| 
		 | 
		
| 
		
		 | 
		
		
		  Kinh Hiền Ngu 
		(Bàlapandita sutta) 
		H.T Thích Trung Quán dịch  Kinh Hiền Ngu có bốn mươi sáu (46) câu truyện do 
		chính đức Phật kể lại về tiền thân của ngài, thỉnh thoảng vẫn có những 
		đoạn nói về hàng môn nhân đệ tử. Qua Kinh này chúng ta thấy đức Phật 
		ngài hành Bồ-tát đạo trong vô lượng kiếp, trong mỗi kiếp ngài hiện thân 
		ở mỗi hoàn cảnh khác nhau, có khi làm vua chúa, thương nhân cho đến hạng 
		cùng đinh trong xã hội. Thậm chí có những kiếp ngài là trâu nai vượn... 
		nhưng kiếp nào ngài cũng một lòng cầu Pháp. Có những kiếp ngài bố thí 
		châu báo thành quách... cho đến cả thân mạng chỉ vì một câu kinh bài kệ. 
		Qua đó chúng ta thấy tâm cầu pháp của ngài thật vô cùng, cảm động cả 
		trời đất. Đọc kinh này khiến chúng ta không khỏi bùi ngùi lệ rơi và 
		chúng ta hiểu rõ hơn tại sao đến hôm nay chúng ta vẫn còn là ... chúng 
		sanh. Điểm đặc biệt là những gì Kinh này kể lại hiện nay vẫn còn dấu 
		tích tại Nepal và Ấn Độ ví dụ: câu truyện "Thái Tử Ma Ha Tát Đỏa Đem 
		Thân Cho Cọp Ăn" ví trí nơi này hiện nay cách Thủ Đô nước Nepal là 
		Kathmandu khoảng 70 cây số. 
		Kinh Hiền Ngu (Trọn bộ 9 quyển) Hán dịch: Sa Môn Tuệ Giác Việt dịch: Thích Trung Quán Chùa Pháp Vương – 261 đường Phan Đình Phùng Tái bản lần thứ tư. Phật lịch 2508 – 1964 (Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, tập 04, bộ Bổn 
		Duyên, số hiệu 0202, mười ba quyển, Kinh Hiền Ngu, Nguyên Ngụy Tuệ Giác 
		đẳng dịch. Như ta thấy Kinh này có tất cả 13 quyển (69 
		Kinh) nhưng HT Trung Quán chỉ dịch 7 quyển, 46 Kinh và dịch chọn lọc, 
		mong rằng trong tương lai có vị nào phát tâm dịch tiếp những kinh còn 
		lại, nếu bạn nào dịch xin nhớ cho chúng tôi một bản để bổ túc cho bản 
		Kinh này được đầy đủ. bttdtkvn) 
		Mục Lục Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Nhất 1. Phạm Thiên Thỉnh Pháp 2. Thái Tử Ma Ha Tát Đỏa Đem Thân Cho Cọp Ăn. 3. Hai Người Dòng Phạm Chí Thụ Pháp Bát Quan 
		Trai. 4. Đi ở Lấy Công Cúng Dàng. 5. Thần Bể Với Người Đi Buôn. 6. Cầu Tự. 7. Thái Tử Tu Xà Đề. Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Hai 8. Cô Kim Cương 9. Tỷ Khưu Kim Tài 10. Hoa Thiên 11. Tỷ Khưu Bảo Thiên 12. Sàn Đề Bà La 13. Vua Từ Lực Cho Huyết 14. Hàng Phục Lục Sư Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Ba 15. Cứ Đà Thí Thân 16. Vua Đại Quang Minh 17. Ưu Ba Tư Na Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Tư 18. Xuất Gia Công Đức 19. Sa Di Hộ Giới 20. Người Không Tai, Mắt, Mũi, Lưỡi 21. Hai Vợ Chồng Nghèo 22. Bà Lão Bán Nghèo Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Năm 23. Kim Thiên 24. Trùng Tín 25. Tán Đàn Ninh 26. Bố Thí Đầu Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Sáu 27. Bố Thí Mắt 28. Năm Trăm Người Mù 29. Phú Na Kỳ 30. Ni Đề Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Bảy 31. Đại Kiếp Tân Ninh 32. Tỷ Khưu Ni Vi Diệu 33. Lê Kỳ Di 34. Thiết Đầu La Kiện Ninh 35. A Du Ca 36. Bảy Lọ Vàng 37. Sai Ma Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Tám 38. Cái Sự 39. Đại Thí Tát Biển Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Chín 40. A Nan Tổng Trì 41. Ưu Bà Tư 42. Con Ngộ Sát Cha 43. Tu Đạt Làm Tinh Xá 44. Lặc Na Sà Gia 45. Cá Trăm Đầu 46. Tịnh Cư Thiên 
		Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ 
		Nhất 1/ Phẩm Thứ Nhất PHẠM THIÊN THỈNH PHÁP Chính tôi được nghe: Một thời Đức Phật ở nước Xá 
		Vệ, tại đạo tràng Thiện Thắng. Cũng do lòng bi thiết cứu thế, hoằng pháp 
		độ sinh, đã mất bao công gian khổ tu tập. Khi mới thành Phật, thấy vấn 
		đề trên đối với tất cả chúng sinh khó, nên Ngài tự nghĩ rằng: "Tất cả 
		chúng sinh mê tối thâm độc quá, lòng dạ đảo điên, kiến thức hẹp hòi, chỉ 
		mê theo những lối tà đạo, rất khó giáo hóa, ta có ở đời cũng vô ích, chi 
		bằng ta vào cõi Vô Dư Niết bàn là hơn". Khi đó ông vua cõi trời Phạm Thiên biết Ngài tự 
		nghĩ như vậy, liền từ trên trời bay xuống tận nơi, tới trước làm lễ, rồi 
		qùy gối chắp tay cung kính thưa với Ngài rằng: - Kính lạy Đức Thế Tôn! Vừa đây con được biết ý 
		niệm của Ngài, vì thấy chúng sinh điên đảo khó giáo hóa, nên Ngài muốn 
		vào Niết bàn, vậy con tới đây xin cầu thỉnh Ngài ở lại truyền Pháp cho 
		đời, khiến ánh sáng chân lý lan tràn khắp cõi nhân gian thiên thượng 
		muôn loài được thấm nhuần đức hóa, thoát qua khỏi luân hồi sinh tử trong 
		sáu thú, đời đời được an vui tự tại nơi Phật Quốc. Kính xin Ngài hoan hỷ 
		nhận lời thành kính cầu thỉnh của con. Phật dạy: - Ông có lòng vì tất cả chúng sinh vậy 
		cũng tốt, song tôi nhận thấy chúng sinh bị trần cấu che tối, say mê, tài 
		sắc, danh vọng, ăn ngon, ngủ kỹ, tham dục, sân si, lòng dạ đen tối không 
		có chút trí tuệ gì, vì thế tôi có ở đời cũng chỉ luống công thôi! Nên 
		tôi muốn vào Niết bàn là một sự an vui hơn. Ông lại thưa rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Xin 
		Ngài nhủ lòng thương đến con và tất cả chúng sinh trong cõi trời, cõi 
		người, đương bị màn vô minh che tối, tìm không biết lối ra, ngày nay 
		biển Pháp đã đầy, cờ Pháp đã dựng, thời đã tới, những chúng sinh có thể 
		độ được, con xem số đó cũng khá đông nhiều. Vậy kính mong Ngài thi ân tế 
		độ hoằng pháp lợi sinh. Kính lạy Ngài! Con nhớ cách đây vô số kiếp, cũng 
		vì lũ chúng con nên Ngài từng góp nhặt, một bài kệ, cho đến một câu đạo, 
		đến nỗi quên mạng sống, bỏ cả vợ con yêu dấu, hy sinh vì Phật pháp, một 
		cách rùng mình sởn gáy, tất cả không ai làm nổi, được những hạnh của 
		Ngài đã thực hiện, giờ đây Ngài đã thành tựu trên công cuộc tầm đạo giải 
		thoát, chúng sinh như những áng cỏ trên mặt đất bao la bị sương mù phủ 
		đậy đã lâu năm đương ngóc ngó ánh thái dương phản chiếu, để biến thành 
		những bông hoa tươi đẹp. Kính lạy Ngài, xin chớ bỏ lũ chúng con để vào 
		Niết bàn. Con lại nhớ kiếp quá khứ cách đây đã khá lâu xa 
		có một ông vua tên là Tu Lâu Bà ở Châu Diêm Phù Đề, cai trị tám mươi bốn 
		ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám mươi ức Tụ Lạc, hai vạn bà Phu 
		nhân và một vạn quan Đại thần. Đối với thời ấy, phúc đức và thế lực của vua Tu 
		Lâu Bà không ai bì kịp, nhân dân thuở đó đức vua, được an lạc thái bình, 
		mưa hòa gió thuận, vui sướng vô cùng vô tận! Một hôm vua tự nghĩ rằng: - "Đối với vật chất ta 
		đã giúp dân được đầy đủ, nhưng về tinh thần giải thoát cho con người 
		chưa có. Nếu con người chỉ sống theo vật chất, sống theo tình dục, tâm 
		như gỗ đá, tâm như cát sỏi tha hồ cho bốn tướng sinh, già, bệnh, chết 
		lôi quanh, thì không khác chi thú vật, ăn no nằm mát, phơi mình trên đám 
		phân tro, cho qua ngày đoạn tháng. Nhưng lẽ đó là lỗi ở ta, ta có trách 
		nhiệm tìm đường giải thoát cho họ". Nghĩ thế rồi Ngài ra yết thị và báo cho thiên hạ 
		biết rằng: "Nếu ai biết đạo giải thoát của Phật dạy nói cho ta hay, muốn 
		dùng gì ta sẽ cung cấp cho đầy đủ". Tuyên lệnh đã lâu, nhưng không thấy ai đến nói, 
		nhà vua luôn luôn mong mỏi, và tâm ý lúc nào cũng không được vui! Sau đó ông Tỳ Sa môn, là một ông vua cõi trời Tứ 
		Thiên Vương thấy vậy bèn đến thử Ngài như sau: Ông biến hình làm một con qủi Dạ xoa, mặt xanh 
		lè, mắt đỏ như huyết, răng to như quả chuối măn, mọc chìa ra ngoài, tóc 
		dựng ngược, mồm phun lửa đến cung vua giựt lấy bảng rồi nói: - Các ông 
		vào báo cho nhà vua biết, tôi có Phật Pháp, nhà vua muốn nghe, tôi sẽ 
		giảng cho. Quan Môn Giám nhận lời, vào tâu vua rằng: - Tâu bệ hạ ngoài thành có một người hình thể 
		khá sợ, tự nói có Phật Pháp, và xin nói cho bệ hạ nghe, việc đó thế nào 
		xin cho hạ thần được rõ? Nhà vua nghe nói, vui vẻ đội mũ mặc áo chỉnh tề, 
		tự ra đón tiếp mời vào chánh điện và nhường ngồi trên ngai vàng, thiết 
		đãi một cách rất trọng hậu. Sớm ngày mai nhà vua bày một tòa cao đẹp, trà 
		nước xong xuôi, đánh trống ca nhạc rước Pháp sư thăng tòa thuyết pháp, 
		Pháp sư lên tòa ngồi yên tĩnh. Lúc đó có đông đủ quan quân, dân chúng, 
		nhà vua ra lễ bái Pháp sư, rồi quỳ xuống xin Pháp sư thuyết pháp. Pháp sư nói: - Học pháp rất khó, ông muôn được nghe không 
		phải dễ. Nhà vua thưa rằng: - Kính thưa Pháp sư! Thương 
		đến chúng tôi là kẻ ngu si, việc nghe Pháp phải đúng lễ thế nào, xin cho 
		chúng tôi được rõ. Pháp sư nói: - Nếu nhà vua đem vợ yêu con quí 
		cho ta ăn, thì ta sẽ nói cho nghe. Nghe xong nhà vua vui vẻ thọ giáo, bái tạ lui ra 
		trở về cung gọi vợ con nói: - Tôi xin nói để các người hay: vợ chồng cha 
		con, yêu nhau trong vòng sinh tử, ân ái có ngày biệt ly, tôi muốn tìm 
		con đường giải thoát, cho tôi và lũ ngươi, vì thế tôi muốn đem thân mạng 
		của lũ ngươi dâng Pháp sư để cầu thành Phật; ý thế nào cho tôi được rõ? Nghe xong Hoàng hậu và Thái tử liền quỳ xuống, 
		xin tuân lời chỉ giáo. Được sự đồng ý rồi nhà vua liền đem vợ con dâng 
		Pháp Sư. Pháp sư nhận rồi, ngồi trên tòa cao, giữa đám hội đông người 
		nghiểm nhiên ngồi ăn, nháy mắt đã ăn hết, mọi người thấy thế đều lắc 
		đầu, lè lưỡi, kinh sợ hãi hùng. Khi đó quần thần, dân chúng, thấy nhà vua hành 
		động như vậy, ai nấy đều không bằng lòng, và cho nhà vua quá ư mê chấp. 
		Song họ có biết đâu nhà vua làm những việc mà người đời không ai làm 
		được. Họ như con ếch nằm trong đáy giếng, chưa bao giờ nhìn thấy biển 
		Đông. Sự nhìn xa trông rộng không phải kẻ phàm ngu có thể so sánh. Tiếp đến Pháp Sư đọc bài thơ như sau: Nhất thiết hành vô thường. Sinh giả giai thị khổ! Ngũ ấm không vô tướng. Vô hữu ngã, ngã sở. Nghĩa là: Hết thảy đều vô thường, Sinh ra tất phải khổ! Năm ấm không có tướng. Ta và của đều không. Nhà vua nghe xong vui vẻ khôn xiết! Sai người 
		chép lấy, để ban phát cho mọi người trong nước, bắt ai cũng phải tụng 
		đọc. Bấy giờ Pháp Sư (quỉ Dạ xoa) thấy vua có vẻ bình 
		thản như vậy, liền hiện lại nguyên hình, nói rằng: "Quí hóa nhà vua! 
		Biết tôn trọng Chánh Pháp như vậy không bao lâu Ngài sẽ được thành 
		Phât". Nói xong, bỗng nhiên lại thấy Phu nhân và Thái tử hãy còn toàn 
		vẹn. Kính thưa Ngài! Vua Tu Lâu Bà thuở đó chính là 
		Ngài đẫy. Xưa kia Ngài đã hy sinh vì Pháp như vậy, sao nay Ngài nỡ bỏ 
		chúng sinh để vào Niết bàn? Kính lạy Ngài! Lại một kiếp nữa, thuộc thời quá 
		khứ, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua tên là Kiền Sá Ni Yết Lê, 
		thống trị nhiều nước, tám vạn bốn ngàn Tụ Lạc, hai muôn Phu nhân và thể 
		nữ, một vạn quan Đại Thần. Nhà vua nhân hiền, yêu thương tất cả, nhân 
		dân sung sướng, cây cỏ xanh tươi. Dân coi vua như một người cha lành. Nhà Vua tự nghĩ như vầy: "Ta được địa vị cao 
		sang, tôn trọng quý giá! Là do trước kia ta đã tạo nhân lành. Hiện nay 
		nhân dân được an vui sung sướng! Tuy thế, chỉ an vui về vật chất, song 
		vật chất có ngày hoại diệt, không phải một sự an vui lâu dài vĩnh viễn, 
		muốn cho chính mình và tất cả chúng sinh, được an vui vĩnh viễn, ta phải 
		tìm đạo giải thoát do Phật dạy mới có kết quả". Nghĩ thế rồi vua sai các quan viết bảng cáo thị, 
		và truyền lệnh cho khắp trong nước biết: "Nếu ai có Diệu Pháp, nói cho 
		ta nghe, ý muốn gì ta sẽ cung cấp cho đầy đủ". Sau có người Bà la môn tên là Lao Độ Sai, đi tới 
		nói rằng: - Tôi có Diệu Pháp, các ông vào báo cho vua biết. Quan Môn Giám liền đem tin ấy vào tâu vua. Nhà 
		vua nghe nói, ý rất vui mừng, mũ áo trang nghiêm, tự ra lễ bái, hỏi han 
		ân cần trịnh trọng rồi mời vào trong chánh điện, bày giải một tòa cao 
		đẹp, mời Pháp sư lên tòa ngồi yên tĩnh. Vua và hai bên tả hữu chắp tay 
		thưa rằng: - Kính thưa Đại sư, được hạnh phúc cho chúng tôi 
		nhiều lắm! Hôm nay Đại sư có lòng thương đến chúng tôi mà tới đây. Vậy 
		kính xin thể lòng Từ bi cao cả, thuyết Diệu Pháp cho chúng tôi được thừa 
		thụ. Lao Độ Sai đáp: - Ta có trí tuệ cũng phải mất 
		bao công khó nhọc, tìm mãi ở phương xa, dầy công học tập, không phải là 
		một việc dể dàng quá như vậy. Nhà vua thưa: - Kính thưa Đại sư, ý Đại sư thế 
		nào xin dạy bảo cho chúng tôi được rõ? Lao Độ Sai nói: - Nhà vua muốn được nghe Pháp, 
		thì phải khoét trên mình ra một ngàn lỗ, đổ dầu cho bấc, đốt lửa cúng 
		dàng ta, thì ta sẽ thuyết cho nghe. Nghe nói, nhà vua vui vẻ nhận lời xin khoét, và 
		khất lại bảy ngày để báo cáo cho dân chúng biết, lời báo cáo như sau: "Tất cả quốc dân nên biết: Vua Kiền Sà Ni Yết Lê 
		sau bảy ngày nữa vì sự cầu đạo, sẽ khoét trên mình ra ngàn lỗ, đốt đèn 
		cúng dàng Pháp Sư, ai muốn nghe, và xem sự hy sinh cúng dàng của nhà vua 
		thì đến". Bấy giờ các ông vua nước nhỏ và nhân dân các 
		nước, hay tin ai cũng buồn rầu, cùng nhau đến yết kiến và tâu rằng: - Kính thưa Đại Vương! Tất cả muôn dân nhờ phúc 
		đức của Đại Vương được an lạc thái bình, như kẻ mù được nhờ cây gậy, con 
		dại ngóng mẹ hiền, nếu Đại Vương khoét mình đốt đèn, tất nhiên tuyệt 
		mạng, thì muôn dân trông cậy vào ai? Xin không nên vì một người mà nỡ bỏ 
		chúng sinh trong thiên hạ. Sau đó hai muôn bà Phu nhân, và năm trăm Thái 
		tử, một vạn Quan Đại Thần, tất cả đều can vua việc đó. Nhà vua liền lớn tiếng nói: - Các ông không nên cản trở tôi, tôi hy sinh 
		thân này để nghe một câu đạo, sau này tôi thành Phật, tôi sẽ độ cho lũ 
		các ông trước. Họ thấy nhà vua khẳng khái như vậy, ai nấy đều 
		tha thiết kêu van! Nhưng vua cũng quyết định không thay đổi ý kiến. Hết hạn bảy ngày nhà vua tới trước Pháp sư làm 
		lễ và thưa rằng: - Kính thưa Đại sư, chúng tôi xin dốc lòng thành 
		kính, theo lời chỉ giáo của Đại sư! Để bắt đầu khoét mình đốt đèn cúng 
		dàng, xin Đại sư hoan hỷ! Nói xong nhà vua sai khoét, nhưng không ai dám 
		khoét. Sau đó có người Chiên Đà La đến khoét hộ cho vua, anh này khoét 
		xong, vất dao xuống đất chạy mất, khi đổ dầu bỏ bấc xong mọi người coi 
		thấy ai cũng rùng mình run sợ! Nhà vua thưa rằng: - Kính xin Đại sư thuyết pháp trước, sau sẽ đốt 
		lửa, sợ mạng tôi tuyệt thì không nghe pháp. Lao Độ Sai đọc bài thơ rằng: Thường giả giai tận. Cao giả tất trụy? Hợp hội hữu ly Sinh giả hữu tử. Nghĩa là: Thường rồi có hết, Cao thì phải rơi, Hợp rồi có tan, Sinh thì có tử. Đọc xong vua sai đốt lửa, trong khi lửa cháy dữ 
		dội, vẻ mặt nhà vua vẫn nghiễm nhiên tươi tỉnh, không hề biến sắc. Ngài 
		tự phát thệ rằng: - Tôi chịu đau khổ để cầu nghe đạo giải thoát, 
		nguyện đem công đức này hướng về Phật quả, sau khi được thành, tôi sẽ 
		lấy trí tuệ quang minh, phá ngu si hắc ám cho tất cả chúng sinh. Nói dứt lời, thì trời đất tự nhiên chuyển động, 
		tới cõi trời Tịnh Cư. Khi đó các người cõ Trời ngó xuống xem, thấy một 
		vị Bồ tát đốt mình làm đèn cúng dường Pháp Sư để nghe pháp, một cách 
		rùng rợn! Họ bay xuống đứng kín cả hư không, ví sự cảm động quá! Nên 
		nhiều người sa nước mắt rơi xuống thành mưa, đồng thời họ lại tung hoa 
		xuống để cúng dàng. Vua Đế Thích đến tận nơi, tới trước khen và hỏi 
		rằng: - Nhà vua đau khổ như vậy thì có hối hận gì 
		không? Nhà vua đáp: - Thưa không! Đế Thích nói: - Tôi thấy nhà vua run rẩy không 
		yên như vầy, tự nói không hối, lấy gì chúng cớ biết rõ được? Đế Thích nói dứt lời, thì Ngài tự thề rằng: - Nếu tâm tôi thủy chung như một, không hối hận 
		gì, thì xin lỗ trên mình tôi, lại được bình phục như cũ. Vì lòng chân thực cầu đạo pháp tha thiết, cảm 
		động mười phương, nên những lỗ trên mình tự nhiên lại được bình phục như 
		cũ, thân thể lại tốt lành hơn xưa. Kính lạy Ngài! Ông vua khoét mình đốt đèn để cầu 
		đạo thuở đó, chính là Ngài đấy. Ngài đã cực khổ cầu Pháp như vậy, tới 
		nay đã đầy đủ, tại sao không thuyết Pháp? Vào Niết bàn làm chi, để chúng 
		sinh mất con mắt quang minh trí tuệ? Kính lạy Ngài! Lại một đời quá khứ nữa, cũng 
		Châu Diêm Phù Đề này có một ông vua, tên là Tỳ Lăng Yết Lê thống trị 
		được nhiều nước, tám vạn bốn ngàn Tụ Lạc, hai muôn bà Phu nhân và thể 
		nữ, năm trăm Thái tử, một vạn quan Đại Thần. Nhà vua có đức nhân, coi 
		dân như con đẻ, lại ham nghe chánh pháp, nên sai quan Đại Thần tuyên 
		lệnh cho toàn quốc biết như sau: - Thông cáo cho toàn quốc biết: Hoàng thượng 
		muốn được nghe Phật Pháp, ai biết đến nói cho Ngài nghe, Ngài sẽ trọng 
		thưởng tùy ý muốn. Cách thời gian lâu, có một người dòng Bà la môn, 
		tên là Lao Độ Sai tới cung môn nói: - Tôi là người đã từng nghiên cứu và 
		tu tập giáo lý của Phật đã lâu, xin ông hãy vào tâu Hoàng thượng cho. Theo lời yêu cầu của Lao Độ Sai, quan Môn Giám 
		vào tâu vua. Nhà vua được tin rất vui vẻ, đội mũ mặc áo trang 
		nghiêm, thân ra cổng thành, trịnh trọng chào hỏi, rồi mời vào trong 
		chánh điện, thiết đãi trọng hậu. Sớm ngày mai vua sai bày một tòa cao 
		đẹp, thỉnh Pháp sư thăng tòa ngồi yên tĩnh. Nhà vua và bá quan, nghiêm chỉnh thân tâm, tới 
		trước Pháp Sư cúi đầu lễ lạy, rồi qùy xuống thưa rằng: - Kính thưa Đại 
		Sư phát tâm Từ bi, thuyết pháp cho chúng tôi được thừa ân công đức! Lao Độ Sai đáp: - Sự hiểu biết của ta đây, là do 
		ta chịu khổ đã lâu năm, đi tìm học ở bốn phương xa mới được; nhà vua coi 
		sự học một cách dễ dàng quá! Nhà vua toát mồ hôi, một lòng kính cẩn thưa 
		rằng: - Kính thưa Đại sư! Việc nghe đạo phải đúng quy 
		tắc thế nào? Chúng tôi là kẻ trần tục phàm phu, không biết sự lễ Pháp 
		bao giờ, xin Đại sư chỉ dạy cho? Đáp: - Nhà vua có thể đóng lên mình một ngàn cái 
		đinh sắt, được như vậy ta sẽ thuyết pháp cho nghe. Nhà vua thưa: - Dạ! Xin tuân lời dạy bảo của Đại 
		sư, và xin Ngài cho lui lại bảy ngày, để báo cáo cho dân biết. Nói xong lễ tạ lui ra, lời báo cáo như sau: - Tất cả toàn quốc nên biết, tôi là Nhân Chúa Tỳ 
		Lăng Yết Lê, vì muốn được đạo giải thoát cho chính tôi, và toàn thể, nên 
		tôi đóng đinh trên mình một ngàn cái, cúng dàng Pháp sư, quốc dân ai 
		muốn biết sự thực hành của tôi, sau bảy ngày nữa xin mời đến. Dân chúng được tin nhà vua đóng đinh trên mình, 
		để cầu nghe giảng đạo. Họ nô nức kéo nhau đến kinh thành rất đông, sau 
		đó một số Đại biểu của dân chúng lên tâu vua rằng: - Kính tâu Hoàng thượng! Lũ chúng tôi thay mặt 
		cho toàn thể quốc dân, đến đây kính mừng Thánh thượng, thọ lạc thiên 
		thu, hưởng phúc lâu dài chúng tôi tự biết, nhờ ơn đức Hoàng thượng nên 
		được thái bình an lạc, cúi xin thương đến toàn thể quốc dân, miễn bỏ sự 
		đóng đinh trên mình. Sau đó, tiếp đến Phu nhân, thể nữ, Thái tử, quan 
		đại thần cũng đồng thanh tâu vua xin miễn bỏ việc đó. Nhà vua đáp: - Tôi nhận thấy đã bao kiếp tới 
		nay, bị sống thác trong vòng sinh tử luân hồi, thân mạng đã mất đi vô 
		số; những thân mạng ấy cũng chỉ đeo những tấm lòng tham dục, giận tức, 
		ngu si, nhìn lại số xương thịt trong những kiếp sinh tử ấy, có thể chất 
		cao hơn núi Tu Di, đầu rơi máu chảy ra nhiều hơn nước sông lớn; nước mắt 
		khóc người thân nhiều hơn nước bốn bể; những thân mạng sống chết đó, 
		chẳng qua cũng chỉ uổng mà thôi, chưa từng bao giờ vì đạo pháp mà hiến 
		thân. Tôi đóng đinh cúng Pháp Sư để cầu thành Phật, sau khi thành Phật, 
		tôi sẽ lấy trí sáng suốt để trừ diệt bệnh kết sử của lũ các người, và 
		đưa dắt các người lên đường giác ngộ giải thoát thành Phật, một việc ích 
		lợi chung cho toàn thể chúng sinh, can tôi làm chi? Theo lời nhà vua tuyên bố, mọi người ai nấy đều 
		im lặng, không dám nói năng gì hết. Tới giờ phút này nhà vua đến trước Pháp sư thưa 
		rằng: - Kính xin Đại Sư ra ân, thuyết pháp trước đóng 
		đinh, nếu đóng trước, thì tôi sẽ chết không được nghe. Đại Sư đọc bài thơ rằng: Nhất thiết giai vô thường, Sinh giả giai hữu khổ! Chư pháp không vô chủ. Thực phi ngã sở hữu. Nghĩa là: Tất cả đều vô thường Sinh ấy đều có khổ! Các pháp không có chủ. Thực chẳng phải ta có. Pháp Sư đọc xong, nhà vua vui mừng, sai người 
		viết lấy bài thơ ban bố cho quốc dân, bắt ai cũng phải tụng đọc. Giờ phút bắt đầu, nhà vua sai người đóng đinh, 
		thì tất cả các ông vua nước nhỏ, và quân thần, dân chúng trong đại hội, 
		đều gieo mình xuống đất than thở. Trời đất chấn động sáu lần, các ông 
		thiên tử trên trời bay xuống, thấy Ngài hy sinh cầu đạo như vậy, ai nấy 
		đều cảm động, rơi lệ chứa chan, một lòng tôn kính tung hoa xuống cúng 
		dàng. Vua Đế Thích xuống tận nơi hỏi rằng: - Nhà vua quyết liệt tâm chí, cầu đạo không tiếc 
		mạng sống như vậy, để nguyện đời mai sau làm gì? Làm Đế Thích ư, làm 
		Chuyển Luân Vương ư, làm Ma Vương, Phạm Vương ư? Đáp: - Thưa Ngài! Tôi quên mình để cầu đạo giải 
		thoát của Phật, để cầu làm Phật, và tế độ cho chúng sinh cũng được giải 
		thoát, chứ tôi không cầu phúc báo ở ba cõi sinh tử, như Đế Thích, Chuyển 
		Luân Vương, Ma Vương hoặc Phạm Vương. Đế Thích hỏi: - Tôi coi nhà vua đau đớn như thế, 
		thì tâm có hối hận gì không? Đáp: - Không! Đế Thích hỏi: - Ngài nói không thì lấy gì chứng 
		tỏ? Nhà vua liền lập thệ thư sau: - Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, 
		vị lai chư Phật, tôn Pháp, Bồ tát Hiền Thánh Tăng tác đại chứng minh, 
		con chí thành cầu Bồ đề, nếu tâm không hối hận, thì thân thể lại được 
		bình phục như cũ. Phát thệ dứt lời, thì những cái đinh bật hết ra 
		ngoài, thân thể quả nhiên lại được bình phục như cũ. Khi đó tất cả trời, người và quan quân, dân 
		chúng chứng tỏ tâm của Ngài thành thật cảm ứng như vậy, ai nấy đều vỗ 
		tay vui mừng không tả xiết! - Kính lạy Ngài! Ông vua đóng đinh trên mình 
		thuở đó, chính là Ngài đấy! Tâm Ngài lớn như biển cả, rộng như hư không, 
		đã phá tan những tập kiến chúng sinh, chúng đương ngoai ngáp trong chốn 
		bùn lầy, nghẹt thở nơi hang tối. Kính lạy Ngài chớ bỏ đàn con đau khổ mà 
		vào Niết bàn. - Kính lạy Ngài! Lại một kiếp nữa, thuộc thời 
		quá khứ đã quá lâu, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua tên là 
		Phạm Thiên, sinh được một Thái tử tên là Đàm Ma La Kiềm. Thái tử có trí tuệ khôn sáng, ưa ở nơi thanh 
		vắng, ít sự xa hoa dục vọng, có tính tìm tòi chân lý, ham nghe chánh 
		pháp, nên thường sai người đi khắp đông tây, kiếm Thầy học đạo, đã nhiều 
		lần, nhưng không gặp được một ai là người có chánh pháp giải thoát. 
		Trong thời gian tìm Thầy chưa được, Thái tử thấy luôn luôn khổ não, làm 
		cho không lúc ngớt ý nghĩ nói trên. Bấy giờ vua Đế Thích biết Thái tử lòng thành như 
		vậy, liền hóa thân làm người dòng Bà la môn, đi đến kinh thành, tới chỗ 
		đông người nói rằng: - Các bạn nên biết, tôi là người hiểu biết Phật 
		Pháp, nếu bạn nào muốn nghe, tôi sẽ giảng giải cho. Họ liền đến mách bảo Thái tử, ngoài thành có 
		người tự xưng hiểu giáo lý đạo Phật. Thái tử được tin thấy lòng vui sướng vô cùng, 
		vào phòng đội mũ tề chỉnh, và đem một số người theo hầu, ra tiếp đón 
		Pháp sư, lễ bái, hỏi han rồi mời vào trong cung nơi biệt thự, thết đãi 
		trịnh trọng. Sớm ngày mai trà nước xong xuôi, vầng thái dương 
		mới nhô khỏi núi ánh bình minh vừa tỏa khắp cõi không gian, bầu trời yên 
		lặng, thanh khí ôn hòa! Thái tử sai người bày tòa giảng thuyết, Pháp Sư 
		lên tòa ngồi yên tĩnh. Thái tử tới trước lễ bái, quỳ gối chắp tay thưa 
		rằng: - Kính thưa Đại Sư, chúng tôi bị những bức thành 
		mờ tối vô minh dục vọng đã bao kiếp, là do không được gặp chánh pháp của 
		Như Lai, chúng tôi thành kính trước Ngài, ngửa mong Từ bi giảng thuyết, 
		để cho hết thảy được ân triêm đức hóa? Đại sư nghiêm nét mặt đáp: - Học đạo không phải một việc dễ, ta đã biết bao 
		công trình tìm Thầy tu học, mới được hiểu biết. Người chưa chút khó 
		nhọc, nay muốn được nghe ngay, thực là coi sự học đạo dễ dàng quá. Thái tử thưa rằng: - "Kính thưa Đại Sư! Từ thân 
		tôi cho đến vợ con tôi, vàng bạc châu báu, Đại Sư dạy bảo thế nào, chúng 
		tôi xin tuân mệnh không dám trái ý". - Đại sư đáp: "Muốn nghe pháp, Thái tử hãy đào 
		một hố lớn, sâu chừng mười trượng, ở dưới đốt than cho thật đỏ hồng, rồi 
		Thái tử nhảy vào hố lửa ấy, cúng dàng ta, thì ta sẽ thuyết pháp. Thái tử nói: - Dạ xin tuân lời dạy của Đại Sư. Sau khi Thái tử sai người đào hố thì nhà vua 
		biết tin. Từ vua cho đến tất cả mọi người trong Hoàng cung ai ai cũng lo 
		phiền, và khuyên can, nhưng Thái tử quên mình vì sự cầu đạo giải thoát, 
		nên không nghe theo những lời khuyên can ấy. Sau nhà vua và các quan đều thưa với Đại Sư 
		rằng: - Kính thưa Đại Sư! Thương đến lũ chúng tôi, để 
		miễn bỏ việc Thái tử nhảy xuống hố lửa, ngoài ra Đại Sư muốn dùng gì 
		chúng tôi xin dâng. Đại Sư đáp: - Việc đó tùy ý Thái tử, ta không bó 
		buộc, đúng thế thì ta thuyết pháp, bằng không thì thôi! Nhà vua thấy tâm địa của Đại Sư khẳng khái quá, 
		nên Ngài cũng vái chào rồi trở ra về, không nói năng gì nữa. Trở về nhà vua sai người đi thông báo cho quốc 
		dân biết rằng: Lời thông báo như sau: - Tất cả quốc dân nên 
		biết, sau bảy ngày nữa Thái tử vì sự nghe đạo, nên xả thân, nhảy xuống 
		hố lửa, ai muốn thấy việc đó, thì lại sớm nơi đây. Nhân dân được tin Thái tử nhảy xuống hố lửa, họ 
		nô nức kéo nhau đi đến kinh thành đông như hội, sau đó một số Đại biểu 
		của nhân dân, tới thưa với Thái tử rằng: - Kính thưa Thái tử: Lũ chúng tôi hay tin Ngài 
		vì sự nghe đạo nhảy xuống hố lửa, lợi ích chưa thấy đã thấy sự tang 
		thương cho quốc dân! Vậy kính mong Ngài miễn bỏ việc đó, để cho quốc gia 
		được an lạc. Thái tử đáp: - Các ông lẳng lặng để nghe tôi 
		nói, thiệt hại hay lợi ích. Nhận thấy con người sống thác từ đời vô thủy 
		cho tới ngày nay, không số tính, chết cõi này sinh cõi kia luân chuyển 
		như bánh xe quay không mối. Trong loài người vì lòng tham dục, nên giết 
		hại lẫn nhau; trên cõi trời khi hết tuổi thọ, thì lo về mất sự dục lạc; 
		nơi Địa ngục lửa đốt suốt ngày đêm, nào nước sôi, búa chém, dao đâm, núi 
		dao, rừng kiếm, hành phạt con người vô cùng thảm khốc, trong một ngày 
		chết đi sống lại biết bao lần, sự hình ngục không thể giải bày cho xiết. 
		Cái khổ trăm thứ tên độc xiên dùi vào mình loài Ngạ quỉ. Cái khổ kéo cày 
		chở nặng loài Súc sanh, sau lại dâng thân cho người ăn thịt, những nỗi 
		khổ như thế, khó nói hết trong những kiếp đã chịu đoạ đày, xét lại những 
		thân mạng ấy chỉ uống mà thôi, có làm được một việc gì về vấn đề giải 
		thoát cho chính mình và chúng sinh trong pháp giới, ai đã biết đem thân 
		ấy chết về việc nghe đạo bao giờ. Ta đem dâng thân này, cúng dàng để 
		nghe đạo giải thoát, sau thành Phật, ta sẽ đem lại cho lũ các ông năm 
		phần pháp thân, can chi phải ngăn cản công việc ta đã quyết định làm. Mọi người nghe Thái tử nói xong, ai nấy đều nín 
		thinh, không dám trả lời sao hết. Khi sắp nhảy xuống hố lửa Thái tử nói: - Kính thưa Đại Sư! Xin thuyết pháp trước khi 
		tôi nhảy xuống hố. Đại Sư đọc bài thơ như sau: Thường hành ư Từ tâm, Trừ khứ khuế, hại tưởng. Đại bi mẫn chúng sinh! Căng thương vị vũ lệ! Tu hành đại hỷ tâm, Đồng kỷ sở đắc pháp. Cứu hộ dĩ đạo ý Nãi ưng Bồ tát hạnh. Nghĩa là: Thường làm theo tâm từ Trừ bỏ tưởng, giận hại. Đại bi thương chúng sinh! Quặn lòng rơi nước mắt! Tu làm tâm đại hỉ, Với mình cùng đắc pháp, Cứu giúp bằng đạo lý, Ấy là hạnh Bồ tát. Khi sắp gieo đầu xuống hố lửa thì vua Đế Thích 
		và vua Phạm Vương chạy lại cầm tay hỏi gạn rằng: - Thái tử hãy khoan, để tôi nói chuyện đã: Một 
		ông vua có đức nhân, thì muôn dân được an lạc! Chúng tôi nhận thấy Thái 
		tử là người đức tầy bốn biển, Phụ Hoàng yên lòng có người nối trị nuôi 
		dân, hà tất vì một câu đạo mà bỏ tất cả chúng sinh trong thiên hạ, theo 
		ý chúng tôi thì không nên quá ư thiên chấp như vậy. Thái tử đáp lời rằng: - Thưa quý Ngài! Tôi nhận thấy phần nhiều người, 
		chỉ biết lúc an vui, chớ không lo một ngày gặp tai nạn! Chỉ biết cái 
		sống hôm nay mà không sợ cái chết của ngày mai. Sở dĩ tôi làm một việc 
		có thể an vui mãi mãi, cho chúng tôi và tất cả chúng sinh, chứ không 
		phải tôi không biết thương chúng sinh! Quý Ngài không nên cản trở đạo 
		tâm cao cả của tôi làm gì. Nói xong Thái tử nhảy xuống hố lửa! Tự nhiên 
		trời đất chuyển biến làm cảm động cả thiên cung. Khi đó mọi người đều sa 
		nước mắt, cũng có người lên tiếng khóc thương! Giờ phút đương làm cho 
		mọi người khủng hoảng, thì hố lửa ấy tự nhiên biến thành một ao sen, mùi 
		hương thơm ngào ngạt, những làn gió thổi mát, thấu đến tâm phủ của mọi 
		người, họ nhìn vào thấy Thái tử ngồi trên đài sen, ai nấy đều vui mừng 
		không tả xiết. Lúc đó hoa trên trời bay xuống như mưa. Vua Đế Thích, vua 
		Phạm Thiên cũng phải cất tiếng khen rằng: - Quý hóa! Cầu đạo như vậy, sau này quyết định 
		thành Phật. Kính lạy Ngài! Nhà vua thuở đó nay là thân phụ 
		Ngài (Tịnh Phạn Vương), bà Hoàng hậu thuở đó nay là thân mẫu Ngài (Ma 
		Gia), Thái tử nhảy xuống hố lửa chính nay là Ngài, cũng vì thương chúnh 
		sinh, cầu pháp như Ngài đó, nay đã thành công, cúi xin Ngài Từ bi thuyết 
		pháp, tế độ quần sinh qua nơi biển khổ! Kính lạy Ngài! Lại một đời quá khứ nữa, tới nay 
		vô lượng kiếp, cũng Châu Diêm Phù này có một nước tên là Ba La Nại, nước 
		ấy có năm trăm vị Tiên sĩ tu trong núi, ông Uất Đà La làm Thầy các vị 
		Tiên này, tuy ông tu theo Tiên đạo, nhưng ông hằng mong được gặp chánh 
		pháp của Như Lai (Phật), ông đã từng đi khắp bốn phương trời, và thông 
		báo cho thiên hạ biết rằng: - Tôi Đại Tiên sĩ rất muốn được nghe chánh pháp 
		của đức Như Lai, ai biết nói cho tôi nghe, nếu muốn dùng gì tôi xin dâng 
		biếu. Khi đó có một người dòng Bà la môn tới chỗ ông 
		nói rằng: - Nghe biết Tiên sĩ muốn tìm hiểu chánh pháp của 
		Như Lai, chính tôi là người hiểu biết giáo pháp của Như Lai, nếu Ngài 
		muốn học hỏi, tôi sẽ thành thực giảng thuyết, nhưng nghe là một việc rất 
		khó. Đại Tiên thưa: - Kính thưa Đại sư việc nghe pháp 
		phải thế nào xin Ngài dạy bảo cho? Đáp: - Ngài có thể lột da của Ngài để làm giấy; 
		chẻ xương của Ngài dùng làm bút; lấy máu của Ngài để làm mực viết lấy 
		giáo pháp của Như Lai, thì tôi sẽ thuyết cho Ngài nghe. - Dạ, rất đa tạ Đại Sư, chúng tôi xin tuân lời 
		của Đại Sư dạy. Nói dứt lời ông sai người lấy dao lột da, chẻ 
		xương, lấy máu thực sự, làm xong ông ngửa mặt thưa rằng: - Dạ, kính xin Đại Sư đọc để chúng tôi tiện viết 
		ạ! Đại sư đọc bài thơ rằng: Thường đương nhiếp tâm hành Nhi bất sát, đạo, dâm; Bất lưỡng thiệt ác, khẩu, Vọng ngôn, cập ỷ ngữ. Tâm bất tham chư dục; Vô sân, khuể, độc tưởng; Xả ly chư tà kiến. Thị vi Bồ tát hạnh. Nghĩa là: Thường phải nhiếp tâm hành. Mà không sát, trộm, dâm, Không hai lưỡi, nói ác; Nói dối, nói đơm đặt, Tâm không tham mọi dục; Không sân giận, độc tưởng; Xa lìa mọi tà kiến: Ấy là hạnh Bồ tát. Đại Sư thuyết xong thì Ngài viết cũng vừa xong. 
		Từ đó Ngài dùng bài thơ này đi khắp nhân gian để dạy bảo cho mọi người 
		biết lối tu hành. Những người được hàm ơn Ngài giáo hóa, khi mạng chung 
		được thoát khỏi ba đường ác sinh lên cõi Trời, cõi Người, hưởng phúc vô 
		cùng vô tận. - Kính lạy Ngài! Ông Tiên ngày đó chính là Ngài 
		đấy, Ngài đã vì chúng sinh cầu học đạo một cách khổ cực đến như vậy, tại 
		sao lại bỏ để vào Niết bàn mà không thuyết pháp? - Kính lạy Ngài! Lại một thời quá khứ nữa, cũng 
		Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua tên là Thi Tỳ, ở thành Đế Bà Bạt 
		Đề, dân nước lúc đó giàu thịnh vô cùng. Nhà vua thống trị tám vạn bốn 
		ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám ngàn ức dân ấp. Nhà vua có hai 
		muôn bà Phu nhân và thể nữ, năm trăm Thái tử, một vạn quan Đại thần. Vua 
		có hạnh Từ bi, thương dân như con đỏ. Trên Trời lúc ấy, Vua Đế Thích gặp lúc năm đức 
		ly thân, sắp tới ngày tận số (chết) khí sắc ông lúc nào cũng âu sầu, ông 
		Tỳ Thủ Yết Ma thấy thế, bèn hỏi rằng: - Tâu Bệ hạ! Hồi này Hạ thần coi khí sắc của Bệ 
		hạ kém xưa nhiều lắm, chẳng hay có chuyện chi, xin nói cho Hạ thần được 
		rõ. Đế Thích đáp: - Khanh không biết hay sao? Hoa 
		trên đầu ta đã héo, tử chứng đã xuất hiện, mạng sống chẳng còn được là 
		bao, hiện nay ở thế gian không có giáo pháp của Như Lai, ta không biết 
		qui hướng về đâu nên ta buồn! Ông Tỳ Thủ Yết Ma thưa rằng: - Tâu Bệ hạ hiện 
		nay ở thế gian thuộc Châu Diêm Phù có một ông vua tu theo hạnh Bồ tát, 
		tên là Thi Tỳ, tâm ý bền vững và tinh tiến lắm, sau này quyết định thành 
		Phật, xin Bệ hạ tới đó quy y, thì lai sinh sẽ được đầy ý nguyện, đầy vẻ 
		tôn vinh trên cõi nhân, thiên, hoặc xuất thế gian". Vua Đế Thích nói: - Nếu như quả như lời của 
		khanh nói, thì may cho ta lắm, nhưng phải thử xem hư thực thế nào. Vậy 
		khanh hóa làm con chim Bồ Câu, ta hóa làm chim Cắt, khanh bay trước ta 
		bay sau, khi tới nơi khanh bay vào lòng nhà vua, và yêu cầu vua cứu, còn 
		ta đến sau ta sẽ đòi trả để ăn thịt, xem nhà vua giải quyết thế nào. Tỳ Thủ Yết Ma nói: - Tâu Bệ hạ! Bồ tát là người 
		Từ bi phúc đức, chúng ta nên cúng dàng, và ủng hộ là phải, chứ không nên 
		làm những sự đau khổ đến Bồ tát. Vua Đế Thích liền đọc bài thơ đáp rằng: Ngã diệc phi ác tâm, Như trân bảo ưng thí. Dĩ thử thí Bồ tát, Tri vi chí thành phủ? Nghĩa là: Ta cũng chẳng ác tâm. Nếu thực vàng nên thử. Để thử Bồ tát xem, Có thực chí thành không? Vua Đế Thích đọc xong, bắt đầu Tỳ Thủ Yết Ma hóa 
		làm chim Bồ Câu bay trước, Vua Đế Thích hóa làm chim Cắt bay sau. Khi 
		tới cung thành, chim Bồ Câu bay thẳng vào lòng nhà Vua tỏ vẻ sợ hãi, rồi 
		kêu Vua cứu. Chim Cắt bay tới sau, đứng ở trên điện nói: - Tâu Bệ hạ! Xin Ngài trả lại cho tôi con chim 
		Bồ Câu ấy? Đáp: - Trả cho ngươi để làm chi? Tâu Bệ hạ! Nó là món ăn của tôi, tôi đương đói 
		trả để tôi ăn. Đáp: - Ta có nguyện cứu tế cho muôn loài, nó đã 
		lại đây với ta thì ta không trả đâu. - Tâu Bệ hạ! Ngài tự nói cứu tế cho muôn loài, 
		mà cướp món ăn của tôi, thì tôi phải chết đói, đối với tôi không phải là 
		một trong muôn loài hay sao! Đáp: - Ngươi đói thì có thể dùng thứ thịt khác 
		được không? - Tâu Bệ hạ! Vâng! Cũng được nhưng phải cho tôi 
		thứ thịt hãy còn tươi, máu hãy còn nóng, thì tôi dùng. Nhà Vua thầm nghĩa: - Nếu thế thì phải giết một 
		con vật khác; nhưng nếu giết một con, cứu một con cũng vô ích, chi bằng 
		ta cắt thịt của ta thay thế cho nó là hơn. Nghĩ xong lấy dao cắt một miếng thịt đùi ra trao 
		cho chim Cắt và nói rằng: - Đây! Ngươi dùng miếng thịt của ta để thay chết 
		cho Bồ Câu. Chim Cắt ra cách không hài lòng nói: - Tâu Bệ hạ! Ngài đã mang danh là vị Đại Thí 
		chủ, đã dùng con mắt bình đẳng đối với tất cả, tôi đây tuy là một con 
		chim nhỏ thực, nhưng nếu theo sự công bình, thì Ngài phải bắt cân để 
		chim một bên thịt một bên; thịt và chim bằng nhau thì tôi sẽ nhận. Theo lời chim nói có lý phải, nên nhà vua sai 
		người bắt cân, để chim một bên để thịt nhà vua một bên, bắt đầu để một 
		miếng hãy còn nhẹ, lại cắt thêm miếng nữa, vẫn thấy còn nhẹ, dĩ chí nhà 
		vua cắt hết một vế đùi, nhưng vẫn nhẹ như thường, sau cắt hết hai vế 
		đùi, cho đến hai cánh tay, hai bạng mỡ, song vẫn còn nhẹ sau róc hết các 
		thớ thịt ra để lên cũng vẫn còn thấy nhẹ, chim vẫn nặng hơn, nhà vua 
		liền đứng dậy để bước lên bàn cân, thì đau quá, khí lực đã hết nên Ngài 
		ngã lăn đùng xuống đất, mê mệt không biết gì, giây lâu tỉnh lại, thầm 
		nghĩ rằng: - Ta từ bao kiếp đến nay, cũng chỉ vì có thân 
		này, mà làm cho ta khốn khổ, nổi chìm trong ba cõi, trôi dạt trong sáu 
		thú, cũng do tham thân sống, tiếc thân sống, nuôi nó bảo thủ nó, gìn giữ 
		nó, yêu quí nó, vì nó mà làm hại biết bao sinh mạng khác, nhưng trái lại 
		rồi một ngày gần đây nó lại tan không, hòa đồng với đất, nước, cây cỏ, 
		chưa bao giờ vất nó đi, để hy sinh mà cứu chúng sinh, vậy ta phải tiến 
		lên để đập tan những bức thành ngã chấp từ bao kiếp tới nay, để đạt tới 
		pháp thân bất diệt. Nghĩ xong liền ngồi dậy cố gắng đứng lên bàn cân 
		nhìn vẻ mặt vẫn vui tươi! Bấy giờ trời đất tự nhiên chuyển động sáu lần, 
		thiên cung nghiêng ngả, có rất nhiều người ở các cõi trời bay xuống xem, 
		họ nhận thấy một ông vua, quên mình để cứu một con vật, tất cả nhân gian 
		thiên thượng, chưa từng ai làm nổi, họ đều cảm động rơi lệ chứa chan, và 
		tung các thứ hoa xuống cúng dàng. Đối với lòng Đại bi cứu sinh một cách dũng mãnh 
		như vậy, vua Đế Thích cũng phải cảm phục và hiện lại nguyên hình rồi nói 
		rằng: - Kính thưa Ngài! Tôi thấy Ngài làm hạnh Bồ tát, 
		nên tôi tới đây để thử Ngài đấy thôi, chính tôi đây là Đế Thích Vương là 
		chúa cõi trời Đao Lợi. Nhưng xin hỏi Ngài: Ngài làm những việc mà người 
		đời không làm nổi như vậy, để cầu làm gì? Làm Đế Thích hay làm Chuyển 
		Luân Thánh Vương? Nhà vua đáp: - Thưa Ngài tôi nguyện đem lòng Từ 
		bi cứu hộ chúng sinh để cầu thành Phật, chứ không có ý cầu làm Đế Thích 
		hay Chuyển Luân Thánh Vương mong hưởng những thú vui trong ba cõi. Vua Đế Thích nói: - Nhà vua cắt thịt đau đớn như 
		vậy, thì tâm có phàn nàn gì không? Đáp: - Thưa không! Vua Đế Thích nói: - Nhà vua nói không, việc đó 
		thì ai biết? Tôi coi thân thể nhà vua run rẩy như vậy, khí sắc đã gần 
		tuyệt, tự nói không thì lấy gì làm bằng? Đáp: - Trước mặt Ngài tôi xin có một cụ thể để 
		chứng tỏ lòng thành của tôi, nói xong Ngài lập thệ rằng: - Kính lạy thập phương Đại Giác tam thế Hùng Sư! 
		Nếu con chí thành cầu đạo! Xin cho con lại được bình phục như cũ. Thệ dứt lời, nhà vua lại được lành mạnh như cũ, 
		những vết thương tiêu tan, da dẻ lại tươi sáng hơn xưa. Bấy giờ tất cả trời người phàm thánh ai nấy đều 
		tắc lưỡi bái phục tâm chí thành của nhà vua, và coi như một việc chưa 
		từng có, thảy đều kinh sợ vui mừng! - Kính lạy Ngài! Vua Thi Tỳ thuở đó chính là 
		Ngài đấy, Ngài đã vì chúng sinh chịu cực khổ như vậy! Giờ phút này chúng 
		sinh đương bị chìm đắm trong bể sinh tử luân hồi; phơi thây trong rừng 
		tà kiến, dục vọng! Ngóc đầu lên không ai vớt, gào kêu không kẻ chỉ 
		đường. Kính xin Ngài Từ bi cứu tế thuyết pháp độ sinh, khiến cho khắp 
		nhân thiên, phàm thánh được mong ân đức hóa. Vua Phạm Vương đứng trước đức Phật tán dương 
		công đức, và tha thiết cầu thỉnh Ngài thuyết pháp độ sinh một cách thành 
		thực, nên đức Phật hứa lời ông thỉnh. Đầu tiên Ngài đến nước Ba La Nại thuyết pháp ở 
		vườn Lộc Uyển độ cho nhóm ông Kiều Trần Như năm người. Ngôi Tam bảo từ 
		đấy mới xuất hiện ở thế gian. 2/ Phẩm thứ nhì THÁI TỬ MA HA TÁT ĐỎA ĐEM THÂN 
		CHO CỌP ĂN Chính tôi được nghe: Một lần Phật ở nước Xá Vệ, 
		tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà. Tới thời khất thực, đức Phật mặc áo mang bát và 
		tôi (A nan) đi theo hầu. Khi vào tới thành gặp một bà lão và hai cậu con 
		trai; hai cậu này trộm cắp ngang tàng, không có nhân cách. Giữa hôm ấy 
		sa lưới chánh quyền bị đem đi xử tử. Giờ phút hãi hùng này thì tôi và Phật vừa tới, 
		ba mẹ con đều cúi đầu lễ Phật và kêu Phật cứu mạng. Phật bèn sai tôi (A 
		nan) đến xin vua tha cho, sau khi tôi đến nói với nhà vua, vì có lời 
		Phật đến để xin vua phóng thích cho ba mẹ con bà lão, nên nhà vua tuân 
		lời dạy tha cho tội chết. Mong ơn cao cả của đức Phật, ba mẹ con bà này 
		đến tạ ơn, tới nơi cúi đầu làm lễ và bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Mong ơn sơn hải mẹ con 
		được thoát chết, không biết lấy gì để đền đáp ơn đức cao dầy ấy. Kính 
		lạy Đức Thế Tôn, mẹ con một lònh thành kính cúi đầu bái tạ, xin Từ bi 
		hoan hỷ nhận tấm lòng thành kính của mẹ con chúng con. Phật dạy: - Quý hóa! Tội phúc do mình tạo tác 
		gây nhân kết quả, từ nay chăm tu thiện nghiệp, lai sinh hưởng phúc lâu 
		dài. - Dạ, kính lạy Đức Thế Tôn! Mẹ con xin tuân lời 
		chỉ giáo! Và xin cho cả ba mẹ con chúng con được nhập đạo tu hành. Phật dạy: - Quý hoá! Muốn trút bỏ những trần 
		duyên ràng buộc của thế tục, để tìm đường giải thoát thì ta cũng cho. Nói xong Ngài gọi lên rằng: - Thiện Lai Tỳ kheo! Ngài gọi xong, cả ba mẹ con, tự nhiên rụng tóc, 
		áo mặc tại mình biến thành áo Cà sa, lòng tin vững chắc, sau khi nghe 
		Phật thuyết pháp, những trần cấu phiền não đều tiêu mất, tâm ý sáng tỏ, 
		hiểu thấu đạo chân thật. Lúc đó hai người con được chứng quả A la hán, 
		còn người mẹ chứng quả A na hàm. - Thấy việc như thế tôi (A Nan) cũng khen ngợi, 
		và cũng lấy làm kỳ ngộ, không biết nhân duyên của ba mẹ con người này, 
		đời trước thế nào? Nên tôi quỳ xuống bạch Phật rằng: - Kính lạy Đức Thế Tôn! Không hay ba mẹ con 
		người này, đời trươc có phước gì, nay được gặp Ngài cứu cho thoát nạn, 
		hơn nữalại được chứng đạo Niết bàn? Xin nói cho chúng con được rõ nguyên 
		nhân. Phật dạy: - A Nan! Ông hãy để ý nghe Ta nói. Dạ, con xin chú ý nghe. A Nan! Ông nên biết, cách đây đã vô số kiếp, ở 
		Châu Diêm Phù Đề này có một ông vua tên là Ma Ha La Đàn Na, cai trị ba 
		ngàn nước nhỏ, vua có ba người con trai, người thứ nhất tên là Ma Ha Phú 
		Na Binh; người thứ hai tên là Ma Ha Đề Bà; người thứ ba tên là Ma Ha Tát 
		Đỏa. Người con thứ ba Ma Ha Tát Đỏa, có phúc đức lớn, 
		lòng Từ bi quảng đại, chí khí cao cả, nhân hiền hiếu thảo, có lòng 
		thương dân giúp vật. Một hôm nhà vua đưa Phu nhân thể nữ (nàng hầu) và 
		ba người con vào rừng chơi. Nhân lúc nhà vua nằm nghỉ dưới gốc cây, thì 
		ba Hoàng tử đưa nhau đi chơi, đi tới rừng kia chợt gặp một con hổ mẹ và 
		hai hổ con; con hổ mẹ nằm gục đầu vào tảng đá gầy còm, da sát xương, hơi 
		thở thoi thóp, hai mép phung ra hai bãi bọt lớn, tựa như bọt xà bông, 
		còn hai con nằm chui đầu vào hông mẹ, tuy nhìn thấy người nhưng không hề 
		cử động, vì bị đói lâu ngày khí lực bạc nhược. Song có ý muốn ăn thịt 
		con. Thấy thế, Thái tử Ma Ha Tát Đỏa nói với hai anh rằng: - Thưa anh! Con hổ mẹ, em thấy đói khát quá, lại 
		thêm nuôi hai con nhỏ, em xem ý nó muốn ăn thịt con, có phải chăng? Đáp: - Phải! Anh cũng nghĩ thế. - Thưa anh! Vậy nó hay ăn những thứ gì? Đáp: - Nó hay ăn những thứ thịt tươi máu nóng. - Thưa anh! Bây giờ phỏng có ai cứu được nó 
		không? Đáp: - Việc ấy khó lắm. Khi đó Thái tử Ma Ha Tát Đỏa động lòng thương! 
		Thầm nghĩ rằng: - Ta bị sống thác trong bao kiếp tới nay, bỏ thân cũng 
		đã nhiều, song những thân ấy chỉ gây thêm những tội nghiệp, tham, sân, 
		si chứ chưa từng đem thân ấy mà làm lợi ích cho nhân vật bao giờ; ta hãy 
		bỏ thân tham, sân, si này cho hổ ăn, để đổi lấy thân Từ bi trí tuệ bất 
		diệt. Nghĩ xong rảo đi trước hai anh, đi chưa được bao 
		xa, quay lại nói với hai anh rằng: - Hai anh hãy đi trước, em có chút 
		việc riêng. Nói rồi cứ nhắm thẳng con đường cũ, đi tới chỗ 
		ba con hổ nằm, tới nơi gieo mình vào cho hổ ăn thịt. Hổ bị đói lâu ngày 
		run rẩy không thể há mồm ăn được. Thái tử dùng cây nhọn đâm vào cổ họng 
		cho phọt máu, hổ thấy máu lè lưỡi liếm, dần dần tỉnh táo, mới có sức 
		ngồi dậy để ăn thịt, ăn xong thân thể được khoẻ mạnh, mẹ con dẫn nhau đi 
		nơi khác trú ẩn, chỉ còn để lại đống xương trên mặt đất. Hai người anh ngồi chờ mãi không thấy em về, tự 
		nhiên ruột nóng như lửa đốt, nước mắt chảy dạt dào. Rồi đi tìm em và tự 
		nghĩ rằng: "Em ta có ý định cứu hổ đói". Cứ thẳng lối tìm đến chỗ con 
		hổ, quả nhiên không thấy hổ mà chỉ thấy đống xương và cái đầu nằm trơ 
		trên bãi đất, quá thương em, nên hai người anh ngất đi hồi lâu mới tỉnh 
		lại! Đoạn này nói đến nhà vua và Hoàng hậu nằm nghỉ 
		mát dưới bóng cây, Hoàng hậu nằm chiêm bao thấy ba con chim cáp bay vào 
		rừng, con chim thứ ba bị chim ưng bắt ăn thịt, sực tỉnh dậy bà sợ quá! 
		Liền đem chuyện đó nói với vua: - Tâu Bệ Hạ tôi vừa mộng thấy ba con chim cáp 
		bay vào rừng, con chim thứ ba bị chim ưng bắt ăn thịt, tôi nghe lời ngạn 
		ngữ nói: Chim cáp thuộc con cháu, cáp nhỏ bị chết tất nhiên con yêu của 
		tôi gặp sự bất tường. Bà nói vừa dứt lời thì thấy hai cậu con lớn đã 
		về, bà lật đật hỏi: Em đâu? Em đâu? Hai con? Hai cậu quỳ xuống thưa rằng: - Thưa Phụ vương cùng Mẫu hậu! Em con bị hổ ăn 
		thịt. Nhưng không biết bị hổ ăn, hay em con thương nó đói mà cho nó ăn, 
		việc đó chưa tường. Được tin như sét đánh bên tai; ông bà chết ngất 
		giờ lâu mới tỉnh lại! Đồng thời vua cùng Hoàng hậu và quan quân đi đến 
		chỗ Thái tử, chao ôi! Chỉ còn đống xương trắng phơi dãi trên mặt đất, ai 
		nấy đều than khóc tiếc thương! Hoàng hậu tự mang lấy cái đầu lâu, còn 
		vua mang hai ống xương tay, trong lòng rầu rĩ xót đau, ngơ ngẩn! Tâm hồn 
		như mơ như mộng, chứa chan rơi lệ! Đoạn này nói đến Thái tử, vì lòng Từ bi cứu hổ 
		đói, sau khi trút khỏi xác, được sinh về Trời. Tự nghĩ rằng: - Ta được phép thiên nhãn, coi xa năm cõi như 
		coi vật trên bàn tay, chắc đời trước đây ta làm phúc gì, nên mới được 
		quả báo như vậy. Nghĩ xong nhìn xuống nhân gian, thấy mình là 
		Thái tử, vì hy sinh cứu hổ đói, tử thi nằm ở rừng xanh, phụ mẫu hãy còn 
		đương than khóc, Thái tử động lòng thương cha mẹ, ngu si mê muội, khóc 
		thương quá chừng như vậy, hoặc nhân thế mà táng mất thân mạng, liền từ 
		trên Trời bay xuống, đứng trên hư không thưa rằng: - Kính thưa Phụ hoàng cùng Mẫu hậu! Xin hãy 
		khoan tấm lòng, đừng quá thương Thái tử nữa! Nên trở về hoàng cung trị 
		quốc an bang tu thiện nghiệp. Thấy thế nhà vua liền hỏi rằng: - Ông là vị thần nào xin chỉ bảo cho chúng tôi 
		được rõ. Đáp: - Con là Thái tử Ma Ha Tát Đỏa đây, bởi con 
		xả thân cứu hổ nên con được sinh lên cõi trời Đâu Suất, kính thưa Phụ 
		vương tất cả muôn vật cho đến nhân sinh, có hình tất có hoại, có sinh 
		tất có tử, có rồi phải không, tạo ác thì sa Địa ngục, làm lành được sinh 
		lên trời, sống chết là một luật nhất định cho tất cả chúng sinh, Phụ 
		vương không lo buồn làm chi, cho tổn tâm can, nên tỉnh ngộ để tu đạo 
		hạnh. Nhà vua nói: - Người làm hạnh đại từ tế độ cho 
		khắp muôn loài, bỏ ta mà chết! Lòng ta thương nhớ, đến nỗi quặn lòng đứt 
		ruột, đau đớn không tả xiết vậy người tu hạnh đại từ có xứng hay không? Nghe nhà vua nói, Thái tử dùng vô ngại biện tài, 
		đem những ý nghĩa nhiệm mầu thiện đức, cao siêu xuất phàm để báo tạ và 
		khuyên vua. Khi đó nhà vua mới nguôi nguôi tấm lòng, và tỉnh 
		ngộ tâm thức, rồi sai người làm hòm Thất bảo thu bỏ hài cốt làm lễ an 
		táng và xây tháp cúng dàng. Tới đây cha con Từ biệt: Thái tử hóa thân về 
		thiên cung; vua, Phu nhân và quan quân trở về kinh thành. Phật nói tới đây rồi Ngài nhắc lại cho tôi: - Này A Nan! Nhà vua thuở đó là cha của ta ngày 
		nay, Hoàng hậu thuở đó, nay là mẫu thân ta bây giờ, ông Ma Ha Phú Na 
		Ninh nay là ông Di Lặc, Thái tử Ma Ha Đề Bà, nay là ông Bà Tu Mật, còn 
		Thái tử Ma Ha Tát Đỏa chính là ta đây. Hổ mẹ bấy giờ, nay là bà lão này, 
		hai hổ con tức là hai người con trai này. Thời đó ta đã cứu sống cho ba 
		mẹ con được an toàn tánh mạng, tới nay ta thành Phật ta lại cứu cho khỏi 
		tội chết và được thoát sinh tử luân hồi. Phật thuyết xong thì tôi và tất cả mọi người 
		trong đại hội hoan hỷ kính mến đức cao cả của Ngài, ai nấy đều cúi đầu 
		lễ tạ lui ra. 3/ Phẩm thứ ba HAI NGƯỜI DÒNG PHẠM CHÍ THỤ PHÁP 
		BÁT QUAN TRAI Chính tôi được nghe: Một lần Phật ở nước Xá Vệ, 
		tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà. Lúc đó trời vừa sẩm 
		tối, có hai người cõi trời vào yết kiến Phật, thân thể to lớn đẹp đẽ, 
		người có hào quang, ánh sáng chiếu khắp rừng Kỳ Hoàn trở thành vàng ửng. 
		Tới nơi họ cúi đầu lễ Phật nhiễu ba vòng, rồi lui đứng về một bên, và 
		bạch Phật rằng: - Kính lạy Đức Thế Tôn! Đấng Từ bi cao cả làm 
		Thầy cho hết thảy trời, người, hôm nay chúng con tới đây cúi xin Ngài 
		chỉ dạy cho một lối tu hành thoát khổ trong sáu thú, được an vui đạo 
		Niết bàn? Khi đó Ngài cũng tùy theo căn khí của họ, thuyết 
		cho họ nghe những pháp thích hợp với tâm lượng của họ, nên hai người đều 
		chứng được đạo quả rồi cúi đầu lễ tạ trở về trời. Sáng hôm sau buổi trà nước dâng Phật vừa xong, 
		giữa lúc bầu trời êm dịu, thanh khí ôn hòa, trong cuộc thư nhàn vấn đạo, 
		tôi (A Nan) tới trước bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Tối hôm qua hai người 
		cõi trời, lại yết kiến Ngài, coi tướng mạo, và oai nghi tốt đẹp, ánh 
		sáng chói loà, phúc đức đầy đủ, không rõ đời trước họ tu những hạnh gì, 
		nay được kết quả tốt lành như vậy? Phật bảo tôi rằng: - Này A Nan! Ông lắng nghe tôi nói: Thuở xưa đức 
		Phật Ca Diếp ứng thế độ sinh, sau khi Ngài đã diệt độ, bấy giờ pháp đã 
		tới thời cuối rốt (thời mạt), thuở ấy có hai người tu theo dòng Bà la 
		môn, họ thấy công đức Pháp Bát quan trai cao cả, nên họ xin thụ trì (tu 
		giữ), người thứ nhất nguyện sinh lên trời, người thứ hai nguyện làm Quốc 
		vương. Thụ rồi trở về nhà vào lúc đã quá giờ ngọ, người 
		thứ nhất được vợ gọi ăn cơm; anh nói: - Thôi, em ăn cơm đi, hôm nay anh đã thụ giới 
		Bát quan trai của Phật dạy, cử quá giờ ngọ không ăn! Vậy anh không ăn 
		đâu, em ăn đi, để cho sự trai giới của anh được hoàn toàn. Cô vợ thấy chồng nói thế, bực bội cau mặt nghiến 
		răng nói: - Anh xưa nay thuộc dòng Phạm chí (đạo Bà la 
		môn) đã có đủ giới pháp, cớ sao hôm nay anh lại đi thụ trai giới của đạo 
		Phật? Nếu anh không chịu bỏ trai giới ấy, mà ăn cơm với tôi, thì tôi đem 
		chuyện này, nói cho tất cả mọi người trong đồng đạo họ biết, họ sẽ đuổi 
		anh ra khỏi bọn họ và chính tôi cũng không chung sống với anh nữa. Cũng do lòng không vững chắc và nhất là nể vợ, 
		sợ vợ! Nên anh thoái chí bỏ trai pháp, tức là phá giới "Bát quan trai", 
		ngồi ăn cơm phi thời với vợ. Hai người nguyện tu trai pháp ấy, tùy theo tuổi 
		thọ dài vắn rồi cùng chết cả. Người nguyện làm vua thì được sinh vào nhà 
		vua, vì giữ trai giới được hoàn toàn, sau sẽ được làm vua; người nguyện 
		sinh lên trời, vì phá trai giới phải đọa sinh trong loài Rồng. Cũng do lòng tin vững chắc, trai giới hoàn toàn 
		thanh tịnh, người làm vua nói trên được hưởng một cuộc đời vương giả 
		trong hoàng cung, đầy vẻ tôn sang, thỏa lòng vui sướng với năm cảnh dục 
		lạc của thế gian! Ông vua này có một vườn cây, trong vườn trồng đủ các 
		thứ quả, mùa nào thứ ấy; vườn này có một người trông nom, để hàng ngày 
		dâng quả lên vua, gọi là Viên Giám, vua vẫn tin dùng anh là người có khả 
		năng trồng cây coi vườn, tưới bón, tùy thời dâng các hoa quả. Một hôm 
		Viên Giám ra giếng nước ngắm chơi, bỗng nhìn thấy một quả nổi trên mặt 
		nước, quả này trên thế gian chưa từng có, sắc đẹp mùi thơm lạ thường, 
		anh vớt lấy và đặt tên cho nó là quả nại, được quả quý này rồi thầm nghĩ 
		rằng: - Mỗi khi ta vào thành, quan Môn Giám đã chạy ra 
		đón ta, đối với ta một cách thân mật, ta chưa có gì để đền đáp tấm lòng 
		quý hóa ấy, vậy ta đem quả này biếu Ngài. Nghĩ thế rồi đem quả ấy biếu Môn Giám. Quan Môn 
		Giám được quả này cũng tự cho là một vật quý, nên không ăn, lại đem biếu 
		ông bạn thân là quan Hoàng Môn, quan Hoàng Môn thấy quả quý cũng không 
		ăn, lại dâng lên bà Hoàng hậu, để mua lấy tấm lòng ưu đãi của bà. Bà 
		thấy quả đẹp lạ thơm khác đời, nên bà dâng lên vua dùng. Nhà vua dùng 
		quả này thấy ý vị, mùi thơm từ thuở sinh đến nay chưa từng ăn thứ quả 
		nào được ngon như vậy, liền gọi bà lên hỏi căn do: - Này bà! Quả mà tôi vừa ăn xong, ngon lắm! Tôi 
		chưa từng thấy quả nào quý như vậy, quả này ai cho? Phu nhân đáp: - Tâu Bệ hạ! Quả này do quan Hoàng 
		Môn dâng. Cho gọi quan Hoàng Môn. Nhà vua hỏi: - Quả này mua tại xứ nào? Đáp: - Tâu Bệ ha! Quả này nhà hạ thần không có, 
		hôm qua quan Môn Giám cho con, xin bệ hạ khoan thứ. Cho gọi Môn Giám, vua hỏi: - Quả ngươi cho Hoàng Môn hôm qua là quả gì, mua 
		ở đâu? Đáp: - Tâu Bệ hạ quả đó nhà hạ thần không có, 
		hôm qua quan Viên Giám cho, xin Bệ hạ lượng thương. Cho gọi Viên Giám, hỏi: - Viên Giám trong vườn của ta có những thứ quả 
		ngon lành như thế, sao không đem dâng ta lại đem cho kẻ nào? Đáp: - Tâu Bệ hạ quả này trong vườn không có 
		giống trồng, hôm qua hạ thần ra giếng thấy nổi trên mặt nước, xin Bệ hạ 
		thương xét. Nhà vua nói: - Từ ngày mai trở đi ngày nào ngươi 
		cũng phải đem quả này dâng cho ta, nếu không thì ngươi bị tử hình. Viên Giám nghe xong chết điếng người, mắt xanh 
		lè, run sợ toát mồ hôi lễ tạ, trở về vườn, tiu nghĩu một mình, sầu khổ 
		một mình! Không biết kêu ai cho mình thoát được cái oan ức ấy? Anh òa 
		lên khóc, đương khóc có người tới hỏi: - Anh có việc chi lo sợ hãi hùng như vậy? Anh 
		nói cho tôi biết, nếu có thể giúp được tôi sẽ giúp anh! Đáp: - Thưa bác, tôi là một người coi vườn cho 
		nhà vua, chịu trách nhiệm trông coi vườn quả và hàng ngày dâng quả cho 
		nhà vua dùng, hôm qua tôi bắt được một quả nổi trên mặt giếng, vì thấy 
		quả lạ, quý nên tôi không ăn, đem biếu quan Môn Giám, sau quả đó đưa tới 
		vua; vua ăn thấy ngon lành, giờ đây bắt tôi ngày nào cũng phải dâng, nếu 
		không dâng thì bị tử hình, tôi không biết tìm đâu ra được nên tôi khóc. - Thôi anh khỏi lo nữa! Nhà tôi có rất nhiều, 
		tôi sẽ cho anh một mâm dâng vua. Nói xong Từ biệt ra về. Viên Giám vui mừng an 
		lòng đã có người cứu mình. Chính người này là con Rồng hóa hiện ra thân 
		người để hỏi thử chơi đó thôi. Một lát anh đã đội lên một mâm đầy quả ngon lạ 
		dưới Long cung, thuần những quả trên thế gian không có, trao cho Viên 
		Giám và dặn rằng: - Khi anh dâng mâm quả này lên vua thì anh nói 
		rằng: Tôi với nhà vua vốn là bạn thân với nhau, đời trước ở dòng Phạm 
		chí, cùng nhau thọ pháp "Bát quan trai", mỗi người có một bản nguyện: 
		Nhà vua tu hành giữ giới hoàn toàn được làm nhân vương, tôi không giữ 
		được toàn, nên phải đọa sinh vào loài Rồng, chịu nhiều cực khổ, thân thể 
		xấu xa, giờ đây tôi muốn tu theo Trai pháp, để cầu bỏ thân này sinh về 
		cõi trời. Vậy nhà vua tìm hộ cho tôi bài văn "Bát quan trai" ấy để tôi 
		tu tập, nếu trái lời tôi, thì tôi sẽ lật đổ nước của nhà vua biến thành 
		biển cả. Viên Giám mừng rỡ; hai tay cất lấy mâm quả trịnh 
		trọng cảm ơn, dâng mâm quả ấy lên vua và trình bày những lời của Rồng 
		dặn cho vua nghe. Nhà vua nghe xong, trong tâm thổn thức không 
		yên, trống ngực đập liên hồi, vẻ mặt mất vui tươi! Tại sao thế? Là vì 
		thời đó không có kinh của Phật. Nhà vua đêm ngày âm thầm lo nghĩ cho 
		chính mình và tánh mạng cả một nước, nhưng không tìm được một phương 
		tiện gì để giải quyết, trong lúc đương ngồi suy nghĩ, thì thấy một ông 
		quan Đại thần vào chơi, ông này là một người quan trọng nhất thời đó. 
		Nhà vua liền đem câu chuyện Rồng đòi xin văn "Bát quan trai", nói cho 
		ông nghe và nhờ ông tìm hộ. Ông thưa rằng: - Tâu Bệ hạ! Đời này không có 
		Phật pháp, thì không thể tìm đâu ra được. Nhà vua nói: - Việc này khanh phải chịu khó tìm 
		cho bằng được, nếu không tìm được thì khanh cũng chết, ta cũng chết, cho 
		đến toàn quốc cũng chết, vậy việc này ta giao cho khanh phải chịu trọng 
		trách! Theo lời vua truyền xong, ông bái tạ ra về. Ông 
		là người rất có hiếu với cha già, mỗi khi ông đi đâu về, ông cũng làm ra 
		vẻ mặt tươi, để cho cha ông yên lòng, mừng con được an lạc! Nhưng ngày 
		hôm đó ông không thể nào làm nét mặt của ông tươi được nữa! Cha ông thấy 
		thế hỏi ông rằng: - Hôm nay con vào chầu vua có việc gì bất trắc 
		mà lo buồn như vậy, nói cho cha biết với! Đáp: - Thưa cha! Hôm nay nhà vua truyền cho con 
		phải tìm bài văn "Bát quan trai" của Phật giáo, nếu không tìm được thì 
		nguy cả một nước nên con lo quá! Mà con không thể nào gượng sầu làm vui 
		được! Người cha nói: - Con ạ! Cái cột nhà ta, thường 
		thường cha nhìn thấy có ánh hào quang hiện lên, con bảo người phá ra xem 
		trong đó có vật gì? Nghe lời người cha nói, ông sai gia nhân lấy cây 
		cột khác thay vào và bổ ra được hai quyển kinh: Một quyển nhan đề là 
		"Thập Nhị Nhân Duyên", một quyển nhan đề là "Văn Bát Quan Trai". Thấy 
		thế, ông vui mừng quá! Vội đem dâng vua, nhà vua cũng hoan hỷ cảm ơn, 
		sai người chép lấy một quyển để lại, còn một quyển giao cho Viên Giám 
		biếu Rồng. Rồng được kinh cũng rất hài lòng với nguyện ước! Trở về đem 
		rất nhiều bảo vật dưới Long cung tạ ơn nhà vua. Từ đó Rồng chuyên tu trai giới, lúc chết được 
		sinh lên trời, nhà vua cũng chăm tu trai giới, sau khi mạng chết cũng 
		được sinh lên trời, hai người này cùng ở với nhau một nơi. Nói tới đây 
		Ngài lại nhắc cho tôi biết rằng: Này A Nan! Hai người trời đó, chính là hai người 
		dòng Phạm chí thụ giới "Bát quan trai" thuở xưa ấy, hôm qua tới đây nghe 
		ta thuyết pháp chứng quả Tu đà hoàn cắt đứt ba đường ác, là Địa ngục, 
		Ngạ quỉ và Súc sanh, đời đời thường được sinh trong cõi trời, cõi người. 
		Từ đây trở đi hai người này sẽ được đạo Niết bàn. Phật thuyết nhân duyên của hai người xong, tất 
		cả trong đại hội ai ai cũng vui mừng! Kính tin phúc tu của Bát quan trai 
		giới, đều hoan hỷ phụng hành lễ tạ lui ra. 4/ Phẩm thứ tư ĐI Ở LẤY CÔNG CÚNG DÀNG Chính tôi được nghe: Một lần đức Phật ở nước Xá 
		Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà. Thuở đó nước Xá Vệ có một Trưởng giả, sinh được 
		đứa con trai mặt mũi tốt tươi dáng người xinh đẹp; mới sinh đã biết nói 
		ngay. Nó tự hỏi rằng: - Thưa mẹ! Đức Phật có còn tại thế không? Đáp: - Ôi! Sao con biết nói sớm thế? Ai dạy mà 
		con đã biết nói? Con hỏi Phật làm chi? Phật hãy con ở đời con ạ! Nó lại hỏi: - Thưa mẹ, Tôn giả Xá Lợi Phất và 
		Tôn giả A Nan có còn không mẹ? Đáp: - Các Tôn giả hãy còn đây con ạ! Cả nhà họ thấy cậu bé biết nói ngay, ai cũng ồn 
		ào hỏi nhau, nghi nghi hoặc hoặc, chắt môi chắt miệng cho là quái gở? 
		Rồi ông bố cậu đi hỏi Phật; tới chốn Phật, làm lễ xong, quỳ xuống bạch 
		Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Con mới sanh được đứa 
		cháu trai biết nói ngay, không hiểu hay dở thế nào? Kính xin Ngài chỉ 
		giáo cho chúng con được đoạn lòng nghi hoặc ấy? Phật dạy: - Nhà ngươi có phúc đấy, đứa trẻ này 
		có tướng tốt đẹp, sau sẽ làm cho gia đình được tôn vinh trên cõi nhân, 
		cõi thiên nhiều lắm! Không nên hoài nghi làm chi, ngươi cứ an tâm, nuôi 
		nó cho cẩn thận là hơn. Theo lời Phật dạy ông rất vui mừng! Ông trở về, 
		nó lại nói với ông ấy rằng: - Thưa cha! Con rất muốn thỉnh Phật và chư Tăng 
		tới nhà cúng dàng, vậy xin cha mẹ vì con sửa soạn giường tòa cho đẹp 
		trang nghiêm, để ấn định ngày thỉnh. Đáp: Thỉnh Phật và chư Tăng không phải dễ đâu! 
		Để cha sắm sửa các món ăn, khi nào đầy đủ cha sẽ thỉnh Phật về nhà cho 
		con cúng dàng. Đứa trẻ nói: - Thưa cha! Các vật dụng về sự cúng 
		dàng, cha không phải sắm chi hết, cha sai người quét dọn và bao sái nhà 
		cửa cho sạch sẽ, bày bàn ghế tòa ngồi, giường chiếu cho trang nghiêm, 
		bát đĩa cho trong sạch, mâm bàn dụng cụ về bữa ăn cứ sắp đặt sẵn, còn về 
		món ăn con đã có đầy đủ. Hiện nay bà thân mẫu con hãy còn ở nước Ba La 
		Nại, xin mời lại đây cho con, và bày cho con ba tòa cao đẹp. Người cha nghe con nói lấy làm vui vẻ lắm! Ông 
		sai người cỡi voi đi đón bà mẹ ở nước Ba La Nại về, trong nhà bày tòa 
		trải chiếu trang nghiêm mâm bàn, bát đĩa, cốc chén bày trên sồi có thứ 
		tự, bày xong các món ngon lạ, bao thứ ăn uống tự nhiên đầy đủ. Bày ba 
		tòa cao đẹp, tòa thứ nhất để cúng Phật, tòa thứ nhì để bà mẹ ở nước Ba 
		La Nại ngồi, tòa thứ ba để bà mẹ hiện tại ngồi, các việc được chu đáo ổn 
		định rồi, người cha thân đi mời Phật, tới nơi lễ Phật và bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con cả gia đình 
		thành kính sửa soạn trai nghi, đúng giờ ngọ ngày mai, xin kính thỉnh Thế 
		Tôn và các hàng Tăng chúng tới nhà thụ trai và tác phước cho chúng con 
		được ân triêm công đức. Phật dạy: - Quý hóa! Có lòng cầu thỉnh ta sẽ 
		nhận tâm thành ấy cho. Ông vui vẻ ra về, ngày mai đúng giờ ngọ Phật và 
		Tăng chúng đến đông đủ, thăng tòa ngồi yên tĩnh, ông ta và hai bà mẹ cậu 
		bé ra lễ Phật, thỉnh Phật và chư Tăng thọ trai. Phật dùng trai xong 
		thăng tòa thuyết pháp được thấm nhuần đức hóa của Phật, cả nhà đều chứng 
		sơ quả, vui mừng tạ lễ lui ra. Cậu bé này sau lớn tuổi, cũng xin đi xuất gia tu 
		đạo, cậu rất chăm chỉ tu hành không bao lâu đã chứng được quả A la hán. Thấy việc như vậy, tôi (A Nan) quỳ xuống bạch 
		Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Cậu bé này vì duyên gì, được sinh vào 
		nhà giàu có, tôn sang? Và biết nói ngay? Hơn nữa lại được đắc đạo quả? 
		Kính xin Ngài chỉ giáo để chúng con được rõ! Phật dạy: - Này A Nan! Cậu bé này, tiền thân ở 
		nước Ba La Nại là con một ông Trưởng giả, sau khi cha chết, gia nghiệp 
		bị suy tàn, ngày một nghèo thiếu. Tuy được gặp Phật tại thế, nhưng không 
		có gì để cúng dàng vì thế nên anh ta lúc nào cũng buồn. Sau tự đi làm 
		mướn được một năm, anh xin chủ một lạng vàng. Người chủ thấy anh xin 
		vàng bèn hỏi: - Anh lấy vàng để cưới vợ hay sao? Đáp: - Thưa không! Hỏi: - Anh lấy vàng làm gì? Đáp: - Thưa! Để mua các món ăn, dâng Phật và các 
		vị thánh Tăng. Ông chủ nói: - Nếu anh muốn thỉnh Phật và chư 
		Tăng, thì ta cũng ưng lắm! Ta sẽ làm những cỗ bàn, và ta đi mời Phật về 
		nhà ta cho anh cúng, có ngại chi việc đó. Đáp: - Dạ quý hóa lắm! Nếu ông bà có lòng vì tôi 
		như vậy, thì phúc đức vô lượng vô biên! Ông chủ sai người sắm lễ vật, sửa soạn trai 
		nghi, trịnh trọng, rồi sai người đi thỉnh Phật và các vị thánh Tăng để 
		cúng dàng. Nói tới đây Phật lại nhắc lại cho tôi hay rằng: - Này A Nan! Người nghèo đi làm mướn thuở đó, 
		chính là cậu bé này, vì có lòng cúng Phật và Tăng một bữa cơm, sau khi 
		chết được sinh làm con ông Trưởng giả, cũng nhân phúc đó nay đắc quả A 
		la hán, từ đây sẽ được cõi người, cõi trời cúng dàng. Khi Phật nói xong câu chuyện này, tất cả mọi 
		người trong đại hội ai ai cũng vui vẻ, tin kính sự cúng dàng được phúc 
		vô lượng vô biên, thảy đều lễ Phật mà lui. 5/ Phẩm thứ năm THẦN BỂ VỚI NGƯỜI ĐI BUÔN Chính tôi được nghe: Một lần đức Phật ở nước Xá 
		Vệ tại vườn của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà. Thuở đó trong nước có năm trăm người đi buôn, 
		định ra biển tìm châu báu. Nhưng sự ra biển có rất nhiều hiểm trở khó 
		khăn! Vì thế họ bàn nhau tìm một người đủ tài đức để dẫn đường cho họ. 
		Sau họ tìm được người Ưu bà tắc ông này trì ngũ giới và có tài biện 
		thuyết nhanh chóng. Khi ra đến biển một trời, một nước, ông thần bể 
		biến thành còn quỉ Dạ xoa hình thể xấu xa, mắt xanh lè, răng chìa ra 
		ngoài, trên đầu lửa cháy dữ dội, tới nơi nắm thuyền lại hỏi: - Này các ông trong thuyền! Trên thế gian có 
		người nào đáng sợ như tôi không? Người Ưu bà tắc đáp: - Dạ! Thưa ông! Có rất 
		nhiều người đáng sợ gấp trăm ngàn triệu ông, đối với ông có chi đáng sợ. Dạ xoa hỏi: - Kẻ đó sợ như thế nào? Đáp: - Là những kẻ ngu si làm những việc bất 
		thiện, nào sát sinh, hại mạng, trộm cướp, dâm dật vô độ, nói dối, nói 
		lưỡi đôi chiều, nói ác, nói đơm đặt, tham dục, giận tức, đắm chìm nơi tà 
		kiến, những kẻ đó chết phải sa xuống Địa ngục, chịu khổ muôn phần, quân 
		ngục tốt bắt kẻ có tội ấy, đem ra nhiều thứ để hành phạt, hoặc lấy dao 
		chém, hoặc lấy xe nghiền cho tan thân nát thể ra hàng ngàn vạn đoạn; 
		hoặc bỏ vào cối giã, hoặc bỏ vào cối xay, còn có những hình phạt như: 
		Núi dao, rừng kiếm, xe lửa, vạc nước xôi, nước giá lạnh. Tất cả những 
		bình phạt nói trên, kẻ có tội ấy phải chịu trải qua vài ngàn muôn năm. 
		Như thế mới đáng sợ hơn ông. Quỉ Dạ xoa nghe xong buông thuyền cho đi, rồi ẩn 
		mình biến mất, thuyền tiếp tục đi được vài dặm, ông thần bể lại hóa ra 
		một người hình thể gầy gò đen xấu, gân lộ, da sát xương tới nắm thuyền 
		kéo lại hỏi: - Này các ông trong thuyền, trên thế gian có kẻ 
		nào xấu hơn tôi không? Ông Ưu bà tắc đáp: - Dạ thưa ông! Có rất nhiều người xấu gấp trăm 
		ngàn vạn triệu ông, đối với ông chi đáng xấu! Ông thần bể lại hỏi: - Người đó xấu như thế nào? Đáp: - Dạ thưa ông! Là những kẻ ngu si, lòng dạ 
		ác độc, tham lam nịnh hót, ghen ghét, bợ đỡ, tích cóp, làm hạnh xấu 
		không có thẹn hổ, có tiền của không nuôi cha mẹ vợ con, thậm chí thân 
		mình cũng không dám ăn mặc, khinh mạn giáo pháp, không biết kính trọng 
		đạo đức, không biết nghe theo lẽ phải, có tính gian lận và không có tâm 
		thương những người đói khát, không biết làm hạnh bố thí, kẻ đó khi chết 
		phải đọa làm loài quỉ đói, muôn ngàn vạn triệu triệu năm đói khát, không 
		biết miếng cơm ngụm nước ra sao! Thân thể hôi thối có những con vi trùng 
		cắn rứt đau đớn suốt ngày đêm, lửa trong mồm phát ra dữ dội; trên đầu có 
		những mụn nhọt luôn luôn chảy, tưới những máu mủ xuống mặt, mắt, mồm thè 
		lưỡi liếm ăn. Kẻ đó mới xấu, mới đáng thương họ ngu si, còn như ông chưa 
		phải là xấu. Ông thần bể nghe xong, lại buông thuyền cho đi 
		rồi ẩn mình biến mất. Thuyền đi chưa được bao xa, ông thần bể lại biến 
		hình thành một người cực kỳ xinh đẹp. Nắm thuyền lại hỏi: - Này! Các ông trong thuyền, trên thế gian có ai 
		xinh đẹp bằng tôi không? Đáp: - Dạ thưa ông! Có rất nhiều người đẹp, gấp 
		trăm ngàn vạn triệu triệu ông, đối với ông có chi đáng đẹp. Ông thần bể lại hỏi: - Họ đẹp hơn tôi bằng cách nào? - Dạ, thưa ông! Trên thế gian có những người 
		thông minh trí tuệ, chăm làm các việc thiện: Thân, miệng, ý ba nghiệp 
		thường thường trong sạch, biết tôn kính ngôi Tam bảo, tùy thời cúng 
		dàng. Người ấy khi mạng chung được sinh lên trời, thân thể trong sáng 
		tướng mạo oai nghiêm, phúc đức và thể lực đầy đủ, như thế mới là đẹp, 
		đem cái đẹp của ông đối với họ cũng chẳng khác chi đem con khỉ mù mà ví 
		với cô gái tươi trẻ vậy! Như ông đã lấy gì làm đẹp! Ông thần bể lại bốc vốc nước bể hỏi: - Nước trong bàn tay nhiều hay nước bể nhiều? Đáp: - Dạ thưa ông! Nước trên bàn tay nhiều hơn! Hỏi: - Vì lý do gì nước trong bàn tay nhiều, xin 
		ông hãy giải đáp cho? - Dạ thưa ông! Nước bể tuy nhiều nhưng rồi đây 
		cũng có ngày khô cạn, khi trời tai kiếp đến bắt đầu hai mặt trời ra, thì 
		ngòi lạch suối ao khô cạn! Ba mặt trời ra, thì các sông lớn và các bể 
		nhỏ cạn! Năm mặt trời ra thì nước bể lớn đã giảm bớt! Sáu mặt trời ra, 
		thì ba phần giảm hai! Bảy mặt trời ra, thì nước bể cạn hết tiếp đến núi 
		Tu Di tan đổ cho đến đáy kim cương dưới quả địa cầu cũng đều cháy rụi. 
		Nếu kẻ nào có tâm tin sự cúng dàng Phật! Hoặc các vị Sư Tăng, hay cha mẹ 
		hoặc kẻ ăn xin hoặc cho loài cầm thú. Thì công đức ấy trải bao kiếp cũng 
		không mất. Thưa ông, ý nghĩa nhiều ít là như vậy! Ông thần bể nghe xong vui mừng khôn xiết! Đem 
		tặng ông Ưu bà tắc một số châu báu ở long cung và gửi thêm một số báu 
		vật về cúng Phật rồi ẩn hình biến mất. Tới đây mọi người lái buôn thâu lượm vàng bạc 
		trở về nước nhà, chia cấp cho gia đình rồi cùng nhau đi yết kiến Phật, 
		đem châu ngọc của ông thần bể dâng cúng Phật, và chư Tăng rồi quỳ xuống 
		bạch Phật rằng: - Kính thưa đức Thế Tôn! Thân người khó được, 
		Phật Pháp khó gặp, chúng con sinh thời may mắn được gặp Thế Tôn, tới đây 
		một lòng thành cầu xuất gia tu học để thoát khỏi sinh tử luân hồi, kính 
		xin Từ bi tế độ cho chúng con được ân triêm công đức. Đức Phật Ngài hoan hỷ nói rằng: - Thiện lai Tỳ kheo! Phật nói dứt lời, tóc của những người này đều 
		rụng hết, áo trên mình tự nhiên biến thành áo Cà sa, sau nghe Phật 
		thuyết Pháp, tâm dục nhiễm đều sạch không, ngay giờ phút đó họ chứng 
		được quả La Hán. Thấy thế mọi người trong đại hội ai ai cũng vui 
		mừng, lòng tin kính cúng dàng lại thêm vững chắc, cúi đầu lễ tạ lui ra. 6/ Phẩm thứ sáu CẦU TỰ Chính tôi được nghe: Một lần Phật ờ nước La 
		Duyệt Kỳ, tại Tinh xá vườn Trúc. Nước ấy có quan Phụ tướng, nhà rất giàu sang, 
		nhưng không có con trai. Tại vùng đó có đền thờ thiên thần ở bên sông, 
		gọi là Ma Ni Bạt La, nhân dân quanh miền ấy tin sùng lễ bái cầu sao được 
		vậy. Hay tin thần thiêng, quan Phụ tướng tới đền làm lễ và cầu nguyện 
		rằng: - Thưa Ngài, tôi chưa có con trai, nghe biết 
		thiên thần công đức cô lượng, cứu hộ quần sinh, ai cần gì cũng được như 
		ý nguyện. Vậy tôi tới đây cầu xin thiên thần, năm nay sinh quý tử, nếu 
		được như lời nguyện, tôi sẽ lấy vàng bạc để điểm tô thân Ngài, và các 
		hương tốt để bôi nơi miếu Ngài, bằng vô hiệu quả, tôi sẽ phá miếu và lấy 
		phân trát vào mình Ngài. Quan Phụ tướng kêu xong lễ tạ ra về. Khi đó quan Giám điện nghe xong, toát mồ hôi 
		thầm nghĩ rằng: "Người này hào phú, thế lực hùng cường, tới đây cầu xin 
		quý tử, ta thiếu đức làm sao cho đặng, nếu không giúp được hắn thì hắn 
		làm ô nhục". Nghĩ rồi lên tâu với thần Ma Ni Bạt La: - Kính tâu thiên thần chúng tôi vâng lệnh coi 
		đền, hôm qua quan Phụ tướng nước La Duyệt Kỳ đến nói rằng: Xin thiên 
		thần cho sinh quý tử, nếu được như lời, thì lấy vàng bạc điểm tô thân 
		Ngài, và lấy các thứ hương tốt để bôi nơi miếu Ngài, bằng vô hiệu quả, 
		sẽ phá miếu và lấy phân trát vào mình Ngài, việc đó hạ thần bất lực xin 
		thiên thần chỉ giáo cho? Nghe xong, thần Ma Ni Bạt La lên tâu với ông Tỳ 
		Sa môn Thiên vương. Tỳ Sa môn Thiên vương nói: - Việc này để ta lên 
		tâu vua Đế Thích, chứ ta cũng bất lực. Nói rồi bay lên cung trời Đao Lợi 
		tâu vua Đế Thích rằng: - Kính tâu Thiên Đế! Tôi có một hạ thần tên là 
		Ma Ni Bạt La lên kêu rằng: Quan Phụ tướng tại thành Vương Xá cầu xin quý 
		tử, và hẹn nếu được như lời thì xin cúng dàng trọng hậu, bằng không sẽ 
		phá miếu, và hủy nhục, kính mong Thiên Đế cứu giúp. Nhân lúc trên trời có người sắp tận số. Đế Thích 
		cho gọi tới bảo rằng: - Ta xem Khanh sắp tới ngày mệnh hết, hiện nay 
		quan Phụ tướng ở thành Vương Xá đương cầu tự, vậy sau khi Khanh mệnh 
		chung thì thác sinh vào nhà đó an hưởng sự vinh hoa phú quý. Đáp: - Kính tâu Thiên Đế! Cái bả phú quý hay làm 
		mê hoặc lòng người, nhân sự vinh hoa phú quý khiến bao người sa xuống hố 
		sâu, ý định của hạ thần muốn sinh vào nhà dân thường, để dễ bề xuất gia 
		tu đạo, cho thoát khỏi sinh tử luân hồi, là hơn nhất, xin bệ hạ tha thứ! Đế Thích nói: - Không lo, Khanh hãy nghe ta sinh 
		vào nhà đó, rồi ta giúp chớ ngại. Đáp: - Dạ muôn tâu bệ hạ! Lời thánh chỉ hạ thần 
		không dám trái, nhưng xin bệ hạ luôn luôn giúp đỡ cho, kẻo sợ tham về 
		phú quí mà bỏ mất đại nguyện. Đế Thích nói: - Khanh yên trí không sao. Nói xong lễ tạ ra về, ít ngày mệnh chết, thần 
		hồn thác thai vào nhà quan Phụ Tướng. Đoạn này nói đến Phụ Tướng Phu nhân, sau ngày 
		cầu tự trở về không lâu bà đã có thai, mãn tháng no ngày tới tuần hoa 
		nở, sinh được cậu con trai đầy đủ tướng đức, ông bà yêu quý lắm. Từ khi 
		sinh cậu trong nhà thấy nhiều điềm ứng cát tường, sự trông nom săn sóc 
		một cách phi phàm, một hôm ông bà mời Thầy đến xem tướng cho cậu và nhờ 
		đặt tên giùm. Tướng sư đến căn do, rồi đặt cho cậu là Hằng Gia Đạt. Một 
		mai khôn lớn học hành thông sáng nhưng có một điểm cậu ham học đạo và 
		ham nghe đạo các vị Sa môn giảng, được thấm nhuần đạo đức, thấy đời 
		không có gì vững chắc như mây trôi, như bọt nổi nên cậu quyết tâm xuất 
		gia tu đạo, để cầu giải thoát, rồi lên tâu với ông bà Phụ tướng rằng: - Kính lạy song thân, được làm người là khó, 
		được gặp Phật tại thế lại khó hơn nữa, hiện nay đức Phật ra đời, mục 
		đích cứu người ra khỏi vòng trầm luân khổ hải. Vậy xin song thân cho con 
		đi xuất gia tu đạo, được phúc vô lượng vô biên. Đáp: - Con ơi! Việc tu đạo cũng tốt nhưng con 
		khổ cực chi, mà đày thân hoại thể nơi chùa chiền, muối dưa khô quạnh, 
		cha làm quan Phụ tướng quyền cao, giàu sang tội bực, quốc gia chưa ai 
		sánh kịp, cha mẹ chỉ sinh được mình con, để nối nghiệp nhà, nay con đi 
		xuất gia thì của này để cho ai, và nhất là cha mẹ già sớm hôm vò võ, lấy 
		ai là người trông cậy lúc bình sinh cho vui ý chí. Hằng Gia Đạt thấy ông bà không đồng ý với ý 
		nguyện của mình, bèn lễ tạ lui ra, từ ngày đó ngày đêm âu sầu buồn bã! 
		Rồi tự nghĩ rằng: - Ta sẽ tự sát thân này đi, để sinh vào nhà 
		thường dân mới đạt được chí nguyện xuất gia của ta. Nghĩ rồi một mình ra đi, lên ngọn núi cao tự 
		gieo mình lăn từ trên đỉnh núi xuống chân núi, tưởng làm thế cho chết, 
		nhưng trái lại thân thể vẫn còn toàn vẹn không xây sát chút nào; lần này 
		ra sông để tự vẫn, nhưng nhảy xuống không chìm, cuối cùng lấy thuốc độc 
		uống, song cũng không chết, rồi dùng đủ cách để chết, nhưng cũng không 
		chết được, sau định kế phạm quốc pháp cho vua giết. Một hôm Hằng Gia Đạt 
		thấy Hoàng hậu và mỹ nữ của nhà vua ra giếng nước giữa vườn tắm, họ cởi 
		áo giắt trên cành cây rồi xuống giếng, anh lẻn vào trộm lấy quần áo và 
		trang phục đem ra, người Môn giám bắt anh tâu vua A Xà Thế. - Nhà vua nổi giận sai người đem ra pháp tràng 
		xử tử, thoạt đầu sai người giương cung bắn, mỗi khi bắn thì cái tên quay 
		đầu trở lại nhà vua, bắn luôn ba phát đều như thế cả. Nhà vua chột dạ 
		hỏi rằng: - Nhà ngươi là bộ thiên, bộ long hay quỷ thần mà 
		có phép lạ như vậy? Đáp: - Tâu Bệ hạ tôi có một việc riêng, nếu Bệ 
		hạ giúp tôi được thì tôi xin nói. Nhà vua hỏi: - Ngươi có việc gì cứ nói, nếu ta 
		giúp được thì ta giúp. Tâu Bệ hạ! Tôi chẳng phải là thiên long quỷ thần 
		chi hết, chính tôi là con quan Phụ tướng bản triều, vì muốn xuất gia tu 
		học nhưng cha mẹ tôi không cho, nên tôi muốn chết để sinh nơi khác, cho 
		toại nguyện vọng ấy, vừa rồi tôi lên núi, gieo mình xuống vực sâu, và 
		uống thuốc độc nhưng vẫn không chết, còn một kế là tôi phạm pháp để mong 
		nhà vua xử tử thì mới đạt được nguyện vọng ấy, sự thể như vậy, kính xin 
		bệ hạ lượng thương, truyền lệnh cho cha mẹ tôi, để tôi được xuất gia đầu 
		Phật. Đáp: - Việc ấy không khó con cứ an tâm, ta sẽ 
		bảo Phụ tướng cho. Qua thời gian sau nhân buổi đi thính pháp nhà 
		vua dẫn cậu đến chốn Phật, tới nơi làm lễ xong nhà vua trình bày ý 
		nguyện của Hằng Gia Đạt cho Phật nghe, Phật mỉm cười nói: - Thiện lai Tỳ kheo. Hằng Gia Đạt nghe dứt lời tự nhiên tóc rụng hết, 
		áo trên mình biến thành áo Cà sa, thành tướng Tỳ kheo, sau nghe Phật 
		thuyết pháp, tâm ý khai ngộ chứng La Hán quả, được ba phép "Minh", sáu 
		pháp "thần thông", tám phép "giải thoát". Thấy thế vua A Xà Thế quì xuống bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Hằng Gia Đạt trồng nhân 
		lành gì, gieo đầu từ trên núi xuống mà không chết, nhảy xuống sông không 
		chìm, uống thuốc độc không hại, tên bắn không trúng, hơn nữa lại gặp Thế 
		Tôn được thoát khỏi sinh tử luân hồi đại khổ, xin nói cho chúng con được 
		rõ? Phật dạy: - Cách đây đời quá khứ đã vô số kiếp, 
		có một nước lớn tên là Ba La Nại, vua nước ấy là Phạm Ma Đạt, một hôm 
		đưa các người mỹ nữ trong ấy là Phạm Ma Đạt, một hôm đưa các người mỹ nữ 
		trong cung vào rừng uống rượu ăn thịt, thưởng thức những khúc đàn hay, 
		tiếng nhạc xéo, giọng hát cao, đương lúc các mỹ nữ cất tiếng ca khúc thì 
		bên ngoài có người cất tiếng để họa lại. Nhà vua nghe thấy nổi giận sai 
		người bắt rồi giao cho lính đem đi xử tử. Vừa lúc ông quan đại thần đi chơi về bắt gặp, 
		ông hỏi họ rằng: Người này tội gì? Đáp: - Dạ bẩm quan lớn! Anh này bị tội họa lại 
		giọng hát của các mỹ nữ. Nghe xong ông thầm nghĩ: "Chà, có thế mà cũng 
		giết người! Thực là vô lý quá". Ông nói: - Hãy khoan để ta vào tâu vua đã. Ông vào tâu rằng: - Tâu Bệ hạ, kẻ kia chưa đến tội chết, vì chưa 
		lấy gì làm nặng lắm, tuy có họa lại tiếng nhưng chưa thấy hình và cũng 
		không có sự giao thông dâm dục, cúi xin Bệ hạ tha cho hắn tội chết. Nghe nói có lý, nhà vua hạ lệnh tha cho người đó 
		tội chết. Muốn đền đáp ân cao cả ông Đại thần, từ đó anh ta đến hầu hạ 
		phụng sự một cách tôn kính đã lâu năm, giữ một lòng trung thành, trước 
		sau như một, rồi thầm nghĩ như vậy: Sự dâm dục giết người ta hơn dao kiếm sắc, trước 
		đây ta suýt chết cũng do lòng dục vọng phát động. Rồi thưa với ông rằng: - Kính thưa ông! Chúng tôi tự nghĩ sự sinh tử vô 
		thường nhanh như chớp nhoáng, như đèn ở trước gió, như giọt sương trên 
		đầu ngọn cỏ, sớm có chiều không, thân này chẳng lâu sẽ vào cửa chết. Vì 
		vậy chúng tôi xin ông để đi tầm đạo giải thoát. Đáp: - Việc ấy rất hay, nếu học đạo được thành 
		công thì đến đây cho tôi gặp mặt một lần nữa. Bắt đầu lên núi tu học, chuyên tâm suy xét đạo 
		lý, không bao lâu tinh thần tự nhiên khai ngộ, hiểu thấu nguồn chân, 
		thành ngôi Bích Chi Phật, và giữ lời hứa trước nên Ngài trở về nhà ông 
		quan Đại Thần, và hiện ra mười tám pháp thần thông: bay trên hư không 
		mình phun ra nước lửa, hoặc phóng đại quang minh chói lòa khắp trời đất, 
		ông Đại Thần coi Thầy phép thần cao siêu, trong lòng vui vẻ, kính trọng 
		và khấn rằng: - Kính lạy Ngài, tôi có phúc duyên được cứu Ngài 
		năm trước, vậy xin cho tôi đời đời được phú quý tràng thọ cao đẹp hơn 
		đời, và trí tuệ đức tướng của tôi cũng được như Ngài. Nói tới đây đức Phật lại nhắc cho vua A Xà Thế 
		biết rằng: - Nhà vua nên biết quan Đại Thần cứu sống một 
		người thuở đó, nay chính là Hằng Gia Đạt. Bởi duyên lành ấy nên sinh vào 
		nơi nào cũng không bị chết yểu, và cũng do phúc duyên ấy mà nay được gặp 
		ta chứng đạo giải thoát. Phật nói xong, tất cả mọi người trong Đại Hội ai 
		rấy đều kính tin vui mừng cúi đầu lễ tạ lui ra. 7/ Phẩm thứ bảy THÁI TỬ TU XÀ ĐỀ Chính tôi được nghe: Một lần Phật ở nước La 
		Duyệt Kỳ, tại Tinh xá vườn Trúc. Bấy giờ đức Phật và tôi (A Nan) vào thành khất 
		thực gặp hai ông bà già đã lòa đôi mắt, nhà nghèo ở trú dưới cổng thành. 
		Ông bà chỉ được một cậu con trai năm ấy mới lên mười tuổi, hàng ngày cậu 
		phải đi xin để nuôi cha mẹ, được quả gì tươi chín, hoặc thức ăn ngon thì 
		dâng cha mẹ, còn thứ gì không ngon thì mình ăn. Tôi thấy đứa bé hiếu thảo với cha mẹ như vậy, 
		động lòng thương và yêu nó lắm! Sau lúc về Tinh xá tôi bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Vừa đây con đi theo hầu 
		Ngài vào thành Xá Vệ, thấy một đứa bé con, biết báo hiếu, đi xin được 
		món gì ngon thì để dâng cha mẹ, món gì dở để mình dùng, còn nhỏ dại mà 
		đã có Từ tâm hiếu kính như vậy, thực là hiếm có. Phật bèn dạy rằng: - Người xuất gia hoặc tại gia có Từ tâm hiếu 
		dưỡng với cha mẹ thì được phúc vô lượng vô biên, ta tự nhớ rằng thời quá 
		khứ có một lần cắt thịt nuôi cha mẹ trong lúc đói khát nguy nạn! Bởi 
		công đức ấy ta sinh lên trời được làm Thiên Đế, sinh xuống nhân gian 
		được làm Thánh Vương, cho đến nay được thành Phật, đặc tôn trong ba cõi 
		cũng do phúc ấy. Thấy Phật nói thế, tôi hỏi Phật rằng: - Kính lạy 
		đức Thế Tôn! Thời quá khứ Ngài cắt thịt nuôi cha mẹ trong lúc nguy nạn, 
		việc đó thế nào xin nói chúng con được rõ? - Này A Nan: Ông hãy để ý nghe! Cách đây vô 
		lượng vô số kiếp, cũng Châu Diêm Phù Đề này có một nước lớn tên là Đặc 
		Xoa Thi Lợi. Ông vua nước ấy tên là Đề Bà, được mười con trai, mỗi người 
		cai trị một nước, người con trai út tên là Tu Đề La Chi, (Tàu dịch là 
		Thiện Trụ) trị dân được an lạc, giàu thịnh mưa gió thuận hòa, thái bình 
		thịnh trị nhân dân mến chuộng. Thời đó ở nước vua cha có quan Đại Thần tên là 
		La Hầu, tính hung ác tàn bạo, nổi dậy làm phản cướp ngôi giết vua rồi 
		đem quân đi giết Thái tử ở các nước nhỏ. Thái tử út là người có đức lớn, 
		nên các bộ quỉ thần thường hay ủng hộ, hôm ấy nhà vua ra vườn chơi chợt 
		gặp một con quỉ Dạ xoa, rẽ đất chui lên thưa rằng: - Là Hầu Đại Thần làm phản giết vua cha rồi, 
		đương đem quân đi giết các anh của nhà vua, nay mai sắp tới đây để giết 
		nhà vua đó, vậy mau mau sửa soạn lánh đi nơi khác. Nhà vua gật đầu cảm 
		ơn trở về cung, không nói cho ai biết, nửa đêm lẻn ra đi một mình, đi 
		chưa được bao xa, sực nhớ con yêu của mình là Tu Xà Đề mới bảy tuổi, 
		tính rất thông minh khôn sáng, trở về ẵm đi vừa đi vừa sụt sùi rơi lệ 
		chứa chan! Bà Phu nhân thấy có vẻ lật đật lo sợ, ngạc nhiên hỏi: - Nhà vua lo việc chi mà lật đật như vậy? Nói 
		cho tôi biết với. Đáp: - Việc chi bà không cần phải biết. Bà bèn nắm vạt áo kéo lại hỏi: - Tôi với nhà vua 
		hai thân như một, cam khổ cùng chung chịu, sống thác có nhau, điều chi 
		xin nói cho tôi biết? Nhà vua bất đắc dĩ nói rằng: - Hôm qua tôi ra 
		vườn chơi gặp con quỉ Dạ xoa bảo cho biết rằng: Hiện nay ở nước nhà La 
		Hầu đại thần đã giết mất vua cha rồi, đang đem quân đi giết các anh ta, 
		nay mai sắp tới đây giết ta, vì thế ta không kịp nói cho ai biết. Hoàng hậu nói: - Chao ôi! Một việc nguy như vậy 
		mà ông nỡ bỏ tôi, chực đi một mình, thôi để tôi đi cùng, sống chết có 
		nhau. Nói rồi bắt đầu đi, mục đích sang nước láng 
		giềng là một ông vua bạn thân, sang nước ấy có hai lối: Một lối đi bảy 
		ngày, một lối đi mười bốn ngày, vì lo sợ quá nên lúc ra đi không chuẩn 
		bị lương thực, nhà vua chỉ đem lương đủ có một người ăn trong bảy ngày, 
		nhưng không may đi phải con đường mười bốn ngày, đi được vài hôm lương 
		thực đã hết, đói khát mê man giữa rừng thực vô phương kế! Vì sợ Thái tử 
		chết nên nhà vua định giết Hoàng hậu để cứu con, nghĩ rồi giục bà đi 
		trước, rút dao định chém. Thái tử thấy vậy chắp tay thưa rằng: - Kính lạy cha, cha cầm dao để làm gì? Đáp: - Ta giết mẹ để lấy thịt cho con ăn kẻo con 
		chết mất. Thái tử thưa: - Kính lạy cha! Xin cha giết con, 
		để ăn dùng cho qua lúc tai nạn này, cha chớ giết mẹ con, không bao giờ 
		con lại ăn thịt mẹ, con tuy chết nhưng cha mẹ lại sinh được con khác, 
		nếu mẹ con chết, thì không bao giờ có mẹ con lần thứ hai nữa, cứ mỗi 
		ngày con xin cắt thịt con để dâng cha mẹ dùng cho tới nước kia. Thấy Thái tử nói thế, nhà Vua lòng đau như cắt 
		không biết tính kế gì, nếu không ăn thịt thì chết cả ba người cũng vô 
		ích, nếu ăn thịt thì thương con, và nhất là sự cứu vãn nước nhà là cần 
		thiết hơn, nghe xong nhà Vua đành nhận lời của Thái tử, cứ như thế mỗi 
		ngày cắt hai miếng thịt ăn cho khỏi mệt mỏi, để lấy sức đi đường, đã gần 
		hết mà chưa tới, sự đói thúc giục nghèo ngặt quá, nhà Vua cầm dao cắt 
		thêm được chút thịt nữa, tới lúc cha con sắp chia tay thì Thái tử thưa 
		với cha rằng: - Thưa cha, mạng con sắp chết, vừa rồi cha cắt 
		được chút thịt xin cho con một phần. Nhà Vua bèn phân số thịt đó ra làm ba, hai phần 
		để ăn, còn một phần trao cho Thái tử. Tới đây cha con từ giã nhau, nhà 
		Vua và Hoàng hậu hai người đi không lâu đã tới nước kia. Còn Thái tử nằm 
		trơ trên mặt đất giữa khoảng rừng xanh, khi đó Thái tử nguyện rằng: - Kính lạy Thập Phương đại giác Tam Hùng Sư 
		chứng minh lòng thành kính của con cắt thịt dâng cha mẹ, xin đem công 
		đức này để cầu thành Phật, tế độ mười phương chúng sinh, hết mọi sự đau 
		khổ, đưa chúng sinh đến cõi Niết bàn an lạc. Phát nguyện xong ba ngàn thế giới chấn động sáu 
		lần, cõi trời Dục Giới và Sắc Giới, ngạc nhiên không biết chuyện chi mà 
		chuyển động cả cung điện, họ nhìn xuống nhân gian thấy Thái tử Tu Xà Đề 
		cắt thịt nuôi cha mẹ, vì lòng hiếu thảo làm chuyển động trời đất, họ bay 
		xuống rất đông, vì lòng hiếu của Thái tử làm cho mọi người rơi lệ thành 
		mưa. Vua Đế Thích tự hóa thân làm đứa bé con lại xin Thái tử trao cho 
		miếng thịt đương cầm tay, Đế Thích lại hóa ra con sư tử chồm nhảy gào 
		thét ý muốn ăn thịt, Thái tử thầm nghĩ: - Những loài muông thú kia, muốn ăn thịt ta thì 
		cứ ăn, ta rất vui lòng có tiếc chi. Vua Đế Thích thấy Thái tử một dạ bền bỉ vững 
		chắc, liền hiện lại nguyên hình, rồi thưa rằng: - Thưa Thái tử tôi đây là Thiên Đế, thấy Thái tử 
		có hiếu đối với cha mẹ một cách tuyệt đãi, tất cả trời người phàm thánh 
		không ai làm nổi, xin hỏi, Thái tử đem công đức ấy hướng về ngôi Đế 
		Thích, Phạm Thiên, Ma Vương hay sao? Đáp: - Thưa Ngài tôi đem công dức này hướng về 
		cõi Phật, cầu thành Phật độ sinh, chứ không cầu làm những ông vua cõi 
		trời, cõi người như Đế Thích, Phạm Vương, Ma Vương hay Chuyển Luân Thánh 
		Vương để hưởng những dục lạc trong ba cõi. Đế Thích hỏi: - Thái tử đau đớn như thế thì tâm 
		có hối hận gì không? - Thưa không có hối gì? Thái tử nói không, chúng tôi không lấy gì để làm 
		chứng tỏ. Nếu Ngài không tin thì xin phát nguyện rằng: - 
		Nếu tâm tôi không hối thì thân tôi lại được phục như cũ. Tuyên thệ xong, thân thể tự nhiên lại được lành 
		mạnh như cũ, các vết thương biến mất, da dẻ tốt đẹp thân người rạng rỡ. Thấy sự chứng tỏ có cụ thể như vậy, vua Đế Thích 
		và tất cả mọi người cõi trời ai ai cũng vỗ tay vui mừng và khen Thái tử 
		chí thành, chí hiếu, rồi cùng nhau biến thân về thiên cung. Đoạn này nói đến nhà vua khi tới nước kia vào 
		yết kiến vua nước ấy, hai người nói chuyện với nhau hồi lâu và trình bày 
		công cuộc đi, sự hiếu của Thái tử Tu Xà Đề cho vua láng giềng nghe, nhà 
		vua láng giềng nghe xong, vừa thương vừa cảm động, đồng thời tất cả vua 
		quan sĩ chúng đi thăm Thái tử, đến nơi thấy Thái tử được lành mạnh, tới 
		trước chào mừng và thuật rõ câu chuyện để vua nghe. Thấy thế ai ai cũng 
		vui mừng không tả xiết. Nhà vua láng giềng thấy Thái tử có sự ly kỳ như 
		vậy, lại càng thêm phần kính trọng rồi tất cả trở về kinh thành. Sau thời gian ấy, vua láng giềng sửa soạn binh 
		nhung xa quân, mã quân, bộ quân. Cùng với vua Thiện Trụ và Thái tử Tu Xà 
		Đề về bản quốc tiêu diệt bọn La Hầu, và lập Đại vương cho vua Thiên Trụ, 
		từ đó trở đi trong nước lại được thái bình thịnh trị. Phật nói tới đây lại nhắc cho tôi biết rằng: 
		"Này A Nan vua Thiện Trụ thuở đó chính là tiền thân Phụ Vương của ta 
		ngày nay (vua Tịnh Phạn), bà mẫu lúc đó chính là tiền thân của ta bây 
		giờ (Ma Gia), Thái tử Tu Xà Đề chính là tiền thân của ta. Cũng do đời 
		quá khứ ta có Từ tâm hiếu hạnh, cắt thịt nuôi cha mẹ trong lúc nguy nạn, 
		bởi phúc ấy trên cõi nhân, cõi thiên ta thường được sinh vào nhà tôn quý 
		hưởng phúc vô cùng vô tận, và nhân thế cho đến ngày nay ta được thành 
		Phật, đặc tôn trên ba cõi. Bấy giờ trong đại hội được nghe thuở tiền sinh 
		của Phật, ai ai cũng cảm lòng hiếu hạnh của Ngài, thực là hiếm có. Ngay 
		lúc ấy có người đắc quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm cho đến quả A la 
		hán, có người phát Bồ đề tâm, có người trụ ngôi bất thoái, mọi người đều 
		vui vẻ cúi đầu tạ lễ mà lui. (Hết Quyển Một) 
		Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ 
		Hai 8/ Phẩm thứ tám CÔ KIM CƯƠNG Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá 
		Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà. Khi đó Phu nhân của Vua Ba Tư Nặc là Mạt Lợi, 
		sinh được cô con gái đặt tên là Ba Xà La, (Tàu dịch là Kim Cương). Tướng 
		người rất xấu! Da sần sù hình như da ngựa, tóc tựa long đuôi ngựa, hình 
		vóc không giống người, chẳng khác gì quỷ Dạ xoa, thực là trên đời chưa 
		từng có một người thứ hai như cô. Nhà vua thấy Công chúa như vậy, lấy làm buồn 
		giận! Nhưng, không biết làm thế nào phải giao cho một người nuôi riêng 
		nơi nhà kín ngoài ra không dám cho ai biết. Khi lớn tuổi nhà vua lại càng thêm khó nghĩ, 
		chẳng lẽ nuôi con mãi, không lập gia đình, nếu gả chồng, thì sánh vào 
		hạng người nào? Nhà vua và Hoàng hậu bàn nhau như vầy: Vua nói: - Bây giờ con Kim Cương đã lớn tuổi, bà 
		tính sao, có gả chồng cho nó không? Hoàng hậu nói: - Tậu Bệ hạ! Tôi nghĩ rất khó! 
		Trong triều văn võ bách quan, ai là người lấy nó, nếu họ nhìn thấy nó họ 
		cũng phải chết khiếp. Vua nói: - Tôi tính như vầy: Bây giờ sẽ tìm cho 
		nó một người dân thường, nhưng phải dòng quý phái và có học thức, bà 
		nghĩ có được không? - Vâng! Bệ hạ! Tôi cũng đang nghĩ như vậy! Ngày mai nhà vua gọi quan Lại thần vào nói rằng: - Ta có một chút việc riêng. Khanh vào các thôn 
		quê tìm cho ta một người học trò nhà nghèo, chừng hai mươi tuổi, nhưng 
		phải dòng quý phái mới được! Quan Lại thần đáp: - Dạ! Hạ thần xin tuân mạng! Cách ít bữa sau, ông tìm được một thanh niên 
		khôi ngô tuấn tú, ra vẻ bút nghiên kinh sử, và cũng đúng như lời vua 
		dặn. Cậu con nhà quý phái, nhưng chỉ một nỗi nghèo. Chàng được thấy vua 
		triệu vào cung trong dạ mừng thầm và cũng lo thầm! Chưa biết cát hung 
		thế nào? Rồi cùng ông quan này lên đường về kinh. Tới kinh, Lại thần nói: - Anh hãy đứng đây để tôi vào tâu vua trước. - Dạ! Xin đứng đây chờ Ngài. Lại thần vào trước sân rồng quỳ xuống tâu rằng: - Muôn tâu Bệ hạ! Theo thánh chỉ hạ thần đã đi 
		tìm được một thanh niên hiện đương ở ngoài cổng thành! Nhà vua nói: - Trẫm cho phép, khanh đưa nó vào 
		đây! Lại thần bái tạ, trở ra đưa chàng vào cung. Vua hỏi chàng: - Anh năm nay bao nhiêu tuổi? Đáp: - Kính tâu Hoàng thượng! Con năm nay hai 
		mươi tuổi! - Học hành thế nào? - Dạ! Con đương theo học khoa tú tài! - Cha mẹ còn sống hay chết? - Dạ! Cha chết đã lâu, còn mẹ già hàng ngày làm 
		mướn cho con đi học! Vua nói: - Hôm nay kêu ngươi vào đây, vì trẫm có 
		người con gái hình thù xấu xa, trong triều không thể sánh duyên cùng ai 
		được, nghe biết ngươi tuy nghèo, nhưng dòng hào tộc, vậy ta gả con ta 
		cho ngươi có ưng thuận không? - Dạ! Muôn tâu Thánh thượng, nhà con có đầy phúc 
		đức nên nay mới được Hoàng thượng ngó tới, thực là "hữu duyên thiên lý 
		năng tương ngộ" con xin tuân theo lời ngọc chỉ, không dám trái mạng. Tâu 
		Thánh thượng! Con gái của Thánh thượng tuy xấu, nhưng dầu sao cũng là 
		con của Thánh thượng, là khí huyết của Thánh thượng sinh ra, thực là 
		phước đức cho con vô cùng vô tận, hôm nay nếu Thánh thượng có gả con chó 
		cho con, thì con cũng không dám từ chối, nữa là được diễm phúc sánh hàng 
		Phò mã. Nhà vua nghe anh nói mỉm cười, rồi định ngày làm 
		lễ đính hôn cho con gái. Ngày lễ này nhà vua cũng giấu, không cho bá quan 
		và nhân dân biết, chỉ trong hoàng cung làm lễ sơ sơ. Sau cuộc này nhà 
		vua cho hai vợ chồng chàng rể ở riêng một tư thất nơi hậu viên bảy lần 
		cửa khóa cây cối âm u, có vẻ kín đáo. Vua dặn riêng chàng: Luôn luôn để 
		vợ trong cung cấm, nếu có đi đâu phải khóa cửa, và một điều ngặt nhất 
		chớ cho ai ngó thấy, vì lỡ để thiên hạ chê cười! Từ đó anh học trò nghèo vinh hạnh được nhà vua 
		thâu nạp làm Phò mã, vinh hoa nhất mực lộc nước phấn vua, thoát khỏi nỗi 
		cơ hàn bần khổ nơi hương thôn hủ tục, được dự với những hàng quan liêu 
		trong triều chính, chẳng khác gì đại long thoát khỏi chốn ao tù ra nơi 
		biển cả, phượng hoàng sổ cánh bay bổng chốn mây xanh. Gặp thời buổi thanh bình bốn phương an lạc, nơi 
		kinh thành những thú vui dồn dập. Khi ấy các quan triều và các nhà quý 
		phái, kết hội với nhau, hàng tháng có những ngày họp mặt, để thưởng thức 
		những thú vui! Ông Phò mã này cũng vào một chân. Khi tới hội ai cũng đem 
		theo vợ, nhưng riêng ông Phò mã chỉ đi có một mình, nên một số người tò 
		mò thắc mắc, tự nói với nhau rằng: - Ông Phò mã này kỳ nào cũng đi một mình, không 
		thấy cho vợ đi! Một là vợ đẹp, hai là vợ ông xấu, hôm nay chúng ta tìm 
		cách để xem vợ hắn vì lý do gì mà không tới hội. Mọi người đều thuận lời bàn ấy, hôm đó họ mời 
		ông Phò mã uống rượu rất say, xong cuộc ăn uống, Phò mã bị say ngủ bất 
		tỉnh, họ cởi trộm lấy chìa khóa rồi sai năm người tới nhà xem cô vợ của 
		ông ra sao? Giữa lúc Phò mã đi dự hội, cô Kim Cương một mình 
		ngồi trong nhà, thơ thẩn buồn bực tự than rằng: - Không biết kiếp trước ta tạo tội gì, kiếp này 
		bị thân hình xấu ác, suốt tháng quanh năm vua cha giam giữ trong nhà 
		kín, không nhìn ngó thấy bóng mặt trời mặt trăng cho đến một ai, là thân 
		người không khác gì loài chim lồng cá chậu, thực là khổ quá không biết 
		bày tỏ cùng ai! Cô lại nghĩ như vầy: - Hiện nay đức Phật ra đời cứu giúp quần sinh 
		muôn loại, rất nhiều người được hàm ân thoát khổ, ta cũng không được tới 
		nơi Ngài mà chiêm ngưỡng, để cầu Ngài cứu khổ ban vui! Nói rồi cô lấy hương đốt, hướng về núi Linh Thứu 
		nơi đức Phật ngự, một mình chí thành đảnh lễ khấn rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Mở lượng Từ bi thương 
		xót đến con, tới đây để con được cúng dàng, và giáo hóa cho con. Vì lòng thành kính thiết tha cầu nguyện của cô, 
		nên đức Phật dùng thần túc hiện bay đến chỗ cô ở, đầu tiên Ngài cho cô 
		nhìn thấy tóc của Ngài xanh, nhỏ mềm, có ánh quang minh. Cô quỳ xuống lễ lạy vui mừng! Nên bộ tóc đuôi 
		ngựa của cô tự nhiên biến thành tóc xanh nhỏ mướt. Lần thứ hai Ngài cho 
		cô nhìn thấy dung nhan như vầng mặt trăng đêm rằm, tươi đẹp siêu phàm. 
		Thấy thế, cô vui mừng! Một lòng tha thiết lễ kính. Vì thế bộ diện sù xì 
		của cô đã biến thành cô gái tiên nga, mắt sáng tựa sao, mồm tươi hoa nở. Lần thứ ba Ngài hiện toàn thân cho cô chiêm 
		ngưỡng, thân tướng của Ngài như quả núi vàng, làm sáng rực cả căn nhà 
		của cô. Cô sung sướng quá! Lễ kính dưới chân, ăn năn hối lỗi! Vì thế nên 
		những tướng xấu da thô, được tiêu tan, thân cô tự nhiên đoan chính, tươi 
		đẹp siêu nhân. Tới đây đức Thế Tôn thuyết pháp cho cô nghe. 
		Những điều kiêu mạn sân si nên bỏ, lòng Từ bi khiêm nhượng nên tu. Cô nghe lời giáo hóa, như người được uống nước 
		cam lồ, vội vàng thụp lạy xin thọ giáo. Cũng do lòng thành phát khởi, 
		nên những nghiệp ác của cô đã tạo từ đời quá khứ được tiêu tan, ngay giờ 
		phút ấy tự nhiên trí óc sáng tỏ, chứng được quả Tu đà hoàn. Đức Phật nhận thấy cô đã thoát nghiệp, và chứng 
		quả nên Ngài ẩn hình biến về Linh Sơn. Đoạn này nói đến năm người, vừa lúc đức Phật ra 
		về thì họ mở cửa bước vào. Nhìn thấy cô họ thưa rằng: - Thưa cô! Xin lỗi cô, có phải cô là vợ Phò Mã 
		không? - Thưa phải, các ông tới đây có việc gì? - Thưa, chúng tôi tới đây có chút việc tư, muốn 
		gặp Phò Mã! - Hôm nay Phò Mã đi chơi! Năm người xin cáo lui, ra đường, họ nói cùng 
		nhau rằng: - Quả nhiên vợ anh đẹp nên anh không mang đi đấy 
		thôi. Trở về họ trả lại chìa khóa cho Phò Mã. Sau đó 
		Phò Mã tỉnh rượu về nhà nhìn không thấy vợ, chỉ thấy cô gái đẹp! Ông hỏi: - Xin lỗi cô tới đây có việc gì? - Thưa ông tôi là bạn của Kim Cương đây! - Thưa! Kim Cương đi đâu cô biết không à? Cô phì cười thưa rằng: - Đố anh tìm thấy Kim Cương đấy? Phò Mã còn đương hoang mang, cô nói tiếp: - Em chính là Kim Cương, không phải ai đâu? Anh 
		đừng có lạ! Hôm nay em buồn vì sự xấu xa của em nên em đốt hương cầu 
		nguyện đức Phật Thích Ca Mâu Ni Từ tâm cứu tế, Ngài tới đây em được lễ 
		kính nên những tội ác nhiều đời của em được tiêu tan, biến thân gái xấu, 
		đổi thành đẹp, nên anh không nhận được, có phải ai đâu, cửa anh khóa còn 
		ai vào được. Bây giờ anh đến tâu Phụ Vương và Mẫu Hậu để em lên yết 
		kiến. Phò Mã vui quá! Biết đích là vợ mình, vội lên 
		vương cung tâu vua rằng: - Tâu Phụ Vương, Kim Cương muốn lên để yết kiến 
		Phụ Vương! Đáp: - Thôi! Ta bận việc anh cẩn thận, chớ cho 
		nó đi đâu để khi nào ta đến thăm! Phò Mã tâu: - Tâu Phụ Vương! Kim Cương hôm nay 
		được nhờ công đức Phật biến thân gái xấu đổi thành đoan chính tươi đẹp, 
		giờ đây Phụ Vương có nhìn cũng không nhận được! Vua nói: - Thế à! Quả như vậy thì anh về mau đem 
		nó lại ta xem. Phò Mã tất tưởi về đưa vợ lên yết kiến vua và 
		Hoàng hậu, nhìn thấy Kim Cương tươi đẹp khác xưa trong tâm vui vẻ nói: - Nam mô Phật! Đức Phật xuất thế làm lợi ích cho 
		muôn loài chúnh sinh, con ta hôm nay được Ngài giải thoát tội lỗi, lại 
		được đổi xấu thành đẹp, thực là phúc đức vô lượng! Biết lấy gì đền đáp 
		được Ngài. Sớm ngày mai nhà vua sửa soan lễ vật, rồi cùng 
		đi yết kiến Phật, tới nơi mọi người đều lễ Phật rồi lui về một bên, vua 
		Ba Tư Nặc bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Chẳng hay đứa con gái 
		của con đời quá khứ làm phước gì, nay được sinh vào nhà tôn quý, và 
		không rõ tạo tội gì, phải chịu thân gái xấu, da tóc thô kịch hình như 
		Súc sanh, kính xin Ngài chỉ bảo cho chúng con được biết nguyên do? Phật nói: - Ông muốn biết tội căn và phước báo 
		của Kim Cương tôi sẽ nói ông hay. Người ta ở trên đời đẹp tốt hay xấu xa 
		cũng do nghiệp hành đời trước, tội hay phước cũng do báo ứng của trần 
		thế. Thuở đời quá khứ đã lâu lắm, bấy giờ có một nước 
		lớn tên là Ba La Nại, nước ấy có ông Trưởng giả giàu có vô chừng, ông 
		biết tôn kính ngôi Tam bảo cúng dàng chư Tăng. Ông phát nguyện xin suốt 
		đời cúng dàng một vị Bích Chi Phật, vị ấy thân thể thô kịch hình dáng 
		nhem nhuốc xấu xa, ông có cô con gái còn nhỏ tuổi, khi thấy vị Bích Chi 
		Phật lại nhà, thì sinh lòng khinh mạn rồi nói: Ông này thân thể thô kịch 
		xấu xa, da dẻ sần sù, ghê tởm lắm như vậy. Song Ngài vẫn làm thinh, và 
		thường thường đến nhận các món cúng dàng của ông Trưởng giả. Vị Bích Chi Phật khi sắp tịch diệt vào Niết bàn, 
		muốn để những người tin theo ngôi Tam bảo phát khởi lòng tu cho bền 
		chắc, cho tinh tiến; nên Ngài bay lên hư không để hiện các phép thần 
		thông; trên mình Ngài phun ra lửa, dưới phun ra nước, đầy cả hư không 
		rồi hiện bên Đông, lặn bên Tây, hiện bên Nam, lặn bên Bắc; hoặc nằm, 
		hoặc ngồi, hoặc đi, hoặc đứng, trên hư không. Khiến cho cả nhà ông Tưởng 
		giả coi thấy phép thần biến, rồi từ trên hư không bước xuống đi vào nhà 
		ông Trưởng giả. Ông rất vui mừng và thận trọng kính mến. Người con gái 
		nhỏ lúc đó tự biết mình có tội nói xấu Ngài, kiếp sau quyết bị quả báo, 
		sợ hãi ăn năn, tới trước chắp tay quỳ thẳng thưa với Ngài rằng: "Muôn 
		xin Tôn giả tha thứ, trước đây con không biết Ngài là bậc Thánh, đem 
		lòng khinh mạn, ác tâm nói xấu, tội con quá nặng, kính xin Tôn giả xá 
		tội và chớ để tâm". Vị Bích Chi Phật cũng thể lòng Từ bi cho cô sám hối. Đại Vương nên biết, người con gái ấy nay là Kim 
		Cương, con của ông, lúc đó ác tâm chê dèm bậc Thánh nhân, cho nên từ 
		kiếp ấy đến nay, sinh vào thế giới nào cũng phải chịu thân hình xấu ác, 
		vì biết hối lỗi, nên nay mới được đoan chính tốt tươi, anh tài vượt 
		chúng, cũng do sự cúng dàng vị Bích Chi Phật nên đời đời thường được 
		sinh vào nhà tôn quý hưởng sự giàu sang sung sướng, và cũng do nhân 
		duyên này mà được giải thoát, như thế đó. Đại Vương! Tất cả chúng sinh 
		phải nên gìn giữ thân, miệng, ý cho cẩn thận chớ nên càn dỡ khinh người 
		chê bai mắng chửi, sau chịu quả báo đau khổ khó mà thoát khỏi. Bấy giờ vua Ba Tư Nặc và quần thần cùng tất cả 
		đại chúng, nghe Phật nói căn do quả báo của Kim Cương như vậy, ai nấy 
		đều sợ hãi, và phát tâm tin kính, tụ cảm thấy trước Phật, nhân sự tín 
		tâm, nên có người chứng sơ quả cho đến tứ quả, cũng có người phát tâm 
		bình đẳng Vô thượng và cũng có người trụ ngôi bất thoái, ai nấy đều khát 
		ngưỡng lời giáo hóa của Phật, vui vẻ tuân theo cúi đầu tạ lễ lui ra. 9/ Phẩm thứ chín TỲ KHƯU KIM TÀI Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá 
		Vệ, vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà, cùng các vị tôn đệ tử 
		một ngàn hai trăm năm mươi người ở đó. Trong thành này có ông Đại Trưởng giả, bà Phu 
		nhân của ông khi đó sinh được một cậu con trai hình dáng tốt đẹp, trên 
		đời hiếm có, đặt tên là Kim Tài. Nhưng lạ thay, từ lúc cậu lọt lòng ra, 
		đã thấy hai tay nắm chặt, tròn như quả thủ, bà mẹ mở tay cậu xem thấy 
		mỗi tay nắm một đồng tiền vàng, bà liền nhặt lấy cất đi, khi lấy xong 
		lại thấy cậu nắm như cũ, bà mở xem lại thấy hai đồng tiền vàng lại nhặt 
		cất đi, cứ thế lấy hai đồng này lại có hai đồng khác ở tay cậu, bà mẹ 
		lượm mãi, đến nỗi đầy một kho tiền vàng mà tay cậu vẫn có không hết. Nhà 
		ông Trưởng giả đã giàu, sinh cậu ra lại giàu thêm, thực là một việc kỳ 
		lạ nhất thời đó. Sau khi lớn tuổi, cậu rất thông minh nghe thấy 
		Phật xuất thế độ sinh, nhiều người theo Ngài tu đạo đều được đắc quả 
		giải thoát, cậu vui mừng và để ý xuất gia theo Phật, nên không lập gia 
		đình. Một hôm cậu lên thưa với cha mẹ rằng: - Kính thưa song thân! Ở đời tuy giàu có sung 
		sướng, gia đình hạnh phúc vui tươi, nhưng chỉ có tạm thời, không bao lâu 
		đã thấy cảnh già chết đưa lại, nước mắt khóc lẫn nhau, kẻ tham tình ân 
		ái ở thế gian khác chi đứa trẻ con tham mật trên lưỡi dao, đầu tiên liếm 
		thấy ngon ngọt, nhưng đứt lưỡi lúc nào không biết, chỉ có xuất gia tu 
		đạo tìm đường giải thoát là an vui hơn. Vậy cúi xin cho con theo Phật 
		xuất gia tu hành. Đáp: - Ừ, con nói có lý, việc đó cha mẹ không 
		cấm đoán, cho con được tùy ý muốn, cha mẹ vui lòng. Sau khi được sự đồng ý của ông bà. Kim Tài tìm 
		đến chốn Phật, thấy Phật đoan nghiêm tướng hảo, sinh lòng tin kính vui 
		mừng, sụp lễ trước Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn không biết phúc duyên gì, 
		sinh thời gặp Phật, con tới đây cầu xin Ngài Từ bi tế độ, cho con nương 
		dưới bóng Ngài, được tu hành, tìm đường giải thoát! Đức Phật nhìn thấy Kim Tài có đủ duyên lành, quả 
		Bồ đề sắp được phát sinh, nên Ngài nhận cho nhập đạo rồi nói: - Kim Tài! Ngươi có túc duyên nên nay được gặp 
		ta, muốn theo giáo pháp của ta, cần phải chăm chỉ thuyền tụng mới chóng 
		được khai ngộ. Kim Tài thưa: - Dạ! Kính lạy đức Thế Tôn, con 
		xin thọ giáo. Đức Phật sai ông Thượng túc đệ tử cạo đầu may 
		áo, và làm lễ truyền giới Sa di, từ đó Kim Tài được theo hầu Phật tu 
		hành. Trải qua thời gian lâu năm, Kim Tài đã hai mươi 
		tuổi. Đức Phật và các vị Đại đức đăng đàn truyền giới Cụ Túc. Trước khi 
		truyền giới, Kim Tài phải đi đảnh lễ các vị Hòa thượng, A Xà Lê, mỗi khi 
		lễ xuống đất hai tay rơi ra hai đồng tiền vàng, cứ thế, lễ vị nào cũng 
		nẩy ra hai đồng tiền vàng, tùy theo lễ nhiều thì rơi nhiều, lễ ít thì 
		rơi ít. Sau khi được nhận lãnh giới Cụ Túc, Kim Tài chăm chỉ tu hành 
		không bao lâu đã chứng quả A la hán. Thấy việc lạ! Nên tôi (A Nan) quỳ xuống bạch 
		Phật rằng: - Lạy đức Thế Tôn! Không hay Tỳ kheo Kim Tài 
		trước đây tạo phúc gì lúc mới sinh ra đã có tiền vàng nắm trong tay, 
		kính xin Ngài chỉ giáo cho chúng con được rõ. Phật nói: - A Nan! Ông muốn biết nguyên do hãy 
		bình tĩnh để ta kể chuyện cho ông và đại chúng hay! - Dạ chúng con xin lắng nghe. Phật nói: - A Nan, ông nên biết, đời quá khứ 
		cách đây chín mươi mốt kiếp, có đức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi, Phật 
		lấy pháp giáo hóa thế gian, độ thoát chúng sinh nhiều không tính xuể. 
		Lúc ấy Phật và Tăng chúng du hành trong nước, các nhà hào phú Trưởng giả 
		nhân dân sửa soạn cỗ bàn các món ăn, dùng thuốc thang, chăn áo, đệm gối, 
		mùng màn, đem dâng cúng cầu phước, thuở ấy có một người nhà nghèo hàng 
		ngày phải ra những nơi đồng hoang kiếm củi để độ nhật, vừa lúc anh bán 
		củi được hai đồng tiền, thấy nhà vua thỉnh Phật và Tăng vào cung cúng 
		dàng. Anh tự hận mình thuở tiền sinh không biết cúng dàng cầu phước, nay 
		bị nghèo khổ; nhà vua phước đức lớn lao mà còn ham phước như vậy, huống 
		ta làm kẻ bần tiện lại không biết cúng dàng hay sao? Nghĩ xong dốc lòng 
		lễ kính dưới chân Phật dâng hai đồng tiền lên cúng đức Phật, thương anh 
		Ngài nhận rồi làm phép chú nguyện cho. A Nan ông nên biết người nghèo thuở đó do phát 
		tâm cúng hai đồng tiền cho nên từ đó tới nay đã trải qua chín mươi mốt 
		kiếp sinh vào thế giới nào cũng được hưởng giàu sang và có hai đồng tiền 
		vàng nắm trong tay; người nghèo nay chính là Tỳ kheo Kim Tài, ví nay 
		chưa được đạo quả, thì đời vị lai còn được rất nhiều phước báu. A Nan! Tất cả chúng sinh nên lấy sự cúng dàng bố 
		thí làm sự nghiệp, kẻo kiếp sống dễ qua, khó lại, mà không có chút duyên 
		lành gì làm tư lương cho hậu thế. Khi bấy giờ tôi (A Nan) và tất cả mọi người 
		trong đại hội nghe Phật nói xong, ai cũng tin kính và phát tâm cúng dàng 
		bố thí, rồi đó, có người được quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, cho 
		đến quả A la hán, cũng có người phát ý Vô thượng cầu đạo chánh chân, lại 
		cũng có người trụ ngôi bất thoái, mọi người đều tôn kính tuân theo phụng 
		hành, cúi đầu lễ tạ lui ra. 10/ Phẩm thứ mười HOA THIÊN Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá 
		Vệ, tại rừng cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà, cùng với những vị 
		Tỳ kheo lớn, cả thảy một ngàn hai trăm năm mươi vị tại đó. Nước Xá Vệ khi ấy có một người Hào Trưởng, bà vợ 
		của ông năm đó sinh được cậu con trai, đầu tròn, mặt vuông, khôi ngô 
		tuấn tú tươi đẹp. Giữa lúc sinh cậu, trên trời tự nhiện hoa rơi xuống 
		đầy sân, nhân điềm tướng này ông bà đặt tên cho cậu: Phất Ba Đề Bà. Tàu 
		dịch "Hoa Thiên". Dân làng ai cũng khen ông bà nhiều phúc đức, 
		sinh được người con quý. Hào Trưởng vui mừng! Nuôi cậu một cách sung 
		sướng, hy vọng sau này làm nên danh giá cho gia đình chủng tộc, nên ông 
		bà không lúc nào rời lòng yêu dấu cậu, luôn luôn làm những phúc lành để 
		hướng cho cậu. Song tính nết cậu cũng ngoan ngoãn hiếu kính cha mẹ, lại 
		có trí óc minh mẫn và hiền hậu. Đối với mọi người trong nhà như hàng 
		xóm, không làm mất lòng ai bao giờ, lại hay có tâm giúp đỡ người, nên 
		được nhiều người kính mến, xa gần đều cảm phục. Sau khi lớn tuổi học hành tiến đạt, một hôm theo 
		người thân tín đi cúng dàng Phật. Tới chốn Phật, nhìn thấy Ngài có oai 
		đức phi thường đầy đủ tướng Từ bi, quang minh chói sáng, tự phát lòng 
		kính ngưỡng, vui mừng hớn hở rồi thầm nghĩ rằng: - Người ta sinh trên đời, được gặp Phật là một 
		sự khó, những người được hạnh ngộ, là túc duyên lắm. Nghĩ xong cậu tới trước Phật, thụp lạy thưa 
		rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con không biết có 
		phước lành gì hôm nay được tới đây chiêm ngưỡng Ngài, cúi xin Ngài Từ bi 
		giáo hóa cho chúng con được biết lối tu hành thoát khổ, đời đời được an 
		vui sung sướng. Phật nói: - Hay lắm! Ngươi có duyên lành, muốn 
		được an vui lâu kiếp, hãy ghi nhớ những lời ta nói: - Con người phú quý hoặc bần tiện, cũng do tự 
		mình tạo tác, gây nhân ngũ giới được sinh làm người, tạo mười điều lành 
		được sinh thiên, tham xẻn đọa làm quỷ đói, sát hại sinh mạng sân si phải 
		đọa Địa ngục, tà kiến vô nhân đạo làm loài Súc sanh v.v… Cậu nghe xong như người đói được ăn, khát được 
		uống, bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn, ngày mai chúng con thành 
		kính sửa trai nghi, cúi xin Ngài và các vị Thánh Tăng dời gót ngọc tới 
		nhà con dùng ngọ và thuyết pháp để cho cha mẹ con, họ hàng con, được ân 
		triêm công đức. Phật nói: - Con có lòng thành kính Ta và Tăng 
		chúng sẽ chứng lòng cho. Cậu ta lễ tạ lui ra, về nhà trình bày cùng cha 
		mẹ công việc mời Phật ngày mai, thì hai ông bà rất vui vẻ! Đêm ấy cả nhà 
		đều tấp nập bày tòa trải chiếu tới sáng mới xong, trong nhà chưa sửa 
		soạn được các món ăn, ông bà liền hỏi cậu: - Bây giờ phải làm những món gì con? Cậu đáp: - Thưa mẹ! Việc ấy để con lo liệu, mẹ 
		không phải lo! Khi đức Phật tới, do phúc đức của Hoa Thiên hóa 
		hiện ra những tòa ngồi, bằng Thất bảo, nơi nằm, nơi nghỉ, trang nghiêm 
		vô cùng tốt đẹp. Phật và Tăng chúng thăng tòa ngồi yên tĩnh, thì các món 
		ăn ngon lành tự nhiên đầy đủ hiện ra. Sau khi dùng cơm xong, đức Phật thuyết Pháp nói 
		về "Tứ Diệu Đế". Hoa Thiên và cả nhà được chứng quả Tu đà hoàn. Sau khi đức Phật về Tinh xá. Hoa Thiên xin cha 
		mẹ theo Phật xuất gia cầu đạo giải thoát, vì ông bà đã hiểu đạo, nên 
		thuận lòng cho cậu đi theo Phật tu hành, cậu từ tạ cha mẹ đến Tinh xá 
		cúi đầu lễ Phật xong thưa rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Xin Ngài Từ bi hoan hỷ 
		cho con được xuất gia nhập đạo tu hành, vì đã được sự đồng ý của cha mẹ 
		con. Phật nói: - Thiện Lai Tỳ kheo. Ngài nói dứt lời, tóc trên đầu Hoa Thiên tự 
		nhiên rụng hết, áo mặc tại mình biến thành áo Cà sa, thành một hình 
		tướng Sa môn, tu hành gắng gỏi chẳng bao lâu đã chứng quả A la hán. Thấy việc của Hoa Thiên, tôi (A Nan) lấy làm lạ, 
		nên tôi tới trước Phật làm lễ bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Tỳ kheo Hoa Thiên thuở 
		quá khứ làm phước gì, lúc sơ sinh có hoa trên trời bay xuống, khi cúng 
		dàng Phật tự nhiên lại có giường tòa và các món ăn, cúi xin Ngài chỉ 
		giáo để chúng con được rõ. Phật nói: - A Nan ông muốn biết chuyện của Hoa 
		Thiên hãy lắng nghe ta nói cho ông hay. Dạ! Chúng con xin chú ý nghe! Đời quá khứ cách đây đã quá xa xưa, thuở đó có 
		đức Phật hiệu là Tỳ Bà Thi. Phật ứng thế độ sinh, thường thường cùng 
		Tăng chúng vào các làng ấp để giáo hóa, những nhà tôn quý và nhân dân 
		đem các món ăn và dụng cụ ra cúng dàng. Lúc ấy có một người nhà nghèo 
		thấy họ sùng kính cúng dàng cầu phước trong lòng tuy hoan hỷ, nhưng hận 
		mình nghèo, không có gì dâng cúng để làm duyên cho tương lai, anh liền 
		hái hoa cỏ bên lề đường, một lòng thành kính lễ lạy tung lên trên chư 
		Tăng rồi đi. A Nan chính người nghèo cúng hoa thuở đó, nay là 
		Tỳ kheo Hoa Thiên, đấy cũng do đời quá khứ có lòng tin kính cúng hoa chí 
		tâm cầu nguyện từ đó tới nay đã trải qua chín mươi mốt kiếp. Hoa Thiên 
		được phước báu sinh vào thế giới nào thân thể cũng tốt đẹp, ý muốn dùng 
		gì cũng được đầy đủ; thức ăn uống giường tòa các dụng cụ nghĩ đến thì tự 
		nhiên có, và lúc sơ sinh có hoa trên trời bay xuống, do phước duyên đó 
		mà nay được đắc đạo. A Nan! Tất cả chúng sinh chớ coi sự cúng dàng 
		nhỏ mọn mà khinh thường, xem Hoa Thiên thì tự biết. Bấy giờ tôi và tất cả đại chúng nghe Phật nói 
		xong ai nấy đều vui mừng tạ lễ mà lui. 11/ Phẩm thứ mười một TỶ KHƯU BẢO THIÊN Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá 
		Vệ tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà. Ở thành này có ông 
		Trưởng giả, bà vợ sinh được cậu con trai mặt mũi đầy đặn xinh đẹp, giữa 
		lúc sinh, trên trời tự nhiên châu bảo rơi xuống như mưa: Vàng, bạc, ngọc 
		lưu ly, ngọc xa cừ, ngọc mã não, ngọc san hô, ngọc phách; nơi vườn, 
		ngoài sân, đầy dẫy. Dân làng hàng xóm xúm đến xem và lượm châu bảo 
		giùm. Họ lại ca tụng ông bà có nhiều phúc đức, và người con quý, nên 
		trời ban thưởng những châu bảo này ư. Trưởng giả vui mừng vừa được quý tử, lại được 
		châu bảo, tự nghĩ: "- Việc này từ cổ đến kim chưa từng thấy." Hồ nghi 
		không biết tốt hay xấu, nên sai người đi tìm Thầy tướng đến xem hung cát 
		thế nào. Thầy tướng tới nhà, ông nói: - Thưa Ngài nhà tôi mới sinh được một mụn con 
		trai, lại thấy có châu bảo rơi xuống nhiều, không biết hay dở thế nào, 
		xin Ngài xem giùm và coi tướng cháu có thể nuôi được nên người không? Thầy tướng nói: - Dạ! Ngài ẵm cháu ra đây! Bà Trưởng giả nghe Thầy nói vội bế con ra. Thầy 
		ngắm nghía hồi lâu rồi nói: - Thưa Trưởng giả cháu có nhiều tướng quý: Đầu 
		tròn, mũi thẳng, tai dầy và trán vuông, mặt dầy, bàn chân bàn tay đầy, 
		sau này có thể làm ích cho gia đình, xã hội. Nếu xuất gia sẽ được chứng 
		quả giải thoát, ông bà cứ yên trí nuôi cháu cho cẩn thận, không còn nghi 
		ngờ gì nữa. Nghe Tướng sư nói ông rất lấy làm hoan hỷ và 
		nói: - Xin phiền Thầy đặt tên cho cháu. Tướng sư nói: - Theo điềm có châu bảo rơi xuống, 
		đặt tên cho cháu là Lặc Na Đề Bà (Tàu dịch là Bảo Thiên). Nói rồi Tướng sư đứng lên cáo lui ra về, ông 
		Trưởng giả thận trọng cám ơn và tạ lễ. Quả như lời Tướng sư nói, Bảo Thiên khi lớn tuổi 
		học hành thông minh tài năng lỗi lạc, nhưng rất ham đạo đức và có trí 
		suy tầm đạo giáo. Một hôm cậu sang chơi nhà thân quen tỉnh khác, họ đưa 
		cậu đến yết kiến Phật, tới nơi mọi người đều nhiễu Phật ba vòng, cậu 
		cũng theo như họ lễ và nhiễu, rồi lui ngồi một bên, nhìn thấy Phật oai 
		đức phi thường khắp trời đất không ai sánh kịp, sinh lòng mến mộ, phát ý 
		xả tục nhập đạo nối chí như Phật. Tới đây đức Phật thăng tòa thuyết pháp cho đại 
		chúng nghe nói về mười hai nhân duyên, chúng sinh bị luân chuyển trong 
		sáu đạo, xong cuộc thuyết pháp mọi người tạ lễ lui ra. Bảo Thiên được nghe lời vàng ngọc của Phật giáo 
		hoá, lấy làm sung sướng định tâm lần này quyết xuất gia tu đạo. Khi về tớí nhà cậu quỳ xuống thưa cha mẹ rằng: - Kính lạy song thân! Được làm người là khó, 
		được gặp Phật tại thế lại khó hơn, hôm qua con được yết kiến Thế Tôn, 
		lại được nghe chánh pháp con nhận thấy ngoài đạo Phật ra không còn đạo 
		nào có thể giải thoát cho con người, vậy kính xin song thân cho con xuất 
		gia học đạo. Ông bà thấy cậu hướng việc tu hành, vui vẻ nói: - Cha mẹ sinh người chứ không sinh được tánh, ý 
		con muốn xuất gia thì cha mẹ cũng vui lòng. Được sự đồng ý của cha mẹ rồi lễ tạ ra đi, tới 
		nơi cúi đầu lễ Phật thưa rẳng: - Kính lạy đức Thế Tôn, chúng con từ vô thủy 
		kiếp, bị nổi chìm trong biển sinh tử, không người cứu vớt, Ngài như một 
		chiếc thuyền từ cứu người giải thoát, hôm nay chúng con tới đây một lòng 
		thành kính cầu xuất gia học đạo, để lên nơi giác ngạn, cúi xin Ngài Từ 
		bi tiếp hóa. Phật nói: - Thiện Lai Tỳ kheo. Nói dứt lời tóc trên đầu Hoa Thiên rụng hết, áo 
		trên mình biến thành áo Cà sa, từ đó theo Phật tu hành, vốn có trí óc 
		thông minh sẵn, nên không bao lâu đã chứng được quả A la hán, cắt đứt 
		đường sinh tử, không phải thụ sinh trong ba cõi. Nhân buổi thư nhàn vấn đạo, tôi (A Nan) muốn 
		biết rõ câu chuyện này nên bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Không hay Tỳ kheo Bảo 
		Thiên đời trước làm phước gì lúc sơ sinh lại có châu bảo trên trời bay 
		xuống. Và những món ăn dùng tự nhiên biến hiện tùy theo ý muốn, xin Ngài 
		nói cho chúng con được rõ. Phật dạy rằng: - A Nan! Đời quá khứ cách đây đã 
		lâu lắm có đức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi tế độ cho quần sinh được 
		giải thoát rất nhiều không tính xuể. Một hôm các vị Tăng đi vào các thôn 
		xóm khất thực, người dân chen nhau mang các món ăn ra cúng dàng. Lúc ấy 
		có một người nghèo, phát sinh lòng hoan hỷ! Muốn cầu phước cúng dàng, 
		nhưng không có tiền của, cùng bất đắc dĩ, lấy một nắm đá tròn như hạt 
		châu với một lòng thành kính thiết tha, tung nắm đá ấy lên các vi Tăng 
		và khấn nguyện rằng: - Nguyện cho con đời đời phú quý trường thọ và được 
		đạo giải thoát như các Ngài. A Nan ông nên biết! Người nghèo cúng đá thuở đó, 
		chính nay là Tỳ kheo Bảo Thiên, cũng do đời quá khứ có lòng kính tin 
		ngôi Tam bảo, đem đá cúng chư Tăng cho nên từ đó tới nay trải qua chín 
		mươi mốt kiếp, được hưởng vô lượng phước báu, sinh về xứ nào, cũng an 
		hưởng tự nhiên, cũng bởi duyên ấy nay được gặp Ta và đắc đạo quả. Bấy giờ tất cả mọi người trong đại hội, nghe 
		Phật nói xong ai nấy đều phát tâm cung kính sự cúng dàng, rồi có người 
		đắc sơ quả, cho đến tứ quả, cũng có người được ngôi bất thoái, vui mừng 
		tạ lễ mà lui. 12/ Phẩm thứ mười hai SÀN ĐỀ BÀ LA Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước La 
		Duyệt Kỳ, tại rừng Trúc khi Ngài mới thành Phật bắt đầu độ nhóm ông Kiều 
		Trần Như cả thảy năm người, sau độ cho anh em ông Uất Tỳ La Ca Diếp, 
		ngàn người, độ người đã nhiều được thoát khổ cũng lắm. Bấy giờ nhân dân nước La Duyệt Kỳ vui mừng được 
		bậc đại Thánh Nhân xuất thế, ai ai cũng ca tụng khen ngợi đức Thế Tôn: 
		Một đấng cứu thế, biết bao chúng sinh được hàm ân thoát khổ, hơn nữa 
		Ngài còn hóa phục được những tà đạo trở lại theo Ngài, thực là một việc 
		lại còn khó hơn. Họ lại khen nhóm ông Kiều Trần Như và anh em ông Uất Tỳ 
		La Ca Diếp với các vị Đại đức Tỳ kheo khác, đối với đức Thế Tôn chẳng 
		hay đời trước có duyên gì? Trống pháp mới đánh đã được nghe trước, nước 
		cam lồ được uống trước. Các Tỳ kheo thấy họ ca tụng như vậy liền đem 
		chuyện ấy lên thưa với Phật. Phật nói: - Đó không chi lạ đâu! Ta với các ông 
		ấy đã có lời thệ nguyện từ đời quá khứ: Nếu Ta được thành Phật, Ta sẽ độ 
		cho các ông ấy trước. Các Thầy thưa rằng: - Kính lạy Ngài! Thuở xưa 
		Ngài thệ nguyện thế nào, cúi xin nói cho chúng con được rõ. Phật dạy: - Muốn biết sự tích Ta với các ông ấy 
		đời quá khứ, hãy để ý nghe cho kỹ Ta sẽ nói cho hay: Đời quá khứ cách 
		đây đã lâu lắm có đến vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp không thể dùng tâm 
		suy nghĩ và lời nói mà tính được. Cũng Châu Diêm Phù này, có một nước 
		lớn gọi là Ba La Nại, ông vua nước ấy tên là Ca Lợi cũng thời đó có một 
		vị đại tiên tên là Sàn Đề Bà La và cả thảy năm trăm đệ tử ở trên một quả 
		núi tu theo phép nhẫn nhục. Một hôm nhà vua nước ấy cùng với Phu nhân, thể 
		nữ, quần thần vào núi để du ngoạn: Săn bắn các thú vật, bày các cuộc 
		vui, uống rượu, ăn thịt, các thể nữ múa hát, làm cho nhà vua vui tai, 
		thích mắt, thỏa thích với dục lạc, rồi tiệc rượu, nhà vua nằm nghỉ nhọc 
		dưới gốc cây, thừa cơ ấy các cô rủ nhau đi xem hoa trong rừng, tới một 
		hang núi, thấy ông Sàn Đề Bà La đương ngồi yên tĩnh có vẻ trầm tư suy 
		xét, các cô này thấy ông đạo mạo với nét mặt siêu phàm, ngoài cuộc trần 
		tục, nên các cô sinh lòng kính mến! Hái các thứ hoa tung lên cúng dàng 
		rồi ngồi xúm lại xung quanh để nghe thuyết pháp. Khi hết hơi men nhà vua thức dậy, nhìn xung 
		quanh không thấy một người con gái nào hầu cạnh, ông nổi giận quá đứng 
		phắt dậy, cùng với bốn ông quan đại thần đi tìm, một lát tới chỗ ông 
		Tiên, thấy bọn các cô đang ngồi vây quanh trước sau, nhà vua cất tiếng 
		la lớn, các cô này sợ hãi chạy dạt ra, nhà vua tới trước chỗ ông Tiên 
		hỏi rằng: - Nhà ngươi đã đắc định Tứ Không chưa? - Thưa chưa được. - Nhà ngươi đã được Tứ Vô lượng Tâm chưa? - Thưa chưa được. Nhà vua lớn tiếng nạt rằng: - Từng ấy công đức đều nói chưa được, như vậy, 
		nhà ngươi có hơn gì kẻ phàm phu, thế mà dám ngồi chung với những đứa con 
		gái này ở nơi vắng vẻ tin sao được? Ông Tiên sĩ lặng yên không đáp lời nào hết, nhà 
		vua lại hỏi: - Ở đây người là người thế nào? Tu đạo gì? - Thưa! Tôi tu theo hạnh nhẫn nhục! Nhà vua có vẻ tức giận rút kiếm ở sau lưng ra 
		nói: - Nhà ngươi tu nhẫn nhục ư! Nhẫn nhục để ta thử 
		xem ngươi có nhẫn nhục được không? Nói xong chém phắt hai cánh tay ông Tiên rơi 
		xuống đất, rồi hỏi tiếp: - Đã nhẫn nhục được chưa? Tiên đáp: - Nhẫn nhục được! Ông lại chém phát hai nhát vào hai vế đùi nhả 
		ra, rồi hỏi tiếp: - Đã nhẫn nhục được chưa? - Nhẫn nhục được! Nhà vua lại xẻo hai tai và mũi trông rất ghê sợ. 
		Tất cả quan quân thể nữ, nhìn thấy nhà vua quá ư ác nghiệp với ông Tiên 
		ai cũng sám đen mặt lại, nhưng không dám can ngăn, vì sợ cơn ghen của 
		ông đương bộc phát, song họ nhìn thấy ông Tiên nét mặt bình tĩnh không 
		chút biến đổi. Nhà vua đứng ngước mắt nhìn xem ông Tiên này có 
		phản kháng với mình gì không? Nhưng không. Ngay giờ phút ấy quả đất tự nhiên rung động sáu 
		lần, năm trăm vị tiên đệ tử theo Ngài tu học bay vót lên hư không ngó 
		xuống hỏi rằng: - Lạy Thầy! Thầy bị đau khổ như vậy có khỏi mất 
		tâm nhẫn không? Đáp: - Tâm ta vẫn bình tĩnh và cũng là tăng 
		thượng duyên cho tâm nhẫn của ta lại càng thêm vững chắc! Tới đây ông vua đã từ từ hạ cơn ghen, nhìn thấy 
		ông Tiên vẫn thản nhiên, sự nhẫn đã thế, lại còn sự đau cũng không thấy 
		hoài tâm, dịu giọng hỏi: - Nhà ngươi tự nói tu phép nhẫn nhục lấy gì làm 
		bằng cớ, cho có sự thật? Đáp: - Ta không nói nhà vua cũng thấy được sự 
		thật của ta, một là ta không khuất phục dưới thế lực áp bức bất minh 
		thiếu nhận xét, hai là ta không quan tâm đến lưỡi kiếm của nhà vua chém 
		ta, và ta cũng không có ác niệm gì đối với sự hung tàn của nhà vua, muốn 
		biết rõ sự thật ta sẽ nguyện rằng: Nếu quả ta có thực hành đạo nhẫn 
		nhục, huyết sẽ biến ra sữa, thân sẽ bình phục như cũ. Đại Tiên nói xong, huyết tự nhiên biến ra sữa, 
		thân thể lại hoàn toàn như xưa. Nhà vua thấy sự nhẫn nhục của đại tiên hiển 
		nhiên quá! Cảm động quá rùng mình, sởn gáy, sợ toát mồ hôi! Là mình đã 
		quá ư nóng giận với tâm mê chấp tham dục nếu ta không xin lỗi sẽ bị 
		chiêu họa. Nhà vua vội vất kiếm xuống đất, quỳ trước mặt 
		đại tiên thưa rằng: - Thưa đại Tiên, chúng tôi hiểu lầm, vì quá si 
		mê nên hôm nay đối với Ngài một cách quá đáng, vô nhân đạo, cúi xin Ngài 
		tha thứ nhận lòng thành sám hối của tôi. Đại Tiên đáp: Hôm nay nhà vua cũng vì nữ sắc, 
		quá giận dùng kiếm chém ta tâm nhẫn của ta như đại địa, ta thề rằng sau 
		khi ta được thành Phật ta sẽ dùng tuệ đao, chém ba cái độc, tham, sân, 
		si cho nhà vua trước. Nhà vua thấy Đại Tiên đã hoan hỷ tha thứ, và 
		nhận lời tạ lỗi của mình, vái chào ra về. Lúc ấy trong núi có các bộ Long, Vương, bộ quỷ 
		thần thấy vua Ca Lợi vô cớ làm hủy nhục vị Đại Tiên, tức giận nổi cơn 
		lôi đình làm cho mây khói u ám rợp trời, sấm sét vang dội, ý muốn hại 
		vua và đánh chết họ hàng nhà vua cho bằng hết. Đại Tiên thấy thế ngửa mặt lên trời nói rằng: - Các ông nên buông lòng bao toả khắp muôn loài, 
		nếu có thiện chí với tôi, bênh tôi, thì xin đừng làm hại nhà vua! Từ đó vua Ca Lợi, tự hạ mình xuống như người đệ 
		tử tôn kính Đại Tiên như Thầy, luôn luôn đến thăm viếng cúng dàng, cũng 
		có lúc mời về vương cung giảng dạy. Thời ấy cũng có một bọn Phạm Chí chừng ngàn 
		người tu theo tà đạo, thấy vua Ca Lợi kính trọng biệt đãi vị Đại Tiên, 
		sinh lòng ghen ghét thuê người lấy phân trát lên tòa ngồi của Đại Tiên, 
		lúc vắng mặt, đã nhiều lần nhưng không biết rõ kẻ nào có tâm nham hiểm 
		xấu xa, một thái độ đê hèn; sau cùng do sự điều tra chắc chắn của nhà 
		vua, bắt được những kẻ gian ác đem ra tra hỏi, chúng tự xưng là bọn Phạm 
		Chí mướn. Lập tức vua Ca Lợi hạ lệnh bắt hết nhóm Phạm Chí lại cung môn. Đại Tiên vốn lòng Từ bi và đương thực hành đạo 
		nhẫn nhục, nên xin vua tha tội cho họ. Trước nhà vua và đại chúng, Đại 
		Tiên phát thệ rằng: - Tôi vì chúng sinh tu hạnh nhẫn nhục tích góp 
		công phu không lười mỏi, để cầu thành Phật, sau khi được thành tựu, tôi 
		sẽ lấy nước pháp trí tuệ tẩy trừ cho hết trần cấu uế dục lũ các người 
		này được trong sạch trước. Tới đây Phật nhắc lại cho tôi hay rằng: - A Nan! Ông Sàn Đề Bà La thuở đó chính là tiền 
		thân của ta, vua Ca Lợi nay là ông Kiều Trần Như, bốn quan đại thần thuở 
		đó nay là bốn vị Tỳ kheo cùng nhóm với ông năm người, còn ngoài đạo Phàm 
		Chí lúc đó nay là ông Uất Tỳ La Ca Diếp và ngàn vị Tỳ kheo này. Thuở đó ta thề nguyện độ cho các ông ấy trước, 
		nay ta thành Phật nên các ông ấy được độ trước. Như vậy biết lời thề 
		nguyện không sai. Khi đại chúng nghe Phật nói xong, ai nấy đều vui 
		mừng, tán thán hạnh nhẫn nhục của Ngài thực là hy hữu, rồi cùng nhau lễ 
		tạ lui ra. 13/ Phẩm thứ mười ba VUA TỪ LỰC CHO HUYẾT Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá 
		Vệ tại vườn Kỳ Hoàn buổi sáng ấy, bầu trời êm ả, thả làn gió nhẹ qua 
		những hàng cây vi vút; buổi trà nước dâng Phật vừa xong, tôi (A Nan) ra 
		khoảng rừng vắng tọa thiền dưới gốc cây tự nghĩ như vầy: Đức Phật ra đời 
		biết bao người được nhờ ơn tế độ, thế giới thanh bình, nhân dân an lạc, 
		cây cỏ xinh tươi, muôn loài hớn hở, là do nhờ đức hóa của Ngài, lại nghĩ 
		rằng: Nhóm ông Kiều Trần Như trồng nhân lành gì? Nương nhân duyên gì? 
		Cửa Từ bi thuyết pháp cứu sinh, bọn ông được vào trước? Trận mưa cam lồ 
		bắt đầu bọn ông được tắm trước? Nghĩ xong tôi đứng dậy về Tinh xá đem ý 
		nghĩ trên bạch Phật, Phật bảo tôi rằng: - A Nan, nhóm ông Kiều Trần Như đã một lần sắp 
		bị chết đói, vì lòng Từ bi nên ta trích huyết trong người ra cho các ông 
		ấy uống, bởi thế nay được nghe pháp trước, giải thoát trước. - Kính lạy đức Thế Tôn! Vì duyên gì mà các ông 
		ấy bị đói? Tại sao không ăn các món khác lại phải uống huyết mới sống? 
		Cúi xin Ngài nói lại cho con và đại chúng đây được rõ! Phật dạy rằng: - A Nan! Ông muốn biết câu chuyện 
		ấy hãy chú ý nghe: Thuở đó tới nay tính số kiếp A tăng kỳ đã quá lâu, 
		cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua nước lớn, tên là Di Già La Bát 
		La (Tàu dịch: Từ Lực) cai trị tám mươi bốn ngàn nước nhỏ, hai vạn bà Phu 
		nhân, một vạn quan đại thần, nhà vua Từ bi khoan hậu, đủ bốn tâm bình 
		đẳng, thương dân giúp vật, thường đem mười điều lành giáo hóa, trong 
		nước được thanh bình an lạc, muôn phương kính nể. Thời ấy có các loài Dịch Quỷ, hay đi bắt người 
		để uống máu ăn tiết, chứ không sống bằng cơm gạo, ngô, khoai. Những người dân thuở đó theo lệnh của nhà vua 
		bắt buộc ai cũng phải tu mười điều lành, giữ thân, miệng, ý thanh tịnh. 
		Vì thế bọn ác quỷ không dám đến gần, không thể bắt ai ăn được, nên chúng 
		bị đói, chỉ còn da bọc xương, khí lực đã gần tuyệt. Bấy giờ có năm con 
		quỷ đến tâu vua rằng: - Tâu bệ hạ: Chúng tôi sống bằng sự ăn uống khí 
		huyết của loài người. Nhà vua dạy dân tu theo mười điều lành; vì họ tu 
		theo mười điều lành, nên có các thiên thần ủng hộ, chúng tôi không dám 
		bắt ăn thịt, bị đói đã lâu, chỉ còn chờ chết. Vậy nhà vua làm hạnh Từ bi 
		há không thương lũ chúng tôi sao? Nhà vua nghe quỷ nói, trong tâm rất cảm động, 
		hỏi rằng: - Ngoài máu thịt người các ngươi dùng gì? - Tâu Đại Vương máu thịt người là món chính, 
		ngoài ra không dùng món gì có thể bảo tồn được thể xác. Vì quá thương họ đói, nên nhà vua lấy dao khoét 
		mình ra năm lỗ rồi nói: - Máu của ta đây các ngươi lấy bát lại hứng mà 
		uống. Bọn quỷ vui sướng quá! Đương đói, tranh nhau cầm 
		bát lại vừa hứng vừa uống, uống xong lạy tạ xin về. Nhà vua nói: - Hãy khoan! Ta bảo đã: Các người 
		bị nghiệp báo làm thân quỷ là do đời trước ham uống máu ăn thịt chúng 
		sinh, lại thêm lòng tham sẻn, nên ráng tu theo mười điều lành, tương lai 
		ta thành Phật ra sẽ lấy Pháp thân và huyết giới, định, huệ, để trừ tâm 
		tham dục ba độc đói khát cho lũ ngươi, và sẽ đưa lũ ngươi tới chỗ an vui 
		vĩnh viễn. Tới đây đức Phật nhắc lại rằng: - A Nan! Nên biết: Vua Từ Lực thuở đó chính là 
		tiền thân của ta đây, năm quỷ Dạ xoa, nay là nhóm ông Kiều Trần Như năm 
		người. Thuở đó ta hứa độ cho bọn ông ấy trước, nên nay các ông ấy được 
		nghe thuyết pháp trước, và được giải thoát trước. Bây giờ, tôi và đại chúng được nghe câu chuyện 
		đời quá khứ của Ngài và năm ông, ai ai cũng sợ toát mồ hôi, với lòng Đại 
		bi của Ngài, với chí sắt đá của Ngài ai mà bì kịp, rồi cùng nhau lễ tạ 
		lui ra. 14/ Phẩm thứ mười bốn HÀNG PHỤC LỤC SƯ Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở thành 
		Vương Xá, tại vườn Trúc cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo ở 
		đó. Vua Bình Sa là người mến mộ Phật giáo, ông theo 
		Phật nghe thuyết pháp đã lâu, và thực hành tu tiến, nên bấy giờ ông đã 
		chứng được sơ quả, bởi vậy, lòng tin của ông lại càng kiên cố. Ông 
		thường dâng thuốc thang, áo Cà sa, giường đệm, món ăn quí lên cúng Phật 
		và chư Tăng; ông rất tôn trọng, những người hay làm điều lành, và khi 
		tới đâu, ông cũng khuyên người tu theo Phật giáo. Trong nước ông có bọn Phú La Na Lục Sư, làm giáo 
		chủ ngoại đạo, cũng thời đó, nhưng ra đời trước Phật ít năm, họ đem tà 
		thuyết để dối đời bịp dân, những kẻ cuồng si không biết nhận xét chánh 
		tà theo họ rất đông. Song em nhà vua cũng theo học bọn chúng, làm một 
		con tin thuần cẩn, trí óc ngâm chìm dưới nguồn sâu của bọn họ. Đem tiền 
		của cung cấp đã lâu ngày, tài sản bị khuynh vong, gia đình bại hoại, 
		cũng như kẻ bị bùa mê, bánh mến, không khác. Đức Phật ra đời như vầng thái dương, xuất hiện 
		luồng quang minh, soi khắp không gian muôn loài ấm áp, cây cỏ xinh tươi; 
		ánh tuệ sáng đã tung tỏa khắp muôn phương, biết bao người đắc quả thành 
		công trên đường giải thoát. Kẻ không biết theo một đạo giáo chân thật, 
		khác gì loài rùa nằm dưới đầm sâu, cóng rét chịu quanh năm, mà không 
		biết có ánh mặt trời trên đại địa, cũng như em vua Bình Sa, chịu buộc 
		mình nơi tà giáo ngoại đạo, không biết nhận xét chánh tà. Vua Bình Sa thương em mê muội, với tính cố chấp, 
		hết sức thuyết đạo lý của Phật giáo cho nghe, và giục em mời Phật; phải 
		tôn kính Phật, phải bỏ tà đạo, người em vẫn không chịu nhận lời và thưa 
		rằng: - Thưa anh! Muôn triệu người trên vũ trụ bao la, 
		mỗi người một ý nghĩ khác nhau, không ai giống ai; mỗi người có sự nhận 
		xét riêng, mỗi người có một sở thích riêng, anh theo giáo lý đạo Phật, 
		anh khen Phật hay, tôi theo phái Lục Sư dĩ nhiên tôi hợp với lý trí của 
		tôi là phải là đúng, là cao, tôi mới theo, nhưng anh đã nói tôi sẽ mời 
		Thầy tôi và Phật đàm luận về đạo lý hơn kém sẽ bày tỏ. Nhà vua cười nói: - Hay lắm! Nay mai chú mời 
		luôn đi, nhưng chú phải cam đoan với tôi. Nếu Phật hơn thì chú phải bỏ 
		Thầy chú theo Phật cùng tôi, nếu Phật kém tôi sẽ bỏ Phật để theo cùng 
		chú! - Vâng! Dĩ nhiên. Ngày mai vua Bình Sa lên bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Muốn cho toàn quốc dân 
		thoát khỏi vòng ác đạo, cùng được hưởng sự an vui từ đời này cho đến 
		kiếp khác, con nhận thấy ngoài sự giáo hóa của Ngài ra thì không có đạo 
		giáo nào hơn được, dân con có bọn Lục Sư, cũng đường đường một tôn giáo, 
		đem những tà thuyết mị dân, đưa người vào hố sâu hang hiểm làm mồi cho 
		hùm, beo, lang sói, chết đọa tam ác đạo. Con có người em cũng theo bọn 
		chúng, hết sức răn bảo mà không chuyển lòng, con định bảy ngày nữa, mời 
		Thế Tôn ra thí tràng, sau đó cho tìm bọn Lục Sư tới, để Ngài hóa phục 
		dẹp bỏ đạo tà, hiển dương chánh đạo, một yếu điểm nhất là muốn cho quần 
		chúng biết sức thần biến và đạo lý của Ngài để họ tự bỏ rơi bọn Lục Sư, 
		cúi xin Từ bi hoan hỷ cho chúng con được trượng thừa công đức! Đức Phật mỉm cười nói: - Việc ấy cũng nên, làm Nhân Chúa có trách nhiệm 
		mở mang trí óc khôn sáng cho dân, làm gấp ta vui lòng! Nhà vua hoan hỷ lễ tạ lui ra, khi về hạ lệnh cho 
		toàn quốc biết rằng: - Quốc dân nên biết! Trong bảy ngày nữa, đức Thế 
		Tôn và Lục Sư sẽ đàm luận về đạo giáo, ai muốn biết, thì đến nơi thí 
		tràng. Em vua Bình Sa sửa soạn bàn, ghế, tòa ngồi rất 
		trang nghiêm, tới ngày thứ bảy Lục Sư tới trước tiên, em vua trịnh trọng 
		mời lên ngồi tòa cao đẹp, các nhà văn hào dân chúng đến đông như kiến 
		cỏ, nhưng không thấy Phật đến, người em vua hỏi: - Anh giục tôi mời ông Cù Đàm (Phật) các Thầy 
		tôi và dân chúng tới đông sao không thấy Ông ấy tới? - Chú đã đi mời Ngài chưa. - Chưa! - Chú sai người đi mời Ngài hoặc chú đi, hôm 
		trước tôi mời Ngài đã hứa. Đương nói thì Phật đến, vua Bình Sa ra đón Phật, 
		khi vào tới nơi, những tòa cao đẹp bọn Lục Sư đã ngồi hết cả, thấy thế 
		nhà vua nóng lòng, nhưng không biết nói sao, chỉ riêng trách em mình. 
		Đức Phật và chư Tăng phải ngồi tất cả những hàng ghế dưới. Khi Phật ngồi yên tĩnh chừng được ba phút, bỗng 
		nhiên thấy Ngài và chư Tăng ngồi trên ghế cao, bọn Lục Sư ngồi dưới 
		chót, Lục Sư hổ thẹn đứng dậy, em nhà vua lại vác ghế lên cao mời Lục Sư 
		ngồi, ngồi xong chừng một phút lại thấy ghế dưới chót, Phật ngồi trên 
		cao, cứ như thế đến ba bốn lần, nhưng vẫn bị ngồi hàng ghế cuối, tới đây 
		họ biết không có năng lực gì địch thủ, nên chịu ngồi ngượng ở đó. Khi dâng nước, họ cứ theo thứ tự, tòa trên dâng 
		trước, tòa dưới dâng sau. Đầu tiên dâng lên Phật. Phật nói: - Dâng Thầy của các ngươi trước, dâng ta sau 
		cũng được! Theo lời Phật phán bảo, họ đưa nước dâng Lục Sư, 
		khi giơ bình rót, tắc không chảy, sau dâng Phật, rót chảy, Phật rửa tay 
		xúc miệng xong, làm phép chú nguyện. Xong việc trà nước bắt đầu dâng cơm, họ dâng 
		Phật trước, Phật nói: - Hôm nay các ngươi không phải vì ta mà thiết 
		bữa cơm nay, ta chỉ là khách, Thầy các ngươi là mục đích hơn, ngươi hãy 
		dâng Thầy ngươi trước để Thầy ngươi chú nguyện cho. Theo lời Phật dạy, bắt buộc họ mời Lục Sư chú 
		nguyện, lúc chưa mời không sao, sau khi mời họ nhìn thấy Lục Sư hai hàm 
		răng cắn chặt, không thấy nói năng cầu nguyện gì, chỉ biết giơ tay làm 
		hiệu, xua những người ấy đến chỗ Phật, Phật làm phép chú nguyện xong. Bắt đầu dâng món ăn, Phật nói: - Hãy dâng Thầy các ngươi trước! Họ phải theo lời Phật dạy, khi dâng lên Lục Sư, 
		các món ăn bay bổng lên hư không lơ lửng trên đó và không rơi, làm cách 
		nào cũng không thể lấy được, chờ khi dâng món ăn lên Phật và Tăng Chúng 
		xong, thì các món ăn ấy rơi xuống trước mặt Lục Sư. Khi dùng cơm xong, Phật gọi em vua bảo rằng: - Khanh mời Thầy khanh thuyết pháp trước đi. Người em mời thuyết pháp, Lục Sư im thít không 
		nói năng gì, té ra hai hàm răng cắn chặt lúc nào không biết, đồng thời 
		bọn chúng giơ tay làm hiệu; ý nói đến mời Phật thuyết pháp còn ta bị câm 
		họng ráo trọi. Bọn đồ đệ của Lục Sư biết Thầy mình thất thế và 
		kém hẳn đã có ý chán nản phát ra tự đáy lòng, bấy giờ em vua và dân 
		chúng lại lễ Phật và mời Ngài thuyết pháp. Trước khi Phật thuyết pháp quả đất động chuyển 
		sáu lần, hào quang năm sắc chiếu khắp đại thiên thế giới. Đức Phật như 
		một đấng cha hiền thương đàn con dại, như một bực đại Giáo Sư đối với kẻ 
		sơ tâm mới học, với đại chúng Ngài ra những lời hòa nhã dịu dàng, diễn 
		thuyết các pháp, tính, tướng, phân biệt nghĩa lý sâu huyền, thế gian, và 
		xuất thế gian. Đại chúng nghe xong có rất nhiều người được giác 
		ngộ, em vua Bình Sa chứng được Pháp Nhãn Tịnh, ngoài ra còn có người sơ 
		quả cho đến tam quả, còn những vị xuất gia được lậu tận, có vị phát tâm 
		Vô thượng chứng quả bất thoái. Toàn thể đại chúng dự hội hôm ấy ai ai 
		cũng phân biệt được chánh tà, họ phát tâm tin kính ngôi Tam bảo, trở về 
		quy y Phật, thờ Phật làm Thầy và bỏ rơi bọn Lục Sư, không cúng dàng thừa 
		sự chúng nữa. Tới đây mọi người đều đứng lên, ca tụng những 
		công đức Ngài đã ban cho và phát nguyên xin theo làm đệ tử, đảnh lễ lui 
		ra. Lục Sư vừa bị nhục, vừa mất thể diện căm hờn tụ 
		tập lại một nơi bàn kế để trả thù đức Phật, họ ra nơi rừng vắng học tập 
		các phép lạ, và nghiên cứu các kỹ thuật. Lúc ấy Thiên ma Ba Tuần thấy đồ chúng của mình 
		thua Phật, dân chúng chán ghét, tất nhiên đạo của họ không truyền bá 
		được, y liền bay xuống hóa làm hình Lục Sư tới để biểu diễn các phép lạ, 
		và truyền phép cho Lục Sư, xong lại bay về Thiên Đàng. Lục Sư sau khi được phép của Ba Tuần truyền thụ 
		vui mừng quá! Tự đắc chí cho là cao diệu, là tối thắng, chúng tập hợp 
		bàn nhau rằng: - Hôm trước bọn ta bị nhục, mọi người phải ly tán, giờ 
		đây xem sự thần biến của Thầy chúng ta truyền thụ, có dư để hàng phục 
		ông Cô Đàm Sa môn, bây giờ yêu cầu vua lập một cuộc thi thần thông, để 
		xem hơn thua thế nào, bàn nhau xong họ lên tâu rằng: - Tâu Bệ Hạ, chúng tôi sẽ có đủ pháp lực tài 
		năng thần biến, xin Bệ Hạ lập một cuộc đấu phép với Phật, để cho quốc 
		dân biết tài năng của chúng tôi. Nhà vua cười nói: - Lũ bây thực là ngu si quá, 
		Phật có đạo đức cao siêu phép thần túc vô ngại, các ngươi muốn thi với 
		Phật, chẳng khác lửa đom đóm muốn tranh ánh mặt trời, nước vết chân trâu 
		đem ví với biển cả, loại Dã Can lại muốn thi hùng với muôn sư tử, đống 
		đất tổ kiến đem ví với lực cao núi Tu Di, những hình lớn nhỏ coi thấy rõ 
		ràng, thấp kém lại muốn nghển cao, các ngươi sao lại ngu lỗ quá như vậy? Lục Sư nói: - Tâu Bệ Hạ! Ngài chưa biết phép 
		luật của chúng tôi, đó là Ngài thiên vị, tự cho ông Cô Đàm (Phật) là 
		người tuyệt đối không còn ai hơn, chúng tôi quyết thử tài một phen hay 
		dở Ngài sẽ rõ! Vua nói: - Tại sao bữa trước các ngươi không đem 
		tài ra đối phó, nay còn nói khéo nói khôn làm chi? - Tâu Bệ Hạ! Hôm đó chúng tôi chưa đủ phép lực, 
		bây giờ có đủ khả năng đối thủ! - Không sao! Muốn thì ta sẽ lên thưa với Phật, 
		nhưng chỉ sợ các ngươi tự để nhục cho hậu thế! - Tâu Bệ Hạ! Chúng tôi xin hẹn bảy ngày nữa, Bệ 
		Hạ hãy cho dân chúng sửa sang nơi thí tràng bằng phẳng. Sau khi Lục Sư ra về, nhà vua lên xe đi đến chốn 
		Phật, lễ xong quỳ gối chắp tay thưa rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Bọn Lục Sư còn rắc rối 
		quá; hôm qua chúng lên xin thi thần lực với Thế Tôn, con đã lấy lý luận 
		phân trần và la mắng nhưng bọn chúng còn ra vẻ không chịu. Vậy kính xin 
		Ngài ra sức thần biến để hóa phục bọn tà ác trở về chánh đạo, nhân đấy 
		con và dân chúng được coi sự thần thông biến hóa của Ngài. Phật nói: - Hãy biết thế, ta tự tri thời. Vua Bình Sa lễ tạ lui ra, về vương cung sắc lệnh 
		cho quân dân sửa sang nơi thí tràng, đặt bàn ghế, kê tòa ngồi cao đẹp 
		cúng Phật, chung quanh kết hoa, treo phan phướn, các ngả đường kéo biểu 
		ngữ để cổ động cho dân chúng đến xem. Tới ngày thứ bảy Đức Phật và các vị đệ tử, từ 
		thành Vướng Xá đi sang nước Tỳ Xá Ly, nước ấy có bọn ông Luật Xương và 
		nhân dân ra đón rước. Buổi sáng ấy, dân chúng thành Vương Xá xôn xao, 
		không biết Phật đi đâu, hỏi thăm mãi mới biết Ngài đi sang nước Tỳ Xá 
		Ly. Lục Sư hay tin Phật đi, không ở lại đấu phép đắc 
		chí nói: Ông Cô Đàm (Phật) trí tuệ và thần biến kém, biết 
		sức không địch nổi nên tìm đường tẩu thoát, thế mà mọi người còn do dự 
		không tin. Tâm ngã mạn của Lục Sư lên cao quá, tự tuyên bố 
		rằng: - Chúng tôi sẽ đuổi cho tới cùng. Được tin Phật sang nước Tỳ Xá Ly, vua Bình Sa 
		lập tức sai sửa soạn lương thực năm trăm con ngựa, năm trăm xe, tổng số 
		quan quân mười bốn ức người, sang nước Tỳ Xá Ly, Lục Sư cũng theo vua 
		sang, chúng thưa với Luật Xương rằng: - Thưa Ngài! Chúng tôi tới đây muốn để thi thần 
		thông, và đàm luận về thực tính với ông Cồ Đàm, xin Ngài cho ông ấy rõ, 
		và hẹn bảy ngày nữa sẽ bắt đầu! - Vâng! Quí Ngài muốn thế, tôi sẽ thưa với Phật 
		giùm. Luật Xương tới lễ Phật thưa rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Bọn Lục Sư si mê quá! Tự 
		nói có đạo lực nên xin lên thi thần biến. Vậy kính xin Thế Tôn hàng phục 
		bọn gian ác ấy! Phật nói: Hãy biết thế, ta tự tri thời! Luật Xương lễ tạ lui ra, về sửa soạn nơi thí 
		tràng, lương thực các đồ cúng dàng trọng hậu, dân chúng nôn nao, chờ 
		ngày để xem cuộc đấu thần thông. Sáng ngày hôm sau, Phật và Tăng chúng đi sang 
		nước Châu Diệm Di, vua Ưu Điền đem quan quân ra đón tiếp. Cũng buổi sáng 
		ấy nhân dân nước Tỳ Xá Ly xôn xao hỏi nhau rằng: - Sáng nay Đức Phật đi đâu? - Có người nói: Đức Phật và chúng Tăng sang nước 
		Câu Diệm Di buổi sáng sớm. Lục Sư thấy thế, tâm ngã mạn lại càng lên cao, 
		và đắc chí lắm, bảo nhau phải theo đuổi cho bằng cùng. Được tin Phật đi khỏi ông Luật Xương đem năm 
		trăm cỗ xe chở lương lực và bảy ức người cùng với vua Bình Sa sang nước 
		Câu Diệm Di. Lục Sư vào yết kiến vua Ưu Điền rồi thưa rằng: - Tâu Hoàng Đế! Sa môn Cồ Đàm, tự biết lực không 
		địch nổi, nên Thầy trò phải trốn sang đây, xin Hoàng đế cho chúng tôi 
		thi thần thông với ông ấy! - Vâng! Quí Ngài muốn thế tôi sẽ thưa với Phật 
		giùm! Ngày mai vua Ưu Điền lên bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn, Lục Sư ngày qua lên yêu 
		cầu để thi thần thông, kính lạy Ngài có nhận lời ấy không! Phật nói: - Hãy biết thế, ta tự tri thời! Vua Ưu Điền lễ tạ ra về, sửa soạn nơi thí tràng 
		chờ Phật định ngày đối thí. Sáng hôm sau Phật và Tăng chúng đi sang nước 
		Việt Kỳ, vua Chuân Chân Đà La cùng với nhân dân ra nghinh tiếp đức Thế 
		Tôn. Hôm sau người nước Câu Diệm Di không thấy Phật, 
		xôn xao hỏi nhau thì có người nói: - Phật và chư Tăng sang nước Việt Kỳ sáng qua. Hay tin Phật đi khỏi, Lục Sư và vua Ưu Điền, vua 
		Bình Sa và quan quân dân chúng, cũng đi sang nước Việt Kỳ. Lục Sư vào 
		yết kiến Chuân Chân Đà La và trình bày ý kiến của mình, sau yêu cầu vua 
		làm thế nào được đấu phép với ông Cô Đàm. Đáp: - Vâng, quí Ngài muốn đấu tôi sẽ thưa với 
		Phật." Vua Chuân Chân Đà La lễ lên Phật xong, rồi quỳ 
		thưa những ý định của Lục Sư. Phật nói: - Hãy biết thế, ta tự tri thời! Nhà vua lễ tạ lui ra, về cung sắc lệnh cho quân 
		sửa soạn và trưng bày nơi thí tràng, sắp tới ngày thi Phật và chư Tăng 
		lại sang nước Đặc Xoa Thi Lợi, vua Nhân Đà Bà Di cùng với quan quân ra 
		đón rước. Hay tin Phật đi khỏi, vua Chuân Chân Đà La với 
		năm ức người, cùng với Lục Sư vua Bình Sa và tất cả đều theo Phật sang 
		nước Đặc Xoa Thi Lợi. Lục Sư vào yết kiến vua Nhân Đà Bà Di và khoe 
		khoang những lời cao đại rồi nhờ vua giới thiệu để thi thần thông với 
		Phật. Nhà Vua nhận lời, lên bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn, hôm qua Vua các nước và 
		quan quân đến đây đông lắm về việc thi thần thông với Lục Sư, cúi xin 
		Ngài Từ bi ra phép thần hàng phục kẻ tà đạo, để cho tất cả chúng sinh 
		trong Châu Diêm Phù Đề theo về chánh giáo. Phật nói: - Hãy biết thế, ta tự tri thời! Ngày thi gần tới, đức Phật lại sang nước Ba La 
		Nại, vua Phạm Ma Đạt hay tin Phật tới, đem quan quân ra biên giới đón 
		Phật về thành. Buổi sớm mai dân chúng nước Đặc Xoa Thi Lợi, 
		mang các món ăn ra đường đón Phật và Chư Tăng không thấy, hay tin Phật 
		sang nước Ba La Nại, khi đó vua Nhân Đà Bà Di, vua Bình Sa, Lục Sư và 
		tất cả các ông vua đều theo Phật sang nước Ba La Nại. Lục Sư vào yết kiến vua Phạm Ma Đạt và trình bày 
		ý kiến của mình, lại yêu cầu vua làm cách nào được thi thần thông với 
		Phật, nhà vua nhận lời. Sáng hôm sau vua Phạm Ma Đạt lên bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn, Lục Sư hôm qua lên xin 
		thi thần thông với Ngài, cúi lạy Ngài ra phép thần biến tiêu diệt bọn ác 
		quỉ hại dân vô ích. Phật nói: - Hãy biết thế, ta tự tri thời! Đêm ấy và Tăng chúng đi sang Ca Tỳ La Vệ. Hay tin Phật tới, ông Thích Chủng Bối và đại 
		chúng ra đón Phật về Kinh. Sớm ngày mai, dân chúng nước Ba La Nại mới biết 
		đức Phật đi du hóa nơi khác. Hay tin Phật đi khỏi, vua Phạm Ma Đạt, vua Bình 
		Sa, Lục Sư và tất cả quan quân các nước, đi theo Phật, sang nước Ca Tỳ 
		La Vệ. Lục Sư vào yết kiến ông Thích Chủng Bối và trình 
		rằng: Đến đây mục đích để thi thần thông với Phật, nhà vua nhận lời, và 
		hứa sẽ thưa với Phật giùm. Ngày mai ông lên lễ Phật xong bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn, Lục Sư cố tình theo Ngài 
		đòi thi thần thông, cúi xin Từ bi hoan hỷ dẹp bỏ lũ ngoan cố mị dân, cho 
		toàn cõi theo về một mối! Phật nói: - Hãy biết thế, ta tự tri thời! Ông Thích Chủng Bối sắc lệnh sửa sang nơi thí 
		tràng, và ấn định ngày thi, xong sắp tới ngày thi, đức Phật và Tăng 
		chúng sang nước Xá Vệ, vua Ba Tư Nặc nghe tin Phật tới đem quan quân ra 
		biên giới đón. Ngày mai ông Thích Chủng Bối mới hay tin Phật đi 
		khỏi. Ông Thích Chủng Bối đem chín ức người, vua Bình Sa, Lục Sư và Vua 
		quan dân chúng các nước, đồng thời kéo sang nước Xá Vệ. Lục Sư vào tâu vua Ba Tư Nặc rằng: - Tâu Bệ Hạ! Chúng tôi muốn thi thần thông với 
		ông Sa môn Cù Đàm đã qua bao nhiêu nước, sắp kỳ thi ông tự biết không có 
		lực địch nổi nên cùng đại chúng lẩn trốn sang đây, mong Bệ Hạ cho chúng 
		tôi được thi thần thông với ông ấy! Vua Ba Tư Nặc mỉm cười nói: - Đức Phật có phép 
		thần túc vô ngại, khi mới thành đạo, Thiên Ma Ba Tuần, thiên biến vạn 
		hóa còn phải phục đầu xưng tội, quy y làm đệ tử, lũ ngươi đã ra gì, kẻ 
		hèn mạt, thấp hèn, sao có thể đối với ngôi Đại Pháp Vương được. Lục Sư nghe nói, nổi giận khí sắc biến đổi, tỏ 
		vẻ bực tức vô cùng nói: Chẳng qua Ngài quá ư thiên lệch nói thế, Ngài đã 
		biết thần biến của chúng tôi chưa? Nói xong ra về, tỏ vẻ bất mãn trước nhà vua. Ngày mai vua Ba Tư Nặc đến chốn Phật đầu mặt lễ 
		sát đất quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Bọn Lục Sư ân cần xin 
		thi thần thông, cúi xin Ngài ra sức thần thông, tiêu diệt bọn con buôn 
		không vốn, bịp bợm một cách giả đạo đức, nếu để chúng thì dân tộc trên 
		thế giới này bị đau khổ về vật chất lẫn tinh thần, vì chúng đủ mưu mô 
		mánh khóe lừa gạt lòng người. Xong những người trí thức mới hiểu biết 
		tâm thâm độc của bọn chúng. Phật nói: - Hãy biết thế, ta tự tri thời! Lần này vua Ba Tư Nặc quyết định mời Phật để đấu 
		thần thông, ông sắc lệnh cho quan quân sửa sang nơi thí tràng bằng 
		phẳng, bàn ghế tòa ngồi trang nghiêm, treo cờ phan phướn, lọng, kéo biểu 
		ngữ, kết hoa treo đèn, mua rất nhiều hương hoa trình bày rất đẹp đẽ, ông 
		lên điện nơi đức Thế Tôn ngự, ân cần tha thiết cầu thỉnh. Phật thấy ông 
		nhiệt tâm thành khẩn, nên Ngài nhận lời. Giữa ngày mồng một tháng mười 
		hai Phật ra thí tràng, Lục Sư với vua các nước, dân chúng đều đến đông 
		đảo. Ngày ấy vua Ba Tư Nặc sửa soạn các món ăn ngon 
		lành, buổi tinh sương dâng Phật một cành dương. Phật dùng nạo răng, nạo 
		xong Ngài vẩy bựa xuống đất, tự nhiên sinh ra những cây cối xanh om, um 
		tùm râm mát, cao đến năm trăm do tuần, cành lá ườm rà, sinh ra những 
		bông hoa to như vòng bánh xe, kết thành những quả to, bằng cái bình đựng 
		năm đấu lớn, cành cây gốc rễ hoa quả thuần bằng Thất bảo, vàng bạc, lưu 
		ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách v.v…, màu sắc tươi đẹp, phát sinh ra 
		những ánh sáng lấn mặt trời, mặt trăng, người được nếm mùi vị quả ấy, 
		thấy sung sướng ngon lành một cách siêu nhiên, nghĩa là trên thế gian 
		chưa từng có, hương thơm tung tỏa, khắp không gian, qua mũi ai, họ thấy 
		tính tình vui vẻ, gió hương ấy thổi tới đâu, làm cho muôn vật hớn hở 
		xinh tươi, các cành lá đều phát ra những tiếng thuyết pháp, trong đại 
		hội im phắc không một tiếng động để đón nghe những âm thanh dịu dàng hòa 
		nhã, nghe vui không chán! Càng nghe càng cảm mến đạo mầu Vô thượng, tất 
		cả mọi người trong đại hội thấy sự biến hóa của cây này, tâm sinh tin 
		kính ngôi Tam bảo càng thêm khắng khít. Sau Phật giải đáp những nghĩa lý 
		sâu huyền cho hợp với lý trí mọi người nên tất cả đều được hiểu ngộ, khi 
		đó những người nhiệt tâm cầu Phật Pháp kết quả được sinh thiên, một số 
		rất đông. Ngày thứ hai, vua Ưu Điền thỉnh Phật cúng trai. 
		Hôm ấy đức Phật hóa ra hai quả núi báu đứng hai bên, núi này toàn bằng 
		vàng bạc trân bảo hợp lại thành năm sắc huy hoàng, coi rất đẹp đẽ, trên 
		núi có những cây mọc thành từng hàng, hoa quả tốt tươi, trong núi phát 
		ra những mùi thơm ngào ngạt, một trái núi trên đỉnh sinh ra thứ lúa tám 
		cánh, lúa này là một thứ lúa quý nhất trong các lúa, nếu đem nấu cơm thì 
		mềm dẻo hương vị thơm ngon; một trái, ở trên đỉnh có thứ cỏ mềm nhũn 
		thơm tho, béo bổ, những loài Súc sanh tới ăn, ăn rồi khí lực sung túc có 
		ánh sánh, phát sinh trí tuệ, tâm tình hòa vui. Tất cả mọi người thấy phát hiện hai trái núi lạ 
		thường, và họ được ăn quả thấy an vui, thân thể cường tráng hết bệnh tật 
		hết sầu não, nên họ một lòng tín ngưỡng ngôi Tam bảo, đức Phật tùy theo 
		căn cơ để diễn thuyết nghĩa lý cao diệu nhân quả luân hồi cho hợp với 
		trình độ của họ, ai nấy trí óc khai sáng thấu rõ đạo mầu, phát tâm cầu 
		đạo Bồ đề, kết quả sinh thiên một số rất đông. Đến ngày thứ ba, vua Chuân Chân Đà La thỉnh Phật 
		cúng dàng, buổi sáng sớm ông dâng Phật chén tịnh thủy, Ngài súc miệng 
		rồi nhổ xuống đất, chốn đó tự nhiên thành một cái ao mỗi bề dài hai mươi 
		dặm, quanh bờ ao thuần bằng ngọc Thất bảo trộn lẫn nhau, các sắc phát ra 
		chiếu sáng tưng bừng, nước đủ tám công đức, dưới lòng ao thuần cát Thất 
		bảo, trong ao có tám thứ hoa sen lớn như vành bánh xe, xanh, đỏ, trắng, 
		hồng, tía, biếc đủ các sắc, lan tràn bốn mặt, ánh sáng của hoa tùy theo 
		các sắc phát sinh, làm sáng choang trời đất. Thấy thế tất cả đại chúng đều vui mừng và ca 
		ngợi Phật có đức vô lượng vô biên. Phật quan sát tâm niệm của từng cá nhân xong, 
		Ngài tùy theo lý tưởng của mỗi người, để thuyết pháp, sau cuộc thuyết 
		pháp này được rất nhiều người phát tâm cao thượng tăng phần phúc nghiệp, 
		sinh thiên rất đông. Đến ngày thứ tư, vua Nhân Đà Bà Di thỉnh Phật 
		cúng dàng, ngày hôm ấy đức Phật làm cho nơi bảo địa đó, bốn mặt tự nhiên 
		có tám dòng nước, sức chảy mạnh và xoáy kêu thành tiếng, phát ra những 
		âm thanh mầu nhiệm thuần nói các pháp: "Ngũ Căn" "Ngũ Lực" "Lục độ" 
		"Thất Giác" "Bát Đạo" "Tam Minh" "Lục Thông" "Tứ Đẳng" "Đại Từ, Đại bi", 
		mọi người nghe rồi đều được giác ngộ và quán triệt đạo lý, tăng phần 
		phúc tuệ, kết quả sinh Thiên rất đông. Ngày thứ năm, vua Phạm Ma Đạt thỉnh Phật cúng 
		dàng, hôm ấy nơi miệng đức Phật phóng ra hào quang sắc vàng bao trùm 
		khắp cõi đại thiên; hào quang ấy soi phải chúng sinh nào, thì "ba độc", 
		"năm ấm" của chúng sinh ấy tiêu tan, thân tâm an lạc, cũng như các vị Tỳ 
		kheo nhập đệ tam thiền. Khi đó mọi người đều vui vẻ tán thán kính mến 
		đức Phật rất tha thiết. Sau khi nghe thuyết pháp xong ai nấy đều khai tỏ 
		lý trí, phát đạo tâm, tiến tu phúc tuệ, một số khá nhiều. Đến ngày thứ sáu, ông Luật Xương thỉnh Phật, hôm 
		đó đức Phật làm cho tất cả mọi người trong đại hội tâm hiểu biết lẫn 
		nhau, mỗi người đều có thể hiểu ý nghĩ của từng người, họ đang nghĩ 
		thiện hay nghĩ ác, chí hướng hay hành nghiệp thế nào. Thấy thế ai cũng 
		kính sợ Phật! Những sự mến mộ và vui mừng lại càng nồng nhiệt. Sau khi 
		được nghe lời giảng của đức Phật, ai nấy sung sướng tâm trí mở mang, kết 
		quả sinh Thiên cũng nhiều. Ngày thứ bảy, ông Thích Chủng Bối thỉnh Phật. 
		Hôm đó Phật dùng sức thần tức vô ngại, khiến cho mọi người trong hội tự 
		thấy mình làm vua Chuyển Luân, có đủ cung điện, quan quân, ngọc nữ, Thất 
		bảo, lại thêm một ngàn người con, vua các quan văn võ đều đến triều phục 
		nơi mình. Thấy thế ai cũng kinh hoảng ngơ ngác, không biết tại sao? Sau 
		đó tự thấy như một giấc chiêm bao, ai cũng chứng tỏ do sức thần của Đức 
		Phật hóa hiện, nên lại càng tăng phần tín hướng và phát tâm Vô thượng Bồ 
		đề, kết quả sinh Thiên rất đông. Đến ngày thứ tám, vua Đế Thích thỉnh Phật, ngày 
		đó vua Đế Thích bày tòa sư tử trang trí nơi Phật ngự, thuần bằng bảo vật 
		trên thiên cung hương trời, nhạc trời, các món ngon quý dâng Phật, một 
		bầu không khí khác hẳn với trần gian. Đức Phật và Tăng Chúng bước ra, theo sau có vua 
		Đế Thích, vua Phạm Vương, các ông Thiên Tử, tiếp đến quan quân, dân 
		chúng. Tới nơi Phật thăng tòa ngồi yên tĩnh, vua Đế Thích đứng hầu bên 
		tả, vua Phạm Vương đứng hầu bên hữu tất cả đại chúng yên lặng, chờ đón 
		đức Thế Tôn thuyết pháp và hiện thần biến cho xem, muôn ngàn triệu con 
		mắt đều chiếu hướng đức Thế Tôn. Đức Phật dung nhan như vầng nhật nguyệt, hào 
		quang sáng chói tựa núi vàng, miệng tươi như hoa nở, cất lời nói âm 
		thanh vang xa khắp thế giới đại thiên, muôn loại chúng sinh đều hiểu 
		thấu. Khi đó Ngài cất cánh tay vàng, vịn xuống tòa 
		ngồi, tự nhiên có tiếng gầm lớn, vang động như sét đánh, mọi người đều 
		giật mình run sợ! Ở dưới tòa sư tử của Ngài nhảy ra năm vị Đại Thần Quỷ 
		nhìn như mặt sắt da đồng gầm tiếng như muôn sư tử thét, chạy xông lại 
		kéo bọn Lục Sư xuống đất đạp tòa ngồi gãy tan nát, tiếp đến Kim Cương 
		mật Tích, tay cầm chày Kim Cương, trên đầu đầy lửa bốc lên vùn vụt, xông 
		lại đánh bổ vào đầu Lục Sư. Lục Sư hoảng hồn chạy tán loạn, vừa thẹn vừa 
		nhục, bị thần Kim Cương đuổi, cùng đường, nên chúng đâm đầu xuống sông 
		chết cả. Còn chín ức đồ chúng trở lại theo Phật cầu xin làm đệ tử. Thể 
		theo lòng Từ bi, Phật cũng dung thứ và thâu nhận. Phật nói: - Thiện Lai Tỳ kheo. Nói xong, những người ấy rụng hết tóc, áo trên 
		mình biến thành áo Cà sa, biến thành các vị Sa môn theo Phật tu hành, 
		không bao lâu hết lậu nghiệp thành La Hán. Ngày thứ chín, vua Phạm Thiên thỉnh Phật. Ngài 
		hóa thân cao lớn tới cõi trời Phạm Thiên uy nghiêm hiển hách phóng hào 
		quang sáng lớn, tưng bừng khắp cõi Đại Thiên thế giới, khi đó đại chúng 
		ai ai cũng nghe thấy tiếng nói: Phật vì tất cả chúng sinh, diễn thuyết pháp yếu, 
		khiến cho đại đa số người phát tâm cầu Phật, kết quả sinh Thiên nhiều 
		không kể xiết. Ngày thứ mười, Tứ Thiên Vương thỉnh Phật. Lúc ấy 
		đức Phật dùng phép Tam Muội vô ngại, khiến cho mọi người trong đại hội 
		thấy thân của Ngài ở khắp cõi trời những thân ấy đều phóng quang minh, 
		và đương thuyết pháp cho đại chúng nghe. Trong đại hội hiển nhiên tai nghe, mắt thấy 
		những thần thông biến hóa vô ngại của đức Thế Tôn, ai nấy đều tha thiết 
		tôn kính Ngài như đấng Cha Lành. Sau được nghe Ngài giải thích sự diệu 
		dụng của tâm Chân Như vô ngại thể tánh bất diệt vô sinh của mỗi chúng 
		sinh đều có, nên nhiều người giác ngộ dự vào hàng "Bất Thoái" còn những 
		người đắc quả sinh Thiên rất đông. Ngày thứ mười một, ông Tu Đạt thỉnh Phật. Hôm đó 
		đức Phật đương ngồi trên tòa cao tự ẩn hình đi phóng quang minh sáng lòa 
		trời đất, phát ra những tiếng dịu dàng, diễn thuyết phân minh các pháp 
		yếu. Đại chúng nhiều người thấu tỏ đạo mầu, phát tâm Vô thượng chứng 
		ngôi A Duy Việt Chí, đắc quả sinh Thiên khá đông. Ngày thứ mười hai, ông Cư sĩ Chất Đà La thỉnh 
		Phật cúng dàng. Ngày đó Phật nhập phép Từ bi tam muội phóng quang minh 
		sắc vàng, so khắp cõi đại thiên, hào quang ấy soi vào chúng sinh nào, 
		thì chúng sinh ấy hết tâm "Tam độc" nảy tâm Từ bi, lại có con mắt "Bình 
		đẳng"coi chúng sinh như cha như mẹ, như anh, như em, lòng yêu không thêm 
		bớt, sau khi thuyết pháp nhiều người lên ngôi "Bất Thoái" và đắc quả 
		sinh Thiên khá nhiều. Ngày thứ mười ba, vua Chuân Chân Đà La thỉnh 
		Phật. Khi Phật thăng tòa ngồi yên tĩnh, nơi rốn Ngài phóng ra hai tia 
		hào quang tỏa ra hai bên, cách thân bảy "nhận" (tức 56 thước) trên đầu 
		hào quang đều có hoa sen, trên hoa có đức Phật hóa hiện, hình tướng cũng 
		như đức Phật Thích Ca, các đức Phật ấy nơi rốn cũng phóng hào quang tẻ 
		ra hai bên cách bảy nhật, trên những tia hào quang đều có hoa sen, trên 
		hoa sen có đức Phật hóa hiện, cứ như thế chuyển biến lan tràn khắp cõi 
		đại thiên, ai coi thấy cũng ngạc nhiên, vừa sợ vừa mừng, trộn lẫn! Lúc ấy đức Phật theo trình độ của từng người mà 
		thuyết pháp nên nhiều người đắc quả sinh Thiên không kể xiết. Ngày thứ mười bốn, vua Ưu Điền thỉnh Phật. Hôm 
		đó ông ra sắc lệnh cho các hàng hương hoa phải đem các thứ hương tốt, 
		hoa tươi, quý đẹp vào dâng. Buổi sáng sớm Hoàng Đế Ưu Điền, Hoàng hậu hoàng 
		phi thể nữ quan quân, âm nhạc ra thí tràng, nhìn thấy Phật ngồi tòa sư 
		tử nghiễm nhiên như quả núi, hai mắt chiếu tinh quang, trông rất tôn 
		nghiêm, ông và toàn thể gia đình cúi đầu lễ Phật rồi dâng hoa lên cúng 
		dàng. Phật nhiếp phép thần túc biến những hoa ấy thành 
		một ngàn hai trăm năm mươi bảy cỗ xe quý đẹp cao tới cõi trời Phạm thiên 
		sáng như mặt trăng đêm rằm các bảo vật có ánh sáng phản chiếu nhau tưng 
		bừng rực rỡ, như thần châu, tràng anh lạc, trang nghiêm nơi xe ấy, vô 
		cùng tráng lệ. Trong các xe đều có các đức Phật ngồi, phóng 
		quang minh bao phủ ba ngàn cõi. Đại chúng coi thấy sức thần biến như thế, trong 
		tâm vừa kính mến, vừa vui mừng pha trộn lẫn nhau. Đức Phật thuyết pháp cũng như ông Thầy thuốc tùy 
		theo bệnh cho thuốc. Vì thế sau cuộc thuyết pháp, có rất nhiều người 
		phát tâm hướng đạo, cũng có người được ngôi "Bất Thoái" kết quả sinh 
		Thiên cũng nhiều. Ngày thứ mười lăm, vua Bình Sa thỉnh Phật cúng 
		dàng. Hôm đó Phật phán cho ông sửa soạn các món ăn. Theo lời Phật dạy 
		nhà vua sai người bày rất nhiều chén bát và các đồ để chứa món ăn trên 
		bàn, khi bày xong tự nhiên các chén bát đầy các món ăn ngon quý trên 
		thiên cung, mùi cơm thơm ngào ngạt. Tất cả những người trong đại hội ăn 
		cơm xong thân tâm dũng mãnh an vui. Sau bữa ăn, đức Thế Tôn chỉ ngón tay xuống đất, 
		ai ai cũng được nhìn thấy mười tám Địa ngục, và thấy rất nhiều tội nhân, 
		những tội nhân ấy, tự nói những tội ác của mình đã tạo đời trước, nên 
		nay họ phải chịu tội khổ. Thấy thế ai cũng thương hại và sợ hãi cho mình, 
		nên thân thể đều run rẩy không yên! Để cho mọi người chứng tỏ của sự ác báo, có cụ 
		thể, rồi Ngài phân tách những tội lỗi đó cũng do từ nơi thân miệng ý gây 
		nên, và Ngài vạch vẽ những lối thoát khổ, nên nhiều người phát tâm đại 
		đạo, kết quả sinh Thiên rất nhiều. Những tội nhân được thấy Phật và nghe thuyết 
		pháp, họ tự phát sinh lòng tôn kính quay đầu về nơi Phật, thì những tội 
		nhân ấy được sinh Thiên hoặc sinh làm người tất cả. Tới đây vua Bình Sa đến trước đức Thế Tôn, năm 
		thể gieo xuống đất, lễ xuống ba lần, rồi quỳ thẳng chắp tay bạch Phật 
		rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn, Ngài có ba mươi hai 
		tướng tốt đẹp, chúng con chỉ được coi thấy tướng ở thân Ngài, hoặc ở tay 
		Ngài, nhưng chưa từng bao giờ được nhìn thấy luân tướng ở gan bàn chân, 
		vậy kính xin cho con và đại chúng ở đây được chiêm ngưỡng. Theo lời cầu thỉnh của nhà vua, nên Phật ngửa 
		hai bàn chân lên. Đại chúng nhìn thấy trang nghiêm nước da sáng suốt, 
		những đường chỉ thẳng thắn phân minh, rành rẽ, càng xem càng mến! Nhà 
		vua vui mừng bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Chẳng hay đời quá khứ 
		Ngài làm phước gì, được tướng đẹp này, cúi xin chỉ giáo? Phật dạy: - Đại Vương nên biết, đời quá khứ ta 
		tu thập thiện và đem thập thiện dạy cho người ta cùng tu, cho nên được 
		luân tướng như thế! - Kính lạy Ngài! Khi tu và dạy người nghe hãy 
		như thế nào, cúi xin chỉ giáo cho chúng con được biết. Phật dạy: - Đại Vương muốn nghe hãy chú ý nghe 
		kỹ: Cách đây vô số kiếp A tăng kỳ, cũng Châu Diêm Phù Đề này có một ông 
		vua nước lớn tên là Đà La Ni Di, thống trị tám mươi tư ngàn nước nhỏ, 
		tám mươi ức tụ lạc, một vạn quan Đại thần, hai vạn bà Phu nhân, nhưng 
		không ai có con. Nhà vua lo tuyệt tự không người kế vị, nên thường hay 
		cầu đạo ở miền Thiên Vương, được ít lâu bà Tu Lê Bà La là đệ nhất Phu 
		nhân có thai, lòng nhân từ bác ái lại hay khuyên người làm lành. Mãn 
		tháng khai hoa, sinh được Thái tử tướng mạo khôi ngô tuấn tú, một vẻ 
		trượng phu đầy phúc đức, những lỗ chân lông đều có ánh sáng. Khi bà sanh được Thái tử nhà vua vui vẻ khôn 
		cùng! Triệu các Thầy tướng đến coi. Các Thầy tướng đều khen ngợi và nói: - Tâu Bệ Hạ! Hoàng tử có đầy đủ phước đức oai 
		nghi, sau này có thể trị an bốn bể, thiên hạ phải tùng phục, muôn phương 
		kính nể. Nghe Tướng sư nói, nhà vua rất hài lòng và nhờ 
		đặt tên cho Thái tử. Tướng sư nói: - Tâu Bệ Hạ, trong khi hoài thai 
		có điềm tướng gì lạ không? Đáp: - Khi đó Hoàng hậu có trí tuệ thông sáng và 
		nhân từ, lại hay khuyên người tu thiện, còn các điềm lành cũng rất 
		nhiều, nhưng có hai điềm ấy lạ hơn. Tướng sư nói: - Tâu Bệ Hạ! Cứ theo Hoàng hậu có 
		trí tuệ, và Hoàng tử có ánh sáng nơi thân thể thì xin đặt Na Bà La Mãn 
		(Tàu dịch: "Tuệ Quang") Quả nhiên Thái tử lớn lên có trí tuệ siêu nhân, 
		tất cả các môn học thuyết đều thông hiểu, các danh nhân hiền triết trên 
		thế giới đều bái phục lực thông minh của Thái tử. Năm ấy Thái tử chưa 
		đến tuổi trưởng thành, thì vua cha băng hà (chết). Trong triều các quan và nội cung hoàng tộc làm 
		lễ an táng vua xong. Giữa lúc ấy có đông đủ tám vạn bốn ngàn vua nước 
		nhỏ và triều thần văn võ bản quốc hội họp, bầu Thái tử lên kế vị đại 
		Quốc vương. Thái tử nói: - Kính thưa các Quốc vương quý quốc và văn võ bá 
		quan, bản triều tôi thực không có năng lực đảm đương đại sự, xin suy tôn 
		các vị có tài đức trị dân! Các quan đều thưa: - Thưa Thái tử, đại vương đã qua đời, chỉ sinh 
		được mình Thái tử anh em không có một ai, nếu Thái tử không chịu ra chấp 
		chính bây giờ nhường ai? Ai là người đương nổi? Thái tử đáp: - Tôi nhận thấy trên đời lắm kẻ tàn 
		ác, nếu ra lệnh hành phạt họ, thì tội ấy không phải nhỏ, nếu các Ngài 
		trị dân chúng dùng chánh pháp và bắt dân tu theo pháp thập thiện thì tôi 
		sẽ nhận chức bảo lãnh việc nước! Các quan nói: - Thưa Thái tử! Xin Thái tử thăng điện nhậm 
		chức! Theo lời nói, Thái tử thăng điện nhậm chức. Sau ngày Thái tử lên làm vua, sửa sang việc nước 
		rất có chánh thể ích quốc lợi dân, bãi bỏ hủ tục mê tín cờ bạc, mãi dâm, 
		hút xách, rượu chè, và bắt dân phải thực hành tu theo thập thiện. Thái 
		tử có đức lớn, lòng Từ bi cứu thế cảm động trời đất nên muôn dân vui vẻ 
		tuân theo tu thập thiện, cải tà quy chính, đổi ác làm lành. Khi đó Ma Vương thấy nhà vua bắt dân tu thiện, 
		lòng đố kỵ nổi giận dùng mưu phá chánh sách tu thiện của muôn dân, chúng 
		muốn cho dân làm nô lệ chết sa vào tam ác đạo, thực là đại ác nham hiểm 
		vô cùng. Chúng mật làm một phong thơ báo cáo cho vua các nước để phá 
		hoại sự giáo hóa tu thập thiện của nhà vua. Thư nói: "Trước đây tôi có sắc lệnh cho nhân dân tu theo 
		pháp thập thiện nhưng xét ra không được lợi ích gì! Chỉ luống công đau 
		khổ thôi! Thực là một việc không có kết quả cho nhân sinh. Vậy từ nay 
		trở đi cho muôn dân làm mười điều ác, các ông không được cử phạt." Vua các nước tiếp được lá thơ ấy, lấy làm kỳ dị 
		quá nói: - Tờ chiếu chỉ của đại quốc vương không biết tại 
		duyên gì bắt dân bỏ điều lành làm điều ác. Sau các ông vua đều cho sứ thần đến hỏi nguyên 
		ủy của bức thơ. Khi nhà vua nghe thấy nói có tờ chiếu chỉ do 
		chính mình hạ lệnh bắt dân bỏ thiện làm ác, ngạc nhiên nói: - Ta tuyệt nhiên không có sắc lệnh như thế, tại 
		sao có tờ chiếu chỉ này. Lập tức nhà vua và các quan đại thần bản triều 
		lên xe đi các nước, quả nhiên đã thấy nhân dân làm ác, đổi lệnh cũ, theo 
		lệnh mới. Ma Vương thấy nhà vua đi trên đường lớn tự hóa 
		làm người, đứng giữa đống lửa cháy ở bên lề, kêu khóc thảm thiết, nhà 
		vua đến tận nơi hỏi: - Tại sao ngươi khóc? - Tâu Bệ Hạ! Tôi lúc tiền sinh hay khuyên người 
		tu thập thiện nên ngày nay bị quả báo thống khổ như vậy! Nhà vua nói: - Sao lại có chuyện khuyên người tu 
		thiện, mình phải chịu đau khổ? Nhà vua hỏi tiếp: - Thế! Anh khuyên người tu thập thiện; mà anh 
		phải đau khổ, thì những người được anh khuyên tu kia có được phước lành 
		gì không? Đáp: - Tâu Bệ Hạ, những người đó được phước 
		nhiều lắm! Chỉ vì dạy người tu thập thiện nên riêng mình phải chịu quả 
		báo đau khổ, lửa đốt suốt ngày đêm như vầy. Đây là Ma Vương muốn làm thoái tâm khuyến tu 
		thập thiện của nhà vua, trái lại nhà vua nghe xong rất vui vẻ đáp rằng: Vâng! Phải lắm tốt lắm! Cốt sao cho chúng sinh 
		hết đau khổ tội lỗi, được phước báu nhiều, còn mình chịu khổ có hận chi! Ma Vương thấy nhà vua không thoái tâm, liền ẩn 
		hình biến mất rồi đi khắp các nước để tuyên truyền cho dân tu thập 
		thiện. Từ đó nhân dân đều tu theo pháp thập thiện giữ gìn thân, khẩu, ý, 
		ba nghiệp hoàn toàn, chánh pháp lan tràn khắp thiên hạ, tất cả nhân dân 
		tòng phúc, nên đức của nhà vua mỗi ngày một lớn, vì phúc lành ấy xe kim 
		luân và Thất bảo tự nhiên hiển xuất, nhà vua bay đi giáo hóa khắp thiên 
		hạ; Nhưng bao giờ nhà vua cũng lấy pháp thập thiện làm đích để chỉ đạo. Tôi đây Phật nhắc lại cho vua biết rằng: - Đai Vương! Vua Thi Đà Ni Di thuở đó tức là Phụ 
		vương của ta bây giờ (vua Tịnh Phạn), bà Phu nhân sanh Thái tử lúc đó 
		chính là thân mẫu của ta ngày nay, vua Tuệ Quang dạy dân tu thập thiện 
		là tiền thân của ta. Cũng do đời ấy ta tự tu thập thiện và khuyên dân tu 
		thiện nên nay được phước báu nơi gang bàn chân có ánh quang minh, và 
		ngàn hoa tươi thắm như vậy. Khi đó vua Bình Sa tới trước lễ Phật quỳ thẳng 
		chắp tay bạch Phật rằng: Kính lạy đức Thế Tôn! Bọn Lục Sư mê muội quá! 
		Không biết lượng sức mình, vì lòng tham danh trục lợi, đem tâm ghen 
		ghét, đòi thi thần thông với Ngài, chúng tự nói: Phật làm được một phần, 
		chúng sẽ làm được hai. Sau khi bị sức thần thông của Thế Tôn làm trấn 
		át, chúng hết thế lực tẩu thoát, cùng đường đâm đầu xuống sông tự tử, 
		còn đồ đệ chạy tán loạn tự chúng gây nên tai nạn muôn đời, con nghĩ lũ 
		mê cuồng ấy không biết căn duyên tại sao, xin Thế Tôn chỉ giáo? Phật đáp: - Đại Vương! Nên biết bọn Lục Sư chẳng 
		những ngày nay tranh lợi tranh danh với ta, mất thân mạng thế đâu! Đời 
		quá khứ chúng đã tranh với Ta một lần, nhưng đều bị thất bại. Ta lại 
		đoạt được cả đồ đảng của chúng nữa. Vua Bình Sa lại bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Việc đó thế nào cúi xin 
		chỉ giáo? Phật dạy: - Đại vương hãy để ý nghe, trước đây 
		đời quá khứ vô lượng vô số kiếp A tăng kỳ cũng Châu Diêm Phù Đề này có 
		một ông vua tên là Ma Ha Xa Cừu Lợi, thống trị năm trăm nước nhỏ, vua có 
		năm trăm Phu nhân nhưng chưa bà nào có con trai. Vua tự nghĩ rằng: "Tuổi 
		ta đã cao lại không có con để nối quốc vị, một sớm băng hà lấy ai để bảo 
		tồn chính thể của quốc gia biết giao phó cho ai? Tất nhiên trong nước có 
		sự tranh giành tàn sát lẫn nhau nhân dân sẽ bị nguy ngập. Nghĩ thế rồi chưa biết giải quyết ra sao? Nên 
		lúc nào ông cũng buồn! Vua Đế Thích trên thiên cung biết ý nghĩ của nhà 
		vua như thế, liền từ trên trời bay xuống hóa làm một ông Thầy thuốc đến 
		vương cung xin vào yết kiến vua, và hỏi ngay ý nghĩ lo buồn của nhà vua. 
		Nhà vua cũng đem ý nghĩ của mình như trên nói cho ông rõ. Ông trả lời rằng: - Xin Bệ Hạ chớ lo! Để tôi đi vào núi tuyết lấy 
		các vị thuốc cho các Phu nhân của Bệ Hạ uống thì sẽ có thai. Nhà vua nghe nói tâm buồn đã nguôi nguôi, và bảo 
		Thầy thuốc rằng: - Thưa Ngài nếu được như thế thì còn gì hay hơn 
		nữa. Thầy thuốc Từ biệt lên đường vào núi, cách ít 
		ngày lấy được rất nhiều dược thảo đem về dâng vua, bạch rằng: Nói rồi vái chào ra về, vua hỏi: - Thưa Ngài, thuốc này sẽ lấy bao nhiêu tiền? Đáp: - Tâu Bệ Hạ, đây tôi xin giúp Bệ Hạ chứ 
		không lấy tiền. Nói xong ẩn hình biến mất, nhà vua thầm nghĩ: 
		"Người này là thần nhân ủng hộ có lẽ hay lắm, rất có kết quả cho ta". Sau khi Đế Thích về, nhà vua sai người lấy sữa 
		nấu lẫn với thuốc, dâng bà Đệ nhất Phu nhân uống. Song bà chê bẩn và 
		không tin, nên không chịu uống thuốc đó, các bà Tiểu Phu nhân chia nhau 
		uống hết quả nhiên được ít lâu các bà ấy đều có thai, và đem sự kết quả 
		uống thuốc nói cho bà lớn biết. Bà lớn có ý hối hận hỏi: - Thuốc ấy có còn thừa chút nào không? Các bà đáp: - Thưa bà! Hết cả! - Vậy các được thảo có còn không? Các bà đáp: - Thưa bà hãy còn một ít! Bà Đại Phu nhân sai người lấy sữa nấu thuốc dùng 
		được ít lâu thấy có thai, bà vui mừng thầm trong dạ và cũng không nói 
		cho các bà biết. Các bà Tiểu Phu nhân đầy tháng đều sinh con 
		trai, nhân tướng khôi ngô tuấn tú, nhà rất sung sướng, vì các bà đã sinh 
		được nhiều quý tử. Nhưng vua vẫn áy náy trong lòng, là vì Đại Phu nhân 
		chưa có con! Một thời gian sau trăng tròn nguyệt mãn, bà Đại 
		Phu nhân sinh được cậu con trai, nhưng rất buồn thay cho bà, cậu con 
		trai của bà xấu quá, mặt mũi xù xì hình như quỷ sứ. Buồn quá! Đặt lên là 
		Đa La Hầu Đà (Tàu dịch "Chu Ngột"), Hoàng hậu giao cho người vú nuôi 
		nấng ở một nơi và không cho ai biết. Từ đấy trở đi trong nước vẫn được thanh bình, 
		nhân dân an lạc, sau khi các Thái tử nhà vua đều cưới vợ cho cả, duy Chu 
		Ngột xấu quá nên nhà vua không để ý tới. Bấy giờ nước bên cạnh có sự bất bình với vua Ma 
		Ha Xa Cừu Lợi, mang binh tiến sang để khởi chiến, năm trăm Vương tử mang 
		quân ra chống cự, song bị thất bại chạy về. Chu Ngột thấy thế hỏi: - Hôm nay các anh ra chiến đấu thắng hay bại, 
		coi có vẻ sợ hãi thế? Đáp: - Hôm nay chiến đấu bất lợi, bị giặc đuổi 
		lui! Chu Ngột nói: - Các anh chớ lo, tôi sẽ đánh đuổi 
		cho bằng hết, tổ tiên chúng ta trước làm Chuyển Luân Thánh Vương còn để 
		lại trong Thiên Tự một cái cung lớn và một cái bối, tôi sẽ dùng hai bảo 
		vật ấy đuổi giặc thành công. Chu Ngột vào Thiên Tự lấy cung và bối đem 
		ra giương thử, tiếng kêu như sấm, vang xa bốn mươi dặm. Rồi một mình ra 
		đi, khi tới chỗ giặc đóng quân, Chu Ngột cầm bối thổi tiếng kêu như sét 
		đánh, giặc nghe sợ kinh hồn chạy tán loạn; như vậy không cần phải đánh 
		cũng tan. Khi dẹp yên được địch quân xong, trở về nhà, vua và quần thần 
		văn võ bá quan ra đón chào về cung, từ đó mới được sự yêu đãi của Vương 
		phụ. Sau cuộc ăn mừng đuổi giặc nhà vua nghĩ đến sự 
		kết hôn cho Thái tử, nhưng cũng khó, là vì Thái tử xấu quá. Thời đó có ông vua nước láng giềng tên là Luật 
		Sư Bạt Ta, có người Công Chúa xinh đẹp nhưng chưa lấy chồng. Một hôm nhà vua gọi quan đại thần vào nói rằng: - Vua Luật Sư Bạt Ta có một Công Chúa nghe biết 
		chưa lấy chồng, ta muốn nhờ ngươi sang xin đẹp duyên cùng Thái tử Chu 
		Ngột, nhà vua có hỏi đến tướng mạo của Thái tử thì người coi tướng anh 
		của Thái tử mà diễn tả bộ dạng cho biết. Đại thần vâng lệnh ra đi, sang tới nơi lên tâu 
		vua rằng: - Tâu Bệ Hạ! Tôi là sứ thần của vua Ma Ha Xa Cừu 
		Lợi vâng lệnh sang đây, xin Bệ Hạ cho Thái tử Chu Ngột được làm Phò Mã 
		của Ngài. Nhà vua hỏi: - Thái tử bao nhiêu tuổi? Hình dáng 
		ra sao? Học vấn thế nào? Đáp: - Thái tử năm nay tuổi vừa đôi tám, tướng 
		người đẹp đẽ, sức lực hùng mạnh, trí óc thông minh. Nhà vua gật đầu nói: - Nhà ngươi về tâu vua: Ta 
		đồng ý gả Công Chúa cho Thái tử. Đại thần về tâu vua sự thỏa thuận của 
		Quốc Vương láng giềng hứa gả Công Chúa cho Thái tử, vua rất hoan hỷ! Sai 
		người sửa soạn lễ vật đính lễ nghinh hôn, cuộc lễ này cũng rất buồn 
		cười: Là vì chú rể mượn! Khi về đến hoàng cung yến tiệc rất linh đình, 
		mọi người vui vẻ ca hát mừng đôi loan phượng. Nhưng có một điểm là Công 
		Chúa khi về tới hoàng cung không nhìn thấy mặt chồng. Nhà vua dặn Chu Ngột ban ngày chớ để vợ nhìn 
		thấy mặt. Theo lời Vương Phụ dặn, cứ tối khuya im lặng. 
		Chu Ngột mới đến để vui thú cùng vợ… Chu Ngột đến, Công Chúa hỏi: - Lúc ban ngày anh đi đâu không thấy? Đáp: - Ban ngày anh phải đem quân ra trấn các 
		cửa ải, hồi này nước ngoài luôn luôn đem binh sang xâm lược nước nhà, 
		anh đều đẩy lui được bọn chúng, nên mới có trọng thưởng của nhà vua. Công Chúa hỏi: - Anh được trọng thưởng những bảo 
		vật gì? - Trọng thưởng thứ nhất là được em, ngoài ra thì 
		không đáng kể. Công Chúa nghe nói rất hân hạnh vui dạ! Một buổi nọ vợ các Vương tử hội họp với nhau, cô 
		nào cũng khoe tài đức của chồng mình. Cô vợ của Chu Ngột tự khoe chồng 
		mình có lực hùng mạnh, tươi đẹp, có công đuổi giặc dẹp nước yên dân, có 
		thiếu phụ khác lắc đầu lè lưỡi nói: Thôi cô đừng nên nói nữa, chồng cô xấu lắm, 
		người chẳng khác, phải quỷ thì không, ban ngày nếu cô nhìn thấy, cô sẽ 
		thất kinh hoảng hồn. Vợ Chu Ngột nghe nói khí sắc biến đổi, vừa nhục 
		vừa thẹn. Nhưng cố nhẫn lẳng lặng ghi lại tâm. Trở về tư thất giấu đi 
		một cái nến để nơi kín, chờ tối chồng đến an nghỉ xong, cô đưa nến soi 
		xem mặt, quả nhiên thấy hình tướng đáng sợ hãi thật, xấu thật, thực là 
		trên đời chưa có một ai xấu đến như vậy! Cô chờ chồng ngủ mệt, giữa đêm 
		khuya thanh vắng ra xe trở về nước nhà. Trời vừa tảng sáng, Chu Ngột thức giấc không 
		thấy vợ; chạy trước nhìn sau tuyệt nhiên không thấy ảnh bóng một ai, 
		biết đích vợ mình đã bỏ đi; trong lòng buồn tức, giận đâu nổi lên, ầm ầm 
		vác cung cầm bối lên ngựa đuổi theo không kịp. Khi tới nước kia nghi trọ 
		tại một nhà ông quan bên đó. Thời ấy có sáu ông vua nước bên cạnh, biết vua 
		Luật Sư Bạt Ta có người con gái đẹp, hay tin cô đã trở về nước, nên sáu 
		ông đồng thời tiến quân sang biên thùy, đưa thư cho vua xin cầu hôn. Vua Luật Sư Bạt Ta rất phiền não, trong lòng bối 
		rối, vì không biết giải quyết thế nào? Nên nhà vua cho triệu tập tất cả 
		các triều thần văn võ bá quan lại thảo luận. Luật Sư Bạt Ta nói: - Công Chúa hiện đã về tới bản quốc, tôi vừa mới 
		tiếp được sáu phong thư của sáu quý quốc, xin đính hôn cùng Công Chúa, 
		nếu cho một ông thì đối năm ông kia làm thế nào cho khỏi gây lòng oán 
		hận, giờ đây bá quan giải quyết thế nào cho đẹp lòng cả thì hơn? Có một ông quan đứng lên thưa rằng: - Tâu Bệ Hạ đem phanh công chúa ra làm sáu phần, 
		chia cho mỗi người một phần thì việc đó sẽ yên. Lại có một ông đứng lên thưa rằng: - Tâu Bệ Hạ bây giờ hãy ra một tờ cáo thị như 
		sau: Nếu ai có tài đánh đuổi được quân giặc thì sẽ gả Công Chúa và chia 
		nước cho một nữa, ngoài ra còn ân thưởng rất nhiều. Vua đồng ý viết bảng cáo thị. Đa La Hầu Đà (Chu Ngột) nghe biết giật bảng cáo 
		thị, mang cung cầm bối xuất trận, thổi còi giương cung bắn, các quan 
		quân của sáu ông vua đều kinh khủng chạy tán loạn mất cả. Chu Ngột tiến 
		vào hạ thủ sáu ông vua, thu bắt rất nhiều binh nhung sĩ chúng. Vua Luật Sư Bạt Ta hay tin Chu Ngột đã chiến 
		thắng, thân ngự ra ngoài thành đón tiếp, và biết rằng: Chính Chu Ngột 
		con vua Ma Ha Xa Cừu Lợi, anh hùng đã nổi tiếng, hơn nữa lại là con rể 
		của Ngài, nhà vua rất hoan hỷ. Sau khi về hoàng thành xong cuộc yến tiệc ăn 
		mừng thắng trận, nhà vua và bá quan suy tôn Chu Ngột làm Đại Vương thống 
		trị bảy nước. Chu Ngột thăng điện nhậm chức bảo lãnh chánh 
		quyền, đặt lại các việc triều chính, sửa đổi chính sách, mở mang văn 
		hóa, đặt các lễ nghi theo chánh giáo, dạy dân có đạo đức, phế bỏ hủ tục, 
		và những tà thuyết mị dân, xếp đặt các công việc xong xuôi rồi cùng vợ 
		kéo quân về nước. Hay tin Thái tử Chu Ngột về nước, nhà vua và các 
		quan quân thân ra ngoài biên cương đón. Khi về tới hoàng cung, nhà vua 
		biết Chu Ngột có đủ tài đức, nên cất làm Đại Vương. Chu Ngột không chịu 
		tâu rằng: - Muôn tâu Vương Phụ! Xin ở tại ngôi, việc ấy sẽ 
		chưa nên. Nhà vua cũng phải chiều theo ý định của Thái tử, 
		xong cuộc vui mừng này, quan quân đều giải tán đâu về đấy. Chu Ngột Thái tử đưa vợ về cung an nghỉ, lúc đó 
		trách vợ ăn ở bạc tình, có ý phàn nàn không thật lòng giao kết lương 
		duyên, trăm năm trọn đạo! Công Chúa thưa rằng: - Thưa Thái tử! Vì Thá Tử xấu quá, coi dữ dằn 
		quá em rất kinh và hình như không giống người nên em mạn phép ra đi. Chu Ngột lấy gương soi thấy mình quả nhiên xấu 
		thật, sự thật không khác gì quỷ, tự nghĩ rằng: - Mình vị thân hình xấu ác, không sống với vợ, 
		để vợ sợ hãi cũng không nên. Tự phát tâm chán ghét không muốn có thân ấy nữa, 
		ra nơi rừng xanh để tự sát, khi sắp buộc dây treo lên cành cây, vua Đế 
		Thích ở xa ngó thấy liền bay đến tận nơi hỏi. Chu Ngột đáp: - Tôi bị thân hình xấu quá nên 
		muốn tự sát ở nơi đây. Vua Đế Thích khuyên can đem cho hạt ngọc minh 
		châu dặn rằng: - Xin dâng tặng Ngài hạt ngọc minh châu này để 
		trên đầu, sẽ được thân hình đoan chính tươi đẹp như tôi. Chu Ngột cảm tạ nhận lấy bạt châu để trên đỉnh 
		đầu, quả nhiên thân thể đổi xấu thành đẹp. Khi trở về nhà, không bảo cho vợ hay, đi luôn 
		vào bảo tàng lấy cung và bối. Công Chúa thấy chàng thanh niên tươi trẻ 
		tự do vào lấy cung và bối, ngạc nhiên hỏi: - Anh là người nào dám tự tiện vào lấy cung của 
		chồng tôi? Chu Ngột mỉm cười đáp: - Anh là chồng của em 
		đây! Công Chúa nói: - Anh này điên dở, chồng ta lẽ ta 
		không biết sao? Anh là kẻ nào dám vô lễ tự xưng là chồng ta? Chu Ngột cười nấc cười nở đưa tay lên đầu lấy 
		hạt minh châu xuống, hiện lại nguyên hình xấu, thấy sự biến chuyển lạ, 
		Công Chúa nửa mừng nửa lo hỏi tiếp: - Tại sao có sự lạ như vậy, xin nói cho tôi rõ? Chu Ngột nói rõ câu chuyện được hạt minh châu 
		cho Công Chúa xem, Công Chúa vui mừng tin thực. Từ đó vợ chồng yêu nhau không có sự ngang trái 
		nữa, và bỏ tên Chu Ngột đổi là Tu Đà La Phiến. Sau một thời gian Tu Đà La Phiến muốn xây cất 
		một thành trì lớn, tìm nơi đất bằng phẳng cao mát rộng rãi, sắc lệnh cho 
		nhân dân kiến lập tại đó. Khi đó bốn ông Long Vương hóa hình làm người, 
		lại tâu vua rằng: - Tâu Bệ Hạ, nghe biết Bệ Hạ muốn xây thành, vậy 
		dùng vật gì để làm? Nhà vua đáp: - Tôi làm bằng đất! Long Vương thưa: - Sao Ngài không dùng Thất bảo 
		mà kiến thiết? Đáp: - Thất bảo là thứ quý giá nhất, và ít ỏi 
		nhất, thành lớn, quý Ngài tính lấy đâu mà được? Long Vương thưa: - Tâu Bệ Hạ! Để chúng tôi xin 
		cung cấp đủ cho Ngài làm! Long Vương nói xong, ngay bốn bên khu vực đất 
		ấy, biến thành bốn cái suối lớn. Long Vương chỉ vào bốn cái suối ấy thưa 
		rằng: - Bệ Hạ dùng nước suối phương Đông xây cất, thì 
		thành này hóa ra ngọc lưu ly; dùng nước suối phương Nam xây cất, thì 
		thành này hóa ra vàng; dùng nước suối phương Tây xây cất, thì thành này 
		hóa ra bạc; dùng nước suối phương Bắc xây cất, thì thành này hóa ra pha 
		lê. Nhà vua nghe nói, cảm tạ Long Vương. Bắt đầu xây 
		cất, quả nhiên lời nói của Long Vương là đúng. Thành ấy quy vuông bốn trăm dặm, trong thành làm 
		các cung điện lầu các; mỗi cung quy vuông bốn mươi dặm: Cung điện, đường 
		đi, nhà lớn, nhà nhỏ, rừng cây, ao tắm, trường thành, thuần bằng ngọc 
		lưu ly, pha lê, vàng, bạc, cực kỳ trang nghiêm đẹp đẽ, chẳng khác Thiên 
		Cung. Ngày hoàn thành này được bảy thứ báu ngọc tự nhiên đầy kho đụn. Tu 
		Đà La Phiến ngự trị thành này, từ đó bắt đầu dạy dân tu theo mười điều 
		lành (Thập Thiện). Nói tới đây, Phật nhắc cho vua Bình Sa biết 
		rằng: Bình Sa! Ông nên biết vua Ma Ha Xa Cừu Lợi thuở 
		đó hiện nay là Vương Phụ của ta (Tịnh Phạn Vương), bà mẹ sinh Chu Ngột 
		thuở đó nay là Thân Mẫu của ta (Ma Da Phu nhân). Vương tử xấu (Chu Ngột) 
		thuở đó chính là tiền thân ta, vợ Vương tử xấu lúc đó chính là bà Cù Di 
		ngày nay; ông thân của vợ Vương tử lúc đó ngày nay là ông Ma Ha Ca Diếp. 
		Sáu ông vua lúc ấy dùng binh sĩ áp bức để lấy Công Chúa của vua Luật Sư 
		Bạt Ta, chính là Lục Sư bây giờ. Thời ấy bọn ông ấy đã tranh sắc tranh tài với 
		ta, bị thất bại; ngày nay cũng do lòng tham danh trục lợi, đòi đấu sức 
		thần thông, không đủ lực chống đỡ, cùng đường đâm đầu xuống sông tự sát, 
		còn chín ức đồ chúng quay về theo ta làm đệ tử. Vua Bình Sa lại bạch Phật: - Kính lạy đức Thế Tôn! Thái tử Chu Ngột đời 
		trước trồng nhân lành gì được sinh làm con vua, có sức lực hùng mạnh và 
		tại sao bị thân thể xấu, cúi xin chỉ giáo cho chúng con được rõ. Phật nói: - Đó là một nhân duyên từ đời quá khứ, tới nay 
		đã vô lượng kiếp không thể tính được, cũng Châu Diêm Phù Đề có một nước 
		lớn tên Ba La Nại, nước ấy có một ông tiên, tu trong núi tên là Luật Sư. 
		Trong núi ông tiên ấy có một vị Bích Chi Phật, người bị chứng bệnh 
		phong, một hôm Ngài đến nhà hàng dầu, xin dầu muốn để trị bịnh. Người 
		chủ nhà hàng dầu phát lòng nóng giận lớn tiếng la mắng nói: - Đầu anh như Chu Ngột (gốc cây cụt), như cục 
		gỗ, tay chân ghê tởm, khờ khờ khoạng khoạng chỉ rình ròm xin người không 
		đem tiền mua chỉ muốn lấy không? Tuy nói thế nhưng anh hàng dầu cũng cho một chút 
		dầu cặn, song Ngài cũng không buồn giận gì lời nói lỗ mãng ấy, vẫn thản 
		nhiên lấy dầu. Khi ra khỏi nhà gặp vợ ông hàng dầu về, bà ta bả lả hỏi 
		han, một vẻ kính trọng nói: - Khoái Sĩ từ đâu tới đây, dùng dầu cặn làm gì? Đáp: - Tôi dùng để chữa bịnh phong. - Thưa Ngài xin trở lại để con xin dâng cúng thứ 
		dầu tốt! Ngài cũng hoan hỷ đi. Tới nhà, bà dâng một chén 
		dầu trong trẻo, dâng rồi la chồng rằng: - Anh thật không hiểu biết chi cả, tại sao anh 
		lại cúng Ngài dầu cặn, anh phải sám hối Ngài cho khỏi cái tội của miệng 
		anh. Ông hàng dầu này cũng có thiện tâm, hối hận 
		trong lòng ra xin lỗi, Ngài cũng hoan hỷ. Khi đó hai vợ chồng đều thưa 
		với Ngài rằng: - Thưa Ngài: Vợ chồng con xin nguyện chung thân 
		cúng dàng, Ngài muốn dùng gì xin cứ lại đây chúng con dâng. Từ đó vị Bích Chi Phật hằng ngày lại lấy các món 
		ăn dùng và dầu. Trước khi vào Niết bàn, nhân cảm cái ơn ấy vị 
		Bích Chi Phật hiện ra mười tám phép thần túc cho vợ chồng hàng dầu biết. Bay trên hư không, trong mình phun ra nước, dưới 
		mình hóa ra lửa, thân thể khi phân khi hợp, hiện biến rất nhiều phép lạ. Vợ chồng hàng dầu thấy thế, biết rằng Ngài đã 
		đắc đạo vui mừng khôn xiết, tự hận mình có lỗi nên bảo vợ rằng: - Em hoan hỷ cúng dàng Ngài, tương lai sẽ được 
		nhờ phúc báo thì cho tôi chung hưởng và cùng làm vợ chồng như nay nhé! Đáp: - Anh đối với Ngài tệ ác và cúng dầu cặn, 
		sau này có sinh nơi nào, dĩ nhiên phải chịu quả báo xấu, thì làm sao kết 
		duyên cùng anh được? Chồng nói: - Tôi cũng chịu sự cực khổ làm ăn, 
		của là của chung, đâu có phải một mình em làm ra được, mà nói: không cho 
		chung và không cho làm vợ chồng. Nghĩa là phúc là phúc chung, đâu phải 
		một mình em hưởng được. - Vâng! Nếu kiếp sau tôi có phải làm vợ anh đi 
		chăng nữa, nếu anh xấu đêm tối sẽ bỏ anh tôi đi! - Nếu em đi anh sẽ đuổi cho bằng được! Hai vợ chồng nói xong, rồi hướng lên vị Bích Chi 
		Phật thành tâm sám hối. Khi đó Ngài bảo rằng: - Do sự cúng dàng dầu của vợ chồn anh, nên ta 
		được khỏi bịnh, muốn cầu nguyện gì ta cho toại ý. Hai vợ chồng hoan hỷ quỳ thẳng chắp tay phát 
		nguyện rằng: - Kính xin Tôn giả, nguyện cho vợ chồng con trên 
		trời hoặc nhân gian, sinh chốn nào cũng được tôn sang phúc tuệ đầy đủ, 
		muốn gì cũng được toại ý Tới đây, Phật nhắc lại cho vua Bình Sa biết 
		rằng: Nhà vua nên biết: Người hàng dầu thuở đó chính 
		là Chu Ngột, vợ của hàng dầu chính là vợ của Chu Ngột thời ấy, thuở đó 
		ông hàng dầu mắng vị Bích Chi Phật thân người xấu như Chu Ngột (gốc cây 
		tre cụt) và tay như cái trục, lúc cho dầu có sắc giận tức. Vì thế nên bị 
		quả báo xấu, cũng theo đúng như khi phát lời nói mắng vị Bích Chi Phật 
		không khác, sau biết ăn năn sám hối vui vẻ cúng dầu tốt, cho nên sinh xứ 
		nào cũng được tốt đẹp; cũng do sự cúng dầu nên được nhiều sức khỏe, ngàn 
		muôn người không địch nổi, hơn nữa lại còn được làm Chuyển Luân Vương, 
		hưởng phúc bốn cõi, năm món dục đầy đủ thụ dụng. Thiện nghiệp hay ác 
		nghiệp, báo ứng không sai thù, vì thế tất cả chúng sinh phải nên giữ đạo 
		làm thiết yếu, cẩn thận nơi thân miệng, ý chớ nên dùng nó mà tạo những 
		điều xấu ác! Phật nói xong vua Bình Sa và tất cả vua, quan 
		dân chúng các nước với bốn bộ đệ tử, trời rồng, quỷ thần có người chứng 
		quỉ thần, có người chứng quả Tu đà hoàn, người được quả Tư đà hàm, quả A 
		na hàm; cho đến quả A la hán, cũng có người gây nhân Bích Chi Phật, cũng 
		có người phát tâm Bồ đề cho đến ngôi Bất Thoái, tất cả đều hoan hỷ lễ 
		kính dưới chân Phật mà lui. 
		(Quyển Thứ Hai Hết) 
		  |