hóa Vương  
	
	Hóa đạo chúng sanh trừ ngã mạn  
	
	Công hạnh đều cầu nhứt thiết trí  
	
	Đều đã vượt hơn đạo Thanh văn. 
	
	Bồ Tát bực này siêng tinh tấn  
	
	Được môn tam muội trăm ngàn ức  
	
	Cũng thấy trăm ngàn ức đức Phật  
	
	Ví như mặt nhựt ngày thạnh hạ. 
	
	Tậm thâm vi diệu khó thấy biết  
	
	Thanh văn, độc giác không rõ được  
	
	Bồ Tát hiện tiền đệ lục địa  
	
	Tôi vì Phật tử đã lược nói. 
	
	Bấy giờ thiên chúng lòng hoan hỷ  
	
	Rải hoa thành mây dừng hư không  
	
	Khắp nơi pháp âm thanh diệu mầu  
	
	Thưa cùng đắng tối thắng thanh tịnh: 
	
	Rõ thấu thắng nghĩa trí tự tại  
	
	Thành tựu công đức trăm ngàn ức 
	
	Không chấp trước, như sen không nhiễm  
	
	Vì lợi chúng sanh nói thâm hạnh. 
	
	Tự Tại Thiên Vương ở hư không. 
	
	Phóng đại quang minh chiếu thân phật 
	
	Cũng rải mây thơm tối thượng diệu  
	
	Cúng khắp đắng sạch trừ phiền não  
	
	Bấy giờ thiên chúng đều vui mừng. 
	
	Đều phát tiếng hay đồng ca ngợi: 
	
	Chúng tôi được nghe hiện tiền địa  
	
	Thời là đã được nhiều lợi lành. 
	
	Thiên nữ lúc ấy lòng mừng vui  
	
	Cùng trổi âm nhạc ngàn muôn điệu  
	
	Đều do thần lực của Như Lai  
	
	Trong tiếng hòa nhạc thành lời nói: 
	
	Oai nghi tịch tịnh không sánh kịp  
	
	Điều ngự chúng sanh đời nên cúng  
	
	Đã siêu tất cả những thế gian  
	
	Mà vào thế gian truyền diệu đạo. 
	
	Dầu hiện nhiều loại vô lượng thân  
	
	Biết thân mỗi mỗi vô sở hữu  
	
	Khéo dùng ngôn từ nói các pháp  
	
	Chẳng chấp tướng văn tự âm thanh. 
	
	Qua đến trăm ngàn các quốc độ. 
	
	Dùng những thượng cúng cúng dường phật  
	
	Trí huệ tự tại không chấp trước  
	
	Chẳng sanh niệm tưởng cõi phật ta 
	
	Dầu siêng giáo hóa các chúng sanh. 
	
	Mà không nhơn ngã tất cả tâm  
	
	Dầu đã tu thành hạnh quảng đại  
	
	Mà nơi hạnh lành chẳng chấp trước. 
	
	Bởi thấy tất cả các thế gian  
	
	Lửa tham, sân, si thường cháy hực  
	
	Nơi các tưởng niệm thảy đều lìa  
	
	Phát khởi đại bi sức tinh tấn. 
	
	Tất cả chư thiên và thiên nữ 
	
	Cúng dường nhiều thứ khen ngợi rồi  
	
	Tất cả đồng thời đứng lặng yên 
	
	Chiêm ngưỡng thế tôn mong nghe pháp. 
	
	Giải thoát nguyệt vì chúng lại thưa:  
	
	Cả đại chúng đây lòng thanh tịnh  
	
	Những hành tướng trong đệ thất địa 
	
	Trông mong Bồ Tát thương giảng giải. 
	
	Kim cang tạng Bồ Tát nói với giải thoát nguyệt Bồ Tát rằng: Thưa Phật tử! 
	Đại Bồ Tát đã tròn đủ công hạnh của đệ lục địa muốn vào đệ thất viễn hành 
	địa, phải tu mười môn phương tiện huệ phát khởi đạo thù thắng. 
	
	Đây là mười đạo thù thắng:  
	
	Dầu khéo tu không, vô tướng, vô nguyện tam muội mà từ bi chẳng bỏ chúng 
	sanh.  Dầu được pháp bình đẳng 
	của chư phật mà thích thường cúng dường phật. Dầu nhập môn quán không trí mà 
	siêng chứa phước đức. Dầu xa rời tam giới mà trang nghiêm tam giới. Dầu rốt 
	ráo dập tắt ngọn lửa phiền não mà có thể vì tất cả chúng sanh khởi hạnh diệt 
	tắt ngọn lửa phiền não tham, sân, si. Dầu biết các pháp như huyễn, như mộng, 
	như bóng, như vang, như dương diệm, như biến hóa, như trăng dưới nước, như 
	tượng trong gương, tự tánh bất nhị, mà tuỳ tâm tác động vô lượng sai khác. 
	Dầu biết tất cả quốc độ dường như hư không mà hay dùng diệu hạnh thanh tịnh 
	trang nghiêm phật độ . Dầu biết pháp thân của Chư Phật bổn tánh không thân 
	mà dùng tướng hảo trang nghiêm thân mình. Dầu biết âm thanh của chư phật 
	tánh không tịch diệt chẳng thể ngôn thuyết, mà có thể tuỳ tất cả chúng sanh 
	phát ra các thứ âm thanh thanh tịnh sai khác. Dầu tùy Chư Phật rõ biết tam 
	thế chỉ là nhứt niệm, mà tùy ý giải sai biệt của chúng sanh, dùng các loại 
	tướng, các thứ thời gian, các thứ kiếp số để tu tập công hạnh.
 
	
	Bồ Tát dùng môn Phương tiện huệ phát khởi hạnh thù thắng này, từ đệ lục hiện 
	tiền địa vào đệ thất viễn hành địa. Lúc vào đệ thất địa rồi thời các hạnh 
	này thường hiện tiền, gọi là an trụ nơi đệ thất viễn hành địa. 
	
	Phật tử! Đại Bồ Tát an trụ đệ thất địa này rồi, thời vào vô lượng chúng sanh 
	giới, vào vô lượng công nghiệp giáo hóa chúng sanh của Chư Phật, vào vô 
	lượng thế giới võng, vào vô lượng quốc độ thanh tịnh của Chư Phật, vào vô 
	lượng pháp sai biệt, vào vô lượng hiện giác trí của Chư Phật, vào vô lượng 
	kiếp số, vào vô lượng trí giác liễu tam thế của Chư Phật, vào vô lượng tín 
	giải sai biệt của chúng sanh, vào vô lượng các loại thân danh sắc của Chư 
	Phật thị hiện, vào vô lượng căn tánh sở thích sai biệt của chúng sanh, vào 
	vô lượng ngữ ngôn âm thanh làm cho chúng sanh hoan hỷ của chư phật, vào vô 
	lượng các loại tâm hành của chúng sanh, vào vô lượng trí rõ biết rộng lớn 
	của Chư Phật, vào vô lượng tín giải của Thanh văn thừa, vào vô lượng trí đạo 
	của Chư Phật dạy khiến tín giải, vào vô lượng pháp thành tựu của Bích chi 
	Phật, vào vô lượng môn trí huệ thâm thâm của chư Phật dạy khiến thẳng vào, 
	vào vô lượng hạnh phương tiện của chư Bồ Tát, vào vô lượng sự tập thành của 
	đại thừa của Chư Phật dạy làm cho Bồ Tát được vào . 
	
	Bồ Tát này nghĩ rằng: Vô lượng cảnh giới của Như Lai như vậy, nhẫn đến trăm 
	ngàn ức na do tha như vậy, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể 
	biết được. Tôi đều phải dùng tâm vô công dụng, vô phân biệt để thành tựu 
	viên mãn. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát này dùng thâm trí huệ quán sát như vậy. Thường siêng tu 
	tập Phương tiện huệ khởi đạo thù thắng an trụ bất động, không một niệm thôi 
	nghỉ phế bỏ. Đi, đứng, ngồi, nằm, nhẫn đến lúc ngũ chiêm bao cũng chưa từng 
	tương ưng với cái chướng. Luôn không hề bỏ những quán niệm trên đây. 
	
	Trong mỗi niệm, Bồ Tát này thường có thể đầy đủ mười ba la mật. 
	
	Tại sao vậy? Vì mỗi niệm, Bồ Tát này đều lấy đại bi làm trước để tu hành 
	Phật pháp hướng đến phật trí. 
	
	Những thiện căn đã có đều vì cầu Phật trí mà bố thí cho chúng sanh, đây gọi 
	là đàn ba la mật. 
	
	Hay diệt trừ những lửa phiền não, đây gọi là thi la ba la mật.  
	
	Từ bi làm đầu không tổn hại chúng sanh, đây gọi là sằn đề ba la mật.  
	
	Cầu pháp thắng thiện không nhàm đủ, đây gọi là tỳ lê gia ba la mật.  
	
	Nhứt thiết trí đạo thường hiện tiền chưa từng tán loạn, đây gọi là thiền na 
	ba la mật. 
	
	Hay nhẫn thọ các pháp bất sanh bất diệt, đây gọi là bát nhã ba la mật. 
	
	Hay xuất sanh vô lượng trí, đây gọi là phương tiện ba la mật, 
	
	Hay cầu thượng thượng thắng trí, đây gọi là nguyện ba la mật. 
	
	Tất cả dị luận và các ma chúng không trở hoại, đây gọi là lực ba la mật. 
	
	Rõ biết các pháp đúng thật đây gọi là trí ba la mật. 
	
	Chư Phật tử! mười môn ba la mật này, trong mỗi niệm Bồ Tát đều đã đầy đủ. 
	
	Cũng vậy, bốn nhiếp pháp, bốn pháp trì, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, ba môn 
	giải thoát, lược nói nhẫn đến tất cả pháp Bồ đề phần, trong mỗi niệm, Bồ Tát 
	này đều viên mãn cả.  
	
	Bấy giờ Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát hỏi Kim Cang Tạng Bồ Tát rằng: Thưa Phật 
	tử! Bồ Tát chỉ ở trong đệ thất địa này đầy đủ tất cả pháp Bồ đề phần, hay là 
	trong các địa cũng có thể đầy đủ? 
	
	Kim Cang Tạng Bồ Tát nói: Thưa Phật tử! Bồ Tát ở trong mười địa đều có thể 
	đầy đủ pháp Bồ đề phần, nhưng đệ thất địa thù thắng hơn. 
	
	Tại sao vậy? Vì đệ thất địa công dụng viên mãn thời được vào trí huệ tự tại 
	hạnh. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát ở trong bực sơ địa vì duyên tất cả Phật pháp để nguyện 
	cầu nên đây đủ pháp Bồ đề phần. 
	
	Vì đệ nhị địa lìa tâm cấu nhơ. Vì đệ tam địa nguyện cầu càng tăng trưởng 
	được pháp quang minh. 
	
	Vì đệ tứ địa nhập đạo. Vì đệ ngũ địa thuận thế gian mà tu tập. Vì đệ lục địa 
	nhập pháp môn thậm thâm. 
	
	Vì đệ thất địa phát khởi tất cả Phật pháp. Tất cả địa đều cũng đầy đủ pháp 
	Bồ đề phần . 
	
	Tại sao vậy? Bồ Tát từ sơ địa đến đệ thất địa thành tựu trí công dụng phần. 
	Do công lực này, từ đệ bát địa đến đệ thập địa vô công dụng hạnh đều được 
	thành tựu. 
	
	Chư Phật tử! Ví như có hai thế giới: một thời tạp nhiễm, một thời thuần 
	tịnh. Chặng giửa của hai thế giới này khó qua được, chỉ trừ bực Bồ Tát có 
	đại thần thông phương tiện nguyện lực. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát ở các địa cũng như vậy: có tạp nhiễm hạnh, có thanh tịnh 
	hạnh. Chẳng giửa của hai hạnh này khó qua được, chỉ trừ Bồ Tát có đại nguyện 
	lực Phương tiện trí huệ mới có thể qua được. 
	
	Giải thoát nguyệt Bồ Tát hỏi: Thưa Phật tử! Bảy địa Bồ Tát này là nhiễm hạnh 
	hay là tịnh hạnh? 
	
	Kim cang tạng Bồ Tát nói: Thưa Phật tử! Từ sơ địa đến thất địa, công hạnh tu 
	tập đều lìa bỏ nghiệp phiền não, vì hồi hướng vô thượng Bồ đề, vì phần được 
	đạo bình đẳng, nhưng chưa gọi là hạnh siêng phiền não.  
	
	Chư Phật tử! Như Chuyển Luân Thánh Vương ngự tượng bửu du hành tứ thiên hạ, 
	biết có người bần cùng khốn khố mà không bị lây những sự hoạ hoạn đó, nhưng 
	chưa được gọi là siêu nhơn loại. Nếu bỏ thân Chuyển luân vương sanh lên trời 
	phạm thế, ngự thiên cung thấy ngàn thế giới, du hành ngàn thế giới, thị hiện 
	quang minh oai đức của phạm thiên mới gọi là siêu nhơn loại . 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát cũng như vậy. Ban đầu từ bực sơ địa đến bực đệ thất địa, 
	ngự xe ba la mật du hành thế gian, biết quá hoạn phiền não của thế gian. Vì 
	ngự chánh đạo nên chẳng bị lỗi lầm của phiền não làm lây nhiễm, nhưng chưa 
	gọi là siêu phiền não hạnh. Nếu bỏ tất cả hạnh hữu công dụng, từ đệ thất địa 
	vào đệ bát địa, ngự xe Bồ Tát, thanh tịnh du hành thế gian, biết phiền não 
	lỗi lầm chẳng bị lây nhiễm, mới gọi là siêu phiền não hạnh, vì được siêu quá 
	hết tất cả  
	
	Chư Phật tử! Bồ tát đệ thất địa này siêu quá hết những phiền não đa tham, đa 
	sân v.v … mà an trụ. 
	
	Bực này chẳng gọi là có phiền não, cũng chẳng gọi là không phiền não. 
	
	Tại sao vậy? vì ở bực này, tất cả phiền não chẳng hiện hành nên gọi chẳng 
	gọi là có. Vì cầu phật trí tâm chưa mãn toại nên chẳng gọi là không.  
	
	Chư Phật tử! Bồ tát an trụ bực đệ thất địa dùng tâm thâm tịnh mà thành tựu 
	thân nghiệp, ngữ nghiệp và thành tựu ý nghiệp. Tất cả những nghiệp đạo bất 
	thiện bị phật quở trách đều đã lìa bỏ. Tất cả thiện nghiệp mà Phật khen thời 
	thường khéo tu hành. Tất cả kinh, thơ, kỷ thuật của thế gian như đã nói ở đệ 
	ngũ địa đều tự nhiên thật hành thông thạo chẳng cần dụng công. 
	
	Bồ Tát ở trong đại thiên thế giới làm bực đại minh sư. Chỉ trừ đức Như Lai 
	và từ đệ bát địa trở lên, thâm tâm diệu hạnh của các Bồ Tát khác đều không 
	bằng được. 
	
	Ở bực này, những thiền tam muội, thần thông giải thoát đều được hiện tiền. 
	Nhưng là do tu tập mà thành, chẳng phải báo đắc thành như bực đệ bát địa.  
	
	Bực Bồ Tát này trong mỗi niệm tu tập đầy đủ phương tiện trí lực, và tất cả 
	pháp Bồ đề phần đều càng viên mãn hơn. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát trụ bực này nhập tam muội Bồ Tát thiện quán trạch, tam 
	muội thiện trạch nghĩa, tam muội tối thắng huệ tam muội phân biệt nghĩa 
	tạng, tam muội như thiệt phân biệt nghĩa, tam muội thiện trụ kiên cố căn, 
	tam muội trí huệ thần thông môn, tam muội pháp giới nghiệp, tam muội Như Lai 
	thắng lợi, tam muội chủng chủng nghĩa tạng sanh tử Niết Bàn môn. 
	
	Nhập trăm ngàn tam muội đầy đủ môn đại trí thần thông như vậy, tu tập thanh 
	tịnh các trí địa. 
	
	Vì Bồ Tát này được nhập các tam muội trên đây khéo tu tập thanh tịnh phương 
	tiện huệ, đại bi lực nên vượt hơn bực nhị thừa, được qán sát trí huệ địa. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát trụ bực này khéo tu tịnh vô lượng thân nghiệp vô tướng 
	hành, ý nghiệp vô tướng hành nên được quang minh vô sanh pháp nhẫn. 
	
	Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát hỏi: Thưa Phật tử! Bồ Tát từ sơ địa đến bực này có 
	vô lượng thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp há chẳng vượt hơn háng nhị thừa 
	ư? 
	
	Kim Cang Tạng Bồ Tát nói: Thưa phật tử! Các bực đó đều vượt hơn, nhưng chỉ 
	là do nguyện cầu Phật pháp, chẳng phải là sức tự trí quán sát. Nay trong bực 
	đệ thất địa này do tự trí lực nên tất cả nhị thừa chẳng kịp được. 
	
	Ví như vương tử sanh ở cung vua, do vương hậu sanh có đủ vương tướng. Khi 
	sanh ra thời đã hơn tất cả các quan, nhưng chỉ do đức lực của nhà vua chớ 
	chẳng phải tự lực, khi thân trưởng thành, toàn vẹn tất cả nghề nghiệp oai 
	đức, thời mới là do tự lực mà hơn tất cả thần dân. 
	
	Đại Bồ Tát cũng vậy. Lúc sơ pháp tâm, do vì chí cầu đại pháp nên vượt hơn 
	tất cả Thanh văn, Duyên giác. 
	
	Nay an trụ bực đệ thất địa do tự lực trí huệ nên vượt lên trên tất cả nhị 
	thừa. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát an trụ bực đệ thất địa này được viễn ly vô hành thậm 
	thâm, thường tu hành thân, khẩu, ý, siêng cầu đạo vô thượng chẳng bỏ rời. 
	Thế nên Bồ Tát này dầu đi nơi thiệt tế mà chẳng tác chứng. 
	
	Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát hỏi: Thưa Phật tử! Bồ Tát từ địa nào lên đến địa 
	nào có thể nhập được diệt định? 
	
	Kim Cang Tạng Bồ Tát nói: Thưa Phật tử! Bồ Tát từ đệ lục địa trở lên có thể 
	nhập diệt định. 
	
	Nay an trụ nơi đệ thất địa này thời có thể mỗi niệm nhập diệt định, cũng mỗi 
	niệm xuất, nhưng không tác chứng. 
	
	Thế nên Bồ Tát này gọi là thành tựu thân, ngữ, ý nghiệp bất tư nghì, đi nơi 
	thiệt tế mà chẵng tác chứng.  
	
	Ví như có người ngồi thuyền vào biển, do sức thiện xảo nên không bị tai nạn. 
	
	Cũng vậy Bồ Tát ở bực này ngồi thuyền ba la mật đi trong biển thiệt tế, do 
	nguyện lực nên chẳng chứng diệt. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát này được tam muội trí lực như vậy, do đại phương tiện, 
	dầu thị hiện sanh tử mà luôn trụ Niết Bàn, dầu quyến thuộc vây quanh mà 
	thường thích xa lìa, dầu do nguyện lực thọ sanh trong ba cõi mà chẳng nhiễm 
	thế pháp, dầu thường tịch diệt do sức phương tiện mà lại phừng cháy, dầu đốt 
	nhưng chẳng cháy, dầu tùy thuận phật trí mà thị hiện vào bực Thanh văn, Bích 
	chi phật, dầu được phật cảnh giới mà thị hiện ở cảnh giới ma, dầu thị hiện 
	đồng với ngoại đạo mà chẳng bỏ Phật pháp,dầu thị hiện tùy thuận tất cả thế 
	gian mà thường thật hành tất cả pháp xuất thế. 
	
	Bồ Tát này chỗ có tất cả sự trang nghiêm vượt hơn tất cả sự trang nghiêm của 
	trời, rồng, bát bộ, người, phi nhơn. Tứ thiên vương, Đế thích, Phạm vương 
	thảy, mà chẳng bỏ tâm mến thích chánh pháp. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát thành tựu trí huệ như vậy trụ bực viễn hành địa do 
	nguyện lực nên được thấy nhiều đức Phật, nhẫn đến thấy trăm ngàn ức na do 
	tha Đức Phật, đều kính trọng tán thán cúng dường với tâm quãng đại, tâm tăng 
	thắng. Cũng cúng dường tất cả chúng tăng. Đem thiện căn này hồi hướng vô 
	thượng Bồ đề. 
	
	Lại ở chổ chư phật cung kính nghe pháp, nghe xong thọ trì, được như thiệt 
	tam muội trí huệ quang minh, tùy thuận tu hành hộ trì chánh pháp, thường 
	được Chư Phật hoan hỷ khen ngợi. 
	
	Hàng nhị thừa không thể vấn nạn làm thua được, Bồ Tát này làm lợi ích chúng 
	sanh pháp nhẫn thanh tịnh. 
	
	Như vậy trải qua vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp những thiện căn đã có 
	càng thêm tăng thắng. 
	
	Ví như chơn kim, dùng các thứ châu báu cẩn xen vào càng làm cho chơn kim 
	sáng chói hơn, những vật trang nghiêm khác không thể sánh được. 
	
	Những thiện căn của Bồ Tát đệ thất địa này cũng như vậy, do sức phương tiện 
	huệ càng sáng sạch hơn, chẳng phải hàng nhị thừa sánh kịp được. 
	
	Chư phật tử Ví như ánh sáng mặt trời,những ánh sáng của trăng sao v.v…đều 
	không sánh được. Những chổ sình lầy nơi đại địa, ánh sáng mặt trời có thể 
	làm khô ráo. 
	
	Bồ Tát viễn hành địa này cũng như vậy, tất cả hàng nhị thừa không theo kịp, 
	được có thể làm cạn khô sình lầy phiền não của tất cả chúng sanh .  
	
	Bồ Tát này thiên nhiều về Phương tiện ba la mật. Chín môn ba la mật kia thời 
	tùy sức tùy phần mà tu tập. 
	
	Chư Phật tử! Đây là lược nói đại Bồ Tát Đệ Thất Viễn Hành Địa. Bồ Tát an trụ 
	bực này thường làm Tự Tại Thiên Vương, khéo vì chúng sanh mà nói pháp chứng 
	trí, khiến họ chứng nhập. 
	
	Tất cả công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều chẳng rời niệm Phật, 
	niệm Pháp, niệm Tăng nhẫn đến chẳng rời niệm đầy đủ Nhứt thiết chủng trí.  
	
	Bồ Tát này lại nghĩ: Tôi sẽ ở trong tất cả chúng sanh làm thượng thủ, là 
	thắng, nhẫn đến là bực y chỉ của Nhứt thiết chủng trí. 
	
	Bồ Tát này nếu phát cần tinh tấn, thời trong khoảng một niệm được trăm ngàn 
	ức na do tha tam muội, nhẫn đến thị hiện trăm ngàn ức na do tha Bồ Tát để 
	làm quyến thuộc. 
	
	Nếu dùng nguyện lực thù thắng tự tại thị hiện thời hơn số trên đây, nhẫn đến 
	trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể đếm biết được. 
	
	Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng: 
	
	Đệ nhứt nghĩa trí tam muội đạo 
	
	Lục Địa tu hành tâm đầy đủ 
	
	Tức thời thành tựu phương tiện huệ 
	
	Bồ Tát dùng đây vào Thất Địa. 
	
	Dầu chứng tam thoát nhưng từ bi, 
	
	Dầu đồng Như Lai nhưng cúng Phật, 
	
	Dầu quán không nhưng chứa phước đức 
	
	Bồ Tát do đây lên Thất Địa. 
	
	Xa rời tam giới mà trang nghiêm, 
	
	Dứt trừ lửa phiền mà khởi lửa, 
	
	Biết pháp bất nhị nhưng siêng tu 
	
	Rõ cõi không hư mà nghiêm độ, 
	
	Hiểu thân bất động, đủ các tướng, 
	
	Thấu thinh tánh ly, khéo khai diễn, 
	
	Thâm nhập nhứt niệm, hành nhiều việc, 
	
	Bực trí do đây lên Thất Địa. 
	
	Quán sát pháp này được rõ ràng 
	
	Rộng vì chúng sanh làm lợi ích, 
	
	Vào chúng sanh giới không biên tế 
	
	Công nghiệp giáo hóa cũng vô lượng. 
	
	Quốc độ, các pháp cùng kiếp số 
	
	Giải, dục, tâm hành đều hay vào 
	
	Thuyết pháp tam thừa cũng vô hạn 
	
	Như thế giáo hóa các quần sanh. 
	
	Bồ Tát siêng cầu đạo tối thắng 
	
	Động nghĩ, chẳng bỏ phương tiện huệ 
	
	Mỗi mỗi hồi hướng Phật Bồ đề  
	
	Niệm niệm thành tựu Ba la mật. 
	
	Phát tâm hồi hướng là bố thí, 
	
	Dứt hoặc là giới, chẳng hại: nhẫn, 
	
	Cầu lành không nhàm là tinh tấn,  
	
	Nơi đạo chẳng động tức tu thiền,  
	
	Nhẫn thọ vô sanh là Bát Nhã, 
	
	Hồi hướng phương tiện là nguyện độ, 
	
	Không bị phá: lực, khéo rõ: trí, 
	
	Thập độ như vậy đều thành mãn 
	
	Sơ Địa phan duyên công đức đủ, 
	
	Nhị Địa Ly Cấu tam nghiệp tịnh, 
	
	Tứ Địa nhập đạo, Ngũ thuận hành, 
	
	Đệ Lục vô sanh trí quang chiếu, 
	
	Đệ Thất Bồ đề công đức toàn 
	
	Tất cả đại nguyện đều đầy đủ, 
	
	Do đây hay khiến bực nhập Địa 
	
	Tất cả công hạnh đều thanh tịnh. 
	
	Địa này khó qua, trí mới siêu 
	
	Ví như chặng giữa hai thế giới  
	
	Cũng như Thánh Vương không lây nghèo 
	
	Nhưng chưa được gọi: Tổng siêu độ. 
	
	Nếu trụ trong Đệ Bát Trí Địa 
	
	Mới là vượt qua tâm cảnh giới  
	
	Như Phạm Thiên Vương siêu nhơn loại 
	
	Như sen ở nước chẳng tanh bùn. 
	
	Đệ Thất dầu siêu các phiền não 
	
	Chẳng gọi có hay không phiền não  
	
	Chẳng có vì không hoặc hiện hành 
	
	Chẳng không vì tâm cầu Phật trí. 
	
	Bao nhiêu kỷ nghệ ở thế gian  
	
	Kinh sách từ luận đều rành cả 
	
	Thiền định, tam muội và thần thông 
	
	Tất cả tu hành đều thành tựu. 
	
	Bồ Tát tu thành đạo Thất Địa 
	
	Vượt hơn tất cả hạnh Nhị thừa, 
	
	Sơ Địa nguyện thành, đây do trí, 
	
	Ví như Vương tử đủ oai lực, 
	
	Thành tựu thậm thâm vẫn tiến tu 
	
	Tâm tâm tịch diệt chẳng tác chứng 
	
	Ví như ngồi thuyền vào trong biển 
	
	Ở nước chẳng bị nước nhận chìm. 
	
	Phương tiện huệ hành đủ công đức  
	
	Tất cả thế gian không rõ được 
	
	Cúng dường nhiều Phật tâm càng sáng 
	
	Như dùng diệu bửu trang nghiêm vàng. 
	
	Thất Địa Bồ Tát trí rất sáng 
	
	Như sáng mặt trời khô nước ái 
	
	Thường làm Tự Tại vua cõi Trời  
	
	Hóa đạo quần sanh tu chánh trí. 
	
	Nếu do dũng mãnh tinh tấn lực 
	
	Được nhiều tam muội thấy nhiều Phật  
	
	Trăm ngàn ức số na do tha  
	
	Nguyện lực tự tại lại hơn đây. 
	
	Đây là Bồ Tát Viễn Hành Địa 
	
	Phương tiện trí huệ thanh tịnh đạo 
	
	Tất cả thế gian trời và người  
	
	Thanh văn, Độc giác không biết được.  
	(Hán bộ quyển 38) 
	
	Bấy giờ Thiên Vương và thiên chúng  
	
	Nghe thắng hạnh này đều hoan hỷ  
	
	Vì muốn cúng dường lên Như Lai  
	
	Và cùng đại chúng chư Bồ Tát, 
	
	Rải hoa, tràng hoa, phan, tràng, lọng, 
	
	Hương thơm chuổi ngọc và bửu y, 
	
	Vô lượng, vô biên ngàn vạn thứ  
	
	Đều dùng ma ni để nghiêm sức. 
	
	Thiên nữ đồng thời tấu thiên nhạc. 
	
	Khắp phát các thứ diệu âm thanh 
	
	Cúng dường cho phật và Phật tử 
	
	Đồng nói lời này để tán thán: 
	
	Phước trí viên mãn thấy tất cả  
	
	Phật thương chúng sanh hiện thần lực, 
	
	Khiến cho thứ thiên nhạc trên không 
	
	Phát diệu âm thanh khắp được nghe. 
	
	Trong một chân long trăm ngàn ức 
	
	Na do tha cõi vi trần số 
	
	Vô lượng Như Lai như vậy thảy  
	
	An trụ trong đó thuyết diệu pháp  
	
	Trong một chân lông vô lượng cõi 
	
	Đều có bốn châu và đại hải 
	
	Tu di, Thiết vi và Bửu sơn 
	
	Đều thấy ở trong, không chặt hẹp. 
	
	Chổ một chân lông có sáu loài:  
	
	Ba loài ác đạo và trời, người 
	
	Các chúng long thần, a tu la 
	
	Đều theo tự nghiệp thọ quả báo. 
	
	Nơi trong tất cả cõi nuớc kia 
	
	Đều có Như Lai diễn diệu âm 
	
	Tuỳ thuận tất cả tâm chúng sanh 
	
	Vì chuyển tối thượng tịnh pháp luân. 
	
	Trong cõi các loài thân chúng sanh  
	
	Trong thân lại có các loại cõi  
	
	Trời người các loài đều riêng khác 
	
	Phật đều biết rồi đem giảng dạy. 
	
	Cõi lớn tùy niệm biến thành nhỏ 
	
	Cõi nhỏ tùy niệm cũng biến lớn 
	
	Thần thông như vậy số vô lượng  
	
	Thế gian chung kể không thể hết. 
	
	Khắp pháp diệu âm vô lượng tiến 
	
	Ca ngợi Như Lai công đức rồi 
	
	Chúng hội hoan hỷ ngồi yên lặng  
	
	Nhứt tâm chiêm nguỡng muốn nghe pháp. 
	
	Ngài Giải Thoát Nguyệt lại thưa rằng: 
	
	Nay đây chúng hội đều tịch tịnh  
	
	Mong giải thích hành tướng thứ đệ 
	
	Nhập đệ bát bất động trí địa. 
	
	Kim Cang Tạng Bồ Tát bảo giải thoát nguyệt Bồ Tát rằng: Thưa Phật tử! Đại Bồ 
	Tát ở trong thất viễn hành địa, khéo tu tập phương tiện huệ, khéo thanh tịnh 
	các đạo, khéo tu tập pháp trợ đạo, do đại nguyện lực nhiếp trì, được phật 
	lực gia hộ, tự thiện lực giử gìn, thường tưởng nhớ, lực, vô úy, bất cộng của 
	Như Lai, khéo thanh tịnh thâm tâm tư giác, có thể thành tựu phước đức trí 
	huệ, đại từ đại bi chẳng bỏ chúng sanh, vào vô lượng trí đạo, vào tất cả 
	pháp bổn lai vô sanh, vô khởi, vô tướng, vô thành, vô hoại, vô tận, vô 
	chuyển, vô tánh, lấy đây làm tánh ba thuở sơ, trung, hậu thảy đều bình đẳng 
	vô phân biệt, là chổ nhập của như như trí, lìa tất cả tưởng phân biệt tâm ý 
	thức, không chổ chấp lấy dường như hư không, vào tất cả pháp như tánh hư 
	không, đây gọi là được vô sanh pháp nhẫn. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát thành tựu nhẫn này liền được nhập đệ bát bất động địa. 
	
	Bực này là thâm hạnh Bồ Tát, khó biết được, vô sai biệt. Lìa tất cả tướng, 
	tất cả tưởng, tất cả chấp trước. 
	
	Vô lượng vô biên tất cả thanh văn, bích chi phật không thể kịp được. 
	
	Bực này xa lìa những huyên náo tránh luận, tịch diệt thường hiện tiền. 
	
	Ví như tỳ kheo đầy đủ thần thông được tâm tự tại tuần tự nhẫn đến nhập diệt 
	tận định, tất cả động tâm ức tưởng phân biệt thảy đều dừng dứt. 
	
	Đại Bồ Tát này cũng như vậy, trụ bất động địa liền bỏ tất cả công dụng hạnh, 
	được pháp vô công dụng, thân, khẩu, ý nghiệp, niệm sự đều dứt, trụ nơi báo 
	hành. 
	
	Ví như có người trong giấc mơ thấy mình té trong sông lớn, vì muốn thoát nạn 
	nên phát đại dũng mãnh, hành đại phương tiện. Do đại dũng mãnh và đại phương 
	tiện nên liền được thức tỉnh. Khi đã thức giấc thời những việc làm trong 
	giấc mơ liền dứt cả. 
	
	Cũng vậy, Bồ Tát thấy thân chúng sanh ở trong tứ lưu, vì cứu họ mà phát đại 
	dũng mãnh khởi đại tinh tấn. 
	
	Do dũng mãnh tinh tấn nên đến bực bất động địa này. Đã đến bực này tất cả 
	công dụng đều dứt cả. Hành tướng của hai hạnh đều chẳng hiện tiền. 
	
	Chư Phật tử! như sanh trời phạm thế, những phiền não của dục giới đều chẳng 
	hiện tiền. 
	
	Bồ Tát trụ bất động địa cũng như vậy, tất cả tâm ý thức đều chẳng hiện tiền. 
	
	Đại Bồ Tát này còn chẳng hiện khởi tâm Bồ Tát, tâm phật, tâm Bồ đề, tâm Niết 
	Bàn, huống là còn khởi tâm thế gian . 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát này do sức bổn nguyện nên chư Phật Thế tôn đích thân 
	hiện ra trước mặt ban cho Như Lai trí, khiến bực này được vào trong môn pháp 
	lưu. 
	
	Chư Phật bảo! Trí nhẫn này đệ nhứt thuận các Phật pháp, nhưng này thiện nam 
	tử! Thập lực, tứ vô úy, thập bát bất cộng của chư phật, nay ông chưa được. 
	Ông phải vì được thành tựu những Phật pháp ấy mà phát khởi tinh tấn, chớ có 
	bỏ nơi môn trí nhẫn này. 
	
	Lại này thiện nam tử! ông dầu được tịch diệt giải thoát, nhưng hàng phàm phu 
	chưa chứng được, họ còn đủ các thứ phiền não, bị các thứ giác quán xâm hại 
	nhau, ông phải thương những chúng sanh đó. 
	
	Lại này thiện nam tử! Ông phải nhớ lại bổn thệ nguyện làm lợi ích khắp tất 
	cả chúng sanh đều làm cho họ được vào môn trí huệ bất tư nghì. 
	
	Lại này thiện nam tử! những pháp,pháp tánh này, hoặc phật xuất thế hay không 
	xuất thế, luôn thường trụ không khác. Chư Phật chẳng do được pháp này mà gọi 
	là Như Lai. 
	
	Tất cả hàng nhị thừa cũng có thể được pháp vô phân biệt này. 
	
	Lại này thiện nam tử! ông xem Chư Phật chúng ta đây: thân tướng vô lượng trí 
	huệ vô lượng, quang minh vô lượng, âm thanh thanh tịnh cũng vô lượng.Ông 
	phải thành tựu những pháp này. 
	
	Này thiện nam tử! nay ông vừa được một pháp minh này, chính là tất cả pháp 
	vô sanh phân biệt. 
	
	Này thiện nam tử! pháp minh của Như Lai vô lượng nhập, vô lượng tác, vô 
	lượng chuyển, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể biết được. Ông 
	phải tu hành thành tựu pháp này. 
	
	Này thiện nam tử! Ông quán mười phương vô lượng quốc độ chúng sanh, vô lượng 
	pháp, khác nhau vô lượng, đều phải thông đạt tất cả đúng như thiệt. 
	
	Chư Phật tử! Chư Phật Thế tôn trao cho Bồ Tát này vô lượng môn khởi trí như 
	vậy, khiến Bồ Tát này có thể khởi vô lượng vô biên trí nghiệp sai biệt . 
	
	Chư Phật tử! nếu Chư Phật chẳng ban môn khởi trí này cho Bồ Tát, thời Bồ Tát 
	này liền nhập cứu cánh Niết Bàn rời bỏ tất cả công hạnh, lợi ích chúng sanh 
	. 
	
	Do Chư Phật ban vô lượng vô biên khởi trí môn như vậy nên khoảng một niệm Bồ 
	Tát này phát sanh trí nghiệp, đem công đức hạnh tu hành trí nghiệp, đem công 
	hạnh tu hành từ sơ phát tâm đến bực đệ thất địa để so sánh thời trăm phần 
	không bằng một, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha phần không bằng một, vô số 
	phần, ca la phần, phần, toán phần, số phần, dụ phần, ưu ba ni sa đà phần 
	cũng chẳng bằng một. 
	
	Tại sao vậy? Chư Phật tử! Bồ Tát này trước kia dùng một thân khởi hạnh. Nay 
	trụ bực này được vô lượng thân, vô lượng âm thanh, vì làm cho tất cả chúng 
	sanh, vô lượng trí huệ, vô lượng thọ sanh, vô lượng tịnh quốc, giáo hoá vô 
	lượng chúng sanh, cúng dường vô lượng Chư Phật, nhập vô lượng pháp môn, đủ 
	vô lượng thần thông, có vô lượng chúng hội đạo tràng sai biệt, trụ vô lượng 
	thân, ngữ, ý, nghiệp, tập họp tất cả hạnh Bồ Tát. Vì do pháp bất động vậy. 
	
	Chư Phật tử! Ví nhu ngồi thuyền buồm muốn vào biển lớn, khi chưa đến thời 
	phải dùng nhiều công lực. Nếu đã đến biển chỉ theo gió mà thuyền đi chẳng 
	cần nhơn lực. Đem sự thuyền đi khi chưa đến biển sánh sao kịp với lúc đã vào 
	biển. 
	
	Cũng vậy, đại bồ tát chứa nhóm tư lương thiện căn rộng lớn, ngồi thuyền đại 
	thừa đến biển Bồ Tát hạnh. 
	
	Trong khoảng một niệm dùng trí vô công dụng nhập cảnh giới nhứt thiết chủng 
	trí. 
	
	Những hạnh hữu công dụng trước kia dầu trãi qua vô lượng trăm ngàn ức na do 
	tha kiếp chẳng sánh kịp được. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát trụ bực đệ bát địa dùng trí đại phương tiện thiện xảo, 
	phát khởi vô công dụng giác huệ quán cảnh sở hành nhứt thiết chủng trí. 
	
	Như là quán thế gian thành, thế gian hoại, do nghiệp này họp mà thành, do 
	nghiệp này hết hoại, bao nhiêu thời gian thành, bao nhiêu thời gian hoại, 
	bao nhiêu thời gian thành trụ, bao nhiêu thời gian hoại trụ, đều biết đúng 
	như thiệt. Lại rõ biết địa giới tướng nhỏ, tướng lớn, vô lượng tướng, sai 
	biệt tướng. Biết thủy, hỏa, phong giới nhỏ lớn v.v… cũng như vậy, biết vi 
	trần tướng vi tế, tướng sai biệt, vô lượng tướng sai biệt. Tùy trong thế 
	giới nào có nhóm vi trần và vi trần tướng sai biệt đều biết như thiệt. Tùy 
	trong thế giới nào có bao nhiêu địa, thủy, hoả, phong giới đều có bao nhiêu 
	vi trần, những bửu vật đều có bao nhiêu vi trần, thân chúng sanh có bao 
	nhiêu vi trần, thân quốc độ có bao nhiêu vi trần đều biết như thiệt. Biết 
	thân lớn thân nhỏ của chúng sanh đều có bao nhiêu vi trần thành. Biết thân 
	địa ngục, thân súc sanh, thân ngạ quỷ, than a tu la, thân trời người đều có 
	bao nhiêu vi trần họp thành.  
	Được trí biết vi trần sai biệt như vậy. Lại biết dục giới, sắc giới, vô sắc 
	giới thành, dục, sắc, vô sắc giới hoại. Biết dục, sắc, vô sắc giới tướng 
	nhỏ, tướng lớn, tướng vô lượng, tướng sai biệt. Được trí quán tam giới sai 
	biệt như vậy . 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát này lại khởi trí minh giáo hoá chúng sanh. Như là khéo 
	biết thân sai biệt của chúng sanh, khéo phân biệt thân chúng sanh, khéo quán 
	sát chổ sanh ra, tuỳ chổ đáng độ mà hiện thân giáo hoá cho họ được thành 
	thục. 
	
	Bực Bồ Tát này nơi tam thiên đại thiên thế giới, tùy chúng sanh thân tín 
	giải sai khác, dùng trí quang minh khắp hiện thọ sanh. Như thế hoặc hai hoặc 
	ba nhẫn đến trăm ngàn cho đến bất khả thuyết đại thiên thế giới, tùy chúng 
	sanh thân tín giải sai khác thị hiện thọ sanh khắp trong đó. 
	
	Vì Bồ Tát này thành tựu trí huệ như vậy nên ở nơi một cõi phật, thân ngài 
	bất động, nhẫn đến trong chúng hội ở bất khả thuyết cõi Phật đều hiện có 
	thân ngài. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát này các chúng sanh thân tâm tín giải các loại sai khác, 
	ở trong chúng hội của cõi Phật đó mà hiện thân. Như là ở trong chúng Sa môn 
	thời thị hiện thân sa môn. Trong chúng bà la môn thời thị hiện thân bà la 
	môn. Trong chúng sát lợi thời thị hiện thân sát lợi. Như vậy trong chúng tỳ 
	xá, thủ đà, cư sĩ, tứ thiên vương, Đao lợi thiên, Dạ ma thiên, Đâu suất 
	thiên, Hoá lạc thiên, Tha hoá tự tại thiên, Ma vương chúng, Phạm thiên chúng 
	nhẫn đến chúng Sắc cứu cánh thiên, đều theo chúng ấy mà tu hiện thân. 
	
	Lại người đáng được độ bởi thân Thanh văn thời Bồ Tát này hiện thân thanh 
	văn. Người đáng được độ bởi thân Bích chi phật thời hiện thân Bích chi 
	phật.người đáng được độ bởi thân Bồ Tát thời hiện than Bồ Tát. Người đáng độ 
	bởi thân phật thời hiện thân Phật. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát này ở trong tất cả thân tướng sai biệt, trụ nơi bình 
	đẳng. 
	
	Bồ Tát này biết thân chúng sanh, thân quốc độ, thân nghiệp báo, thân Thanh 
	văn, thân Độc giác, thân Bồ Tát, thân Như Lai, trí thân, pháp thân, hư không 
	thân. 
	
	Bồ Tát này biết tâm sở thích của các chúng sanh, có thể dùng thân chúng sanh 
	làm thân mình, cũng làm thân quốc độ, thân nghiệp báo nhẫn đến thân hư 
	không. 
	
	Lại biết tâm sở thích của các chúng sanh, Bồ Tát này có thể lấy quốc độ thân 
	làm thân mình, cũng làm thân chúng sanh, thân nghiệp báo, nhẫn đến thân hư 
	không. 
	
	Lại biết tâm sở thích của chúng sanh, Bồ Tát này có thể lấy thân nghiệp báo 
	làm thân mình, cũng làm thân chúng sanh, thân quốc độ nhẫn đến thân hư không 
	. 
	
	Lại biết tâm sở thích của chúng sanh, có thể lấy tự thân làm thân chúng 
	sanh, thân quốc độ, nhẫn đến thân hư không. 
	
	Tùy tâm sở thích của chúng sanh chẳng đồng, nên ở nơi thân này, Bồ Tát hiện 
	những thân như vậy. 
	
	Bồ Tát này biết chúng sanh: thân tập nghiệp, báo thân, phiền não thân, sắc 
	thân, vô sắc thân. 
	
	Lại biết thân quốc độ: tướng nhỏ, tướng lớn, tướng vô lượng, tướng nhiễm, 
	tướng tịnh , tướng rộng, tướng đảo trụ, tướng chánh trụ, tướng phổ nhập, 
	tướng phương võng sai biệt. 
	
	Biết thân nghiệp báo là giả danh sai biệt. Biết thân Thanh văn, thân Độc 
	giác, thân Bồ Tát là giả danh sai biệt. 
	
	Biết thân Như Lai có Bồ đề thân, nguyện thân, hóa thân, lực trì thân, tướng 
	hảo trang nghiêm thân, ý sanh thân, phước đức thân, pháp thân, trí thân. 
	
	Biết trí thân tướng khéo suy lường, tướng quyết đoán thân đúng thiết, tướng 
	nhiếp về quả hành, tướng sai biệt của thế gian và xuất thế gian, tướng sai 
	biệt của tam thừa, cộng tướng, bất cộng tướng, xuất ly tướng, phi xuất ly 
	tướng, học tướng, vô học tướng. 
	
	Biết pháp thân tướng bình đẳng, tướng bất hoại, tướng tùy thời tùy tục giả 
	danh sai biệt, tướng chúng sanh phi chúng sanh pháp sai biệt, tướng phật, 
	pháp, tăng sai biệt. 
	
	Biết thân hư không tướng vô lượng tướng châu biến, tướng vô hình, tướng vô 
	dị, tướng vô biên, tướng hiển hiện sắc thân 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát thành tựu thân trí như vậy rồi, được mạng tự tại, tâm tự 
	tại, tài tự tại, nghiệp tự tại, sanh tự tại, nguyện tự tại, giả tự tại, như 
	ý tự tại, trí tự tại, pháp tự tại .  
	
	Vì được mười môn tự tại này, thời là bực trí bất tư nghì, bực trí vô lượng, 
	bực trí quãng đại, bực trí vô năng hoại. 
	
	Bồ Tát này nhập như vậy rồi, thành tựu như vậy rồi thời được thân nghiệp, 
	khẩu nghiệp, ý nghiệp rốt ráo không lỗi. Thân ngữ ý luôn hiện hành theo trí. 
	Bát nhã ba la mật tăng thượng, đại bi làm đầu, phương tiện thiện xảo, khéo 
	hay phân biệt,khéo khởi đại nghuyện, Phật lực gia hộ, thường siêng tu tập 
	trí lợi ích chúng sanh, ở khắp vô biên thế giới sai khác. 
	
	Chư Phật tử! tóm lại, Bồ Tát an trụ bực đệ bát bất động địa này, thân, ngữ, 
	ý có chổ làm, đều có thể chứa họp tất cả Phật pháp. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát này được khéo trụ thâm tâm vì tất cả phiền não chẳng 
	hiện hành. Được khéo trụ thắng tâm lực vì chẵng rời nơi đạo. Được khéo trụ 
	đại bi lực vì chẳng bỏ lợi ích chúng sanh. Được khéo trụ từ lực vì cứu hộ 
	tất cả thế gian. Được khéo trụ đà la ni lực vì chẳng quên nơi pháp, được 
	khéo trụ biện tài lực vì khéo quán sát phân biệt tất cả pháp. Được khéo trụ 
	thần thông lực vì qua khắp vô biên thế giới. Được khéo trụ thần thông lực vì 
	qua khắp vô biên thế giới. Được khéo trụ đại nguyện lực vì chẳng bỏ công 
	hạnh của Bồ Tát. Được khéo trụ ba la mật lực vì thành tựu tất cả Phật pháp. 
	được Như Lai hộ niệm lực vì Nhứt thiết chủng trí hiện tiền. 
	
	Bồ Tát này được trí lực như vậy, có hiện tất cả việc làm, trong công việc 
	không có lỗi lầm. 
	
	Chư Phật tử! trí địa của Bồ tát này gọi là bất động địa không bị trở hoại. 
	Gọi là bất thoái chuyển địa vì trí huệ bất thối. Gọi là nan đắc địa vì tất 
	cả thế gian không lường được. 
	
	Gọi là đồng chơn địa lìa tất cả lỗi lầm. Gọi là sanh địa vì tùy thích tự 
	tại. Gọi là thành địa vì không còn sở tác.gọi là cứu cánh địa vì trí 
	huệquyết định. Gọi là biến hoá địa vì tùy nguyện thành tựu. Gọi là lực trì 
	địa vì người khác chẳng làm động được.Gọi là vô công dụng địa vì trước đã 
	thành tựu. 
	
	Chư Phật tử ! Bồ tát thành tựu trí huệ như vậy nhập phật cảnh giới, phật 
	công đức chiếu đến, thuận phật oai nghi, phật cảnh hiện tiền, thường được 
	Phật hộ niệm. Phạm vương, Thiên đế, Tứ thiên vương, Kim cang lực sĩ thường 
	theo thị vệ. 
	
	Bồ Tát này luôn chẳng bỏ lìa các đại tam muội, có thể hiện vô lượng thân sai 
	khác. Mỗi thân có thế lực lớn, báo đắc thần thông tam muội tự tại. Tùy nơi 
	nào có chúng sanh đáng được hóa độ thời thị hiện thành chánh giác. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát này nhập hội đại thừa, được đại thần thông, phóng đại 
	quang minh, nhập vô ngại pháp giới, biết thế giới sai biệt, thị hiện tất cả 
	những công đức lớn tùy ý tự tại, khéo thông đạt tiền tế, hậu tế dẹp phục tất 
	cả đạo ma tà, thâm nhập cảnh giới của chư phật nơi vô lượng quốc độ tu Bồ 
	Tát hạnh. Bởi được pháp bất thối chuyển, nên gọi là trụ bất động địa. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát trụ bực bất động địa này rồi, do sức tam muội, thường 
	được hiện thấy vô lượng Chư Phật, thường chẳng rời bỏ phụng thờ cúng dường. 
	
	Bồ Tát này nơi mỗi mỗi kiếp, mỗi mỗi thế giới thấy vô lượng trăm Phật, vô 
	lượng ngàn Phật, nhẫn đến vô lượng trăm ngàn ức na do tha phật, đều kính 
	trọng cúng dường . 
	
	Ở chổ Chư Phật được pháp tạng thậm thâm của Như Lai. Thọ được vô lượng pháp 
	thế giới sai biệt thảy. 
	
	Nếu có ai đến vấn nạn những sự như thế giới sai biệt v.v.. không ai khuất 
	phục Bồ Tát này được.  
	
	Như vậy trải qua vô lượng trăm kiếp, nhẫn đến vô lượng trăm ngàn ức na do 
	tha kiếp những thiện căn đã có càng thêm sáng sạch . 
	
	Ví như chơn kim đem làm mão báu, đặt trên đầu Thánh vương diêm phù đề, những 
	món trang nghiêm của tất cả thần dân không thể sánh kịp. 
	
	Cũng vậy, những thiện căn của bực bồ tát này hơn tất cả những thiện căn của 
	nhị thừa nhẫn đến đệ thất địa bồ tát. 
	
	Bởi Bồ Tát trụ bực này, đại trí quang minh diệt trừ tối tăm phiền não của 
	khắp chúng sanh, vì khéo hay khai môn huệ. 
	
	Chư Phật tử! V í như đại Phạm thiên vương chủ ngàn thế giới, có thể khắp vận 
	từ tâm, khắp phóng quang minh đầy ngàn thế giới, 
	
	Cũng vậy, Bồ Tát này hay phóng quang minh chiếu khắp trăm vạn phật sát vi 
	trần số thế giới, làm cho chúng sanh đập tắt lửa phiền não mà được thanh 
	lương . 
	
	Trong mười môn la la mật, Bồ Tát này thiên nhiều về nguyện ba la mật, các 
	món khác thời tùy sức, phần mà tu tập 
	
	Đây gọi là nói lược về Bồ Tát đệ bát bất động địa. Nếu nói rộng thời trải vô 
	lượng kiếp cũng không thể cùng tận. 
	
	Chư Phật tử! Đại Bồ tát trụ bực này phần nhiều làm đại Phạm thiên vương chủ 
	ngàn thế giới, tối thắng tự tại, giỏi giảng thiết các nghĩa. Có thể ban đạo 
	ba la mật cho hàng Thanh văn, Bích chi phật, chư Bồ Tát . 
	
	Tất cả công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, đều chẳng rời niệm phật, 
	nhẫn đến chẳng rời niệm Nhứt thiết chủng trí.  
	
	Bồ Tát hảy lại nghĩ rằng: Tôi sẽ ở trong tất cả chúng sanh là thượng thủ, là 
	thắng nhẫn đến là bực y chỉ của Nhứt thiết chủng trí, 
	
	Bồ Tát này nếu dùng sức phát khởi đại tinh tấn trong khoảng một niệm được 
	trăm vạn đại thiên thế giới vi trần số tam muội, nhẫn đến thị hiện trăm vạn 
	đại thiên thế giới vi trần Bồ Tát làm quyến thuộc. 
	
	Nếu dùng nguyện lực tự tại thù thắng để thị hiện thời hơn số trên đây, nhẫn 
	đến trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể đếm biết được. 
	
	Kim cang tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà kệ rằng:  
	
	Thất địa tu hành phương tiện huệ 
	
	Khéo chứa trợ đạo đại nguyện lực 
	
	Lại được Chư Phật chổ nhiếp trì 
	
	Vì cầu thắng trí nhập bát địa 
	
	Công đức thành tựu thường từ mẫn 
	
	Trí huệ rộng lớn đồng hư không 
	
	Nghe pháp hay sanh quyết định lực 
	
	Đây là tịch diệt vô sanh nhẫn. 
	
	Biết pháp tướng vô sanh vô khởi 
	
	Vô thành, vô hoại cũng vô tận 
	
	Lìa có bình đẳng tuyệt phân biệt 
	
	Siêu các tâm hành như hư không. 
	
	Thành tựu nhẫn này siêu hý luận. 
	
	Thậm thâm bất động luôn tịch diệt 
	
	Tất cả thế gian không thảy đều lìa . 
	
	Trụ ở bực này chẳng phân biệt 
	
	Ví như tỳ kheo nhập diệt định 
	
	Như mộng lội sông, thức thời không 
	
	Như sanh phạm thiên tuyệt ái dục . 
	
	Do bổn nguyện lực được phật khuyên 
	
	Khen trí nhẫn cao quán đảnh cho 
	
	Bảo rằng Phật pháp của chúng ta  
	
	Nay ông chưa được phải tinh tấn. 
	
	Dầu ông đã tắt lửa phiền não  
	
	Phiền não thế gian vẫn hẩy hừng  
	
	Phải nhớ bổn nguyện độ sanh  
	
	Đều khiến tu nhơn đến giải thoát. 
	
	Pháp tánh chơn thường lìa tâm niệm  
	
	Nơi đây nhị thừa cũng được vậy 
	
	Chẳng do cớ này làm Thế tôn 
	
	Chỉ do thậm thâm vô ngại trí. 
	
	Chư Phật thế tôn thiên nhơn sư  
	
	Ban cho trí huệ bảo quán sát  
	
	Vô biên Phật pháp đều được thành  
	
	Một niệm vượt hơn công hạnh trước  
	
	Bồ Tát an trụ địa này  
	
	Thời được sức thần thông quảng đại 
	
	Một niệm phân thân khắp mười phương  
	
	Như thuyền vào biển nhờ gió thổi. 
	
	Tâm vô công dụng, trí nhậm vận 
	
	Đều biết quốc độ: thành, hoại, trụ 
	
	Các cõi chủng loại đều khác lạ  
	
	Lớn nhỏ vô lượng đều biết được. 
	
	Đại thiên thế giới tứ đại chúng 
	
	Lục đạo chúng sanh thân đều khác 
	
	Và cùng châu báu vi trần số 
	
	Dùng trí xem biết không còn thừa. 
	
	Bồ Tát hay biết không còn thừa. 
	
	Bồ Tát hay biết tất cả thân 
	
	Vì độ chúng sanh hiện thân đồng 
	
	Cõi nước vô lượng nhiều loại khác 
	
	Đều vì hiện hình khắp mọi chỗ 
	
	Ví như nhựt nguyệt ở hư không. 
	
	Tất cả trong nước đều hiện bóng  
	
	Trụ ở pháp giới không bị động  
	
	Tùy tâm hiện bóng cũng như vậy  
	
	Tùy tâm sở thích của chúng sanh . 
	
	Trong các chúng hội đều hiện thân 
	
	Thanh văn, Độc giác cùng Bồ Tát  
	
	Nhẫn đến thân Phật đều hiện cả. 
	
	Chúng sanh, quốc độ, nghiệp báo thân, 
	
	Các bực thánh nhơn trí pháp thân  
	
	Hư không thân tướng đều bình đẳng 
	
	Vì khắp chúng sanh mà thị hiện. 
	
	Mười môn thánh trí khắp quán sát  
	
	Lại thuận từ bi làm công hạnh 
	
	Tất cả Phật pháp đều thành tựu  
	
	Trì giới bất động như tu di. 
	
	Thập lực thành tựu chẳng động lay 
	
	Tất cả ma chúng không chuyển được 
	
	Chư Phật hộ niệm, thiên vương kính  
	
	Mật tích kim cang thường thị vệ. 
	
	Bực này công đức vô biên tế 
	
	Ngàn vạn ức kiếp nói chẳng hết 
	
	Thiện căn cúng Phật càng sáng sạch 
	
	Như bửu quang trên đảnh thánh vương.  
	
	Bồ Tát trụ bực đệ bát địa  
	
	Thường làm phạm vương chủ ngàn cõi 
	
	Diễn thuyết tam thừa không tận cùng  
	
	Từ quang soi khắp trừ phiền não 
	
	Tam muội chứng được trong một niệm  
	
	Số đến trăm vạn cỏi vi trần  
	
	Công hạnh ra làm cũng số đó  
	
	Nguyện lực thị hiện lại hơn đây 
	
	Bồ Tát đệ bát bất động địa  
	
	Tôi vì đại chúng đã nói lược  
	
	Nếu muốn thứ đệ nói rộng ra 
	
	Trải trăm ức kiếp nói chẳng hết. 
	
	Kim Cang Tạng nói đệ bát địa  
	
	Như Lai hiện tại thần thông lực 
	
	Chấn động các cõi nước mười phương  
	
	Vô lượng ức số khó bàn nghĩ, 
	
	Đắng vô thượng tôn chánh đẳng giác  
	
	Thân Phật khắp phóng đại quang minh  
	
	Chiếu soi vô lượng vi trần cõi  
	
	Đều khiến chúng sanh được an lạc 
	
	Bồ Tát vô lượng trăm ngàn ức 
	
	Đồng thời hiện đứng giửa hư không  
	
	Đồ cúng thượng diệu hơn chư thiên  
	
	Cúng dường đấng tối thắng vô thượng . 
	
	Đại tự tại vương, tự tại thiên 
	
	Đều cùng đồng tâm mừng vô lượng  
	
	Đều đem các thứ đồ cúng dường  
	
	Dâng lên đấng thậm thâm công đức 
	
	Lại có thiên nũ đồng vạn ức  
	
	Thân tâm vui mừng kể không xiết 
	
	Hòa tấu nhạc âm vô lượng thứ 
	
	Cúng dường nhơn thiên đại đạo sư. 
	
	Bấy giờ nhạc âm đồng hòa tấu 
	
	Trăm ngàn vạn ức vô lượng thứ  
	
	Đều do Như Lai oai thần lực  
	
	Diễn xuất diệu âm mà tán thán: 
	
	Tịch tịnh, điều nhu, không nhơ hại 
	
	Tùy bực đã nhập khéo tu tập 
	
	Tâm như hư không đến mười phương  
	
	Nói rộng Phật đạo độ quần sanh 
	
	Thiên thượng nhơn gian tất cả chổ  
	
	Đều hiện vô đẳng diệu trang nghiêm 
	
	Do Phật công đức mà sanh ra  
	
	Khiến người xem thấy ưa Phật trí. 
	
	Chẳng rời một cõi đến chúng sanh  
	
	Như trăng hiện khắp soi thế gian  
	
	Âm thanh tâm niệm đều diệt cả  
	
	Dường như hang núi dội tiếng vang. 
	
	Nếu có chúng sanh tâm hạ liệt 
	
	Vì họ diễn nói hạnh Thanh văn, 
	
	Nếu tâm minh lợi thích Độc giác, 
	
	Thời vì họ giảng đạo trung thừa  
	
	Nếu có từ bi thích độ sanh 
	
	Vì họ giảng dạy Bồ Tát hạnh , 
	
	Nếu có tối thắng tâm trí huệ 
	
	Thời dạy Như Lai pháp vô thượng . 
	
	Ví như thuật gia làm các sự  
	
	Nhiều loại hình tướng đều chẳng thiệt 
	
	Bồ Tát trí huyễn cũng như vậy  
	
	Dầu hiện tất cả rời hửu vô 
	
	Âm thanh ngàn thứ vang như vậy 
	
	Ca ngợi Phật rồi đứng lặng yên. 
	
	Giải Thoát Nguyệt lại vì chúng thỉnh  
	
	Xin nói công hạnh đệ cửu địa. 
	
	Kim Cang Tạng Bồ Tát bảo Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát rằng: Thưa Phật tử! Đại Bồ 
	tát dùng vô lượng trí như vậy tư duy quán sát muốn cầu tịch diệt giải thoát 
	hơn, liền tu tập Như Lai huệ: nhập các môn đà la ni tam muội Như Lai bí mật 
	pháp quán sát bất tư nghì đại trí tánh thanh tịnh . 
	
	Có đủ thần thông quảng đại vào thế giới sai biệt, tu tập thập lực, vô uý, 
	bất cộng. Theo chư Phật chuyển pháp luân. Chẳng bỏ đại bi bổn nguyện lực. 
	Được nhập Bồ Tát đệ cửu thiện huệ địa. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát trụ bực thiện huệ địa này, đúng như thiệt mà biệt các 
	pháp hành thiện, bất thiện, vô ký, hửu lậu, vô lậu, thế gian, xuất thế, tư 
	nghì, bất tư nghì, định, bất định, Thanh văn, Độc giác Bồ Tát, Như Lai và 
	pháp hành hữu vi, vô vi. 
	
	Bồ Tát này dùng trí huệ như vậy, đúng thiệt mà biết những rừng rậm của chúng 
	sanh: tâm, phiền não, nghiệp, căn, giải, tánh, dục lạc, tùy miên, thọ sanh, 
	tập khí tương tục và rừng rậm tam tụ sai biệt. 
	
	Bồ Tát này đúng thiệt mà biết tâm của chúng sanh có các thứ hình tướng. Như 
	những tướng: tạp khởi, tốc chuyển, hoại, bất hoại, vô minh chất, vô biên tế, 
	thanh tịnh, cấu, vô cấu, phược, bất phược, huyễn sở tác, theo các loài mà 
	đến thọ sanh, trăm ngàn muôn ức vô lượng tướng của tâm chúng sanh như vậy 
	đều biết đúng thiệt. 
	
	Lại biết các thứ tướng của phiền não, như những tướng lâu xa hiện hành, vô 
	biên dẫn khởi, sanh chung chẳng bỏ, núp và khởi một nghĩa, cùng tâm tưong 
	ưng, chẳng cùng tâm tương ưng, tùy loài thọ sanh mà trụ, ba cõi sai khác, ái 
	kiến si mạn họa hại như mũi tên cấm sâu, ba nghiệp nhơn duyên chẳng tuyệt. 
	Lược nói nhẫn đến tám muôn bốn ngàn tướng phiền não đều biết đúng thiệt. 
	
	Lại biết những tướng của ba nghiệp, như những tướng: thiện, bất thiện, vô 
	ký, có biểu thị, không có biểu thị, cũng tâm đồng sanh chẳng rời, nhơn tự 
	tánh sát na hoại mà thứ đệ nhóm quả chẳng mất, có báo, không báo, thọ các 
	đen tối, như ruộng vô lượng, phàm thánh sai khác hiện, thọ, sanh thọ hậu 
	thọ, thừa phi thừa, định bất định. Lược nói nhẫn đến tám muôn bốn ngàn tướng 
	của nghiệp đều biết đúng thiệt. 
	
	Lại biết tướng hạ, trung, thượng của các căn tánh, tướng tiên tế, hậu tế, 
	sai biệt, vô sai biệt, tướng phiền não câu sanh chẳng rời nhau, tướng thừa 
	phi thừa, định bất định, tướng thuần thục điều nhu, tướng tùy lưới căn nhẹ 
	đến hoại, tướng tăng thượng không bị hoại, tướng thối bất thối sai biệt, 
	tướng xa rời, cùng sanh chẳng đồng. Lược nói đến tám muôn bốn ngàn tướng đều 
	biết đúng thiệt. 
	
	Lại biết những tướng thượng, trung, hạ của trí giải, thượng, trung, hạ của 
	các tánh, thượng, trung , hạ của lạc dục, đều lược nói nhẫn đến tám muôn bốn 
	ngàn. 
	
	Lại biết các tướng của tùy miên: tướng cùng thâm tâm đồng sanh, tướng cùng 
	tâm đồng sanh, tướng tâm tương ưng bất tương ưng sai biệt, tướng lâu xa hiện 
	hành, tướng vô thủy chẳng trừ, tướng chống trái với tất cả thiền định, giải 
	thoát, tam muội, tam ma bát đề, thần thông, tướng ba cõi thọ sanh hệ phược, 
	tướng khiến vô biên tâm tương tục hiện khởi, tướng mở cửa các xứ, tướng cứng 
	chắc khó trị, tướng địa xứ thành tựu bất thành tựu, tướng chỉ do thánh đạo 
	mới nhổ được. 
	
	Lại biết các loại tướng thọ sanh. Tướng theo nghiệp thọ sanh, tướng sáu loài 
	sai khác, tướng có sắc không sắc sai khác, tướng có tưởng không tưởng sai 
	khác, tướng nghiệp làm ruộng, nước ái thấm nhuần, vô minh che rợp, thức làm 
	chủng tử sanh mầm hậu hữu, tướng danh sắc sanh chung chẳng rời nhau, tướng 
	si ái mong cầu các thân, tướng muốn thọ muốn sanh vô thủy tham chấp, tướng 
	tham cầu vọng cho rằng thoát ba cõi. 
	
	Lại biết các tướng của tập khí. Những là tướng hành bất hành sai khác, tướng 
	tùy loại huân tập, tướng tùy chúng sanh hành huân tập, tướng tùy nghiệp 
	phiền não huân tập, tướng thiện, bất thiện, vô ký huân tập, tướng tùy nhập 
	hậu hữu huân tập, tướng thứ đệ huân tập, tướng chẳng dứt phiền não lâu xa 
	chẳng bỏ huân tập, tướng thiệt phi thiệt huân tập, tướng thấy nghe gần gũi 
	Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát Như Lai huân tập . 
	
	Lại biết tướng chúng sanh chánh định, tà định, bất định. Những là tướng 
	chánh kiến, chánh định, tà kiến, tà định, nhị câu bất định, tướng ngũ nghịch 
	tà định, ngũ căn chánh định, nhị câu bất định, tướng bất tà tà định, chánh 
	tánh chánh định, nhị câu ly bất định, tướng sâu chấp tà pháp tà định, tập 
	hành thánh đạo chánh định, nhị câu xả bất định. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát tùy thuận trí huệ như vậy gọi là trụ Thiện Huệ Địa. 
	
	Đã trụ bực này, biết rõ những hành sai biệt của chúng sanh mà giáo hoá điều 
	phục cho được giải thoát. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát này có thể khéo diển thuyết pháp Thanh văn thừa, pháp 
	Độc giác thừa, pháp Bồ Tát thừa, pháp Như Lai địa. 
	
	Tất cả công hạnh lấy trí huệ làm trước, tất cả chổ đi trí đều đi theo, nên 
	có thể tùy căn tánh dục giải của chúng sanh, sở hành sai khác, các loài sai 
	khác, cùng tùy thọ sanh phiền não miên phược các nghiệp tập khí mà thuyết 
	pháp cho thọ sanh tín giải thêm lớn trí huệ, đều ở nơi thừa của mình mà được 
	giải thoát. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát trụ bực thiện huệ địa này làm đại pháp sư, đủ hạnh pháp 
	sư, khéo hay giữ gìn pháp tạng của Như Lai, dùng vô lượng trí thiện xảo khởi 
	tứ vô ngại biện. Dùng ngôn từ Bồ Tát mà thuyết pháp.  
	
	Bồ Tát này thường tùy tứ vô ngại trí mà chuyển không tạm bỏ lìa. 
	
	Những gì là bốn? chính là pháp vô ngại trí, nghĩa vô ngại trí , từ vô ngại 
	trí, lạc thuyết vô ngại trí. 
	
	Bồ Tát này đúng pháp vô ngại trí biết tự tướng của các pháp. Dùng nghĩa vô 
	ngại trí biết tướng sai biệt của các pháp. Dùng từ vô ngại trí nói không sai 
	lầm. Dùng lạc thuyết vô ngại trí thuyết pháp vô đoạn vô tận . 
	
	Lại dùng pháp vô ngại trí biết tự tánh của các pháp. nghĩa vô ngại trí biết 
	sanh diệt của các pháp. từ vô ngại trí thuyết an lập tất cả pháp chẳng dứt. 
	Lạc thuyết vô ngại trí tùy chổ an lập chẳng hoại thuyết pháp vô biên. 
	
	Lại dùng pháp vô ngại trí biết pháp hiện tại sai biệt. Nghĩa vô ngại trí 
	biết pháp quá khứ, vị lai sai biệt.  
	
	Từ vô ngại trí nơi các quá khứ, hiện tại, vị lai nói không sai lầm.  
	
	Lạc thuyết vô ngại trí nơi vô biên pháp trong mỗi đời đều nói rõ ràng. 
	
	Lại dùng pháp vô ngại trí biết pháp sai biệt. Nghĩa vô ngại trí biết nghĩa 
	sai biệt, từ vô ngại trí tùy ngôn âm của mọi loài mà nói. Lạc thuyết vô ngại 
	trí tùy tâm ưa thích của họ mà nói. 
	
	Lại pháp vô ngại trí dùng pháp trí biết sai biệt chẳng khác. Nghĩa vô ngại 
	trí biết sai biệt như thiệt. Từ vô ngại trí dùng thế trí sai biệt mà thuyết 
	pháp, lạc thuyết vô ngại trí dùng đệ nhứt nghĩa trí thiện xảo thuyết pháp. 
	
	Lại pháp vô ngại trí biết các pháp nhứt tướng chẳng hoại. Nghĩa vô ngại trí 
	biết uẩn, xứ, giới, đế, duyên khởi thiện xảo. Từ vô ngại trí dùng tất cả âm 
	thanh, văn tự mỹ diệu mà thế gian để hiểu đế thuyết pháp. Lạc thuyết vô ngại 
	trí dùng vô biên pháp minh tăng thắng đế thuyết pháp. lại pháp vô ngại trí 
	biết nhứt thừa bình đẳng tánh.  
	
	Nghĩa vô ngại trí biết các thừa sai biệt tánh. Từ vô ngại trí nói tất cả 
	thừa vô sai biệt.  
	
	Lạc thuyết vô ngại trí nói mỗi mỗi thừa vô biên pháp. 
	
	Lại pháp vô ngại trí biết tùy chứng tất cả hạnh Bồ Tát trí hành, pháp hành. 
	Nghĩa vô ngại trí biết thập địa phần vị nghĩa sai khác. Từ vô ngại trí 
	thuyết địa đạo tướng vô sai biệt. Lạc thuyết vô ngại trí thuyết mỗi mỗi địa 
	có vô biên hành tướng.
 
	
	Lại pháp vô ngại trí biết tất cả Như Lai một niệm thành chánh giác. Nghĩa vô 
	ngại trí biết các thời gian, các xứ sở đều sai khác. Từ vô ngại trí thành 
	chánh giác sai biệt. Lạc thuyết vô ngại nơi mỗi câu pháp vô lượng kiếp nói 
	chẳng hết. 
	
	Lạc pháp vô ngại trí biết tất cả Như Lai những ngữ ngôn, trí lực, vô úy, bất 
	cộng pháp, đại từ, đại bi, biện tại, phương tiện, chuyển pháp luân, Nhứt 
	thiết trí, tùy chứng trí. Nghĩa vô ngại trí bíet Như Lai tùy tám vạn bốn 
	ngàn tâm hành căn giải âm thanh sai biệt của chúng sanh. Từ vô ngại trí tùy 
	tất cả chúng sanh hạnh dùng âm thanh sai biệt của Như Lai để thuyết pháp. 
	lạc thuyết vô ngại trí tùy tín giải của chúng sanh dùng trí thanh tịnh hạnh 
	viên mãn của Như Lai để thuyết pháp.  
	
	Chư Phật tử! Bồ tát trụ đệ cửu địa được trí vô ngại thiện xảo như vậy, được 
	Phật pháp tạng làm đại pháp sư, được nghĩa đà la ni, pháp đà la ni, trí đà 
	la ni, quang chiếu đà la ni, thiện huệ đà la ni, chúng tài đà la ni, oai đức 
	đà la ni, vô ngại môn đà la ni, vô biên tế đà la ni, chủng chủng nghĩa đà la 
	ni, trăm vạn a tăng kỳ môn đà la ni, như vậy đều được viên mãn, dùng trăm 
	vạn vô số môn thiện xảo âm thanh biện tài mà thuyết pháp. 
	
	Bồ Tát này được trăm vạn vô số môn đà la ni như vậy rồi, nơi chổ vô lượng 
	Đức Phật, trước mỗi Đức Phật, đều dùng trăm vạn vô số môn đà la ni như vậy 
	để nghe chánh pháp, nghe rồi chẳng quên, dùng vô lượng môn sai biệt diễn 
	thuyết cho đại chúng khác. 
	
	Bồ Tát này mới vừa thấy Phật liền cúi đầu đảnh lễ. Ở chổ Phật liền được vô 
	lượng pháp môn. 
	
	Pháp môn đã được đây, hàng văn trí đại thanh văn trong trăm ngàn kiếp chẳng 
	lãnh thọ được. 
	
	Bồ Tát này được đà la ni như vậy, vô ngại trí như vậy, ngồi trên pháp tòa mà 
	thuyết pháp.  
	
	Chúng sanh khắp trong đại thiên thế giới, đều tùy tâm sở thích sai khác của 
	họ mà thuyết pháp: 
	
	Chỉ trừ Chư Phật và chư Bồ Tát đã thọ chức, các chúng hội khác không thể 
	sánh kịp oai đức quang minh với Bồ Tát này. 
	
	Bồ Tát này ngồi trên pháp toà, muốn dùng một âm thanh khiến các đại chúng 
	đều được hiểu rõ thời kiền được hiểu rõ. 
	Hoặc có lúc muốn dùng các thứ âm thanh làm cho cá đại chúng đều được 
	khai ngộ. 
	
	Hoặc có lúc tâm muốn phóng đại quang minh diễn thuyết pháp môn. 
	
	Hoặc có lúc tâm muốn ở trên thân mình, mỗi chân lông đều diễn pháp âm. 
	
	Hoặc có lúc tâm muốn nhẫn đến đại thiên thế giới có bao nhiêu vật hữu hình, 
	vô hình đều diễn ra ngôn âm diệu pháp. 
	Hoặc có lúc tâm phát một ngôn âm khắp cả pháp giới đều hiểu rõ. 
	
	Hoặc có lúc tâm muốn tất cả ngôn âm đều làm pháp âm thường trụ bất diệt. 
	
	Hoặc có lúc tâm muốn tất cả thế giới những ống tiêu, sáo, chuông trống tất 
	cả tiếng nhạc và ca ngâm đều diễn pháp âm. 
	Hoặc có lúc tâm muốn trong một chử, tất cả pháp cú, ngôn âm sai biệt 
	thảy đều đầy đủ . 
	
	Hoặc có lúc tâm muốn làm cho bất khả thuyết vô lượng thế giới, trong tứ đại 
	địa, thủy, hỏa, phong, có bao nhiêu vi trần trong mỗi vi trần thảy đều diễn 
	xuất bất khả thuyết pháp môn. 
	
	Tất cả đều muốn như vậy đều tùy tâm hiển hiện thành mản cả. 
	
	Chư Phật tử! giả sử đại thiên thế giới, tất cả chúng sanh đều đến trước Bồ 
	Tát này, mỗi mỗi chúng sanh đều dùng vô lượng ngôn âm khác nhau để vấn đề 
	nạn tất cả. vấn nạn đều chẳng đồng nhau. Trong khoảng một niệm Bồ Tát đều 
	lành thọ tất cả vẫn dùng một âm thanh mà giải thích khắp tất cả, khiến họ 
	đều vui thích, như vậy nhẫn đến tất cả chúng sanh trong bất khả thuyết thế 
	giới, trong bất khả thuyết thế giới. Bồ Tát đều có thể tuỳ tâm sở thích, 
	căn, giải của họ mà thuyết pháp. thừa thần lực của Phật rộng làm Phật sự, vì 
	khắp tất cả mà làm chổ nương tựa. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát này lại phát tinh tấn thành tựu trí minh, giả sử nơi một 
	chân lông có bất khả thuyết thế giới vi trần số Chư Phật chúng hội, mỗi 
	chúng hội có bất khả thuyết thế giới vi trần số chúng sanh, mỗi chúng sanh 
	có bất khả thuyết thế giới vi trần số tánh dục. Chư Phật đó tuỳ theo tánh 
	dục của chúng sanh mà đều ban cho pháp môn. 
	
	Như nơi một chân lông, tất cả chổ khắp pháp giới đều như vậy cả. Vô lượng 
	pháp môn của Chư Phật đã nói như vậy, trong khoảng một niệm, Bồ Tát đều lãnh 
	thọ được cả, không hề quên mất. 
	
	Chư Phật tử! Bồ tát trụ bực đệ cứu địa này ngày đêm tinh tấn, trọn không xen 
	niệm gì khác, chỉ nhập Phật cảnh giới thân cận Như Lai, nhập chư Bồ Tát thậm 
	thâm giải thoát, thường ở chánh định, thường thấy Chư Phật chưa từng bỏ lìa, 
	trong mỗi mỗi kiếp thấy vô lượng Phật, vô lượng trăm Phật, vô lượng ngàn 
	Phật, nhẫn đến vô lượng trăm ngàn ức na do tha Phật, đều kính trọng cúng 
	dường, hỏi pháp, được thuyết pháp đà la ni bao nhiêu thiện căn đã có càng 
	thêm sáng sạch. 
	
	Ví như chơn kim, thợ giỏi khéo dùng làm bửu quang đế chuyển luân thánh vương 
	đội, tất cả đồ trang nghiêm của thần dân và các tiểu quốc vương không sánh 
	kịp được. 
	
	Thiện căn của bực Bồ Tát đệ cửu địa cũng như vậy.những thiện căn của Thanh 
	văn, Độc giác và các Bồ Tát bực dưới không thể bằng được. 
	
	Chư Phật tử! ví như đại phạm thiên vương chủ của nhị thiên thế giới, thân 
	phóng quang minh có thể chiếu thấu chổ tối, chổ xa của tất cả nhị thiên thế 
	giới, những thiện căn của Bồ Tát này cũng như vậy. Có thể phóng quang minh, 
	chiếu tâm chúng sanh trừ sạch phiền não tăm tối. 
	
	Trong mười môn ba la mật, với Bồ Tát này, lực ba la mật là hơn cả các môn 
	kia thời tùy sức tùy phần. 
	 
	
	Chư Phật tử! đây là lược nói đại Bồ Tát đệ cửu thiện huệ địa. Nếu nói rộng 
	thời vô lượng kiếp nói cũng không hết. 
	
	Chư Phật tử! Bồ Tát trụ bực đệ cửu địa này thường làm Đại Phạm Thiên Vương 
	chủ nhị thiên thế giới. Thống trị giỏi, tự tại làm lợi ích. Hay vì hàng 
	Thanh văn, Độc giác và chư Bồ Tát mà giảng giải hạnh ba la mật. Hay tùy tâm 
	của chúng sanh. Không bị khuất phục vì vấn nạn. 
	
	Những công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều chẳng rời niệm Phật, 
	nhẫn đến chẳng rời niệm Nhứt thiết chủng trí. 
	
	Bồ Tát này lại nghĩ rằng: ở trong tất cả chúng sanh, tôi sẽ là thượng thủ, 
	là thắng, nhẫn đến là bực y chỉ của nhứt thiết chủng trí. 
	
	Bồ Tát này nếu phát tinh tấn trong khoảng một niệm được trăm vạn vô số quốc 
	độ vi trần số tam muội nhẫn đến thị hiện trăm vạn vô số quốc độ vi trần số 
	Bồ Tát làm quyến thuộc. 
	
	Nếu dùng nguyện lực thù thắng tự tại thị hiện thời hơn số này. nhẫn đến trăm 
	ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể đếm biết được . 
	
	Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng: 
	
	Vô lượng trí lực khéo quan sát. 
	
	Tối thượng vi diệu đời khó biết 
	
	Vào khắp chỗ bí mật của Phật  
	
	Lợi ích chúng sanh vào Cửu Địa. 
	
	Tổng trì tam muội đều tự tại  
	
	Được đại thần thông vào các cõi 
	
	Lực, trí, vô úy, bất cộng pháp 
	
	Nguyện, lực, bi tâm vào Cửu Địa. 
	
	Trụ nơi bực này trì pháp tạng 
	
	Rõ thiện, bất thiện, và vô ký 
	
	Hữu lậu, vô lậu, thế, xuất thế 
	
	Tư, bất tư nghì đều khéo biết. 
	
	Nếu pháp quyết định chẳng quyết định 
	
	Tam thừa tu tập đều quán sát 
	
	Hữu vi, vô vi hạnh sai biệt 
	
	Biết rõ như vậy nhập thế gian. 
	
	Nếu muốn biết rõ tâm chúng sanh  
	
	Thời hay dùng trí biết như thiệt, 
	
	Các thứ chuyển tốc, hoại, chẳng hoại, 
	
	Những tướng vô chất, vô biên thảy, 
	
	Phiền não vô biên thường sanh chung 
	
	Phục, khởi một nghĩa nối các loại. 
	
	Nghiệp tánh chủng loại đều riêng khác 
	
	Nhơn hoại quả nhóm đều biết được 
	
	Căn tánh các loại hạ trung thượng 
	
	Tiên tế hậu tế khác vô lượng. 
	
	Giải, tánh, lạc dục cũng như vậy  
	
	Tám vạn bốn ngàn đều biết cả, 
	
	Chúng sanh hoặc kiến luôn tùy chuyển 
	
	Rừng rậm vô thỉ chưa cắt trừ  
	
	Với chí chung cùng tâm đều sanh 
	
	Thường ràng rịt nhau chẳng đoạn tuyệt. 
	
	Chẳng phải vật thiệt, chỉ vọng tưởng 
	
	Chẳng rời khỏi tâm không xứ sở 
	
	Thiền định cảnh trừ những thối chuyển 
	
	Kim cang đạo diệt mới rốt ráo. 
	
	Sáu loài thọ sanh đều sai khác 
	
	Ruộng nghiệp, ái nhuận, vô minh che 
	
	Thức làm chủng tử, mầm danh sắc 
	
	Ba cõi vô thỉ luôn tiếp nối. 
	
	Hoặc, nghiệp, tâm tập sanh các loại 
	
	Nếu lìa hoặc nghiệp chẳng còn sanh 
	
	Chúng sanh ở trong hoặc, nghiệp, tâm 
	
	Hoặc chìm kiến chấp, hoặc thành đạo. 
	
	Bực Bồ Tát này khéo quán sát  
	
	Tùy tâm sở thích và căn giải  
	
	Đều dùng vô ngại diệu biện tài 
	
	Theo chỗ đáng độ mà thuyết pháp. 
	
	Ngồi trên pháp tọa như sư tử, 
	
	Cũng như ngưu vương, bửu sơn vương, 
	
	Lại như Long Vương bủa mây dầy 
	
	Tuôn mưa cam lộ đầy biển lớn. 
	
	Khéo biết pháp tánh và áo nghĩa 
	
	Tùy thuận ngôn từ hay biện thuyết 
	
	Vô số trăm vạn đà la ni 
	
	Dường như biển lớn chứa nước mưa 
	
	Tổng trì tam muội đều thanh tịnh  
	
	Trong khoảng một niệm thấy nhiều Phật  
	
	Nơi mỗi mỗi Phật đều nghe pháp 
	
	Lại dùng diệu âm để diễn thuyết. 
	
	Nếu muốn khắp Đại Thiên thế giới  
	
	Giáo hóa tất cả các quần sanh 
	
	Như mây bủa khắp mọi nơi chỗ  
	
	Tùy theo căn dục đều khiến mừng, 
	
	Đầu lông Phật chúng đông vô số 
	
	Chúng sanh sở thích cũng vô cực 
	
	Đều xứng tâm họ cho pháp môn 
	
	Tất cả pháp giới đều như vậy. 
	
	Bồ Tát siêng thêm sức tinh tấn 
	
	Lại được công đức càng thêm hơn 
	
	Văn trì vô lượng các pháp môn 
	
	Như đất hay gìn tất cả giống. 
	
	Mười phương vô lượng các chúng sanh  
	
	Đều đến thân cận ngồi trong hội 
	
	Một niệm tùy tâm đều vấn nạn 
	
	Một lời đối khắp đều thỏa mãn. 
	
	Trụ ở bực này làm Pháp Vương  
	
	Tùy cơ dạy bảo không nhàm mỏi 
	
	Ngày đêm thấy Phật chưa từng bỏ 
	
	Nhập thâm tịch diệt trí giải thoát. 
	
	Cúng Phật thiện căn càng thêm sáng 
	
	Như mão diệu bửu trên đầu vua 
	
	Nhờ đây chúng sanh dứt phiền não 
	
	Như quang chiếu khắp của Phạm Vương. 
	
	Bực này thường hiện Đại Phạm Vương. 
	
	Đem pháp tam thừa độ chúng sanh  
	
	Thiện nghiệp tu hành khắp lợi ích 
	
	Nhẫn đến sẽ thành nhứt thiết trí. 
	
	Một niệm đã nhập các tam muội. 
	
	Vô số thế giới vi trần số 
	
	Thấy Phật thuyết pháp, số cũng vậy 
	
	Nguyện lực thị hiện lại hơn đây. 
	
	Đây là đệ cửu Thiện Huệ Địa 
	
	Chỗ tu hành của đại Bồ Tát  
	
	Thậm thâm vi diệu khó thấy được 
	
	Tôi vì Phật tử đã tuyên thuyết.  
	(Hán bộ quyển 39) 
	
	Na do tha chúng Tịnh Cư Thiên 
	
	Nghe những thắng hạnh trong Cửu Địa 
	
	Trên không hớn hở lòng hoan hỉ 
	
	Đều cùng cung kính cúng dường Phật.  
	
	Bất khả tư nghì chúng Bồ Tát  
	
	Cũng ở hư không rất hoan hỉ 
	
	Đồng thắp hương duyệt ý tối thượng 
	
	Huân khắp chúng hội khiến thanh tịnh. 
	
	Tự tại Thiên Vương cùng thiên chúng 
	
	Vô lượng ức số ở hư không 
	
	Rải khắp thiên y cúng dường Phật 
	
	Trăm ngàn muôn thứ phất phới rơi. 
	
	Thể nữ cõi trời số vô lượng 
	
	Tất cả mừng vui cúng dường Phật 
	
	Đều tấu các thứ âm nhạc hay 
	
	Đều dùng lời nầy để ca ngợi 
	
	Phật thân an tọa một quốc độ 
	
	Tất cả thế giới đều hiện thân 
	
	Thân tướng đoan nghiêm vô lượng ức 
	
	Pháp giới rộng lớn đều khắp đầy. 
	
	Nơi một chân lông phóng quanh minh 
	
	Khắp dứt thế gian phiền não tối 
	
	Thế giới vi trần biết được số 
	
	Quag minh nầy số chẳng lường được. 
	
	Hoặc thấy Như Lai đủ tướng hảo 
	
	Chuyển chánh pháp luân thắng vô thượng, 
	
	Hoặc thấy du hành các cõi Phật. 
	
	Hoặc thấy vắng lặng an bất động, 
	
	Hoặc hiện ở tại cung Đâu Suất, 
	
	Hoặc hiện hạ sanh nhập thai mẹ, 
	
	Hoặc hiện trụ thai hoặc xuất thai, 
	
	Đều khiến trong vô lượng cõi thấy, 
	
	Hoặc hiện xuất gia tu thế đạo 
	
	Hoặc hiện đạo tràng thành chánh giác 
	
	Hoặc hiện thuyết pháp hoặc Niết bàn 
	
	Khiến khắp mười phương đều xem thấy. 
	
	Ví như huyễn sư biết huyễn thuật 
	
	Ở trong đại chúng hiện nhiều việc, 
	
	Trí huệ Như Lai cũng như vậy 
	
	Ở trong thế gian khắp hiện thân. 
	
	Phật trụ thậm thâm chơn pháp tánh 
	
	Tịch diệt vô tướng đồng hư không 
	
	Mà ở trong đệ nhứt thiệt nghĩa 
	
	Thị hiện công hạnh nhiều sự việc. 
	
	Hạnh lợi chúng sanh Phật đã làm 
	
	Đều nương pháp tánh mà được có 
	
	Tướng và vô tướng không sai khác 
	
	Vào đến rốt ráo đều vô tướng. 
	
	Nếu có muốn được Như Lai trí 
	
	Phải rời tất cả vọng phân biệt  
	
	Thông đạt hữu vô đều bình đẳng 
	
	Mau làm Nhơn Thiên Đại Đạo Sư. 
	
	Vô lượng vô biên chúng thiên nữ 
	
	Ca nhạc ngôn âm khen ngợi rồi 
	
	Thân tâm tịch tịnh đều an lạc 
	
	Chiêm ngưỡng Như Lai đứng yên lặng. 
	
	Liền đó Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát 
	
	Biết các chúng hội đều tịch tịnh  
	
	Hướng Kim Cang Tạng mà thỉnh rằng: 
	
	Bực Đại Vô Úy Chơn Phật Tử! 
	
	Từ Đệ Cửu Địa vào Thập Địa 
	
	Bao nhiêu công đức các hành tướng 
	
	Nhẫn đến thần thông trí biến hóa 
	
	Mong vì đại chúng mà tuyên thuyết. 
	
	Kim Cang Tạng Bồ Tát bảo Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát rằng: Thưa Phật tử! Đại Bồ 
	Tát từ Sơ Địa đến Đệ Cửu Địa dùng vô lượng trí huệ quán sát giác liễu như 
	vậy rồi, khéo tư duy tu tập, khéo đầy đủ thiện pháp, nhóm vô biên pháp trợ 
	đạo, thêm lớn đại phước đức trí huệ, rộng thi hành đại bi, biết thế giới sai 
	biệt, vào rừng rậm chúng sanh giới, nhập cảnh giới Như Lai, tùy thuận hạnh 
	tịch diệt của Như Lai, thường quán sát trí lực, vô úy, bất cộng pháp của Như 
	Lai, gọi là được nhứt thiết chủng trí thọ chức vị. 
	
	Chư Phật tử! Đại Bồ Tát dùng trí huệ như vậy nhập bực Thọ Chức Địa rồi liền 
	được ly cấu tam muội, nhập pháp giới sai biệt tam muội, trang nghiêm đạo 
	tràng tam muội, nhứt thiết chủng hoa quang tam muội, hải tạng tam muội, hải 
	ấn tam muội, hư không giới quảng đại tam muội, quán nhứt thiết pháp tự tánh 
	tam muội, tri nhứt thiết chúng sanh tâm hành tam muội, nhứt thiết Phật giai 
	hiện tiền tam muội, trăm vạn vô số tam muội như vậy đều hiện tiền. Bồ Tát 
	nầy ở nơi các môn tam muội trên đây hoặc nhập, hoặc xuất đều được thiện xảo. 
	Cũng khéo rõ biết tất cả tam muội việc làm sai biệt. Tam muội tối hậu tên là 
	thọ nhứt thiết trí thắng chức vị. 
	
	Lúc tam muội nầy hiện tiền, bỗng nhiên xuất sanh đại bửu liên hoa. Liên hoa 
	nầy rộng lớn bằng trăm vạn Đại Thiên thế giới, trang nghiêm với các thứ diệu 
	bửu, vượt hơn tất cả cảnh giới thế gian, do thiện căn xuất thế sanh khởi, do 
	những hạnh biết các pháp như huyễn tánh làm thành, thường phóng quang minh 
	chiếu khắp pháp giới, các cõi trời chẳng có được. 
	
	Liên hoa nầy, cọng bằng tỳ lưu ly ma ni bửu, đài bằng chiên đàn vương, tua 
	bằng ngọc mã não, cánh bằng vàng Diêm phù đàn, các báu làm tạng, lưới báu 
	che giăng. Hoa nầy thường phóng vô lượng quang minh, có mười Đại Thiên thế 
	giới vi trần số liên hoa làm quyến thuộc. 
	
	Bấy giờ, Bồ Tát này ngự trên liên hoa, thân tướng cân xứng với hoa. Vô lượng 
	quyến thuộc Bồ Tát ngồi trên các liên hoa kia, mỗi vị đều được trăm vạn tam 
	muội, đồng hướng về đại Bồ Tát nhứt tâm chiêm ngưỡng. 
	
	Chư Phật tử! Lúc đại Bồ Tát này và quyến thuộc ngồi trên liên hoa, thời 
	quang minh và ngôn âm khắp đến thập phương pháp giới. Tất cả thế giới đều 
	chấn động, ác đạo khỏi khổ, cõi nước nghiêm tịnh, đồng hạnh Bồ Tát đều vân 
	tập đến, âm nhạc của nhơn thiên đồng thời trổi tiếng, tất cả chúng sanh đều 
	được an vui, đem bất tư nghì đồ cúng dường dâng lên chư Phật. Chư Phật chúng 
	hội thảy đều hiển hiện. 
	
	Chư Phật tử ! Lúc Bồ Tát nầy ngồi trên tòa đại liên hoa, thời nơi dưới hai 
	chân phóng trăm vạn vô số quanh minh chiếu khắp các đại địa ngục ở mười 
	phương diệt khổ cho chúng sanh. 
	
	Nơi hai gối phóng trăm vạn vô số quang minh chiếu khắp mọi loài súc sanh ở 
	mười phương diệt khổ cho chúng sanh. Nơi rún phóng trăm vạn vô số quang minh 
	chiếu khắp cõi Diêm La Vương ở mười phương diệt khổ cho chúng sanh. Nơi hai 
	bên hông phóng trăm vạn vô số quang minh chiếu khắp tất cả nhơn gian ở mười 
	phương diệt khổ cho chúng sanh. Nơi giữa hai tay phóng trăm vạn vô số quang 
	minh chiếu khắp tất cả cung điện của chư Thiên và A Tu La ở mười phương. Nơi 
	trên hai vai phóng trăm vạn vô số quang minh chiếu khắp tất cả Thanh Văn ở 
	mười phương. Nơi cổ và lưng phóng trăm vạn vô số quang minh chiếu khắp thân 
	Bích Chi Phật ở mười phương. Nơi mặt trăm vạn vô số quang minh chiếu khắp 
	hàng Bồ Tát sơ phát tâm đến bực Đệ Cửu Địa. Từ giữa hai chặng mày phóng trăm 
	vạn vô số quang minh chiếu khắp hàng Bồ Tát Thọ Chức ở mười phương.  
	
	Quang minh nầy làm cho cung điện của Ma Thảy đều chẳng hiện. 
	
	Nơi đảnh đầu phóng trăm vạn vô số Đại Thiên thế giới vi trần số quanh minh 
	chiếu khắp các đạo tràng chúng hội của chư Phật ở tất cả thế giới trong mười 
	phương, hữu nhiễu mười vòng rồi đứng lại trên hư không thành lưới quang minh 
	tên là Xí Nhiên Quang Minh, phát khởi các đồ cùng dường để cúng Phật. Chư Bồ 
	Tát khác, từ sơ phát tâm đến Đệ Cửu Địa, có những đồ cúng dường đều không 
	sánh được. 
	
	Lưới quanh minh nầy, ở trước chúng hội của mỗi đức Phật trong mười phương, 
	mưa những hương tốt, tràng hoa, y phục, tràng phan, bửu cái, các thứ trang 
	nghiêm bằng châu ma ni, để cúng dường lên Phật.  
	
	Đồ cúng trên đây đều tử thiện căn xuất thế sanh ra, vượt hơn tất cả cảnh 
	giới thế gian. Nếu có chúng sanh thấy biết sự nầy thời đều được bất thối 
	chuyển nơi đạo vô thượng giác. 
	
	Chư Phật tử! Đại quang minh nầy hiện sự cúng dường như vậy xong, lại nhiễu 
	tất cả thế giới mười phương nơi đạo tràng của chư Phật đủ mười vòng rồi lại 
	từ dưới chân của Phật mà vào. Lúc đó chư Phật và chư Bồ Tát biết nơi thế 
	giới ấy, có đại Bồ Tát ấy có thể làm hạnh quảng đại như vậy đến bực Thọ 
	Chức. 
	
	Chư Phật tử! Bấy giờ mười phương vô lượng vô biên Bồ Tát nhẫn đến bực Đệ Cửu 
	Địa đều vân tập vây quanh cung kính cúng dường Đại Bồ Tát nầy, nhứt tâm quán 
	sát. Đương lúc quán sát, chư Bồ Tát liền đều chứng được mười ngàn tam muội.  
	
	Lúc đó, những Bồ Tát Thọ Chức ở mười phương đều ở trong đức tướng nơi ngực 
	kim cang trang nghiêm phóng đại quanh minh tên Năng Hoại Ma Oán, có trăm vạn 
	vô số quang minh làm quyến thuộc, chiếu khắp mười phương hiện vô lượng thần 
	thông biến hóa, sau đó quang minh nầy, trở về nhập vào trong ngực kim cang 
	trang nghiêm của đại Bồ Tát. Khi quang minh nhập vào xong, những trí huệ thế 
	lực của đại Bồ Tát nầy thêm lớn trăm ngàn lần. 
	
	Bấy giờ thập phương chư Phật, từ chặng mày phóng quang minh thanh tịnh tên 
	Tăng Ích Nhứt Thiết Trí Thần Thông, có vô số quang minh làm quyến thuộc 
	chiếu khắp thế giới mười phương, hữu nhiễu mười vòng, thị hiện sự tự tại 
	quảng đại của Như Lai khai ngộ cho vô lượng trăm ngàn ức na do tha chúng Bồ 
	Tát. Chấn động khắp cả cõi Phật, diệt trừ tất cả khổ của các ác đạo, che ẩn 
	tất cả cung điện của Ma, hiển thị tất cả chỗ của chư Phật chứng Bồ đề và đạo 
	tràng chúng hội oai đức trang nghiêm. 
	
	Quang minh nầy chiếu khắp tận hư không biến pháp giới tất cả thế giới rồi 
	lại đến trên pháp hội của đại Bồ Tát nầy hữu nhiễu bao vòng hiển hiện những 
	sự trang nghiêm. Hiện xong, nhập vào trên đảnh đầu của đại Bồ Tát nầy. Những 
	quang minh quyến thuộc cũng đều nhập vào đảnh đầu của chư Bồ Tát. 
	
	Đương lúc quanh minh của chư Phật nhập vào đầu, Đại Bồ Tát nầy chứng được 
	trăm vạn tam muội mà trước kia chưa được. Đây gọi là đã được bực Thọ Chức 
	vào cảnh giới Phật đầy đủ thập lực dự ở số chư Phật. 
	
	Chư Phật tử! Như Chuyển Luân Thánh Vương sanh Thái Tử, mẹ là chánh hậu. Lúc 
	Thái Tử thân tướng trưởng thành đầy đủ, nhà vua bảo Thái Tử ngồi tòa diệu 
	kinh trên bạch tượng bửu, trương màn lưới lơn, dưng trang pha to, thắp 
	hương, rải hoa, trổi các âm nhạc, lấy nước bốn biển đựng trong bình vàng. 
	Nhà vua cầm bình vàng này rưới nước bốn biển lên đầu Thái Tử. Đây gọi là lễ 
	Thái Tử lãnh thọ vương chức, dự ở hàng quán đảnh Sát đế lợi vương. Liền có 
	thể thật hành đầy đủ mười thiện đạo, cũng được gọi là Chuyển Luân Thánh 
	Vương. 
	
	Đại Bồ Tát Thọ Chức cũng như vậy: Vì trí thủy của chư Phật rưới vào đầu nên 
	gọi là Thọ Chức, vì đầy đủ mười trí lực của Như Lai nên dự vào hàng chư 
	Phật. 
	
	Chư Phật tử! Đây gọi là Bồ Tát thọ chức đại trí. Bồ Tát do chức đại trí này 
	nên có thể làm vô lượng trăm ngàn vạn ức na do tha hạnh khó làm, thêm lớn vô 
	lượng trí huệ công đức, gọi là an trụ bực Pháp Vân Địa. 
	
	Chư Phật tử! Đại Bồ Tát ở bực Pháp Vân Địa nầy, đúng thiệt mà biết dục giới 
	tập, sắc giới tập, vô sắc giới tập, thế giới tập, pháp giới tập, hữu vi giới 
	tập, vô vi giới tập, chúng sanh giới tập, thức giới tập, hư không giới tập, 
	niết bàn giới tập, kiến chấp phiền não hành tập, thế giới thành hoại tập, 
	Thanh Văn hạnh tập, Độc Giác hạnh tập, Bồ Tát hạnh tập, Như Lai trí lực vô 
	úy sắc thân pháp thân tập, nhứt thiết chủng trí tập, thị hiện thành Phật 
	chuyển pháp luân tập, trí quyết định phân biệt tất cả pháp tập. Tóm lại, đại 
	Bồ Tát nầy dùng nhứt thiết trí mà biết tất cả tập. 
	
	Chư Phật tử! Đại Bồ Tát nầy, dùng giác huệ thượng thượng như vậy đúng thiệt 
	mà biết chúng sanh nghiệp hóa, phiền não hóa, kiến chấp hóa, thế giới hóa, 
	pháp giới hóa, Thanh Văn hóa, Độc Giác hóa, Bồ Tát hóa, Như Lai hóa, tất cả 
	phân biệt vô phân biệt hóa. 
	
	Lại đúng thiệt mà biết Phật trì, Pháp trì, Tăng trì, nghiệp trì, phiền não 
	trì, thời trì, nguyện trì, cúng dường trì, hành trì, kiếp trì, trí trì. 
	
	Lại đúng thiệt mà biết chư Phật nhập vi tế trí. Những là tu hành vi tế trí. 
	Mạng chung vi tế trí, thọ sanh vi tế trí, xuất gia vi tế trí, hiện thần 
	thông vi tế trí, thành chánh giác vi tế trí, chuyển pháp luân vi tế trí, trụ 
	thọ mạng vi tế trí, nhập niết bàn vi tế trí, giáo pháp trụ vi tế trí. 
	
	Đại Bồ Tát nầy lại nhập Như Lai bí mật xứ. Những là thân bí mật, ngữ bí mật, 
	tâm bí mật, thời phi thời tư lương bí mật, thọ Bồ Tát ký bí mật, nhiếp chúng 
	sanh bí mật, chủng chủng thừa bí mật, tất cả chúng sanh căn hành sai biệt bí 
	mật, nghiêm sở hành bí mật, đắc Bồ đề hạnh bí mật. Những sự nầy đều biết 
	đúng thiệt. 
	
	Lại biết những nhập kiếp trí của chư Phật. Những là một kiếp vào vô số kiếp, 
	vô số kiếp vào một kiếp, hữu số kiếp vào vô số kiếp, vô số kiếp vào hữu số 
	kiếp, một niệm vào kiếp, kiếp vào một niệm, kiếp vào phi kiếp, phi kiếp, vào 
	kiếp, hữu Phật kiếp vào vô Phật kiếp, vô Phật kiếp vào hữu Phật kiếp, quá 
	khứ vị lai kiếp vào hiện tại kiếp, hiện tại kiếp vào quá khứ vị lai kiếp, 
	quá khứ kiếp vào vị lai kiếp, vị lai kiếp vào hiện tại kiếp, trường kiếp vào 
	đoản kiếp, đoản kiếp vào trường kiếp. 
	
	Lại biết những kiếp sở nhập của Như Lai. Những là nhập mao đạo trí, nhập vi 
	trần trí, nhập quốc độ thân chánh giác trí, nhập chúng sanh thân chánh giác 
	trí, nhập chúng sanh tâm chánh giác trí, nhập chúng sanh hạnh chánh giác 
	trí, nhập tùy thuận nhứt thiết xứ chánh giác trí, nhập thị hiện biến hành 
	trí, nhập thị hiện thuận hành trí, nhập thị hiện nghịch hành trí, nhập thị 
	hiện tư nghì bất tư nghì thế gian liễu tri bất liễu tri hành trí, nhập thị 
	hiện Thanh văn trí, Độc giác trí, Bồ Tát hạnh trí, Như Lai hạnh trí. Tất cả 
	như vậy đều biết đúng thiệt. 
	
	Chư Phật tử! Tất cả chư Phật có những trí huệ quảng đại vô lượng, bực Bồ Tát 
	nầy đều có thể chứng nhập. 
	
	Đại Bồ Tát trụ bực Pháp Vân Địa nầy liền được Bồ Tát bất tư nghì giải thoát, 
	vô chướng ngại giải thoát, tịnh quán sát giải thoát, phổ chiếu minh giải 
	thoát, thông đạt tam thế giải thoát, pháp giới tạng giải thoát, quang minh 
	luân giải thoát, vô dư cảnh giới giải thoát. Mười môn giải thoát nầy làm 
	đầu, lại có vô lượng trăm ngàn vô số môn giải thoát đến vô lượng trăm ngàn 
	vô số môn tam muội, vô lượng trăm ngàn vô số môn đà la ni, vô lượng trăm 
	ngàn vô số môn thần thông, bực nầy đều thành tựu cả. 
	
	Chư Phật tử! Đại Bồ Tát nầy thần thông đạt trí huệ như vậy, tùy thuận vô 
	lượng Bồ đề, thành tựu thiện xảo niệm lực. 
	
	Mười phương chư Phật có vô lượng đại pháp minh, đại pháp chiếu, đại pháp vũ, 
	Bồ Tát nầy trong khoảng một niệm đều có thể an, có thể thọ, có thể nhiếp, có 
	thể trì tất cả. 
	
	Ví như Ta Dà La Long Vương làm mưa lớn, chỉ trừ đại hải, ngoài ra tất cả chỗ 
	khác đều không thể chứa thọ nhiếp trì nước mưa đó. 
	
	Cũng vậy, chỉ trừ bực Đệ Thập Địa Bồ Tát, ngoài ra tất cả chúng sanh, Thanh 
	Văn, Độc Giác, nhẫn đến Đệ Cửu Địa Bồ Tát đều không thể an thọ nhiếp trì 
	tạng bí mật đại pháp minh, đại pháp chiếu, đại pháp vũ của đức Như Lai. 
	
	Ví như đại hải có thể an thọ nhiếp trì trận mưa lớn của một Long Vương, hoặc 
	hai, hoặc ba, nhẫn đến vô lượng Long Vương đồng thời làm mưa lớn. Vì đại hải 
	rộng lớn vô lượng. 
	
	Cũng vậy đại Bồ Tát trụ bực Pháp Vân Địa có thể an thọ nhiếp trì đại pháp 
	minh, pháp chiếu, pháp vũ của một đức Phật nhẫn đến của vô lượng đức Phật, 
	đầu trong khoảng một niệm chư Phật đồng thờidiễn thuyết. 
	Vì thế nên bực Bồ Tát nầy hiệu là Pháp Vân Địa. 
	
	Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát hỏi: Thưa Phật tử! Trong khoảng một niệm, đại Bồ 
	Tát nầy có thể an thọ nhiếp trì đại pháp minh, pháp chiếu, pháp vủ của bao 
	nhiêu đức Phật? 
	
	Kim Cang Tạng Bồ Tát nói: Thưa Phật tử! Chẳng thể đếm tính biết được. Tôi sẽ 
	dùng ví dụ để trình bày việc ấy. 
	
	Thưa Phật tử! Ví như mười phương, trong mỗi phương đều có mười bất khả 
	thuyết trăm ngàn ức na do tha Phật sát vi trần số thế giới. Trong thế giới 
	đó, mỗi mỗi chúng sanh đều được văn trì đà la ni làm thị giả của Phật đa văn 
	bực nhứt trong hàng Thanh Văn, như Tỳ Kheo Đại Thắng, thị giả của đức Kim 
	Cang Liên Hoa Thượng Phật. Những pháp của một chúng sanh đã thọ, các chúng 
	sanh khác không thọ trùng. Những pháp của tất cả chúng sanh nầy thọ được có 
	số lượng chăng? 
	
	Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát nói: Số đó rất nhiều vô lượng vô biên. 
	
	Kim Cang Tạng Bồ Tát nói: Tôi xin nói để Phật tử được rõ. Bực Pháp Vân Địa 
	Bồ Tát, trong khoảng một niệm, an thọ nhiếp trì đạo pháp minh, pháp chiếu, 
	pháp vũ tam thế pháp tạng của một đức Phật nhiều hơn những pháp của tất cả 
	chúng sanh trên kia đã được nhiếp trì trăm phần không kịp một phần nhẫn đến 
	ví dụ cũng chẳng kịp được. 
	
	Như nơi một đức Phật, nơi bất khả thuyết trăm ngàn ức na do tha Phật sát vi 
	trần thế giới chư Phật, lại hơn số nầy vô lượng vô biên, nơi mỗi mỗi đức Như 
	Lai có bao nhiêu pháp minh, pháp chiếu, pháp vũ, tam thế pháp tạng, Bồ Tát 
	nầy đều có thể an thọ nhiếp trì trọn vẹn, nên hiệu là Pháp Vân Địa. 
	
	Chư Phật tử! Bực Bồ Tát nầy dùng tự nguyện lực nổi mây phước đức đại bi, 
	chấn sấm đại pháp, nháng chớp trí huệ vô úy, hiện các loại thân, khoảng một 
	niệm, qua khắp mười phương trăm ngàn ức na do tha thế giới vi trần số quốc 
	độ mà diễn thuyết đại pháp xô dẹp quân ma. 
	
	Lại hơn số trên đây, nơi vô lượng trăm ngàn ức na do tha thế giới vi trần số 
	quốc độ, tùy tâm sở thích của chúng sanh mà tuôn mưa đại pháp dập tắt lửa 
	phiền hoặc. Do đây hiệu là Pháp Vân Địa. 
	
	Chư Phật tử! Bồ Tát ở bực này, nơi một thế giới từ Đâu Suất Thiên gián sanh 
	nhẫn đến Niết bàn, tùy theo tâm của chúng sanh đáng được độ mà thị hiện Phật 
	sự. 
	
	Hoặc nơi hai thế giới, ba thế giới nhẫn đến vô lượng trăm ngàn ức na do tha 
	thế giới vi trần số quốc độ cũng đều như vậy. Thế nên bực nầy gọi là Pháp 
	Vân Địa. 
	
	Chư Phật tử! Bực Bồ Tát này trí huệ sáng suốt, thần thông tự tại, tùy tâm 
	niệm của mình, có thể đem thế giới hẹp làm thế giới rộng, thế giới rộng làm 
	thế giới hẹp, thế giới cấu uế làm thế giới thanh tịnh, thế giới thanh tịnh 
	làm thế giới cấu, những thế giới loạn trụ thứ trụ, đảo trụ, chánh trụ, tất 
	cả vô lượng thế giới như vậy đều có thể đổi làm lẫn nhau. 
	
	Hoặc tùy tâm niệm nơi trong một vi trần để một thế giới núi Tu Di, sông, 
	biển, v.v… mà thể tướng của vi trần kia vẫn như cũ, trong đó tất cả thế giới 
	đều hiện rõ. 
	
	Hoặc tùy tâm niệm ở trong một thế giới thị hiện hai thế giới trang nghiêm, 
	nhẫn đến bất khả thuyết thế giới trang nghiêm. 
	
	Hoặc ở trong một thế giới trang nghiêm thị hiện hai thế giới nhẫn đến bất 
	khả thuyết thế giới. 
	
	Hoặc tùy tâm niệm đem chúng sanh trong bất khả thuyết thế giới để trong một 
	thế giới. Hoặc đem chúng sanh trong một thế giới để trong bất khả thuyết thế 
	giới, đối với chúng sanh không làm tổn hại. 
	
	Hoặc tùy tâm niệm nơi một lỗ chân lông thị hiện tất cả sự trang nghiêm của 
	cảnh giới Phật. 
	
	Hoặc trong một niệm thị hiện bất khả thuyết thế giới vi trần số thân, mỗi 
	mỗi thân thị hiện ngần ấy số tay, mỗi mỗi tay đều cầm hằng hà sa số hộp hoa, 
	trấp hương, tràng phan, bửu cái, cùng khắp mười phương cúng dường đức Phật. 
	Mỗi mỗi thân lại hiện ngần ấy số đầu, mỗi mỗi đầu hiện ngần ấy số lưỡi, ở 
	trong mỗi niệm tán thán công đức của Phật cùng khắp mười phương. 
	
	Hoặc tùy tâm niệm, ở trong một niệm, khắp cùng mười phương thị hiện thành 
	chánh giác nhẫn đến niết bàn và cùng cõi nước những sự trang nghiêm.  
	
	Hoặc hiện thân mình cùng khắp tam thế mà ở trong thân có vô lượng chư Phật 
	và quốc độ những sự trang nghiêm, thế giới thanh hoại đều hiển hiện cả. 
	
	Hoặc trong một chân lông nơi thân phát ra tất cả luồng gió, nhưng vẫn không 
	tổn hại chúng sanh. 
	
	Hoặc tùy tâm niệm đem vô biên thế giới làm một đại hải, trong biển nầy hiện 
	đại liên hoa sáng chói tốt đẹp, trùm khắp vô lượng vô biên thế giới, ở trong 
	đó thị hiện những sự trang nghiêm của cội cây đại Bồ đề, nhẫn đến thị hiện 
	thành nhứt thiết chủng trí. 
	
	Hoặc ở nơi thân mình hiện thập phương thế giới tất cả quang minh ma ni bửu 
	châu, nhựt nguyệt tinh tú mây chớp các thứ ánh sáng. 
	
	Hoặc dùng miệng hà hơi có thể động thập phương vô lượng thế giới, mà chẳng 
	làm cho chúng sanh có quan niệm kinh sợ. 
	
	Hoặc hiện thập phương phong tai, hỏa tai và thủy tai. 
	
	Hoặc tùy tâm sở thích của chúng sanh thị hiện sắc thân đầy đủ sự trang 
	nghiêm. 
	
	Hoặc ở nơi tự thân thị hiện Phật thân, hoặc ở Phật thân mà hiện tự thân. 
	
	Hoặc ở Phật thânh hiện quốc độ của mình, hoặc ở quốc độ mình mà hiện Phật 
	thân. 
	
	Chư Phật tử! Pháp Vân Địa Bồ Tát này có thể hiện như vậy, và còn vô lượng 
	trăm ngàn ức na do tha thần lực tự tại. 
	
	Bấy giờ trong chúng hội, chư Bồ Tát và Thiên, Long, bát bộ, hộ thế Tứ Thiên 
	Vương, Thiên Đế, Phạm Vương, Tịnh Cư Thiên, Đại Tự Tại Thiên Vương, các hàng 
	Thiên Tử đều nghĩ rằng: Nếu Bồ Tát mà thần thông trí lực dường ấy thời đức 
	Phật lại thế nào? 
	
	Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát biết tâm niệm của chúng hội, bèn bạch Kim Cang Tạng 
	Bồ Tát rằng: Thưa Phật tử! Nay đại chúng nầy nghe nòi thần thông trí lực của 
	bực Đệ Thập Địa Bồ Tát mà sanh lòng nghi. Xin Ngài thị hiện chút ít sự trang 
	nghiêm thần lực của Bồ Tát để dứt lòng nghi cho đại chúng. 
	
	Kim Cang Tạng Bồ Tát liền nhập Nhứt thiết Phật độ thể tánh tam muội. 
	
	Lúc Bồ Tát nhập tam muội, tất cả Bồ Tát và đại chúng đều thấy thân mình ở 
	trong thân của Kim Cang Tạng Bồ Tát, trong đây thấy rõ cõi Đại Thiên có bao 
	nhiêu sự trang nghiêm, cả ức kiếp nói cũng chẳng hết. Lại nơi đây thấy cây 
	Bồ đề chu vi mười muôn Đại Thiên thế giới, cao trăm muôn Đại Thiên thế giới, 
	nhánh là che trùm cũng như vậy. Có tòa sư tử xứng với thân cây. Trên tòa có 
	đức Phật Nhứt Thiết TríThông Vương ngự. 
	
	Tất cả đại chúng đều thấy đức Phật ngự, đủ tất cả tướng hảo trang nghiêm dầu 
	đến ức kiếp kể cũng không hết. 
	
	Hiện thần lực như vậy rồi, Kim Cang Tạng Bồ Tát làm cho đại chúng trở lại 
	như cũ. 
	
	Bấy giờ đại chúng được thấy sự chưa từng có cho là rất đặc biệt lạ lùng, 
	ngồi yên lặng nhứt tâm chiêm ngưỡng Kim Cang Tạng Bồ Tát. 
	
	Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát bạch Kim Cang Tạng Bồ Tát rằng: "Thưa Phật tử! Nay 
	tam muội nầy rất là hi hữu, có thế lực lớn, tên gọi là gì?" 
	
	Kim Cang Tạng Bồ Tát nói: " Tam muội này tên là Nhứt thiết Phật độ thể tánh" 
	
	Lại hỏi: " Cảnh giới của tam muội nầy thế nào? 
	
	Đáp: " Nếu Bồ Tát tu tam muội nầy thời tùy tâm sở niệm, có thể ở trong thân 
	mình hiện ta hằng hà sa thế giới vi trần số cõi Phật, lại có thể hiện hơn số 
	nầy vô lượng vô biên. 
	
	Chư Phật tử! Vì Bồ Tát trụ nơi bực Pháp Vân Địa nầy được vô lượng trăm ngàn 
	môn đại tam muội như vậy, nên thân và thân nghiệp, ngữ và ngữ nghiệp, ý và ý 
	nghiệp của Bồ Tát nầy đều chẳng thể lường biết được. 
	
	Thần thông tự tại quán sát tam thế, cảnh giới của tam muội, cảnh giới của 
	trí huệ, du hí tất cả môn giải thoát. Biến hóa làm ra, thần lực làm ra, 
	quang minh làm ra, lược nói nhẫn đến cắt chân, hạ chân tất cả việc làm ta, 
	dầu là bực Pháp Vương Tử Thiện Huệ Địa Bồ Tát cũng đều chẳng biết được. 
	
	Chư Phật tử! Cảnh giới của Pháp Vân Địa Bồ Tát lược nói như vậy, nếu nói 
	rộng ta thời dầu nói suốt vô lượng trăm ngàn vô số kiếp cũng chẳng hết được. 
	
	Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát hỏi: Thưa Phật tử! Nếu Bồ Tát thần thông cảnh giới 
	như vậy, thần thông của Phật lại thế nào? 
	
	Kim Cang Tạng Bồ Tát nói: Thưa Phật tử! Ví như có người lấy được cục đất nơi 
	bốn châu thiên hạ rồi nói rằng cục đất nầy là nhiều hay là đất của vô biên 
	thế giới là nhiều? 
	
	Tôi xem lời của Ngài vừa hỏi cũng như vậy. 
	
	Trí huệ cảnh giới của đức Như Lai vô biên vô đẳng, thế nào lại đem so sánh 
	với Bồ Tát. 
	
	Lại như lấy chút ít đất nơi bốn châu thiên hạ, thời đâu có thể đem so sánh 
	với cả bốn châu. 
	
	Thần thông trí huệ của bực Pháp Vân Địa Bồ Tát, dầu nói suốt vô lượng kiếp 
	cũng chỉ được một ít phần, huống là Như Lai địa. 
	
	Thưa Phật tử! Nay tôi đem sự chứng minh để Ngài được rõ cảnh giới của Như 
	Lai. 
	
	Giả sử mười phương, mỗi phương đều có vô biên thế giới vi trần số Phật độ, 
	mỗi Phật độ đều có đông đầy bực Pháp Vân Địa Bồ Tát nầy như mía, tre, lau, 
	lúa, mè, rừng rậm. Tất cả Bồ Tát đều tu hạnh Bồ Tát trong trăm ngàn ức na do 
	tha kiếp phát sanh trí huệ, đem so sánh với cảnh giới trí huệ của một đức 
	Như Lai, thời không bằng một phần trăm nhẫn đến không bằng một phần ưu ba ni 
	sa đà. 
	
	Chư Phật tử! Bực Bồ Tát này trụ trí huệ như vậy chẳng khác đức Như Lai, 
	thân, ngữ, ý; chẳng rời tam muội lực của Bồ Tát. Trong vô số kiếp thừa sự 
	cúng dường tất cả chư Phật. Trong mỗi mỗi kiếp dùng tất cả thứ cúng dường để 
	dâng lên chư Phật. Được thần lực của tất cả chư Phật gia hộ, trí huệ quang 
	minh lại càng tăng thắng. Ở trong pháp giới, khéo giải thích các điều vấn 
	nạn, không ai khuất phục được. 
	
	Chư Phật tử! Ví như thợ kim hoàn, dùng chơn kim thật tốt làm đồ trang sức, 
	dùng báu ma ni cẩn xem trong vàng. 
	
	Tự Tại Thiên vương tự mang đồ trang sức này vào mình. Tất cả đồ trang sức 
	của trời người đều không thể sánh kịp. 
	
	Bực Bồ Tát cũng như vậy. Từ Sơ Địa đến Cửu Địa Bồ Tát, tất cả trí hạnh đều 
	không sánh kịp được Đệ Thập Địa Bồ Tát. 
	
	Trí huệ quang minh của bực Bồ Tát nầy có thể làm cho chúng sanh, tăng tiến 
	đến chứng nhập nhứt thiết chủng trí. Những trí huệ quang minh của các bực Bồ 
	Tát khác đều không được như vậy. 
	
	Chư Phật tử! Ví như Ma Hê Thủ La Thiên Vương quang minh, hay làm cho thân 
	của chúng sanh được mát mẻ, quang minh khác không kịp được. 
	
	Bồ Tát ở bực này cũng như vậy, trí huệ quang minh có thể làm cho chúng sanh 
	đền được thanh lương, nhẫn đến trụ nơi nhứt thiết chủng trí. Trí huệ quang 
	minh của tất cả Thanh Văn Duyên Giác cho đến bực Đệ Cửu Địa Bồ Tát đều không 
	sánh được. 
	
	Chư Phật tử! Đại Bồ Tát này đã có thể an trụ trí huệ như vậy. Chư Phật Thế 
	Tôn lại vì các Ngài mà thuyết tam thế trí, pháp giới sai biệt trí, biến nhứt 
	thiết thế giới trí, chiếu nhứt thiết thế giới trí, từ niệm nhứt thiết chúng 
	sanh trí nhẫn đến thuyết chứng đắc nhứt thiết chủng trí. 
	
	Trong mười môn ba la mật, bực Bồ Tát này tăng thượng nơi trí ba la mật. Các 
	môn khác thời tùy sức tùy phần. 
	
	Chư Phật tử! Đây là nói lược về bực Bồ Tát Đệ Thập Pháp Vân Địa. Nếu nói 
	rộng thời dầu nói suốt vô lượng vô số kiếp cũng không hết. 
	
	Chư Phật tử! Bồ Tát ở bực nầy phần nhiều làm Ma Hê Thủ La Thiên Vương tự tại 
	nơi các pháp, hay truyển thọ hạnh ba la mật cho tất cả Thanh Văn Duyên Giác 
	và tất cả Bồ Tát. Ở giữa pháp chúng không bị khuất phục vì sự chất vấn. 
	
	Tất cả công hạnh như bố thí ái ngữ, lợi hành đồng sự đều chẳng rời niệm 
	Phật, nhẫn đến chẳng rời niệm viên mãn nhứt thiết chủng trí. 
	
	Bồ Tát nầy lại tự nghĩ rằng: Nơi tất cả chúng sanh tôi sẽ là thượng thủ, là 
	thắng, nhẫn đến là chỗ y tựa cho bực nhứt thiết chủng trí. 
	
	Nếu Bồ Tát này tăng gia tinh tấn, trong khoảng một niệm được mười bất khả 
	thuyết trăm ngàn ức na do tha Phật sát vi trần số tam muội, nhẫn đến thị 
	hiện ngần ấy số Bồ Tát để làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực thù thắng để 
	thị hiện thời hơn số trên đây, cho đến trăm ngàn ức no do tha kiếp chẳng thể 
	đếm biết được. 
	
	Chư Phật tử! Đại Bồ Tát này lúc hành tướng thập địa thứ đệ hiện tiền thời có 
	thể chứng nhập nhứt thiết chủng trí. 
	
	Ví như ao A Nậu Đạt là nguồn nước của các sông lớn chảy khắp Diêm Phù Đề, 
	nước ao đã không khô cạn mà lại nhiều thêm, nhẫn đến chảy vào biển làm cho 
	nước nơi đây được sung mãn. 
	
	Cũng vậy, Bồ Tát từ tâm Bồ đề lưu xuất thiện căn đại nguyện, dùng bốn nhiếp 
	pháp nhiếp độ tất cả chúng sanh đã không cùng tận lại thêm tăng trưởng, nhẫn 
	đến vào nơi biển nhứt thiết chủng trí và làm cho nơi đây được sung mãn. 
	
	Chư Phật tử! Bồ Tát thập địa, vì do Phật trí mà có sai, như nhơn đại địa mà 
	có mười núi lớn. Những là Tuyến Sơn, Hương sơn, Tý Đà Lê Sơn, Thần Tiên Sơn, 
	Do Càn Đà Sơn. Mã Nhĩ Sơn, Ni Dân Đà La Sơn, Chước Yết La Sơn, Kế Đô Mạt Để 
	Sơn, Tu Di Sơn. 
	
	Chư Phật tử! Như Tuyết Sơn tất cả dược thảo có đủ trong núi đó lấy không thể 
	hết, cũng vậy Bồ Tát ở bực Hoan Hỉ Địa tất cả kinh, thơ, kỹ nghệ, văn tụng, 
	chú thuật trong đời đều ở cả trong đây nói không hết được 
	
	Chư Phật tử! Như Hương Sơn, tất cả thứ hương đều chứa đủ trong đó, lấy không 
	thể hết. Cũng vậy, Bồ Tát trụ bực Ly Cấu Địa, tất cả giới hạnh oai nghi của 
	Bồ Tát đều ở cả nơi đây, nói không thể hết. 
	
	Chư Phật tử! Như Tỳ Đa Lê Sơn thuần bằng chất báu, tất cả bửu chất châu ngọc 
	đủ cả nơi đây, lấy không thể hết. Cũng vậy, Bồ Tát ở bực Phát Quang Địa, tất 
	cả thế gian thiền định, thần thông, giải thoát tam muội, tam ma bát đề đủ cả 
	ở bực nầy, nói không hết được. 
	
	Chư Phật tử! Như Thần Tiên Sơn thuần bằng châu báu, ngũ thông Thần Tiên luôn 
	có trong đó không cùng tận. Cũng vậy, Bồ Tát ở bực Diệm Huệ Địa, tất cả trí 
	huệ thù thắng đều đủ nơi đây nói không thể hết. 
	
	Chư Phật tử! Như Do Càn Đà Sơn thuần bằng chất báu, Thần Dạ Xoa đều ở trong 
	đó không cùng tận. Cũng vậy, Bồ Tát trụ bực Nan Thắng Địa, tất cả tự tại như 
	ý thần thông đều ở trong đây nói chẳng thể hết. 
	
	Chư Phật tử! Như Mã Nhĩ Sơn thuần bằng chất báu, trong đây đủ tất cả trái 
	cây, lấy không hết được. Cũng vậy, Bồ Tát trụ bực Hiện Tiền Địa, quả chứng 
	nhập lý duyên khởi Thanh Văn đều ở trong đây nói không hết được. 
	
	Như Ni Dân Đà La Sơn thuần bằng chất báu, đại lực Long Thần đều ở nơi đây 
	không cùng tận. Cũng vậy, Bồ Tát ở bực Viễn Hành Địa, phương tiện trí huệ 
	Độc Giác quả chứng đều đủ nơi đây nói không thể hết. 
	
	Chư Phật tử! Như Chước Yết La Sơn thuần bằng chất báu, chúng Tự Tại đều ở 
	trong núi nầy không cùng tận. Cũng vậy, Bồ Tát trụ bực Bất Động Địa, tất cả 
	Bồ Tát tự tại sai biệt thế giới đều ở trong đây nói không hết được. 
	
	Chư Phật tử! Như Kế Đô Sơn thuần bằng chất báu, đại oai đức A Tu La Vương 
	đều ở trong đó không cùng tận. Cũng vậy, Bồ Tát trụ bực Thiện Huệ Địa tất cả 
	trí hành sanh diệt thế gian đều ở nơi đây nói không thể hết. 
	
	Chư Phật tử! Như Tu Di Sơn thuần bằng chất báu, đại oai đức chư Thiên đều ở 
	trong đây không cùng tận. Cũng vậy, Bồ Tát trụ bực Pháp Vân Địa, Phật trí 
	lực, vô sở úy, bất cộng pháp, tất cả Phật sự đều ở trong đây tuyên nói không 
	hết được. 
	
	Chư phật tử! Mười Bửu Sơn nầy đồng ở trong đại hải mà có tên sai khác. 
	
	Thập Địa Bồ Tát cũng như vậy, đồng ỡ trong nhứt thiết chủng trí mà có danh 
	hiệu sai khác. 
	
	Chư Phật tử! Ví như đại hải do có mười tướng mà được gọi là đại hải không bị 
	đổi tên. 
	
	Đây là mười tướng: một là tuần tự sâu lần; hai là chẳng chứa tử thi; ba là 
	các dòng nước chảy vào đều mất bổn danh; bốn là phổ đồng một vị; năm là có 
	vô lượng trân bửu; sáu là không ai đến tận đây được; bảy là rộng lớn vô 
	lượng; tám là loài thân to lớn ở; chín là thủy triều chẳng quá hạn; mười là 
	chứa khắp hết nước mưa to mà vẫn không tràn. 
	
	Cũng vậy, Bồ Tát hạnh do mười tướng mà được gọi là Bồ Tát hạnh không bị đổi 
	tên. 
	
	Đây là mười tướng: Hoan hỉ Địa xuất sanh đại nguyện lần lần càng sâu: Ly Cấu 
	Địa chẳng chứa tất cả thây phá giới; Pháy Quang Địa bỏ rời sanh tự giả của 
	thế gian; Diệm Huệ Địa đồng một vị với công đức của Phật; Nan Thắng Địa xuất 
	sanh vô lượng phương tiện thần thông làm thành những trân bửu của thế gian; 
	Hiện Tiền Địa quán sát lý duyên sanh rất sâu; Viễn Hành Địa giác huệ rộng 
	lớn khéo quán sát; Bất Động Địa thị hiện sự trang nghiêm rộng lớn; Thiện Huệ 
	Địa được thâm giải thoát du hành thế gian biết đúng như thiệt chẳng quá hạn; 
	Pháp Vân Địa có thể lãnh thọ tất cả đại pháp của Như Lai không hề nhàm đủ. 
	
	Chư Phật tử! Ví như châu đại ma ni có mười đặc tánh hơn hẳn các thứ châu báu 
	khác. 
	
	Đây là mười đặc tánh: Một là xuất sanh từ đại hải; hai là thợ khéo trau dồi; 
	ba là tròn đầy không thuyết; bốn là trong sạch không bợn; năm là trong ngoài 
	sáng suốt; sáu là dùi lỗ rất khéo; bảy là xỏ bằng dây báu; tám là đặt trên 
	tràng cao bằng lưu ly; chín là phóng ra đủ loại ánh sáng chiếu khắp nơi; 
	mười là có thể theo ý nhà vua mà mưa các loại châu báu và vật dụng làm thỏa 
	mãn tâm nguyện của nhơn dân. 
	
	Chư Phật tử! Bồ Tát đây cũng như vậy, vì có mười sự nên hơn các bực thánh 
	khác. 
	
	Đây là mười sự: Một là phát nhứt thiết trí; hai là trì giới đầu đà chánh 
	hạnh sáng sạch; ba là các thiền tam muội viên mãn không khuyết; bốn là đạo 
	hạnh thanh bạch lìa các cầu uế; năm là phương tiện thần thông trong ngoài 
	sáng suốt; sáu là duyên khởi trí huệ hay khéo dùi xỏ; bảy là xâu bằng giây 
	phương tiện trí; tám là để trên tràng cao tự tại; chín là quán hạnh chúng 
	sanh mà phóng quang minh văn trì; mười là thọ chức Phật trí dự ở hàng Phật 
	có thể vì chúng sanh mà rộng làm Phật sự. 
	
	Chư Phật tử! Đây là Bồ Tát hạnh pháp môn phẩm nhóm họp công đức nhứt thiết 
	chủng, nhứt thiết trí. 
	
	Nếu chúng sanh chẳng vun trồng thiện căn thời chẳng được nghe. 
	
	Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát hỏi: "Nghe pháp môn nầy thời được bao nhiêu 
	phước?". 
	
	Kim Cang Tạng Bồ Tát nói: "Như phước đức của nhứt thiết trí tập họp, nghe 
	pháp môn này phước đức cũng như vậy". 
	Vì chẳng phải nghe công đức pháp môn này mà có thể tin hiểu thọ trì 
	đọc tụng, huống là tinh tấn tu hành đúng như lời. 
	
	Do đây nên biết rằng cần phải được nghe tập họp nhứt thiết trí công đức pháp 
	môn này mới có thể tin hiểu thọ trì tu tập, rồi sau mới đến bực nhứt thiết 
	trí. 
	
	Bấy giờ do thần lực của Phật và do pháp như vậy, nên mười phương đều có mười 
	ức Phật độ vi trần số thế giới chấn động đủ mười tám tướng. Những là động, 
	biến động, đẳng biến động nhẫn đến kích, biến kích, đẳng biến kích. Trên 
	không khắp nơi mưa thiên hoa, thiên man, thiên y, thiên bửu trang nghiêm, 
	thiên tràng phan, thiên thắng cái. Nhạc trời hòa tấu âm thanh hòa nhã, đồng 
	thời phát ra tiếng ca ngợi công đức của bực nhứt thiết trí. 
	
	Tất cả thế giới khắp mười phương cũng đồng diễn thuyết pháp trên đây như ở 
	Vương cung Tha Hóa Tự Tại Thiên nơi thế giới này. 
	
	Lại do thần lực của Phật, ngoài mười ức Phật sát vi trần số thế giới ở mười 
	phương, có mười ức Phật sát vi trần số Bồ Tát đến đại hội này đồng nói như 
	vầy: "Lành thay! Lành thay! Kim Cang Tạng Bồ Tát hay nói pháp này. 
	
	Chúng tôi cũng đồng tên Kim Cang Tạng, ở thế giới khác nhau nhưng đồng tên 
	Kim Cang Đức, Phật đồng hiệu Kim Cang Tràng. Chúng tôi ở tại bổn quốc đều 
	thừa oai lực của Như Lai mà nói pháp này, hội chúng đều đồng như đây, văn tự 
	cú nghĩa cũng không khác.  
	
	Chúng tôi đều nương thần lực của Phật đồng đến đây để chứng minh cho ngài". 
	
	Kim Cang Tạng Bồ Tát quan sát tất cả hội chúng khắp mười phương pháp giới, 
	muốn tán thán phát tâm nhứt thiết chủng trí, muốn thị hiện cảnh giới Bồ Tát, 
	muốn tu tập hạnh lực của Bồ Tát, muốn thuyết nhiếp thủ đạo nhứt thiết chủng 
	trí, muốn trừ diệt tất cả cấu nhiễm thế gian, muốn ban cho nhứt thiết trí, 
	muốn thị hiện sự trang nghiêm của trí bất tư nghì, muốn hiển thị những công 
	đức của tất cả Bồ Tát, muốn cho ý nghĩa của thập địa đây càng thêm sáng tỏ, 
	nên thừa thần lực của Phật mà nói kệ rằng: 
	
	Tâm đó tịch diệt hằng điều thuận 
	
	Bình đẳng vô ngại như hư không 
	
	Lìa thân cấu trược trụ nơi đạo 
	
	Thắng hạnh này, Phật tử nên nghe. 
	
	Trăm ngàn ức kiếp tu điều lành 
	
	Cúng dường vô lượng vô biên Phật  
	
	Cũng cúng Thanh Văn, Độc Giác Tăng 
	
	Vì lợi ích chúng sanh phát tâm lớn. 
	
	Tinh cần trì giới thường nhu nhẫn 
	
	Tàm quý phước trí đều đầy đủ  
	
	Chí cầu Phật trí tu huệ lớn 
	
	Mong được thập lực nên phát tâm. 
	
	Cúng dường khắp tam thế chư Phật  
	
	Nghiêm tịnh khắp mười phương quốc độ 
	
	Biết rõ các pháp đều bình đẳng  
	
	Vì lợi chúng sanh phát tâm lớn. 
	
	Trụ bực Sơ Địa sanh tâm này 
	
	Rời hẳn điều ác thường hoan hỷ 
	
	Nguyện lực rộng tu những pháp lành 
	
	Do lòng bi mẫn nhập Nhị Địa. 
	
	Giới, văn đầy đủ thương chúng sanh  
	
	Rửa trừ nhơ bợn tâm sáng sạch 
	
	Quán sát thế gian lửa tham sân 
	
	Bực trí quảng đại lên Tam Địa. 
	
	Tất cả ba cõi đều vô thường 
	
	Như trúng tên độc thân đau khổ 
	
	Nhàm bỏ hữu vi cầu Phật pháp 
	
	Bực trí quảng đại nhập Tứ Địa. 
	
	Niệm huệ đầy đủ được đạo trí 
	
	Cúng dường trăm ngàn vô lượng Phật  
	
	Thường quán những công đức tối thắng 
	
	Bực này tiến nhập Nan Thắng Địa. 
	
	Trí huệ phương tiện khéo quán sát  
	
	Thị hiện mọi cách cứu chúng sanh  
	
	Cúng dường Thập Lực Vô Thượng Tôn 
	
	Tiến lên vô sanh Hiện Tiền Địa. 
	
	Thế gian khó biết mà biết được 
	
	Chẳng thọ ngã nhơn lìa có không 
	
	Pháp tánh bổn tịch, tùy duyên chuyển 
	
	Được diệu pháp này lên Thất Địa. 
	
	Trí huệ phương tiện tâm rộng lớn  
	
	Khó làm, khó phục, khó biết rõ 
	
	Dầu chứng tịch diệt siêng tu tập 
	
	Lên bực như không Bất Động Địa. 
	
	Phật khuyên khiến từ tịch diệt khởi 
	
	Rộng tu trí hạnh đủ các môn 
	
	Đủ mười tự tại quán thế gian  
	
	Do đây được lên Thiện Huệ Địa. 
	
	Dùng trí vi diệu quán chúng sanh  
	
	Tâm hành, nghiệp, hoặc những rừng rậm 
	
	Vì muốn độ họ vào Phật đạo 
	
	Nên nói thắng nghĩa tạng của Phật, 
	
	Tuần tự tu hành đủ hạnh lành 
	
	Nhẫn đến Cửu Địa gồm phước huệ 
	
	Thường cầu pháp tối thượng của Phật  
	
	Được Phật trí thủy dùng quán đảnh, 
	
	Chứng được vô số môn tam muội  
	
	Cũng biết rành được công lực kia 
	
	Tam muội sau cùng tên Thọ Chức 
	
	Trụ cảnh quảng đại luôn bất động. 
	
	Lúc Bồ Tát được tam muội này 
	
	Đại bửu liên hoa bỗng nhiên hiện  
	
	Thân ngồi trên đó xứng cùng hoa 
	
	Phật tử vây quanh đồng chiêm ngưỡng, 
	
	Phóng đại quang minh trăm ngàn ức 
	
	Diệt trừ tất cả khổ chúng sanh  
	
	Lại nơi trên đảnh phóng quang minh  
	
	Chiếu khắp mười phương các Phật hội, 
	
	Dừng giữa hư không làm lưới sáng 
	
	Cúng dường Phật xong, từ chân vào 
	
	Tức thời chư Phật đều rõ biết : 
	
	Nay Bồ Tát này lên Thập Địa. 
	
	Mười phương Bồ Tát đến quán sát 
	
	Đại sĩ thọ chức phóng quang minh  
	
	Chặng mày chư Phật cũng phóng quang 
	
	Chiếu khắp mọi nơi, nhập vào đảnh, 
	
	Mười phương thế giới đều chấn động 
	
	Tất cả địa ngục đều diệt khổ 
	
	Bấy giờ chư Phật trao chức cho 
	
	Như Chuyển Luân Vương phong Thái Tử. 
	
	Nếu được chư Phật quán đảnh cho 
	
	Bồ Tát này gọi là Pháp Vân Địa 
	
	Trí huệ thêm lớn không ngằn mé 
	
	Khai ngộ tất cả khắp thế gian. 
	
	Dục giới, sắc giới, vô sắc giới, 
	
	Pháp giới, thế giới chúng sanh giới 
	
	Hữu số, vô số và hư không 
	
	Tất cả như vậy đều thông đạt. 
	
	Tất cả hóa dụng oai lực lớn 
	
	Chư Phật gia trì trí vi tế 
	
	Kiếp số bí mật, mao đạo trí, 
	
	Đều hay quán sát đúng như thiệt. 
	
	Thọ sanh, xả tục, thành chánh đạo 
	
	Chuyển diệu pháp luân nhập Niết Bàn 
	
	Nhẫn đến tịch diệt pháp giải thoát 
	
	Và chỗ chưa nói đều biết được. 
	
	Bồ Tát trụ bực Pháp Vân Địa 
	
	Đầy đủ niệm lực trì Phật pháp, 
	
	Ví như đại hải nhận nước mưa 
	
	Bực này thọ pháp cũng như vậy. 
	
	Mười phương vô lượng các chúng sanh 
	
	Đều được văn trì thọ Phật pháp, 
	
	Nơi một đức Phật được nghe pháp 
	
	Hơn cả số trên vô lượng số. 
	
	Do bổn trí nguyện oai thần lực 
	
	Một niệm khắp cùng mười phương cõi 
	
	Rưới mưa cam lồ diệt phiền não 
	
	Do đây Phật nói hiệu Pháp Vân. 
	
	Thần thông thị hiện khắp mười phương  
	
	Vượt hơn cảnh giới trời người thảy 
	
	Lại hơn số này vô lượng ức 
	
	Thế trí suy lường ắt mê loạn. 
	
	Trí lượng công đức một cất chân 
	
	Đến bực Cửu Địa vẫn chẳng biết, 
	
	Huống là Thanh Văn, Bích Chi Phật 
	
	Cùng với tất cả loài chúng sanh! 
	
	Bực Bồ Tát này cúng dường Phật  
	
	Cùng khắp cõi nước ở mười phương  
	
	Cũng cúng dường thánh chúng hiện tiền 
	
	Trang nghiêm đầy đủ Phật công đức. 
	
	Trụ ở bực này lại vì nói 
	
	Tam thế pháp giới trí vô ngại  
	
	Chúng sanh, quốc độ đều cũng vậy 
	
	Nhẫn đến tất cả Phật công đức. 
	
	Bồ Tát thập Địa trí quang minh  
	
	Khai thị chúng sanh; đường chánh pháp 
	
	Sáng Tự Tại Thiên trừ thế ám 
	
	Trí quang diệt ám cũng như vậy. 
	
	Bực này thường làm vua ba cõi 
	
	Khéo hay diễn thuyết pháp tam thừa 
	
	Vô lượng tam muội một niệm được 
	
	Được thấy chư Phật cũng như vậy. 
	
	Nay tôi lược nói Thập Địa rồi 
	
	Nếu muốn nói rộng không thể hết. 
	
	Các địa như vậy trong Phật trí 
	
	Như mười sơn vương cao vọi vọi: 
	
	Sơ Địa nghề nghiệp vô cùng tận  
	
	Ví như Tuyết Sơn chứa dược thảo, 
	
	Nhị Địa giới văn chư Hương Sơn, 
	
	Tam Địa: Tỳ Sơn phát diệu hoa, 
	
	Diệm Huệ đạo bửu vô cùng tận 
	
	Ví như Tiên Sơn, chư Tiên ở, 
	
	Ngũ Địa thần thông như Càn Sơn, 
	
	Lục Địa: Mã Sơn đủ loại trái, 
	
	Thất Địa huệ lớn như Ni Sơn, 
	
	Bát Địa tự tại như Luân Vi, 
	
	Cửu Địa vô ngại như Kế Đô, 
	
	Thập địa đủ đức như Tu di, 
	
	Sơ Địa: nguyện lớn, Nhị : trì giới, 
	
	Tam Địa; công đức, Tứ: chuyên nhứt, 
	
	Ngũ Địa: vi diệu, Lục: thậm thâm, 
	
	Thất Địa: đại huệ, Bát: trang nghiêm,  
	
	Cửu Địa tư duy nghĩa vi diệu  
	
	Vượt hơn tất cả đạo thế gian. 
	
	Thập Địa thọ trì pháp chư Phật, 
	
	Biển hạnh như vậy không cạn hết. 
	
	Mười hạnh xuất thế: phát tâm trước, 
	
	Trì giới thứ hai, thiền thứ ba, 
	
	Thứ tư hạnh tịnh, năm: thành tựu, 
	
	Thứ sáu: duyên sanh, bảy: xâu suốt, 
	
	Thứ tám: để trên tràng kim cang, 
	
	Thứ chín: quán sát những trù lâm, 
	
	Thứ mười quán đảnh tùy vương ý, 
	
	Đức bửu như vậy lần thanh tịnh. 
	
	Mười phương cõi nước nghiền làm bụi 
	
	Một niệm biết được số bao nhiêu, 
	
	Lông đo không gian biết số lượng, 
	
	Ức kiếp nói "Địa" không thể hết. Hết Tập 4 
	  | 
| 
	 | « Trang Trước Trang Kế » |