| 
		 | 
		
| 
		
		 | 
		
		
		  Kinh Hiền Ngu 
		(Bàlapandita sutta) 
		 
		Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ 
		Ba 15/ Phẩm thứ mười lăm CỨ ĐÀ THÍ THÂN Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước La 
		Duyệt Kỳ, tại núi Kỳ Xà Quật. Đức Thế Tôn khi đó bị cảm chứng phong, các đệ tử 
		đi triệu ông Kỳ Vực Y Vương vào điều trị, ông hòa ba mươi hai vị dược tô 
		dâng lên và bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Thời khí năm nay bất 
		hòa, biến nhiều thứ bệnh lạ, con thành kính luyện thứ thuốc này, cúi xin 
		mỗi ngày dùng ba mươi hai lạng. Đức Thế Tôn hoan hỷ nạp thụ và chú nguyện cho 
		ông. Thuở đó ông Đề Bà Đạt Đa thường đem lòng ghen 
		ghét với Phật, tự cao tự đại, ý muốn ngang hàng với Phật, nghe biết Phật 
		uống dược tô cũng gọi ông Kỳ Vực luyện thuốc cho uống. Khi ông luyện xong dâng Ngài và thưa rằng: - Thưa Ngài! Thuốc này mạnh lắm, mỗi ngày chỉ 
		dùng được bốn lạng! Ông Đề Bà Đạt Đa hỏi: - Phật uống ngày mấy lạng? - Thưa Ngài! Phật uống mỗi ngày ba mươi hai 
		lạng! Ông Đề Bà Đạt Đa hỏi: - Vì lẽ gì Phật uống nổi ba mươi hai lạng mỗi 
		ngày? Ta chỉ uống được bốn lạng thôi? - Thưa Ngài! Phật khác! Ngài khác! Nếu Ngài uống 
		như Phật, tất bị tổn thương đến thân thể! - Ta uống cũng có đủ lực tiêu hóa, thân ta, thân 
		Phật khác chi, để ta uống coi, có hiệu lực như Phật không! - Thưa Ngài! Việc đó xin tùy ý, nhưng xảy ra 
		chúng tôi không chịu trách nhiệm! - Dĩ nhiên! Ông khỏi lo. Ông Đề Bà Đạt Đa cân đủ ba mươi hai lạng uống 
		luôn một lúc, uống xong ông ngã quay lơ, sùi bọt mép như đống xà bông, 
		vật giường trên, lăn xuống giường dưới, kêu lên rầm rĩ. Đức Thế Tôn thương ông đau đớn, nên Ngài từ xa 
		duỗi cánh tay vàng, bằng lực thần thông tới xoa đầu cho ông, thuốc ấy 
		nhờ sức Từ bi được tiêu hóa, bệnh hoạn tan không, thân tâm an lạc! Nhìn 
		lên thấy tay Phật, ông tự nói rằng: - Tất Đạt có nhiều phép lạ, với đời vô dụng, giờ 
		lại học nghề thuốc đều cầu danh lợi. Tôi (A Nan) nghe thấy ông thốt ra lời vô nhân 
		nghĩa quá nên quỳ xuống bạch Phật: - Kính lạy đức Thế Tôn! Ông Đề Bà Đạt Đa vô ân 
		bất nghĩa quá! Ngài cứu cho khỏi, không cảm ơn thì thôi, lại thốt ra 
		những lời tệ bạc, sao lại có những lòng dạ như vậy? Luôn luôn chỉ một 
		niềm ghen ghét với Thế Tôn? Phật bảo tôi rằng: - A Nan! Đề Bà Đạt Đa, chẳng những ngày nay mang 
		lòng nham hiểm hại ta đâu, đời quá khứ đã dùng mưu này kế khác hại ta. Tôi lại thưa rằng: - Kính lạy Ngài, không hay 
		đời quá khứ ông ấy làm hại thế nào, cúi xin chỉ giáo cho chúng con được 
		rõ? Phật dạy: - Ông hãy nghe kỹ, ta vì ông mà nói! - Dạ! Con xin đón nghe. Phật dạy: - A Nan! Ông nên biết, đời quá khứ 
		cách đã rất lâu kiếp A tăng kỳ tới số không thể tính xuể, cũng ở Châu 
		Diêm Phù Đề này, có một nước lớn tên là Ba La Nại, ông vua nước ấy tên 
		là Phạm Ma Đạt tính nết hung tàn không có Từ tâm, lại ham mê sắc dục hay 
		làm tổn thương cho muôn loài, nọc độc nằm chặt trong đáy lòng. Một hôm ông nằm mộng thấy con thú lông vàng, 
		trên những đầu lông tía ánh sáng sắc vàng tỏa ra hai bên tả hữu. Khi 
		tỉnh giấc ông tự nghĩ con thú ta vừa mộng thấy trên đời này ắt phải có. 
		Nghĩ rồi cho triệu tập các người đi săn lại phán rằng: - Các khanh! Hôm nay mời các khanh vào đây, muốn 
		nói một câu chuyện trong mộng của ta cho các khanh rõ: Đêm qua vào lúc 
		canh ba đương ngon giấc, ta thấy một con thú, lông trên mình toàn sắc 
		vàng, trên những đầu lông phóng ra những tia sáng, ta chắc rằng trên 
		rừng cũng có loài thú như vậy các khanh tìm bắt lấy nó, rồi lột lấy da 
		cho ta, ta sẽ trọng thưởng cho con cháu các khanh bảy đời được đầy đủ 
		vật dụng ăn uống, nếu không để tâm tìm bắt cho ta, ta sẽ tiêu diệt hết 
		họ hàng nhà các khanh. Các người sợ toát mồ hôi! Nhưng không biết trình 
		bày làm sao! Đều lạy tạ lui ra. Trở về họ hội họp lại một nơi để giải quyết công 
		việc nhà vua vừa giao phó như sau: - Thưa các bạn, việc này rất khó cho bọn mình: 
		Nhận thấy từ thuở biết cầm cái súng đi săn đến nay, tôi chưa từng nhìn 
		thấy con thú như nhà vua nằm mộng! Nếu bọn ta không bắt được con thú 
		lông vàng, họ hàng chúng ta sẽ bị hạ sát dưới tay cường quyền áp bức của 
		nhà vua. Chi bằng tụi mình đưa vợ con trốn sang nước ngoài làm ăn cho 
		thoát! Một thanh niên tiếp rằng: - Thưa quý bạn! Nhận thấy trong núi này độc 
		trùng ác thú rất nhiều, đường sá nguy hiểm, có ngày đi không hẹn ngày 
		về, ngụ ý của tôi chỉ mượn người hộ là hơn! Mọi người đều tán thành! Sau mượn được một người 
		đến, họ sẽ làm lời cam đoan rằng: - Anh hãy tận tâm vào rừng săn hộ tôi 
		con thú lông vàng, trên đầu lông có ánh sáng, nếu anh được tốt lành trở 
		về, chúng tôi sẽ trọng thưởng cho anh một số vàng bạc; nếu anh bị hại 
		nơi rừng xanh, chúng tôi sẽ đem số vàng bạc đó cho vợ con anh ăn dùng. Người ấy tự nghĩ như vầy: - Ta vì sự cứu người, 
		dầu mất mạng cũng cam lòng. Nghĩ xong nói: - Thưa quý bạn, tôi xin bảo lãnh 
		việc đó giúp quý bạn và tôi nguyện rằng nếu được thành công mới trở về. Họ đều vui mừng! Sắm sửa lương thực tiền bạc để 
		anh đi ăn đường.\ Khi bắt đầu ra đi, mọi người đều chúc anh được 
		mọi sự tốt lành trở về, anh từ giã ra đi, đi lâu ngày trải bao những sự 
		gian hiểm, lương thực gần hết, bị đói khát, thân thể gầy còm, sức lực 
		mỏi mệt, qua bãi sa mạc trời nắng làm cho bãi cát như rang, như nấu, khí 
		nóng bức lên ngùn ngụt, mồm khát, cổ khô, chỉ còn chờ tắt hơi là qua 
		đời. Đương lúc cùng cực đau khổ, thốt ra lời nói: - Ai là người có lòng Từ bi, thương đến tôi, cứu 
		được thân mạng tôi giờ? Trong núi ấy có loài dã thú tên là Cứ Đà, lông 
		vàng vì trên đầu lông có ánh sáng, nó nghe thấy đằng xa có tiếng người 
		kêu cứu; động lòng thương dấn thân đi tìm qua những dòng suối nước lạnh, 
		tới nơi thấy một người nằm phơi trên mặt đất hình như sắp chết, nó ủ ấp 
		bằng thân của nó, hồi lâu tỉnh táo, nó bế tới một khe nước, tắm gội cho 
		mát, rồi đi lấy các thứ quả ngon về cho ăn, ăn xong thân thể được khỏe 
		mạnh. Người đó khi tỉnh dậy tự nghĩ như vầy: - Con thú lông vàng này! Chính ta đương đi săn 
		bắt nó đem nộp cho nhà vua, song lúc ta gặp cơn nguy biến, được nó cứu 
		thoát, ơn ấy ta chưa đền đáp nỡ đâu lại còn hại nó. Nhưng nếu không bắt 
		nó nộp cho nhà vua thì tất cả nhà những người đi săn kia đều bị giết 
		chết. Nghĩ thế rồi trong lòng rầu rĩ khó giải quyết. Cứ Đà hỏi: - Tại sao anh không vui? Anh rơi lệ đáp: - Tôi đương nghĩ một việc riêng! Cứ Đà hỏi tiếp: - Việc gì xin nói cho tôi rõ! - Việc này khó giải quyết và cũng không dám nói. Cứ Đà hỏi luôn: - Anh hãy nói ra, nếu tôi có thể 
		giúp được thì tôi xin giúp. Anh chàng này ngẫm nghĩ hồi lâu rồi thực tình 
		nói mục đích bắt thú lông vàng cho Cứ Đà nghe.\ Cứ Đà hoan hỷ nói: - Việc không khó, da của tôi 
		có thể đem biếu anh được! Anh nên biết rằng: Nếu cứ tính cái thân chết 
		của tôi từ quá khứ tới nay, vô lượng vô số, không thể đếm được. Nhưng 
		xét rằng những thân ấy chưa từng làm được việc gì hữu ích, hôm nay tôi 
		được đem cái da vàng mạng sống của tôi để cứu người thì còn gì vui thú 
		hơn. Vậy anh cứ việc lột lấy, tôi vui lòng nhưng chớ làm tuyệt mạng tôi 
		vội, với sự cho anh đây tôi rất hoan hỷ, không hối hận chút nào! Anh chàng đi săn nghe Cứ Đà nói trong lòng vẫn 
		băn khoăn hối hận bất đắc dĩ phải rút dao lột da của Cứ Đà. Đầu tiên anh đặt dao vào mũi, rạch mạnh, máu 
		tươi chảy ra như rót rồi kéo qua đầu xuống tận đuôi, bắt tay vào kéo xả 
		ra hai bên. Nhìn Cứ Đà vẫn thản nhiên không hề dãy dụa, rồi 
		nguyện rằng: - Tôi thành thực hy sinh da tôi để cứu sống mọi người, 
		nguyện đem công đức này, hướng về tất cả chúng sinh, qua thoát khỏi biển 
		khổ sinh tử luân hồi về nơi Niết bàn an lạc. Lời của Cứ Đà phát nguyện vừa xong, ba ngàn thế 
		giới tự nhiên chấn động sáu lần, các cung điện cõi Trời nghiêng ngửa, 
		những Thiên Tử đều kinh ngạc! Ngó nhìn xem chuyện chi, thấy Bồ tát lột 
		da bố thí cứu sinh, họ bay xuống tận nơi, tung hoa cúng dàng ai nấy đều 
		sa nước mắt. Lột da xong, thân thể Cứ Đà đỏ như gấc chín, 
		huyết chảy lênh láng, nhìn rất rùng rợn không dám ngó lâu, ruồi kiến bâu 
		xúm xít đầy mình, rỉa thịt uống huyết. Đau quá! Định trở mình, nhưng sợ 
		tổn thương loài ruồi kiến, đành phải nhẫn khổ không dám động đậy. Những loài ruồi kiến ấy nhân được ăn thịt của Bồ 
		tát sau khi mệnh chết được sinh Thiên. Người được da mang về dâng vua, nhà vua rất hài 
		lòng, khen ngợi kẻ đã tử công phu vì ta; ban thưởng cho tước lộc ngôi 
		cao, vàng bạc rất nhiều. Nhà vua dùng nó để trải nằm, khi nằm cảm thấy 
		tâm an vui khoái lạc. Tới đây đức Phật nhắc lại cho tôi biết rằng: - A Nan! Ông nên biết: Cứ Đà có phải ai đâu? 
		Chính tiền thân của ta đấy, vua Phạm Ma Đạt nay là ông Đề Bà Đạt Đa, 
		những ruồi kiến ăn thịt uống huyết của Cứ Đà thuở đó, khi ta mới thành 
		Phật chuyển Pháp Luân đều được đắc đạo sinh lên các cõi Trời, ông Đề Bà 
		Đạt Đa thời đó làm tổn thương tánh mạng ta cho đến ngày nay không có một 
		chút thiện tâm gì đối với ta, suốt ngày chỉ muốn tìm cách để hại ta 
		thôi! Lúc đó tôi và tất cả đại chúng, nghe Phật nói 
		thế, ai nấy cũng buồn và cảm động! Nhiều người thấy vậy gắng công cầu 
		phép yếu, nên có người được quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm cho đến 
		quả A la hán, cũng có người gây nhân Bích Chi Phật, cũng có người phát 
		tâm Vô thượng Đạo; có người trụ ngôi bất thoái, ai nấy đều vui vẻ kính 
		tin phụng hành tạ lễ mà lui. 16/ Phẩm thứ mười sáu VUA ĐẠI QUANG MINH NGƯỜI có trí lanh lợi, thì sự nhận xét minh mẫn, 
		gặp việc gì trở ngại cũng giải quyết mau lẹ, gặp một duyên nhỏ có thể 
		làm đại nghiệp. Kẻ biếng nhác ngoan độn, dẫu có gặp thắng duyên cũng 
		không thể phát tâm cao cả. Bởi thế con người luôn luôn phải có sự tiến hóa 
		làm lòng, lập chí tạo tác những thiện duyên gây thành đại nguyện thì mai 
		này sẽ kết quả rực rỡ tôn nghiêm. Khi đó đức Thế Tôn ở nước Xá Vệ tại vườn cây của 
		ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà. Bấy giờ có bốn bộ đệ tử vua quan dân chúng đương 
		vây quanh đức Thế Tôn để cúng dàng. Trong đại hội có nhiều người nghĩ 
		như vậy: - Không rõ đức Thế Tôn bởi nhân duyên gì phát 
		tâm Vô thượng Bồ đề lúc ban đầu? Tới nay thành Phật làm lợi ích cho muôn 
		loài chúng sinh, vậy chúng ta cũng nên phát tâm cầu thành Phật đạo để 
		nối chí của Ngài mà làm lợi ích chúng sinh. Tôi (A Nan) biết họ nghĩ như vậy đi lấy áo mặc 
		chỉnh tề tới trước Phật quỳ gối chắp tay bạch rằng: Kính lạy đức Thế Tôn! Đại chúng đây đều muốn 
		biết rõ xưa kia Ngài từ nhân duyên gì phát Bồ đề tâm, kính xin chỉ giáo 
		để cho tất cả mọi người đều được lợi ích! Phật dạy rằng: - Này ông A Nan! Hay lắm! Hay 
		lắm! Ông hỏi như vậy có rất nhiều sự lợi ích, ông hãy nghe cho kỹ và suy 
		nghĩ cho rành, tôi sẽ vì ông mà nói. Bấy giờ trong đại hội đều im lặng, tất cả núi 
		sông gió nước chim bay thú chạy cũng đều chiêm ngưỡng, không một tiếng 
		động, đại chúng, trời, rồng, quỉ thần đều dốc lòng trông Phật, ai nấy 
		vừa sợ vừa ham nghe. Phật dạy rằng: A Nan ông nên biết, thời quá khứ 
		đã quá lâu xa kiếp, A tăng kỳ vô lượng vô biên không tính xuể, cũng Châu 
		Diêm Phù Đề này có một ông vua nước lớn tên là Đại Quang Minh, trí tuệ 
		thông minh phúc đức cao dày, nhân tướng oai nghiêm thuần hậu, có chơi 
		thân với ông vua nước láng giềng, hai ông giúp đỡ nhau từ tinh thần đến 
		vật chất, nhất là có vật gì quý cũng tặng lẫn cho nhau. Một hôm ông vua nước láng giềng đi săn được hai 
		con voi còn nhỏ, mình trắng như pha lê rất là quý đẹp, nhà vua mừng thầm 
		và tự nghĩ như vầy: - Ta đem voi này tặng vua Quang Minh. Đưa về trang sức cho voi rất đẹp rồi sai người 
		dắt sang hiến vua Quang Minh. Vua Quang Minh coi thấy con voi lạ cũng cho là 
		một bảo vật đáng quý, nên trao cho người quản tượng tên là Tán Xà dặn 
		rằng: - Trông coi cho cẩn thận, dạy bảo cho thuần thục, cho ăn uống ngon 
		lành. Quản tượng đưa về dạy bảo một thời gian được 
		thuần thục, rồi đến tâu vua rằng: - Tâu Bệ Hạ! Hạ thần vâng mệnh nuôi voi đã lớn, 
		sự điều voi của hạ thần nhất mực bảo sao nghe vậy, cúi xin Bệ Hạ cho voi 
		ra thí trường để dân chúng coi sự điều khiển của hạ thần. Nhà vua vui vẻ đáp rằng: - Hãy khoan ít ngày để 
		ta truyền cho quan quân, dân chúng hay tin trước. Sau khi được chiếu chỉ của nhà vua, từ thành thị 
		cho đến thôn quê kéo nhau đi xem rất đông đảo, nhà vua cỡi voi ra thí 
		tràng, trông rất oai nghiêm, đi sau có các quan văn võ. Con voi trai trẻ 
		này, khí lực đương cường tráng, dục vọng nồng nàn, đi sắp tới thí trường 
		nó nhìn thấy mấy chị voi cái đang ăn ngó sen bên mé hồ, tự nhiên lửa dâm 
		dục bốc khởi, túm cẳng chạy thẳng đến mấy chị voi cái kia, voi cái hoảng 
		chạy! Đuổi mãi, đuổi mãi! Cho đến rừng xanh cũng không thôi. Làm cho nhà 
		vua áo rách mũ rơi, gai góc đâm xiên vào mình, máu huyết chảy đẫm áo, 
		nhà vua tối mắt chẳng biết đông tây, sợ quá tự nghĩ rằng: - Bây giờ làm cách nào để xuống được? Quản tượng thưa: - Xin Bệ Hạ hãy níu lấy cành 
		cây để sa xuống đất. Nghe lời quản tượng, nhà vua níu lấy cành cây 
		xuống đất được vô sự, nhưng sờ lên đầu thấy mất mũ áo, trên mình rách 
		ngang rách dọc và đẫm máu, thân thể đau đớn! Đương lúc đau khổ lại không 
		biết lối ra. Quản tượng cũng níu lấy cành cây nhảy theo rồi 
		đi tìm vua. Một lát thấy nhà vua đương ngồi dưới gốc cây coi vẻ âu sầu 
		buồn bã, quản tượng quỳ xuống thưa: - Cúi xin Bệ Hạ xá tội cho, và đừng buồn phiền 
		nữa! Con voi này khi hạ cơn dâm dục nó sẽ nhớ cỏ ngon nước sạch thì lại 
		trở về. Nhà vua nói: - Thôi nhà ngươi còn nói chi nữa, 
		từ nay ta sẽ không nhận ngươi và con voi ấy nữa. Quản tượng không biết nói sao! Đành phải ngồi 
		yên chờ vua nguôi cơn giận. Khi đó các ông quan chạy theo sau, có ông nhặt 
		được cái mũ, cái áo, cái hia, hoặc thấy máu me rải rắc từng giọt, đột 
		nhiên thấy nhà vua cởi con voi khác trở về. Khi đó có các bà Hoàng hậu, 
		Hoàng Phi, Hoàng Tử, Công Chúa nhân dân đều lo xanh mặt, vì sợ nhà vua 
		bị chết ai nấy đều rơi lệ như mưa. Khi thấy nhà vua đã trở về, mọi người vui vẻ! Qua thời gian ngắn con voi đã thỏa mãn lòng dâm, 
		bị ăn cỏ hôi, uống nước bẩn nơi rừng xanh, lại trở về kinh thành. Quản tượng thấy voi về, vội vào triều tâu vua 
		rằng: - Tâu Bệ Hạ! Con voi hôm nay đã trở về, xin Bệ 
		hạ ra coi. - Thôi, từ nay ta không muốn nhìn thấy ngươi và 
		con voi ấy nữa. Quản tượng lại thưa: - Tâu Bệ Hạ, nếu Bệ Hạ 
		không muốn thấy hạ thần và con voi ấy nữa, nhưng xin Bệ Hạ hãy xem cách 
		điều phục voi của hạ thần một lần nữa. Nhà vua nói: - Khanh đã nói thế ta cũng cho! Quản tượng bái tạ ra về, sửa soạn nơi thí tràng 
		và định ngày cáo thị cho dân chúng đến xem. Tới ngày đó, vua quan ra thí tràng, nhân dân đến 
		xem rất đông. Quản tượng dắt voi ra và đem theo bảy viên sắt lớn thầm 
		nghĩ như vầy: - Giờ đây ta bắt voi nuốt sắt, voi chết cũng 
		hoài, vậy ta hãy tâu vua may ra Ngài có hối tâm chăng. - Tâu Bệ Hạ! Con voi trắng này, chỉ vua Chuyển 
		Luân mới có, nó phạm chút lỗi nhỏ xin Bệ hạ tha thứ, không nên hủy bỏ. Nhà vua nói: - Nếu ngươi không điều phục được 
		nó, thì mời ta ra đây làm chi? Dầu ngươi có điều phục được, ta cũng 
		không dùng nó và ngươi nữa. Quản tượng thưa: Tâu Bệ Hạ! Bệ Hạ không dùng hạ 
		thần thì thôi, nhưng rất tiếc không dùng voi. Nhà vua giận nói: - Khanh đi ngay, bước ngay lập 
		tức bây giờ! Quản tượng đứng dậy vừa khóc vừa nói: - Bệ Hạ 
		không có thân sơ, chỉ ưa những lời nói khéo, nói ngọt, nịnh hót! Tất cả mọi người nghe đều sa đôi hàng lệ, và 
		chăm chú nhìn voi, vì họ nhìn thấy bảy viên sắt đương nung đỏ tại lò, 
		quản tượng sẽ bắt voi nuốt. Quản tượng thị oai lớn tiếng nói: - Voi mày nuốt viên sắt này đi, nếu không nuốt 
		ta sẽ lấy móc sắt móc óc mày ra. Voi thấyquản tượng nói, sợ hãi run rẫy, quỳ hai 
		gối xuống đất, chầu về nơi nhà vua ngự nước mắt chảy ròng! Có ý xin vua 
		xá tội, nhưng nhà vua vẫn chưa nguôi cơn giận, lại càng bực tức thêm, 
		rồi ngoảnh mặt đi. Quản tượng lớn tiếng nói: - Mày không chịu nuốt à, còn chờ tao móc ư! Voi liếc mắt nhìn xung quanh xem có ai can gián 
		để cứu mình không! Nhưng không! Tự biết mình phải chết, vì không còn một 
		thế lực gì nữa có thể trông cậy, bất đắc dĩ nằm ngửa há mồm. Quản tượng bỏ bảy viên sắt nóng vào mồm bắt phải 
		nuốt hết, nuốt xong nổ ruột chết liền. Tất cả mọi người thấy thế cảm động thương voi. 
		Ai nấy đều phải sa lệ. Nhà vua cũng phải kinh sợ và ngạc nhiên, kêu 
		Quản tượng lại hỏi: - Quản tượng, khanh có tài điều phục voi như 
		vậy, tại sao lúc ở rừng không ngăn được nó. Lúc ấy ông Tịnh Cư Thiên biết vua Quang Minh đã 
		phát tâm Bồ đề, dùng thần lực khiến Quản tượng quỳ xuống thưa rằng: - Tâu Bệ Hạ! Kẻ hạ thần này chỉ có thể điều phục 
		được thân nó chứ không thể điều phục được tâm của nó. Nhà vua hỏi: - Vậy có người nào đều phục được cả 
		thân lẫn tâm nó không! Đáp: - Tâu Bệ Hạ, chỉ có Phật điều phục được cả 
		thân lẫn tâm của nó. Nhà vua hỏi tiếp: - Khanh nói Phật, thì lấy 
		chủng tính gì sinh ra Phật? Đáp: - Tâu Bệ Hạ! Có hai chủng tính sinh ra 
		Phật: Một là trí tuệ, hai Từ bi! Chăm làm sáu việc: Bố thí, trì giới, 
		nhẫn nhục, tinh tiến, thuyền định, trí huệ cũng gọi là sáu Ba La Mật, 
		công đức và trí tuệ của sáu việc đầy tròn nên gọi là Phật! Như vậy có 
		thể điều phục được mình và tất cả chúng sinh. Nhà vua nghe quản tượng tâu xong, có vẻ vui 
		sướng! Đứng dậy vào hậu cung tắm rửa sạch sẽ, mặc áo đội mũ tề chỉnh, 
		lên lầu cao một mình, đốt trầm hướng về bốn phương thề nguyện rằng - Từ đây tôi sẽ đối với tất cả chúng sinh, phải 
		có một tâm "Đại Từ Đại bi", rồi đọc bài kệ khấn rằng: Nguyện đem công đức này Hồi hướng về Phật đạo, Sau này được thành Phật, Tự điều phục tâm mình, Và tất cả chúng sinh. Nếu một chúng sinh nào. Ở Địa ngục A Tỳ. Trải qua đến một kiếp. Có thể làm lợi ích, Và cứu khổ họ được, Tôi sẽ vào ngục ấy, Không bỏ tâm Bồ đề. Nhà vua thệ nguyện dứt lời, thì sáu phương chấn 
		động, trời đất rung chuyển, trên hư không văng vẳng, có tiếng âm nhạc, 
		các ông thiên tử đánh đàn ngợi khen rằng: - Ngài phát nguyện cao cả ấy, chẳng bao lâu nữa 
		được thành Phật, xin độ cho lũ chúng tôi trứơc ở pháp hội thanh tịnh 
		này. Tới đây Phật nhắc lại cho các vị Tỳ kheo biết 
		rằng: - Tỳ kheo các ông nên biết! Con voi trắng bị 
		quản tượng bắt nuốt viên sắt nóng thuở đó nay là ông Nan Đà. Quản tượng 
		nay là ông Xá Lợi Phất, vua Đại Quang Minh chính tiền thân của ta. Nhân 
		lúc thấy quản tượng điều phục voi ta phát khởi tâm cầu đạo Phật bắt đầu. Trong đại hội khi nghe Phật nói sự phát khởi tu 
		đạo của Ngài xong, ai nấy vui mừng, rồi có người được chứng quả thứ tư, 
		có người phát đại đạo tâm, mỗi người đều kính tin cúi đầu tạ lễ mà lui. Vua Quang Minh gặp một tiểu duyên, mà giải quyết 
		được đại sự, là do trí dũng mãnh tinh tiến. Còn như kẻ lười biếng, dầu 
		có gặp được duyên lớn cũng chẳng thành sự nghiệp gì. Chúng ta phải nên 
		mạnh dạn bớt bỏ lòng tham dục si mê, chuyển theo con đường sáng của đức 
		Phật đã vạch ra, thì một ngày kia ta sẽ ngồi trên đài liên hoa, bay đi 
		khắp thế giới nhiếp phục chúng sinh cũng như Ngài không khác, mục đích 
		cứu họ ra khỏi vòng phiền não ô trọc, xấu xa, được trí tuệ thần thông 
		cao sáng, qua thoát khỏi sinh, già, bịnh, chết. 17/ Phẩm thứ mười bảy ƯU BA TƯ NA MUỐN thành Phật phải tôn trọng Phật, phải khao 
		khát giáo lý của Ngài, phải đọc tụng thọ trì, phải diễn thuyết kinh 
		pháp. Chính những người cư gia tụng kinh thuyết pháp, chư thiên quỷ thần 
		còn ham nghe, phương chi người xuất gia cho đến người đi đường tụng kinh 
		đọc kệ thường thường vẫn có chư thiên theo nghe. Là Phật tử phải chăm niệm Phật, tụng kinh, trì 
		chú, thuyết pháp thì đời vị lai sẽ được quả báo trang nghiêm rực rỡ. Thuở đó đức Thế Tôn ở nước Xá Vệ, tại Kỳ Hoàn 
		Tinh xá cùng với các đại Tỳ kheo một số đông. Khi Ngài mới đến rừng này nhân dân cảm mến công 
		đức vô lượng vô biên. Các người lương thiện nghe thấy danh đức của Phật, 
		họ đều hoan hỷ và tán dương. Trái lại những kẻ ác, nghe thấy người lương 
		thiện thì sinh lòng thù ghét. Người hiền thiện không bao giờ bới xấu người, mà 
		chỉ đem những điều lành của người ra nói thôi, vì muốn điều lành ấy lan 
		ra cho nhiều người được nghe, thấy kẻ làm ác biết sự hành động ấy của 
		nghiệp kết sử thì thương họ và tha thứ cho họ không chấp nhặt sự ngu si 
		của họ. Như vậy những người cõi nhân, cõi thiên đã đầy 
		thiện duyên gặp Phật xuất thế thì họ tán dương, và đem giáo pháp của 
		Ngài tuyên truyền cho các nước. Thuở đó có một nước nhỏ thuộc quyền cai trị của 
		vua Ba Tư Nặc, phần nhiều những người tà kiến vì không có giáo lý của 
		Phật truyền bá, song thôn xóm kia có một người con gái tên là Ưu Ba Tư 
		Na, hôm ấy đi sang nước Xá Vệ, nơi vua Ba Tư Nặc ở, công việc đã xong, 
		ra về cùng người thân tín đạo Phật, trọ tại bên nhà người Ưu bà tắc. Sau 
		được nghe họ nói công đức của Phật cô liền theo họ, đến rừng Kỳ Hoàn để 
		yết kiến Phật, tới nơi thấy Phật tướng hảo đoan nghiêm, uy nghi lẫm liệt 
		quang minh sáng lạn, tâm sinh vui vẻ khát ngưỡng, cúi đầu lễ sát đất rồi 
		lui ngồi về một bên. Lúc đó đức Thế Tôn thuyết công đức của năm giới 
		cho đại chúng nghe như sau: - Không sát sinh, được quả báo sống lâu, không 
		bệnh tật. - Không trộm cướp, được quả báo giàu sang, không 
		bị ngũ gia cướp đoạt. - Không tà dâm, được quả báo nhân thiên kính 
		trọng, thân người tốt đẹp. - Không nói dối, được quả báo người đời kính 
		trọng yêu mến, nói ai cũng tin theo. - Không uống rượu, được quả báo thông minh. Cô Ưu Ba Tư Na nghe xong tâm rất hoan hỷ! Cảm 
		mến đức Phật, tới trước quỳ bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Con không biết có phúc 
		duyên gì hạnh ngộ, hôm nay tới đây, được chiêm ngưỡng Ngài và được nghe 
		công đức của năm giới, con thành tâm cúi xin năm giới của Thế Tôn, xin 
		Thế Tôn trao cho con, con nguyện suốt đời vâng giữ, dẫu cho chết mất 
		thân mạng con quyết không hủy phạm. Năm giới đối với con, cũng như người 
		đói giữ cơm, người khát giữ nước, như người bệnh giữ mạng, con giữ năm 
		giới cũng thế. Phật dạy: - Con biết tuân hành thọ trì năm giới 
		là người có phước lành đã trồng nhiều kiếp, con hãy lắng lòng nghe cho 
		kỹ và ghi vào tâm thức chớ quên, ta nói đến đâu con lãnh thọ đến đó. Ưu Ba Tư Na bạch: - Dạ kính lạy đức Thế Tôn, con 
		xin chú ý lãnh thọ! Khi cô lãnh giới xong, lại bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Con ở nước xa xôi, giờ 
		đây con phải trở về, cúi xin trao cho con một bài kinh để hằng ngày tụng 
		đọc và thờ kính. Các đức Phật quá khứ, các đức Phật đời vị lai cũng một 
		kinh pháp ấy. Theo lời cầu nguyện của cô, Ngài trao cho cô một 
		quyển kinh "Pháp Cú" và dặn rằng: - Con mang kinh này về, chiều sớm ban hôm chăm 
		chỉ thụ trì đọc tụng, sẽ được công đức vô lượng. Cô cúi đầu lễ ba lễ, nhiễu ba vòng rồi trở ra 
		về. Từ khi được thấm nhuần giáo lý đạo Phật, cô coi 
		đời như giấc chiêm bao, tất cả gia đình sự nghiệp chỉ là trò huyễn ảo 
		gây ra trong thời gian vô định, nên cô chỉ chăm chú vào quyển kinh sớm 
		hôm đọc tụng, suy nghĩ giáo pháp cao siêu của tam thế chư Phật. Một buổi 
		nọ lúc giữa canh khuya cô ngồi tụng kinh trên lầu cao, văng vẳng nghe 
		trên không gian có tiếng nói rằng: - Hay lắm! Hay lắm! Chị tụng kinh hay lắm! Chúng 
		em muốn tặng chị một chút bảo vật song không thích hợp với tư tưởng của 
		chị, vậy xin giới thiệu một lời để dâng chị. Hiện nay Tôn giả Xá Lợi 
		Phất và Tôn giả Mục Kiền Liên tới đây đương nghĩ trong rừng, sáng ngày 
		mai chị mời hai Tôn giả cúng dàng thì được phúc vô lượng, khi Tôn giả 
		chú nguyện thì hô đến tên của chúng tôi. Ưu Ba Tư Na nghe xong ngửa mặt lên hỏi: - Ông là ai? Xin cho tôi được biết quý danh. Đáp: - Tôi là Quỷ Vương tức là Tỳ Sa môn Thiên 
		Vương nhân sang nam phương qua đây vì muốn nghe tụng kinh nên đứng lại! Cô trả lời: - Người cõi Thiên không bao giờ nói 
		lầm như vậy, ông là người trời, tôi là người thế, tuyệt không có nhân 
		do, tại sao gọi tôi là chị. Tỳ Sa môn đáp: - Đức Phật là ngôi Pháp Vương 
		cũng là cha lành cõi nhân, cõi thiên, tôi là Ưu bà tắc, chị là Ưu bà di 
		cùng chung một cha lành tu học một pháp vị, cho nên cũng có thể kêu là 
		chị em được. Cô vui vẻ hỏi tiếp: - Khi cúng dàng xưng tên của 
		ông thì được lợi ích gì. Thiên Vương đáp: - Tôi là Thiên Vương, tai nghe 
		được rất xa, xưng tên tôi nghe thấy thì thêm thế lực của tôi và uy đức 
		của tôi, khi đó tôi dùng thần lực sai khiến các quỷ thần ủng hộ người đó 
		được phước lộc nhiều, và khiến cho họ thoát khỏi khổ nạn. Thiên Vương nói xong rồi Từ biệt. Ưu Ba Tư Na 
		trong lòng vui vẻ! Và thầm nghĩ như vầy: - Đức Phật trăm kiếp ngàn đời, chăm tu khổ hạnh 
		cũng là vì ta, và tất cả chúng sinh. Hôm nay cũng do uy đức của Phật nên 
		ông Thiên Vương đối với ta một cách thận trọng, lại còn xưng tên ta là 
		chị, đức Phật là một đấng cha lành cho muôn loài. Cô ngồi tư duy nhận xét đạo lý mãi đến gần sáng 
		mới thiu thỉu ngủ; trời vừa tang tảng, các cô gái vào rừng kiếm củi trèo 
		lên cây cao chặt những cành cây khô, xa xa nhìn thấy hai vị Thánh Tăng, 
		một vị là Xá Lợi Phất, một vị là Mục Kiền Liên, với năm trăm Thầy Tỳ 
		kheo đương ngồi tĩnh tọa dưới gốc cây, cô gái ở nhớ rằng "độ nọ được đi 
		hầu bà sang nước Xá Vệ, gặp hai vị Thánh Tăng này một lần bà chủ ta tôn 
		kính lắm". Ngừng lấy củi cô lại tận nơi lễ bái thưa rằng: - Kính thưa Tôn giả, chúng con là gia nhân của 
		Ưu Ba Tư Na tới đây để bái mừng và đến thăm Tôn giả. Tôn giả đáp: - Ưu Ba Tư Na có được vui vẻ không, 
		có được an lạc giải thoát không? - Thưa Tôn giả: - Ưu Ba Tư Na vẫn được an vui kể 
		từ ngày được thọ giáo đức Thế Tôn, Ưu Ba Tư Na xin thỉnh hai Tôn giả tới 
		nhà dùng bữa cơm hôm nay. Tôn giả đáp: - Ngươi hãy về nói với Ưu Ba Tư Na. 
		Hay lắm! Hay lắm! Ưu Ba Tư Na, là Ưu bà di khéo biết thời và khéo biết 
		việc thích ứng, Phật vẫn thường khen năm pháp thí được phúc vô lượng. Một là, bố thí cho người ở nơi xa tới, Hai bố, thí cho người đi xa. Ba là, bố thí cho bệnh nhân. Bốn là, bố thí thức ăn cho người đang bị đói. Năm là, bố thí pháp cho người biết pháp. Năm pháp bố thí này nếu ai thực hành làm ngay, 
		thì được phúc báo hiện tại. Các cô nghe xong, vâng lời lễ tạ lui ra, về nhà 
		gặp cô gái ở nhỏ bèn hỏi: - Bà chủ ở đâu mày? - Bà đang ở trên gác, đem qua bà ngủ không được, 
		vừa mới ngủ đấy. - Mày đi lên gọi bà dậy. Đáp: - Em không dám! - Không dám gọi thì để chị gọi. - Tùy ý. - Bà ơi! Mời bà dậy! - Ngươi hỏi gì? - Thưa bà, Tôn giả Xá Lợi Phất và Tôn giả Mục 
		Kiền Liên đến rừng này con đã mời Ngài đến nhà dùng bữa cơm ngọ hôm nay. Cô Ưu Ba Tư Na vui vẻ! Lấy bộ khoen vàng thưởng 
		cho cô gái ở. - Thưa bà, Tôn giả có những lời rất hay giáo hóa 
		cho con. - Con nhớ không? Nói cho ta nghe! - Thưa bà, Tôn giả nói rằng: - Ưu Ba Tư Na là 
		người Ưu bà di, khéo biết thời và khéo biết việc thích ứng. Phật vẫn 
		thường khen năm pháp thí được phúc vô lượng. Thứ nhất là thí cho người ở xa tới. Thứ hai là cho người đi đường xa. Thứ ba là thí cho người có bệnh hoạn. Thứ tư là bố thí thức ăn cho người đương bị đói. Thứ năm là bố thí pháp cho người biết pháp. Năm pháp thí này nếu ai thực hành làm ngay, thì 
		được phúc báo hiện tại. Ưu Ba Tư Na nghe xong sung sướng quá, cũng như 
		hoa sen khi gặp ánh nắng của mặt trời mà tung nở, trong lòng sáng tỏ tự 
		nhiên phấn khởi tinh thần cũng như hoa sen kia đua nở vậy. Ưu Ba Tư Na tháo chuỗi hột vàng trên cổ tặng 
		thêm cho cô gái ở. Cô gái ở vui mừng, đỡ lấy rồi nói: - Mời bà dậy đi! Rửa tay, rửa mặt sửa soạn các 
		món ăn mà cúng dàng, con sẽ đi mời các Ngài hầu bà. - Ta vui lòng lắm! Nếu con đã vì ta làm việc 
		này, hãy cứ làm đi, không phải nói nữa, ta cho tùy ý, và cũng không 
		riêng gì cho ta, nếu cho làm việc tốt lành ấy, bất luận tại gia, hay 
		xuất gia, nơi tụ lạc, thành ấp đều được sáng thịnh yên vui. Nói xong đứng lên đi rửa tay bảo gia nhân và các 
		người lân cận, người nấu cơm kẻ đốt lửa, gánh nước hái rau, kê bàn, trải 
		chiếu, hái hoa, phân phó các việc xong, còn mình lấy thuốc giã rây hòa 
		luyện cẩn thận. Khi các thứ đã đầy đủ rồi sai người đi mời hai Tôn giả 
		và các Thầy Tỳ kheo. Được tin mời, hai Tôn giả và các Thầy Tỳ kheo 
		mặc áo tề chỉnh đi phó trai. Các vị tới nhà thăng tòa ngồi yên tĩnh. Ưu Ba Tư Na ra lễ bái mừng! Cầm thau món ăn sẻ 
		vào các bát, sắc hương thơm ngát một lòng thành kính dâng lên. Sự cúng dàng được phúc báo tùy theo lòng thành 
		kính: Làm thức ăn ngon, lại đẹp thì được nhan sắc đẹp, 
		mùi ngon thơm tốt thì được phúc danh thơm đồn xa, món ăn đầy đủ, được 
		phúc báo tùy ý muốn gì được nấy, thân người vạm vỡ khỏe mạnh. Chúng Tăng độ xong, Ngài Tôn giả Xá Lợi Phất làm 
		phép chú nguyện. Ưu Ba Tư Na thưa: - Kính xin Tôn giả hô đến tên 
		ông Tỳ Sa môn Thiên Vương. Ngài chú nguyện, xong, hỏi: - Con đối với Tỳ Sa môn Thiên Vương có nhân 
		duyên gì mà hô tên ông ấy? - Kính bạch Tôn giả! Thực là một việc ly kỳ quá! 
		Tối hôm qua con đương tụng kinh, ông Thiên Vương ấy đứng ở trên hư 
		không, khen con và gọi con là chị. Lúc ấy con hỏi ông là ai nghe tiếng, 
		mà không thấy người, ông ấy nói: - Tôi là Quỷ Vương Tỳ Sa môn Thiên 
		Vương thấy người tụng kinh tôi đứng đây nghe, tôi muốn lấy trân bảo cõi 
		Trời tặng nhưng không phải một thứ mà chị ưa muốn, nên xin tặng một lời 
		đó thôi! – Con lại hỏi, ông muốn bảo gì? Ông ta nói: - Sáng mai Tôn giả Xá Lợi Phất và Tôn giả Mục 
		Kiền Liên, đến rừng này, chị nên sửa trai cúng dàng, khi cúng thì hô đến 
		tên tôi. Con lại hỏi: - Xưng tên ông thì được lợi ích gì? Ông ta nói: - Tai tôi nghe được rất xa, nếu xưng tên tôi thì 
		thêm thế lực của tôi, và uy đức của họ hàng tôi, tôi sẽ dùng thần lực 
		sai quỷ thần ủng hộ cho người đó, thoát khỏi những khổ nạn, bởi nhân 
		duyên ấy nên xưng tên. Tôn giả nói: - Đấy, cũng là một việc lạ, con ở 
		đạo người, kẻ kia ở đạo trời, họ đối với con có lòng kính trọng lại còn 
		nhận là chị em. - Kính thưa Tôn giả! Còn một việc lạ nữa: Trong 
		nhà con thường có thần nhân đi lại viếng thăm một cách thân mật và cũng 
		như một bạn gái vậy, khi con bố thí, thì vị thần bảo con rằng: Vị này là 
		A la hán, vị này là Tu đà hoàn, vị này là Tư đà hàm, kẻ này là phàm phu, 
		người này là trì giới, kẻ này phá giới, người này trí tuệ, kẻ này ngu 
		si. Con tuy nghe thấy nhưng ý của con không phân biệt phá giới hay trì 
		giới, trí tuệ hay ngu si, bất luận vị nào con đều coi như một vị La Hán. Tôn giả nói: - Cũng hay lắm, ngay đấy con có tâm 
		bình đẳng không phân biệt. - Bạch Tôn giả! Con lại có một việc lạ nhất: Con 
		là phận nữ nhi tại gia mà tiêu diệt được hai người thân kiến, đắc quả Tu 
		đà hoàn! Tôn giả nói: - Đấy con có phước lớn làm thân gái 
		mà chứng được quả Tu đà hoàn! - Bạch Tôn giả: - Con lại có một việc kỳ nữa, 
		con sinh hạ được bốn đứa con đều ác kiến, chồng con cũng là tà ác quá 
		đỗi, đối với Phật Pháp Tăng chẳng biết tin kính, con cúng dàng Tam bảo, 
		hoặc cho kẻ bần cùng, lại sinh lòng giận tức tiếc của, và nói rằng: - Ta 
		làm khổ sở mới có tiền, lại đem làm việc vô ích, tuy thế, nhưng đạo tâm 
		bố thí cúng dàng tu thiện của con, không hề thay đổi và cũng không buồn 
		hận gì! Tôn giả nói: - Làm thân đàn bà suốt đời không 
		bao giờ được tự tại, khi còn bé nhỏ ở với cha mẹ, thì cha mẹ cấm đoán, 
		khi có chồng thì chồng đàn áp dưới ách di nô, khi già thì con cái ngăn 
		đón, riêng đối với phúc lực của con thì không bị chồng cấm đoán, tùy ý 
		tu thiện, này Ưu Ba Tư Na, tối hôm nay đức Thế Tôn sang rừng Tỳ Nữu Can 
		Đặc, con lại viếng thăm Ngài. Nói xong hai Tôn giả và các Thầy Tỳ kheo ra về. 
		Ưu Ba Tư Na thầm nghĩ: - Tôn giả mách bảo thật là một việc rất hay, ta 
		sắm sửa vật thực để cúng dàng. Ngày mai Ưu Ba Tư Na gọi các người thân tín đi 
		viếng thăm Phật, tới nơi rừng Tỳ Nữu Can Đặc, thấy đức Thế Tôn dung nhan 
		tươi sáng như vừng nhật nguyệt, uy phong lẫm liệt. Cô và mọi người thụp 
		lạy trước Ngài, dâng hoa lên cúng rồi lui ngồi về một bên. Hôm đó đức Thế Tôn thuyết pháp nói về công đức 
		bố thí trì giới, sinh thiên, đoạn dục và Niết bàn, nghe thuyết pháp xong 
		nàng bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Thôn xóm con thuần những 
		người tà kiến, không biết Phật Pháp Tăng, và không ưa việc bố thí. Cho 
		nên những vị Sa môn, Bà la môn, có vào làng không ai biết cúng dàng, nên 
		các vị chỉ vào nhà con. Kính xin Ngài có thời gian nào đến ấp làng con 
		giáo hóa cho mọi người biết tín ngôi Tam bảo, hơn nữa chúng con lại được 
		cúng dàng. Bạch xong lễ tạ lui ra, lần lượt đi thăm các vị 
		Tỳ kheo, cuối cùng thấy một vị mang bệnh nằm trong hang cỏ, liền hỏi: - Đại đức bệnh hoạn thế nào? Đau lâu mau thế 
		nào? Phải dùng những thức gì điều trị, xin cho con được rõ. Đáp: - Tới đây thủy thổ bất hòa, tôi không hợp 
		nên phải thụ bệnh, giờ đây nếu được thứ thịt tươi ăn thì khỏi. - Bạch Đại đức, ngày mai con xin dâng Đại đức 
		dùng, việc ấy không khó! - Hay lắm! Quý hóa lắm! Ưu Ba Tư Na lễ sát dưới chân xin phép ra về, đi 
		đường thầm nghĩ rằng: - Ta có phước đức lớn, hôm nay được yết kiến 
		Phật và các Tôn giả. Ngày mai sai người ở đi chợ mua thịt, không mua 
		được trở về thưa rằng: - Thưa bà, hôm nay ngày rằm chợ không bán thịt, 
		và hôm nay ngày quốc cấm, nếu ai sát sinh bán thịt sẽ bị trọng phạt! - Thế à! Mày cầm một ngàn đi mua, chỉ lấy số 
		thịt giá một trăm đồng thôi, hoặc có kẻ nào ham lợi thì họ bán! Kẻ đó mang tiền đi chợ lần nữa, nhưng vì luật 
		nhà vua quá nặng nên không ai giết lợn bán, về thưa rằng: - Thưa bà, hôm nay ngày quốc cấm không ai dám 
		giết thịt bán. - Mày cầm tiền vàng đi các nhà đồ tể mua một giá 
		rất đắt! Vâng lời bà chủ đi mua, nhưng các nhà sát sinh 
		cũng không ai dám mổ heo bán, về thưa cùng bà chủ rằng: - Thưa bà con đã hết lời năn nỉ họ, nhưng luật 
		nước quá nặng, không ai - Thôi để ta liệu! Ưu Ba Tư Na thầm nghĩ rằng: - Ta đã hứa dâng Ngài dùng mà không có thì Ngài 
		mong ta, hoặc vì thế mà Ngài chết thì lỗi tại ta. Song lại nhớ tới vị Bồ 
		tát ngày xưa vì một con chim bồ câu, còn cắt thịt để cứu mạng sống của 
		nó, phương chi đây là một vị Tỳ kheo ta không nên quá yêu thân ta, ta 
		nên cắt thịt của ta để cứu lấy bịnh của Ngài. Nghĩ xong đi tắm rửa sạch 
		sẽ gọi một người thân tín nhất vào phòng nói rằng: Ngươi làm ơn lấy dao này cắt thịt bên vế đừi cho 
		ta một cân. Người đó cầm dao cắt, trong lúc xẻo thịt, mặc 
		lòng đau đớn khổ não; nhưng cứ bấm gan chịu, đứa ở gái lấy băng buộc 
		chặt lấy chỗ đau. Sau mang ra nhào các thứ dược thảo nấu chín, bỏ vào cà 
		mèn, đưa đến rừng dâng lên vị Tỳ kheo có bệnh. Tỳ kheo ăn thịt xong, thân thể an lạc các bệnh 
		đều khỏi, lành mạnh như xưa. Đoạn này chồng của Ưu Ba Tư Na về, không thấy vợ 
		liền hỏi gia nhân rằng: - Chúng bây đâu! - Dạ! Ông chủ hỏi gì ạ. - Chúng bây có biết Ưu Ba Tư Na đi đâu không? - Dạ! Thưa ông, bà đương nghỉ trong phòng! Vào phòng thấy vợ nhan sắc biến đổi, có vẻ đau 
		đớn, hỏi: - Em đau à? Coi vẻ ủ rũ đấy! Bước ra sai người gọi Thầy lang về chẩn mạch. Thầy lang đến. - Thưa bác nhà tôi bị đau, nhờ bác chẩn mạch cho 
		thuốc. - Vâng! Chị ấy nằm đâu? - Trong nhà, mời bác vào! - Thế nào, bác đau sao? - Bệnh tôi lúc nào cũng đau, hiện đang đau lắm 
		không ngớt đau chút nào. Thầy lang chẩn mạch không biết bịnh gì, yên lặng 
		lui ra. Thầy lang nói: - Bác ạ, tôi không rõ bác gái 
		bệnh gì! Anh chàng hỏi: - Bệnh em làm sao nói cho tôi biết? Thầy lang có giỏi cũng không biết được bệnh tôi! 
		Thôi anh không phải lo, ít ngày em sẽ khỏi bệnh. Anh chàng lui ra, gọi gia nhân hỏi: - Lũ bây có biết Ưu Ba Tư Na bệnh gì không? - Thưa ông bọn tôi không biết, ông hỏi người hầu 
		cận bà thì biết. Anh chàng gọi đứa ở gái ra chỗ vắng hỏi: - Mi có biết Ưu Ba Tư Na bệnh gì không, nói thực 
		cho ta biết. - Thưa ông! Bà cắt thịt đùi ra, nấu cúng dàng 
		cho một vị Tỳ kheo ăn, nên bà bị đau đó! Anh chàng nghe nói, hầm hầm nổi giận ra ngoài 
		đường lớn tiếng nói: - Làm Sa môn Thích Tử mà ăn thịt người, có khác 
		gì Đồ Bác Túc Vương ngày xưa không? Chàng lê la nói mãi, khiến cho những người tín 
		đồ của Phật vừa tủi thẹn vừa tức bực! Anh chàng dám mạ Phật, Pháp, Tăng, 
		rồi một số đông đến chỗ Phật lễ xong lui ngồi một bên. Phật hỏi: - Các ngươi tại sao buồn thế. - Kính lạy đức Thế Tôn! Có một chành dòng Phạm 
		Chí ra chỗ đông người lớn tiếng phỉ báng Phật, Pháp, Tăng rằng: - Trước 
		đây Đồ Bác Túc Vương ăn thịt người, ngày nay Thầy Sa môn đệ tử của Phật 
		cũng ăn thịt người, cúi xin đức Thế Tôn ra lịnh cho các vị, từ nay không 
		được ăn thịt nữa. Đức Phật đánh chuông họp chúng rồi gọi vị Tỳ 
		kheo có bệnh lên hỏi. Vị Tỳ kheo lên lễ Phật xong lui ngồi về một bên. Phật hỏi: - Quý tử bệnh gì? - Kính lạy đức Thế Tôn, vài hôm trước con mắc 
		chứng bệnh sốt, nhưng hôm nay đã bớt nhiều. Phật hỏi: - Hôm nay ngươi ăn món gì? - Bạch lạy Thế Tôn! Con ăn thịt và uống nước 
		thịt. - Ăn thịt tươi hay thịt khô? - Dạ con ăn thịt tươi! - Thịt tươi tức là thịt không để cách đêm. Phật nói: - Nghe đây! Bất luận tươi hay kho 
		trước khi ăn ngươi có hỏi tịnh hay bất tịnh không? - Dạ! Lạy đức Thế Tôn, bệnh con đau quá, được 
		thịt thì ăn ngay chứ không kịp hỏi. Phật nói: - Tỳ kheo tại sao lại dùng món ăn bất 
		tịnh? Phép của Tỳ kheo những món ăn của thí chủ, trước khi ta ăn phải 
		hỏi, đây là thịt gì? Nếu thí chủ nói: Đây là tịnh nhục, thì phải xem xét 
		có thể tin được mới ăn, nếu không tin được thì không ăn. Từ đấy Phật cấm các vị Tỳ kheo không được ăn 
		thịt bất tịnh như sau: Nếu Tỳ kheo nhìn thấy họ giết con vật ấy, thì 
		không được ăn. Nghe thấy tiếng nó kêu khi bị người giết, cũng 
		không được ăn. Nghi ngờ không được ăn. Như thế là phân biệt nên ăn hay không, khi đó Ưu 
		Ba Tư Na được tin Phật cấm các vị Tỳ kheo không được ăn thịt, chính bởi 
		tại mình, trong lòng phát sinh đau khổ, buồn phiền, bởi vì mình mà các 
		vị sư không được ăn thịt liền kêu chồng đến nói rằng: - Anh mạ Phật, Pháp, Tăng có tội lớn, ngày mai 
		anh mời Phật và chư Sư về nhà cúng dàng và sám hối, nếu anh nghe lời tôi 
		thì đi ngay, bằng không thì tôi sẽ tự sát thân tôi trước mặt anh cho 
		biết. Anh chàng vốn không có lòng kính tin Phật, sau 
		cũng vì sợ vợ tự tử, đáp rằng: - Vâng! Tôi xin tuân lời của cô, xin cô đừng nói 
		nữa, tôi sẽ đi mời Phật ngay bây giờ! Nói xong anh chàng đi ngay, tới thưa rằng: - Thưa Ngài Cồ Đàm Sa môn, ngày mai chúng tôi 
		xin mời Ngài, và mấy vị đệ tử đến nhà dùng cơm. Đức Phật thấy anh lỗ mãng vô lễ, Ngài Từ bi lẳng 
		lặng tỏ ý nhận lời. Anh chàng cũng biết Ngài nhận lời của mình, vái 
		tạ ra về, khi tới nhà nói với vợ rằng: - Ông Cù Đàm đã nhận lời mời của tôi rồi đấy! Ưu BaTư Na sai gia nhân sửa soạn các món ăn, 
		hương hoa, ghế ngồi trang trí trong nhà rất tôn nghiêm, sớm mai sai 
		người vào rừng mời Phật. Khi Phật và các vị Tỳ kheo đến nhà ngồi an tĩnh, 
		không thấy Ưu Ba Tư Na Ngài hỏi: - Ưu Ba Tư Na đâu? Không thấy ra chào? Anh chàng đáp: - Dạ! Đương bị đau bệnh nằm trong giường. Nói xong chạy vào phòng gọi: - Thầy cô gọi cô đó! - Anh ra bạch rằng: - Ưu Ba Tư Na lễ dưới chân 
		Phật và các vị Thánh Tăng, vì có bệnh đau quá không thể ra được, cúi xin 
		xá tội. Nhưng anh ăn nói cho có lễ độ mới được! Anh chàng ra thưa rằng: - Dạ! Thưa Ngài, Ưu Ba Tư Na lễ dưới chân Phật, 
		Pháp, Tăng, vì mang bệnh đau quá không thể ra chào được. Phật kêu: - A Nan - Dạ! Ông vào phòng gọi Ưu Ba Tư Na ra ta hỏi. - Dạ! Tôi vào tới phòng, Ưu Ba Tư Na cố gượng ngồi dậy 
		chắp tay nói: - Kính bạch Đại đức, con xin lễ dước chân Phật, 
		Pháp, Tăng, rất muốn ra yết kiến đức Thế Tôn, như kẻ đói được cơm, kẻ 
		rét được áo mặc, như khi nóng nực được mát mẻ, như kẻ lạc đường muốn về 
		lối cũ. Con muốn ra lễ kính Phật cũng như thế, tâm con khao khát, nhưng 
		thân con hiện giờ đau lắm không ra được! Kính xin Đại đức ra bạch Phật 
		hộ con. Tôi đi ra trình Phật những lời của Ưu Ba Tư Na 
		vừa nói, thì Phật bảo tôi rằng: - Ông cho người khiêng Ưu Ba Tư Na ra đây! - Dạ! Con xin tuân lệnh. Tôi bảo gia nhân khiêng đến trước Phật. Khi đó đức Như Lai phóng quang minh, ánh sáng 
		chiếu vào chúng sinh nào thì chúng sinh ấy được phần lợi ích, kẻ điên rồ 
		được an chính, kẻ loạn tâm được bình tĩnh, kẻ bệnh hoạn được hết bệnh 
		hoạn. Ưu Ba Tư Na nhờ oai thần của Phật ánh hào quang soi tỏ cõi lòng, 
		ngay giờ phút đó được lành mạnh hết đau. Ưu Ba Tư Na kính sợ vui mừng giao cảm, đứng lên 
		thụp lễ dưới chân đức Thế Tôn, lui ra cầm một cái bình bằng vàng lấy 
		nước rửa chân Phật, đặt các món ăn, sắc đẹp mầu thơm ngào ngạt dâng cúng 
		đức Thế Tôn và các hàng Thánh Tăng. Dùng cơm xong Phật thuyết về luận 
		"Bố thí", luật "Trì Giới", tu "Thập Thiện", quả báo sinh thiên, sinh tử 
		là tội lỗi của tham dục, muốn xuất ly sinh tử phải tu "Tịch Diệt", diệt 
		khổ được an vui, nói về Mười Hai Nhân Duyên luân duyển không dứt. Ưu Ba Tư Na nghe Phật thuyết pháp xong thì đoạn 
		tuyệt được lòng tham dục, giận tức, si mê, chứng quả "A na hàm". Người 
		chồng cô tự bỏ được tà kiến, biết tôn kính ngôi Tam bảo, và xin thụ giới 
		Ưu bà tắc, tất cả họ hàng quyến thuộc đều xin thụ Tam Quy Ngũ Giới. Bốn chúng đệ tử Phật, khi đó có người đắc quả Tu 
		đà hoàn, có người đắc quả Tư đà hàm, có người đắc quả A la hán, mọi 
		người ai nấy đều vui vẻ khát ngưỡng Pháp bảo Vô Lượng. Ngoài ra còn có nhiều người nghĩ như vầy: - Kẻ nữ nhân dám cả gan cắt thịt cúng dàng Sa 
		môn, thực là một chuyện chưa từng thấy bao giờ! Chúng ta nếu bỏ quê 
		hương nhà cửa, cũng là một việc khó. Sau đó những người dân bản xứ, có nhiều người bỏ 
		nhà cửa họ hàng đi xuất gia, chăm chỉ tư hành đoạn trừ kết lậu, thành 
		ngôi A la hán từ đó nơi thôn dã ấy nhiều người biết tin theo đạo Phật, 
		giáo pháp được lan rộng khắp nơi. Cũng bởi thế, những người có trí tuệ sáng suốg 
		cho đến kẻ nữ nhân cũng chăm tụng đọc kinh Phật, tinh siêng không biết 
		mỏi mệt, nên cũng nhiều người đắc quả. Kẻ trượng phu lòng chăm tu đạo, 
		há lại không thành công sao? Coi đây, các thiện nam tử, thiện nữ nhân cần 
		phải tu đạo nghiệp, sợ sinh tử khiến cho kết sử nhẹ bớt, có ngày sẽ lìa 
		được sinh tử, tuy đời mạt pháp chưa được độ song công đức ấy cũng được 
		sinh nhân thiên, hưởng phúc vô cùng tận. Ngài Di Lặc Thế Tôn cách năm mươi sáu ức bảy 
		ngàn muôn năm sẽ thành Phật thuyết pháp độ sinh, bấy giờ tùy lòng cầu 
		nguyện của mình muốn chứng đạo quả nào sẽ được đạo quả ấy. (Quyển Thứ Ba Hết) 
		Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ 
		Tư 18/ Phẩm thứ mười tám XUẤT GIA CÔNG ĐỨC CHÍNH tôi được nghe: Một thuở nọ đức Phật ở nước 
		Ma Già Đà, tại thành Vương Xá trong vườn Trúc Ca Lan Đà. Buổi thuyết pháp này đức Phật nói về công đức 
		xuất gia. Ngài nói rằng: - Nếu người nào cho con trai con gái, đứa ở trai 
		đứa ở gái, hoặc người dân hay chính mình đi xuất gia, công đức ấy thực 
		là vô biên nếu đem tỷ với phước báu của bố thí, dầu có được hưởng phúc 
		đến mười đời trên cõi nhân, cõi thiên cũng không bằng công đức cho một 
		người đi xuất gia hay tự mình đi xuất gia. Tại sao thế? Vì phúc báo bố thí chỉ có hạn định, 
		còn phúc xuất gia không có hạn định, nên không thể bì kịp, hoặc phúc báu 
		trì giới, hoặc phúc của các vị thần tiên có đủ năm phép thần thông, cho 
		đến phúc báu cùng tột của cõi trời Phạm Thiên, đem ví với phước báu xuất 
		gia trong Phật – Pháp cũng không sánh nổi, hơn nữa người xuất gia còn 
		được đạo Niết bàn, nên phước ấy không thể nói bàn cho xiết được. Giả như có người nào, xây tháp bằng Thất bảo, 
		cao tới cõi trời Đao Lợi, công đức ấy cũng chưa bằng cho người đi xuất 
		gia, vì tháp Thất bảo kia có ngày bị kẻ gian ác ngu si phá hủy. Muốn cầu một pháp lành, ngoài Phật Pháp ra không 
		còn pháp gì có thể cao hơn. Cũng tỷ như một trăm người, bị lòa đôi mắt, 
		gặp Thầy thuốc chữa lành sáng tỏ, hoặc trăm người bị tội móc mắt gặp 
		được người có sức hùng mạnh cứu thoát, phước cứu hai người nói trên, tuy 
		lớn nhưng không bằng cho một người đi xuất gia. Đức xuất gia cao cả, phước cứu hai người lành 
		đôi mắt chỉ được một đời, rồi đây nó cũng bị hoại. Cho người đi xuất gia, hay tự mình đi xuất gia, 
		sau khi được thành tựu quả Bồ đề họ sẽ đem giáo lý đạo Phật giáo hóa 
		chúng sinh, được con mắt trí tuệ muôn ngàn kiếp bất diệt, vì con mắt trí 
		tuệ không bao giờ bị hoại. Những người được hưởng phúc trong cõi nhân cõi 
		thiên, chỉ phóng túng say mê về dục vọng, họ không có con mắt trí tuệ 
		nhận xét: Nó là giả dối, không sự thật, nó là hố lửa sâu, thui đốt con 
		người ngu si tham vọng, nó làm hầm cạm bẫy đưa dắt người vào nơi ác thú 
		luân hồi. Pháp xuất gia tiêu diệt họ hàng nhà ma, làm lợi 
		ích cho dòng xuất thế của Phật Pháp, nuôi thiện pháp, trừ tội cấu, thêm 
		phúc lành, được thành Phật. Đức Phật nói: - Công đức xuất gia cao như núi Tu 
		Di, sâu như biển cả, rộng như hư không. Những ai làm cản trở người phát tâm đi xuất gia, 
		kẻ đó sẻ bị tội đọa vào Địa ngục hắc ám, và không có mắt, cũng ví như 
		tất cả các nước sông lớn sông nhỏ, ngòi, lạch, suối, ao, đều chảy về 
		biển, tội báo của kẻ đó cũng thế, những tội ác chất ở thân kẻ đó cũng ví 
		như núi Tu Di bị thời tai kiếp đốt cháy tiêu tan, kẻ đó vào Địa ngục hỏa 
		thiêu vô thời hạn, cũng như vị thuốc độc Ca Lưu Lâu Hê Ni đem tỉ với vị 
		thạch, một sự báo ứng của thiện ác cũng thế. Cho người đi xuất gia, hay chính mình đi xuất 
		gia, công đức như trời xanh, như biển thẳm. Người xuất gia lấy kinh điển 
		làm nước, để rửa những cấu nhơ của nghiệp kiết sử, trừ bỏ được khổ, 
		sinh, già, bệnh, chết, và làm cái nhân của đạo Niết bàn, lấy giới làm 
		chân bước lên đất thanh tịnh trang nghiêm, lấy luật làm mắt để coi xem 
		những thiện ác của thế gian, đi trên đường Bát Chánh tới thành Niết bàn, 
		vì những lợi ích ấy nên cho người đi xuất gia, hay tự mình đi xuất gia. Thời đó có một Trưởng giả tên là Thi Lợi Bí Đề 
		(Tàu dịch là Phúc Tăng) tuổi đã một trăm, nghe biết người ta thuật lại 
		công đức xuất gia cao cả như vậy, ông thầm nghĩ như vầy: - Ta nay tuổi đã già yếu đối với việc xuất gia 
		tu đạo trong Phật Pháp, phúc đức lớn lao, sao lại không xuất gia chả 
		uổng lắm ư? Nghĩ xong gọi vợ con lên bảo: - Bà và các con ở nhà làm ăn, tôi muốn đi xuất 
		gia tu đạo, có vui lòng không? Ông lão này vợ con đều ghét bỏ, vì ông chỉ ăn 
		hại, không làm được việc gì, lại hay bẳn gắt, nên họ đều mừng và trả 
		lời: - Dạ! Phải, nguyện ông đi cho rồi, đi sớm được 
		giờ phút nào, là hay cho lũ tôi giờ phút đó! Ông lên đường đi hỏi thăm đến vườn Trúc nơi đức 
		Thế Tôn ngự. Tới nơi không may ngày đó Phật đi vắng, ông vào hỏi các vị 
		Tỳ kheo rằng: - Bạch Đại đức, Phật Ngài ngự phòng nào, xin chỉ 
		giùm tôi? - Đức Thế Tôn, Ngài đi giáo hóa nơi khác không 
		có ở nhà! - Bạch Đại đức, Phật đi vắng thì vị Thượng túc 
		của Ngài là ai? Các vị đều chỉ tay đến chỗ Ngài Xá Lợi Phất, ông 
		lão lọm khọm chống gậy tới, bỏ gậy xuống đất chắp tay làm lễ thưa rằng: - Bạch lạy Đại đức Thế Tôn giả con một lòng 
		thành kính tới đây xin xuất gia học đạo, cúi xin Ngài Từ bi thâu nạp, 
		được đội ơn vạn bội! Ngài Xá Lợi Phất đưa mắt nhìn xong tự nghĩ rằng: Người này già yếu, học hỏi, tọa thiền, trợ việc 
		chúng, trong ba việc, không làm được một, có tu cũng vô ích. Nghĩ rồi đáp rằng: - Ông già yếu lắm rồi, không 
		thể xuất gia được. Sau ông đi thưa với Ngài Ca Diếp, Ngài Ưu Ba Ly, 
		Ngài A Nâu Lâu Đà, cuối cùng đến năm trăm vị La Hán, các vị đều hỏi: - Ông đã thưa với vị nào chưa? Ông đều thưa với các vị rằng: - Trước hết con hướng đức Thế Tôn, nhưng Ngài 
		không có ở Tinh xá, con có thưa với Ngài Tôn giả Xá Lợi Phất, Ngài nói 
		rằng ông già yếu lắm rồi, không thể xuất gia được. Thì các vị đều trả 
		lời rằng: - Ngài Xá Lợi Phất là một vị trí tuệ thứ nhất, 
		còn không dám thâu nạp vào hàng xuất gia, ta cũng thế, cũng tỷ như một 
		ông Thầy thuốc giỏi, biết bệnh nhân không thể chữa được, ngoài ra các 
		Thầy lang khác cũng phải khoanh tay, còn chữa sao nổi, độ sao được! Có lẽ ông lão này tử tướng đã xuất hiện, nên 
		Ngài Xá Lợi Phất không độ, cho đến các vị Tỳ kheo cũng từ chối. Ông Thi Lợi Bí Đề xin xuất gia không được, trở 
		ra ngoài ngõ Trúc viên than khóc một mình rồi lẩm bẩm nói: - Ta từ thuở sinh làm người đến nay, chưa làm 
		một lỗi gì lớn, thế mà tại sao chỉ riêng một mình ta không được xuất 
		gia? Ông Ưu Ba Ly là người bần tiện, ông Ni Đề là người hốt phân thuê, 
		ông Ương Quật Ma La là kẻ giết người rất nhiều, ông Đà Tắc Ky là kẻ ác 
		nhân làm giặc, mà còn được xuất gia? Vậy mình có tội gì không được xuất 
		gia? Đương phàn nàn một mình, hốt nhiên thấy Phật 
		đứng ở trước mặt, ông nhìn thấy quang minh chói sáng, tướng mạo đoan 
		nghiêm, tựa như vua Thiên Đế Thích trên cung trời Đao Lợi. Phật hỏi: - Thi Lợi Bí Đề làm sao khóc? Ông vui mừng quá! Vội vàng cúi đầu lễ dưới chân 
		khóc mà bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Có những chúng sinh: Kẻ 
		giết người, kẻ làm giặc, kẻ nói dối, kẻ phỉ báng, kẻ hạ tiện, những kẻ 
		đó đều được xuất gia, con xét thân con từ thuở sinh làm người đến nay đã 
		một trăm tuổi chưa từng làm điều gì ác, mà các vị Tỳ kheo không thâu 
		nhập cho con được xuất gia! Bạch lạy đức Thế Tôn! Ở nhà thì vợ con ghét 
		bỏ, đến đây nương bóng Từ bi Ngài không có ở Tinh xá, các vị Tỳ kheo cho 
		con già quá không nhận, bây giờ về cũng khốn nên con muốn bỏ mạng ở nơi 
		đây. Phật hỏi: - Ai nói người này trẻ được xuất gia 
		kẻ kia già không được xuất gia? - Kính lạy đức Thế Tôn, Ngài Thượng túc Xá Lợi 
		Phất! Ngài an ủi ông rằng: - Thôi chớ buồn nữa, ta sẽ cho xuất gia tu học, 
		ông Xá Lợi Phất khôngphải là một người đã chăm làm những hạnh khổ trong 
		ba đại kiếp A tăng kỳ và đã tu phúc trong trăm kiếp, ông không phải đời 
		ấy đời khác đã chăm làm những việc rất khó, như: Chặt đầu móc mắt, chẻ 
		xương lấy tủy, óc, cắt thịt chọc tiết, lột da, chẻ xương chân tay, cắt 
		cái mũi bố thí; ông không phải là người đã đem mình cứu hổ đói nhảy 
		xuống hố lửa sâu, đóng trên mình một ngàn cái đinh để cầu nghe đạo, 
		khoét mình ra một ngàn lỗ để đốt đèn; ông không phải là người đã đem 
		quốc, thành thê, tử, nô tỳ, voi, ngựa, Thất bảo ra bố thí, ông không 
		phải là người kiếp sơ A tăng kỳ cúng dàng tám vạn tám ngàn đức Phật, 
		kiếp hậu A tăng kỳ cúng dàng mười vạn ức đức Phật, xuất gia giữ giới đầy 
		đủ đối với pháp tự tại ông Xá Lợi Phất không có thể nói: Người này được 
		xuất gia, hay kẻ kia không được xuất gia, Ta một người đối với pháp tự 
		tại cỡi xe Lục độ, mặc áo giáp Nhẫn Nhục, ngồi tòa Kim Cương, dưới cội 
		cây Bồ đề hàng phục Ma Vương thành ngôi Vô thượng Pháp Vương, không ai 
		bằng ta, người an tâm theo ta về Tinh xá, ta sẽ cho xuất gia. Đức Thế Tôn an ủi xong làm cho nỗi phiền não của 
		ông được tiêu tan, trong lòng vui vẻ sạch lâng! Theo sau Phật về. Khi về tới Tinh xá đức Phật, gọi ông đại Mục 
		Kiền Liên giao cho phải chịu trách nghiệm dạy bảo và thế phát làm lễ 
		xuất gia. Vì Đức Phật, Ngài có con mắt trí tuệ nhận thấy 
		những chúng sinh có duyên với người nào thì người ấy mới độ được. Tỷ như 
		người có duyên với Phật thì Phật độ cho họ, người khác không độ được, 
		người có duyên với người khác thì người khác độ, Phật không độ được, 
		người có duyên với Ngài Xá Lợi Phất thì Ngài Xá Lợi Phát độ cho họ, chứ 
		Ngài Mục Liên, Ngài Ca Diếp, Ngài A Na Luật, Ngài Kim Tỳ La và tất cả vị 
		Thanh văn sao độ cho họ được, vì họ không có duyên với các vị. Nói tóm 
		lại những người có duyên với mình, thì mình độ, không có duyên thì không 
		thể độ được. Ngài Mục Liên vâng lời Phật lãnh trách nhiệm, 
		rồi thầm nghĩ như vậy: - Ông lão này niên cao già yếu, tụng kinh, tọa 
		thiền, trợ việc chúng ba việc không được một. Song Phật đã giao cho, ta 
		lẽ nào dám trái mạng. Sau ít bữa thế phát đăng đàn thọ giới cụ túc. Tuy thế nhưng ông lão đã có trồng nhân lành với 
		Phật Pháp từ đời quá khứ, đã từng tu tập các công đức, các pháp môn của 
		Phật giáo, nên kiếp này tuy xuất gia muộn, nhưng sự tinh anh học hiểu 
		rất mau chóng. Từ khi ông được thế phát xuất gia làm Sa môn 
		ngày đêm cố gắng tu tập nghe rành hiểu rõ, nên chẳng bao lâu đã khai 
		ngộ. Hiềm vì tuổi già sức yếu nên oai nghi lễ kính 
		đối với các Thượng tọa không đủ bổn phận, các vị niên thiếu Tỳ kheo, 
		thấy ông có những hành vi thô tháo, không có lễ độ nhà thiền, cũng có 
		khi răn bảo hoặc quở trách, thì ông lại kiêu căng tự đại, cậy mình niên 
		cao học rộng, không chịu cung kính thừa sự. Thấy các vị có cử chỉ đối 
		với mình như vậy, ông thầm nghĩ vầy: - Ta ở tại gia vợ con ghét bỏ xúc não, nay đi 
		xuất gia, mong được chỗ an vui, qua con mắt trái ngược nơi tục lụy, ai 
		ngờ lại bị các Tỳ kheo niên thiếu khinh miệt, không biết ta phải tội gì 
		đến thế, lại thêm nghiệp phiền não cho ta, thà bỏ mạng cho qua đời là 
		hết chuyện. Ông liền đi sang khu rừng, bên đó có một con 
		sông, vừa sâu vừa chảy mạnh, cởi áo Cà sa vắt trên cành cây, quỳ thẳng 
		chắp tay hướng lên tấm áo khóc mà thề rằng: - Con xin bỏ mạng nơi đây, nhưng không bỏ Phật, 
		Pháp, Tăng, cái áo của con đây, xin dâng cúng các vị Tỳ kheo trì giới 
		thanh tịnh tinh tiến tu hành, nguyện xả thân này, được sinh vào nhà phú 
		quý vui vẻ! Họ hòa thuận không làm ngăn cản những thiện pháp con muốn 
		làm, và được gặp ngôi Tam bảo xuất gia tu đạo, đắc ngộ minh sư thiện 
		hữu, chỉ bảo cho những ý nghĩa lý sâu huyền tu chứng thành công trên 
		đường giải thoát an lạc. Thế rồi, ông nhảy xuống sông. Khi đó Ngài Mục 
		Kiền Liên ở trong rừng Trúc, dùng thiên nhãn nhìn xem ông đệ tử già mình 
		làm gì, chợt thấy ông nhảy xuống sông, Ngài dùng lực thần túc vớt ông 
		lên bờ, rồi bay tới tận nơi hỏi: - Pháp Tử làm gì thế? Thi Lợi Bí Đề ngửa mặt nhìn thấy Thầy, thẹn hổ 
		quá! Và cũng không biết dùng lời lẽ gì để thưa cùng Thầy, ông thầm nghĩ: - Ta không nên nói dối Thầy, đời đời bị tội 
		không lưỡi. Song Thầy ta có thần thông biết trước, nếu ta nói dối Thầy 
		ta cũng biết. Trên đời những người có trí tuệ thông mình tính chất thật 
		thà ngay thẳng, các ông trời còn phải kính trọng, nếu người có trí tuệ 
		mà tâm siểm dối, cũng làm nhân sư và được người ta cúng dàng, người 
		không có trí tuệ mà tâm ngay thẳng, tuy không giúp được người, nhưng đã 
		tự cứu được mình, nếu kẻ vừa ngu si vừa siểm nịnh lừa dối thì bị người 
		ta khinh rẻ chê bai, là đồ hèn hạ, dẫu có nói gì người ta đều cho là kẻ 
		lừa bịp không thật, nếu có nói thật đi nữa người ta cũng không tin dùng, 
		ấy thế nếu nói dối Thầy dĩ nhiên không hay cho bản thân ta. Thưa rằng: - Bạch Thầy con đã chán cái cảnh tục 
		lụy, đi xuất gia để cầu an lạc, trái lại không thấy an lạc, mà chỉ thấy 
		phiền não nhiều! Vì thế con muốn bỏ mạng ở đây, xin Thầy xá tội! Ngài Mục Liên thầm nghĩ: - Ông lão này nếu ta không dùng một phương pháp 
		sợ hãi thì đối với việc xuất gia của ông không kết quả. Nghĩ xong nói: Pháp Tử hãy nắm chặt lấy góc áo 
		Cà sa của ta, khi bay lên hư không phải chính niệm chớ có loạn tưởng. - Dạ! Thầy dạy con xin tuân mạng. Ông nắm áo cẩn thận, Ngài bay vút lên hư không 
		như cơn gió thổi mạnh, ông đệ tử nắm áo Ngài, cũng như luồng gió cuốn 
		bụi, như chiếc bông bay trên không gian. Chỉ một chớp loáng đã tới biển 
		cả. Ngài hạ chân xuống bãi, hai Thầy trò đi trên bãi biển, gặp một người 
		con gái mới chết nằm phơi thây dưới ánh mặt trời, ruồi nhặng ào ào bâu 
		kín, nhìn thấy một con trùng bò ra rồi chui vào lỗ mũi, sau lại luồn ra 
		hai mắt, qua mắt rút vào lỗ tai, coi rất ghê sợ. Ngài đứng lại lập phép 
		quán tưởng, quán xong lại đi. - Bạch Hòa thượng! Người con gái này vì lý do gì 
		chết tại đây? Lại có con trùng bò ra, rúc vào như vậy? - Một lát ta sẽ nói cho hay! Hai Thầy trò đi được vài dặm, gặp một nguời con 
		gái, đội cái vạc bằng đồng đến mé biển đổ nước đầy lửa đun sôi sùng sục, 
		cởi áo nhảy vào trong vạc nước sôi ấy, tóc lông rụng hết, chân tay rã 
		rời, xương thịt tả tơi, nhừ nát thân thể, nước sôi mạnh quá làm cho 
		xương thịt tung hết ra ngoài, gặp một cơn gió làm cho da thịt chắp liền 
		với nhau, thành lại hình người như cũ, người con gái ấy cứ xé thịt mình 
		ra, rồi bỏ vào mồm ăn như ngon lành lắm. Ông đệ tử già sợ quá hỏi: - Bạch Hòa thượng, cô này tội gì như vậy, xin 
		Thầy nói cho con được rõ? - Hãy khoan! Lát nữa ta nói cho hay! Hai Thầy trò đi khoảng vài dặm, thấy một thân 
		cây to lớn, có rất nhiều sâu bám kín, cho đến cành lá chỗ nào cũng có 
		sâu ăn rúc, lại nghe thấy tiếng kêu khóc! Làm cho chấn động, như tiếng 
		kêu trong Địa ngục, sợ quá! Hỏi: - Bạch Hòa thượng tiếng kêu đó là những người 
		nào, tại nguyên nhân gì? - Hãy khoan! Rồi ta sẽ nói. Thầy trò lại bắt đầu đi, vừa được một lát, thấy 
		một quả núi lớn có rất nhiều dao kiếm nhọn sắc, cắm ngược mũi lên trời, 
		tua tủa như các hàng cây mọc, lại thấy một người nằm lăn mình từ trên 
		đỉnh núi xuống đến chân, thân thể người ấy bị dao kiếm đâm nát tươm, máu 
		chảy lênh lánh coi rất rùng rợn, hoặc có cái dao, cái kiếm nào bị đổ, 
		người ấy lại dựng đứng lên như cũ, rồi bắt đầu trèo lên đỉnh núi lăn như 
		trước, cứ như thế mãi không thôi. Sợ quá! Hỏi: - Bạch Hòa thượng người này tại sao 
		khổ như thế? - Hãy khoan, tới thời ta sẽ nói! Qua quả núi này thấy một người con trai to lớn, 
		chung quanh mình mọc hình những đầu các con thú rất ghê gớm, lại thấy 
		các quỷ thần ác, tay cầm cung hoặc nỏ, mỗi cái tên có ba ngạnh, đầu bịt 
		sắt nhọn có thuốc độc, và cháy đỏ, họ thi nhau, tranh nhau bắn người con 
		trai ấy, thân thể cháy xám đen, kêu la thảm thiết! Sợ quá hỏi: - Bạch Hòa thượng! Người này phải 
		tội gì như vậy? - Hãy khoan, rồi ta sẽ nói. Thầy trò đi được vài dặm thấy một quả núi lớn, 
		núi này thuần xương không có đất đá, cao tới bảy trăm do tuần, che khí 
		sáng mặt trời, làm cho khoảnh bể ấy vị tối om, Thầy trò trèo lên đi trên 
		sườn núi một cách dạo chơi ung dung, thong thả. Thi Lợi Bí Đề tự nghĩ, 
		giờ đây ta hỏi những việc vừa qua có lẽ Thầy ta nói, nghĩ xong hỏi: - Bạch Hòa thượng! Xin thuật lại những chuyện 
		việc vừa qua cho con rõ ư. - Pháp Tử để ý nghe cho kỹ, ta sẽ nói cho rõ 
		nguyên nhân các câu chuyện vừa qua cho biết. - Dạ con xin chú ý nghe. Đầu tiên người con gái chết nằm trên bãi biển: 
		Cô đó vợ của anh Tát Bạc người nước Xá Vệ có nhan sắc đẹp, nên anh chồng 
		cô yêu mến lắm. Tát Bạc đi buôn, vì quá yêu vợ, nên anh đưa vợ đi buôn, 
		cùng với năm trăm người khách buôn ra biển. Cô này hay điểm tô má phấn 
		môi son trâm gài, lược giắt ra ngắm vào vuốt, soi gương nhìn thấy mặt 
		đẹp khởi lòng kiêu mạn lại thêm ham mến cái đẹp của mình. Thuyền đương 
		đi gặp phải con rùa lớn, nó đạp thuyền bị thủng đắm chìm dưới đáy biển, 
		mọi người đều bị chết cả, biển không chứa tử thi. Vì thế các quỷ Dạ xoa, 
		quỷ La sát làm sóng gió đánh giạt những thây ấy lên bờ, chúng sinh tùy 
		theo tâm ái luyến và lòng tưởng niệm khi chết sẽ bị đọa vào nơi ước muốn 
		ấy. Cô này vì yêu sắc đẹp của mặt mình, tiếc sắc đẹp nên bị đọa làm con 
		trùng để coi cái bộ mặt, thế cho nên con trùng cứ vơ vẩn từ mồm rúc ra, 
		lại luồn qua mũi sang tai, vào mắt, mà không được giải thoát. Nếu ai hỏi: Cứ theo tâm ái luyến tham trược đâu, 
		thì sinh nơi đó, vậy ai yêu Địa ngục làm chi, mà vào Địa ngục cho khổ, 
		thì trả lời họ rằng: - Kẻ nào lúc bình sinh ăn trộm tiền của Tam bảo 
		hoặc của cha mẹ, hoặc sát nhân, tội ấy rất lớn phải đọa vào địa ngục hỏa 
		thiêu. Kẻ đó trước hết mắc phải bệnh phong hàn lãnh, làm cho bức não 
		thân tâm, trong lúc óc bệnh luôn luôn nghĩ đến nóng vì trong người lạnh, 
		nên muốn tìm đến chỗ có lửa, đương khi tưởng niệm thì chết, hồn trút 
		khỏi xác, tất nhiên nó sẽ theo lòng tưởng niệm mà đọa vào hỏa ngục. Nếu kẻ nào ăn trộm đèn thờ Phật cùng các đồ vật 
		khác, hoặc của chư Tăng đèn đuốc, củi cỏ, hoặc phá phòng Tăng, giảng 
		đường, hoặc mùa đông rét mướt lột áo của người, hoặc cậy thế lực, trời 
		rét lấy nước hành phạt người bằng cách dội nước lên đầu, khiến người ta 
		chết rét, hoặc cướp trộm lột áo người ta. Tội báo ấy sẽ bị đọa vào địa 
		ngực hàn băng. Trước hết kẻ đó bị chứng bệnh nhiệt, làm nóng 
		sốt thân thể cường nhiệt luôn luôn nghĩ đến giá lạnh, trong khi tưởng 
		niệm ấy thì chết, hồn trút khỏi xác liền đọa vào Địa ngục lạnh, như Địa 
		ngục: Ưu Bát La, Bát Đâu Ma, Câu Vật Đà, Phan Đà Lợi v.v… trong những 
		ngục hàn lãnh này, kẻ tội nhân lạnh buốt, thân thể khô khan như hạt đậu 
		rang, óc tủy như gạo rang, xương đầu tan vụn ra trăm ngàn muôn phần, 
		xương mình gãy nát như tên vót nhọn. Nếu kẻ nào mang lòng tham xẻn giựt của người, 
		làm cho người ta chết đói, đói hoặc ăn uống không có thời tiết, kẻ ấy sẽ 
		đọa vào loài quỉ đói, trước hết mắc phải bệnh khí, bụng đầy, ăn uống 
		không tiêu, Thầy thuốc xem bệnh lấy những thức ăn dỗ dành: Thứ này ngon, 
		thứ này ngọt, thứ này chua, để dễ tiêu, ngươi cố gắng ăn đi thì bệnh sẽ 
		khỏi. Kẻ bệnh nhân ấy tự phát lòng nóng giận nói: - Tôi ghê lắm! Tôi sợ 
		lắm! Bao giờ cho con mắt tôi không trông thấy các món ăn này, trong lúc 
		đương tưởng niệm ấy thì chết, hồn trút khỏi xác cứ theo tâm tư tưởng, ấy 
		đọa vào quỉ đói (Ngạ quỉ). Cũng có kẻ ngu si không tin ngôi Tam bảo, hoặc 
		phỉ báng hoặc khinh hủy, không theo đúng đạo làm người: Cha con hoặc mẹ 
		con, anh em, tông thân dâm dục hỗn độn không phân biệt, hoặc bất hiếu 
		không tin tội phúc vân vân… Khi ốm nằm tựa như con chó, co quắp không thẳng, 
		đó là do nghiệp sử nhiên, không muốn nghe lời nói lành. Cha mẹ anh em họ 
		biết rằng: Bệnh nhân phải chết, họ khuyên rằng: - Tụng kinh cho ngươi nhé! Quy y Phật cho ngươi 
		nhé! Ngươi nên ngắm kính hình tượng Phật và mời chư Tăng về thuyết pháp 
		cho ngươi nghe nhé, ngươi chịu khó niệm Phật cho khỏi tội lỗi được nhiều 
		phúc đức, những của vật này đem bố thí cầu phước cho ngươi nhé! Khuyên thế, nhưng tâm kẻ đó vẫn không vui vẻ! 
		Lại sân nộ ác ý nói: Tôi nguyện rằng "không bao giờ nghe thấy những lời 
		nói như vậy, đối với tôi, là không có gì hết, không phúc đức chi hết, 
		chết là hết". Kẻ đó chết, hồn trút khỏi xác đọa vào loài Súc 
		sanh, vì Súc sanh không có văn hóa, đạo đức, không tôn thân cha mẹ, anh 
		em, cũng do tâm niệm của họ gây nên cả. Nếu ai ham tu điều lành, trồng nhân cõi người, 
		giữ năm giới, người ấy sẽ không bị bệnh hoạn làm bức bách thân tâm tới 
		khi chết tâm ý không rối loạn, biết rằng sắp chết, nên anh em họ khuyên 
		rằng: Người muốn nghe Kinh Pháp không? Muốn ngắm hình 
		tượng Phật không? Muốn gặp chư Tăng nghe thuyết pháp không? Muốn thọ 
		trai thọ giới không? Muốn cúng dàng Tam bảo không? Bệnh nhân đáp: - Hay lắm! Tôi muốn như thế lắm! Họ lại nói tiếp cho nghe: - Tụng kinh ngắm hình Phật, sẽ được thành Phật 
		đạo; cúng dàng in kinh Pháp, sinh nơi nào cũng có trí tuệ cao sáng hiểu 
		thấu các pháp tướng; cúng dàng Tăng, sinh nơi nào cũng được giàu sang 
		sung sướng, ý muốn dùng gì cũng đầy đủ. Bệnh nhân nghe xong sung sướng phát nguyện rằng: - Nguyện cho con sinh nơi nào cũng được gặp ngôi 
		Tam bảo nghe Pháp ngộ đạo. Người đó khi chết được sinh làm người, nếu người 
		nào trồng nhân thập thiện để cầu sinh thiên hoặc trì giới thanh tịnh làm 
		hạnh bố thí ham nghe kinh Pháp, chăm tu mười điều: Không sát sinh, không 
		trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không 
		nói ác, không gận tức, không ngu si, người ấy lúc mệnh chung được an vui 
		và nằm ngửa, được nhìn thấy hình tướng Phật, và nghe nhạc trời, nhan sắc 
		hòa vui, cất tay hướng lên, phút cuối cùng tắt thở hồn bay lên Trời. Đây vợ Tát Bác vì ham luyến cái sắc đẹp của 
		mình, cho nên lúc chết, phải sinh làm con trùng, ở ngay xác chết của 
		mình, sau khi bỏ thân trùng phải đọa vào Địa ngục chịu khổ vô cùng. - Bạch Hòa thượng! Kẻ thiếu phụ tự ăn thịt của 
		mình căn nguyên tại sao xin nói cho con được rõ? - Người này ở nước Xá Vệ là đứa ở gái của một 
		người Ưu bà di. Người Ưu bà di này, nguyện cúng dàng một vị Tỳ kheo trì 
		giới thanh tịnh trong một khóa an cư là chín mươi ngày, làm riêng một 
		căn nhà, cho vị đó ở, hàng ngày sửa soạn các món ăn ngon lành thơm sạch, 
		tới bữa ăn sai đứa ở gái dâng Ngài, xong các món ăn ngon nó đều sơi hết, 
		chỉ dâng Ngài các món thừa thải không ngon. Qua một thời gian, Ưu bà di thấy nhan sắc nó béo 
		tốt đẹp đẽ, hỏi: - Mi ăn vụng các món ăn của Thầy ta hay sao độ 
		này mập mạp vậy? - Thưa bà đâu có, con cũng tin tội phúc chứ, con 
		đây không phải là kẻ tà kiến đâu, có lẽ nào con dám ăn trước, Thầy ăn 
		xong có còn thừa cho con, con mới dám ăn! Con thề rằng: Nếu con ăn trước 
		Thầy thì đời đời con phải tự ăn thịt của con. - Pháp Tử nên biết! Chính đứa ở gái ăn vụng thức 
		ăn của vị Tỳ kheo, sau chối và thề nguyện nên phải thụ quả báo tự ăn 
		thịt mình. Như nay tức là Hoa báo, sau phải đọa vào Địa ngục, lúc bấy 
		giờ mới chính là quả báo, khổ đau vô cùng tận, nói không xiết. - Bạch Hòa thượng còn cây to lớn có những con 
		trùng ăn rúc, tiếng kêu dữ dội như thế là do nhân duyên gì? - Đó là một vị Tỳ kheo giữ của thường trụ, tên 
		là Lại Lợi Cha, lấy của thường trụ và những hoa quả, thức ăn uống cho 
		anh em họ hàng và người bạch y, những người ấy sau khi chết, phải đọa 
		vào Địa ngục lớn làm những con trùng con sâu này để ăn rúc thân cây, còn 
		thân cây này, là vị Tỳ kheo nói trên (Lại Lợi Cha). - Bạch Hòa thượng! Cái người bị bắn kêu khóc lửa 
		cháy cả toàn thân đó là vì tội gì như vậy? - Người này lúc sinh thời, là một gã đi săn, sát 
		hại các loại cầm thú, bởi tội ấy chết phải đọa xuống địa ngực, chịu khổ 
		báo như vậy, chưa biết ngày nào được thoát! Bạch Hòa thượng, cái người lăn từ trên đỉnh núi 
		xuống, máu me đẫm mình, họ tạo tác tội gì, xin nói cho con được rõ? Người này ở thành Vương Xá, là một ông Đại Tướng 
		đi tiên phong sát hại nhân dân, giết người không nhởn, vì thế phải tội 
		báo này, sau phải đọa vào đại Địa ngục chịu lấy sự thống khổ vô thời 
		hạn. - Bạch Hòa thượng, còn cái núi xương đây là gì? - Núi xương này là con cá Ma Kiệt, chính nó là 
		tiền thân của ông, vì ngươi còn là phàm phu, cách ấm bị mê, nên không 
		biết đấy thôi! Thi Lợi Bí Đề nghe xong tâm hồn thổn thức, sợ 
		hãi thưa rằng: - Bạch Hòa thượng tâm hồn con còn mê tối hông 
		hiểu biết, cúi xin Hòa thượng nói cá nguyên nhân tội gì con phải làm 
		thân cá? - Pháp Tử nên biết, sinh tử luân chuyển không có 
		bờ bến, nhưng đối với nghiệp báo của thiện ác thì không sai lạc, không 
		tài nào trốn thoát được, tạo nghiệp gì phải báo nghiệp đó. Đây từ đời 
		quá khứ, có một ông vua ở Châu Diêm Phù Đề, tên là Đàm Ma La Bí Đề (Tàu 
		dịch là Pháp Tăng). Ông chăm làm việc bố thí, giữ giới, nghe kinh, có 
		tâm Từ bi, tính không bạo ác, không bao giờ làm tổn thương đến tính mạng 
		của một loài nào. Xứng đáng một ông vua có đạo đức. Ông dùng chánh pháp 
		để trị dân, làm vua đã được hai mươi năm, đương buổi thừa nhàn đánh bạc 
		chơi vui, lúc ấy có người phạm tội sát nhân, quan tòa vào tâu rằng: - Tâu Bệ Hạ! Ngoài thành có kẻ phạm tội ghét 
		người, trị tội thế nào xin cho hạ thần được rõ? Nhà vua mãi chơi không suy xét rõ, đáp rằng: - Cứ theo quốc pháp mà trị tội. Theo quốc pháp, nếu kẻ nào mà giết người thì bị 
		tử hình, chiếu luật đem người đó ra xử trảm. Xong cuộc vui chơi nhà vua hỏi các quan rằng: - Kẻ tội nhân ấy nay ở đâu, để ta đoán quyết? - Theo quốc pháp, phạm nhân đã đem ra xử tử rồi. Nhà vua nghe nói giựt mình! Lo sợ ngã xuống đất, 
		tả hữu đỡ dậy hồi lâu tỉnh lại, thân phiền nói: - Các cung tần mỹ nữ, voi ngựa ở lại đây, riêng 
		ta phải vào Địa ngục chịu đau khổ một mình. Khi ta chưa làm vua thì cung 
		điện này cũng có người cai trị, chẳng bao lâu ta chết, cung này tiếp tục 
		cũng có người thống ngự, ta làm vua giết hại mạng người, đó là làm vua 
		đồ tể. Chẳng biết đời đời kiếp kiếp nó sẽ đưa ta đến chốn nào? Ta quyết 
		định không làm vua nữa, từ nay quyền chính giao cho các ông ở lại trông 
		coi việc nước, tôi vào núi để tu đạo, cầu giải thoát từ đây. Sau một thời gian, ông vua này chết phải đọa 
		sinh làm loài cá Ma Kiệt ở trên bể lớn thân dài bảy trăm do tuần. Các 
		ông vua kế vị và các ông quan đại thần nước ấy, cậy có quyền thế ức hiếp 
		nhân dân làm những điều tàn nhẫn, vợ bỏ chồng, con lìa cha, bóc lột dân 
		đen, sau khi chết bị đọa làm cá Ma Kiệt hết thảy, có những con vi trùng 
		ở trong vẩy rỉa rúc ăn thịt, đau như lưỡi câu sắt móc mình. Lúc bị cắn 
		đau sát mình vào núi pha lê làm cho những con trùng bị giập chết, máu 
		chảy đỏ ngầu trong trăm dặm bể, vì tội ấy chết phải đọa vào Địa ngục. 
		Những con cá này, cứ mỗi giấc ngủ là một trăm năm lúc tỉnh dậy đói quá 
		không có thức ăn phải há mồm cho nước biển thuyền bè tôm, cá chảy vào. 
		Giữa lúc há miệng thì có năm trăm người lái buôn trong thuyền vì nước 
		chảy mạnh quá nên chiếc thuyền này theo dòng trôi thẳng vào mồm cá. Mọi 
		người đều khủng khiếp lo sợ! Gào khóc la, kẻ niệm Phật, người cầu kinh, 
		kẻ kêu trời! Người khấn đất! Kẻ cầu thần! Cũng có người kêu gọi cha mẹ 
		vợ con! Rồi kể lể rằng: Hôm nay là phút cuối cùng Từ biệt cõi nhân gian 
		thôi! Thôi! Không bao giờ ta được thấy gia đình lần thứ hai nữa. Thuyền 
		sắp tới mồm cá, sự sợ hãi dồn dập vì thế nên nhiều người lớn tiếng niệm 
		"Nam Mô Phật". Cá Ma Kiệt nghe tiếng niệm Phật, động lòng Từ bi 
		ngậm mồm lại, nước hết chảy, thuyền được yên, mọi người thoát chết trong 
		mồm cá. Cũng vì thế nên cá bị chết đói, thần hồn được 
		sinh vào thành Vương Xá. Sau khi cá chết, quỷ Dạ xoa, La sát vứt con cá 
		ấy lên bãi biển, trải qua những ngày tháng mưa gió dãi dầu da thịt tiêu 
		tan còn đống xương tại đây. Lắng nghe, ông vua Pháp Tăng thuở đó nay 
		chính là Thi Lợi Bí Đề, bởi tội sát nhân phải đọa làm con cá Ma Kiệt ở 
		dưới bể này, nay đã được làm thân người sao không chán ghét sinh tử để 
		an tâm tu đạo giải thoát hay sao? Lại còn muốn chết ở nơi đây làm chi? 
		Nếu chết sẽ bị đọa vào Địa ngục, bấy giờ muốn ra cũng khó. Thi Lợi Bí Đề nghe Hòa thượng giảng thuyết xong 
		biết rõ thân cũ của mình tự xét biết sợ sinh tử, nhớ nghĩ phép tu, để 
		lòng chú ý quan sát đống xương cá là tiền thân của mình, thấu hiểu pháp 
		vô thường, chán lìa sinh tử, giữa giờ phút ấy được trút hết lậu, đắc quả 
		La Hán. Ngài Mục Kiền Liên hoan hỷ nói: - Pháp Tử, công việc của người làm đã được thành 
		tựu hãy theo đây nhân lực của ta, người tự dùng lấy thần túc mà đi. Nói xong, Ngài rướn mình lên hư không như chim 
		phượng hoàng vô cánh, ông Thi Lợi Bí Đề cũng bay theo sau, như chim mẹ 
		bay trước chim con bay sau, một lát đã tới rừng Trúc từ từ hạ xuống Tinh 
		xá. Các vị niên thiếu Tỳ kheo chưa biết ông đã đắc 
		đạo, nên các Ngài vẫn coi thường và có khi còn la mắng. Vì ông đắc đạo, 
		tâm đã điều thuận, nên vẫn êm đềm vui vẻ, không nói sao hết. Đức Phật thấy thế, muốn ngăn đón tâm ngã mạn của 
		các niên thiếu Tỳ kheo và muốn hiển dương cái đức của vị lão thành nên 
		giữa trong đại chúng Phật nói: - Thi Lợi Bí Đề hôm nay ra biển về phải không? - Dạ! Lạy đức Thế Tôn có đấy ạ! - Ra bể thấy những gì nói cho ta nghe? Thi Lợi Bí Đề cung kính trình bày những việc nói 
		trên cho Phật nghe. Phật nói: - Quí hóa! Hôm nay thấy sự thật như 
		vậy có lẽ từ nay ngươi được thoát cái khổ sinh tử, chứng đạo Niết bàn, 
		và có thể nạp thụ sự cúng dàng của người cõi nhân, cõi thiên, công việc 
		làm của Tỳ kheo ngươi đã được đầy đủ. Nghe Phật nói xong các niên thiếu Tỳ kheo vừa lo 
		vừa sợ, hối hận thầm nghĩ: - Chính ông lão này là người hiền nhân trí tuệ, 
		lũ ta thực không hiểu biết gì, từ trước đến nay tự cao tự đại, phải tội 
		phạm đến hiền giả, tội ấy không phải nhẹ, ta nên xin sám hối trước là 
		hơn! Các niên thiếu Tỳ kheo đều đứng dậy, tới trước 
		ông Thi Lợi Bí Đề năm thể chạm xuống đất bạch rằng: - Bạch Đại đức các thiện nhân sinh, lòng Từ bi 
		cũng sinh theo! Trước đây chúng tôi đối với Đại đức lầm lỗi, cúi xin Từ 
		bi xá bỏ, được ân triêm công đức. - Tôi đối với tất cả mọi người đều có thiện tâm, 
		hối quá có thể được lắm! Hay lắm! Ông Thi Lợi Bí Đề thấy các niên thiếu Tỳ kheo 
		còn có ý sợ sệt, nên ông thuyết pháp xuất ly sinh tử cho các vị nghe, từ 
		đó các Tỳ kheo gắng tiến tu hành, không lâu đã ngắt bỏ được lậu nghiệp 
		thành ngôi La Hán. Cũng do nhân duyên nay mà tiếng khen đồn khắp thành 
		Vương Xá. Thật lạ quá! Ông lão một trăm tuổi mới xuất gia 
		còn thành công đắc quả, thuyết pháp cao siêu thực là chưa từng có! Từ đó trong thành nhiều người cho con trai, con 
		gái, đứa ở trai, đứa ở gái đi xuất gia hoặc tự họ đi xuất gia. Công đức xuất gia vô lượng vô biên như thế! Ông 
		Thi Lợi Bí Đề đã một trăm tuổi mới xuất gia tu hành còn đắc đạo quả, 
		thành tựu công đức lớn lao, những ai đã luống tuổi tại sao không xuất 
		gia tu đạo, chăm chỉ tinh tiến tu hành để cầu một phúc báo vô biên ấy? 19/ Phẩm thứ mười chín SA DI HỘ GIỚI NGƯỜI đã thọ giới phải giữ giới, dầu cho mất 
		thân mạng cũng không nên phá giới. Tại sao? Giới là nền tảng của người 
		tu Đạo, là một lối đi vững chắc qua Trời Người lên cõi Phật, là một bí 
		pháp hết lậu nghiệp, là con đường thẳng vào thành Niết bàn, là chốn an 
		lạc giải thoát đời đời. Người giữ giới được thanh tịnh, công đức ấy vô 
		lượng vô biên; ví như biển lớn, sâu không đáy, rộng không bờ, thâu nạp 
		muôn loài, như A Tu La Ma Kiệt ngư, cùng tất cả các loài thủy tộc. Giới cũng như thế, thâu nạp những người tam 
		thừa, sinh trưởng ở đó. Biển lớn kia có rất nhiều vàng, bạc, ngọc lưu 
		ly, pha lê, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách. Nhân có giới mới sinh ra các pháp lành; bốn phi 
		thường, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, thiền, tam muội, giải thoát, giải 
		thoát tri kiến v.v… Bể lớn kia đáy bằng ngọc kim cương, chung quanh 
		bằng núi kim cương, có bốn sông lớn chảy vào luôn luôn, mà nước bể vẫn 
		không đầy vơi. Biển giới cũng thế, lấy giới làm đáy, lấy luận 
		làm núi vây quanh, bốn A hàm làm sông, muôn dòng nước chảy vào trong 
		bằng phẳng không thêm bớt. Tại sao các sông vẫn chảy vào biển, mà nước biển 
		vẫn không đầy? Vì sức lửa ở ngục A Tỳ bốc lên, nên nước biển vẫn không 
		đầy, các sông thường chảy ra biển, nên nước biển không bao giờ vơi. Biển giới của Phật Pháp cũng thế, không phóng 
		dật tham lam cảnh dục nên không tăng, đủ công đức nên không giảm. Như 
		thế biết rằng giữ giới là một công đức lớn lao. Sau thời Phật vào Niết bàn, nước An Đà có một vị 
		Tỳ kheo, tu hạnh Đầu Đà thích ở nơi vắng vẻ, oai nghi đầy đủ, giới đức 
		hoàn toàn. Khi Phật còn tại thế, Ngài thường khen các vị tu 
		hành Đầu Đà! Những vị Tỳ kheo tu hạnh Đầu Đà không hay ở 
		chung với Tăng chúng; vì những vị ấy ít lòng dục, tri túc, không bỏn xẻn 
		tham lam tích trữ, thường ngày đi xin ăn ngồi trơ trên mặt đất, không 
		nhà không cửa, ngày chỉ một bữa ăn, với một tấm áo là đủ, lại chăm tọa 
		thiền tụng kinh. Những người như thế rất đáng tôn trọng, mới xứng đáng 
		ngôi Pháp Vương tử. Trái lại những vị Tăng không có một trong đức 
		hạnh nói trên, phần nhiều chỉ đa dục, lòng tham không biết chán, súc 
		tích tiền của, tham lam tật đố, ghen ghét đầy lòng si ái mê muội, bởi 
		thế cho nên mất công đức lớn, khiến cho người dân chán ghét, có khi còn 
		làm cho người ta phỉ báng Tam bảo là khác. Vị Tỳ kheo nói trên đức hạnh thuận hòa, có đủ 
		lục thông, tam minh và tám phép giải thoát oai nghi đĩnh đạc, tiếng khen 
		vang dội muôn phương, đáng làm một vị Sa môn. Bấy giờ có một người Ưu bà tắc tin kính ngôi Tam 
		bảo, giữ năm điều răn cẩn thận, lại chăm bố thí tu đức, được nhiều người 
		khen ngợi. Ưu bà tắc nguyện chung thân cúng dàng vị Tỳ kheo nói trên. Phúc cúng dàng theo nhân hưởng quả: Nếu thỉnh 
		Tăng đến nhà cúng dàng các vị phải đi đường xa, hoặc nóng, lạnh, gió, 
		giá, rét, bị mỏi mệt xảy ra thì làm phế bỏ sự hành đạo của chư Tăng. 
		Người thí chủ sau có được hưởng quả báo tốt lành nhưng phải mệt nhọc, 
		còn các vị đi ngoài đường khất thực thì không kể, mới có thể được, phúc 
		báo ấy thì hơn, còn những vị tại chùa mình mang thức ăn lại nơi cúng 
		dàng thì lai sinh được hưởng phúc báo tự nhiên, không khó nhọc mà vật 
		chất tự nhiên đầy đủ tùy ý muốn. Ông Ưu bà tắc này vì lòng tin chắc chắn, nên ông 
		sai người mang đến tận nơi cúng dàng. Sa môn có bốn thứ hay dở khó nhận xét, cũng như 
		quả Am la xanh chín khó hiểu biết. - Cũng có vị Tỳ kheo coi tướng mạo oai nghi đĩnh 
		đạc, ung dung văn vẻ thế mà trong bụng đầy sân si, làm các hạnh phi pháp 
		phá giới. Tỷ như quả Am la ngoài vỏ coi chín đẹp, nhưng trong lòng sống 
		sượng. - Cũng có vị bề ngoài coi thô sơ, oai nghi tầm 
		thường bên trong có đầy đủ đức hạnh nào trí tuệ thiền định đạo đức. Cũng 
		như quả Am la trong chín, ngoài xanh. - Cũng có vị hình tướng cục mịch nói năng thô 
		lỗ, không có oai nghi đức độ, phá giới tạo ác, trong lòng dầy sân si, 
		ngã mạn tật đố tham dục. Cũng như quả Am la trong ngoài đều xanh. - Cũng có vị oai nghi nghiêm chỉnh giữ giới 
		thanh tịnh, bên trong đầy đủ đạo đức, trí tuệ rộng sâu, thiền định giải 
		thoát, cũng như quả Am la trong ngoài đều chín. Tại thành này có ông Trưởng giả tin kính ngôi 
		Tam bảo, sinh được cậu con trai, ông muốn cho cậu đi xuất gia và nghĩ 
		rằng: - Phải tìm một vị Minh Sư đạo đức học vấn tinh 
		thông, cho con mình nương theo, ở bầu thì tròn, ở ống thì dài, gần người 
		lành, thì phát sinh lòng lành, gần kẻ ác sẽ tập nhiễm thói ác. Ví như 
		gió không có thơm hôi, thổi qua rừng Thiên Đàn thì thấy gió thơm tho, 
		nếu thổi qua Thiêm Bặc thì thấy gió hôi thối, cũng như tấm áo sạch để ở 
		bồ hương, áo ấy sẽ thơm, nếu để chỗ hôi dĩ nhiên bị hôi. Gần bậc thiện 
		trí thức, tính tình cao thượng, gần kẻ hèn hạ lòng dạ xấu xa. Nghĩ như vậy rồi ông dẫn con đến vị Tỳ kheo nói 
		trên thưa rằng: - Bạch Đại đức! Cháu trai này là con của tôi, 
		muốn để xuất gia tu học, kính xin Đại đức Từ bi tế độ! Vị Tỳ kheo dùng đạo nhãn quan sát, xem căn khí 
		có lớn lao không? Có thể làm hưng long cho Phật giáo được không? Có thể 
		tu trì giới hạnh được không? Mới nhận lời, xem xong đáp: - Quý hóa! Ông cho cháu đi xuất gia để nối chí 
		Phật chủng, hay lắm tôi vui lòng tế độ! Trưởng giả vui mừng lễ tạ ra về. Đoạn này nói người Ưu bà tắc cúng dàng vị Tỳ 
		kheo: Một hôm Ưu bà tắc có người bạn thân rủ đi xem hội, ông muốn cho cả 
		nhà cùng đi, nhưng nghĩ "ai là người coi nhà, nếu bắt buộc một người ở 
		lại thì không đành lòng" ông họp gia đình lại nói rằng: - Mai đi xem hội, ai vui lòng ở lại coi nhà? Cô con gái của ông đáp: - Thưa cha! Con xin coi 
		nhà để cha mẹ và toàn gia đi xem hội! Ông vui vẻ nói: - Hay lắm! Con ở nhà trông nhà 
		cho cha, chớ đi chơi đâu nhé! Sáng ngày mai cả nhà đi hết, ông quên không dặn 
		con gái dâng cơm vị Tỳ kheo, cô đóng chặt cửa ngõ vào nhà ngồi xem sách, 
		đọc chuyện để giải buồn. Bữa cơm ngọ đã tới mặt trời chừng xế trưa. Vị Tỳ 
		kheo không thấy mang cơm đến, thầm nghĩ rằng: - Người trần tục bận nhiều công việc, hôm nay có 
		lẽ họ quên dâng cơm? Ngài gọi chú Sa di con ông Trưởng giả lại bảo: ợi tội phỉ báng phá giới phải đọa Địa ngục, ông 
		Chu Lợi Bàn Đặc chỉ tụng được câu kệ, vì giữ giới hoàn toàn nên được 
		chứng quả La Hán. Giới là lối vào đạo Niết bàn, là nhân thụ hưởng khoái 
		lạc, cõi trời cõi người. Tỷ như quy chế trường trai ba hoặc bốn tháng của 
		phái Bà la môn họ mời những vị cao minh giữ giới trong sạch trước hết họ 
		đưa cho mỗi vị một phong bao, trong để vị ngọt. Bọn ấy có một người tuy 
		học cao nhưng tính tình không được liêm khiết tham mùi ngọt ăn hết, tới 
		ngày nhập hội mọi người xuất trình phong bao để vào, ông này không có 
		phong bao cũng bước vào, người gác cửa hỏi: - Phong bao của ông đâu? - Có, nhưng đã ăn hết vị ngọt! - Thôi! Ông không được vào nữa, ông tham một 
		chút mùi ngọt thiệt hại cho ông bốn tháng các mùi thơm ngon và các trân 
		bảo khác, thôi ông đi ra! Cũng thế! Con vào thôn xóm chớ tham một việc 
		nhỏ, lỡ phá giới của tam thế chư Phật, thì mất các sự khoái lạc của năm 
		món dục, vui trong cõi nhân, thiên, và những Pháp bảo vô lậu ba mươi bảy 
		phẩm trợ đạo Niết bàn v.v…Phải nhớ! Chớ phá giới của tam thế chư Phật, 
		làm ô nhục cho Tam bảo cha mẹ, Sư Tăng - Dạ! Lạy Thầy con xin ghi nhớ! Sa di lễ tạ lui ra, mang bình đeo bát đến nhà 
		kia, gõ cửa. Cô gái chạy ra hỏi: - Ai gõ cửa đấy! Có việc gì? - Thưa! Tôi là Sa di lại lấy cơm về dâng Thầy! Cô ngó thấy Sa di đến vui vẻ bụng bảo dạ rằng: - Ta hằng mong ước được gặp, hôm nay thật là 
		toại nguyện cho ta lắm! Mở cửa chắp tay vái chào: - Mô Phật! Mời Ngài vào nhà con! Cô này xinh đẹp vô song, dong tư yểu điệu, năm 
		ấy mới mười sáu tuổi, vì tình yêu nồng nhiệt phát động lòng dâm dục mạnh 
		như lửa đốt! Cô làm ra vẻ õng ẹo, chớp mắt dương mi, lườm nguýt cười nói 
		lộ tướng dâm dục. Sa di nói: - Cô này có chứng bệnh phong hay sao? 
		Điên cuồng như vậy hay bệnh dương giản? Cô đáp: - Em không có bệnh chi hết! Sa di thầm nghĩ: - Cô gái này ý muốn phá hủy 
		giới đức thanh tịnh của ta đây, ta phải nhớ lời Thầy dạy: Cẩn thận giữ 
		oai nghi. Sa di vốn vững lòng không thay đổi ý chí, cô này lễ dưới chân 
		thưa rằng: - Bạch Ngài! Em luôn luôn ước nguyện được gặp 
		Ngài để ngỏ bày tâm sự, nhưng chưa gặp lúc nào vắng vẻ em tưởng tượng 
		Ngài có tâm thương em, nhà em giàu có vàng bạc đầy kho chẳng khác gì bảo 
		tàng của nhà vua Tỳ Sa môn Thiên Vương trên thượng giới, nhưng chưa có 
		người làm chủ. Vậy Ngài hãy ném lòng làm chủ nhà em, em cùng Ngài loan 
		phượng trăm năm, suốt đời em xin tôn kính hầu hạ, xin đừng từ chối để 
		mãn nguyện lòng mong ước của em. Sa di thầm nghĩ: - Ta có tội gì gặp các duyên 
		này? Ta thà chết ở đây chứ không chịu phá giới của tam thế chư Phật. 
		Ngày xưa có vị Tỳ kheo đến nhà dâm nữ, bị cỡng bách hành dục, còn đâm 
		đầu vào hố lửa chết, quyết không chịu phạm giới, các Tỳ kheo bị cướp lấy 
		cỏ trói, chịu gió gào, nắng hét, trùng cắn, vì giữ giới không dám dứt cỏ 
		mà đi; con ngang nuốt chuỗi ngọc, Tỳ kheo nhìn thấy, vì giữ giới bị đánh 
		vỡ đầu mà không nói; thuyền bị ngụp vào biển, Hạ tọa Tỳ kheo dâng phao 
		cho Thượng tọa, còn mình chịu chết chìm nơi biển cả. Các tiền bối đã 
		khinh thân hộ giới mình là kẻ nào mà không giữ giới? Riêng những người 
		đó là đệ tử Phật hay sao? Là vì họ giữ được giới cấm, đức Thế Tôn là 
		Thầy của họ, không phải là Thầy của ta hay sao? Hột hồ ma ép chung với 
		hoa thiềm bặc thì hôi, ta đã gặp được bậc thiện trí thức dạy bảo ta, dắt 
		dìu ta, học đạo vô vi giải thoát an lạc, còn tham chi tình ái, tạo 
		nghiệp luân hồi sinh tử làm gì, thà chết thân này quyết không phá giới 
		để ô nhục cho Tam bảo, phụ mẫu Sư Tăng. Nếu ta ra về, sợ cô tránh sự hổ 
		thẹn, với sự nồng nàn của lòng dâm dục của cô, lôi kéo ta, phỉ báng ta, 
		thôn xóm họ biết thì không tránh được sự ô nhục! Ta sẽ quyên sinh tại 
		đây! Đáp rằng: - Cô hãy cho tôi vào phòng nghỉ, thư 
		thả tôi sẽ thưa chuyện cùng cô. - Vâng! Mời Ngài vào phòng khách! Vào phòng, Sa di đóng cửa chặt, cởi áo giắt lên 
		giá hoan hỷ quỳ thẳng chắp tay hướng về thành Câu Thi Na, nơi Phật nhập 
		Niết bàn tự thệ nguyện rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Con không bỏ Phật, Pháp, 
		Tăng, không bỏ Hòa thượng A Xà Lê và không bỏ chánh giới của Như Lai, 
		chính con vì hộ trì giới để xin bỏ thân này. Nguyện cho con sinh vào nơi 
		nào cũng được hạnh phùng ngôi Tam bảo, và được xuất gia học đạo, tu phạm 
		hạnh thanh tịnh tẩy trừ cho hết lậu nghiệp, thành đạo Vô thượng Bồ đề. Khấn nguyện xong rút dao đâm cổ chết! Máu chảy 
		linh láng thân thể đỏ ngầu. Cô đứng ngoài chờ lâu quá, nóng ruột bước lên gõ 
		cửa bước vào, nhìn thấy tình nhân Sa di của mình chết nằm trên mặt đất, 
		coi rất rùng rợn, cô thất sắc, lúc đó lòng dục nguội lạnh, tâm hồn tán 
		loạn hoảng hốt, lấy tay cào lên đầu làm cho tóc rối như tơ, tỏa che khắp 
		mặt, lăn khóc mê hồn, rồi ngất đi. Khi cha mẹ cô trẩy hội về đứng ngoài cửa gọi con 
		gái, gọi mãi không thấy trả lời, sai người trèo qua vào trong mở cổng, 
		ông vào phòng thấy con gái như thế, sửng sốt hỏi: - Ôi! Con sao thế con? Cha đi vắng ở nhà ai làm 
		phạm đến tiết hạnh con đấy ư? Con nói cho cha hay. Cô yên lặng không nói sao cả, và thầm nghĩ: - Nếu mình nói thật cho cha nghe thì rất xấu hổ, 
		nếu đổ lỗi cho bác Sa di, thì vô tình mình đã vu oan cho người lương 
		thiện, tội ấy đọa Địa ngục chịu khổ vô cùng, thôi cứ nói rõ cho cha ta 
		nghe là hơn. - Thưa cha! Hôm nay Hòa thượng sai bác Sa di đến 
		nhà ta lấy cơm, con quá yêu người đòi hỏi lòng yêu cho toại ý muốn, nên 
		con quấy nhiễu người, và bắt theo ý muốn của con. Sư bác Sa di quyết giữ 
		giới thanh tịnh nên người vào phòng tự sát, con nghĩ thân con nhơ bẩn 
		lại làm hại thanh tịnh của người, tội ấy không phải nhỏ, con sợ quá, 
		cũng không biết làm thế nào được nữa, xin cha xá tội. Ông vẫn thản nhiên không kinh khủng gì, vì ông 
		tự biết đó là do nghiệp báo sử nhiên, ông nói: - Tất cả muôn pháp đều thuộc vô thường, con chớ 
		có lo! Ông bước vào phòng tới trước thi hài Sa di, lễ 
		bái khen rằng: - Quý hóa thay! Khí cao như trời mây, tri kiến 
		như sắt đá, bỏ mạng để hộ giới của tam thế chư Phật, trên đời có một 
		không hai. Luật nước ấy, nếu tu sĩ nào chết ở nhà ai thì 
		nhà ấy phải nộp cho chính phủ một ngàn quan tiền vàng. Theo lệ phạt ông 
		mang tiền đến nộp tại cung Vua. Nhà vua hỏi: - Khanh có lỗi gì? - Tâu bệ hạ! Có một tu sĩ chết tại nhà hạ thần. - Vì lý do gì? Ông cứ thực trình bày như trên cho vua nghe. Nhà vua nghe xong, cũng cảm phục tâm hồn cao 
		thượng của Sa di và nói: - Sa di bỏ mạng để hộ giới, không có lỗi gì, 
		khanh mang tiền về, ta sẽ đi cùng khanh. Nhà vua lên xe đi đến nhà ông Ưu bà tắc, thấy Sa 
		di thân đỏ như cây gỗ chiên đàn, một lòng kính cẩn lễ sát đất, khen lao 
		công đức. Nhà vua đưa một cỗ xe quý nhất rước ông Sa di ra nơi bằng 
		phẳng cao sạch, lấy các thứ gỗ thơm để đốt thi hài, đốt xong nhà vua đem 
		người con gái để đứng trên đài cao cho các người dân xem coi, giữa lúc 
		đó vua tuyên bố rằng: - Người con gái này có thể đẹp nhất thời nay, 
		trong hàng nữ lưu, nhưng con người còn chịu ách được dục vọng kìm hãm 
		nơi tâm thức ai là không yêu quý mê say! Đây ông Sa di vì chưa đắc đạo, 
		đem thân sinh tử hộ giới bỏ mạng thực là hiếm có trên thế gian này! Sau nhà vua mời Hòa thượng lên đài thuyết pháp, 
		xong cuộc thuyết pháp này có rất nhiều người phát tâm xuất gia trì giới, 
		ai nấy đều cảm mến đức tin cao thượng của Sa di, cúi đầu lễ Hòa thượng 
		mà lui. 20/ Phẩm thứ hai mươi NGƯỜI KHÔNG TAI, MẮT, MŨI, 
		LƯỠI Khi bấy giờ đức Thế Tôn ở nước Xá Vệ tại Tinh xá 
		Kỳ Đà giảng thuyết chính pháp cho bốn chúng. Nước ấy có ông Trưởng giả nhà giàu sinh hạ năm 
		cô con gái, không có con trai. Giữa lúc vợ ông có mang thì ông chết. Luật nước: - Nếu ai không có con trai, sau khi 
		chết tài sản sẽ thuộc về Chính phủ. Sau khi ông Trưởng giả này chết chính quyền địa 
		phương lại tịch biên tài sản. Người con gái lớn của ông đến tâu vua: - Tâu Bệ Hạ! Cha con mới chết, không có con 
		trai, nhưng hiện nay mẹ con đương có mang, không rõ trai hay gái. Vậy 
		xin bệ hạ khoan thứ cho một thời gian, để mẹ con ở cữ xong, nếu là con 
		gái, khi đó chính phủ tịch thâu tài sản cũng không muộn, xin Bệ Hạ minh 
		xét. Vua Ba Tư Nặc, nghe lời cô tâu rất có lý, khen 
		phải và nói: - Con nói có lý, phải lắm, ta sẽ cho quan địa 
		phương biết, không lo. Cô bái tạ lui ra. Chẳng bao lâu bà Trưởng giả sinh được đứa con 
		trai nhưng không có chân, tay, tai, mắt, có mồm, không lưỡi cũng như một 
		cục thịt lại có nam căn (buồi) nên họ cho là con trai, đặt tên là Man Từ 
		Tỳ Lê. Khi bấy giờ cô gái lớn lên tâu vua và trình bày 
		rõ cho ông nghe. Vua nghe xong, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói rằng: - Em con tuy thế nhưng cũng có thể là con trai, 
		vậy tài sản này em con có quyền được hưởng hết, chính phủ sẽ không thâu 
		biên nữa! - Dạ! Đội ơn Bệ Hạ! Con xin cáo lui! Tuy thế nhưng cô vẫn buồn, vì sao? Một đứa em 
		chẳng ra giống người được hưởng cả một gia nghiệp, con gái thực là vô 
		ích, luật chi mà luật lạ như vậy? Cô giận thân gái đớn hèn, luật nước bất công, từ 
		đó bỏ nhà đi hầu hạ các phu chủ nhà khác, một cách kính trọng từ tốn, 
		khi nấu ăn, khi dâng nước, chẳng khác đứa ở gái nhà họ. Gần đấy có ông Trưởng giả thấy cô như vậy tới 
		hỏi: - Con ơi! Nhà con giàu có, đâu con phải đi hầu 
		hạ người, đạo vợ chồng nhà ai, có lễ phép của nhà ấy, tại sao con làm 
		thế? - Thưa bác, cha con chết rồi! Của cải đầy kho 
		tài sản rất nhiều, sinh hạ được năm chúng con là gái, gia nghiệp này 
		phải nộp cho chính phủ, chúng con không có quyền an hưởng. May sao mẹ 
		con mới sinh được đứa em trai, lại không có tai, mắt, mũi, lưỡi, tay 
		chân, nên nhà vua cho em con được làm chủ ăn hưởng của này, con gái thực 
		là vô ích nên con buồn mà làm thế! - Thôi con đừng buồn làm chi, muốn thoát thân 
		con gái, đời sau được thân nam tử trượng phu, con đi cùng bác đến yết 
		kiến Phật. - Dạ! Bác cho con đi cùng. Tới chốn Phật cúi đầu làm lễ xong, ông Trưởng 
		giả bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Man Từ Tỳ Lê có phước 
		duyên gì, được sinh vào nhà giàu sang, và không biết có tội gì mà không 
		có tai, mắt, mũi, lưỡi, cúi xin Ngài chỉ bảo cho chúng con được rõ. Phật dạy: - Trưởng giả muốn biết chuyện ấy, ta 
		sẽ vì ông mà nói. - Dạ! Con xin chú ý nghe! - Trưởng giả! Việc này về đời quá khứ, có hai 
		anh em con ông Trưởng giả, người anh tên là Đàn Nhã Thế Chất, người em 
		tên là Thi La Thế Chất. Người anh nết na trung chính thành thực và hay 
		làm hạnh bố thí, cứu đỡ kẻ bần cùng cô lộ, bởi thế nên trong nước đều 
		kính nể tôn trọng, sau nhà vua dùng ông làm chức Bình Sự để xử đoán 
		những việc kiện tụng trong nước. Luật pháp nước ấy thời đó, những người vay nợ 
		không phải viết văn tự, nếu ai có việc gì chỉ đến quan Bình Sự chứng 
		nhận cho là đủ. Ông Thi La Thế Chất nhà giàu hay cho vay nợ lấy 
		lãi, hôm đó có người lái buôn đến vay ông một số tiền lớn để đi buôn, 
		ông đồng ý cho vay. Ngày giao tiền ra tòa Bình Sự, ông đem theo đứa con 
		trai nhỏ của ông, vì ông chỉ có một mình nó. Ông thưa rằng: - Thưa anh Bình Sự! Người lái 
		buôn đây, vay em một số tiền ngần này, để ra biển buôn bán, anh chứng 
		nhận cho, nếu tôi không may chết thì số tiền này trả về cho con tôi. Bình Sự gật đầu nói: Được, không sao, chú cứ yên 
		tâm cho vay, chỉ cốt sao họ đi buôn được tốt lành trở về là hơn! Qua thời gian không lâu Thi La Thế Chất chết, 
		người lái buôn ra bể không may gặp trận bão đánh đắm thuyền mất cả, 
		nhưng anh ta bám được một khúc gỗ trôi giạt vào bờ, thoát chết về nước 
		nhà! Người con ông Thi La Thế Chất biềt tin ông lái 
		buôn vay tiền của cha mình, ra biển bị đắm thuyền được thoát chết trở 
		về, song biết rằng bị tổn hại mất cả, nên không đòi nợ. Khi đó có một người lái buôn khác thương tình 
		anh buôn bán thất bại, cho anh mượn một số tiền đi buôn chuyến nữa. Lần 
		này đi gặp sự tốt lành trở về được lãi rất nhiều, chở đầy thuyền các quý 
		vật ở hải ngoại về, nào là vàng bạc châu ngọc vân vân. Chuyến này anh được phát tài, mời anh em họ hàng 
		thân quen, ăn uống vui mừng trả các món nợ, nhưng món nợ của ông Thi La 
		Thế Chất to quá anh thầm nghĩ rằng: - Chuyến trước ta về, không thấy con ông ta đòi 
		hỏi gì, một là lúc ta vay cậu còn bé quá không nhớ, hai là thấy ta buôn 
		bán thua lỗ mà không hỏi, vậy ta hãy thử xem cậu ta còn nhớ hay không, 
		thì biết. Hôm đó anh ta mặc áo mới đẹp cỡi ngựa đi chợ, 
		tới chợ gặp cậu con trai ông Thi La Thế Chất, cậu hỏi: - Tát Bạt! Hồi này nghe biết anh buôn bán phát 
		tài, hôm nay mang tiền trả số nợ của cha tôi ngày trước có phải không? Anh giả đò, ngẩn ngơ ra một lúc, rồi đáp rằng: - Thực thế ư? Tôi không rõ, cậu lầm đấy không 
		phải đâu, hay là ai? Cậu về mở sổ coi? Anh dùng mưu để quỵt số tiền nợ, về nhà lấy một 
		viên bảo châu đến nhà ông Bình Sự nói với bà ấy rằng: - Thưa bà! Tôi có vay của ông Thi La Thế Chất 
		một số tiền nhỏ, bây giờ con ông ta đòi trả, đối với gia đình tôi không 
		thể trả được, vậy tôi xin biếu bà viên ngọc này, trị giá mười vạn, nếu 
		cậu ấy kiện tôi thì bà nói với quan lớn, bác đơn đi, để tôi không phải 
		trả số tiền nợ ấy! Đáp: - Quan lớn nhà tôi trung trực lắm anh ạ, 
		tôi không dám nói đâu! Anh ta năn nỉ mãi thí dỗ bà một cách khéo léo, 
		bà bùi tai nói: Thôi anh để đó về đi, mai lại đây tôi trả lời. Đến tối quan lớn về, bà đem chuyện đó nói nhưng 
		ông ta gạt phắt đi, rồi nói rằng: - Bà chỉ lôi thôi! Điều thứ nhất nó là cháu tôi, 
		và chăng tôi là người trung chính thành thực nên nhà vua mới cử làm chức 
		Bình Sự, không làm càn thế được đâu, mai nó lại đây bà cho lính đuổi nó 
		ra. Anh lái buôn buổi sáng mai đến. Bà nói rằng: Không được đâu anh ạ! Tôi có nói 
		nhưng quan không nghe, trả lại anh viên ngọc. Anh lái buôn ngẫm nghĩ hồi lâu, đưa thêm hai 
		viên ngọc nữa rồi nói: - Thưa bà lớn! Cũng là một việc nhỏ, bà chỉ mất 
		một lời nói, mà được ba mươi vạn đồng, cậu ấy là cháu của ông, dẫu có 
		thắng kiện được số tiền thường của tôi bà cũng chẳng được gì vào tiền 
		đó, xin bà hoan hỷ nhận cho viên ngọc này, thưa bà ngọc này đắt lắm và 
		hiếm lắm, bà để cho các cậu, các cô sau này có hơn không? Bà nghe êm tai và lòng tham của bà nổi lên, nhận 
		liền và hứa rằng: - Anh cứ yên tâm, tôi sẽ thu xếp bằng xong. Đến tối quan lớn về, bà nói năn nỉ mãi, nhưng 
		Ngài không nghe, ông gắt nói: - Không có lý như vậy, tôi là một người có tin 
		cho thiên hạ, nếu tôi làm điều gian dối ăn hối lộ, thì hiện đời này họ 
		không tin tôi, hơn nữa đời sau tôi sẽ bị đau khổ nhiều kiếp. Nói xong ông đứng lên vào phòng nghỉ. Lúc đó bà mới sanh được một cậu con trai chưa 
		biết đi. Bà cũng giận bế con theo vào phòng nói rằng: - Tôi với ông kết duyên với nhau hai thân như 
		một, gặp việc gì dẫu chết cũng không bỏ nhau và cũng không làm trái ý 
		nhau, huống đây là một việc nhỏ, tôi nói với ông hết lời mà ông không 
		nghe, thì tôi còn sống làm chi nữa, nếu ông không giúp tôi việc này, tôi 
		sẽ giết đứa con tôi trước, sau tôi tự sát thân tôi cho qua đời. Bình Sự nghe vợ nói tắt cổ như người bị nghẹt, 
		muốn nuốt vào không được, khạc ra thì vướng! Thầm nghĩ: - Ta có một đứa con trai, nếu chết thì gia 
		nghiệp này giao phó cho ai? Nếu theo ý muốn của đàn bà làm trái pháp 
		luật, hiện đời này không ai tín dụng, đời sau sẽ bị khổ, khó tả xiết. Một việc khó giải quyết cho ông quá! Không thể 
		từ chối được, ông phải tắc lưỡi nhận lời, rồi đáp: - Thôi bà cứ yên tâm. Thấy ông đã vui lòng nhận lời, nên bà rất vui 
		vẻ! Sớm mai anh lái buôn đến bà tươi cười nói: - Việc đó quan đã nhận lời cho anh rồi đấy! Hôm 
		qua tôi phải làm ráo riết quan mới nhận, chứ chẳng dễ đâu. Lái buôn nghe bà nói nét mặt tươi hơn hớn! - Dạ! Thưa bà lớn, quí hóa lắm muôn đội ơn bà! 
		Dạ xin phép bà cháu về! - Phải anh về, cứ an tâm đừng lo. Ngày mai anh lái buôn sớm rửa mặt mặc áo mới đẹp 
		đeo rất nhiều vàng ngọc trên mình cỡi voi đi chợ. Cậu con ông Thi La Thế 
		Chất thấy anh ra cách lắm tiền, nhiều của thầm nghĩ rằng: - Có lẽ anh lái buôn hôm nay đem tiền ra trả 
		mình đây! Nhưng không! Không thấy anh nói gì, có vẻ làm 
		lơ, cậu tới nơi hỏi: - Tát Bạt! Món tiền cha tôi anh trả đi chứ? - Tôi không nhớ vay lúc nào cả! Nếu vay tất phải 
		có ai chứng kiến chứ? - Anh quên rồi quan Bình Sự chứng kiến. - Tôi không biết! Cứ đem việc này ra quan Bình 
		Sự! Nói xong hai người đua nhau đến quan Bình Sự. - Thưa bác, anh này có vay của cha con một số 
		tiền đi buôn, bác làm chứng, lúc ấy con cũng ở đó, thực thế xin bác xét. Bình Sự nói: - Cháu quên đấy, việc này bác không 
		biết, thôi cháu ạ, đừng kiện tụng lôi thôi nữa. - Không! Thưa bác lúc đó bác bảo với cha con 
		rằng: "Được không sao! Chú cứ an tâm cho họ vay!" Bác không lấy tay chỉ 
		vào số tiền ấy là gì, nay bác lại bảo là không biết! Bình Sự nói: - Bác là người xử đoán cho toàn 
		quốc, có lẽ nào bác làm trái pháp, cháu chớ nói nhiều nữa. - Thưa bác! Bác là người trung chính nên nhà vua 
		cử bác làm Bình Sự, người trong nước tin dụng bác, tôi là cháu ruột của 
		bác mà bác xử phi lý như vậy nữa là người ngoài, bác còn làm oan uổng 
		đến đâu. Thôi! Cháu cũng không biết nói sao, hư thực đời sau sẽ biết. Nói tới đây đức Phật nhắc lại cho ông Trưởng giả 
		biết rằng: Trưởng giả ông nên biết! Quan Bình Sự thuở đó 
		nay chính là Man Từ Tỳ Lê, không tai, mắt, mũi, lưỡi, hỗn độn như vậy. 
		Bởi một câu nói dối ngày đó phải đọa vào Địa ngục lớn, chịu khổ không 
		cùng, khi thoát khỏi Địa ngục, trong năm trăm đời chịu thân hỗn độn như 
		vậy do cũng hay làm việc bố thí nên sinh vào nhà phú quý sang trọng và 
		được làm tài chủ. Sự báo ứng của thiện ác dẫu cho lâu bao nhiêu kiếp, 
		cũng không xóa nhòa được. Vì thế các ông cũng nên chăm chỉ giữ gìn thân 
		miệng ý cho cẩn thận, chớ tạo ác nghiệp. Tất cả đại chúng nghe Phật nói xong, có người 
		đắc sơ quả cho đến tứ quả, cũng có người phát tâm Vô thượng Bồ đề, ai ai 
		cũng vui mừng kính mến đức Phật làm lễ mà lui. 21/ Phẩm thứ hai mươi mốt HAI VỢ CHỒNG NGHÈO Chính tôi được nghe: Một thời Đức Thế Tôn ở nước 
		Xá Vệ, tại Tinh xá Kỳ Hoàn giảng thuyết cho bốn chúng tu tập. Thuở đó có ông Trưởng giả sinh được cô con gái, 
		dong nghi tốt đẹp, vào bậc nhất nhì hạng nữ lưu trong nước, lạ thay! Cô 
		này sinh ra đã có miếng lụa trắng bọc quanh người. Thấy thế cha mẹ cô 
		cho là quái gở, mời Thầy về coi, Thầy nói: - Ông bà không lo, cô gái của ông bà có phước 
		đức lớn, và tôi xin đặt tên cho cô là Thúc Ly. Thúc Ly lớn thì miếng lụa cũng lớn theo. Cô xinh 
		đẹp lại con nhà sang trọng, nên trong nước nơi xa, nơi gần, đều đến cầu 
		hôn, nhưng cô không ưng thuận một ai. Hôm ấy cha cô gọi thợ gốm về nhà làm các đồ nữ 
		trang, cô hỏi: - Thưa cha! Cha làm những vật này để làm gì? - Con đã lớn tuổi, cha làm cho những vật này để 
		gả chồng cho con. - Thưa cha! Vợ chồng chỉ có nhất thời, con xét 
		vô ích, chỉ gây thêm cái đau khổ cho mình mà thôi, ý con muốn xuất gia 
		tu đạo giải thoát là hơn Ông bà chỉ sinh được mình cô, nên tùy ý chứ 
		không cưỡng ép. Hôm sau ông đi mua lụa sạch điệp về may áo, cô 
		hỏi: - Thưa cha! Lụa này để may áo gì? - Cha may áo Ngũ Điều cho con đi xuất gia! - Thưa cha! Khỏi phải may nữa! Tấm áo con đương 
		mặc đây đủ rồi, xin cha dẫn con đến nơi Phật ngự! Hôm sau cả hai ông bà và cô cùng đi yết kiến 
		Phật tới nơi cúi đầu làm lễ bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Thân người khó được, gặp 
		Phật tại thế lại khó hơn, cúi xin Ngài Từ bi tế độ cho con được xuất gia 
		tu đạo! Phật dạy: Thiện Lai Tỳ kheo! Ngài nói dứt lời 
		đầu cô rụng hết tóc, còn tấm lụa trên mình cô biến thành áo Cà sa Ngũ 
		Điều. Phật giao cô cho bà Đại Ái Đạo Tỳ kheo Ni dạy bảo pháp tu, cô tu 
		hành tinh tiến, chẳng bao lâu chứng quả A la hán. Tôi thấy thế cho làm lạ nên tôi (A Nan) quỳ 
		xuống thưa rằng: - Kính lạy Đức Thế Tôn! Thúc Ly Tỳ kheo Ni xưa 
		tu công đức gì, nay được sinh vào nhà tôn quý, lại có mảnh lụa trắng 
		sinh theo, xuất gia chưa được bao lâu đã chứng quả La Hán, cúi xin chỉ 
		giáo cho chúng con được rõ. Phật dạy rằng: - Này ông A Nan hãy nghe cho kỹ, 
		tôi sẽ nói cho ông hay! - Dạ con xin chú ý nghe! - A Nan! Đời quá khứ đã quá lâu xa, có đức Phật 
		ra đời, hiệu là Tỳ Bà Thi, thường ngày Ngài cùng các đệ tử đi tế độ nhân 
		gian, đi đến đâu vua quan dân chúng cúng dàng rất đông, và đặt ra những 
		kỳ đại hội để thỉnh Phật thuyết pháp. Khi đó một Thầy Tỳ kheo có lòng quảng đại, muốn 
		tiếp phúc cho nhân dân, nên Ngài chăm đi khuyến hóa từng nhà, làm hạnh 
		bố thí và nghe giảng thuyết chánh pháp của Như Lai. Thuở đó có một thiếu phụ nhà rất nghèo khổ, hai 
		vợ chồng chỉ có mảnh vải che thân, nếu chồng đi xin thì chồng mặc, vợ 
		trần truồng ngồi trong đống cỏ khô, nếu vợ đi xin thì vợ mặc, chồng trần 
		truồng ngồi trong đống cỏ khô. Thầy Tỳ kheo đi qua ngó thấy cô, Ngài nói rằng: - Cô nên biết: Được sinh làm người là khó, gặp 
		Phật tại thế lại khó hơn, hiện nay đức Phật đang thuyết pháp, cô đi đến 
		nghe thuyết pháp được phước vô lượng, con người tham sẻn bị tội nghèo 
		đói, chăm làm hạnh bố thí được phước giàu sang. - Dạ! Kính bạch Đại đức, con rất sung sướng được 
		nghe lời của Ngài giáo hóa, xin Ngài hãy đứng đây chờ con một chút! Cô vào nhà bảo chồng rằng: - Anh ơi! Ngoài ngõ có một vị Sa môn khuyên 
		chúng ta nên đến gặp Phật, để nghe Phật thuyết pháp, và khuyên ta nên 
		làm việc bố thí, là vì đời trước không biết bố thí nên kiếp này bị nghèo 
		cùng khổ não, bây giờ ta phải làm cách gì, để trồng cái nhân lành, ngõ 
		hầu kiếp sau mới có phần an hưởng. Đáp: - Nhà ta nghèo đói như thế này, được bữa 
		hôm mất bữa mai, biết lấy gì mà bố thí. - Anh ơi! Đời trước tham sẻn, lại không biết làm 
		hạnh bố thí cho nên đời này, bị nghèo khốn, nếu kiếp này không làm nhân 
		bố thí đời sau lấy phước gì để nương cậy? Bây giờ anh hãy nghe tôi, tôi 
		quyết định bố thí. Người chồng thầm nghĩ: "Hay là vợ ta có chút của 
		riêng", thì cứ đồng ý đi: - Phải em cứ bố thí đi, việc đó anh rất vui 
		lòng! - Thưa anh! Em muốn đem mảnh vải của em đang 
		khoác đây ra để cúng dàng, anh có ưng thuận không? - Hai vợ chồng chúng ta chỉ có một mảnh vải này, 
		che thân để hằng ngày đi xin nuôi nhau, bây giờ đem cúng dàng thì lấy gì 
		che thân mà đi xin, ngồi nhìn nhau mà chết hay sao? - Anh ơi! Con người ai cũng phải chết, không bố 
		thí với bố thí, rồi cũng chết cả, thà bố thí mà chết, đời sau còn có 
		phước lành, hưởng quả báo giàu sang, không làm hạnh cúng dàng bố thí sau 
		rồi cũng chết, trái lại đời sau không có nhân lành trông cậy. Người chồng nghe vợ nói phải, vui vẻ đáp: - Em nói thế hay lắm! Bây giờ chúng ta giữ lấy 
		phần chết, đem cúng dàng cầu phước lành cho đời sau! Cô thấy chồng có lòng cương quyết và vui vẻ, nên 
		ra thưa rằng: - Kính bạch Đại đức, xin Ngài trèo lên mái nhà, 
		con có chút vật mọn dâng Ngài về cúng Phật. - Muốn cúng thì dâng trước mặt ta, để ta chú 
		nguyện cho, trèo lên mái nhà làm chi? - Bạch Đại đức, vợ chồng con chỉ có một mảnh vải 
		này, trong nhà không có vật gì khác nữa, sợ lõa lồ thân thể đàn bà xấu 
		ác, tội nghiệp, nói xong vào nhà đóng cửa, cởi mảnh vải vất qua cửa sổ 
		cúng dàng. Thầy Tỳ kheo thấy vợ chồng nhiệt tâm như vậy, 
		mặc dầu bẩn cũng cứ nhận làm phép chú nguyện mang về dâng Phật. Vừa về tới Tinh xá, Phật hỏi ngay: - Tỳ kheo mang mảnh vải ấy lại đây cho ta! - Dạ! Kính lạy đức Thế Tôn, nhận lòng thành cúng 
		dàng của vợ chồng nhà nghèo. Phật liền đỡ lấy, và có vẻ thương! Lúc đó có ông vua, Hoàng hậu, cung phi, thể nữ, 
		quan đại thần, dân chúng đương ngồi nghe Phật thuyết pháp, ai cũng có 
		chút tâm lạ với Phật, vì Phật cầm cái mảnh vải đầy nhơ bẩn cáu ghét tanh 
		hôi. Phật biết tâm của đa số người như thế, Ngài nói: - Ta xem trong đại hội này, phát tâm làm việc bố 
		thí lớn và thanh tịnh, thì không ai hơn được người này! Nghe Phật nói, tất cả đại hội đều sợ, Bà Hoàng 
		hậu vui vẻ cởi áo của mình và nữ trang, vua cũng lấy áo và tiền bạc, sai 
		người mang đến cho hai vợ chồng Đàn Ly Già, và mời ngay đến chốn Phật 
		nghe pháp. Nhân thế đức Phật thuyết về phước báu bố thí và 
		tội keo sẻn trộm cắp cho đại chúng nghe, khi đó có rất nhiều người phát 
		tâm tu hạnh bố thí! Tới đây Phật nhắc lại rằng: - A Nan! Ông nên biết vợ Đàn Ly Già, thuở đó nay 
		là Tỳ kheo Ni Thúc Ly vì phát tâm thanh tịnh cúng dàng, nên trong chín 
		mươi mốt kiếp, sinh nơi đâu cũng có tấm lụa sinh theo, lại được giàu 
		sang sung sướng an vui. Cũng bởi nghe Phật thuyết pháp và có tâm cầu 
		giải thoát, nên đời nay được gặp ta chứng quả A la hán như thế đó, các 
		ông cũng nên tinh tiến nghe pháp và bố thí, ngày sau sẽ kết quả trang 
		nghiêm. Phật thuyết xong, có rất nhiều người phát tâm 
		cúng dàng, làm hạnh bố thí, ai nấy đều vui vẻ lễ kính mà lui. 22/ Phẩm thứ hai mươi hai BÀ LÃO BÁN NGHÈO Khi bấy giờ Tôn giả Ca Chiên Diên đi giáo hóa ở 
		nước A Bàn Đề, gặp một bà lão đương ngồi khóc ở bên bờ sông! Ngài hỏi: - Bà lão tại sao khóc? - Bạch Tôn giả! Con tuổi tác già yếu, vì túng 
		thiếu nghèo khổ phải đi ở mướn cho nhà ông Trưởng giả; ông ấy cay nghiệt 
		quá! Nhà giàu lòng tham sẻn bạo ác, không có Từ tâm. Sớm hôm bắt con hầu 
		hạ, ngoài ra còn làm các việc, ít khi được nghỉ ngơi, hoặc có lầm lỗi 
		gì, thì bị đánh đập, áo không đủ che thân, cơm không đủ no miệng, chết 
		cũng không được, sống thì khổ, vì thế nên con khóc! Ngài nói: Nghèo sao bà không bán nó đi? - Bạch Tôn giả nghèo làm sao bán? Và ai là người 
		mua? - Nghèo có thể bán được lắm! Muốn bán để ta bán 
		hộ! - Bạch Tôn giả! Bán bằng cách nào, xin Ngài nói 
		cho con được biết? - Muốn bán phải nghe lời ta dạy. - Dạ! Con xin tuân mạng! - Trước khi bán bà phải đi tắm rửa cho sạch sẽ. Khi tắm xong Ngài dạy: - Người thế gian khi có phước được hưởng giàu 
		sang, chỉ buông lung tâm tính say mê dục lạc, đã không bố thí, lại còn 
		sinh lòng gian lận hiếp đáp người lấy của, keo sẻn tham lam nên bị quả 
		báo nghèo đói đau khổ về thể xác lẫn tinh thần. Bà muốn được an vui sung 
		sướng trên cõi nhân thiên, phải thành kính thụ trì Tam Quy Ngũ giới, mỗi 
		tháng sáu ngày thụ phép Bát Quan Trai, ngoài ra chăm niệm Phật, trồng 
		các công đức lành; làm hạnh bố thí đời được hưởng phúc an lành! - Bạch Tôn giả, con nghèo cùng lắm, thân con 
		hoàn toàn không có một chút gì. Còn cái bình này là của chủ con, không 
		biết lấy gì bố thí được? - Bà đem cái bát lấy ít nước lại đây dâng ta. Ta 
		sẽ chú nguyện cho. Bà lão vui mừng! Thành kính cầm bát ra sông múc 
		nước dâng Ngài. Chú nguyện xong Ngài hỏi rằng: - Bà có chỗ nằm ngồi gì không? - Bạch Tôn giả! Không có! Nếu lúc nào xay lúa 
		giã gạo xong con nằm ngay bên cối ngủ, mùa xuân, mùa thu, làm lụng xong, 
		cũng ngủ ở đó, ngoài ra không xay lúa, thì ra đồng phân trâu trữ để bón 
		lúa, nằm ngủ tại bên. Tôn giả nói: - Bà giữ tâm cho khéo, làm lụng hầu 
		hạ phải cung kính cẩn thận, chớ sinh lòng hiềm thù, oán giận, chờ chủ 
		nhà đi ngủ xong, mở cổng ra ngoài, lấy nắm cỏ khô trải một bên, cung 
		kính chắp tay quan sát hình tướng Phật, chớ có ác niệm. Theo lời Tôn giả dạy, cũng làm đúng như thế, đến 
		quá nửa đêm bà lão chết, thần hồn được sinh lên cõi trời Đao Lợi. Sớm mai ông Trưởng giả thấy mụ già chết nằm 
		ngoài ngõ, giận nói: - Con mụ này đã chết tại đây tối qua rồi, lũ bay 
		lôi nó ra rừng cho ta! Tụi gia nhân Trưởng giả, lấy dây buộc vào chân 
		lôi mụ ra rừng lạnh vất bỏ, không chôn cất chi hết. Khi đó trên cung trời Đao Lợi có ông Thiên Tử 
		mệnh chung, họ hàng có năm trăm người, thần hồn bà lão được thay thế. Phép sinh thiên, những người lợi căn thông minh 
		có thể nhớ được nhân do đời trước của mình tại nhân duyên gì được sinh: 
		Còn kẻ độn căn ngu tối thì quên hết, ham hưởng dục lạc cõi thiên, chứ 
		không biết nguyên uy lúc tiền sinh. Bà lão này cũng thế quên hết, chỉ 
		mãi vui dục lạc với năm trăm thiên tử. Lúc đó Ngài Xá Lợi Phất cũng ở 
		cõi trời Đao Lợi biết thế hỏi: - Ngươi nhân phước gì được sinh lên đây? - Bạch Tôn giả con không nhớ, xin Tôn giả chỉ 
		giáo cho! Ngài bèn cho mượn phép đạo nhãn, xem biết tiền 
		thân của mình, là mụ già ở của ông Trưởng giả, do nhờ Ngài Ca Chiên Diên 
		dạy phép niệm Phật và lực của Ngài mà được thác sinh lên đây. Cảm ơn Ngài Xá Lợi Phất, rồi đưa năm trăm thiên 
		tử xuống nhân gian, nơi rừng lạnh đốt hương cúng dàng tử thi bà lão. 
		Những thiên tử thân có hào quang chiếu sáng khắp rừng và nơi thôn dã ấy. 
		Ông Trưởng giả thấy biến tướng như thế, không biết tại sao, gọi tất cả 
		mọi người xa gần đến xem, đến tận nơi, thấy các ông thiên tử đương cúng 
		dàng tử thi mụ già của nhà mình. Thưa rằng: Nói xong ai nấy đều sợ hãi! Một lòng thành kính 
		làm lễ thi hài cho mụ già xong, rũ nhau đên yết kiến Tôn giả Ca Chiên 
		Diên. Mọi người tới nơi làm lễ xong lui ngồi về một 
		bên. Ngài thuyết pháp nói về luận "bố thí", luật "trì giới", luận "sinh 
		thiên" tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ kỹ là nhân của tâm ác 
		đạo: Nó tạm thời khoái lạc! Lại bị lâu kiếp đau khổ: Ly dục là một pháp 
		an vui, bất diệt. Năm trăm thiên nữ nghe xong được xa lìa trần 
		cấu; đắc "pháp nhân tịnh", cúi đầu bái tạ bay về thiên cung. Nhân gian những người được nghe Tôn giả nói, ai 
		nấy đều phát tâm ly dục, làm hạnh bố thí, cầu đạo giải thoát bái tạ lui 
		ra. (Quyển Thứ Tư Hết) 
		Kinh Hiền Ngu 
		Quyển Thứ Năm 23/ Phẩm thứ hai mươi ba KIM THIÊN Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá 
		Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà giảng thuyết chánh 
		pháp cho bốn chúng tu tập. Tại thành này có ông Trưởng giả nhà giàu sinh 
		được cậu con trai mình sắc vàng, phúc đức đầy đủ. Cũng lạ thay: Khi sinh cậu tự nhiên nứt ra một 
		cái giếng ngay giữa vườn, ngang dọc mỗi bề tám thước, sâu tám thước, 
		giếng nước ngọt thơm, uống vào mát mẻ khoái lạc, và cũng thấy no đủ, nếu 
		không ăn cơm cũng được sức mạnh như thường, dưới lòng giếng lại có nhiều 
		vàng bạc. Ông Trưởng giả lấy phân cấp cho mọi người, nhân thế ai muốn gì 
		cũng được, là vì ai cũng được ông ban phát vàng bạc cho họ tiêu xài. Đặt tên cậu là Tu Việt Na Xà Đề (Tàu dịch là Kim 
		Thiên). Sau khi cậu lớn tài nghệ tinh thông, nhân từ đạo hạnh, vì thế 
		nên ông bà yêu quý không bao giờ làm trái ý. Sau ông nhờ những người lái 
		buôn tìm một cô gái có đức hạnh sánh duyên cùng cậu. Thuở đó ở nước Diêm Ba có cô con gái ông Trưởng 
		giả tên là Bạt Na Ba Bà Tô (Tàu dịch là Kim Quang Minh). Cô này dong tư 
		yểu điệu, thân thể vàng chói. Khi sinh cô ra điềm lành cũng biến hiện, 
		như sinh cậu Kim Thiên không khác. Ông thân phụ cô nghĩ như vầy: - Con ta phúc đức xinh đẹp, ít người sánh kịp, 
		phải tìm gả cho một người hiền sĩ, tướng mạo anh tuấn trượng phu, chứ 
		không thể gả cho kẻ tầm thường được. Danh đức cô này đồn khắp nước Xá Vệ, trái lại 
		tiếng khen của cậu Kim Thiên cũng làm cho nhà cô nghe biết. Nên chi hai ông Trưởng giả rất hoan hỷ, vì thân 
		thế đôi bên cũng là một nhà thế phiệt, danh đức không kém nhau. Hai ông 
		đồng ý gả con cho nhau, từ đó trai tài gái sắc kết duyên về nước Xá Vệ, 
		chung hưởng cuộc đời vui thú. Ông thân phụ của Kim Thiên muốn cho vợ chồng Kim 
		Thiên thấm nhuần giáo lý đạo Phật, một hôm mời Phật về nhà cúng trai. 
		Khi Phật và chư Tăng dùng cơm xong, Ngài thăng tòa thuyết pháp nói về 
		"Bát Khổ" tức là: sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, ái biệt ly khổ, 
		cầu chẳng được khổ, oán ghét ở với nhau là khổ, năm ấm nồng nhiệt khổ, 
		và nói về tám giải thoát an lạc. Vợ chồng Kim Thiên nghe xong như người tỉnh giấc 
		mơ, như kẻ khát được uống nước cam lộ, tâm trí mở mang, hiểu thấu đời là 
		vô thường, ngay giờ phút đó ông bà Trưởng giả và vợ chồng cậu, phá tan 
		được những ác kiến trong hai mươi ức kiếp, đắc quả Tu đà hoàn. Đức Thế Tôn sau khi trở về Tinh xá, vợ chồng Kim 
		Thiên đều xin đi xuất gia, vì đã hiểu đạo nên ông bà chấp thuận không 
		ngăn cản. Hai người đến cúi đầu lễ Phật bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Được Pháp bảo Vô thượng 
		của Như Lai tuyên diễn, chúng con nhận thấy đời là vô thường, ảo mộng, 
		đạo an lạc vô vi phải cầu, nên chúng con thành kính xin Ngài Từ bi tế độ 
		cho xuất gia tu đạo. Phật dạy: - Thiện lai Tỳ kheo. Ngài nói dứt lời, tóc của hai người đều rụng 
		hết, áo mặc tại mình biến thành áo Cà sa. Kim Thiên được ở chung với Tỳ kheo Tăng, còn Kim 
		Quang Minh Phật giao cho bà Đại Ái Đạo giáo hóa. Tu học không bao lâu, hai người đều đắc quả A la 
		hán "Tam Minh", "Lục Thông", "Tám Giải Thoát" công đức rất viên mãn. Thấy thế tôi hỏi Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn, chẳng hay vợ chồng Kim 
		Thiên trước tu công đức gì, mới sinh ra đã nhiều trân bảo, thân thể có 
		sắc vàng, tu hành chưa được bao lâu đã đắc quả giải thoát, cúi xin nói 
		cho chúng con được rõ? Phật dạy: - A Nan! Ông nên biết: Cách đây chín 
		mươi mốt kiếp, hồi ấy có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi, sau khi Ngài 
		nhập Niết bàn, các Thầy Tỳ kheo đi giáo hóa nhân gian, đến thôn xóm kia 
		dân chúng tranh nhau cúng dàng. Lúc đó có hai vợ chồng nhà nghèo tự niệm 
		rằng: - Lúc sinh thời cha mẹ ta giàu có, tiền của đầy 
		kho, nay ta bị nghèo cùng cơ khổ! Nằm ngồi trên chiếc chiếu manh, áo 
		không đủ che thân, nhà không một đấu gạo. Khi nhà giàu sang, lắm tiền 
		nhiều của, thì không được gặp các vị Thánh Tăng, rồi òa lên khóc, nước 
		mắt rơi xuống cánh tay vợ hỏi: - Tại sao anh khóc? - Em không biết hay sao? Các vị Thánh Tăng tới 
		đây, nhân dân tranh nhau cúng dàng, nhà ta nghèo không có gì để trồng 
		thiện duyên với các Vị, đời nay bần cùng, rồi sau lại khốn khó, thế nên 
		anh khóc! - Thôi anh khóc làm gì! Anh vào kho tìm xem có 
		được đồng nào thì đem cúng dàng. Anh đứng lên vào kho tìm mãi, may sao được một 
		đồng tiền vàng, mừng quá mua một cái bình mới đựng nước trong sạch rồi 
		bỏ đồng tiền vàng ấy vào trong, cô vợ mua một cái gương sáng, chung đem 
		cúng dàng. Tới nơi Tinh xá dâng lên chư Tăng. Chư Tăng nhận và làm phép chú nguyện, vợ chồng 
		vui vẻ ra về. Qua được ít năm, hai vợ chồng đều chết cả, do 
		nhân duyên ấy được sinh lên cõi trời Đao Lợi. Tới đây Phật nhắc lại rằng: - A Nan! Hai vợ chồng nghèo thuở đó, nay chính 
		là vợ chồng Kim Thiên bởi kiếp trước thành kính cúng tiền vàng, gương 
		nước, nên đời đời được phước báo thân thể tươi đẹp, sắc vàng. Từ đó đến 
		nay đã chín mươi mốt kiếp đều được hưởng quả báo tốt lành như nay. Thuở 
		ấy vì phát tâm cầu đạo Vô thượng nên đời nay gặp ta được thoát sinh tử, 
		đắc đạo Niết bàn. A Nan! Phúc đức phải nên tu, như kẻ nghèo kia cúng 
		dàng một chút mà phước báo lớn lao như vậy. Bấy giờ tôi và đại chúng nghe Phật nói xong, ai 
		nấy đều ham làm việc cúng dàng bố thí, vui mừng lễ tạ lui ra. 24/ Phẩm thứ hai mươi bốn TRÙNG TÍN Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá 
		Vệ tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà. Thuở đó có ông Trưởng giả, nhà giàu lại không có 
		con trai, ông bà thường hay đi cầu đạo ở các miếu thần, vì lòng thành 
		kính khẩn nguyền, nên bà sinh được cậu con trai quý. Một hôm ông bà ẵm cậu đến bờ sông, để thưởng 
		thức các thú vui ngày đầu năm của gia tộc: Ăn các mùi ngon, uống các 
		rượu tốt, ca hát, nhảy múa xem các trò vui. Ông vừa bế cậu vừa nhảy múa, múa xong lại trao 
		cho bà. Muốn cho cậu bé tươi cười vui vẻ, nên bà cứ tung cậu lên lại đỡ 
		lấy, vừa cười, vừa đi trên mé sông, vì bỡn với cậu con quý của bà, nên 
		tâm hồn tán loạn không cẩn thận, sảy tay đánh rơi cậu bé xuống sông kêu 
		chỏm, bà hô la khản tiếng, có nhiều người nhảy xuống mò nhưng ôi thôi! 
		Sông sâu nước chảy mạnh tuyệt vô tăm tích! Ông bà Trưởng giả ngất đi hồi 
		lâu mới tỉnh. Cuối dòng sông này có một thôn nhỏ, thôn ấy có 
		một nhà giàu cũng không có con. Hết sức cầu Trời khẩn đất, đền nọ, miếu 
		kia, vẫn vô hiệu quả. Hôm ấy ông sai người ở trại thả lưới tại cuối 
		con sông này, bắt được con cá lớn đem về mổ ra, thấy một đứa bé trai bị 
		con cá nuốt mà vẫn còn sống; anh bế nó ra tắm rửa sạch sẽ rồi đưa cho 
		ông chủ. Ông chủ xem xong vui vẻ nói: - Nhà ta từ trước đến nay chí thành cầu đảo, hôm 
		nay thực là trời cho ta đứa con này, ông trao cho bà ẵm nuôi bú mớm cẩn 
		thận. Ông Trưởng giả mất con hay tin có người mách 
		bảo, cuối dòng sông này có người bắt được con cá lớn mổ ra được đứa con 
		trai vẫn còn sống. Ông bà rủ nhau đến xem, quả nhiên là con của ông 
		thật. Ông thưa rằng: - Thưa ông! Đây chính là con tôi, bữa trước bà 
		cháu giỡn chơi với nó không may đánh rơi xuống sông, phúc đức quá! Ông 
		bà lại cứu được cháu. Vậy xin ông bà cho tôi chuộc lại, bao nhiêu chúng 
		tôi cũng xin trả? - Đáp: Thưa ông, nhà tôi thành kính cầu đảo thần 
		kỳ đã lâu, được sự báo ứng cho tôi đứa con này, tôi để nuôi chứ không 
		thể bán được! - Thưa ông bà, chúng tôi thương con đứt ruột, 
		giờ đây được thấy cháu như người sống lại, ông bà hoan hỷ, nếu ông bà có 
		lấy nửa gia tài tôi cũng xin vâng! - Thôi ông đừng nói nữa làm chi có chuyện lạ như 
		vậy. Con ông rơi xuống sông là mất rồi, nếu bị cá nuốt thì chết rồi, còn 
		sống sao được, đây là cái thai của con cá, đâu phải người đẻ. Hai ông tranh luận mãi không giải quyết được, 
		đưa nhau lên vua xử đoán. Ông mất con tâu rằng: - Tâu Bệ Hạ! Bữa trước vợ tôi ẵm nó đi chơi xẩy 
		tay rơi xuống sông, xin Bệ Hạ minh xét. Ông được con nói: - Tâu Bệ Hạ! Người ở nhà tôi đánh lưới được con 
		cá, đem về thấy đứa bé này ở trong bụng, chứ không phải anh ấy sinh nó 
		ra. Nhà vua nói: - Bây giờ có một đứa bé hai nhà 
		cùng nhận. Trẫm không biết cho ai là phải. Vậy hãy nghe ta giải quyết, 
		đứa bé này ta cho hai nhà nuôi chung, sau nó sẽ là con của hai nhà, mỗi 
		nhà cưới cho nó một con vợ, vợ nhà ai sinh thì thuộc con nhà ấy. Hai ông đều thưa: - Dạ! Muôn Tâu Bệ Hạ, chúng con xin tuân mạng. Cứ thế, hai ông về nuôi chung, năm qua tháng lại 
		không bao lâu đã lớn, mỗi nhà đều cưới cho một cô vợ, đôi bên cha mẹ 
		giàu một mình cậu tận hưởng. Nhân có việc cậu đi sang xứ khác, cũng là đại 
		nhân duyên, khi xong việc ra về gặp Phật đi du hóa nhân gian, cậu nhìn 
		thấy Phật oai đức lớn lao, quang minh sáng sủa, đầy vẻ tôn nghiêm và 
		thấy các người dân theo Phật tu học rất nhiều, cậu tới trước lễ Phật rồi 
		lui ngồi về một bên nghe Phật thuyết pháp như cây kia bị nắng héo khô 
		hạn, gặp trận mưa tưới mát, cành lá xanh tươi, cậu được nghe Phật thuyết 
		pháp cũng thế, nghe xong lễ tạ lui ra. Về nhà cậu rất sung sướng, với một ý niệm xuất 
		gia sắt đá đã phát khởi tự đáy lòng, mặc dầu cho đôi bên cha mẹ lắm bạc 
		nhiều tiền, vinh hoa phú quý, cậu coi nó như mây bay, như bọt nước, thưa 
		với cha mẹ đôi bên rằng: - Kính thưa song thân, lúc con mới sinh, đã mắc 
		nạn rơi xuống sông bị cá nuốt mạng thoát chết, con nhìn lại đời không có 
		gì vững chắc, dù cho lắm bạc nhiều tiền, quyền cao chức trọng, vợ đẹp 
		hầu sinh, không ai tránh khỏi hai chữ vô thường, chỉ có xuất gia cầu đạo 
		giải thoát là vui thú nhất. Vậy kính xin cho con xuất gia tu học! Ông bà Trưởng giả nghe cậu nói có lý cao siêu, 
		nên vui lòng cho tùy ý cậu. Sau khi được sự đồng ý của đôi bên cha mẹ, cậu 
		lên đường đi đến chốn Phật cúi đầu làm lễ bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn, thân người khó được, đời 
		là ảo mộng con thành thực trút bỏ nơi tục lụy, tới đây cầu Thế Tôn cho 
		con được nhập đạo tu hành, xin Từ bi tế độ! Phật nói: - Thiện Lai Tỳ kheo! Ngài nói dứt lời tóc trên đầu cậu tự nhiên rụng 
		hết, áo mặc trên mình biến thành áo Cà sa. Phật đặt pháp hiệu cho là 
		"Trùng Tín". Chăm chỉ tu hành không lâu đã đắc quả A la hán. Thấy thế tôi hỏi Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Không hay Trùng Tín quá 
		khứ kiếp làm hạnh gì, trồng nhân lành gì, rơi vào mồm cá không chết, hơn 
		nữa lại được hưởng hai gia nghiệp giàu có, cúi xin Ngài chỉ giáo cho 
		chúng con được rõ Phật dạy rằng: A Nan! Ông nên biết, đời quá khứ 
		đã quá lâu có đức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi, một hôm Ngài đương 
		thuyết pháp cho đại chúng, khi đó có một ông Trưởng giả đến dự thính. 
		Buổi ấy Phật nói về phúc Bố thí, phúc Trì giới, ông vui mừng phát khởi 
		lòng tin mạnh mẽ, xin Phật thụ Tam quy và thụ giới bất sát, thụ xong đem 
		một đồng tiền dâng Phật. Bởi thế cho nên đời đời được phúc báo vô biên, 
		trên cõi nhân gian, ít người bì kịp. A Nan! Ông Trưởng giả thuở đó nay 
		chính là Trùng Tín Tỳ kheo. Từ đó tới nay Trùng Tín đã được hưởng phú 
		quý trong chín mươi mốt kiếp, nay được hưởng thụ gia nghiệp của đôi nhà. 
		Do Trùng Tín giữ giới bất sát được hoàn toàn, nên cá nuốt không chết, và 
		cũng bởi thụ Tam quy nên nay mới được gặp ta, tắm gội pháp hóa của ta và 
		đắc quả A la hán, giải thoát sinh tử ba cõi. Khi đó tôi và tất cả mọi người nghe Phật nói 
		xong, ai nấy đều sung sướng phát tâm tu đạo, cúi đầu lễ tạ lui ra. 25/ Phẩm thứ hai mươi lăm TÁN ĐÀN NINH Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá 
		Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà, cùng với một ngàn 
		hai trăm năm mươi vị đại Tỳ kheo ở đó. Khi bấy giờ có năm trăm người ăn mày, bằng ngày 
		cứ theo Phật và chư Tăng xin ăn, ngoài ra không xin ai hết, đã lâu năm 
		vẫn không thôi. Khi đó tự bảo nhau rằng: - Lũ ta sống nhờ dưới bóng Phật và chư Tăng, đã 
		lâu ngày, xét rằng: Cứ như thế này mãi cũng vô ích, ngày qua tháng lại, 
		không lại hoàn không, một mai quỷ Vô thường tới bắt, chúng ta nhờ thế 
		lực gì cứu thoát, chi bằng chúng ta xin Phật xuất gia tu đạo, cầu giải 
		thoát là tối diệu. Bàn xong họ đến lễ Phật bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn, chúng con bạc phúc sinh 
		nơi hạ tiện, mong ơn cao cả hàng ngày được sống dưới bóng Từ Quang, hôm 
		nay bọn chúng con tất cả năm trăm người một lòng thành kính cầu xin xuất 
		gia tu đạo, cúi mong Từ bi tế độ! Sợ rằng chúng con là kẻ ăn xin, vào 
		chúng tu hành làm nhơ tiếng của ngôi Pháp Vương, việc đó có được xin 
		Ngài chỉ giáo? Phật dạy! Pháp của ta thanh tịnh, không phân 
		biệt giàu, nghèo, sang, hèn, cũng ví như nước trong sạch, đem rửa những 
		đồ nhơ bẩn thì các vật quý vật hèn, của tốt của xấu, trai hay gái đều 
		trong sạch cả. Pháp của ta ví như lửa cháy, tất cả núi, sông, đá, đất, 
		hoặc trên trời dưới biển muôn vật bất luận lớn nhỏ, nếu đốt đều cháy 
		tiêu tan. Pháp của ta cũng như hư không, con trai, con gái, giàu nghèo, 
		sang hèn, ai cũng có thể vào được. Nghe Phật nói xong, tất cả bọn đều vui mừng! Cúi 
		đầu lạy sát đất đồng thành xin nhập đạo tu hành. Phật nói: - Thiện Lai Tỳ kheo! Tất cả năm trăm người đều rụng hết tóc, áo Cà sa 
		thấy mặc tại mình, biến thành những Vị Sa môn tu hành không bao lâu đã 
		dứt hết lậu nghiệp, thành ngôi A la hán. Khi đó trong nước các nhà hào trưởng và nhân dân 
		hay tin Phật cho những người ăn mày xuất gia nhập đạo, họ rất không bằng 
		lòng và nói: - Những kẻ ăn mày hèn hạ, Phật cũng cho họ xuất 
		gia đứng vào hàng Tăng chúng. Chúng ta có tác phúc mời Phật và chư Tăng, 
		quyết không cúng dàng bọn họ, và cũng không thể cho họ ngồi giường chiếu 
		của nhà mình được. Thái tử Kỳ Đà biết thế, sửa soạn cơm chay chu 
		đáo, sai người đi mời Phật, dặn rằng: - Anh đi mời Phật và chư Tăng, chứ không mời bọn 
		ăn mày. Người đó đến lễ Phật và bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Thái tử Kỳ Đà ngày mai 
		xin mời Thế Tôn và chư Tăng đến vương cung thụ trai, cho Hoàng gia được 
		ân triêm công đức, song Thái tử có dặn con, không mời những ông ăn mày, 
		xin Ngài Từ bi hỷ xả cho? Phật mỉm cười nhận lời! Sáng mai lúc sắp đi phó trai, Phật bảo năm trăm 
		Khất Sĩ rằng: - Hôm nay ta và các Thánh Tăng đi phó trai tại 
		nhà Thái tử Kỳ Đà, các ngươi đi sang xứ Uất Đan Việt ở bắc phương, lấy 
		thứ lúa tám cánh, mang về nhà Thái tử, nơi ta phó trai, rồi cứ theo thứ 
		tự mà ngồi! - Dạ lạy Đức Thế Tôn, chúng con xin thụ giáo. Khi Phật đi khỏi các vị La Hán dùng thần túc bay 
		đi lấy lúa, trở về như đàn chim nhạn trên hư không, tới vương cung từ từ 
		hạ xuống, oai nghi đĩnh đạc, bước vào thứ tự ngồi nghiêm chỉnh. Thái tử thấy các vị này có thần túc tướng mạo 
		oai nghiêm, phúc đức đầy đủ, khen thầm trong bụng! Tự nghĩ: Hôm nay nhà 
		ta có phước lắm! Mừng lắm! Tới trước Phật quỳ thẳng chắp tay bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Các vị Hiền Thánh Đại 
		đức từ đâu lại, cúi xin Ngài chỉ giáo? - Phật nói: Kỳ Đà! Chắc ông không biết! Các vị 
		Tỳ kheo này trước đây là người ăn mày, mới theo ta tu học đã chứng thánh 
		quả, bữa qua Thái tử không mời, hôm nay sang xứ Uất Đan Việt lấy lúa tám 
		cánh về ăn đấy! - Thế Tôn công đức vô lượng vô biên khó tả xiết, 
		những người ăn xin đứng vào hàng hèn hạ nhất còn được đặc ân cao quý, 
		đời hiện tại an lạc, lai sinh nhàn cư đạo Vô Vi. Lòng Đại bi vô cùng cực 
		không bỏ sót một chúng sinh nào. Bạch rằng: Kính lạy đức Thế Tôn! Các vị Tỳ kheo 
		quá khứ trồng nhân lành gì? Tu công đức gì? Nay được gặp Thế Tôn! Và 
		không rõ tại tội gì sinh nơi nghèo khổ phải đi ăn mày, kính xin Ngài chỉ 
		giáo cho! Phật dạy: Kỳ Đà ông nên biết: Đời quá khứ không 
		biết lượng nào kiếp số, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một nước lớn tên 
		là Lợi Ba La Nại, nước ấy có một quả núi rất lớn tên là Sự Bạt Ta (Tàu 
		dịch là Tiên Sơn). Trước những thời cổ xưa, có các thứ Đức Phật tu trong 
		núi này, thời nào không có Phật lại có các vị Bích Chi Phật, hoặc có các 
		vị Tiên Sĩ, chứ không bao giờ vắng các vị Hiền Thánh. Thời đó, núi này có hai ngàn vị Bích Chi Phật, 
		gặp lúc hỏa tinh xuất hiện kéo dài mười năm, đồng ruộng khô khan, không 
		cày cấy gì được, nhân dân bị đói khát đau khổ. Lúc ấy có ông Trưởng giả 
		tên là Tán Đàn Ninh, nhà giàu thóc gạo nhiều, ông thường cung cấp cho 
		các đạo sĩ. Hôm ấy có một ngàn vị Bích Chi Phật đến nói với ông rằng: - Thưa Trưởng giả! Chúng tôi ở trong núi, gặp 
		lúc hạn, nhân dân đói thiếu, đi xin không được, Trưởng giả có thể cung 
		cấp cho chúng tôi ở tại đây tu hành được không? Bằng không chúng tôi sẽ 
		đi nơi khác! Đáp: - Kính xin quý vị ngồi chơi để chúng tôi 
		trả lời sau! Ông gọi người coi kho hỏi: - Thủ kho! Gạo còn nhiều không? Có thể cúng dàng 
		được một ngàn tu sĩ ở tại đây được không? - Dạ! Thưa Trưởng giả! Số thóc gạo còn rất 
		nhiều, có thể cúng dàng được. Ông ra đáp lời rằng: - Dạ! Thưa quý vị, chúng tôi xin thành tâm cúng 
		dàng, quý vị hoan hỷ và xin ở luôn tại nhà tôi cho tiện. Hôm sau lại có một ngàn vị nữa đến thưa với ông 
		rằng: - Thưa Trưởng giả! Chúng tôi có một ngàn vị tu 
		tại núi này, Ngài có thể cúng dàng được, thì quý hóa lắm, bằng không 
		phải đi nơi khác. - Dạ! Xin quý Ngài ngồi chơi! Trưởng giả gọi thủ kho hỏi: - Anh xem có thể cúng dàng được một ngàn vị nữa 
		không? - Dạ! Thưa Trưởng giả đủ. Ông ra đáp lời quý vị rằng: - Dạ! Thưa quý Ngài chúng tôi xin thành tâm 
		chúng dàng! Ông cúng dàng hai ngàn vị Bích Chi Phật, thuê 
		năm trăm người hàng ngày để thổi cơm gánh nước giặt giũ quần áo, hầu hạ 
		các vị đầy đủ, và một người coi đúng giờ đi mời các vị ăn cơm. Bọn năm trăm người thấy sự hầu hạ mỏi mệt, phát 
		giận nói với nhau rằng: - Chúng ta chịu sự cực khổ buổi sớm ban hôm 
		không được lúc nào nhàn rỗi cũng chỉ vì bọn ăn mày này. Người mời này nuôi một con chó, mỗi khi đi mời 
		cũng cho nó đi theo, một hôm mải chơi quên không đi mời, con chó có linh 
		giác, biết rằng chủ quên mời nó tự đi đến chỗ các vị Bích Chi, cắn lớn 
		mấy tiếng. Các vị hiểu nó đến mời, chú nguyện cho nó thoát khỏi thân Súc 
		sanh, sớm được gặp gỡ ngôi Tam bảo. Hôm đó thụ trai ngọ xong, các vị nói với ông 
		Trưởng giả rằng: - Thưa Trưởng giả, trời sắp mưa ông nên cấy lúa 
		là được. - Dạ! Các Ngài dạy bảo chúng tôi xin thọ giáo. Ông sai canh điền bắt trâu cày ruộng, quả nhiên 
		trời mưa, trồng các thứ lúa đều được tốt tươi. Nhưng lạ thay, những cây 
		lúa ấy sinh ra những quả bầu, ông Trưởng giả cho làm lạ, đến hỏi các vị, 
		các vị nói rằng: - Trưởng giả không lo! Cứ tưới bón vun xới cho 
		nó, một mai nó sẽ kết thành thóc gạo. Sau ngày bầu chín, người ta mang về bổ xem, quả 
		nhiên thấy lúa ở trong đầy ăm ắp. Ông Trưởng giả vui mừng, nhân dân cho là điềm 
		lạ! Vụ lúa này ông Trưởng giả được rất nhiều thóc, chứa đầy kho đụn, còn 
		thừa phân cấp cho nhân dân, từ đó mỗi người được no nê sung sướng, mưa 
		thuận gió hòa, được mùa lúa tốt. Khi đó bọn năm trăm người nói với nhau rằng: Năm nay được mùa lúa tốt no nê sung sướng là do 
		nơi các vị Đại Sĩ. Trước đây chúng ta nói xấu các vị, phải đối trước quý 
		Ngài tạ lỗi, kẻo lại sinh chịu quả báo đau khổ. Mọi người ai nấy đều sợ nghiệp báo, nên cùng 
		nhau đến trước các vị Bích Chi Phật, thụp lạy thiết tha sám hối. - Các vị thấy họ đã phát thiện tâm, cũng vui 
		lòng! Hỷ xả cứu tế. Họ thấy các vị đã hoan hỷ rồi, mọi người đồng 
		thanh phát nguyện rằng: - Nguyện cho chúng con được thoát ba đường ác, 
		lại sinh tri ngộ Hiền Thánh đắc quả giải thoát! Tới đây Phật nhắc lại rằng: Thái tử ông nên biết: Năm trăm người nói xấu các 
		vị Bích Chi Phật thuở đó nay là năm trăm vị ăn mày, vì một lời nói ác 
		nên trong năm trăm đời, phải đi ăn mày, cũng do có lòng sám hối phát 
		nguyện. Ông Trưởng giả Tán Đàn Ninh, chính là tiền thân của ta, người 
		coi kho này là ông Tu Đạt, người đi mời hằng ngày, nay là vua Ưu Điền, 
		con chó lúc ấy vì cắn mấy tiếng, nên đời đời được âm thanh tốt, nay là 
		ông Mỹ Âm Trưởng giả. Thái tử Kỳ Đà và tất cả trong Hoàng cung dân 
		chúng nghe Phật nói xong, ai nấy đều cảm mến lòng Từ bi thương đời của 
		Ngài một cách bình đẳng tuyệt đối, nên nhiều người phát khởi lòng hướng 
		theo tâm cao cả, tiêu trừ tâm ngã mạn kiêu căng. Lúc đó có người đắc sơ quả cho đến tứ quả. Tất 
		cả đều tạ lễ lui ra. 26/ Phẩm thứ hai mươi sáu BỐ THÍ ĐẦU Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở một 
		nước Tỳ Xá Ly, trong vườn cây A La. Khi đó đức Thế Tôn hỏi tôi (A Nan) rằng: - Những người được phép tứ thần túc thì thọ được 
		một kiếp, như ta được tứ thần túc còn phải tu tập. Vậy có biết Như Lai 
		thọ được bao nhiêu không? Ngài hỏi luôn ba lần như thế. Lúc đó tôi bị ma yếm chăng? Nên cứ lặng yên 
		không trả lời. Phật lại bảo: - A Nan! Ông hãy đi đến chỗ tĩnh mịch mà suy 
		xét. Tôi vâng lời đứng dậy đi vào trong rừng. Vừa đi khỏi, thì ma Ba Tuần đến bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài ở đời giáo hóa đã 
		lâu, tế độ nhân gian được thoát sinh tử, nhiều như số cát sông Hằng, nay 
		tuổi đã già yếu, Ngài nên vào Niết bàn đi! Phật lấy chút đất để trên móng tay hỏi Ba Tuần 
		rằng: - Đất trên móng tay ta nhiều hay đất quả địa cầu 
		nhiều? - Kính lạy Ngài, đất quả địa cầu nhiều. Ta độ chúng sinh cũng ít như đất trên móng tay 
		vậy, còn những chúng sinh chưa được độ cũng nhiều như đất quả địa cầu, 
		cách ba tháng nữa, ta sẽ vào Niết bàn. Ba Tuần nghe Phật nói xong vui mừng bái tạ lui 
		ra! Tôi ngồi trong rừng, chợt ngủ mê thấy một cây to 
		lớn che khắp cả hư không, cành lá um tùm hoa quả tốt tươi, công đức của 
		cây này vi diệu vô cùng, không thể tả xiết. Bỗng nhiên có một trận cuồng 
		phong làm cho cành lá tan nát tơi bời! Tôi lo sợ quá! Giật mình tỉnh dậy 
		lồng ngực hãy còn đập liền hồi, tôi thầm nghĩ như vầy: Ta mộng thấy cây 
		này là một cây mà tất cả thiên hạ đuợc nhờ, tự nhiên lại bị trận gió làm 
		tan nát như thế, Đức Thế Tôn của ta tế độ cho khắp nhân Thiên, Phàm 
		Thánh, muôn loài hàm sinh đều lợi ích. Cũng như cây này che chở cho khắp 
		thiên hạ, mộng này có lẽ đức Thế Tôn vào Niết bàn, tôi đứng lên vào Tinh 
		xá cúi đầu làm lễ bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Vừa đây con mộng thấy, 
		một cây to lớn che chở cho muôn loài bỗng gặp cơn gió lớn, đập gãy tan 
		tành, con dự đoán hay Thế Tôn sắp vào Niết bàn, lạy Ngày có phải, cúi 
		xin chỉ giáo? Phật dạy rằng: - Thực thế đấy! Sau ba tháng nữa 
		ta vào Niết bàn, cũng như lời ta vừa nói đây, những người được phép tứ 
		thần túc thì thọ một kiếp, như ta được tứ thần túc còn phải tu tập. Vậy 
		Như Lai thọ được bao nhiêu ư? Ta hỏi luôn ba lần như thế mà ngươi không 
		đáp, ngươi đi khỏi ma Ba Tuần lại mời ta vào Niết bàn và ta đã hứa. Tôi nghe xong như sét đánh bên tai, lo sợ quá! 
		Buồn khổ quá! Giờ đây Ngài vào Niết bàn, chúng sinh biết nương tựa vào 
		đâu? Sau đó các đệ tử ai ai cũng âu sầu buồn bả, xúm 
		xít thăm hỏi Ngài. Phật dạy rằng: - Tất cả thế gian đều bị luật vô 
		thường chuyển biến luôn luôn, nay còn mai mất, không có nhất định, từ 
		loài người, loài vật cho đến núi sông vũ trụ bao la, không có một vật gì 
		được tồn tại mãi mãi đâu. Ta vì chúng sinh trong pháp giới, việc nên làm 
		ta đã làm xong, những việc phải nói, ta đã nói hết, các ông nên chăm chỉ 
		tu hành, lo buồn làm chi vô ích. Ngài Xá Lợi Phất than rằng: - Than ôi! Con mắt sáng của thế gian đến ngày 
		diệt, đức Như Lai vào Niết bàn, chúng sinh hết chỗ trông nhờ! Ông nói xong quỳ bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn, con không nỡ nào nhìn 
		thấy Ngài nhập Niết bàn, con xin nhập Niết bàn trước, cúi xin Ngài hoan 
		hỷ cho con được thỏa nguyện. Ông thưa luôn ba lần như vậy. - Phật nói: Nếu tới thời ông nên biết các Hiền 
		Thánh cũng nên tịch diệt. Nghe Phật nói xong, ông quỳ thẳng đi bằng hai 
		gối, nhiễu Phật một trăm vòng, rồi đỡ lấy chân Phật để lên đầu ba lần, 
		bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Hôm nay là lần cuối cùng 
		con Từ biệt Ngài! Nói rồi cúi đầu khoanh tay nghiêm kính đi ra, Ngài trở 
		về nước La Duyệt Kỳ là nơi sinh quán, ông Sa di Quân Đề đưa tin cho vua 
		quan và các nhà thân tín hay, để họ đến thăm viếng. Vua A Xà Thế biết tin Ngài vào Niết bàn, tự nói 
		rằng: - Tôn giả Xá Lợi Phất là một vị đại tướng trong 
		Phật Pháp, than ôi! Ngài nhập Niết bàn chi sớm thế? Biết lấy ai để trấn 
		tĩnh lũ tà gian. Khi vua quan dân chúng đến đông đủ, họ thưa 
		rằng: - Kính lạy đức Tôn giả! Được tin Ngài sắp vào 
		Niết bàn, chúng tôi đây như con mất cha, như gà mất mẹ, không chốn nương 
		thân, không bề trông cậy. Ngài đáp rằng: Các Phật tử chớ buồn chi! Tất cả 
		muôn vật trên thế gian này đều thuộc hai chữ "Vô thường", đã có sinh tất 
		nhiên phải có tử, ba cõi đều khổ, ai là người được an vui, các vị đời 
		trước trồng nhân lành sinh gặp Phật tại thế, kinh pháp khó được nghe, 
		thân người khó được, phải chăm tu phúc nghiệp, để cầu thoát khỏi sinh tử 
		luân hồi là cốt yếu. Cứ như thế, Ngài tùy theo tâm chúng sinh mà 
		giảng giải rất khéo léo, cũng như Thầy thuốc tùy theo bệnh mà cắt thuốc, 
		để khiến cho họ được phần lợi ích. Khi giảng xong, cũng có người đắc sơ quả cho đến 
		tứ quả, cũng có người phát tâm cầu đạo Vô thượng, ai nấy tâm ý an hòa tạ 
		lễ lui ra. Khi giảng xong, cũng có người đắc sơ quả cho đến 
		tứ quả, cũng có người phát tâm cầu đạo Vô thượng, ai nấy tâm ý an hòa tạ 
		lễ lui ra. Giờ này đã quá nửa đêm, Ngài nghiêm tĩnh tâm ý 
		để tại trước mặt, vào cõi sơ thiền, từ sơ thiền vào cõi nhị thiền, từ 
		cõi nhị thiền vào cõi tam thiền, từ cõi tam thiền vào cõi tứ thiền, từ 
		cõi tứ thiền vào cõi không xứ, từ cõi không xứ vào cõi thức xứ, từ cõi 
		thức xứ vào cõi bất dụng xứ, từ cõi bất dụng xứ vào cõi phi hữu tưởng 
		phi vô tưởng xứ, lại từ cõi phi hữu tưởng phi vô tưởng vào định diệt 
		tận, từ định diệt tận nhập Niết bàn. Ông Thiên Đế Thích biết thế, đem họ hàng một 
		trăm ngàn người mang hương hoa xuống cúng dàng rồi than rằng: - Tôn giả trí tuệ rộng sâu, như trời cao, như 
		biển lớn, biện luận ứng cơ, mau hư chớp loáng, âm thanh như nước chảy, 
		giới, định, tuệ hoàn toàn, là một đại tướng trong Phật Pháp, thay đức 
		Như Lai chuyển Pháp luân. Ôi! Ngài nhập Niết bàn, mất con mắt sáng cõi 
		nhân thiên. Từ thành thị cho đến thôn quê, người đông như 
		kiến cỏ, mang hương hoa đến cúng dàng, ai nấy đều sa nước mắt. Ông Thiên Đế Thích và ông Tỳ Thủ Yết Ma đem xe 
		cõi trời xuống rước: Ngài đi trước, đi sau có bộ Thiên, bộ Long, quỷ 
		thần, vua quan, dân chúng, đến một nơi bình thản cao sạch. Vua Đế Thích 
		sai các quỷ Dạ xoa ra bờ biển lấy gỗ chiên đàn, gỗ ngưu đầu về chất 
		thành một đống, đổ dầu Tô phóng hỏa thiêu thi hài Tôn giả. Đốt xong mọi người bái tạ ra về. Chờ cho lửa 
		tắt, ông Sa di Quân Đề thu Xá Lợi của Thầy và tấm áo Cà sa đem về chốn 
		Phật, bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Thầy con là Xá Lợi Phất 
		đã nhập Niết bàn, đây là Xá Lợi và áo bát, xin Thế Tôn chứng minh. Thấy ông Quân Đề bạch xong cảm động quá! Tôi quỳ 
		xuống bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Ông Xá Lợi Phất với Phật 
		Pháp là một đại tướng, vào Niết bàn sớm quá, sau khi Ngài nhập diệt 
		chúng con biết nương cậy vào đâu? Phật dạy rằng: Tuy ông Xá Lợi Phất nhập Niết 
		bàn, song pháp thân và giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến 
		của ông đâu có nhập Niết bàn, vì ông không nỡ nhìn thấy ta nhập Niết 
		bàn, nên ông nhập trước ta đấy thôi. Chẳng những đời nay như thế, đời 
		quá khứ, ông cũng không đành lòng nhìn ta chết, ông còn tự chết trước 
		ta. - Kính lạy đức Thế Tôn! Đời quá khứ Tôn giả Xá 
		Lợi Phất chết trước Ngài, việc đó thế nào, cúi xin nói cho chúng con và 
		chúng sinh đời sau được rõ. - A Nan ông nên biết! Đời quá khứ đã lâu lắm, 
		cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua tên là Chiên Đà Bà La Tỳ (Tàu 
		dịch là Nguyệt Quang) thống lãnh tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi 
		sông, tám muôn ức tụ lạc, ông có hai muôn Phu nhân và thể nữ, bà thứ 
		nhứt tên là Tu Ma Đàn (Tàu dịch là Hoa Thị), một vạn quan đại thần, ông 
		quan lớn nhất tên là Ma Chiên Đà (Tàu dịch là Đại Nguyệt), năm trăm Thái 
		tử, người thứ nhất tên là Thi La Bạt Đà (Tàu dịch là Hiền Thọ). Thành ấy ngang dọc bốn trăm do tuần, làm thuần 
		bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê, bốn mặt có bốn trăm hai mươi cửa, đường 
		sá thành phố trang nghiêm. Trong nước ấy có bốn hàng cây bằng vàng, bạc, 
		lưu ly, pha lê. Cành vàng lá bạc, hoặc lá vàng cành bạc, hoặc lá lưu ly 
		cành pha lê, hoặc lá pha lê cành lưu ly. Những hồ ao bằng bốn thứ trân 
		bảo, cát dưới lòng ao bằng bốn thứ bảo nói trên. Trong cung nhà vua chu 
		vi bốn mươi dặm, làm thuần bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê. Thời đó nước 
		giàu dân mạnh, an vui sung sướng! Một hôm vua ngồi trên bảo điện thốt nhiên nghĩ 
		như vầy: Người ta ở trên đời tôn vinh hay phú quý, thiên hạ kính nể muốn 
		gì được nấy cũng do quả báo tích đức tu thiện đời trước đem lại. Cũng ví 
		như kẻ nông phu, mùa Xuân mất công cày bừa gieo mạ cấy lúa, tới mùa Hạ, 
		mùa Thu gặt hái được thóc gạo đem về ăn uống. Nếu mùa Xuân họ không mất 
		công cày cấy, dĩ nhiên mùa Hạ, mùa Thu không gặt hái thu hoạch được. Ta cũng thế, đời trước tu phúc lành, đời nay 
		hưởng quả tốt, nếu bây giờ ta không tiếp tục tu theo, đời sau lấy gì an 
		hưởng? Nghĩ rồi bảo các quan đem tiền của ở trong kho 
		ra bố thí, và sắc lệnh cho tám vạn bốn ngàn ông vua, cũng phải mở kho bố 
		thí cho nhân dân. Khi đó các ông vua phải tuân theo mệnh lệnh, 
		thông cáo cho toàn cõi biết. Ngày phát chẩn nhân dân kéo nhau đến Kinh thành 
		đông như kiến cỏ, kẻ mạnh cõng người yếu, kẻ sáng dắt người mù, ai nấy 
		đều được nhà vua phân cấp tiền gạo, áo quần đầy đủ, từ đó muôn dân được 
		an vui sung sướng. Danh đức lừng lẫy, tiếng khen đồn khắp bốn phương. Thuở đó có một ông vua nước nhỏ ở bên cạnh, tên 
		là Tỳ Ma Tư Na, thấy nhân dân ca tụng và cảm phục vua Nguyệt Quang, đem 
		lòng ghen ghét, ngày quên ăn, đêm quên ngủ, ông thầm nghĩ như vầy: - Nếu ta không dùng mưu tiêu diệt được ông 
		Nguyệt Quang, có lẽ danh tiếng của ta không bao giờ hiển đạt! Nghĩ xong 
		ông triệu tập các Thầy Bà la môn trong nước đến, cúng dàng ba tháng rất 
		trịnh trọng, xong ba tháng ông nói với các vị rằng: - Thưa quý giáo sĩ! Tôi có một việc đáng lo! Đến 
		nỗi ngày quên ăn, đêm mất ngủ, quý Ngài có phương tiện gì giải quyết hộ? Thầy Bà la môn hỏi: - Tâu Bệ Hạ! Có việc chi xin nói cho chúng tôi 
		rõ, nếu giúp được chúng tôi xin hết sức. - Thưa quý Ngài! Hiện nay vua Nguyệt Quang muôn 
		phương mến phục, phúc đức lớn lao! Dĩ nhiên có sự lo lớn cho tôi sau 
		này! Quý Ngài có thần phép gì tiêu diệt ông đó hộ? - Tâu Bệ Hạ! Vua Nguyệt Quang là người có đức 
		lớn, thương dân như con, dân coi vua như cha mẹ, chúng tôi nỡ đem tâm gì 
		để mưu hại, thà chịu chết chứ không bao giờ nỡ hại người hiền. Nói xong mấy ông đều xin cáo thoái. Vua Tỳ Ma Tư Na rất bực mình, liền hạ chiếu cho 
		toàn quốc biết: - Nếu ai lấy được đầu vua Nguyệt Quang tôi sẽ gả 
		con gái, và phân nước cho một nửa để cai trị! Khi đó có một người dòng Bà la môn tên là Lao Độ 
		Sai, ở núi Hiếp, đến xin đi lấy đầu vua Nguyệt Quang, nhà vua vui vẻ 
		nói: - Nếu khanh làm được việc này, ta sẽ giữ lời hứa 
		và định đến hôm nào đi, xin cho biết. Lao Độ Sai nói: - Xin khất Bệ Hạ bảy ngày nữa. Nói xong từ tạ ra về, về nhà nhập thất bảy ngày, 
		trì chú hộ thân. Qua bảy ngày, đến cung vua, nhà vua cung cấp 
		lương thực tiền lộ phí, khi bước ra đi cương quyết nói: - Xin Bệ Hạ chớ lo! Tôi thề rằng: Nếu không lấy 
		được đầu vua Nguyệt Quang, quyết không về, cam đoan thế nào cũng lấy cho 
		bằng được! Khi đó trong nước vua Nguyệt Quang có những điềm 
		bất tường xuất hiện: - Động đất. - Chớp giật, tinh rơi, sấm động. - Ban ngày sương khói kéo mờ mịt. - Sao chổi mọc. - Mưa đá, sét đánh tứ tung. - Các loài chim kêu rất thảm thiết ở hư không, 
		và nó tự nhổ lông cánh rơi đầy mặt đất. - Hổ, Báo, Sài, Lang, tự đâm mình xuống hố, hoặc 
		kêu gào thảm khốc. - Tám vạn bốn ngàn ông vua nước nhỏ đều mộng 
		thấy cành phướn vàng của nhà vua, bị gãy, trống vàng vị thủng. - Ông vua Đại Nguyệt mơ thấy quỷ lại cướp mũ 
		vàng của vua mang đi. Thấy điềm bất tường biến hiện, bá quan văn võ 
		đều lo. Khi đó ông thần coi thành biết Lao Độ Sai đến 
		xin đầu vua. Ông hóa phép làm cho mơ màng không biết lối vào, cứ đi lẩn 
		quẩn bên ngoài thành. Ông trời Tịnh Cư thấy thế báo động cho nhà vua 
		hay rằng: - Bệ Hạ làm hạnh bố thí, hiện có người đến xin, 
		đương ở bên ngoài thành mà không được vào. Nhà vua thức dậy ngạc nhiên rồi gọi ông Đại 
		Nguyệt vào: - Ông ra ngoài cổng thành, cấm không được ai 
		ngăn giữ người nào vào xin. Đại Nguyệt ra cổng thành, nhìn ngơ ngác không 
		thấy ai là người ngăn cấm cả. Khi đó ông thần coi thành hiện lên nói 
		rằng: - Thưa Đại Thần! Hiện có một người dòng Bà la 
		môn, ở nước khác đến xin đầu vua, vì thế nên tôi không cho vào. - Nếu quả như vậy, là một tai hại lớn, xong vua 
		đã ra lệnh chúng ta không được trái ý. Theo lời ông Đại Nguyệt nói, nên ông thần tha 
		cho Lao Độ Sai. Đại Nguyệt thầm nghĩ rằng: - Nếu kẻ này xin đầu vua, thì ta dự lấy năm trăm 
		đầu bằng Thất bảo, về đặt thợ làm. Lao Độ Sai như người tỉnh giấc mơ, bước vào cung 
		vua lớn tiếng nói: - Tôi ở nơi xa nghe biết nhà vua làm hạnh bố 
		thí, ai muốn xin gì cũng cho, tôi tới đây xin một việc rất khó. Nhà vua thấy người có vẻ ngỗ nghịch, ăn nói thô 
		lỗ biết rằng kẻ này thử thách ta mừng thầm! Tự đứng dậy ra đón chào, và 
		hỏi thăm từ đâu tới, và đi đường có đỡ mỏi mệt không, rồi hỏi: - Ngài muốn dùng gì xin cứ nói, dầu khó khăn đến 
		đâu, nếu có thể tôi xin biếu Ngài! Lao Độ Sai nói: Ngài bố thí tiền, của, thức ăn, 
		cho đến mọi vật, tuy có phúc báu nhưng chưa lớn bằng phúc bố thí vật 
		trong thân mình. Vậy tôi chỉ xin cái đầu của nhà vua, có thể được xin 
		cho biết? Nhà vua nói: - Dạ! Xin vui lòng biếu Ngài một 
		cách thành thực. - Ngài cho tôi bây giờ, hay ngày nào? - Dạ! Xin khất Đại đức bảy ngày nữa. Vừa lúc đó ông Đại Nguyệt đem năm trăm cái đầu 
		Thất bảo đến, đấm tay vào ngực nói với Lao Độ Sai rằng: - Đầu vua bằng xương thịt, huyết máu hợp thành, 
		hôi thối và là vật bất tịnh nhơ bẩn, bác xin làm chi? Bác lấy đầu Thất 
		bảo này mang về có thể sung sướng suốt đời. - Thưa Ngài đầu Thất bảo tôi cũng không thiếu, 
		chỉ thiếu đầu vua mới đến đây. Thấy Lao Độ Sai ương ngạnh quá, nói không vào, 
		ông dịu giọng năn nỉ thì dỗ rất ngọt ngào. Song Lao Độ Sai quyết định 
		không nghe. Ông phẫn uất quá, quả tim nổ thành bảy miếng, 
		chết liền trước mặt nhà vua. Khi đó nhà vua và triều thần văn võ thương ông 
		quá! Mọi người đều sa nước mắt! Và thu xếp làm lễ an táng cho ông. Xong việc an táng cho ông Đại Nguyệt, nhà vua 
		sai các quan cỡi voi đi tám ngàn dặm báo cáo cho trong nước biết rằng: - Quốc dân nên biết, vua Nguyệt Quang thực hành 
		bố thí, trước đây phân cấp cho nhân dân các món ăn dùng, bây giờ có tên 
		Lao Độ Sai ở nước khác đến xin đầu, Ngài quyết định bố thí cho thành đại 
		nguyện, vậy để quốc dân được rõ. Được tin như vậy, ai cũng buồn, tám vạn bốn ngàn 
		ông vua nước nhỏ, khi tới đủ đều tâu với vua rằng: - Tâu Bệ Hạ! Tất cả Châu Diêm Phù Đề nhờ đức độ 
		của Ngài được mưa hòa gió thuận, thái bình thịnh trị, cây cỏ xinh tươi, 
		mùa màng lúa tốt, no nê sung sướng, thóc gạo ngon thơm, muôn dân an lạc. 
		Tại sao Ngài vì một người mà không thương tất cả muôn phương? Một vạn quan Đại thần đồng thanh nói: - Xin Bệ Hạ miễn bỏ việc bố thí đầu, chưa từng 
		thấy có sự quái lạ như vậy! Bây giờ Ngài nghe một kẻ khốn nạn, dở hơi để 
		lũ chúng tôi buồn bực! Hai muôn bà Phu nhân và năm trăm Thái tử, gieo 
		mình xuống đất khóc lóc! Xin vua miễn bỏ việc bố thí đầu, nhưng nhà vua 
		vẫn khoan hòa nét mặt an ủi nói: - Xin các vương hầu khanh tướng, hãy bình tĩnh 
		nghe tôi nói, con người vì kết buộc tình ân ái từ kiếp vô thủy, nên chịu 
		ách sinh tử lâu dài, chưa thấy ai đã thực hành bỏ được, nhất là yêu tiếc 
		bản thân. Xét rằng từ vô biên kiếp đến nay, sống chết đã bao đời không 
		tả xiết, lúc ở trong Địa ngục, một ngày bỏ thân vô số, chết trong nước 
		sông phân, nằm sắt, ôm cột đồng, ngâm mình trong nước phân sôi, khi ngồi 
		trên xe lửa, khi nằm dưới hố than. Còn nhiều Địa ngục không kể, bị đau 
		khổ vô cùng không nói hết, thì những thân ấy đã bỏ đi nhiều vô hạn lượng 
		lại không có phúc báu gì. Khi làm loài Súc sanh bị loại người chém giết, 
		thịt nát xương tan, thì những thân ấy toàn là vô phúc đọa lạc. Khi làm loài quỷ đói, lửa trong mình phát ra, 
		hoặc vòng dao lửa bay tới chém thân chặt đầu, chết đi sống lại vô số, 
		những thân ấy đều không có phúc báu, nên bị đọa đày. Khi ở nhân gian vì lòng tham giận tàn sát lẫn 
		nhau, cũng do tài sắc kết buộc, những thân ấy bị chết rất nhiều, hoàn 
		toàn không làm được một chút chi cho bản giác. Hiện tại thân tôi đây toàn thị nhơ bẩn, rồi một 
		ngày kia cũng bị tiêu không, tôi bỏ cái đầu nhơ uế xấu xa này, để đổi 
		lấy pháp thân thường, lạc, ngã, tịnh, an vui vô cùng kiếp! Hơn nữa tôi 
		còn có thể đem lợi ích cho toàn thể đời vị lại, phải nhìn xa, phải trông 
		rộng, không cục hạn mặt cái thân hèn mọn bé nhỏ này, có lợi ích lớn như 
		thế, can tôi làm chi. Tôi bố thí cái đầu này để cầu thành Phật, sau khi 
		thành tôi sẽ độ thoát cho lũ các ông qua khỏi nỗi khổ sinh, già, bệnh, 
		chết, được an vui giải thoát đời đời, ngăn cản đạo tâm Vô thượng của tôi 
		làm chi? Tất cả mọi người nghe nhà vua giảng thuyết vừa 
		xong ai nấy đều phải nín thinh, không dám trả lời sao hết. Nhà vua thấy quần chúng đã an tâm, ngoảnh bảo 
		Lao Độ Sai rằng: - Bây giờ ta cho nhà ngươi được tự do lấy đầu. Lao Độ Sai đáp: - Tâu Bệ Hạ, hiện tôi có một 
		mình, lực yếu thế cô, chung quanh vua quan dân chúng nhiều, nếu nhà vua 
		có cho, xin ra hậu viên, nơi vắng, chỉ riêng một mình tôi với nhà vua mà 
		thôi, thì mới dám chặt đầu. Nhà vua tuyên bố với đại chúng rằng: - Tất cả các ông có yêu tôi! Kính tôi, xin chớ 
		làm hại Lao Độ Sai. Nói xong cùng Lao Độ Sai ra hậu viên. Lao Độ Sai nói: - Sức vua hùng tráng khỏa mạnh, cắt đầu đau đớn, 
		lúc đó lại hối tiếc thì sao? Vậy nhà vua hãy lấy dây buộc cổ treo lên 
		cành cây để tôi cắt cho dễ. Nhà vua ngồi dưới gốc cây to lớn, lấy tóc buộc 
		và thân cây nói rằng: - Ông cắt đầu xong để lên trên bàn tay tôi, tôi 
		dâng biếu ông. Chắp tay kính cẩn nguyện rằng: - Kính lạy thập phương tam thế Hùng Sư, nguyện 
		công đức này không cầu làm Phạm Vương, Ma Vương, Đế Thích, Chuyển Luân 
		Thánh Vương để vui sướng ở ba cõi, con xin cầu thành Phật, độ chúng 
		sinh, đưa dắt muôn loài đến cõi Niết bàn an lạc. Lao Độ Sai vừa giơ dao lên chém, trên cây có ông 
		Thụ Thần, chỉ ngón tay vào đầu làm cho Lao Độ Sai rời rụng chân tay vất 
		dao xuống đất, mê mệt ngã quay lơ. Nhà vua ngửa mặt bảo Thụ Thần rằng: - Thụ Thần ông nên biết, từ đời quá khứ tới nay, 
		dưới gốc cây này, tôi đã bố thí chín trăm chín mươi chín cái đầu, hôm 
		nay bố thí cái nữa, là đủ ngàn. Đối với nguyện bố thí của tôi đã sắp 
		được hoàn toàn, ông đừng làm rắc rối nữa, cản trở đạo tâm bố thí của tôi 
		làm chi! Ông Thụ Thần nghe vua nói xong, liền buông thả 
		Lao Độ Sai được bình phục như cũ. Thoát ách ông Thụ Thần làm ám ảnh, Lao Độ Sai 
		đứng dậy múa dao chém ngang cổ vua một nhát rất mạnh, đầu rơi vào tay, 
		nhà vua kính cẩn dâng lên biếu Lao Độ Sai. Ngay giờ phút này, trời đất đều chấn động, các 
		cung điện trên thiên cung nghiêng ngã, các ông thiên tử không biết điềm 
		tướng gì, ngó cõi nhân gian, thấy một vị Bồ tát vì chúng sinh bố thí 
		đầu, đều bay xuống xem, cảm động quá! Rơi lệ như mưa, lại khen rằng: - Bồ tát, Ngài làm hạnh xuất tục siêu phàm, chưa 
		từng ai dám cả gan làm hạnh bố thí được như Ngài, vô cùng tận chúng sinh 
		đều phải thán phục, sự thực hành vô ngã tướng này. Vua Tỳ Ma Tư Na sau khi hay tin Lao Độ Sai đã 
		lấy được đầu trở về nước vui mừng quá! Vì sức vui lên cực độ nổ tim 
		chết. Lao Độ Sai xách đầu ra về, vua quan dân chúng, 
		Phu nhân Thái tử nhìn thấy đều lăn đùng ra đất, gào khóc! Có người cảm 
		thương quá thổ quyết chết! Có người đứng ngay đơ không biết gì, các bà 
		dứt tóc ra từng mảnh, người xé quần xé áo, người cào mặt be bét, máu 
		chảy đầm địa, lăn lộn trên mặt đất! Lao Độ Sai đem đầu đi được mấy hôm, thấy hôi 
		thối ghê tởm, vất xuống đạp lên trên mà đi, nhân dân thấy, họ la mắng dữ 
		dội. Anh là kẻ bất lương, ác độc, không dùng xin làm chi, đi tới đâu họ 
		cũng nguyền rủa chửi mắng, họ lại ngăn cấm không được ai cho ăn, nên anh 
		chịu nhịn đói, nửa đường gặp người quen, anh hỏi thăm vua Tỳ Ma Tư Na họ 
		đáp rằng: "Nhà vua mừng quá nổ tim chết". Lao Độ Sai buồn quá, vỡ tim chết liền. Hai người 
		đều phải vào Địa ngục A Tỳ Nê Lộ, còn những người vì thương vua mà chết, 
		nên được sinh thiên. Nói tới đây Phật nhắc lại rằng: - A Nan! Ông nên biết vua Nguyệt Quang thuở đó 
		chính là tiền thân của ta, vua Tỳ Ma Tư Na nay là Ma Ba Tuần, Lao Độ Sai 
		nay là ông Điều Đạt, ông Thụ Thần nay là ông Mục Kiền Liên, ông quan Đại 
		Nguyệt nay là ông Xá Lợi Phất. Thời bấy giờ ông không nỡ thấy ta chết, 
		mà ông tự chết trước, cho đến ngày nay ông cũng không nỡ nhìn thấy ta 
		vào Niết bàn mà ông nhập trước đấy thôi. Tôi cùng tất cả đại chúng nghe Ngài nói xong, 
		vừa thương Phật vừa cảm tấm lòng nhiệt thành của ông Xá Lợi Phất, có 
		thủy chung với Phật, đồng thanh tán thán công đức rất nhiều, ai nấy đều 
		phát tâm hiếu kính, nên có người đắc sơ quả, đến tứ quả, có người phát 
		tâm Vô thượng, tạ lễ mà lui. (Quyển 5 hết) 
		  |