| 
		 | 
		
| 
		
		 | 
		
		
		  Kinh Hiền Ngu 
		(Bàlapandita sutta) 
		 
		Kinh Hiền Ngu Quyển thứ 
		sáu 27/ Phẩm thứ hai mươi bảy BỐ THÍ MẮT Chính tôi được nghe: Một thuở nọ đức Phật ở nước 
		Xá Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà. Bấy giờ Đức Thế Tôn đương tuyên diễn Chánh Pháp 
		cho Đại chúng nghe, những người dự thính cũng đông, họ kéo nhau đi toán 
		này toán khác tấp nập. Lúc đó có một người dòng Bà la môn mù, ngồi bên 
		lề đường, thấy người đi nhộn nhịp hỏi rằng: - Hôm nay các ông đi đâu đông thế? Họ đáp rằng: - Anh không biết hay sao? - Dạ! Chúng tôi không được biết! - Ít được gặp Phật ra đời lắm anh ạ, hiện Ngài 
		đương thuyết pháp ở nước ta, chúng tôi đi nghe thuyết pháp đây! Người này tuy mù nhưng có một đặc tài là hiểu 
		biết tám thứ tiếng, anh ta chỉ nghe lời nói là phân biệt được, kẻ tôn 
		sang, hay người bần tiện. Tám thứ tiếng là: - Điểu thanh - Tam xích điểu thanh - Phá thanh - Nhạn thanh - Cổ thanh - Lôi thanh - Kim linh thanh - Phạm thanh Điểu thanh: là người nói tiếng như chim kêu, 
		người này có tính quên ơn sinh thành dưỡng dục (bất hiếu), tâm địa không 
		có liêm khiết. Tam xích điểu thanh: người này bẩm tính hung tàn 
		bạo ngược, hay làm hại người thương tổn cho nhân vật, ít có lòng Từ bi 
		hòa thuận. Phá thanh: tức là người con trai nói tiếng như 
		đàn bà, đàn bà nói tiếng như đàn ông, kẻ này bạc phúc bần cùng hà tiện. Nhạn thanh: tiếng nói như chim nhạn kêu (ken 
		két) người nay có tính hớt của người làm của mình, ăn cắp lời của người 
		làm lời của mình. Nhưng hay chơi nhiều bạn thân, và hay đón tiếp người 
		xa lạ bốn phương. Cổ thanh: tiếng nói vang vang như tiếng trống, 
		người này biện luận nhanh chóng, giải thích đạo lý sâu huyền có thể làm 
		quốc sư. Lôi thanh: tiếng nói ầm ầm như tiếng sấm vang, 
		người này trí tuệ sâu rộng, phân tách được pháp tính giáo hóa cho thiên 
		hạ. Kim linh thanh: tiếng nói như tiếng chuông, 
		người này giàu có, lắm tiền của vàng bạc. Phạm thanh: tiếng nói như cõi Trời Phạm thiên, 
		người này phúc đức cao dày, nếu tại gia thì làm Chuyển Luân Thánh Vương, 
		nếu xuất gia thì thành Phật. Anh mù nói: - Các ông làm ơn dắt tôi đi với: tôi 
		có thể phân biệt được tám thứ tiếng, nếu thực là Phật tôi nghe tiếng 
		nói, thì tôi biết, vì Phật nói thuộc tiếng Phạm Thiên. - Phải! Anh có đi tôi vui lòng dắt anh. Khi tới nơi anh lắng tai nghe Phật thuyết pháp, 
		quả nhiên âm thanh của Ngài như tiếng Phạm. Vui mừng quá!… tự nhiên hai 
		con mắt của anh hết mù, được sáng tỏ như mọi người, nhìn thấy Phật sắc 
		vàng chói lọi, đủ ba mươi hai tướng tốt, và tám mươi vẻ đẹp, một lòng 
		cung kính lễ dưới chân Phật. Khi Ngài thuyết pháp, anh chí tâm nghe 
		nhận, nên phá tan được ác kiến trong hai mươi ức kiếp, chứng quả Tu đà 
		hoàn, đắc tuệ nhãn, cúi đầu bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Không biết được duyên 
		lành gì, con tới đây nhờ sức Từ bi hai mắt được sáng tỏ, đời là vô 
		thường không thể bảo đảm, cúi xin Thế Tôn cho con được nhập đạo tu hành? Phật nói: - Thiện Lai Tỳ kheo! Nói dứt lời tóc anh rụng hết, áo mặc trên mình 
		biến thành áo Cà sa, đầy đủ vẻ Sa môn. Theo Phật tu học không bao lâu, được đắc quả La 
		Hán, cắt đứt đường luân hồi sinh tử, thấy thế đại chúng đều cho làm lạ, 
		tôi từ tòa đứng lên tới trước Phật quỳ thẳng chắp tay bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài xuất thế làm lợi 
		ích cho muôn loài chúng sinh, kẻ mù được sáng tỏ con mắt, ơn ấy vô cùng 
		cao cả. Như người Bà la môn này, trong chốc lát được sáng con mắt thịt, 
		hơn nữa lại được con mắt tuệ, không biết đời trước có duyên gì với Ngài, 
		cúi xin nói cho chúng con được rõ? Phật nói: - A Nan ông nên biết không những nay 
		ta cho người này được con mắt sáng, đời quá khứ ta đã khoét con mắt của 
		ta cho họ một lần. Kính lạy Ngài! Việc cho mắt đời quá khứ thế nào, 
		xin nói cho chúng con được biết? - A Nan! Đời quá khứ cách đây đã lâu lắm, không 
		biết bao nhiêu kiếp A tăng kỳ, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một thành 
		tên là Phú Ca La Bạt, ông vua đó tên là Tu Đề La (Tàu dịch là Khoái 
		Mục). Ông có con mắt sáng trông xa bốn mươi dặm, coi suốt qua tường 
		vách, bởi thế nên đặt tên là Khoái Mục. Vua Khóai Mục, thống trị tám vạn bốn ngàn nước 
		nhỏ, sáu muôn núi sông, tám ức tụ lạc, hai muôn Phu nhân thể nữ, một vạn 
		quan đại thần, năm trăm Thái tử. Người thứ nhất tên là Thi La Bạt Đề 
		(Tàu dịch Giới Hiền). Nhà vua Từ bi đạo hạnh đối với dân như cha hiền 
		thương con. Chăm dạy dân tu thiện, vì thế nên trong nước thanh bình 
		không có đao binh biến khởi, mưa hòa gió thuận, được mùa lúa tốt nhân 
		dân an vui sung sướng. Một hôm nhà vua ngồi trên bảo điện tự nghĩ như 
		vậy: - Ta được làm nhân chúa, phúc như tứ hải, ra lời 
		nói thiên hạ tùng phúc, như gió thổi lướt ngọn cỏ, đó cũng do phước đã 
		gây từ bao đời trước, nếu đời nay không tạo nhân lành, đời sau lấy gì 
		trông cậy, dĩ nhiên bị đau khổ. Tỷ như kẻ nông phu, mùa xuân mất công 
		cấy lúa, mùa hạ được gặt, hái, thâu hoạch, nếu mùa xuân trễ biếng không 
		làm, dĩ nhiên mùa hạ không có lúa gặt, sự đói thiếu sẽ đưa lại cho họ. Định xong, hạ lệnh cho bá quan văn võ, mở kho 
		lấy vàng bạc tiền của quần áo, thóc gạo thức ăn dùng, đem ra ngoài thành 
		bố thí cho nhân dân, và sắc lệnh cho tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, mở kho 
		bố thí. Từ đó nhân dân được no nê sung sướng ca tụng ân đức của nhà vua, 
		vang dội khắp thiên hạ. Bấy giờ có một ông vua nước nhỏ, tên là: Ba La 
		Bà Bạt Di, ông này không tuân theo sắc lệnh của vua Khoái Mục, trị dân 
		có năm điều quá trớn. Tính nết vội vàng ít suy nghĩ, lại hay ham sắc 
		dục, không để ý đến việc nước, không biết thâu dụng những người trung 
		lương hiền sĩ, bắt dân làm nhiều việc vô ích, các nhà thương mại ngoại 
		quốc đến buôn bán, đánh thuế quá nặng, nhân dân oán ghét trong triều lúc 
		đó có một quan tên là Lao Đà Đạt thông minh, thao lược, hiểu biết đạo lý 
		can vua rằng: - Tâu Bệ Hạ! Ngài có năm điều không hay, nếu 
		không sửa đổi lại, một ngày gần đây tai họa sẽ tới! Nhà vua nói: - Những việc gì khanh nói cho ta 
		hay? 1.- Bệ Hạ có tính vội vàng ít suy nghĩ, không lo 
		việc lớn sau sẽ hối. 2.- Ham mê sắc dục, không đoái đến việc nước, để 
		cho những kẻ gian thần làm phi pháp, oan uổng nhân dân, muốn kêu không 
		có chỗ minh xét. 3.- Trong nước có những người trung lương, hiền 
		sĩ không thâu dụng, không biết phòng ngừa việc chưa xảy ra. 4.- Bắt nhân dân cực khổ làm những việc vô ích, 
		oán hận rất nhiều. 5.- Nhà thương mại các nước tới buôn bán, đánh 
		thuế quá nặng! Cho nên các hàng hóa bị ách tắc đắc đỏ. Năm việc này là 
		triệu chứng vong quốc, xin Bệ Hạ ra lệnh đổi ngay để theo chánh sách cũ. Hiện nay vua Tu Đề La (Khoái Mục) ban ơn cho dân 
		chúng, các nước đều khâm phục, chỉ có nước ta không chịu theo, nên dân 
		chúng oán hận. Xin Bệ Hạ mở kho bố thí cho nhân dân, thì con cháu sẽ 
		được hưởng phúc lâu dài. Ông nghe xong, thay sắc mặt nổi giận nói: - Khanh biết trước thế ư? Để thử xem, chúng oán 
		hay tự miệng khanh nói ra, ta quyết định không thay đổi chánh sách. Lao Đà Đạt thầm nghĩ như vầy: - Mình thấy nhà vua trị chính không khéo để giới 
		thiệu những người trung thành ra giúp nước, đã không nghe, lại còn phát 
		giận với ta, tất nhiên có nguy hại cho ta. Vậy ta phải lập kế cứu lấy 
		dân. Lao Đà Đạt bị tiết lộ kế hoạch. Nhà vua sai quân vây bắt. Lao Đà Đạt cũng biết 
		trước, lên ngựa chạy tẩu thoát, quân sĩ đuổi theo sau, ông quay súng bắn 
		chết mười tám người, còn thì chạy tán loạn. Sang nước Phú Ca La Bạt vào yết kiến vua Khoái 
		Mục, vua hỏi han vui vẻ, đối đáp sự lý phân minh. Thấy người có tài, nên 
		nhà vua dùng ông làm việc triều chính, dần dần thân cận, ông trình bày 
		sự hành động của Ba La Đà Bạt Di cho vua Khoái Mục nghe. Khi đó vua Khoái Mục hỏi bá quan rằng: - Nước vua Ba La Bà Bạt Di có thuộc quyền ta cai 
		trị không? Bá quan đáp: - Tâu Bệ Hạ! Có, nhưng họ dè chừng 
		làm lơ, ít khi lui tới, và không chịu tuân lệnh của Bệ Hạ! Lao Đà Đạt nói: - Tâu Bệ Hạ! Ông đó ngoan cố và mờ ám lắm! Có 
		tính hoang dân vô độ, dân chúng chán ghét, coi như một kẻ thù, xin Bệ Hạ 
		cấp cho binh mã, hạ thần sang tiêu diệt. Vua Khoái Mục đồng ý cấp binh mã và hạ lệnh cho 
		các nước đem binh đến trợ chiến. Vua nước bên cạnh thấy thế sang mách. Vua Ba La 
		Bà Bạt Di chạy trốn, ra đi mặc một cái áo rách, lẩn thân nơi kín đáo. Quan phụ tướng tìm hỏi: - Bệ Hạ lo gì xin cho biết? - Khanh không biết sao! Trước đây Lao Đà Đạt 
		trốn sang nước Phú Ca La Bạt, hắn mưu với vua Khoái Mục sắc lệnh cho tám 
		vạn bốn ngàn nước đem đại hùng binh tiêu diệt nước ta, và bắt ta đó. Đại Thần thưa: - Xin Bệ Hạ hãy yên trí, để tập 
		họp bá quan bàn tính, và cũng không lo, Hạ thần đã có biện pháp. Nhà vua nghe theo phụ tướng, trở về bảo điện 
		triệu tập quần thần văn võ đông đủ nói: - Bá quan nên biết! Nước nhà nguy ngập đến nơi, 
		vua Khoái Mục sắp đem quân sang đánh, bá quan làm thế nào kháng cự nổi? Khi đó mỗi ông bàn một cách, đều vô hiệu quả. 
		Ông phụ tướng này đứng lên nói rằng: - Tôi nghe vua Khoái Mục tự thề rằng: chỉ trừ 
		cha mẹ không bố thí, còn thân mình cho đến quốc thành thê tử ngoại vật, 
		ai xin gì cũng cho. Nước ta có một người Bà la môn mù bây giờ sai họ đến 
		xin mắt, nếu được ta không cần phải đánh, họ cũng tự rút lui. Lập tức cho kêu người Bà la môn đến. Quan phụ tướng nói: - Nước ta sắp bị giặc đến 
		xâm chiếm, mong người giúp cho một việc. - Kính thưa phụ tướng! Tôi hèn đớn mù lòa thế 
		này thì làm gì được mà phụ tướng nói giúp nước. - Anh hãy nghe tôi nói: Bây giờ vua Khoái Mục 
		nay mai sẽ đem quân đến đây đánh nước ta, chúng tôi khỏe mạnh và có con 
		mắt sáng, còn có thể chạy được, anh mù lòa như vậy thì chạy sao? Tất 
		nhiên bị nó giết. Tôi biết vua Khoái Mục có nguyện rằng: ai xin gì cũng 
		cho, chỉ trừ cha mẹ là không cho thôi, bây giờ anh đến xin mắt, quyết 
		thế nào cũng được, nếu anh xin được, thì không đánh họ cũng phải rút 
		quân, vì thế mà vua kiếm anh đến đây để nhờ việc đó. - Thưa phụ tướng! Vậy tôi đi bằng cách nào? - Ta sẽ cho người dắt anh đi, lo gì việc đó! Khi đó nước vua Khoái Mục có nhiều điềm bất 
		tường biến hiện: đất động, sao chổi mọc, mưa đá, mây kéo mờ mịt suốt 
		ngày, chim chóc kêu thảm thiết, hổ, báo, sài, lang gầm hét, dân chúng 
		đều kháo nhau là điềm bất tường. Khi anh Bà la môn đã tới nước vua Khoái Mục, vào 
		trước sân rồng lớn tiếng nói rằng: - Tâu Bệ Hạ! Hạ thần ở nước ngoài, nghe thấy 
		danh đức Ngài làm hạnh bố thí, nên không quản xa xôi đến đây để ăn xin. Nhà vua từ trên ngai rồng bước xuống hỏi: - Ông ở đâu tới đây? Đường sá xa xôi đi khỏi mệt 
		không, tới đây muốn xin gì? Tâu Bệ Hạ! Phước bố thí về ngoại vật bé nhỏ, chỉ 
		có bố thí nội thân mới lớn, tôi vị mù đôi mắt đã lâu, đến đây để xin 
		Ngài hai con mắt. Nhà vua nghiêm nét mặt nói: - Cũng được, ta vui lòng! - Tâu Bệ Hạ, việc đó lâu mau thế nào ạ? - Anh yên tâm, bảy ngày nữa. Vua Khoái Mục sau khi nhận lời cho mắt, làm 
		chiếu chỉ thông tư cho tám vạn bốn ngàn nước biết rằng: - Các Vương Hầu nên biết, tôi vì thực hành hạnh 
		bố thí sau bảy ngày nữa sẽ khoét mắt cho người Bà la môn, vậy hôm đó quý 
		Ngài đến đông đủ. Vua quan các nước tiếp được chiếu chỉ, khi đến 
		đông đủ đều thưa rằng: - Tâu Bệ Hạ! Hạnh bố thí công đức của Ngài nhận 
		thấy lớn lao vô cùng cực, việc khoét mắt cho kẻ Bà la môn, xét rằng vô 
		ích quá, Ngài là đấng nhân chúa dùng con mắt sáng, đưa dắt dân làm những 
		công đức lành, phúc đức như trời biển, như núi non, giờ đây mất hai con 
		mắt, cũng như cả quốc dân mất con mắt sáng, cúi xin miễn bỏ việc đó. Quan bản triều, Hoàng hậu, cung phi thể nữ, Thái 
		tử, ai nấy, đều tức bực trong lòng, vì can vua không được, toàn thể đều 
		âu sầu buồn bã, đến nỗi đêm quên ngủ ngày quên ăn. Ông Thái tử Giới Hiền tâu rằng: - Kính thưa Phụ Vương! Cho con xin thay để kẻ Bà 
		la môn khoét mắt con, con tuy chết nhưng thiên hạ không bị nguy ngập. Nhà vua thấy họ can gián nhiều quá, đứng trước 
		đại chúng lớn tiếng nói rằng: - Kính thưa quý Vương hầu, cùng toàn thể! Chính 
		tôi bố thí mắt này phải có một mục đích: tôi xét rằng từ đời quá khứ đến 
		nay, trong kiếp sinh tử lâu dài, nếu góp lại những xương thân ấy, có thể 
		lớn gấp bao lần núi Tu Di, máu tiết chảy ra, có lẽ nhiều hơn nước bốn 
		biển, những lúc biệt ly nước mắt khóc người thân nhiều hơn nước đại hải, 
		khi ở trong Địa ngục, những thân bị đốt cháy hoặc mổ xẻ thì những con 
		mắt ấy bỏ đi vô số. Khi làm loài Ngạ quỉ lửa trong mình phát ra thui 
		đốt, từ thân này qua thân khác, phá hoại bao nhiêu con mắt. Lúc đọa làm Súc sanh bị loài người đâm chém, nấu 
		rang, hết thân này lại thân khác. Thì những thân ấy đã tiêu hủy mất bao 
		nhiêu con mắt kể sao cho xiết. Khi làm người sống lâu hoặc chết non, tranh tài, 
		tranh sắc, tranh danh, đánh giết lẫn nhau, nhiều ai tính xuể, thì những 
		con mắt ấy, đều tan không, tóm lại cũng là vô ích vì không dùng nó để 
		làm công đức. Hoặc ở cõi Trời vui năm cảnh dục chốn thiên 
		cung, khi hết phúc, cũng phải đọa đày theo nghiệp, những thân mạng nhiều 
		không số tính. Xét lại từ đời vô thỉ, nổi chìm trong ba cõi, sống thác 
		theo năm thú, cũng do ái tình bổn thân của nghiệp tham, sân, si tạo tác, 
		thân người tan vụn như vi trần, ai đã từng đem thân ấy bố thí để cầu 
		thành Phật. Đây là một bộ mắt tanh hôi chẳng bao lâu sẽ bị tiêu không vô 
		ích. Tôi bố thí đôi mắt tanh này, nguyện mười phương chư Phật cho tôi 
		con mắt "Nhất Thiết Trí". Sau này thành Phật tôi sẽ đem lại con mắt trí 
		tuệ thanh tịnh cho tất cả quý Vương hầu cùng pháp giới chúng sinh, can 
		tôi làm chi! Ngăn cản làm chi! Tất cả mọi người nghe vua vói xong, không ai dám 
		trả lời sao hết, nín thinh như thóc lép. Vua Khoái Mục thấy mọi người đã an lòng, ngoảnh 
		bảo tả hữu rằng: - Các ông hãy lấy dao khoét đôi mắt hộ tôi. Họ thưa: Tâu Bệ Hạ! Thà cái thân của chúng tôi 
		có chịu chết tan như hạt cải, chứ không nỡ nào đem cái tay này mà khoét 
		mắt của Bệ Hạ. - Các ông hãy tìm hộ cho một người, con mắt họ 
		đen hắc, và hay nhòm xuống lại đây. Đúng như trực, tìm một người tới vua đưa cho con 
		dao, bảo anh chàng Hắc Mục Thị Hạ rằng: - Anh hãy khoét mắt cho ta. Anh không e dè gì, vua bảo làm ngay, cầm dao 
		khoét luôn con mắt bên tả để vào tay vua. Nhà vua nâng lên trán lập thệ rằng: - Nguyện đem mắt này bố thí cho kẻ mù, để cầu 
		thành Phật, kẻ Bà la môn được mắt này có thể trông sáng suốt. Nói rồi nhà vua để vào hố mắt cho họ. Khi được 
		mắt để vào, anh Bà la môn nhìn thấy vua và tất cả mọi người chung quanh 
		mừng quá tâu rằng: - Tâu Bệ Hạ! Thôi xin một con là đủ nhìn, Bệ Hạ 
		để lại dùng, tôi không lấy nữa. - Ta đã hứa cho nhà ngươi cả, thì ta cứ cho, vui 
		lòng mà lấy, không sao! Khoét luôn mắt nữa để vào tay vua, vua lập thệ 
		rằng: - Nguyện đem mắt này, một lòng thành thực bố thí 
		để cầu thành Phật, kẻ Bà la môn được mắt này coi xem sáng tỏ. Nói xong để vào hố mắt cho anh Bà la môn. Quí 
		hóa thay! Lạ lùng thay! Anh chàng mù được mắt ông Quốc Vương nhìn xa 
		trông suốt, đang tối được sáng, đang mù được mở. Nhà vua hy sinh con mắt 
		ai dám cả gan, phải chăng người siêu phàm xuất tục coi thân mình tựa 
		đống tro tàn, đem đổi lấy Pháp Thân Bất Diệt. Đổi mắt đã lạ chưa? Một 
		phương thuốc huyền diệu phát xuất từ đây. Ngay lúc ấy, trời đất chuyển động, các cung điện 
		trên thiên cung đều nghiêng ngã, những ông Thiên Tử thấy sự chuyển biến, 
		nhìn xem có một vị Bồ tát khoét mắt bố thí, họ đều bay xuống tung hoa 
		cúng dàng, và khen rằng: - Bồ tát làm hạnh bố thí không đoái thân mình, 
		phước ấy Ngài cầu làm gì? - Thưa Ngài! Tôi hy sinh cặp mắt này, không cần 
		làm vua Ma Vương, Phạm Thiên, Đế Thích hay Chuyển Luân Thánh Vương để 
		hưởng dục lạc trong ba cõi, mục đích cầu thành Phật và độ sinh thoát 
		khỏi luân hồi, cho họ được an vui đạo Niết bàn. - Rất quý tấm lòng cao thượng của Ngài, nhưng 
		xin hỏi Ngài đau đớn như vậy có phàn nàn gì không? - Sự phàn nàn hối hận quyết không có một mảy 
		may! Tôi thấy Ngài huyết chảy như lưu ly, thân thể 
		xanh lợt, tự nói không, việc đó khó tin. - Quý Ngài không tin, tôi xin thề rằng: "Tôi một 
		lòng thành thực làm hạnh bố thí để cầu thành Phật, nếu miệng nói tâm 
		nghĩ đúng, thì cặp mắt tôi lại được bình phục như cũ". Nói dứt lời cặp mắt của Ngài, tự nhiên lại được 
		hoàn toàn, xem coi sáng tỏ hơn xưa. Khi đó, tất cả trời người ai nấy đều 
		vui mừng và cảm tâm sắt đá của nhà vua, ai ai cũng khen rằng: - Sau này 
		Ngài thể nào cũng được thành Phật. Khi đó vua Khoái Mục bảo anh Bà la môn rằng: - Hôm nay tôi cho ông cặp mắt thịt, lai sinh 
		thành Phật tôi sẽ cho ông con mắt trí tuệ. Nói xong sai người dẫn anh vào kho, tha hồ cho 
		lấy vàng bạc mang về bản quốc. Vua Ba La Bà Bạt Di hay tin ra đón, bắt gặp hỏi 
		rằng: - Anh xin mắt được chăng? - Tậu Bệ Hạ! Xin được và đã nhìn thấy sáng suốt. - Thế nào! Vua Khoái Mục sống hay chết? - Tậu Bệ Hạ! Khi mổ mắt nhà vua đau đớn huyết 
		chảy đẫm người coi rất ghê sợ, các ông Thiên Tử đến hỏi thăm, Ngài có 
		thệ nguyện, khi tuyên thệ xong, tự nhiên hai mắt lại được bình phục như 
		cũ, có lẽ còn sáng suốt hơn trước. Ông vua này nghe nói tức giận quá, nổ tim chết. Nói tới đây Phật nhắc lại rằng: - A Nan! Ông nên biết: Vua Khoái Mục thuở đó 
		chính là tiền thân của ta đấy, vua Ba La Bà Bạt Đi nay là ông Điều Đạt, 
		anh Bà la môn xin mắt vua Khoái Mục thuở đó chính là anh mù vừa đắc đạo 
		đây. Đời quá khứ, được hàm ân ta, khỏi mù, đời nay 
		gặp ta sáng tỏ con mắt thịt, đồng thời lại được cả mắt tuệ, ta cũng vì 
		chúng sanh đời đời làm những hạnh khổ tích công tu đức đến nay được 
		thành Phật. Vậy các ông cũng nên chăm chỉ mà tu hành cầu đạo vô vi an 
		lạc làm lòng. Nghe Phật nói xong, tôi và toàn thể, đều cảm 
		niệm ân đức bao la của Ngài, rồi đó có người đắc sơ quả, cho đến tứ quả, 
		vui mừng tạ lễ mà lui. 28/ Phẩm thứ hai mươi tám NĂM TRĂM NGƯỜI 
		MÙ Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở một 
		nước Xá Vệ tại vườn ông Cấp Cô Độc và rặng cây của Thái tử Kỳ Đà. Bấy giờ nước Tỳ Xá Ly có năm trăm người mù đi ăn 
		mày, nghe thấy người ta nói: Đức Như Lai ra đời rất là hiếm có, nếu 
		chúng sinh nào được gặp, bất luận có bệnh hoạn gì cũng nhờ Ngài cứu 
		được, kẻ mù sẽ được sáng con mắt, kẻ điếc sẽ được nghe rõ, kẻ còng gù sẽ 
		được thẳng thiu, kẻ khễnh kiễng sẽ được duỗi thẳng, kẻ cuồng si sẽ được 
		trí tuệ, kẻ loạn tâm sẽ được an định, kẻ đói rách sẽ được áo cơm, kẻ sầu 
		khổ sẽ được an vui. Năm trăm người bàn nhau rằng: - Lũ ta sinh nơi hạ tiện, đã bị nghèo đói, lại 
		mù đôi mắt, trên đời không ai khổ hơn, vậy chúng ta đến chốn Phật nhờ 
		Ngài tế độ. Bàn nhau xong rồi hỏi thăm người đi đường rằng: - Đức Thế Tôn bây giờ ở nước nào, các ông bảo 
		cho biết? - Họ đáp rằng: - Ngài đang ở nước Xá Vệ. Lẩm bẩm nói rằng: - Ai là người thương lũ chúng tôi? Làm phúc đưa 
		chúng tôi đến nước Xá Vệ nơi Phật ngự. Nhưng không! Không ai giúp. Sau họ đi xin tiền, góp lại được năm trăm đồng, 
		đứng bên lề đường lớn tiếng nói: - Ai đắt chúng tôi đến nước Xá Vệ, xin trả năm 
		trăm đồng! Khi đó có một người nhận, lấy tiền rồi bảo năm 
		trăm người rằng: - Các anh hãy nắm vào vai nhau, làm thành một 
		hàng dọc, còn tôi đi trước đắt. - Khi đến nước Ma Kiệt Đề, tới một cánh đồng 
		rộng thấy mỏi mệt quá, anh lẩn mất, năm trăm người trơ trọi không biết 
		lối đi, lúng túng, đường đi chẳng đi, đi xuống ruộng, dẫm nát nhừ đồng 
		lúa. Thấy năm trăm người mù đi trên ruộng của ông, đầy xéo tan nát lúa 
		mạ mất nhiều. Ông nổi giận mắng rằng: - Các anh mù, đường chẳng đi, đi giữa ruộng làm 
		nát lúa, có lên không? - Dạ! Thưa ông, chúng tôi mù lòa không nhìn rõ, 
		xin ông tha cho. Các anh ở đâu tới đây? - Thưa ông, chúng tôi ở nước Tỳ Xá Ly, nghe đồn 
		đức Phật Từ bi cứu thế, hiện Ngài ở nước Xá Vệ, chúng tôi thuê một người 
		dắt, tới đây họ bỏ trốn mất, thành ra lẩn quẩn ở chốn này, ông làm phúc 
		cứu giúp, ơn ấy không bao giờ dám quên! Nghe họ nói thế, ông cũng thương, về sai người 
		dắt họ đến nước Xá Vệ, thì Phật sang nước Ma Kiệt Đề, người ấy lại đắt 
		đến nước Ma Kiệt Đề, thì Phật vừa sang nước Xá Vệ, cứ thế đến bảy lần 
		vẫn không gặp Phật. Họ mong muốn được gặp Phật, như kẻ đói mong được 
		cơm ăn, kẻ khát mong được nước uống, một lòng chân thành khát ngưỡng đức 
		Thế Tôn, vì thế tuy mù con mắt thịt, nhưng con mắt tâm của họ đã từng 
		nhìn thấy Phật, nên họ vẫn hoan hỷ không biết mỏi mệt. Khi đó đức Thế 
		Tôn xem biết thiện căn của họ đã thục, lòng tin đã chắc, nên Ngài ở lại 
		nước Xá Vệ cho họ được gặp. Lần này đến nước Xá Vệ, năm trăm người được gặp 
		Phật, nhờ ánh hào quang, mọi người hết mù, sáng tỏ đôi mắt, nhìn thấy 
		Phật thân vàng chói lọi, vui mừng quá! Cùng nhau tới trước lễ Phật đồng 
		thanh bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con sinh nơi hèn 
		hạ, ra đời thuần thấy đau khổ! Hôm nay nhờ oai thần của Ngài được sáng 
		tỏ con mắt, chúng con một lòng thành kính, cúi xin Từ bi tế độ cho nhập 
		đạo tu hành. Phật mỉm cười nói: - Thiện Lai Tỳ kheo! Ngài nói dứt lời, năm trăm người đều rụng hết 
		tóc, áo Cà sa thấy mặc tại mình, theo Phật tu hành, không bao lâu đã đắc 
		A la hán. Thấy thế tôi thưa Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài xuất thế làm lợi 
		ích cho muôn loài chúng sinh, những người này trong giây phút được sáng 
		tỏ con mắt thịt, hơn nữa lại đắc quả La Hán, không rõ kiếp xưa họ tạo 
		tội gì, cúi xin nói cho chúng con được rõ? Phật dạy rằng: - A Nan! Không những kiếp này ta cứu họ khỏi tối 
		con mắt, mà đời quá khứ cách đây vô lượng kiếp ta đã cứu họ thoát khỏi 
		khổ hắc ám một lần. - Kính lạy Ngài, cúi xin chỉ giáo cho chúng con 
		được ân triêm công đức. - A Nan! Ông lắng nghe: Cách đây đã nhiều vô 
		lượng kiếp, cũng tại Châu Diêm Phù Đề này, thuở ấy có năm trăm người lái 
		buôn đi qua một cánh đồng rộng, tới con đường hiểm vào một hang núi, 
		hang ấy tối om, sợ kẻ cướp đánh giết lấy tiền và hàng hóa, không biết 
		làm thế nào, họ chỉ biết khấn trời vái tất cả thần kỳ trên rừng dưới 
		biển ủng hộ cho họ. Trong bọn ấy có một người thấy anh em lo sợ bảo 
		rằng: - Các bạn cứ an tâm, đừng lo nữa, tôi có cách 
		làm cho sáng sủa để các anh đi. Người đó lấy lụa Bạch Điệp cuốn vào cánh tay tẩm 
		dầu đốt, đi bảy ngày mới qua hang núi. Khi qua núi được an lành vô sự, 
		mọi người vui mừng và cám ơn lắm! A Nan! Người đốt cánh tay thuở đó, có phải là ai 
		đâu, chính là ta đấy. Ta từ đời vô thỉ tới nay, đem quốc thành vợ con 
		huyết nhục bố thí chúng sinh, bởi thế đời nay được đặc tôn trong ba cõi, 
		còn năm trăm người lái buôn tức là năm trăm người mù này. Đời quá khứ ta 
		lấy thân sinh tử bố thí cho họ được sáng sủa, giờ đây thành Phật, ta lại 
		cho họ con mắt trí tuệ. Tất cả đại chúng nghe Phật nói xong, ai nấy đều 
		hoan hỷ. Nhân nghe thuyết pháp cũng có người đắc sơ quả cho đến tứ quả, 
		cũng có người đắc nhân Bích Chi Phật, ngoài ra còn rất nhiều người được 
		độ, cúi đầu tạ lễ mà lui. 29/ Phẩm thứ hai mươi chín PHÚ NA KỲ CHÍNH tôi được nghe: Một thời đức Phật ở một 
		nước Xá Vệ, tại vườn của ông Cấp Cô Độc và rặng cây của Thái tử Kỳ Đà. Thuở bấy giờ nước Phóng Bát có ông Trưởng giả 
		tên là Đàm Ma Tiện (Tàu dịch: Pháp Quân), nhà giàu nhất nước ấy, vợ ông 
		sinh được đứa con trai, nhân gặp lúc nhà vua xuất quân đi đánh trận, nên 
		đặt tên là Tiện Na (Tàu dịch: Quân). Sau bà lại sinh được cậu nữa, giữa 
		lúc nhà vua thắng trận, nên đặt tên là: Tỷ Kỳ Đà Tiện Na (Tàu dịch: 
		Thắng Quân). Phải khi ông Trưởng giả mắc bệnh, các Thầy lang 
		đến chữa được tiếp đãi trọng hậu, ăn uống rất đàng hoàng, tiền vãng phản 
		khá nhiều. Nhưng không may gặp bọn Thầy lang gian ác, cho trái thuốc, 
		cốt ngâm bệnh ông lê nhê mãi không khỏi để chúng kiếm nhiều tiền. Ông có một người ở gái, hàng ngày thuốc thang 
		cơm cháo hầu hạ, nó biết mưu của bọn Thầy lang như thế, nên nó thưa với 
		ông rằng: - Thưa ông! Các ông lang không tốt đâu! Họ ác 
		lắm! Thấy ông giàu có, cho ông uống trái thuốc, dềnh dang cho lâu khỏi, 
		để cầu lợi. Vậy để tôi cứ như lần trước, theo đúng phép điều trị thì 
		khỏi! Ông nói: - Phải! Mi nói đúng, cho mi được tùy ý! Sau, cô điều dưỡng cho ông được khỏi bệnh. Một 
		thời gian sau Trưởng giả khỏe mạnh, cô thưa với ông rằng: - Thưa Trưởng giả! Tôi hầu hạ thuốc thang cho 
		ông nay ông đã khỏi bệnh. Vậy tôi xin ông một điều, nếu ông vui lòng tôi 
		xin nói? Trưởng giả đáp: - Mi cứ việc nói. - Tôi mong ước đã lâu, muốn để vui thú ân tình 
		với ông một đêm, xin ông đừng từ chối! Ông Trưởng giả mỉm cười gật đầu. Cô mừng quá, đêm hôm ấy cùng ông thỏa mãn lòng 
		dâm dục, sau cô có thai, qua thời gian sinh một cậu con trai, vì được 
		mãn nguyện vọng, nên đặt tên là Phú Na Kỳ (Tàu dịch là Mãn Nguyện). Song cũng hay! Cậu bé kháu khỉnh, khi lớn có đức 
		tướng khôi ngô, lòng dạ ngay thẳng trung chính, và thông minh, về mặt 
		thương mãi có tinh thần hơn người, lại biết cách trồng cây, nuôi súc 
		vật, đi đến đâu cũng gặp tốt lành. Như vậy, là do tinh khí của ông 
		Trưởng giả, nên được thông minh xuất chúng, chỉ nỗi làm con người ở gái, 
		nên đứng vào hàng nô tỳ hèn hạ, không được cao quý bằng con bà lớn. Khi đó Trưởng giả mắc bệnh, biết mình phải chết, 
		gọi hai con lên dặn rằng: - Con người có sinh phải có tử, xem trong mình 
		cha không có phần nào ở với các con được nữa, vậy sau khi cha chết, các 
		con nên ở với nhau, chớ phân chia tài sản! Đáp: - Dạ! Xin cha cứ an tâm điều dưỡng thuốc 
		thang, nếu cha có mệnh hệ nào, chúng con, anh em ở với nhau, xin nhớ lời 
		cha dạy. Được ít ngày ông chế, anh em ăn ở với nhau, trên 
		thuận dưới hòa, sống chung một nhà đoàn viên vui vẻ! Không xảy ra chuyện 
		chi xích mích. Qua thời gian khá lâu, cũng vì sự sinh sống, hai người 
		anh con bà lớn đi ra nước ngoài buôn bán, vợ con và tài sản đều giao cho 
		Phú Na Kỳ là em thứ ba ở nhà coi sóc, đảm nhiệm việc gia đình. Theo lời hai anh, Phú Na Kỳ ở nhà phụng sự gia 
		nghiệp, tăng gia sản xuất để nuôi gia đình một cách rất chu đáo, đối với 
		hai chị dâu và các cháu. Một hôm đứa con trai nhỏ của Thắng Quân đến xin 
		tiền Phú Na Kỳ, phải lúc không sẵn, Phú Na Kỳ nói: - Hôm nay chú không sẵn, cháu muốn mua gì để chú 
		mua cho! Nó giận chạy về mách mẹ rằng: - Mẹ ơi! Chú Phú Na Kỳ không có công tâm, con 
		bác muốn gì chú cũng cho; hôm nay con xin tiền mua quà chú không cho! - Thế à! Làm sao con đứa ở lại thiên lệch như 
		vậy? Thôi không thèm để mẹ bảo cho. Sau khi Thắng Quân về, chị hai chưa nguôi cơn 
		giận, đem chuyện đó nói với chồng. Thắng Quân cũng si mê nổi giận nói: - Con đứa ở sao dám thiên lệch như vậy? Nó muốn 
		chết ư? Ta sẽ giết nó cho xem! Thắng Quân lên nói với anh cả rằng: - Thưa anh, theo lời cha dặn lúc sinh thời, anh 
		em ở chung nhau, nhưng em thấy chú Phú Na Kỳ quá đáng, em xin anh cho ở 
		riêng! - Thôi chú ạ! Phú Na Kỳ tốt lắm đấy, chú nghe 
		chi trẻ con đàn bà, trái lời cha dặn là bất hiếu! Thắng Quân nói tới hai lần không thôi. Người anh biết rằng nếu ở chung rồi sẽ xảy ra 
		những chuyện không hay, bất đắc dĩ phải cho phân cư. Tất cả ruộng vườn, 
		của cải, súc vật chia ra bốn phần: Anh cả hai phần, Thắng Quân một phần, còn một 
		phần cho Phú Na Kỳ, chia gia tài xong, Thắng Quân nói: - Phần anh thì anh lấy, còn của Phú Na Kỳ để em 
		giữ. Người anh biết ý Thắng Quân muốn hại Phú Na Kỳ, 
		nên khéo léo cho Phú Na Kỳ đi ở nơi xa. Lúc bước ra đi, Phú Na Kỳ được 
		chị cả cho năm đồng tiền ăn đường. Phú Na Kỳ sang tỉnh khác làm ăn, hôm ấy ra chợ 
		mua củi, đưa về cởi ra được mấy đoạn gỗ chiên đàn và mấy đoạn gỗ ngưu 
		đầu, đem chặt ra mười đoạn cất đi. Cũng do phúc của Phú Na Kỳ đến ngày phát hiển, 
		khi đó Hoàng hậu mắc bệnh nhiệt, phải dùng hai thứ gỗ nói trên uống thì 
		khỏi, nhà vua cho người đi tìm không được, phải viết bản cáo thị: "Nếu 
		ai tìm được gỗ chiên đàn, ngưu đầu sẽ trả cho ngàn lạng vàng". Phú Na Kỳ mừng quá, đem vâng vua một đoạn, vua 
		cho một ngàn lạng vàng, cứ thế, dâng vua hết mười đoạn, được mười ngàn 
		lạng vàng. Đem về mua mười mẫu đất, xây cất nhà cửa, xe, 
		ngựa, lục súc, nuôi nô tỳ, thuê người làm lụng, từ đó gia nghiệp trở nên 
		phong phú. Bấy giờ có năm trăm người lái buôn biết Phú Na 
		Kỳ khá vốn, rủ ra biển buôn bán. Phú Na Kỳ thưa với anh cả rằng: - Thưa anh, em muốn ra biển buôn bán, và tìm 
		trân bảo, có được xin anh cho phép? - Được lắm, tôi sẽ cấp thêm tiền và cho một 
		người đi cùng chú. Phú Na Kỳ ra biển buôn bán phát tài, và lấy được 
		rất nhiều ngọc thạch, hột xoàn, trân bảo, vàng bạc nên mừng thầm, lớp 
		này về nhà được giàu có, của này ăn đến bảy đời không hết. Đương lúc thuyền trôi lênh đênh trên mặt biển, 
		một trời một vực, thốt nhiên mọi người đều nhìn thấy ba mặt trời xuất 
		hiện, lạ quá hỏi người lái đò rằng: - Hôm nay, sao lại có ba mặt trời, ông có biết 
		là điềm gì không? - Các ông nên biết: đây là điềm nguy biến cho 
		chúng ta đấy, không bao giờ có ba mặt trời, ở biển này có loài cá Ma 
		Kiệt lớn dày bảy trăm do tuần, mỗi giấc ngủ của nó là một trăm năm, khi 
		thức giấc, nó há mồm cho nước biển và tôm cá chảy vào làm món ăn, trên 
		kia là mặt trời chính, còn hai là mắt cá, giữa khoảng trắng kia là răng 
		nó, nước đương chảy vào chỗ tối kia là mồm nó, nguy đến nơi rồi các bạn 
		ơi! Bọn ta chết trong mồm cá này đây, thật là hết lối tẩu thoát, thuyền 
		cứ theo dòng nước chảy vào mồm cá, khi gần tới nơi, có một người Ưu bà 
		tắc theo Phật giáo lớn tiếng nói rằng: - Các bạn! Cái chết của chúng ta tới nơi rồi, 
		các bạn mau mau, dốc lòng thành kính niệm "Nam mô Phật"; Ngài là một 
		đấng đức nhân trong ba cõi, không ai bằng. Ngài có đại lực cứu khổ ban 
		vui trong chớp mắt! Ai nấy đều lo chết, nghe ông Hiền giả nói xong, 
		một lòng thành kính tha thiết, đồng thanh niệm Nam mô Phật. Cá Ma Kiệt nghe được danh hiệu Phật, phát Từ 
		tâm, ngậm mồm lại, rồi lăn xuống đáy biển, mọi người đều thoát nạn trở 
		về nước. Về đến nhà, Phú Na Kỳ lấy mâm đựng các của quý 
		ngoài biển, đem biếu người anh cả tên là Tiện Na rồi nói rằng: - Thưa anh, em đã vì gia đình, sinh kế mà lập 
		nghiệp, bây giờ nhà cửa ruộng đất, các trang vật đầy đủ, con cháu ăn đến 
		bảy đời không hết, xin biếu anh cả, em xin anh cho xuất gia theo Phật tu 
		hành cho thoát ách đau khổ! - Phải! Chú nói hay, tôi cũng không muốn trái ý, 
		song chú hãy còn ít tuổi, chưa hiểu lẽ nhân luân, Phật Pháp cao sâu, làm 
		sao theo nổi, chú hãy lui lại vài năm nữa hãy đi tôi rất đồng ý! - Thưa anh! Mạng người vô thường, sớm còn chiều 
		mất không có nhất định, không có bảo đảm, bữa trước đây em ra biển gặp 
		cá Ma Kiệt suýt chết! Chết hụt, cũng nhờ ơn đức của Phật cứu sống, vậy 
		anh hãy hoan hỷ cho em đi, đừng gàn em nữa, vì em đã quyết định như vậy. - Thôi, chú đã có tâm như vậy, tôi cũng không 
		dám cản chú xuất gia, tôi vui lòng! - Dạ! Anh hoan hỷ nhé! Phú Na Kỳ rủ năm trăm người lái buôn đến nước Xá 
		Vệ yết kiến Phật, tới nơi cúi đầu lễ sát đất bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con tới đây cầu 
		xin xuất gia tu đạo, cúi xin Ngài Từ bi tế độ. Đức Thế Tôn nhìn thấy họ tội căn đã hết, quả Bồ 
		đề đã phát sinh, nên Ngài mỉm cười nói: - Thiện Lai Tỳ kheo! Nói dứt lời, năm trăm người đều biến thành các 
		vị Sa môn theo Phật tu học, chẳng bao lâu tâm trí giác ngộ, dứt hết lậu 
		nghiệp ba cõi, đắc quả La Hán. Duy có Phú Na Kỳ kết sử nặng quá, phải 
		giảng thuyết cho nghe nhiều cũng không giác ngộ, sau thành tâm cố gắng 
		lập chí tu học, được chứng sơ quả, từ đó tinh tiến ngồi thiền tụng kinh, 
		không dám lười biếng. Ngày an cư đã tới: Đức Thế Tôn cho các vị Tỳ 
		kheo ai muốn an cư ở đâu cũng được tùy ý. Phú Na Kỳ tới trước Phật bạch 
		rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Khóa hạ năm nay, đệ tử 
		xin đến nước Phóng Bát an cư, cúi xin Từ bi hoan hỷ. Phật dạy: - Pháp Tử, người nước Phóng Bát bạc 
		ác, tin theo tà đạo, kiến thức hẹp hòi, con là kẻ sơ học, đối với giáo 
		pháp của ta chưa hiểu bao nhiêu, nếu bị họ hủy nhục thì làm thế nào? - Kính lạy đức Thế Tôn! Nếu họ có hủy nhục con, 
		một cách tệ mạt đi nữa, nhưng họ không làm hại con thì cũng được! - Nếu kẻ gian ác nó làm hại con, thì sao? - Kính lạy Ngài! Nếu nó làm hại, mà không giết 
		con cũng còn hàm ơn họ! - Nó giết con không ích gì cho con, lúc đó con 
		làm thế nào? - Kính lạy Ngài! Tất cả vạn vật, có hình phải có 
		hoại, nếu họ giết con thì con chịu chết! - Nó hủy hoại con, làm nhục con, mà nó không 
		giết con, thì con có giận nó không? - Dạ, lạy đức Thế Tôn! Con không có giân, chính 
		kẻ đó lấy một sự không có căn cứ, vô cớ hủy nhục con, phỉ báng con, hoặc 
		đem dao gậy đánh đập con, sau giết con, mà chưa chết hẳn, tới phút cuối 
		cùng, con cũng không có một niệm giận họ! Phật khen rằng: - Đệ tử! Nếu con thực hành được 
		như vậy thì rất hay, sẽ làm hiển dương cho ngôi Tam bảo! Phú Na Kỳ cúi đầu lễ Phật, rồi cầm bát mang áo 
		ra đi. Tới nước Phóng Bát, nghĩ tại rừng một đêm, sớm ngày mai vào thành 
		khất thực, đến một nhà đại phú Bà la môn, anh chủ nhà chạy ra đuổi mắng! Phú Na Kỳ qua nhà khác, anh này cứ theo sau phỉ 
		báng, mắng nhiếc và đánh đập luôn tay. Nhưng Phú Na Kỳ vẫn bình tĩnh coi 
		như không, nét mặt vẫn tươi như hoa mới nở! Vui vẻ! Và không nói năng 
		gì. Anh chàng đánh chán tay, mỏi cánh, mắng rát cổ, thấy Phú Na Kỳ không 
		thay đổi sắc mặt và oán giận gì, nên anh tự thẹn hổ trong lòng, là vì vô 
		cớ đánh người, trách mình là kẻ tàn nhẫn quá, rồi đến xin tạ lỗi. Trong ba tháng an cư, Phú Na Kỳ chăm chỉ tu 
		hành, được hết mọi kết sử, tội chướng tiêu tan, hốt nhiên giác ngộ: đắc 
		quả vô lậu, giải thoát sinh tử ba cõi, thành ngôi A la hán. Hết ba tháng an cư: từ giã các người thân tín, 
		về nhà dặn anh rằng: - Anh chớ có ra biển, ngoài biển có nhiều sự 
		nguy hiểm, tiền của em để lại cho anh, có thể anh dùng trong bảy đời 
		không hết. Dặn xong ra về, khi tới Tinh xá và lễ Phật, chúc 
		mừng Phật, rồi về phòng nghỉ. Tiện Na không nghe lời Phú Na Kỳ dặn, một hôm 
		cùng với những người lái buôn ra biển, lấy rất nhiều gỗ chiên đàn, gỗ 
		ngưu đầu, đầy thuyền chở về. Giữa biển thuyền trôi lênh đênh, gặp một 
		con rồng, làm giông tố dữ dội, nó muốn đánh đắm thuyền để cướp lại gỗ, 
		tất cả mọi người la ó, khóc than! Kêu trời vái đất ầm ĩ! Tiện Na nhớ 
		rằng vì không nghe lời em, nên nay bị nạn, khi đó chỉ lớn tiếng gọi chú 
		Phú Na Kỳ, gọi liên hồi khan tiếng! Khi đó Phú Na Kỳ ở nước Xá Vệ tại Tinh xá Kỳ 
		Hoàn, đương tọa thiền, bỗng nghe thấy tiếng anh mình kêu mắc nạn, lấy 
		thiên nhãn nhìn thấy Tiện Na đương ở ngoài biển bị con rồng hãm hại, bèn 
		dùng La Hán thần túc hóa ra một con chim Kim Xúy Điểu, xòe cánh dài tám 
		vạn do tuần, bay đến khủng bố Rồng! Rồng thấy chim sợ hãi, lặn chìm 
		xuống đáy biển, nhờ sức thần túc của Phú Na Kỳ mà sóng gió đều im, mọi 
		người thoát nạn trở về nước nhà. Khi Tiện Na về tới nhà, Phú Na Kỳ thưa với anh 
		rằng: - Anh muốn được phước báo trang nghiêm trên cõi 
		Nhân Thiên, cho muôn ngàn thế hệ sau này, thì lấy gỗ chiên đàn làm một 
		tòa lâu đài, mời Phật về ngự, và thuyết pháp cho quốc dân nghe. - Việc làm tôi xin làm chu đáo, nhưng còn thỉnh 
		Phật thì phải làm thế nào? Và sắm sửa những gì cúng dàng? Chú cho biết 
		để sắp đặt. - Việc đó anh không lo! Để em chịu trách nhiệm! Sau khi Tiện Na làm xong các tòa lâu đài bằng gỗ 
		chiên đàn các công việc sắp đặt chu đáo. Phú Na Kỳ lấy lò đốt hương trầm 
		lên một lầu cao, hướng về rừng Kỳ Hoàn, lễ Phật cùng Thánh chúng khấn 
		rằng: - Kính lạy đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Cùng 
		chư vị Hiền Thánh Từ bi chứng giám, sớm ngày mai tới nước hèn mạt này, 
		giáo hóa cho lũ ngu si mê muội, được ân triêm đức hóa. Khấn nguyện xong, khói hương ấy bay tới đầu đức 
		Thế Tôn, kết thành cái táng bằng khói hương. Sau Phú Na Kỳ dùng thần 
		thông phóng nước đến rửa chân Phật. Tôi thấy điềm lạ, quỳ xuống bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Ai phóng nước và khói 
		tới đây, xin nói cho chúng con được rõ? - Hôm nay Tỳ kheo Phú Na Kỳ ở nước Phóng Bát, 
		khuyên người anh thỉnh mời ta và các Tăng chúng, nên phóng nước và khói 
		tới đây để làm tin về việc thỉnh. Vậy ông đi phát thẻ cho các vị Thần 
		túc Tỳ kheo sớm mai đến nhà Tiện Na thụ trai. Tôi theo lời Ngài đi phát thẻ cho các vị có thần 
		túc và dặn sớm mai đến nước Phóng Bát. Ông Kỳ Kiền Trực Kỳ (Tàu dịch: Tục Sinh), giữ 
		chức trực nhật (làm cơm hàng ngày), ông đã đắc quả A na hàm, ngồi kết 
		già phu, thân phóng quang minh, chiếu sáng bốn phương, đem theo các thứ 
		dùng bữa ăn, bay trên hư không tới nước Phóng Bát. Tiện Na trông thấy hỏi: - Đây là Thầy em hay sao? - Không phải, đây là người sửa soạn cơm cho các 
		Tỳ kheo, tới trước để giúp bữa trai hôm nay. Tiện Na đem âm nhạc ra cúng dàng, Ngài từ từ hạ 
		xuống vào nhà. Lần thứ hai có mười sáu vị Sa di, trong đó có 
		ông Quân Đề, dùng thần túc biến hóa ra rừng cây, hái các thứ hoa quả, 
		biến hóa rất nhiều, phóng quang minh chiếu sáng cả trời đất, người cỡi 
		ngựa hoặc cỡi lạc đà đi tới. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy của em hay sao? - Không phải! Đây là những đệ tử Sa di cùng Thầy 
		với em; mới có bảy tuổi đã đắc quả La Hán, lậu nghiệp đã hết, thần túc 
		đầy đủ, lại đây trước để hái hoa cúng dàng. Tiện Na đem hương hoa, âm nhạc ra cúng dàng, các 
		vị từ từ hạ xuống vào nhà. Sau có các vị cao niên trưởng lão Đại A la hán, 
		hóa ra ngàn con rồng kế thân làm tòa, đầu ngóc ra bốn bên, gầm thét vang 
		trời, mồm rồng phun ra nước mưa Thất bảo, ở trên đặt những tòa lớn, bằng 
		bảy thứ báu ngọc, bay bổng trên không gian, phóng quang minh chiếu sáng 
		khắp thiên hạ, đến nước Phóng Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy của em hay sao? - Không phải, đây là nhóm ông Kiều Trần Như, lúc 
		Phật mới thành đạo, thuyết pháp ở vường Lộc Uyển, bọn ông cả thảy năm 
		người được độ đầu tiên, có thần thông vô ngại. Tiện Na nghe nói thêm lòng cung kính, đem hương 
		hoa âm nhạc ra cúng dàng, các vị từ từ hạ xuống vào nhà. Sau Ngài Ca Diếp hóa ra một ngàn nhà giảng, bằng 
		Thất bảo, phóng quang minh ở trong mình ra, chiếu khắp bốn phương, bay 
		đến nước Phóng Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy em hay sao? - Không phải, đó là Ngài Ma Ha Ca Diếp, hay tu 
		hạnh Đầu Đà thương kẻ ty tiện, chăm cấp giúp kẻ nghèo cùng. Tiện Na vui vẻ đem hương hoa âm nhạc ra cúng 
		dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Sau Ngài Xá Lợi Phất, ngồi tòa ngàn con Sư tử, 
		hướng đầu ra bốn phương, mồm phun nước mưa Thất bảo, gầm thét, làm chấn 
		động cả trời đất, trên mình Sư Tử bày tòa bằng Thất bảo, thân Ngài phóng 
		quang minh chiếu soi bốn phương, bay trên hư không, đi đến nước Phóng 
		Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy em phải không? - Không phải, đó là vị đại đệ tử của Thầy em! 
		Trí tuệ bậc nhất, tên là Xá Lợi Phất. Tiện Na vui mừng, lấy hương hoa âm nhạc ra cúng 
		dàng, Ngài từ từ hạ xuống nhà. Sau Ngài Mục Kiền Liên hóa ra một ngàn con voi, 
		quay đầu ra bốn bên, mỗi con có sáu ngà, mỗi đầu ngà có bảy hồ tắm, 
		trong mỗi hồ có bảy hoa sen, trên mỗi hoa có bảy người ngọc nữ, ngoài ra 
		còn biến hiện rất nhiều, phóng hào quang sáng lớn, làm vang động cả bốn 
		phương trời, trên đầu voi bảy tòa Thất bảo, Ngài ngồi trên, bay đến nước 
		Phóng Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy em phải không? - Không phải, đó là đệ tử của Thầy em, tên là 
		Đại Mục Kiền Liên, thần thông bực nhất, đức hạnh đầy đủ. Tiện Na vui mừng đem hương hoa âm nhạc ra cúng 
		dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Sau Ngài A Na Luật tự hóa ra bảy ao tắm bằng 
		Thất bảo; trong ao có hoa sắc vàng; hoa lá bằng Thất bảo. Ngài ngồi kiết 
		già phu trên hoa, cổ Ngài đeo chiếc nhật quang soi khắp thiên hạ, những 
		ánh hào quang ấy thuần sắc vàng bay trên không gian đến nước Phóng Bạt. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy của em phải không? - Không phải, đó là đệ tử của Thầy em tên là A 
		Na Luật Đề, đối với đại chúng, là một vị thiên nhãn bực nhất. Tiện Na vui mừng! Cung kính lấy hương hoa kỹ 
		nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Sau em Phật là Nan Đà, hóa ra ngàn cỗ xe ngựa 
		Thất bảo trên xe che tán Thất bảo, phóng quang minh chiếu ra bốn phương, 
		bay trên hư không, đến nước Phóng Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy của em phải không? - Không phải, đó là em của Phật tên là Nan Đà, 
		tướng mạo và đức hạnh đầy đủ. Tiện Na vui mừng! Lấy hương hoa âm nhạc ra cúng 
		dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Sau Ngài Tu Bồ đề hóa ra bảy quả núi ngọc, Ngài 
		ngồi trong hang lưu ly, thân phóng quang minh nhiều sắc lẫn nhau, chiếu 
		sáng trời đất, bay đến nước Phóng Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy của em phải không? - Không phải, đó là đệ tử của Thầy em tên là Tu 
		Bồ đề, học nhiều trí tuệ sâu rộng, là một vị bậc nhất giải rõ pháp 
		"Không". Tiện Na vui mừng! Lấy hương hoa âm nhạc ra cúng 
		dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Sau đó ông Phân Nậu Văn Đà Ni Tử, hóa ra một 
		ngàn thân Ca Lâu La Vương, kết thành toà ngồi, đầu hướng ra bốn bên, mồm 
		ngậm các thứ châu bảo, phát ra những tiếng hòa nhã, ở trên bảy tòa Thất 
		bảo, bay trên không gian đến nước Phóng Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy của em phải không? - Không phải, ông đó cùng đồng Thầy với em, tên 
		là Phân Nậu Văn Đà Ni Từ, một vị biện tài đệ nhất. Tiện Na vui vẻ! Lấy hương hoa âm nhạc ra cúng 
		dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Sau có Ngài Ưu Bà Ly hóa ra ngàn con nhạn giụm 
		mình vào nhau đầu quay ra ngoài, tiếng kêu hòa nhã! Mồm ngậm các thứ 
		châu bảo, bay liệng trên không gian, trên mình bày tòa quý đẹp, phóng 
		đại quang minh chiếu khắp bốn phương, bay đến Phóng Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy em phải chăng? - Không phải, đó là đệ tử của Thầy em, tên là Ưu 
		Ba Ly, một vị trì luật bực nhất trong hàng Tỳ kheo. Tiện Na vui mừng! Lấy hương hoa âm nhạc ra cúng 
		dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Sau đó hai mươi ức vị Sa môn, hóa ra những hàng 
		cây ở trên hư không, dùng ngọc lưu ly xanh làm lối kinh hành, giữa hai 
		hàng cây giáp nhau, làm bằng Thất bảo, bên lề đường cũng bằng Thất bảo, 
		các vị đi trên lối kinh hành đến nước Phóng Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy em phải chăng? - Không phải, đây là hai mươi ức vị Sa môn, đệ 
		tử trong các hàng Tỳ kheo, tinh tiến hơn hết. Tiện Na vui mừng, đem hương hoa âm nhạc ra cúng 
		dàng, các Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Sau có ông Đại Kiếp Tân Ninh, hóa ra bảy hàng 
		cây báu, trên cây có rất nhiều hoa quả, dưới gốc cây có bảy tòa cao đẹp, 
		Ngài ngồi trên tòa phóng quang minh. Bay trên hư không đến nước Phóng 
		Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy em phải chăng? - Không phải, đây là một vị cùng Thầy với em, 
		tên là Đại Kiếp Tân Ninh, oai nghi đĩnh đạc, dũng mãnh nghiêm chỉnh đệ 
		nhất. Tiện Na vui mừng, đem hương hoa âm nhạc ra cúng 
		dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Sau có ông Tân Đầu Lư Phả La Đỏa Sà ngồi tòa hoa 
		sen, cổ đeo chiếc nguyệt quang, phóng ra ngàn tia sáng, soi khắp trời 
		đất, bay trên không gian đến nước Phóng Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy em phải chăng? - Không phải, đó là đệ tử Phật, tên là Tân Đầu 
		Lư Phả La Đỏa Sà, một vị tọa thiền giỏi nhất. Tiện Na vui vẻ, đem hương hoa âm nhạc ra cúng 
		dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Sau có ông La Hầu La hóa làm vua Chuyển Luân; có 
		ngàn người con và Thất bảo vây quanh trước sau, bay trên không gian đến 
		nước Phóng Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy em phải không? Đáp: - Không phải, đó là con Phật, tên là La Hầu 
		La ở tại gia sẽ thống trị bốn thiên hạ, Thất bảo tự nhiên đầy đủ, không 
		phải dùng quân đội và khí giới, mà có thể dẹp yên được giặc, bỏ ngôi cao 
		quý xuất gia tu đạo, được đắc quả A la hán, đủ sáu phép thần thông, giờ 
		đây biến thân để biểu lộ cái ngôi của Ngài. Tiện Na vui vẻ đem hương hoa âm nhạc ra cúng 
		dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Đây là năm trăm đệ tử của Phật, có phép thần 
		thông vô ngại biến hiện phi thường không tả xiết. Khi đó đức Thế Tôn 
		biết các vị đã đi đến nước Phóng Bát rồi. Ngài bèn phóng hào quang chiếu 
		sáng trời đất thuần sắc vàng. Thấy điềm tướng này, Phú Na Kỳ bảo Tiện Na rằng: - Thưa anh! Đức Thế Tôn sắp đến, nên Ngài phóng 
		hào quang cho biết trước! Đức Thế Tôn đương ngồi trên tòa, la chân xuống 
		đất, tất cả trên trời dưới đất đều rung động sáu lần. Phú Na Kỳ nói: - Động đất này là do đức Thế Tôn, 
		Ngài la chân xuống đất làm chấn động như thế đó. Đức Thế Tôn vừa ra khỏi Tinh xá, Ngài dừng lại 
		nhập định, thì thần kim cương đứng ở tám mặt; bốn ông Thiên Vương đi 
		trước, vua Đế Thích với các ông Thiên Tử cõi Dục và năm trăm ngàn muôn 
		chúng thị vệ bên tả, vua Trời Đại Phạm và các ông Thiên Tử cõi Sắc, với 
		vô số người đứng bên hữu. Tôi (A Nan) đứng sau Phật cùng với đại chúng, 
		phóng quang minh chiếu khắp trời đất, bay trên hư không đến nước Phóng 
		Bát. Đi được nữa đường, gặp năm trăm nông phu đương 
		cày ruộng, các con trâu tự nhiên đứng dừng lại không kéo cày nữa, một vẻ 
		trầm tĩnh và kính cẩn biểu lộ, ngửa mặt nhìn lên trời, các người nông 
		phu ngửa nhìn theo trâu, họ đều quỳ xuống bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thê Tôn! Để lòng thương lũ chúng 
		con, tạm xuống chỗ này giáo hóa chúng con thoát ly được những nỗi đọa 
		đày thể xác lẫn tinh thần, đời đời được an vui sung sướng! Phật lấy lòng Từ bi và biết những người này 
		duyên lành đã tới, nên Ngài từ từ hạ xuống thuyết pháp cho họ nghe. Họ được lãnh hội giáo lý của Ngài, tâm trí tự 
		nhiên sáng tỏ, hiểu thấu đời là vô thường không gì vững chắc, liền ngắt 
		dứt được hai mươi ức kiếp tội ác, thành ngôi Tu đà hoàn, còn những con 
		trâu, sau khi chết được sinh lên trời, ai nấy đều vui mừng khôn xiết, lễ 
		sát dưới chân Phật. Thuyết pháp xong, đức Phật lại bay lên hư không 
		mà đi, đi chưa được bao xa có năm trăm kẻ đồng nữ chơi ở một cánh đồng 
		rộng, nhìn xuống đất có ánh sắc vàng, ngửa mặt lên trời thấy Phật, chúng 
		nó vui mừng chắp tay bạch Phật rằng: - Kính lạy Phật! Xin Ngài xuống đây thuyết pháp 
		cho lũ con nghe! Phật biết những đứa này có túc duyên, căn lành 
		với Tam bảo đã chín, Ngài từ từ hạ xuống, mọi đứa tới gần cúi đầu lễ 
		kính, đức Phật tùy theo căn cơ của nó, nói những lời đạo đức, giảng dạy 
		môn tu. Chúng nghe xong đều phát trí sáng, đắc quả Tu đà hoàn, chúng vui 
		mừng tha thiết lễ dưới chân Phật. Cảm hóa đã xong, Ngài cùng với các đệ tử đi bộ 
		trên hư không, qua khoảng rừng xanh, có năm trăm ông tiên nhìn thấy Phật 
		và đại chúng, họ đều tha thiết lễ kính và bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Nhân Ngài qua đây, chúng 
		con được hạnh ngộ, ngửa mong ơn Từ bi cao cả tế độ lũ chúng con được 
		nhập đạo tu hành. Phật coi duyên trước của những người này, biết 
		có thể độ được, nên Ngài từ từ hạ xuống trước mặt, mọi người cúi đầu lễ 
		sát đất. Phật nói: - Thiện Lai Tỳ kheo! Nói xong râu tóc họ rụng hết, biến thành các vị 
		Sa môn, Ngài giảng giải cho nghe, mọi người đều được sáng tỏ cõi lòng, 
		hết lậu nghiệp đắc quả A la hán. Phật bay lên hư không thì những người 
		này họ cũng bay theo. Phú Na Kỳ xa ngó thấy Phật và đại chúng sắp tới 
		bảo anh rằng: - Phật sắp tới anh ạ! Tiện Na vui mừng, lấy hướng hoa âm nhạc ra cúng 
		dàng, Phật và dại chúng Tăng từ từ hạ xuống vào nhà thứ tự ngồi an tĩnh. Tiện Na và gia quyến, sửa soạn cỗ bàn trai nghi 
		trịnh trọng thành kính dâng Phật và đại chúng. Phật dùng cơm xong, rửa tay súc miệng, thăng tòa 
		thuyết pháp cho cả nhà Tiện Na và toàn thể dân nước nghe. Xong cuộc 
		thuyết pháp này, gia quyến Tiện Na đều chứng quả Tu đà hoàn, còn những 
		người trong nước một số rất đông được độ. Thấy thế, tôi (A Nan) hỏi Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Phú Na Kỳ đời quá khứ 
		tạo ác nghiệp gì phải sinh làm con kẻ hạ tiện? Thuộc nô tỳ nhà người? Và 
		có phước gì gặp Phật được thoát sinh tử? Cúi xin đức Thế Tôn Từ bi chỉ 
		thị. Phật dạy: - A Nan! Ông muốn biết hãy nghe cho kỹ 
		và nghĩ cho khéo, tôi sẽ nói cho hay! - Dạ! Lạy đức Thế Tôn, chúng con xin chú ý nghe! - A Nan! Đời quá khứ đã lâu, thời Đức Phật Ca 
		Diếp giáng thế độ sinh. Bấy giờ có ông Trưởng giả, nhà rất giàu có, cũng 
		vì việc cầu phước, nên ông làm một ngôi chùa và phòng Tăng, dâng bốn 
		món: áo mặc, thức ăn, giường tòa, thuốc thang đầy đủ, cúng dàng Phật và 
		các vị Thánh Tăng. Sau khi ông chết, người con trai của ông đi xuất gia, 
		không có người thừa tự, nên sự cúng dàng ngày một thiếu hụt, các sư phải 
		giải tán đi nơi khác, chùa chiền bỏ hoang vu, không người sửa chữa, bị 
		mục nát, điêu tàn! Người con trai ông đi xuất gia, khi trở về thấy thế, 
		đi nói với dân làng và bè bạn thân quen, bỏ tiền ra tu bổ lại ngôi chùa, 
		và mời các Sư Tăng về cúng dàng như xưa, bấy giờ các Sư Tăng đến tu rất 
		đông, phần nhiều là những vị Cao Tăng Đại đức tu hành tinh tiến, đức 
		hạnh đầy đủ. Người con trai ông khi đó làm chủ chùa. Trong 
		các Sư Tăng phân công mỗi người một chức, để chấp tác việc chùa, hôm đó 
		có một vị phải phiên trực nhật, nhổ cỏ quét đất vun thành một đống ở 
		giữa sân chưa kịp hốt. Ông chủ chùa bẳn gắt mắng rằng: - Ai quét sân nhổ cỏ để đây không hốt đi, làm ăn 
		thế à? Không khác gì đứa nô tỳ, lười lẫm như vậy? Trái lại sư này đã tu 
		chứng đến quả vị La Hán, mà ông không biết! Nói tới đây Phật nhắc lại rằng: - A Nan! Ông chủ chùa thuở đó chính là Phú Na 
		Kỳ, bởi một lời nói ác, mắng vị La Hán Thánh nhân, tỷ dụ Ngài như đứa nô 
		tỳ, vì tội ấy nên trong năm trăm năm, thường phải làm thân nô tỳ. Cũng 
		do công đức sửa lại chùa chiền, khuyên người cúng dàng Tăng, đền tội đã 
		xong, nay được gặp ta đắc giải thoát; những người nước này được giáo 
		hóa, là những người ngày xưa giúp việc làm chùa và cúng dàng chúng Tăng, 
		nên đời đời sung sướng, hôm nay gặp ta đều giải thoát cả. Khi đó tôi và đại chúng nghe xong đều vui mừng, 
		tạ lễ mà lui. 30/ Phẩm thứ ba mươi NI - ĐỀ Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá 
		Vệ, tại vườn của ông Cấp Cô Độc, và rặng cây của Thái tử Kỳ Đà. Bấy giờ trong thành Xá Vệ người ở đông đúc, chỗ 
		cư xử chật hẹp, nhà xí ít, đi đại tiểu tiện phần nhiều phải ra ngoài 
		thành, những nhà giàu sang họ đi vào trong một cái bô, đậy nắp cẩn thận, 
		mướn người xách ra ngoại thành đổ. Khi đó có ông Ni Đề nhà nghèo, hàng ngày sinh 
		sống bằng nghề đổ phân thuê. Đức Thế Tôn luôn luôn nghĩ đến chúng sinh 
		có duyên, kẻ nên độ trước thì độ trước, kẻ nên độ sau thì độ sau, cũng 
		như cây kia nở hoa trước, thì kết quả trước, cây này nở hoa sau, thì kết 
		quả sau, tùy theo những chúng sinh căn lành đã thục, hoặc sớm hoặc muộn 
		đều được độ cả. Ngài biết ông Ni Đề căn lành đã thục, nghiệp chướng đã 
		tiêu, nên một hôm tôi theo Ngài vào thành để cứu ông ra con đường giải 
		thoát. Khi đức Thế Tôn và tôi vừa vào tới đầu phố, thì 
		ông Ni Đề gánh hai cái thúng phân đi đổ, ông nhìn thấy Phật trong lòng 
		tủi hổ, quẹo đi ra con đường khác để lánh mặt, vừa ra khỏi đường, bỗng 
		nhiên gặp Phật, sợ quá! Tẻ ra lối khác, tâm ý lộn xộn, đập thùng vào bờ 
		tường gạch, phẩn bắn đầy người, ông ngồi thụp xuống và không dám nhìn 
		Phật. Đức Thế Tôn tới gần an ủi và nói rằng: - Ni Đề, muốn theo ta xuất gia tu đạo cho thoát 
		khỏi các nỗi đau khổ không? - Dạ! Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài là dòng Kim 
		Luân Vương, các đệ tử của Ngài là những quý nhân, con là kẻ hạ tiện hèn 
		hạ, đâu dám xuất gia đồng hàng cùng các đệ tử của Ngài được! - Ni Đề! Nghe ta nói: pháp của ta thanh tịnh 
		nhiệm mầu, cũng ví như nước sạch có thể tẩy trừ được tất cả cấu uế nhơ 
		bẩn, cũng như đống lửa cháy lớn có thể đốt tiêu mọi vật, mặc dù vật lớn 
		hay nhỏ, cứng hay mềm, tốt hay xấu, đã bỏ vào thì thành tro than hết, 
		pháp của ta cũng thế, rộng rãi vô biên, giàu nghèo, sang hèn, trai gái, 
		nếu ai muốn tu ta sẽ độ hết. Ông Ni Đề nghe Phật nói xong, lòng tin chắc 
		chắn, phục xuống lạy và thưa rằng: - Dạ! Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài đã giàu lòng 
		thương đến con, vậy cúi xin Ngài cho con được nhập đạo tu hành. Thấy ông bẩn thỉu quá, Phật sai tôi đưa ông ra 
		sông tắm, và cho ông một tấm áo mới, mặc về Tinh xá Kỳ Hoàn, Phật thuyết 
		pháp cho ông nghe như sau: - Sinh tử là đau khổ phải nên sợ! Niết bàn là 
		pháp an vui lâu kiếp bất diệt, phải nên kính. Ông nghe Phật thuyết pháp xong hốt nhiên giác 
		ngộ, chứng được sơ quả, chắp tay lễ kính thọ giáo làm Sa môn. Phật nói: - Thiện Lai Tỳ kheo! Ngài nói dứt lời, tóc của ông rụng hết, áo Cà sa 
		thấy mặc tại mình. Phật dạy: - Ni Đề! Ông nên biết: Sắc thân năm ấm 
		này là khổ, những ác nghiệp gây ra từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, tập 
		họp ở tâm thức nên đoạn nó đi. Diệt phải nên chứng, đạo phải nên tu. Nghe Phật nói xong, tự nhiên giác ngộ, dứt hết 
		lậu nghiệp đắc quả La hán, đủ ba phép Minh và sáu phép thần thông. Khi bấy giờ người trong nước họ nghe biết đức 
		Phật độ cho ông Ni Đề, ai cũng lắc đầu lè lưỡi có ý khinh bỉ, nói cùng 
		nhau rằng: - Ông Ni Đề là người đổ phân thuê, đứng vào hàng 
		hạ tiện, tại sao Phật lại độ cho ông ấy đi xuất gia. Lũ ta lễ bái làm 
		sao? Thỉnh Phật và Tăng đến cúng dàng không mời kẻ đó! Lúc làm trai nghi 
		họ lại ngồi bẩn giường nhà ta. Họ xôn xao đồn khắp trong thành, ai ai cũng nghe 
		biết, sau đến tai vua, vua nghe thấy cũng không hoan hỉ tâm, thầm nghĩ 
		rằng: - Ta phải can thiệp việc này, nếu để Phật độ 
		những người nghèo hèn xuất gia thì khi cúng dàng lễ bái không tiện. Nghĩ xong lên xe đi đến rừng Kỳ Hoàn, khi tới 
		cửa rừng, vua dừng chân đứng nghỉ, nhìn thấy một vị sư ngồi trên tảng đá 
		lớn vá áo, ở dưới có bảy trăm người cõi trời dâng hoa cúng dàng, lễ 
		kính, đi nhiễu xung quanh, nhà vua tới gần thưa rằng: - Kính thưa Tôn giả! Tôi muốn vào yết kiến Phật 
		xin Ngài vào thông bạch cho. - Phải! Bệ Hạ để tôi vào thưa trước giùm. Nói xong rẽ qua hòn đá đi vào trong bạch Phật 
		rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Vua Ba Tư Nặc ở ngoài 
		cửa rừng muốn xin vào yết kiến đức Thế Tôn. Phật nói: - Ni Đề hãy dùng đạo lực đi ra nói 
		rằng: Ta cho vào. Ông Ni Đề từ tảng đá lớn ấy bước ra cũng như 
		người nhô khỏi mặt nước không có vướng vúi gì, bảo nhà vua rằng: - Thưa Bệ Hạ! Tôi đã thưa với Phật, xin Ngài cứ 
		việc đi vào. Vua Ba Tư Nặc thầm nghĩ như vầy: - Việc ta định hỏi trước, hãy khoan, ta sẽ hỏi 
		Phật, vị Tỳ kheo này ở đâu tới đây có thần lực cao siêu, hơn nữa lại 
		được các người cõi trời kính phục cúng dàng như vậy? Khi tới nơi cúi đầu dưới chân Phật, đi ngang về 
		bên hữu ba vòng, lui đứng về một bên bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Bên ngoài cửa rừng có 
		một vị Tỳ kheo, thần lực cao siêu đi vào trong hòn đá cũng như người đi 
		dưới nước, đá vẫn không nứt vỡ, họ tên gì, và ở đâu tới đây xin nói cho 
		con được biết? Phật dạy: - Đó là một người hèn hạ nhất ở trong 
		nước nhà vua đấy, tên là Ni Đề hàng ngày đi đổ phân thuê, tôi thương 
		tình độ cho xuất gia tu học, chưa được bao lâu đã chứng Thánh quả, hôm 
		nay nhà vua đến đây cũng định hỏi tôi việc đó! Nghe Phật nói thế nhà vua tàm quý, tự bỏ hết tâm 
		kiêu mạn, nhân thế Phật nói rằng: - Phàm con người ở trên đời, tôn, ty, sang, hèn, 
		giàu, nghèo, khổ, vui, cũng do tạo ác nghiệp, hay thiện nghiệp đời quá 
		khứ. Người nhận từ đạo đức, khiêm nhượng, kính trên nhường dưới, đó là 
		bậc quý nhân, kẻ hung ác tàn bạo, ương ngạnh, kiêu ngông vô lễ độ, không 
		phân phải trái thiện ác là kẻ hạ ngu tiểu nhân. - Kính lạy đức Thế Tôn! Bậc Đại Thánh xuất thế! 
		Cứu tế cho muôn loài đến những người hạ tiện, đê hèn còn cứu khổ ban 
		vui, không bỏ sót từng lớp người nào, nếu có duyên lành. Ông Ni Đề tại 
		nhân duyên gì phải sinh nơi hạ tiện? Làm phúc gì được gặp Thế Tôn? Hơn 
		nữa lại được chứng quả La Hán cúi xin Từ bi chỉ thị. - Nhà vua nghe cho kỹ, tôi sẽ nói rõ nguyên nhân 
		cho biết. - Dạ! Lạy đức Thế Tôn! Con xin chú ý nghe, cúi 
		xin chỉ giáo. Đây cũng một câu truyện đời quá khứ, thời đức 
		Phật Ca Diếp giáng thế độ sinh, sau khi Ngài vào Niết bàn, có mười vạn 
		vị Tăng cùng ở với nhau một Tùng Lâm. Hôm ấy vị Sa môn chủ Tùng Lâm mắc 
		bệnh phải uống thuốc hạ, ông cậy thế làm một vị chủ không chịu đi ra nhà 
		cầu, mua một cái bình bằng bạc mạ vàng, đi đại tiểu tiện vào trong, rồi 
		bắt một người đệ tử đem ra ngoài đổ. Song người đệ tử ấy đã đắc quả Tu 
		đà hoàn. Bởi thế! Vì không có tâm khiêm nhường, không 
		phân biệt được người hay kẻ dở, cậy mình có thế lực, giữ việc Tăng 
		chúng, gặp chút bệnh nhẹ lười biếng không chịu đi, sai vị Thánh nhân đổ 
		phân cho mình. Vì nhân duyên ấy bị lưu lãng trong vòng sinh tử, thường 
		phải làm kẻ hạ tiện trong năm trăm đời, đi đổ phân thuê, cho đến ngày 
		nay không thôi. Cũng do công đức xuất gia trì giới, nên gặp ta cứu 
		thoát. Nhà vua nên biết ông chủ Tùng Lâm thuở đó, nay là Tỳ kheo Ni Đề 
		đấy. - Dạ! Kính lạy đức Thế Tôn quý hóa thay, Ngài 
		xuất thế thực là hiếm có, làm lợi ích cho không biết lượng nào chúng 
		sinh đau khổ. - Quý hóa! Như thế đấy, ông nói cũng phải, chúng 
		sinh luân chuyển trong ba cõi không có định, người tích thiện tu nhân, 
		được sinh vào nhà tôn quý, kẻ tạo ác phóng túng vô lễ độ, phải sinh nơi 
		hèn hạ. Nghe Phật nói! Nhà vua rất vui mừng bỏ hết tâm 
		kiêu mạn, khinh người, đứng lên quỳ thẳng ôm lấy chân ông Ni Đề lễ lạy, 
		và cầu xin ông xá tội. Đức Thế Tôn nhân vì ông thuyết pháp nói về luận 
		"Bố Thí", Luật "Trì Giới", luận "Sinh Thiên". Kẻ tà dâm phạm dục là hạnh 
		bất chính, đoạn dục là hạnh an vui. Bấy giờ tất cả mọi người dự thính, ai nấy đều 
		vui mừng, tự thệ bỏ tâm kiêu ngạo tuân lời Phật dạy, tu hành tạ lễ mà 
		lui. (Quyển Thứ Sáu Hết) 
		Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Bảy 31/ Phẩm thứ ba mươi mốt ĐẠI KIẾP TÂN 
		NINH Chính tôi được nghe: Một thời Phật ở nước Xá Vệ, 
		tại vườn Cấp Cô Độc, cây của Thái tử Kỳ Đà. Về phương nam nước Xá Vệ có một nước tên là Kim 
		Địa, ông vua đó tên là Kiếp Tân Ninh, con trai ông tên là Đại Kiếp Tân 
		Ninh. Trí óc thông sáng sức lực khỏe mạnh, sau khi nhà vua băng hà, Thái 
		tử Đại Kiếp Tân Ninh lên nối ngôi, thống trị ba vạn sáu nước, quân lính 
		rất nhiều, thiên hạ vô địch, tiếng anh hùng đã lừng lẫy bốn phương. 
		Nhưng xứ Trung Quốc họ không tùng phục. Bấy giờ có một người lái buôn đến nước Kim Địa 
		buôn bán, đem dâng vua bốn thứ lụa Bạch Điệp rất tốt. Vua nhận rồi hỏi 
		rằng: - Vật này mua ở xứ nào? - Tâu Bệ Hạ! Mua ở Trung Quốc! - Trung Quốc tên chi? - Tâu Bệ Hạ! Tên là La Duyệt Kỳ, Xá Vệ, và còn 
		nhiều nước khác nữa. - Các vua xứ Trung Quốc, tại sao không đem lụa 
		này dâng ta? - Tâu Bệ Hạ, đối với lực lượng họ cũng chẳng kém 
		gì nên họ không dâng! Vua Kim Địa thầm nghĩ như vầy: - Thế lực của ta có thể toàn thu được thiên hạ 
		về một mối, họ không chịu thần phục ta, ta sẽ cử đại hùng binh sang 
		đánh! Nghĩ xong hỏi lái buôn rằng: - Các nước xứ Trung Quốc, nước nào lớn hơn và 
		hùng mạnh hơn? - Tâu Bệ Hạ, nước Xá Vệ lớn nhất, và hùng mạnh 
		nhất! Nhà vua nói: - Tốt lắm, Trẫm nhận lẽ này cho anh, và cho anh 
		ra! - Dạ! Tâu Bệ Hạ, con xin cáo lui. Nhà vua thảo tờ chiếu chỉ, sai người mang sang 
		cho vua Ba Tư Nặc như sau: - Ba Tư Nặc! Ông nên biết: Nước ta hùng mạnh 
		khắp cõi Diêm Phù Đề đều biết, Khanh tuyệt giao với ta; Ta sai người 
		mang chiếu chỉ này, bảo cho Khanh biết: Nếu Khanh đương nằm nghe thấy 
		chiếu chỉ của ta đến, thì phải ngồi dậy ngay! Nếu đương ngồi phải đứng 
		dậy ngay! Nếu đương ăn phải nhổ ra ngay! Nếu đương tắm phải quấn tóc lại 
		ngay! Nếu đương đứng phải chạy đến đỡ lấy ngay, sau bảy ngày nữa sẽ biết 
		ta! Nếu không theo đúng lời nói đây, ta sẽ đem đại hùng binh sang tiêu 
		diệt nước của nhà ngươi! Vua Ba Tư Nặc tiếp được tờ chiếu chỉ vua Kim 
		Địa, sợ toát mồ hôi! Bối rối không biết nghĩ sao liền đi cầu Phật giải 
		quyết. Bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Vua Kim 
		Địa cậy sức hùng mạnh, hẹn bảy ngày nữa đem binh sang đánh, con vừa nhận 
		được thơ. Cúi xin đức Thế Tôn đoán cho! Phật dạy: - Nhà vua không lo! Về bảo sứ giả 
		rằng: Ta cũng có một ông Đại Vương nước lớn, ông đó theo Phật giáo, cũng 
		gần đây, vậy nhà ngươi mang tờ chiếu này đến cho Đại Vương ta coi! Sứ giả đi cùng vua Ba Tư Nặc đến rừng Kỳ Hoàn. Đức Thế Tôn tự biến ra vua Chuyển Luân, sai ông 
		Mục Kiền Liên làm một vị đại tướng cầm quân, cơ nào đội ấy rất hùng 
		mạnh, biến rừng Kỳ Hoàn ra một cái thành lớn, bằng Thất bảo, chung quanh 
		thành có bảy lần hào lũy, thành có bảy lần hàng cây cũng bằng Thất bảo, 
		dưới hào có hoa sen, đủ các sắc, quang minh sáng sủa, các cung điện 
		trong thành thuần bằng Thất bảo. Vua Chuyển Luân ngồi trên bảo điện tôn 
		nghiêm đáng sợ. Sứ giả vào tới thành, nhìn thấy vua Chuyển Luân, 
		lẫm liệt như ông Thiên Đế Thích trên cung trời Đao Lợi, tâm hồn kinh 
		ngạc, sợ hãi! Thầm nghĩ như vầy: - Vua Kim Địa vô cố lại chiêu cái họa vào thân! Vừa run, vừa sợ! Không biết tính cách gì nói cho 
		tiện, quỳ xuống dâng lá thơ thưa rằng: - Kính tâu Đại Vương! Con là sứ thần của vua Kim 
		Địa, tuân mạng dâng bức thơ này lên Đại Vương! Vua Chuyển Luân, vất tờ thơ ấy xuống đất, đạp 
		lên trên nói: - Ta làm một ông Đại Vương thống trị bốn thiên 
		hạ, chúa nhà ngươi điên cuồng sao dám vô lễ, về ngay bảo cho chúa nhà 
		ngươi biết rằng: Mau mau lại đây triều cống nước ta, đương nằm nghe thấy 
		lời của ta đến, phải ngồi dậy ngay! Đương đứng phải bước lại ngay! Hẹn 
		bảy ngày nữa phải đến! Nếu trái lệnh ta, khi chịu chết đừng có hối hận! - Dạ muôn tâu Đại Vương! Hạ thần xin phụng mạng! Sứ Giả về nước nhà! Tâu vua Kim Địa những lời 
		nói trên, và trình bày thế lực cho nghe. Kim Địa nghe xong núng thế, tự 
		trách mình đã quá kiêu ngạo, rồi thảo thơ đi mời các vua nước nhỏ đến, 
		để đi yết kiến vua Chuyển Luân (Phật). Song hãy còn ngờ sai sứ đến tâu rằng: - Tâu Bệ Hạ! Tiểu Vương Kim Đại phái hạ thần đến 
		đây, kêu với Bệ Hạ đưa ba vạn sáu ngàn vua các nước đến yết kiến, hay đi 
		một nữa, xin cho hạ thần được rõ? - Đại Vương đáp: "Cho để lại một nữa, tới đây 
		một nữa?" Sứ Giả về tâu rằng: - Tâu Bệ Hạ! Đại Vương cho để lại một nữa, sang 
		một nữa! Vua Kim Địa sửa soạn binh nhung đầy đủ lương 
		thực, và đưa một vạn tám ngàn vua nước nhỏ sang. Tới nơi thấy thành 
		quách trang nghiêm thuần bằng Thất bảo, quân đội hùng mạnh, vua Chuyển 
		Luân như ông trời Đế Thích, oai phong lẫm liệt, cảnh giới không khác 
		thiên cung. Song lại nghĩ như vầy: Đức tướng và cảnh giới tuy hơn, nhưng lực lượng 
		chưa chắc đã hơn ta. - Vua Chuyển Luân biết ý nghĩ của ông như vậy, 
		sai quân lấy cung cho vua Kim Địa giương thử. Kim Địa cầm cung giương 
		không nổi. Thấy giương không nổi, vua Chuyển Luân cầm lấy 
		cung giương lên như bỡn, rồi Ngài trao cho Kim Địa bắn thử, nhưng bắn 
		không nổi. Vua Chuyển Luân cầm lấy cung, bắn tiếng kêu, làm 
		chấn động ba ngàn thế giới, lại bắn thêm một phát nữa, hóa ra năm mũi 
		tên, các đầu tên đều tỏa ra vô số quang minh, trên đầu tia sáng đều có 
		các hoa sen lớn, to như vành bánh xe, trên mỗi một hoa, đều có một ông 
		Chuyển Luân Vương ngồi tòa Thất bảo, ngọc nữ đông đủ. Những tia sáng của 
		hoa làm đoạt ánh sáng mặt trời, mặt trăng, trong ba ngàn cõi, hào quang 
		ấy làm cho tất cả chúng sinh trong năm thú được lợi ích. Trên các cõi trời, những người được thấy ánh hào 
		quang, và được nghe thuyết pháp, thân tâm họ đều được thanh tịnh an vui! 
		Rồi có người đắc quả thứ hai, hoặc thứ ba; cũng có người phát tâm cầu 
		đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, dự vào ngôi bất thoái. Những chúng sinh ở đạo người được thấy hào 
		quang, và nghe tiếng thuyết pháp, ai nấy đều vui mừng! Sau có người đắc 
		nhị quả hoặc tam quả, cũng có người phát tâm xuất gia, và phát tâm cầu 
		đạo Vô thượng Bồ đề, dự vào ngôi bất thoái. Trong loài Ngạ quỉ được thấy hào quang này và 
		nghe tiếng thuyết pháp, đều tiêu hết nghiệp, thân tâm an lạc, nhiệt não 
		tiêu tan, phát sinh tâm tôn kính Đức Phật, họ đều được giải thoát loài 
		Ngạ quỉ, sinh lên thiên đường hoặc sinh cõi nhân gian. Loài Súc sanh được gặp ánh quang minh này, lòng 
		tham dục, sân si tự nhiên tiêu diệt, sinh lòng tôn kính Đức Phật, đều 
		thoát khỏi loài Súc sanh, hóa sinh về cõi người cõi trời. Những người trong Địa ngục, được gặp ánh quang 
		minh này, kẻ rét được ấm áp, kẻ nóng được mát mẻ, kẻ đau khổ được an 
		lành, thân tâm vui sướng kính mến Phật, liền thoát khoải Địa ngục sinh 
		về cõi người, cõi trời. Đại Kiếp Tân Ninh và các ông vua thuộc xứ Kim 
		Địa, thấy phép thần biến như vậy, vui sướng, tôn kính, cảm phục, sợ hãi 
		vua Chuyển Luân có thần biến và đức độ vô biên, ngay lúc ấy tâm của các 
		ông vua đều giũ hết mọi trần cấu Đắc Pháp Nhãn Tịnh. Đức Phật thấy các ông đã chuyển tâm quy hướng, 
		nên Ngài thu nhiếp thần lực, hiện lại nguyên hình, các đệ tử vây quanh 
		trước sau. Kim Địa và các ông vua thấy Phật, oai đức phi 
		thường thần thông hiển hách, sinh tâm cung kính, cùng nhau quỳ thẳng 
		chắp tay bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con tuy làm nhân 
		chúa, còn mê muội chịu ách luân hồi sinh tử, muốn trút bỏ kiến thức hẹp 
		hòi của chúng sinh, ràng buộc, cúi xin Ngài Từ bi cho xuất gia học đạo! Đức Phật khen ngợi! Và nói lên rằng: - Thiện Lai Tỳ kheo! Nói dứt lời râu tóc các ông đều rụng hết, áo Cà 
		sa thấy mặc tại mình, nghe Phật thuyết pháp được hết lậu nghiệp thành 
		ngôi La Hán. Thấy thế, tôi (A Nan) tới trước quỳ thẳng chắp 
		tay bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Vua Kim Địa, trước tu 
		hạnh gì, nay được làm nhân chúa, lại được gặp Thế Tôn, đắc quả La Hán 
		cúi xin nói cho chúng con, và chúng sinh đời vị lai được rõ? Phật dạy: - A Nan, tất cả chúng sinh do tạo công 
		đức lành đời trước mà được hưởng quả báo tốt đời này. Đây cũng một thời 
		quá khứ sau, Phật Ca Diếp nhập Niết bàn, có một ông Trưởng giả, bỏ tiền 
		ra xây tháp, làm chùa, và các phòng xá, cúng dàng chư Tăng, nào áo mặc, 
		thuốc thang giường tòa, các món ăn, sau khi ông chết trải qua lâu năm, 
		chùa tháp bị hư hỏng và các món ăn cũng không còn nữa, nên các sư phải 
		đi xứ khác. Con ông ta đi xuất gia làm Tỳ kheo, trở về nhà thấy thế, ra 
		khuyến hóa nhân dân, tu sửa chùa tháp, đặt các giường tòa, và các đồ ăn 
		dùng cúng dàng chư Tăng đầy đủ, rồi phát nguyện rằng: - Nguyện công đức này, đời mai sau cho con được 
		phú quý tràng thọ, gặp Phật nghe pháp và đắc đạo quả! A Nan ông nên biết, con Trưởng giả ở thời đó, 
		chính là vua Kim Địa tên là Đại Kiếp Tân Ninh, còn những người dân góp 
		tiền của chúng dàng, nay là một vạn tám ngàn các ông vua nước nhỏ bây 
		giờ. Nghe Phật nói xong ai nấy vui vẻ! Phát tâm cầu 
		đạo tu phúc, tuân theo lời vàng ngọc, tạ lễ lui ra. 32/ Phẩm thứ ba mươi hai TỶ KHƯU NI VI 
		DIỆU Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá 
		Vệ, tại Tinh xá Kỳ Hoàn, sau khi vua Ba Tư Nặc đã băng hà, Thái tử Lưu 
		Ly chấp chính, bạo ngược tham tàn, thả voi đạp chết nhân dân vô kể. Bấy giờ các con gái trong nhà quý phái, thấy thế 
		chán đời, rủ nhau đi xuất gia tu đạo để cầu giải thóat rất đông. Nhân dân họ thấy các cô hoặc họ Thích, hoặc các 
		nhà Hầu Tước, là những dòng họ tôn sang bỏ sự vinh hoa sung sướng, xuất 
		gia tu đạo, cả thảy năm trăm người, nên họ rất tôn kính, tranh nhau cúng 
		dàng. Một hôm các cô ấy bàn nhau như vầy: - Chúng ta tuy được xuất gia, mang danh là Tỳ 
		kheo Ni, song đối với Phật Pháp chưa hiểu biết gì; chưa được uống Pháp 
		Dược, để tiêu những tập chướng Dâm, Nộ, Si từ đời vô thủy. Bây giờ phải 
		đến bà Thâu Lan Nan Đà Tỳ kheo Ni xin học hỏi, và để bà truyền pháp Bát 
		kính cho. Các cô cùng nhau đến làm lễ và thưa rằng: - Kính thưa bà, chúng con không biết có phúc 
		duyên gì, được hạnh phùng Tam bảo xuất gia tu đạo, làm Tỳ kheo Ni, song 
		đối với giáo lý cao siêu của đức Phật chưa hiểu biết gì, hôm nay chúng 
		con cả thảy năm trăm người, đến đây cầu xin bà Từ bi thí Pháp Nhũ, cho 
		chúng con được ân triêm công đức! Bà Thâu Lan Nan Đà nói: - Các cô sinh trưởng nơi tôn sang, lớn họ dài 
		giòng, vinh hoa thiếu chi, đương tầm tuổi trẻ, xuất gia học đạo làm gì 
		cho khổ một đời tươi trẻ! Thôi đem áo bát cho tôi, trở về lấy chồng, 
		hưởng cuộc đời êm ấm nơi khuê các, cho khoái lạc, tội chi làm Tỳ kheo Ni 
		ở nơi chốn chùa chiền khô quạnh, chôn dìm cuộc đời như đống tro tàn lạnh 
		lẽo! Các cô nghe bà nói xong, lòng dạ hoang mang, sa 
		nước mắt tạ lễ lui ra. Trong khi đi bảo nhau rằng: - Chúng ta muốn thoát khỏi con đường tình ái, 
		ngu si, mê muội của thế gian, đến đây bà đã không khuyên bảo lũ ta được 
		gì, lại đem những lời lẽ lôi kéo chúng ta vào nơi hang hầm miệng sói, 
		trụy lạc đời đời. Vậy chị em ta đến bà Tỳ kheo Ni Vi Diệu, cầu bà tế độ. Năm trăm cô đến chỗ bà Tỳ kheo Ni Vi Diệu, cúi 
		đầu lễ sát đất thưa rằng: - Kính thưa bà, chúng con ở tại tập tục mê muội, 
		tuy đã đi xuất gia, nhưng tâm ý vẫn còn tham ái, lòng dục vẫn thường 
		phát khởi như lửa đốt, không cách gì ngăn cản nổi, xin bà thuyết pháp để 
		giải thoát cái tội căn ấy cho lũ chúng con! Bà Tỳ kheo Ni Vi Diệu đáp rằng: - Trong ba đời: Quá khứ, hiện tại, vị lai, các 
		cô muốn hỏi gì? - Dạ! Kính thưa bà, đời quá khứ, và đời vị lai, 
		còn viễn vọng, chúng con không dám hỏi, xin hỏi bà: Cái tội thắt chặt 
		của sự dâm dục đời hiện tại, nó xấu hay tốt, nó hay hay nó dở, có kết 
		quả gì cho mình không? Có lợi ích hay không có lợi cho tương lai, xin bà 
		giải thích! - Các cô muốn biết rõ hãy để ý nghe! - Dạ chúng con xin chú ý nghe! - Các cô nên biết! Tất cả trời người, cho đến 
		vạn vật có hình thức trên vũ trụ này, loài nào cũng do nghiệp ái dục mà 
		sinh ra; Dâm dục ví một dám lửa cháy dữ dội nó có thể đốt tiêu hủy núi 
		rừng, cây, cỏ, gỗ, đá cho đến vũ trụ bao la, kẻ mắc phải dâm dục, cũng 
		như bị giặc vào phá nhà; kẻ đó sẽ đọa xuống tam đồ ác đạo, không có kỳ 
		hẹn được ra. Những ai luyến gia nghiệp, đó là tham sự sum họp 
		ân yêu vui vầy! Vì nhân duyên ấy nên sanh già bệnh chết, biệt ly, huyễn 
		quan xúc não! Đương yêu nhau bị ly biệt, thương tiếc khóc than! Luyến ái 
		tổn hại đến tâm can ngất đi sống lại, tâm ý trói buộc như lao ngục. Tôi 
		vốn là một con nhà dòng Phạm Chí, cha tôi là một người được tôn quý nhất 
		trong nước. Buổi đó ông Trưởng giả dòng Phạm Chí, có người 
		con trai xinh đẹp trí óc thông minh. Thấy ta xinh đẹp lại dòng quý phái, 
		nên ông nói với cha mẹ ta, cưới ta về cho con trai ông. Sau khi đã thành 
		gia thất, vợ chồng ăn ở với nhau được một đứa con trai, đã lâu ngày xa 
		cha cách mẹ, lòng nhớ mong không tả xiết? Giữa lúc ta đang có mang, sợ 
		sinh tử vô thường nên ta xin phép chồng về nhà thăm cha mẹ; chồng ta ưng 
		thuận cho đi. Buổi sáng ấy, hai vợ chồng ẵm con và mang đồ hành lý ra 
		đi, đi chừng được nữa đường trời vừa sẩm tối, vợ chồng nằm nghỉ dưới gốc 
		cây to, không may lúc cnh khuya ta đau bụng sinh, huyết chảy ra lênh 
		láng, các loài rắn độc, thấy mùi tanh tìm lại, cắn chết chồng ta! Đương 
		lúc ngủ say! Ta gọi mãi không thấy trả lời. Trời vừa tảng sáng, cầm tay 
		kéo dậy, thấy lạnh buốt ngay đờ như cục gỗ, không còn tri giác, xem kỹ 
		biết rằng rắn cắn, thương quá! Trời ơi! Khổ chi đến nỗi thế này! Khi đó 
		hồn phách ta không biết bay đâu? Ngất đi mê mết! Thằng nhỏ ngồi bên vừa 
		gọi vừa khóc! Dần dần tỉnh dậy. Rồi ta cõng thằng nhỏ trên vai, tay ẵm 
		đứa con mới nở, vừa đi vừa khóc! Qua quãng đường vắng, tới một con sông 
		lớn, nước không sâu lắm, không có thuyền qua, ta phải để thằng nhỏ trên 
		bờ, ẵm đứa bé bơi qua sông, sang tới bờ để đứa bé bên này, lại ngồi sang 
		đón thằng nhỏ, không may, thằng nhỏ té xuống sông lúc nào mất, ta lại 
		bơi sang bờ sông bên này, thì đứa bé mới sinh đã bị hổ tha, chỉ thấy 
		những giọt máu chảy ròng ròng trên mặt đất, ta buồn khổ quá! Chết ngất 
		đi hồi mới tỉnh lại. Thơ thẩn một mình bước trên đường đi, vừa được vài 
		dặm, gặp một người bạn thân của cha ta, ông hỏi rằng: - Con đi đâu về? Sao bác coi con nhem nhuốc tiều 
		tụy như vậy? - Thưa bác! Hôm qua vợ chồng nhà con ẵm cháu về 
		thăm cha mẹ, đêm qua không may chồng con bị rắn cắn chết, sáng hôm nay 
		mất hai đứa cháu: Một đứa lăn xuống sông, một đứa bị hổ tha, thực là đau 
		khổ cho con quá! - Ôi thế ư! Hôm qua nhà con bị phát hỏa, cha mẹ 
		con, và cả nhà con đều bị chết cháy hết rồi, còn gì đau khổ hơn cho con 
		nữa! Nghe xong như sét đánh bên tai, ta ngã lăn ra 
		đất, chết ngất đi hồi lâu mới tỉnh lại! Hết khóc lại than, thực là một 
		sự vô cùng thảm khốc! Ông ấy thương ta đau khổ! Đưa ta về nhà nuôi nấng 
		coi ta như con đẻ. Qua thời gian lâu, ta dần dần nguôi cơn đau khổ, 
		nơi đó có người con trai, cũng dòng Phạm Chí, thấy ta xinh đẹp, cậy 
		người mối lái, muốn cùng ta kết bạn trăm năm. Thôi cũng liều nhắm mắt 
		đưa chân, thử xem cuộc thế xoay vần đến đâu? Ta cùng người ấy kết duyên 
		với nhau, thấm thoát đã có mang mãn tháng nọ ngày tới kỳ hoa nở, hôm đó 
		giữa lúc canh khuya, ta đau bụng sanh, thì chồng của ta đi ăn uống nhậu 
		nhẹt, hay cờ bạc ở đâu về, gõ cửa gọi, giữa giờ phút sanh cháu nhỏ, nên 
		không ra mở cửa được, anh chàng tức giận phá cửa vào, đánh đập liên hồi, 
		ta kêu van và nói: - Thưa anh, em đương đau bụnh sanh, chứ không 
		phải lười hay khinh mà không ra mở cửa cho anh! Kẻ vũ phu nổi giận giết 
		tươi đứa con của ta mới sanh, rồi bắt ta phải ăn sống đứa con ấy. Ta 
		không chịu ăn, vì đánh đau quá! Nên ta nhắm mắt ăn liều, ăn xong tự hối 
		hận trong lòng: "Đời mình bạc phúc, gặp kẻ bất nhân". Sáng ngày hôm sau, 
		bỏ nhà ấy đi đến nước Ba La Nại, ngồi ở ngoài thành, con trai ông Trưởng 
		giả tại đây mới chết vợ, hàng ngày ra viếng mộ ở ngoài thành, thấy ta 
		anh hỏi: - Cô ở đâu tới, tại sao ngồi một mình ở đây? Khi đó ta nói thật những chuyện như trên cho anh 
		nghe, anh bảo ta rằng: - Cô cùng tôi vào nơi quán uống nước! Khi ngồi chơi uống nước chuyện trò vui vẻ, anh 
		hỏi: - Bây giờ có người muốn kết duyên cùng cô, vậy 
		cô có đồng ý không? - Thưa anh, em thấy ngán lắm! Vui không được bao 
		nhiêu, mà sự khổ đưa lại dồn dập, kẻ hiền lương không gặp, gặp kẻ bất 
		nhân, lại gây thêm phần đau khổ. - Đời ở một mình sao? - Em không ở một mình, nhưng nếu gặp hiền nhân, 
		có đạo đức có học vấn. - Thôi cô ơi! Nói gần nói xa chẳng qua nói thật, 
		chính tôi con trai ông Trưởng giả thành này vừa mới chết vợ, thấy cô là 
		người hiền đức, muốn làm bạn trăm năm cô nghĩ sao? Ta thấy có vẻ tướng hiền hòa, lại dòng quý phái, 
		nên đồng ý kết duyên cùng anh. Nhưng cũng không may cho ta, vợ chồng ăn 
		ở với nhau chưa được ba năm, anh mắc bệnh chết. Luật ấy, "nếu vợ chết thì chồng được phép lấy vợ 
		khác, nhưng nếu chồng chết thì chôn theo cả vợ". Như thế, ta cũng bị 
		chôn luôn với chồng một huyệt! Nhưng ta chưa chết hẳn, tối hôm đó tụi 
		cướp đến đào mả để lấy những trang vật vàng bạc của ta, anh tướng cướp 
		thấy ta xinh đẹp bắt về làm vợ, anh giặc này chưa được bao ngày, bị họ 
		bắt được chém mất đầu, bọn bộ hạ của anh cướp lấy xác mang về bắt ta đem 
		chôn sống cùng anh giặc một thể. Vừa được ba ngày có con hổ bới mả định 
		ăn thịt, trời tang tảng sáng chúng thấy người đi chợ đông, bỏ chạy, nhân 
		thế ta dùn mả lên, ngồi than một mình rằng: - Chẳng biết kiếp trước ta làm tội gì, mà nay 
		gặp nhiều tai nạn như vậy? Chết đi sống lại mấy lần, làm thân nữ nhi 
		thực là tội nghiệp. Xét rằng: Muôn vàn các bạn gái khác, chồng con cũng 
		chẳng qua dưới ách nô lệ, của tâm hồn mê muội ngu si, không biết nhận 
		thức một hạnh trong sáng thanh cao, bước lên on đường chân chính, tìm 
		hiểu chân lý, tu hành cho thoát khỏi nơi phàm tục! Đó cũng chỉ vì nghiệp 
		tham ái vô minh che tối, khi mới biết nhận thức con người, đã ngăm ngăm 
		trong đáy lòng toan tính những đường duyên nợ, chịu chết nơi sào huyệt 
		của dục vọng cám dỗ, vì thế mới chìm đắm nơi biển cả sinh tử luân hồi, 
		ta sực nhớ rằng: Trước đây có người họ Thích xuất gia tu đạo, nay đã 
		thành Phật, vậy đến đó để nương thân cho thoát khổ. Đứng dậy bước đi, dạ 
		đói thân đau, đường xa nhiều hiểm trở, vừa đi vừa hỏi thăm, đến nơi rừng 
		Kỳ Hoàn trời vừa sẩm tối, xa xa nhìn thấy đức Như Lai sáng rực như quả 
		núi vàng, oai phong lẫm liệt, đầy vẻ Từ bi, thật là một đấng siêu phàm 
		thoát tục, tế độ nhân thiên, sung sướng quá! Ta quỳ xuống một lòng thành 
		kính hướng về Ngài, tha thiết ân cần cầu tế độ. Ngài đến tận nơi, khi đó 
		hình thể ta lõa lồ ngồi dưới đất, thẹn hổ phải lấy tay che vú, Phật sai 
		Ngài A Nan đem cho ta tấm áo, ta tới trước đức Thế Tôn cúi đầu lễ dưới 
		chân, và trình bày những nỗi thống khổ vừa qua và xin xuất gia tu đạo. Ngài sai ông A Nan đem ta giao cho bà Đại Ái Đạo 
		dạy bảo, theo lời dạy bà thọ giới Tỳ kheo, rồi bảo ta pháp "Tứ Đế" là 
		Khổ, Tập, Diệt, Đạo, Vô Thường, Vô Ngã. Ta chăm chỉ tu hành chẳng bao lâu đã chúng được 
		đạo quả, hiểu biết đời quá khứ, và đời vị lai, coi thấy những tội ta đã 
		tạo từ đời quá khứ, nên phải chịu ác báo không sai một tí nào! - Kính thưa bà, đời quá khứ bà phạm tội gì, đời 
		này bị quả báo như vậy? Xin bà nói cho chúng con được rõ? - Muốn biết các cô hãy để ý nghe! - Dạ, chúng con xin chú ý nghe! - Đời ấy cách đây đã quá lâu, thuở đó có ông 
		Trưởng giả nhà giàu, nhưng không có con, sau ông lấy một người vợ lẽ; vì 
		có sắc đẹp nên ông mến lắm! Hai người với tình yêu khắng khít, chẳng bao 
		lâu sinh được đứa con trai; từ đó ông lại càng đằm thắm hơn xưa, thấy 
		thế người vợ cả thầm nghĩ như vầy: - Công ta khó nhọc, làm ăn chắt bóp nên được 
		giàu có, sau này đứa con của vợ lẽ nó hưởng tất, thật là luống công vô 
		ích cho ta, chi bằng ta giết quách nó đi là xong! Định kế như vậy rồi lấy một cái kim dài, chờ lúc 
		vắng người, cấm ngập vào giữa đỉnh đầu đứa bé. Cách ít ngày đứa trẻ ấy 
		chết, vợ nhỏ thương con khóc suốt ngày đêm không ngớt tiếng! Rồi tự nghĩ 
		rằng: - Con ta không ốm không đau, tự nhiên mà chết, 
		chắc rằng chị cả giết nó đây! - Hỏi: - Con tôi có tội gì, mà chị nỡ giết nó? Vợ lớn đáp: - Ô hay! Cô nói quàng nói điên như 
		vậy? Tôi thề rằng nếu tôi giết con cô, thì đời đời chồng tôi bị rắn cắn 
		chết, có con thì bị nước ngập hổ tha, lang bắt, còn thân tôi sẽ bị chôn 
		sống, và tôi tự ăn thịt con tôi, cha mẹ và cả nhà tôi sẽ vị chết cháy 
		trong đống lửa. Các cô nên biết người vợ lớn của ông Trưởng giả thuở đó 
		chính là tiền thân của ta; vì ta không biết tin tội phúc báo ứng, ác tâm 
		giết đứa con trai của người vợ bé ngày đó, rồi lại tự thề như vậy, cho 
		nên kiếp này chịu lấy quả báo đau khổ, cũng đúng như lời thề ngày xưa 
		không khác. - Kính thưa bà! Bà tu công đức gì, kiếp này được 
		gặp Phật và đắc đạo giải thoát, xin bà nói cho chúng con được biết? - Các cô để ý nghe: Đời quá khứ đã xa xưa, ở 
		nước Ba La Nại có một quả núi lớn gọi là Tiên Sơn, trong núi có nhiều 
		những vị Bích Chi Phật, Thanh văn và ngoại đạo thần tiên. Khi đó có vị 
		Duyên giác vào thành khất thực bà Trưởng giả thành ấy hoan hỷ cúng dàng, 
		Ngài dùng cơm xong bay lên hư không hiện ra các phép thần biến. Thấy thế 
		bà Trưởng giả chắp tay cung kính, hướng lên Ngài mà khấn rằng: - Kính lạy Đại đức Tôn giả! Xin cho con đời sau 
		cũng được đắc đạo như Ngài! - Các cô nên biết: Bà Trưởng giả ngày đó, chính 
		là tiền thân của ta, vì sự thành kính cúng dàng vị Thánh Tăng, và phát 
		nguyện nên đời nay được gặp Phật, đắc quả La Hán! Thân ta bây giờ tuy 
		đắc quả La Hán nhưng thường thường bị đau nhói một cái từ đầu xuống chân 
		không khác chi cái kim đâm đau thấu tận xương! Như thế đó, tội báo mặc 
		dầu cho lâu kiếp đến đâu cũng không thể xóa nhòa được. Năm trăm Ni Cô nghe bà kể lại lịch kiếp tiền 
		sinh như vậy, ai nấy trong lòng run sợ, tự quan sát cái căn bản của dâm 
		dục, cũng như một đám lửa cháy hừng, tâm tham dục mất hẳn. Coi những nỗi 
		đau khổ của thế gian, khác chi lao ngục, trần cấu tự nhiên tiêu hết, tâm 
		ý sáng tỏ, hiểu thấu đạo mầu. Bình tĩnh thâm tâm, nhập định Diệt Tận, 
		thành ngôi La Hán, khi xuất định thưa với bà Vi Diệu rằng: - Thưa bà, chúng con bị triền miên với lòng dâm 
		dục không gỡ nổi, hôm nay nhờ ơn bà đã được giải thoát. Phật khen bà Vi Diệu rằng: - Quý hóa, bà Vi Diệu thuyết pháp lợi mình lợi 
		người, chính là đệ tử của Tam thế chư Phật! Các cô, và đại chúng dự thính ai nấy đều hoan hỷ 
		tạ lễ mà lui. 33/ Phẩm thứ ba mươi ba LÊ KỲ DI Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá 
		Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà. Tại bản triều vua 
		Ba Tư Nặc có ông quan đại thần tên là Lê Kỳ Di, nhà giàu, sinh được bảy 
		người con trai; sáu cậu đã lập gia đình xong xuôi, còn cậu thứ bảy chưa 
		có vợ, ông tự nghĩ: Tuổi đã già yếu, còn đứa con trai út, nếu lập 
		gia đình cho nó thì phải tìm nơi xứng đáng, và con người xinh đẹp. Một hôm có người bạn thân dòng Phạm Chí đến 
		chơi, trong lúc chuyện trò vui vẻ! Ông nói: - Thưa bác! Tôi còn thằng cháu trai út, muốn lấy 
		vợ cho nó, nhưng chưa tìm được nơi đâu xứng đáng. Bác từ trước đến nay 
		đi du lịch các nước đã nhiều, vậy phiền bác nơi đâu con nhà tử tế, có 
		nết tinh khiết, hiền hậu hòa nhã, để bác giới thiệu cho cháu một người! - Dạ! Việc chi chứ việc ấy, tôi có thể giúp 
		được. Qua thời gian sau, ông bạn thân này sang nước 
		Đặc Xoa Thị Lợi, gặp năm trăm đồng nữ đi hái hoa. Ông theo sau để quan 
		sát, tới một suối nước chảy cô nào cô ấy đều tụt giày dép lội qua, duy 
		có một cô để cả giày lội theo, đi một lát tới con sông nhỏ, các cô kia 
		đều vén quần lội qua, nhưng cô nói trên, không vén để cả quần lội theo, 
		khi đi tới rừng cây, các cô kia đều trèo lên cây hái hoa, bắt trái, cô 
		này không trèo, đợi các cô kia xuống, xin được rất nhiều, ông tới trước 
		hỏi cô kia rằng: - Thưa cô, tôi xin hỏi cô một vài điều có được 
		không? - Dạ, xin ông cứ hỏi, không sao! - Vừa đây qua suối, các cô kia đều tụt giày dép 
		lội qua riêng cô không tụt là có ý gì? - Thưa ông, sở dĩ giày dép, chính là để giữ cho 
		cái chân, khỏi dẫm phải gai góc mảnh sành, và các vật có thể làm hại 
		chân; trên mặt đất, còn có thể trong thấy mà tránh, dưới nước làm sao 
		trông thấy, những gai góc độc trùng mà tránh, vì thế nên tôi không tụt! Ông hỏi tiếp: - Qua sông, các cô kia đều vén 
		quần lội, riêng cô để cả quần là ý nghĩa chi? - Thưa ông người con gái, phải có sự kín đáo 
		nhiệm nhặt, lõa lồ thân thể, thô con mắt bàng quang, và tự thẹn cho mình 
		nên tôi không vén! Ông hỏi tiếp: - Các cô kia đều trèo cây, tại sao 
		cô không trèo? - Thưa ông leo cây sợ cành gãy, làm nguy hai cho 
		mình, vì thế nên tôi không trèo? Xin lỗi cô tên chi, cha mẹ cô thế nào! - Thưa ông tên tôi là Tỳ Xá Ly, mẹ tôi là em vua 
		Ba Tư Nặc tên là Đàm Ma La Tiện. Phạm tội trốn sang nước này, làm bạn 
		với ba tôi sinh ra tôi. - Cha mẹ cô bình sinh cả chứ? - Dạ, thưa ông, cha mẹ cháu hãy còn bình sinh 
		cả! - Tôi muốn theo cô về thăm ông bà có được không? - Dạ, thưa ông được! - Cô đưa ông về tới nhà, rồi vào thưa với cha 
		rằng: - Thưa cha, có người Bà la môn muốn vào thăm 
		cha! Ba cô bước ra nhà khách, hai người gặp nhau, 
		chuyện trò vui vẻ! Ông Bà la môn thưa rằng: - Thưa ông, cô gái này là con ông phải không? - Dạ, thưa phải cháu ngoan lắm! - Ông đã lập gia đình cho cháu chưa? - Dạ, chưa có, cháu còn đi học! - Thưa ông, nước Xá Vệ có quan Đại thần là Lê Kỳ 
		Di ông có quen không à? - Dạ, chính tôi quen ông ấy đã lâu. - Thưa ông, cậu con trai út của ông Lê Kỳ Di, 
		người thông minh lắm muốn để xin cô gái của ông cho cậu ấy, có được 
		không ạ? - Dạ, được lắm, tôi rất bằng lòng, là vì ông ấy 
		với tôi là bạn thân, hơn nữa nhà ông ấy là dòng quý phái, đôi bên đều 
		xứng đôi cả. - Dạ, xin ông tôi cáo lui. Ông định về báo tin cho ông Lê Kỳ Di nhưng lại 
		gặp một người bạn thân về nước Xá Vệ, ông biên thơ gửi cho ông Lê Kỳ Di. Được thơ rồi, ông Lê Kỳ Di sắm sửa lễ vật, và 
		tiền bạc lên xe sang nước Đặc Xoa Thị Lợi, đến nơi ông sai người vào hỏi 
		han các công việc trước. Ông Đàm Ma La Tiện tiếp đãi rất trịnh trọng. Lê 
		Kỳ Di tới sau, chủ khách tương kiến hai họ vui vẻ! Hỏi han trao đổi ý 
		kiến, thỏa thuận cuộc hôn thú của hai nhà, công việc đã xong, họ trai 
		đưa cô dâu về nước Xá Vệ. Khi bước ra đi bà mẹ dặn cô rằng: - Con về nhà chồng luôn phải mặc áo mới đẹp, ăn 
		uống cho ngon lành, ngày nào cũng phải soi gương, chớ quên lời mẹ dặn! - Dạ, lạy mẹ con xin vâng lời mẹ dặn không dám 
		trái. Ông Lê Kỳ Di nghe thấy bà dâu gia dặn con gái 
		như vậy, tự hận để tâm và thầm nghĩ rằng: - Nhân sinh nhất thế, khổ, vui, áo mặc, miếng ăn 
		ngon đâu có nhất định, ngày nào cũng soi gương, thực là cả một sự vô lý. Sau khi hai họ Từ biệt bước lên đường, cô dâu 
		cùng chàng rể, ngựa võng nghênh ngang, người đông như hội, pháo nổ vang 
		trời, cũng hình như một đám rước thần. Nửa đường tới một nhà hàng có 
		hiên mát mẻ, những người đi trước đều vào nhà này nghỉ, cô dâu tới sau 
		thưa với bố chồng rằng: - Thưa cha! Nhà này không nghỉ được, mau mau 
		phải ra ngoài nghỉ! Ông cũng phải theo ý cô ra nghỉ một nơi khác, 
		cũng có số người không chịu đi, một lát có đàn voi tới, cọ vào cột làm 
		đổ nhà đè chết mấy người. Ông Lê Kỳ Di thầm nghĩ rằng: - Mình thoát chết là nhờ con dâu! Rồi lại bắt đầu đi, tới một bờ khe suối, mọi 
		người dừng chân đứng nghỉ. Cô đến sau nói rằng: - Nghỉ ở đây không hay, phải lên ngàn cao kia 
		mới được! Khi đó mọi người đều phải theo lời cô, lên tới 
		ngàn cao, chỉ trong chốc lát mây kéo đen, sấm sét vang dội, mưa như trút 
		nước xuống, chảy tràn ngập cả bờ khe suối ấy, ông Lê Kỳ Di tự niệm rằng: - Ta thoát chết hai lần là do con dâu cứu sống! Lại bắt đầu đi, lúc về tới nhà, họ hàng thân 
		quen kẻ xa người gần, tấp nập đến chào mừng. Hôm đó ông Lê Kỳ Di thiết đãi họ hàng ăn uống 
		rất linh đình vui vẻ! Cuộc nghinh hôn tới đây đã xong. Một hôm ông Lê Kỳ Di họp gia đình lại nói rằng: - Các con, bây giờ cha đã già yếu, việc gia đình 
		cha không thể kham nổi, tất cả cơ nghiệp tài sản này, kho tàng chìa 
		khóa, con nào đảm đang nổi, cha sẽ giao phó cho? Sáu cô dâu đều từ chối không dám nhận, cô Tỳ Xá 
		Ly thứ bảy, đứng lên thưa rằng: - Thưa cha các chị con không ai dám nhận, vậy 
		con xin nhận để đỡ cha! Ông Lê Kỳ Di vui vẻ giao phó cho cô tất cả công 
		việc trong gia đình. Từ đó cô chăm chỉ thức khuya dậy sớm, bảo ban Thầy 
		tớ các công việc rất chu đáo, tới bữa dâng cơm cha mẹ ăn trước, sau đến 
		các anh các chị cháu trai cháu gái, rồi đến các gia nhân, phân phó công 
		việc được ổn thỏa, rồi cô mới đi ăn cơm, thường thường cứ như thế. Ông thấy cô là một người trung kiên cẩn thận, 
		khác hẳn những người thường, và quái sao? Không thấy cô theo lời mẹ dặn 
		lúc bước ra đi. Ông hỏi: - Trước khi con về làm dâu, mẹ con có 
		dặn: Phải mặc áo mới đẹp, ăn thức ăn ngon lành, và ngày nào cũng soi 
		gương, thế sao con không theo lời của mẹ con đã dặn? Cô quỳ xuống thưa rằng: - Thưa cha! Mẹ con dặn mặc áo mới đẹp nghĩa là: 
		Áo mặc bao giờ cũng phải cho sạch sẽ, lúc khách tới nhà quan chiêm cho 
		khỏi thô con mắt. Dặn con ăn thức ăn ngon lành là Không phải ăn những 
		thứ thịt ngon béo, ý mẹ con dặn bao giờ cũng phải ăn sau, lúc đói gặp 
		thứ ngon cũng tốt cả. Còn soi gương, là không phải gương bằng đồng bằng 
		kính, ý nói phải dậy sớm bao phất trong nhà những giường ghế cho sạch sẽ 
		cẩn thận, chăn chiếu mền mùng cho gọn gàng. Mẹ con dặn là ý như vậy! - Ừ, hay lắm! Mẹ con là người có đức lớn, cha 
		cũng phải kính phục. Ông mừng thầm con dâu có tài, có đức, tinh thần 
		minh mẫn, biệt đãi hơn trước, từ đó công việc trong gia đình ông cứ thản 
		nhiên, không phải nghĩ tới. Một hôm nhà vua cùng triều thần văn võ bá quan, 
		đương ngồi trên bảo điện để bàn việc nước, tự nhiên thấy những chùm lúa 
		tám cánh rơi xuống sân rồng, họ nhìn lên trời thấy một đàn chim nhạn bay 
		qua, thấy thứ lúa quý, nhà vua giao cho mỗi ông quan một ít về trồng. Ông Lê Kỳ Di đem về giao cho cô Tỳ Xá Ly là con 
		dâu thứ bảy, dặn rằng: - Lúa này nhà vua giao cho đem về trồng, con hộ 
		cha việc đó. Sau một thời gian Vương Phu nhân mắc bệnh, các 
		Thầy lang chẩn mạch xong tâu với vua rằng: - Tâu Bệ Hạ, bệnh của Phu nhân, phải dùng thứ 
		lúa tám cánh ở bãi biển thì khỏi! Nhà vua triệu các quan vào nói rằng: - Trước đây tôi có giao cho các ông thứ lúa tám 
		cánh, đem về trồng, nay lúa đã chín chưa? Các ông kia tâu rằng: - Tâu Bệ Hạ! Vì không hợp 
		thủy thổ, lúa có lên, nhưng không kết quả. Ông Lê Kỳ Di về nhà hỏi con 
		dâu rằng: - Con trồng lúa tám cánh có tốt không? Nhiều hột 
		không? Nhà vua đương cần làm thuốc cho Hoàng hậu! - Thưa cha mùa này con trồng được nhiều lúa tốt 
		lắm, nếu dùng làm thuốc thì cấp cho toàn quốc cũng đủ! - Con đem cho cha một ít vào dâng vua? - Dạ, để con cho người xay giã cẩn thận đã. Hôm sau ông đem gạo tám cánh vào dâng vua rồi 
		tâu rằng: - Tâu Bệ Hạ, tuân theo thánh chỉ, hạ thần trồng 
		được rất nhiều, nay xin dâng Hoàng thượng một mớ gạo tám cánh đã làm cẩn 
		thận! - Tốt lắm, Khanh khéo tay trồng cấy! Vua sai người đem gạo ấy nấu cơm. Hoàng hậu ăn xong thì khỏi bệnh. Thời đó nước Đặc Xoa Thị Lợi với nước Xá Vệ có 
		sự xích mích về việc thương mãi, nên thường hay xảy ra cuộc xung đột 
		giữa hai nước. Tuy thế nhưng vua nước Đặc Xoa Thị Lợi vẫn còn e 
		dè, sợ nước Xá Vệ có nhiều nhân tài, nên nhà vua lập thế để thử xem có 
		hay không thì biết. Lần đầu sai người mang sang nước Xá Vệ hai con 
		ngựa cái, để xem có thể phân biệt được con nào là mẹ: con nào là con? Vì 
		hai con đều lớn bằng nhau. Khi đó tất cả vua quan triều thần văn võ bá quan 
		đều không thể phân biệt nổi, đâu là mẹ, đâu là con. Ông Lê Kỳ Di về nhà có vẻ buồn! Cô dâu hỏi: - Thưa cha, hôm nay cha vào triều có 
		chuyện chi? Thấy cha không vui! - Con ơi! Nước Đặc Xoa Thị Lợi, cử người mang 
		sang hai con ngựa cái, để xem con nào là mẹ, con nào là con, tất cả 
		triều thần văn võ bá quan đều không ai biết, nếu không giảng nổi, họ sẽ 
		đem quân sang đánh, vì thế nên cha buồn! - Thưa cha việc ấy không khó! Chỉ lấy một bó cỏ 
		ngon, cho ăn, nếu thấy con nào ăn thong thả và nhường, là mẹ, con nào ăn 
		dành và hốp tốp là con. Cha nghe có lý, vào tâu vua như lời cô nói. Nhà 
		vua sai người lấy cỏ cho ngựa ăn thử, quả thấy như lời cô nói là đúng. 
		Nhà vua kêu sứ thần đến chỉ vào con ngựa ăn chậm là mẹ, con ăn hốp tốp 
		là con, Sứ thần chịu nhận là phải. Sau khi sứ ra về, nhà vua rất mừng! 
		Phong thưởng tước lộc cho ông Lê Kỳ Di rất nhiều. Sứ thần về tới nước nhà tâu vua đúng sự thật như 
		trên. Nhà vua lại mang sang hai con rắn, dài bằng nhau, lớn bằng nhau, 
		đố biết con nào đực, con nào cái. Tuân lệnh lần thứ hai, Sứ thần mang rắn sang hỏi 
		vua Ba Tư Nặc, lần này từ vua đến quan tịt mít, không ai giải đáp nổi. Ông Lê Kỳ Di về nhà nói với con dâu rằng: - Con ơi: Hôm nay nước Đạc Xoa Thị Lợi, mang 
		sang hai con rắn hỏi con nào đực, con nào cái, tất cả vua quan trong 
		triều không ai đoán quyết nổi, vậy con có cách gì biết, nói cho cha rõ? - Thưa cha, việc ấy cũng không khó! Chỉ lấy một 
		thước lụa rất nhẵn, mềm, nhũn trải trên một cái nong, bỏ nó vào rồi nhìn 
		xem: con nào nằm im, con hay chạy thì biết: vì con cái thuộc âm tính, 
		thấy mát êm bụng, lòng dục phát động, nên nó nằm im; con đực thuộc dương 
		tính (nóng động tính) thấy người thì sợ muốn tìm lối tẩu thoát nên chạy 
		lung tung. Ông nghe có lý, vào tâu vua như lời nói trên. 
		Vua sai người lấy lụa làm đúng, quả nhiên thấy rõ sự thực. Một diệu kế này biết đúng, nên nhà vua sai người 
		gọi Sứ đến bảo cho biết. Sứ thần phải phục cái tài của nhà vua nhận xét 
		đúng sự thật. Sau khi Sứ thần ra về, nhà vua rất hài lòng và 
		thưởng cho ông Lê Kỳ Di rất nhiều vàng bạc. Sứ thần về tâu vua Đặc Xoa Thị Lợi sự nhận xét 
		đúng của vua Ba Tư Nặc, nhà vua vẫn còn chưa tin hẳn, nên lại bắt sứ 
		thần mang sang cây gỗ dài một trượng, gốc ngọn bằng nhau nhẵn trơn không 
		có dấu, vết, đố biết gốc ngọn? Sứ thần tuân mạng mang sang nước Xá Vệ, lần này 
		cũng không ai biết. Ông Lê Kỳ Di lại về hỏi con dâu: - Con ơi! Lần này nước Đặc Xoa Thị Lợi mang sang 
		một cây gỗ nhẵn trơn không có mấu vết, đố biết gốc ngọn, trong triều 
		không ai quyết đoán nổi, vậy con có cách gì biết được nói cho cha hay? - Thưa cha, việc ấy càng không khó, chỉ đem bỏ 
		xuống sông thì biết: đầu nào chìm là gốc; đầu nào nổi là ngọn; vì gốc 
		bao giờ cũng nặng, nên chìm; ngọn bao giờ cũng nhẹ, nên nổi. Ông Lê Kỳ Di tâu vua như lời nói trên, vua sai 
		đem ra sông bỏ, quả nhiên một đầu chìm, và một đầu nổi, vua gọi Sứ ra 
		nói rằng: - Sứ thần ông nên biết: đầu chìm kia là gốc, đầu 
		nổi là ngọn. Sứ thần nói: - Dạ Tâu Bệ Hạ, đúng như lời Ngài 
		nói, hạ thần xin chịu! Sứ thần về bản quốc tâu vua rằng: - Tâu Bệ Hạ! Lần này vâng lệnh Bệ Hạ đưa gỗ 
		sang, họ đều nói đúng cả, như vậy biết rằng nước Xá Vệ có rất nhiều nhân 
		tài, theo như hạ thần nhận thấy. Nhà vua nghe nói cũng phải cảm phục, và thôi 
		việc gây chiến với nước Xá Vệ. Muốn để hai nước có tình thân mật, nên 
		nhà vua nước Đặc Xoa Thị Lợi sai người mang vàng bạc và các của quý sang 
		biếu vua Ba Tư Nặc rồi gởi lời nói: - Chúng tôi đáng khen ngợi trong nước của nhà 
		vua, lắm hiền tài vậy từ nay nên gắng công tu nghĩa hiếu, và dạy dân 
		theo chánh giáo. Khi đó vua Ba Tư Nặc triệu ông Lê Kỳ Di vào cung 
		hỏi rằng: - Các việc giải đáp vừa qua, tại sao Khanh biết? - Tâu Bệ Hạ! Đó là con dâu của hạ thần, chứ tiểu 
		thần đâu có trí tuệ siêu nhân, hơn các hàng nam tử văn khoa nhà vua nghe 
		nói rất quý kính, rồi tặng cho có chức "Đệ tam muội". Qua một thời gian nữa, cô Tỳ Xá Ly đẻ được ba 
		mươi quả trứng, bửa ra được ba mươi cậu con trai, cậu thứ nhất, đoan 
		nghiêm đặc sắc, sau lớn tuổi, sức lực hùng mạnh vô song, có thể đánh nổi 
		ngàn người, cha mẹ rất yêu quý! Trong nước ai cũng kính nể. Sau cưới vợ 
		cho các cậu, nguyên những con gái các nhà hòa hiền trong nước. Bà Tỳ Xá Ly vốn là người tín sùng ngôi Tam bảo, 
		thường hay đi nghe Phật thuyết pháp. Hôm ấy bà thỉnh Phật và chư Sư về 
		cúng trai. Khi Phật dùng cơm xong thăng tòa thuyết pháp, cả nhà người 
		lớn người nhỏ đều đắc quả Tu đà hoàn, duy có cậu con út của bà, sự hiểu 
		biết kém, nên không đắc đạo quả gì. Cậu hãy còn có tính hung hăng, ngày 
		ngày cỡi voi trắng đi chơi, hôm đó đi qua một cái cầu gỗ lớn, giữa cầu 
		con trai quan Phụ Tướng ngồi trên xe, hai cậu tranh nhau: cậu nào cũng 
		cậy ta là con nhà quan lớn, không chịu tránh. Cậu con bà Tỳ Xá Ly nổi 
		giận, trên mình voi nhảy xuống, đẩy đổ xe và con quan con Phụ Tướng 
		xuống hào lầy, thấy trược cả thân thể, máu me chảy đầm đìa trở dậy vừa 
		đi vừa khóc, về nhà thưa với cha rằng: - Thưa cha, con út của bà Tỳ Xá Ly vô cớ đẩy xe 
		và con xuống hào; làm con bị đau đớn như thế này! Quan Phụ Tướng thấy con đau quá nổi giận nói: - Nó sức lực khỏe mạnh, hơn nữa lại thân với nhà 
		vua, thôi con đừng khóc nữa, để cha trả thù cho! Ông quan Phụ Tướng này mượn người làm ba mươi 
		hai cái roi ngựa bằng Thất bảo, trong ruột roi, cắm một con dao nhọn, 
		rồi ông mang đi tặng cho con trai bà Tỳ Xá Ly mỗi cậu một cái. Các cậu này còn ít tuổi, tính khí nông nổi, được 
		roi vui mừng thường mang roi đi chơi, vô tâm, không hiểu cái thâm ý của 
		quan Phụ Tướng. Luật nước cấm ngặt khi vào nhà vua không được 
		đeo dao, nếu ai trái lệnh sẽ bị tội tử hình. Những con bà Tỳ Xá Ly ra vào nhà vua, là chuyện 
		thường, không ai được cấm đoán, vì nhà vua rất yêu đãi đối với bà Tỳ Xá 
		Ly. Hôm đó quan Phụ Tướng vào tâu vua rằng: - Tâu Bệ Hạ, ba mươi hai con bà Tỳ Xá Ly, khỏe 
		mạnh lắm, một người có thể địch được ngàn người, chúng đương mưu kế để 
		hại nhà vua! Nhà vua nghe ông nói, nhưng cũng chưa lấy gì làm 
		tin; ông lại thưa rằng: - Tâu Bệ Hạ, việc này hạ thần quan sát có sự 
		thật, và có bằng chứng lắm! Vì hạ thần thấy mỗi cậu có một cái roi; 
		trong roi đều có một con dao nhọn ở trong ruột! Nhà vua liền sai người lấy roi xem, quả nhiên 
		thấy con dao ở trong roi thực, chứng tỏ như thế, nhà vua sai các lực sĩ, 
		gọi ba mươi cậu vào trong cung, thu hết roi, rồi xử tử ngầm không cho ai 
		biết, chặt đầu ba mươi cậu bỏ vào hòm gỗ niêm phong cẩn thận, mang lại 
		cho bà Tỳ Xá Ly. Giữa ngày hôm ấy, bà Tỳ Xá Ly mời Phật và chư Sư 
		về nhà cúng trai, trong nhà đương nhộn nhịp; kẻ bưng cơm người rót nước 
		tấp nập, bà thấy người nhà vua khiêng một cái hòm đến, tự mừng thầm và 
		nói rằng: - Hôm nay có lẽ nhà vua cho người mang các món 
		ăn tốt đến giúp ta cúng dàng hẳn! Bà sai người mở xem. Phật nói: - Hãy khoan! Để ta dùng cơm xong rồi 
		sẽ mở! Khi thụ trai xong, đức Phật gọi bà lên ngồi một 
		bên Ngài nói rằng: - Thân này vô thường, nó chịu đựng những sự đau 
		khổ! Rồi lại thành không, chính là không có ta; kiếp sống rất nhiều nguy 
		hiểm tai nạn, sợ hãi mà nó không tồn lập được bao lâu; nó trói buộc bằng 
		mọi sự phiền não, chua xót khó tả xiết, ân ái có ngày biệt ly! Thương 
		luyến lẫn nhau, làm thân mình và thức tâm mệt nhọc, không ích gì cho 
		đạo, ta nói đây, chỉ riêng những người có trí tuệ, mới nhận thức được 
		pháp thiết yếu này. Nghe Phật nói xong bà tín ngộ, liền chứng được 
		quả A na hàm, vui mừng chắp tay bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn, con xin bốn đều như sau: Con xin cúng dàng các vị Tỳ kheo bệnh, và các 
		món ăn tùy theo bệnh. Con xin cúng dàng các vị khán bệnh. Các vị Tỳ kheo ở xa tới con xin cúng dàng trước. Các vị Tỳ kheo đi xa con xin cúng dàng lương 
		thực. Lạy Đức Thế Tôn! Các vị bệnh hoạn vì không có 
		thuốc tốt và món ăn ngon lành nên bệnh lâu khỏi, hoặc khó chữa, hoặc 
		nhân thế mà bị mạng chung. Các vị khám bệnh phải trông nom bệnh nhân, 
		nên không đi khất thực được, vì thế nên con xin cúng. Các vị ở nơi xa 
		mới tới, chưa quen biết ai, đi khất thực gặp chó dữ hoặc gặp kẻ bất nhân 
		làm thương tổn đến thân thể, hoặc sỉ nhục, vì thế nên con xin cúng dàng 
		trước. Các vị đi xa phải có bè bạn, nếu không có lương thực đem theo 
		hoặc đi không kịp, đường sá nguy hiểm, nhiều độc thú, đi một mình, sợ 
		mắc tai nạn, vì thế nên con xin cung cấp lương thực. Đức Thế Tôn thấy bà xin bốn việc ấy nên Ngài 
		khen rằng: - Quý hóa có tâm như thế công đức rất lớn, như 
		thế cũng khác chi cúng Phật! Nói xong đức Phật và chư sư trở về rừng Kỳ Hoàn. Sau khi đức Phật đã về, bà sai người mở hòm xem 
		nhà vua cho cái gì, trái lại thấy ba mươi hai cái đầu lâu người, chính 
		là con trai của bà. Vì bà đã hiểu biết đời là vô thường, và đắc quả A na 
		hàm, tâm ái luyến thế gian đã đoạn hết, nên không có ảo não khóc than gì 
		mà chỉ nghĩ thoáng câu: - Đau khổ thay! Thương xót thay có sinh tất có 
		tử; nổi chìm trong năm thú; khổ gì đến như thế! Bấy giờ ba mươi hai nhà vợ, nghe biết con rể 
		chết về tay nhà vua, họ nói rằng: - Nhà vua vô cớ giết oan người lương thiện! Lòng thương con rể phẫn uất nổi lên cực độ! Họ 
		đem quân đến vây kinh thành nhà vua để báo thù. Vua Ba Tư Nặc chạy sang với Phật, họ đuổi theo, 
		sang vây rừng Kỳ Hoàn. Khi đó tôi (A Nan) ra mời họ vào để hỏi nguyên ủy 
		là câu chuyện gì. Ba mươi hai ông bố vợ của con bà Tỳ Xá Ly vào lễ 
		Phật xong lui về một bên, tôi quỳ thẳng bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Ba mươi hai người con 
		của bà Tỳ Xá Ly, đời quá khứ có tạo ác gì với nhà vua không? Mà nay bị 
		ông giết, cúi xin Ngài chỉ giáo cho chúng con được rõ? Phật dạy: - Truyện oan trái tiền khiên này, về 
		đời quá khứ, cách đây đã lâu lắm. Thuở bấy giờ có ba mươi hai người chơi 
		thân với nhau, một hôm đi bắt trộm được một trâu, để ăn uống cùng nhau 
		cho thỏa chí. Gần đấy có một bà lão nhà nghèo, lại không có con, nên các 
		anh này đưa trâu để giết nhờ. Bà cũng vui vẻ cho giết, trong nhà bà có 
		đủ củi đóm, nồi nấu, dao, quạt, cho mượn. Lúc sắp giết, con trâu quỳ 
		xuống nói rằng: - Xin các anh tha tôi! Nếu các anh giết tôi đời 
		sau tôi cũng không tha các anh đâu, dầu cho các anh tới ngày được đạo 
		giải thoát, tôi quyết định trả thù bằng được. Mấy anh thấy trâu nói, nhưng lòng bất nhân không 
		nghe, xúm nhau lại vật trâu ra giết, mổ, sả, xào xáo, chưng kho, ăn uống 
		no say. Bà lão hôm đó cũng được bữa no, rồi nói rằng: Nhờ các anh được bữa thịt nên thân, hết thèm 
		thuồng. A Nan ông nên biết: Con trâu thuở đó, nay là vua 
		Ba Tư Nặc, các anh ăn trộm trâu, ngày đó, nay là ba mươi hai người con 
		của bà Tỳ Xá Ly. Bởi quả báo ấy nên trong năm trăm đời thường bị ông 
		giết lại, cho đến ngày nay không thôi. Bà lão là người giúp đỡ và vui 
		mừng trong cuộc giết trâu, nên trong năm trăm đời phải làm mẹ những 
		người này, mà chịu lấy sự thống khổ chua xót ấy! Nghe xong biết rõ câu chuyện oán báo của đôi 
		bên, tôi lại hỏi Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Những người này có phúc 
		gì được sinh vào nhà giàu sang và thân thể khỏe mạnh, cúi xin Ngài chỉ 
		bảo cho? Phật dạy: - A Nan ông nên biết: Đây cũng là một 
		đời quá khứ, thời đức Phật Ca Diếp, có một bà lão biết tin kính ngôi Tam 
		bảo, nhà rất giàu một hôm bà lấy các thứ hương hoa với dầu để sơn tháp, 
		đi nữa đường gặp ba mươi cậu con trai, nhân dịp bà khuyên các cậu ấy 
		rằng: - Các cậu đi đâu? Đây có một việc phúc đức lắm, 
		hôm nay tôi đi sơn tháp Phật, nếu các cậu sơn giúp tôi, thì đời được sức 
		lực khỏe mạnh và đẹp đẽ! - Thế ư cụ? Vâng cụ đã dạy, các cháu xin đi. Sơn 
		xong các cậu ấy đều thưa rằng: - Thưa cụ! Do cụ khuyên các cháu trồng phúc 
		lành, xin đem công đức này, nguyện cho cháu sinh nơi nào cũng được tôn 
		vinh phú quý, và đời đời chúng cháu được làm con cụ; cụ là mẹ chúng 
		cháu, và được gặp Phật nghe pháp chóng đắc đạo quả! Bà lão nói: - Quý hóa! Các cậu phát nguyện như 
		thế! Nhờ công đức Tam bảo gia hộ, sau này thế nào chả được như nguyện! A Nan ông nên biết: Bà lão thuở đó nay là bà Tỳ 
		Xá Ly, ba mươi cậu con trai này đó, nay làm con trai bà. Khi đó những quan quân vây rừng Kỳ Hoàn, nghe 
		Phật nói xong họ biết rằng đó là do sự oan báo trả nợ của đôi bên, nên 
		lòng căm giận của họ tự nhiên tiêu mất, rồi tự đến trước vua Ba Tư Nặc 
		tạ lỗi. Tới đây đức Thế Tôn, nhân vì bốn chúng đệ tử, 
		nói rộng các thiện nghiệp nên tu, ác nghiệp nên bỏ, và giảng giải rõ 
		ràng pháp Tứ Diệu Đế. Đức Phật thuyết xong, tất cả mọi người ai nấy 
		đều vui mừng, tạ lễ lui ra. 34/ Phẩm thứ ba mươi tư THIẾT ĐẦU LA 
		KIỆN NINH Chính tôi được nghe: Một thời đức Thế Tôn ở nước 
		La Duyệt Kỳ, tại vườn Trúc. Khi đó tôi mặc áo chỉnh tề, tới trước quỳ 
		thẳng chắp tay bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Nhóm ông Kiều Trần Như 
		đời trước có nhân gì tốt với Ngài, trống Pháp bắt đầu kêu, bọn ông được 
		nghe trước, nước Cam Lồ được uống trước, cúi xin nói rõ cho chúng con và 
		chúng sinh đời sau được biết nguyên do? Phật dạy: - A Nan ông nên biết: năm người này, 
		đời xưa ăn thịt của ta trước tiên, nên được lành mạnh, qua lúc đói khổ, 
		vì nhân duyên ấy, nên đời nay được nghe pháp của ta trước, và được giải 
		thoát đầu tiên! Tôi lại thưa rằng: Kính lạy Ngài! Đời trước bọn 
		ông ấy ăn thịt Ngài, công chuyện đó tại nhân duyên sao? Cúi xin Ngài dạy 
		bảo cho chúng con được biết? Phật dạy: A Nan ông nên biết: Từ khi đó tới nay 
		đã lâu lắm, có tới vô lượng vô kiếp A tăng kỳ, cũng Châu Diêm Phù Đề 
		này, có một ông vua nước lớn, tên là Thiết Đầu La Kiện Ninh, thống trị 
		tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám mươi ức tụ lạc, hai 
		muôn Phu nhân thể nữ. Nhà vua rất có Từ bi, luôn luôn thương dân chăm 
		làm những việc lợi ích cho quốc gia xã hội, ít có sự lợi ích cho riêng 
		mình, gia đình mình, nên họ yêu quí ông như một người cha lành. Thời ấy gặp hỏa tinh xuất hiện, các nhà thiên 
		văn học tâu vua rằng: - Tâu Bệ Hạ! Điềm bỏa tinh xuất hiện là triệu 
		chứng đại hạn, có lẽ kéo dài mười hai năm. Vậy Bệ Hạ nên làm thế nào cho 
		dân tránh khỏi sự chết đói? Nghe lời các nhà thiên văn nói thế, nhà vua lo 
		buồn quá! Đến nỗi ngày quên ăn, đêm quên ngủ! Như thế thì nhân dân sống 
		sao? Quốc gia sẽ bị điêu đứng. Liền triệu tập tất cả văn võ bá quan để cứu xét 
		về việc này: - Bây giờ các ông tính sao? Có cách gì làm mưa 
		được, hay có biện pháp gì cho dân qua lúc hạn hán này mà sống được. Các quan tâu vua rằng: - Tâu Bệ Hạ! Bây giờ thông cáo cho các nước tính 
		số dân hiện có bao nhiêu, và tính xem trong mười hai năm mỗi người ăn 
		hết bao nhiêu? Xong cuộc hội nghị này, theo sắc lệnh tính nhân 
		khẩu và thóc biết rằng mỗi người dân, chỉ được một thăng gạo. Vì thế nên 
		bị chết đói rất nhiều. Nhà vua thương dân ngày đêm không ngớt nước mắt! 
		Riêng mình được an vui! Nhìn thấy nhân dân đau khổ, không nỡ lòng như 
		vậy. Nhân lúc Phu nhân thể nữ, Thái tử đi du ngoạn nơi viên quán, nhà 
		vua cúi đầu lễ bốn phương khấn rằng: - Kính lạy thập phương tam thế chư Phật! Hiện 
		nay nhân dân bị chết đói rất nhiều, con xin bỏ thân này, nguyện làm một 
		con cá lớn, để cung cấp thịt cho dân ăn qua lúc đói khát! Khấn xong trèo lên cây đâm đầu xuống đất mà 
		chết! Thần thức của ông hóa làm con cá lớn, mình dài năm trăm do tuần. Khi đó có năm người thợ mộc, vác búa ra bờ sông 
		đốn củi. Con cá nhìn thấy bảo họ rằng: - Lũ các ông có đói thì lấy thịt tôi mà ăn, ăn 
		no và cho đem về, sau này tôi thành Phật, tôi sẽ lấy pháp thực cứu thoát 
		cho bọn các ông trước, và gọi nhân dân ra lấy thịt của tôi về mà ăn. Nghe cá nói, năm người vui mừng quá! Đương đói, 
		vác búa ra bổ lấy một tảng lớn đem củi đốt lửa thui ăn; ăn no, lại mang 
		về, mách bảo mọi người lấy thịt cá. Họ ồ ạt tranh nhau, kẻ vác búa, người cầm dao, 
		kẻ cầm rổ, người mang thúng ra bổ xả lấy thịt, vì thế nên nhân dân hết 
		nạn chết đói. Khi lấy hết một nửa mình bên hữu, cá xoay lại mình bên tả, 
		cho lấy; lấy hết mình bên tả thì mình bên hữu đã mọc đầy thịt! Cứ như 
		thế hết bên nọ lại chuyển sang bên kia, tất cả nhân dân Châu Diêm Phù Đề 
		được ăn thịt cá trong mười hai năm. Từ khi họ được ăn thịt cá, nên người 
		nào cũng có tâm Từ bi, sau khi chết được sinh lên Trời. Nói tới đây Phật nhắc lại rằng: - A Nan, ông nên biết vua Thiết Đầu La Kiền Ninh 
		thuở đó, chính là tiền thân ta đấy! Năm người thợ mộc được ăn thịt cá 
		đầu tiên, nay là nhóm ông Kiều Trần Như năm người; còn nhân dân lúc đó, 
		nay là tám vạn chư thiên, và các đệ tử được độ. Lúc đó bọn ông được ăn thịt ta mà sống, vì thế 
		nay ta bắt đầu thuyết pháp bọn ông được nghe trước, ta chỉ lấy một chút 
		thịt của pháp thân, để trừ khỏi sự đói khát tam độc của họ ngày đó. Khi đó tôi và tất cả hàng đệ tử nghe Phật nói 
		xong, ai nấy đều tôn kính lòng Từ bi bố thí của Ngài đã thực hành được, 
		cúi đầu lễ tạ lui ra. 35/ Phẩm thứ ba mươi lăm A DU CA Chính tôi được nghe: Một thời đức Thế Tôn ở nước 
		Xá Vệ, tại vườn Cấp Cô Độc cây của Kỳ Đà. Một buổi sớm ấy đức Phật và tôi vào thành khất 
		thực, gặp lũ trẻ con, đương nô nghịch đất giữa đường, nó đắp một cái 
		thành, có đủ nhà cửa kho tàng thóc lúa bằng đất. Một đứa nó nhìn thấy 
		Phật có hào quang sáng, tự phát tâm cung kính, vui mừng! Khi Phật đi tới 
		nơi, nó chắp tay vái, và dâng một mẩu đất cúng dàng. Phật cầm lấy giao cho tôi, và dặn tôi mang về 
		bôi trên thềm nhà chỗ Ngài ngủ. Khi trở về rừng Kỳ Hoàn, tôi đem đất ấy 
		làm theo lời Ngài dạy. Ngài bảo rằng: - A Nan vừa rồi đứa nhỏ hoan hỷ cúng đất công 
		đức ấy sau khi ta vào Niết bàn, khoảng độ trăm năm; nó sẽ được làm vua 
		tên là A Du Ca còn các trẻ nhỏ đồng bạn, được làm quan đại thần cai trị 
		tất cả các nước Châu Diêm Phù Đề; làm hưng long cho ngôi Tam bảo phân 
		phát Xá Lợi, xây tám vạn bốn ngàn ngọn tháp, khắp Châu Diêm Phù Đề cúng 
		dàng ta. Tôi vui mừng bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Đời quá khứ Ngài tu công 
		đức gì, mà được phúc báu nhiều tháp như thế? Cúi xin chỉ bảo cho chúng 
		con được rõ? - Phật dạy: - A Nan ông muốn biết hãy nghe cho 
		kỹ ta sẽ nói cho hay! - Dạ, lạy đức Thế Tôn con xin chú ý nghe! - A Nan, thuở đời quá khứ đã xa xưa, có một ông 
		vua nước lớn tên là Ba Tắc Kỳ, cai trị tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, thời 
		đó có đức Phật tên là Phất Sa ra đời. Nhà vua và nhân dân tôn sùng đạo 
		Phật, thường ngày dâng lên bốn món cúng dàng thức ăn uống, áo mặc, 
		giường tòa, thuốc thang rất trịnh trọng. Nhà vua nghĩ thầm như vầy: - Đức Phật là phúc điền cõi nhân gian thiên 
		thượng, ai trồng nhân lành gì được kết quả ấy, nhân dân nước ta thường 
		được thấy Phật lễ Phật; cúng dàng Phật, còn các nước nhỏ ở xa xôi, nhân 
		dân không biết nương đâu tu phúc, vậy ta hãy thuê người vẽ hình tượng 
		Phật, ban phát cho các nước để cúng dàng cầu phước. Nghĩ thế rồi gọi họa sĩ đến chốn Phật, nhìn vẽ 
		cho đúng tướng của Ngài. Song họ vẽ mãi không thành. Sau đức Phật Phất 
		Sa, Ngài sẽ tự vẽ lấy một kiểu để cho họ họa lại. Các họa sĩ cứ thế phóng ra được tám vạn bốn ngàn 
		bức rất đẹp, cũng giống như bức tranh Ngài vẽ. Vua Ba Tắc Kỳ đem tranh ấy ban cho mỗi nước một 
		bức, và truyền lệnh cho nhân dân các nước đem hương hoa âm nhạc nghinh 
		thỉnh rước về. Vua quan nhân dân các nước, tuy được bức tranh, 
		nhưng lòng tôn kính cúng dàng như thấy đức Phật hiện tại không khác. - A Nan ông nên biết: Vua Ba Tắc Kỳ thuở đó 
		chính là tiền thân của ta đấy, do thời đó thuê một thợ vẽ tám vạn bốn 
		ngàn hình tượng đức Phật Phất Sa, ban phát cho nhân dân các nước cúng 
		dàng lễ lạy. Bởi công đức ấy đời đời được làm Đế Chúa trong cõi nhân 
		thiên, sinh xứ nào thân thể cũng được đẹp đẽ tốt tươi, đủ ba mươi hai 
		tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, đến nay thành Phật cũng do một trong công 
		đức ấy; và sau khi vào Niết bàn được quả báo tám vạn bốn ngàn tháp. Tôi và tất cả mọi người nghe Phật nói xong, ai 
		nấy đều vui vẻ phát tâm tu phúc cúng dàng, cúi đầu tạ lễ lui ra. 36/ Phẩm thứ ba mươi sáu BẢY LỌ VÀNG Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá 
		Vệ, tại vườn Cấp Cô Độc, cây của Thái tử Kỳ Đà. Khóa an cư năm ấy, đức Phật cho các vị Tỳ kheo 
		được tùy ý đi các nơi kết tập. Khi hết hạn, các vị đều về thăm Phật và nhận 
		chịu lời dạy bảo của Ngài. Phật và các vị trong chín tuần xa cách, hôm 
		nay về nơi Ngài đông đảo Ngài vui vẻ! Với lòng Từ bi cất cánh tay ngàn 
		vòng xoáy, xoa đầu các vị rồi hỏi: - Các người ở xa, sự an cư có được yên không? Ăn 
		uống có đầy đủ không? Ít bệnh ít não không? - Dạ, lạy đức Thế Tôn! Nhờ công đức Thế Tôn, năm 
		nay được an cư yên ổn! Mọi điều kiện đều được đầy đủ. Sự giáo hóa dễ 
		dàng, chúng sinh vui vẻ! Công đức của Phật như trời cao! Như biển cả! 
		Khắp nhân gian thiên thượng ai bì kịp, hôm nay thấy Ngài tuy hỏi han các 
		vị, nhưng có một vẻ khiêm kính, khác mọi lúc, chắc có một thâm ý gì 
		khác, nên tôi tới trước quỳ thẳng chắp tay bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài xuất thế là một 
		việc rất hiếm có, công đức và trí tuệ, rộng như hư không, lớn như pháp 
		giới. Hôm nay Ngài hạ ý hỏi han các vị Tỳ kheo một cách khiêm kính. 
		Không rõ lời nói khiêm kính ấy là gần hay xa, cúi đầu chỉ bảo cho chúng 
		con được rõ? Phật dạy: - A Nan, muốn biết hãy để ý nghe, tôi 
		sẽ vì ông mà nói! - Dạ lạy đức Thế Tôn! Con xin chú ý nghe! - A Nan, câu chuyện này từ đời quá khứ, đã lâu 
		lắm, không thể tính được, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một nước lớn tên 
		là Ba La Nại, có một người chăm làm giàu, được đồng nào chỉ mua vàng cất 
		kỹ, không dám ăn uống may sắm dần dần được một lọ vàng đem chôn, cứ như 
		thế chăm chỉ làm ăn cực khổ đã lâu năm không dám tiêu xài, và giúp đỡ 
		cha mẹ anh em, sau được sáu lọ nữa cũng đem chôn giấu hết. Qua thời gian chẳng may bị bệnh chết mất, vì 
		tiếc vàng nên phải đọa làm thân con rắn độc, ở ngay nhà mình, để coi bảy 
		lọ vàng. Trải qua lâu năm nhà ấy bị mục nát hư hỏng, con rắn ấy cũng 
		chết: Bởi linh hồn rắn còn tham tiếc vàng, nên bị đọa làm thân rắn một 
		lần nữa, chừng vài muôn năm, quanh quẩn coi giữ, trên đống đất chôn 
		vàng; coi giữ mãi, thấy không có ích gì, sinh lòng chán ghét, thầm nghĩ 
		như vầy: - Ta vì tham tiếc vàng nên phải chịu thân thể 
		xấu ác, vậy đem số vàng này cúng dàng, để cầu cho ta đời đời được nhiều 
		phước tốt lành trên cõi nhân, thiên. Nghĩ xong bò tới bên lề đường lẩn thân trong đám 
		cỏ, chợt thấy một người đi qua, lớn tiếng gọi: Người ấy nghe tiếng gọi 
		đứng lại nhìn xung quanh không thấy ai, lại bắt đầu đi, con rắn liền bò 
		ra giữa đường gọi rằng: - Này bác kia ơi! Bác lại gần đây tôi nhờ bác 
		việc này! Đáp: - Ngươi độc ác như vậy! Gọi ta làm chi, lại 
		gần để hại ta hay sao? - Phải, tôi ác như thế này, nếu không lại tôi sẽ 
		tác hại đấy! Người đó tuy sợ nhưng cũng phải đến gần. Rắn nói: - Nhà tôi có lọ vàng, muốn nhờ bác đem 
		đi cúng dàng cầu phước, bác có thể hộ tôi được không? Nếu không hộ, tôi 
		sẽ cắn chết! - Vâng, tôi xin giúp, không sao! Rắn dẫn ông này về đống đất chôn vàng, bảo ông 
		bới lên một lọ rồi nói rằng: - Bác mang vàng này đến chùa cúng dàng, và lấy 
		ra một ít, nhờ bác bán lấy tiền, mua gạo và các món ăn, hoa quả làm cơm 
		chay cúng sư Tăng, định ngày nào cúng thì mang một cái gậy đến đây 
		khiêng tôi đến chùa! Người ấy mang vàng đến chùa đưa cho ông Tăng Duy 
		Na, và nói lý do như trên cho ông nghe. Ông Duy Na cười nói: - Rắn độc sao lại biết cúng 
		dàng như vậy? Muốn cúng tôi sẽ định ngày cho! - Thưa Ngài hôm nào Ngài cho biết trước để sửa 
		soạn? - Ngày mười rằm tới, là ngày trai, cũng là ngày 
		sám hối, cúng ngày đó công đức vô lượng! - Dạ, xin phép Ngài tôi về để thu xếp công việc! Tới ngày nói trên, ông mang một cái gậy đến, rắn 
		thấy ông vui vẻ hỏi han? Rồi quấn mình vào cây gậy phủ cái chăn chiên 
		lên trên cho người ta khỏi nhìn thấy, đi đường gặp người hỏi: - Ông khiêng cái gì đẹp thế? Ông lặng yên không trả lời, họ lại hỏi: - Ông khiêng gì đẹp thế? Họ hỏi đến ba lần, ông vẫn làm thinh không trả 
		lời. Rằn thấy ông không trả lời, giận quá! Nghĩ như vầy: - Anh này dở quá, người ta trịnh trọng hỏi đến 
		ba lần, mà không nói, thực là ngu si quá! Nghĩ như thế thì độc tâm lại càng bộc phát, định 
		nhả độc phun chết ông. Xong lại thầm nghĩ: - Người này vì ta làm phước, ơn đó chưa trả, vậy 
		ta nên nhẫn đi. Một lát đi tới chỗ đất không đồng vắng, rắn tự 
		nói rằng: - Bác để tôi xuống đây! Vừa để xuống, rắn mắng rằng: - Con người ta có mồm để nói để ăn, anh có mồm 
		để làm gì? Mà người ta hỏi đến ba lần không nói? Anh ngu si quá! Ông nghe rắn mắng, nhưng tâm không có giận, tự 
		hối hận một vẻ khiêm tốn và xin lỗi. Rắn lại dặn rằng: - Từ đây trở đi, anh không được thế nữa, ai hỏi 
		phải nói đàng hoàng. - Dạ từ nay tôi xin thọ giáo, không dám như 
		trước nữa! Khi đến chùa để rắn trước giảng đường, vừa đúng 
		thời trai chư Tăng, ông đứng ở lối kinh hành. Rắn sai ông dâng hương cúng sư Tăng; rắn nhìn 
		ông dâng hương, bằng cặp mắt thành kính tín ngưỡng, không hề chớp. Khi 
		Tăng chúng đi nhiễu quanh tháp. Rắn sai ông dâng nước, và giương đôi mắt 
		cung kính quan sát! Chư Tăng dùng cơm xong thuyết pháp cho nghe như 
		sau: - Bố thí cúng dàng được phước báu giàu sang, 
		thân hình khỏe mạnh. Giữ giới được sinh nhân, thiên, hưởng phúc tốt 
		lành. Thấy Phật và sư Tăng hoan hỷ chiêm bái thì được thân tướng đoan 
		nghiêm tươi đẹp. Keo sẻn tích trữ, không chịu bố thí, thì đọa làm loài 
		quỷ đói. Tâm tham độc sân si, bị loài thú ác độc trùng, trăn, rắn. Rắn nghe xong vui vẻ thưa rằng: - Kính thưa Đại đức! Mời Ngài đến chỗ con ở, hãy 
		còn sáu lọ vàng nữa, xin cúng để cầu giải thoát! Ông Duy Na theo rắn và người hộ vệ cho rắn, đi 
		lấy hết sáu lọ đem về chùa dâng lên Tam bảo, làm lễ cầu nguyện, hướng 
		phúc cho rắn, nhân sự cầu nguyện ấy và phước cúng dàng, rắn chết được 
		lên cõi trời Đao Lợi. Tới đây Phật thuật lại rằng: - A Nan, ông nên biết: Người khiêng rắn ấy há 
		phải ai đâu; chính là tiền thân của ta đấy! Rắn độc thuở đó; nay là ông 
		Xá Lợi Phất. Ngày ấy ta bị rắn mắng trách còn tự thẹn hổ, và 
		sinh lòng khiêm hạ, không những thế, ta đối với tất cả muôn loài, đều 
		coi bình đẳng, cho đến nay không thoái chuyển. Khi đó tôi và các vị Tỳ kheo, nghe Phật nói 
		xong, ai nấy đều kính phục, tâm bình đẳng khiêm nhượng của người, một 
		lòng lễ kính, bái tạ lui ra. 37/ Phẩm thứ ba mươi bảy SAI MA Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước La 
		Duyệt Kỳ tại Tinh xá rừng Trúc, với vô số đệ tử ở đó. Bấy giờ có một người dòng Bà la môn, nhà nghèo, 
		tuy có chăm làm nhưng cũng không đủ ăn, đủ mặc, anh nghèo ấy hỏi người 
		ta rằng: - Ở thế gian làm những hạnh gì được phúc báu 
		hiện tại? Có người mách bảo rằng: - Anh không biết ư? Hiện nay Đức Phật xuất thế 
		độ sinh, làm lợi ích cho tất cả muôn loài. Ngài có bốn vị tôn đệ tử là: 
		MA HA CA DIẾP, MỤC KIỀN LIÊN, XÁ LỢI PHẬT, A NA LUẬT. Bốn vị Hiền Sĩ 
		này, hay thương những người nghèo đói, và tác phúc cho những chúng sinh 
		đau khổ. Nếu ai chí tâm tin kính cúng dàng những vị ấy, 
		thì đời hiện tại này, muốn cầu gì cũng được toại nguyện. Anh chàng Bà la môn nghe mọi người đều nói như 
		vậy, rất vui mừng! Tự đi làm thuê được món tiền nhỏ đem về mua sắm các 
		món ăn, sửa soạn trai nghi trịnh trọng mời các vị Hiền Thánh Tăng đến 
		nhà cúng dàng với lòng thành kính, thiết tha cầu phúc báu hiện tại. Vợ 
		anh tên là Sai Ma (Tàu dịch: An Ổn). Các vị tôn đệ tử tới nhà dùng cơm xong, thuyết 
		pháp cho vợ chồng anh nghe như sau: - Tội phúc, như bóng theo hình, như vang ứng 
		tiếng, trồng nhân gì sẽ kết quả ấy. Muốn cho tội chướng tiêu trừ, phúc 
		đức lớn lao, phải biết tôn kính ngôi Tam bảo, thọ trì Tam Quy, Ngũ Giới; 
		Bát Quan Trai giới, bố thí, cúng dàng, thì đời hiện tại, hay tương lai 
		muốn cầu gì cũng được toại nguyện. Vợ chồng cúi đầu lễ kính, xin thọ trì Tam Quy, 
		Ngũ Giới và Bát Quan Trai giới, truyền giới xong các vị trở về Tinh xá. Bấy giờ vua Bình Sa vào rừng trở về, gặp một 
		người phạm tội bị trói treo trên đầu cột dựng bên đường. Người có tội ấy xin vua món ăn, nhà vua nhận lời 
		cho, nhưng về thành quên mất, chợt nhớ ra thì trời đã tối; nhà vua sai 
		người hầu hạ trong Hoàng cung mang cơm cho tội nhân, nhưng không ai dám 
		đi, họ thưa với vua rằng: - Tâu Bệ Hạ, giờ đã tối khuya, mãnh thú; ác quỷ 
		rất nhiều, chúng tôi thà chết ở đây chứ chúng tôi không dám đi. Nhà vua hết sức thương người đó đói khổ, sai 
		người ra ngoài thành báo cáo rằng: - Đêm nay nếu ai đem món ăn cho người có tội ở 
		nơi mổ, thì nhà vua thưởng cho ngàn lạng vàng! Không ai dám đi, Sai Ma thường nghe họ nói rằng: - Nếu ai thọ phép Bát Quan Trai giới, thì ma 
		quỷ, ác thú không dám làm hại! Mạnh dạn với một lòng tin vững chắc, đến xin vua 
		đi. Khi đi, nhà vua dặn: - Nếu được hoàn toàn trở về, ta sẽ cho ngàn 
		lạng vàng. Ra đi, Sai Ma chí thành, chí kính trì phép Bát 
		Quan Trai, ra khỏi thành đã xa xa gặp một con quỷ La sát tên là Lam Bà, 
		vừa lúc ấy nó mới sinh được năm trăm quỷ con, đương lúc đói thấy Sai Ma 
		muốn bắt ăn. Nhưng Sai Ma trì trai, quỷ trông thấy sợ hãi không dám ăn, 
		quỷ hỏi Sai Ma rằng: - Chị đi đâu? Có món ăn cho tôi một chút! - Sai Ma trao cho một chút món ăn, tuy ít nhưng 
		vì lực của quỷ nên cũng được no đủ. Quỷ La sát hỏi: - Chị tên chi? - Tôi tên là Sai Ma! Quỷ vui vẻ nói: - Hôm nay tôi sinh cháu được 
		lành mạnh, cũng do phúc của chị, mà tôi được nhiều lợi ích, tôi được 
		sống, lại được nghe danh hiệu tốt, nhà tôi có cái búa vàng, xin đền đáp 
		ơn chị, lúc về qua đây, chị nhớ vào lấy. - Dạ, chị có lòng tốt em xin nhớ lời dặn. Quỷ lại hỏi: - Bây giờ chị đi đâu? - Thưa chị, em mang thức ăn cho người có tội ở 
		nơi mổ! - Tôi có một em gái cũng ở gần đấy, tên là A Lam 
		Bà, tôi gởi lời thăm và bảo cho biết: Tôi mới sanh được năm trăm cháu, 
		thân thể lành mạnh. Sai Ma đi tới chỗ quỷ A Lam Bà cũng nói như trên 
		cho quỷ nghe. A Lam Bà nghe xong vui vẻ hỏi: - Chị tên chi? - Em tên là Sai Ma! Cô quỷ vui vẻ nói: - Chị tôi sinh được lành 
		mạnh, tên cô cũng tốt lành lắm, nhà tôi có cái búa vàng, xin biếu cô, 
		lúc về nhớ vào qua mà lấy. - Dạ, quý hóa! Chị có lòng tốt tôi xin nhận! Cô quỷ lại hỏi: - Bây giờ cô đi đâu? - Thưa chị, theo lệnh nhà vua em mang món ăn, 
		cho tội nhân nơi mổ! Cô quỷ A Lam Bà nói: - Tôi cũng có một người em 
		tên là Phân Na Kỳ ở gần đấy, tôi gởi lời hỏi thăm. Sai Ma từ giã cô quỷ, đi đến chỗ quỷ Phân Na Kỳ, 
		cũng đem lời hỏi thăm của hai bà chị nói cho nghe, và nói thêm bà chị cả 
		sinh được năm trăm cháu đều vô sự. Được tin hai bà chị bình an rất vui 
		vẻ và hỏi: - Cô tên chi? - Tôi tên là Sai Ma! - Tên cô tốt lành, và được tin hai chị tôi mạnh 
		khỏe, thực là quý hóa! Nhà tôi có cái búa vàng xin biếu cô, lúc về qua 
		đây nhớ vào lấy. - Quý hóa, có lòng cho, tôi xin nhận. Sai Ma đi một lát tới nơi chỗ tội nhân, đưa món 
		ăn và nói rằng: - Nhà vua cho món ăn này, anh lấy mà dùng cho 
		khỏi đói! Anh vui mừng! Nhận cơm, và cảm tạ một cách rất 
		tha thiết. Sai Ma trở về lấy ba cái búa vàng, và đến nhà vua lấy thưởng 
		một ngàn lạng vàng. Từ đó vợ chồng Sai Ma được giàu sang sung sướng, 
		làm nhà cửa mua ruộng nương, nuôi đầy tớ, nhân dân đến làm thuê rất 
		đông. Vua Bình Sa thấy Sai Ma là người có đức, triệu 
		vào cung cho làm quan đại thần, được lộc nước ơn vua, nhà lại giàu thêm, 
		từ đó lòng tín kính Phật Pháp của Sai Ma càng tiến tới. Một hôm Sai Ma sửa soạn trai nghi, mời Phật và 
		Sư Tăng về nhà cúng dàng. Khi Phật dùng cơm xong Ngài lên tòa thuyết pháp 
		nói về phúc bố thí và phép trì giới, phép sinh thiên. Sai Ma nghe xong tâm ý sáng tỏ, đắc quả Tu đà 
		hoàn. Bấy giờ tất cả mọi người dự cuộc thuyết pháp 
		này, ai nấy đều hoan hỷ, phát tâm cúng dàng bố thí, giữ giới tu đức, cúi 
		đầu lễ tạ mà lui. (Quyển Thứ Bảy Hết) 
		  |