| 
		 | 
		
| 
		
		 | 
		
		
		  Kinh Hiền Ngu 
		(Bàlapandita sutta) 
		 
		Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Tám 38/ Phẩm 
		thứ ba mươi tám CÁI SỰ Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước La 
		Duyệt Kỳ, tại Tinh xá vườn Trúc. Lúc ấy tôi đương tọa thiền trong rừng 
		tự nghĩ rằng: - Đức Phật xuất thế thực là một điềm lạ lùng, độ 
		người nhiều như vậy. Sự ăn uống đầy đủ, hơn nữa lại được hết khổ, tất cả 
		vua, quan, dân chúng được lợi ích vô cùng tận. Vì sao? Vì Ngài vạch 
		đường chỉ lối, cho thoát khỏi tam đồ ác đạo, đời vị lai được hưởng phúc 
		báu trên cõi nhân thiên, hơn nữa lại được đạo Niết bàn. Nghĩ thế rồi tôi 
		đứng dậy về Tinh xá. Khi đó đức Thế Tôn đương thuyết pháp cho đại chúng 
		nghe. Tôi mặc áo chễ vai bên hữu, tới trước quỳ gối bên hữu xuống đất, 
		chắp tay, chiêm ngưỡng rồi đem ý nghĩ trên bạch Phật. Phật dạy: - A Nan! Ông nghĩ như thế phải đấy, 
		Như Lai ra đời cũng rất lạ, vì tất cả chúng sinh được lợi ích lớn, và 
		cũng không cứ gì ngày nay thế đâu, đời quá khứ ta cũng đã làm lợi ích 
		cho nhiều. - Kính lạy Ngài! Đời quá khứ Ngài làm lợi cho 
		chúng sinh thế nào, cúi xin nói lại cho chúng con được biết? - A Nan! Đời quá khứ tính số kiếp A tăng kỳ đã 
		quá lâu, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có bốn con sông, và hai ông vua nước 
		lớn. Một ông tên là Ba La Đề Bà (Tàu dịch Phạm Thiên), ông này chiếm cứ 
		ba con sông, nhân dân giàu thịnh, nhưng quân sự kém. Một ông tên là Phạt Sà Kiện Đề (Tàu dịch: Kim 
		Cương Tụ), ông này có một con sông, dân chúng ít, nhưng quân sự giỏi. Vua Kim Cương Tụ thầm nghĩ như vầy: - Quân ta hùng mạnh, có một con sông ít nước, 
		vua Phạm Thiên quân lực kém, chiếm giữ ba con sông, phải sai người sang 
		đòi lại một con sông, nếu trả thì ta chơi thân với, có của gì tốt ta sẽ 
		biếu, nếu gặp sự nguy biến ta sẽ đem quân sang cứu; nếu không, ta sẽ 
		mang quân đánh lấy lại! Nghĩ thế rồi triệu các quan Đại Thần vào bàn 
		việc nước. Sau cuộc hội nghị, nhà vua sai sứ mang thư sang cho vua Phạm 
		Thiên, như trên đã định. Vua Phạm Thiên xem thư xong, thần nghĩ như vầy: - Giang sơn đất nước là của cha ta để lại, chớ 
		không phải ta cướp đoạt của hắn mà hắn đòi. Nghĩ xong bảo Sứ giả rằng: - Giang sơn đất nước không phải tự ta mà có, đây 
		là của cha ta truyền lại, vô cớ đem trả cho chúa nhà ngươi, cả một sự vô 
		lý. Nếu chúa nhà ngươi dùng quân lực chiến đấu, thì ta đây cũng không 
		hẹp gì! Sứ giả về nước tâu vua như lời nói trên. Vua Kim 
		Cương Tụ đem đại hùng binh sang đánh một trận. Quân vua Phạm Thiên thất 
		trận chạy tán loạn! Thừa cơ, quân Kim Cương Tụ đuổi tới kinh thành, vây 
		bốn mặt. Quân vua Phạm Thiên sợ không dám ra chiến đấu, 
		các quan thấy sự nguy ngập nên tâu rằng: - Tâu Bệ Hạ! Quân họ mạnh, quân ta yếu. Bệ Hạ 
		tiếc chi một con sông mà để di hại cho muôn dân, không chừng còn mất 
		nước là đàng khác, cúi xin Bệ Hạ trả lại cho họ còn có tình nghĩa hơn. Nhà vua đồng ý, sai người ra thưa với vua Kim 
		Cương Tụ rằng: - Tâu Bệ Hạ! Chúa công tôi xin chấp thuận lời 
		yêu cầu trước của Bệ Hạ, để trả lại một con sông, và dâng vua thêm một 
		người con gái. Từ đây trở đi nếu nước nào có vật gì quý thì tặng lẫn cho 
		nhau, gặp lúc nguy hiểm thì sẽ bênh vực nhau! Vua Kim Cương Tụ đồng ý rút quân, rồi đem người 
		con gái ấy về làm vợ. Qua một thời gian cô có thai, và luôn có một 
		chiếc tán Thất bảo che trên đầu, đi, đứng, nằm, ngồi thường như vậy. Mãn 
		kỳ sinh được cậu con trai, thân sắc vàng, tóc xanh mướt, có bóng sáng 
		lóng lánh nơi thân thể. Từ khi sinh cậu ra, thì cái tán ấy lại che trên 
		đầu cậu. Nhà vua với các Thầy tướng vào xem, các Thầy đều 
		khen! Và tâu vua rằng: - Tâu Bệ Hạ! Quý hóa lắm. Thái tử nhân tướng đầy 
		đủ, đức lực viên mãn, trên đời có một không hai! Nghe Tướng sư nói, nhà Vua và Hoàng hậu rất vui 
		mừng! Lại nhờ đặt tên cho Thái tử. Theo cổ truyền, đặt tên phải căn cứ vào hai 
		việc: Một, Điềm lành; Hai, Tinh tú. Tướng sư tâu vua rằng: - Tâu Bệ Hạ! Khi hoài thai có điềm gì lạ không? - Trong khi hoài thai, có tán bằng Thất bảo che 
		trên đầu. - Tâu Bệ Hạ! Cứ theo điềm này xin đặt là: Sái La 
		Già Lợi (Tàu dịch: Cái Sự). Thái tử đến tuổi trưởng thành thì vua chết, an 
		táng cho vua xong, Thái tử lên nối ngôi, chấp chính được vài năm, thường 
		đi chơi các miền quê để quan sát dân sự làm ăn. Trời nắng như đốt, những người nông phu cởi trần 
		trùng trục, với con trâu kéo cày, tiếng kêu "cót két", dưới bãi đất lầy 
		một cách lao khổ, đọa đày thể xác. Nhà vua hỏi tả hữu rằng: - Những người này làm 
		gì khó nhọc thế? - Tâu Bệ Hạ! Nước lấy dân làm gốc, dân lấy thóc 
		làm mạng sống, nếu không làm lụng khó nhọc, thì không lấy gì bảo tồn 
		được mạng sống của dân; dân nếu nghèo thì nước phải nguy vong! Nhà vua nói: - Nếu phúc đức của tôi được làm 
		vua, thì nhân dân không phải cấy cày, thóc lúa tự nhiên có đủ ăn dùng. Nhà vua nguyện xong, thì tất cả trong nước nhà 
		ai cũng có lúa thóc, tùy lòng ước muốn thứ lúa nào, thì có thứ lúa ấy, 
		từ đó nhân dân không phải cày cấy, thức ăn tự nhiên có sẵn. Thời gian sau, nhà vua đi ra lần thứ hai, thấy 
		những người dân, đẵn củi, gánh nước, giã gạo mồ hôi nhễ nhại, coi rất 
		khó nhọc. Nhà vua hỏi các quan rằng: - Những người này làm gì mà lao khổ như thế? - Tâu Bệ Hạ! Nhân dân mong ơn Bệ Hạ, được lúa 
		thóc tự nhiên, không phải cày cấy. Nhưng phải xay giã, kiếm củi nấu chín 
		mới ăn được; vì thế họ còn phải khó nhọc! Nhà vua nói: - Nếu phúc đức tôi được làm vua, 
		thì xin cho dân nước tôi, khi muốn thì các món ăn tự nhiên hiện ra trước 
		mặt. Nhà vua nói sao được vậy. Từ đó nhân dân đều 
		được các món ăn tự nhiên chứ không phải làm. Qua thời gian ấy vua lại đi chơi, thấy người kéo 
		bông, se chỉ, dệt vải may áo, vua hỏi rằng: - Những người này làm gì, coi vẻ khó nhọc như 
		thế? - Tâu Bệ Hạ! Nhân dân nhờ ơn đức hóa của Bệ Hạ, 
		được món ăn tự nhiên, giờ đây họ dệt vải để may áo mặc. Nhà vua nói: - Nếu phúc đức của tôi được làm 
		vua, thì khiến cho những cây cối trong nước sinh ra các thứ áo! Nói xong, tất cả cây cối trên mặt đất đều sinh 
		ra các thứ áo xanh, vàng, đỏ, trắng, tùy theo ý muốn của từng người ưa 
		thích. Qua thời gian ấy vua lại đi chơi, thấy các người 
		dân đua nhau làm các thứ âm nhạc, hỏi rằng: - Những người này họ làm cái gì như vậy? - Tâu Bệ Hạ! Nhân dân mong ơn Bệ Hạ, ăn mặc được 
		đầy đủ, giờ đây họ làm các thứ âm nhạc, để ca hát vui chơi cho khoái 
		chí! Nhà vua nói: - Nếu phúc đức của tôi được làm 
		vua, thì khiến cho các cây cối trên mặt đất, sinh ra các đồ âm nhạc, 
		theo ý muốn của từng người ưa thích. Nói xong, thì tất cả các cây trên mặt đất đều 
		sinh ra các thứ nhạc khí. Qua thời gian sau, các quan bản triều đến bái 
		tạ! Nơi điện tiền nhà vua, khi tới bữa ăn, vua lưu lại dùng cơm. Hôm ấy 
		các quân được thưởng thức các món ăn của nhà vua, nhận thấy ngon lành 
		quá, nghĩa là chưa từng được ăn bao giờ, ăn vào thân thể khỏe mạnh sung 
		sướng, họ đều tâu vua rằng: - Tâu Bệ Hạ! Nhà Hạ Thần không bao giờ có các 
		món ăn này, vừa ngon lành lại vừa khỏe mạnh, ăn vào thấy thân tâm an 
		lạc. - Nhà vua nói: - Các ông muốn thường được thức 
		ăn như hôm nay, cứ theo đúng giờ ăn của tôi mà ăn, thì sẽ được các món 
		ăn ngon lành. Sau nhà vua sắc lệnh cho toàn quốc, khi tới giờ 
		vua ăn, phải đánh trống báo cho nhân dân biết. Từ đó nhân dân hễ nghe 
		tiếng trống báo, thì họ nghĩ đến việc ăn, cho nên toàn thể dân chúng 
		trong nước, ai ai cũng được thức ăn ngon như nhà vua. Khi đó vua Phạm Vương sai sứ sang nói với vua 
		Cái Sự rằng: - Tại thời cha ngươi, ta cho một con sông, bây 
		giờ cha ngươi chết rồi thì trả lại cho ta! Cái Sự bảo Sứ rằng: - Bờ cõi giang sơn đây, cũng không phải ta áp 
		bức chúa nhà ngươi mà lấy. Song ta làm vua không để mệt sức cho dân, 
		nhưng đó là một việc nhỏ, hãy hoãn lại, sau đây ta với chúa của nhà 
		ngươi được gặp nhau, để nói cái việc thiết yếu của giữa hai nước. Sứ giả về tâu vua như lời nói trên. Phạm Vương 
		đồng ý, định ngày để gặp. Ngày hẹn đã tới, hai ông đều đem quân ra bờ sông 
		giáp ranh giới, lên thuyền ra giữa sông để tương kiến. Vua Phạm Thiên thấy vua Cái Sự thân sáng rực như 
		núi vàng, tóc mượt như lưu ly, mắt sáng tợ sao ngôi, mồm tươi như hoa 
		nở, mũi thẳng, mặt vuông, tai chùng, oai phong lẫm liệt, tự phát sinh 
		lòng kính trọng, cho rằng: - Một ông Trời Đại Phạm, hai người gặp nhau 
		bàn luận về việc đời nước sông! Cái Sự nói: - Nhân dân nước tôi sự ăn dùng tự 
		nhiên có, không phải tạo tác mệt nhọc, và cũng không phải thâu thuế phạt 
		tiền, tôi không bao giờ bắt dân công làm việc cho nhà vua. Đương đàm luận thì tới giờ ăn, quân gia của vua 
		Cái Sự đánh trống. Vua Phạm Thiên run sợ! Cho rằng họ bắt mình để giết, 
		liền đứng dậy tạ lỗi, chân tay lẩy bẩy. Vua Cái Sự đứng lên đỡ ông ngồi xuống và nói 
		rằng: - Nhà vua làm sao sợ hãi như vậy? Đó là tới giờ 
		ăn, quân đội của tôi đánh trống báo! Vì theo đúng giờ ăn của tôi, thì 
		dân chúng sẽ được nhiều thức ăn ngon! Vua Phạm Thiên chắp tay thưa rằng: - Muôn xin Đại Vương thương đến quốc dân chúng 
		tôi, cũng được các món ăn tự nhiên và từ nay chúng tôi xin hàng phục. Từ đó vua Cái Sự cai trị tất cả nhân dân các 
		nước Châu Diêm Phù Đề. Sau ngày đăng vị ngồi trên bảo điện, quần liêu 
		bách Quan đứng hầu túc trực suốt ngày đêm. Buổi sớm ấy, khi mặt trời mới mọc, có xe Kim 
		Luân bảo, bay từ phương Đông tới, vua Cái Sự từ trên tòa bước xuống, quỳ 
		thẳng chắp tay hướng lên, lấy tay với, xe ấy dừng lại ngay, đẹp đẽ có 
		quang minh chiếu sáng ra bốn mặt. Nhà vua nói rằng: - Nếu tôi được làm Chuyển Luân 
		Vương, thì xin xe này ở lại đây! Nói xong, xe Kim Luân ấy đứng trên hư không 
		trước điện nhà Vua, cách đất bảy cây Đa La, rồi đó tượng bảo, thần châu, 
		ngọc nữ, điển binh, điện tạng, lần lượt bay tới. Vua Cái Sự từ đó được làm Chuyển Luân Vương, 
		Thất bảo đầy đủ, cai trị bốn thiên hạ, tất cả chúng sinh nhờ đức hóa an 
		vui sung sướng. Theo chính sách của nhà Vua nhân dân tu theo mười điều 
		lành: - Không sát sinh - Không trộm cướp - Không tà dâm - Không nói dối - Không nói lưỡi đôi chiều - Không nói ác - Không nói đơm đặt - Không tham lam - Không giận tức - Không si mê. Sau khi mạng chung được sinh lên cõi Trời tất 
		cả. Nói tới đây, Phật nhắc lại rằng: - A Nan! Ông nên biết: vua Cái Sự thuở đó, há 
		phải là ai đâu, chính là tiền thân của ta đấy; vua Kim Cương Tụ là thân 
		phụ ta ngày nay (vua Tịnh Phạn), và sinh ra vua Cái Sự, nay là mẫu thân 
		ta (Ma Gia). Bởi ta có Từ tâm thương chúng sinh, thường cho 
		của cải, cho đạo pháp, để dắt dẫn họ, vì nhân duyên ấy đến nay thành 
		Phật, đặc tôn trong ba cõi, không ai sánh kịp. Cũng vì thế chúng sinh 
		biết tu tập lòng Từ bi rộng lớn, lợi ích vô biên. Tôi lại thưa rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Không 
		hay đời quá khứ, vua Cái Sự làm Chuyển Luân Vương, tại nhân duyên gì mà 
		được? Và khi nhập thai đã có tán Thất bảo che theo, kính xin nói cho 
		chúng con được rõ? Phật dạy: - A Nan! Đời quá khứ cách nay đã lâu 
		lắm, tính số kiếp A tăng kỳ có đến vô lượng, cũng Châu Diêm Phù Đề này, 
		trong quả núi Tiên có vị Bích Chi Phật, mắc chứng bệnh phong, Thầy thuốc 
		nói phải dùng sữa bò mới khỏi. Bấy giờ người lái buôn tên là A Lợi Gia Mật La 
		(Tàu dịch: Thánh Hữu). Ngài Bích Chi Phật nói bệnh cho ông nghe và để 
		ông cúng dàng sữa. Ông lái buôn Thánh Hữu hoan hỷ cúng dàng. Ngài 
		dùng được ba tháng thì khỏi bệnh. Cảm ơn ấy muốn cho thí chủ được ích 
		lợi lớn nên Ngài bay lên hư không đi, đứng, nằm, ngồi, thân phun ra nước 
		lửa, lúc hiện thân lớn đầy hư không, rồi thu nhỏ lại như chiếc lông mùa 
		Thu; cứ như thế biến hiện ra mười tám lần. Ông Thấnh Hữu thấy thế rất vui mừng! Và từ trên 
		hư không hạ xuống để nạp thụ sự cúng dàng. Qua một thời gian Ngài nhập 
		Niết bàn. Ông Thánh Hữu thương nhớ, làm lễ hỏa thiêu cúng 
		dàng, thu lấy Xá Lợi đựng vào bình vàng, và xây một bảo tháp, để bình 
		vàng Xá Lợi vào trong, lại làm một cái tán che trên, hàng ngày đem hương 
		hoa âm nhạc cúng dàng, suốt đời thờ phụng. Nói tới đây Phật nhắc lại rằng: - A Nan! Ông nên biết: ông Thánh Hữu do công đức 
		cúng dàng vị Bích Chi Phật, nên được phúc báo vô lượng kiếp, sinh lên 
		cõi Trời hoặc cõi nhân gian, đều được tôn vinh sung sướng, khi ở thai có 
		tán báu che trên. Ông nên biết: Thánh Hữu thuở đó chính là tiền thân ta 
		đấy. Vậy tất cả chúng sinh bất luận xuất gia hay tại gia cũng nên tu 
		phúc làm sự nghiệp, đời đời kiếp kiếp sẽ được lợi ích vô lượng vô biên 
		như thế đó. Bấy giờ tôi và mọi người trong cuộc thuyết pháp 
		này, ai nấy đều vui sướng phát tâm tu phúc cúng dàng, cúi đầu tạ lễ lui 
		ra. 39/ Phẩm 
		thứ ba mươi chín ĐẠI THÍ TÁT BIỂN Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước La 
		Duyệt Kỳ, tại núi Linh Thứu, với các Tôn đệ tử, cùng một ngàn hai trăm 
		năm mươi vị Tỳ kheo ở đó. Khi ấy đức Thế Tôn muốn dùng một người Thị 
		giả. Các vị Tôn đệ tử đều biết ý của Ngài như vậy. 
		Khi đó ông Kiều Trần Như mặc áo trễ vai hữu, tới trước quỳ thẳng chắp 
		tay bạch rằng. - Kính lạy đức Thế Tôn! Con xin nguyện suốt đời 
		làm Thị giả hầu hạ Ngài, cúi xin Từ bi hoan hỷ, chấp thuận cho con được 
		ân triêm công đức! Phật dạy: - Ông nay tuổi đã già yếu, việc hầu hạ 
		không nỡ phiền ông! Ông lễ tạ lui ra. Tiếp đến Ngài Ma Ha Ca Diếp, 
		Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên, và năm trăm đệ tử lần lượt ra tác 
		lễ cầu xin làm Thị giả. Nhưng Phật không cho ai. Khi đó, Ngài A Na Luật xem biết ý Phật muốn dùng 
		ông A Nan, và các bậc đại đệ tử cũng đều hiểu như thế. Ngài Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên đứng dậy 
		lại bên tôi nói sẽ rằng: - Này ông A Nan! Ý Phật muốn dùng ông làm Thị 
		giả đấy! Riêng ông được diễm phúc hơn chúng tôi! Vậy ông mau mau đứng 
		lên làm lễ bạch Phật xin thân thừa Ngài, để cho toàn thể Tăng chúng cũng 
		được nhờ ông một phần lớn! Tôi nghe lời hai Thượng tọa nói rồi, chắp tay 
		thưa rằng: - Kính thưa hai Thượng tọa! Thế Tôn đức rộng, 
		tuệ sâu, tôi thân cận hầu hạ sợ sơ suất phải tội, và chiêu họa thì sao? Ngài Xá Lợi Phất nói: - Chúng tôi xem biết đức Thế Tôn chú ý đến ông 
		nhiều hơn, vì xét có thể kham năng được, nên Ngài muốn dùng ông làm Thị 
		giả! Tôi thấy hai Thượng tọa nói như vậy, chẳng biết 
		làm thế nào! Tôi thưa rằng: - Dạ! Nếu hai Thượng tọa, thưa với Phật cho được 
		ba điều nguyện này, thì tôi xin làm Thị giả: - Áo cũ của đức Thế Tôn xin Ngài đừng cho tôi 
		dùng. - Đức Thế Tôn ăn thừa xin chớ cho tôi ăn. - Thời tiết tiến hiện (Chỉ), tùy tôi lo liệu, 
		được như thế thì tôi xin làm. Hai Thượng tọa đem ý kiến của tôi lên bạch Phật, 
		Phật bảo rằng: Ông A Nan sở dĩ không muốn mặc áo cũ của Ta, là 
		do lòng ông nghĩ xa, sợ các đệ tử sinh tâm hiềm khích. Vua quan nhân dân 
		cúng Phật, những cái áo quý đẹp, cho rằng ông tham cầu mà làm Thị giả. Hai là chuyện không ăn cơm của ta, là lo các đệ 
		tử sinh lòng như vầy: Trong bát của Như Lai ăn thừa, trăm mùi ngon bổ, 
		trên đời hiếm có, cho rằng ông tham cầu những món ấy mà thân cận Phật 
		hay sao? Còn nguyện thứ ba, tự lo lượng thời tiết tiến 
		hiện, là sợ các đệ tử, và các ngoại đạo lại nạn vấn, trong những thời 
		giờ không hợp pháp, làm xúc não Ta. Song làm Thị giả, phải xem thời tiết 
		mà dâng các món ăn cho thích hợp, để lợi ích thân thể Như Lai, mỗi mỗi 
		việc đều phải có chế độ. Vì thế mà ông nguyện xin ba điều ấy. Nhưng cũng 
		không cứ gì thời nay ông tự biết thời tiết mà xin thế đâu! Thời quá khứ 
		ông đã hầu Ta, và cũng khéo biết sự tiến hiện (Chỉ) như vậy: Khi đó Ngài Xá Lợi Phất thưa rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Không hay đời quá khứ, 
		ông A Nan hầu hạ Ngài, khép biết thời tiết, việc ấy thế nào xin nói cho 
		chúng con được biết nguyên do? Phật dạy: - Xá Lợi Phất! Ông muốn biết, hãy để ý 
		nghe, ta sẽ nói cho ông hay! - Dạ, lạy đức Thế Tôn! Con xin chú ý nghe! - Xá Lợi Phất! Đời quá khứ cách đây tính theo số 
		A tăng kỳ có đến vô lượng, thuở đó có một ông vua nước lớn cai trị tám 
		vạn bốn ngàn nước nhỏ, tám mươi ức tụ lạc, tại Châu Diêm Phù Đề, vua ngự 
		ở thành Bà Lâu Thi Xá. Trong thành ấy có một người Bà la môn, có trí 
		thông sáng, nhà vua tôn kính như một ông Thầy, tám vạn bốn ngàn ông vua 
		nước nhỏ đều mến mộ khâm phục, bốn phương hiến tặng, và thường sai Sứ 
		sang thăm viếng, nói tóm lại cũng như bầy tôi thờ vua không khác. Nhà 
		giàu ngang với nước, nhưng không có con để nối nghiệp nên lúc nào ông 
		cũng buồn! Không biết nơi đâu có thể cầu nguyện được. Bấy giờ ông lên 
		miếu thờ Phạm Thiên "Thiên Đế", Tứ Vương Ma Hê Thu La và tất cả chư 
		Thiên khác, cầu đạo ròng rã mười hai năm, do sự cầu nguyện thành kính 
		ấy, nên bà vợ lớn của ông có thai. Ông cho gọi người về xem trai hay 
		gái; có một thiếu phụ đến xem nói: - Bà có mang con trai. Ông mừng thầm! 
		Giao cho các cô con gái hầu hạ bà một cách chăm chỉ cẩn thận, không được 
		làm trái ý. Đủ tháng sinh được cậu con trai mình sắc vàng, 
		tóc xanh mượt, trán cao, mũi thẳng, tai dày, mắt sáng, mồm tươi rộng, 
		nhân tướng đầy đủ, ông vui mừng quá! Cho mời Thầy về coi tướng. Tướng sư xem xong nói: - Cậu đầy đủ phúc đức, thiên hạ chưa từng có, 
		sau này có thể làm đến Quốc Sư! Nghe Tướng sư nói, ông rất hoan tâm, và nhờ đặt 
		tên giùm. Lệ đặt tên bao giờ cũng y vào hai điều kiện: 1. Tinh tú. 2. Biến điềm lạ. Tướng sư hỏi: - Thưa ông! Trong khi bà có mang 
		cậu bé này, thì có điềm gì lạ không? - Thưa Ngài! Bà ác nghiệp lắm, ít lòng nhân, lại 
		không chăm tu phước tuệ gì, từ khi có thai cháu, thì tâm tính cải đổi, 
		thương xót kẻ nguy nạn, hay giúp đỡ kẻ nghèo đói, chăm bố thí, không 
		tham lam tích cóp như xưa! Tướng sư hoan hỷ nói: - Đó là trí lý của cậu con trai sử nhiên như 
		vậy. Tôi xin đặt tên là Ma Ha Sà Ca Phàn (Tàu dịch: Đại Thí). Sau khi lớn tuổi, ông bà quý lắm! Làm riêng cho 
		một lâu đài chia làm ba cung, để tùy theo thời tiết nóng lạnh của một 
		năm: mùa đông ở cung ấm áp, mùa hạ ở cung mát, mùa xuân mùa thu ở cung 
		giữa, sự nóng lạnh thuần hòa, cắt đặt những thiếu nữ hầu hạ, đêm ngày 
		cho cậu vui chơi! Cậu có tính ham học, lại sẵn có trí thông minh, đọc 
		thuộc mười tám bộ kinh của thế tục, học các kỹ thuật đều tinh xảo. Một 
		hôm cậu thưa với ông rằng: - Thưa cha! Con ở trong cung điện này đã lâu, 
		xin cho con du ngoạn ngoài thôn quê, để xem dân chúng làm ăn. - Ừ! Con đi chơi, cha cho con đi. Ông sai người sửa sang đường sá, vảy nước thơm, 
		dựng cờ treo phan đốt hương, một con voi trắng lớn, trên lưng đặt bành 
		bằng Thất bảo phủ vải gấm, treo chuông trang nghiêm cho cậu cỡi. Những 
		người đi trước gảy các đồ âm nhạc, đánh trống thổi kèm; đi sau có hàng 
		ngàn người cỡi voi cỡi ngựa theo cậu đi, trên một con đường lớn bằng 
		phẳng, bầu trời mát mẻ, bóng tinh quang chiếu thành năm sắc, không khác 
		một ông Chuyển Luân Vương giáng thế. Nhân dân nô nức ra xem, nhìn không 
		chán mắt, ai nấy đều khen rằng: - Thực là hiếm có, oai phong vòi vọi, lẫm liệt 
		như một ông trời Phạm Thiên! Một lát gặp bọn khất nhi, áo quần tả tơi, chân 
		đi thất thểu, cầm cái bát vỡ kêu xin một chút món ăn, hoặc tiền. Đại Thí 
		hỏi: - Các ngươi tại sao mà khổ cực như vậy? - Thưa cậu! Chúng tôi không có cha mẹ, anh em, 
		vợ con, nhà nghèo khổ không có chỗ nương thân! Cũng có người nói rằng: - Chúng tôi mắc bệnh 
		liên miên, không làm ăn gì được, hết lối sinh sống! Cũng có người nói rằng: - Chúng tội gặp lúc cơ 
		nguy, gia đình phá tán, nợ nần nhiều quá hết lối làm ăn, phải hành khất 
		để nuôi thân trốn nợ! Đại Thí nghe họ nói xong, trong lòng chua xót, 
		than lòng mà bước đi! Đi được vài dặm, thấy lũ đồ tể mổ giết Súc sanh. Đại Thí hỏi: - Chao ôi, các ông làm gì thế? - Thưa cậu! Tổ Phụ chúng tôi chỉ làm nghề sát 
		sinh, để nuôi sống gia đình, nay nếu bỏ nghề này thì hết lối! Đại Thí than thở rồi bước đi. Đi một quãng thấy 
		các người cày ruộng: những sá cày lật đất, các con giun, con dế, con vi 
		trùng chui lên, lại bị những con ếch, con chẫu bắt ăn; lại thấy những 
		con rắn bắt ếch, bắt chẫu ăn, tiếng kêu thảm thiết; lại thấy giống chim 
		khổng tước bắt rắn tha lên cành cây ăn. Đại Thí hỏi: - Đây là họ làm gì? - Thưa cậu! Họ cày ruộng để trồng lúa, đến mùa 
		được thóc ăn và nộp thuế cho nhà Vua. Đại Thí nghe xong, thương chúng sinh, than thở 
		trong lòng mà đi. Đi một quãng thấy những người đi săn, giăng lưới, đặt 
		cạm, giật bẫy, để bắt cầm thú, thấy chúng bị sa lưới, quằn mình quại 
		thể, dãy dụa hết sức, gào kêu! Sợ hãi! Trông rất đau lòng. Đại Thí hỏi: - Các ông làm gì đó? - Thưa cậu! Chúng tôi chỉ chuyên nghề đi săn 
		bắn, nếu không làm việc này, thì cũng không có nghề gì sinh sống! Đại Thí nghe nói vừa thương, vừa ngậm ngùi! Rồi 
		bước đi. Đi được một lúc thấy một con sông lớn, trên những chiếc thuyền 
		lênh đênh, các anh thuyền chài, tung lưới kéo lên được rất nhiều cá, đổ 
		lên bờ, con dãy, con ngáp, ngổn ngang. Đại Thí hỏi: - Các ông làm gì thế? - Thưa cậu! Từ cha ông chúng tôi, đến chúng tôi 
		không có nghề gì khác, chỉ có nghề bắt cá để sinh sống. Đại Thí nghe nói, để lòng thương! Và thầm nghĩ 
		rằng: - Tất cả người dân vì thiếu thốn áo mặc cơm ăn, 
		nên tạo những ác nghiệp sát hại chúng sinh, sau chết đọa xuống Địa ngục, 
		Ngạ quỉ, Bàng Sinh, từ chỗ mê tối lại sa vào chỗ mê tối hơn, thực đáng 
		thương thay! Tới đây Đại Thí bảo với mọi người rằng: - Thôi, các ông cho tôi về an nghỉ. Vì thương đời lầm lạc, tạo áo nghiệp, nên Đại 
		Thí không lúc nào được vui! Tìm cách để cứu tế chúng sinh khỏi sự đói 
		thiếu về thể xác lẫn tinh thần, rồi lên thưa với cha rằng: - Thưa cha, vừa rồi con đi về các miền thôn quê, 
		thấy nhân dân vì sự ăn mặc, phải lao hình khổ trí sát hại muôn sinh để 
		nuôi đời sống, lường gạt dối trá, lẫn nhau, tạo ác nghiệp ấy sau chết 
		phải đọa vào ba đường ác, con rất thương họ! Vậy cho con một kho gạo để 
		bố thí cho những kẻ nghèo đói. - Tùy ý, của cha là của con, ý con muốn bố thí 
		thì cha cũng vui lòng! Được cha đồng ý, Đại Thí bá cáo cho nhân dân 
		rằng: - Tất cả nhân dân, ai thiếu thốn về cơm ăn áo 
		mặc, tiền xài; xin lại nhà lấy, tùy theo ý muốn, tôi sẽ cấp giúp đầy đủ! Quốc dân hay tin ông Đại Thí mở cuộc bố thí, tất 
		cả những người nghèo khổ, bệnh tật, cô cùng, kéo nhau đến đông như hội; 
		cũng có người ở xa từ trăm dặm, người hai, ba trăm ngàn dặm tới, có 
		người từ ba ngàn, năm ngàn dặm tới; kẻ mạnh cõng người yếu, kẻ sáng dắt 
		người mù, muốn cơm được cơm, muốn áo được áo, tất cả ai muốn gì cũng 
		được toại ý. Bố thí trong một thời gian, các kho ba phần đã 
		hết một, người coi kho đến thưa với ông chủ rằng: - Thưa ông, cậu Đại Thí ban phát cho dân các kho 
		tàng ba phần đã hết một. Vua quan khách khứa đi lại còn đâu mà thết đãi! 
		Ông nghĩ kỹ, kẻo hết rồi lại trách tôi không thưa trước! Ông nghĩ như vầy: - Thà để kho không, chứ không 
		làm trái ý con ta! Bố thí trong một thời gian nữa thì ba phần đã 
		hết hai. Người coi kho lại lên thưa với ông rằng: - Thưa ông chủ! Kho tàng ba phần đã hết hai, nếu 
		ông không đình chỉ việc bố thí lại, thì không còn cái gì mà ăn dùng nữa! Ông nói: - Ta nặng tình yêu con quí của ta, nên 
		không muốn làm trái ý. Vậy anh có phương tiện gì, giả thác ra một cách 
		khác, nếu kẻ lại xin làm cho họ ít đến nữa may ra còn chút nào để dùng 
		chăng! Anh coi kho được ông cho phép, đóng luôn cửa lại 
		rồi đi nơi khác. Vì kho đóng nên những người xin đều đến chỗ cậu 
		Đại Thí; cậu dẫn họ đến kho, thì anh coi kho đi vắng. Cậu sai người tìm 
		mãi mới thấy, anh về mở kho cho, nhưng cũng không cho được bao nhiêu. Đại Thí thầm nghĩ như vầy: - Việc đình chỉ bố thí không phải kẻ giữ kho dám 
		tự quyền, chắc là thừa lệnh của cha ta. Song phép làm con cũng không nên 
		làm khánh kiệt kho tàng của cha mẹ, vả trong kho bây giờ cũng không còn 
		được bao nhiêu nữa. Vậy ta phải làm thế nào, có tiền của cấp tế cho nhân 
		dân, được no nê sung sướng! Mới mãn bổn nguyện bố thí của ta. Khi đó Đại Thí hỏi mọi người rằng: - Ở thế gian này, làm nghề nghiệp gì được nhiều 
		tiền của? Có người mách rằng: - Thưa cậu! Bây giờ chỉ trồng cấy năm giống thóc 
		thì được nhiều của. Có người nói rằng: - Nuôi thú vật bán có thể được nhiều tiền. Cũng có người nói: - Nếu không sợ tai nạn nguy hiểm, đi xa buôn bán 
		có thể được nhiều tiền của. Lại có người giới thiệu rằng: - Thưa cậu! Mọi kế nói trên đều không kết quả 
		được bao nhiêu, muốn cho tất cả chúng sinh trên cõi Diêm Phù Đề, được 
		đầy đủ cơm áo mặc, chỉ vào biển tìm châu bảo là một diệu kế hơn hết! Đại Thí nói: - Trồng cây, nuôi thú, đi xa buôn 
		bán, không được lợi mấy, có lẽ vào biển tìm ngọc châu là một diệu kế 
		hơn. Vậy tôi quyết định đi tìm ngọc châu. Nói xong lên thưa với cha mẹ rằng: - Thưa cha mẹ! Con xin ra biển tìm ngọc châu về 
		cấp tế cho dân, xin cha mẹ vui lòng? Ông bà lo quá, nói rằng: - Con ơi! Những người ra biển là những người 
		nghèo khổ vô kế sinh sống, không hòng đời sống của mình. Con nghèo khổ 
		chi mà vào biển? Để cha mẹ lo sợ thân mạng của con! Muốn bố thí, thì 
		trong kho còn bao nhiêu con cứ việc bố thí. Đi biển có nhiều tai nạn, 
		sóng to, gió lớn, Cá Ma Kiệt, Rồng Độc, Quỷ La sát, núi, nước khó mà qua 
		nổi! Con đem thân vào chỗ tai nạn ấy làm chi? Không thể đi được đâu, 
		thôi đừng giở hơi nữa. Đại Thí buồn quá! Tự nghĩ như vầy: - Ta muốn gây một đại nghiệp cho tương lai, mà 
		tham tiếc thân sống thì sao thành? Nghĩ xong, phục mình xuống trước cha mẹ mà thưa 
		rằng: - Kính lạy Song thân! Nếu Song thân ngăn chí 
		nguyện của con, không cho con đi biển tìm ngọc châu để cứu dân, thì con 
		nằm ở đây không đứng lên nữa! Ông bà nghe câu nói ấy, tâm can não nhiệt như 
		lửa đốt! Cùng với mọi người khuyên bảo rằng: - Đường biển xa xôi nhiều hiểm trở, đi nhiều về 
		ít, con nên nghĩ đến cha mẹ cầu đảo thành kính, trong mười hai năm ở 
		miếu thần tiên mới có con ngày nay. Bây giờ lớn khôn lại bỏ cha mẹ đi 
		thì không nên! Dậy đi con, ăn uống để cha mẹ vui lòng! Cậu một lòng thưa rằng: - Cha mẹ cho con đi thì con dậy, không thì con 
		không dậy! Cậu nằm mãi đến sáu ngày không ăn uống, ông bà 
		luôn luôn khuyên bảo, dỗ dành, nhưng cậu quyết định không dậy, chịu nhịn 
		đói. Ông bà lo sợ quá! Bàn với nhau rằng: - Con ta trước sau khăng khăng một mực không hề 
		thoái tâm. Thôi, ta cũng nhắm mắt cho đi, còn mong có ngày về, nếu nằm 
		quá bảy ngày chết tại đây, thực là vô ích. Bàn xong, ông bà đến đỡ cậu dậy, và nói rằng: - Thôi, con dậy ăn cơm, rồi cha mẹ cho con đi. Đại Thí mừng quá! Đứng dậy đi ăn cơm, ăn xong, 
		viết bảng cáo thị rằng: - Tôi đi ra biển tìm ngọc châu, ai muốn đi thì 
		cùng đi, tôi xin cung cấp đầy đủ hành lý. Bấy giờ có năm trăm người đồng ý theo cậu. Giữa 
		hôm lên đường ra đi, cha mẹ, vua, quan, dân chúng, số ngàn muôn người 
		đưa chân đem tặng lương thực và tiền bạc để ăn đường. Cuộc tiễn đưa này, 
		rất vui vẻ! Mọi người đều cầu chúc: "Cậu đi được bình an mau trở về". Đi chừng vài ngày, tới một bãi cát rộng mênh 
		mông, mọi người đều lên đó nghỉ, không may gặp bọn cướp đông quá, biết 
		sức không chống nổi, nên Đại Thí đem tiền của lương thực cho họ hết rồi 
		lại bắt đầu đi, đi tới một cái thành, gọi là thành Phóng Bát. Thành này 
		có ông Trưởng giả tên là Ca Tỳ Lệ dòng Bà la môn, ông có cô con gái, 
		mình sắc vàng, tóc xanh như ngọc lưu ly, xinh đẹp nhất thời, tám vạn bốn 
		ngàn Vương tử, ở các nước đến hỏi cô không ưng. Đại Thí định đến vay tiền, đứng ngoài gõ cửa, cô 
		thấy người gọi chạy ra, nhìn cậu, tự nhiên cảm động, vui mừng; vào nhà 
		thưa với cha rằng: - Thưa cha! Bên ngoài có người gõ cửa gọi, người 
		đó chính là chồng con đấy! Ông Ca Tỳ Lê mở cửa bước ra, thấy cậu tướng mạo 
		oai nghi phi thường, mừng thầm hỏi rằng: - Cậu tới đây có việc chi? - Thưa Trưởng giả! Tôi vì lòng thương dân đói 
		khát, đi ra biển tìm ngọc châu về phân cấp cho họ, không may đi nữa 
		đường gặp bọn cướp lấy hết lương thực, muốn phiền Trưởng giả cho vay ba 
		ngàn lạng vàng, lúc trở về xin trả! Ông vui vẻ nói: - Mời cậu vào chơi, không khó, tôi xin cho cậu 
		mượn ba ngàn hoặc mười ngàn, nhà tôi cũng sẵn. Ông vào kho lấy vàng, dắt con gái đi theo, vừa 
		cười vừa nói: - Tôi xin tặng số vàng này cho cậu; đây là con 
		gái tôi, nhiều Vương tử đến hỏi nhưng tôi không gả. Hôm nay gặp cậu tôi 
		rất vui lòng! Con gái tôi nó đồng ý kết duyên với cậu. Vậy cậu có nhận 
		lời nói đây? Xin cho biết. - Dạ! Thưa Trưởng giả, hiện nay tôi đi ra biển, 
		tai nạn nguy hiểm nhiều, có ngày đi không biết có ngày về, giờ nhận lời 
		với ông, một ngày gần đây bị tai nạn, băng mình trong biển cả! Sai lời 
		hẹn thì làm thế nào? - Không sao! Nếu cậu được tốt lành trở về, thì 
		xin nhận lời hứa! - Dạ, nếu Trưởng giả hoan hỷ như vậy tôi xin 
		đồng ý! Ông vui vẻ đưa cho cậu ba ngàn lạng vàng, và rất 
		nhiều các thực phẩm khác. Cậu cảm ơn ông, rồi Từ biệt lên đường đi. Đưa vàng về, cậu bảo các người theo, đi mua 
		thuyền tốt, dày bảy lần ván, để chống đỡ với sóng gió. Mua thuyền xong, cột bằng bảy cái dây. Đại Thí lắc chuông, lớn tiếng nói: - Các bạn lắng tai nghe! Chú ý! Chú ý, đi biển 
		nhiều nguy hiểm, nào hắc phong, quỷ La sát, ác phong, độc khí, thủy hắc, 
		núi đá, cá Ma Kiệt, tai nạn rất nhiều. Các bạn đi cùng tôi! Tới đây, ai 
		muốn về, thì ở lại, kẻo đến khi gặp tai nạn, lúc ấy dầu có hối cũng 
		không được; còn ai vững lòng bền chí, không tiếc thân mạng, vợ con, anh 
		em, cha mẹ thì đi. Trái lại, nếu được an toàn trở về, tiền của con cháu 
		bảy đời ăn không hết. Nói xong, cắt một dây; cứ như thế, mỗi ngày 
		tuyên bố một lần, lại cắt một dây; bảy ngày cắt hết bảy dây, thuyền bắt 
		đầu đi, trương buồm thuận gió, thuyền chạy như bay. Qua một thời gian khá lâu, mới đến chỗ có nhiều 
		ngọc châu và vàng bạc. Đại Thí là người tinh anh, học rộng, biết rành 
		các thứ ngọc châu: thứ nặng, thứ nhẹ, hạng quý, hạng thường, hình sắc 
		tốt hay xấu, để chỉ bảo cho mọi người lấy, và dặn lấy vừa phải đừng 
		tham, sợ nặng bị đắm thuyền; nếu lấy ít thì không bõ công đi. Anh em chăm chú lấy xong, khi sắp ra về, Đại Thí 
		không muốn lên thuyền, anh em hỏi: - Thưa cậu! Các thứ ngọc châu, bảo vật, chúng 
		tôi lấy cho xuống thuyền đã đầy đủ, mời cậu lên thuyền đi về! - Các bạn hãy về trước! Giờ đây tôi muốn đến 
		điện vua Long Vương, để xin ngọc Như Ý, thì có thể bố thí cho chúng sinh 
		toàn cõi Diêm Phù Đề được. Tôi cương quyết đi, nếu không xin được tôi 
		quyết không về! - Thưa cậu! Chúng tôi nhờ sự mạo hiểm và cương 
		quyết của cậu mà ra tới đây, lấy được nhiều bảo vật, châu ngọc, mong 
		được hoàn toàn trở về, bây giờ cậu lại bỏ rơi lũ chúng tôi mà đi một 
		mình, chúng tôi rất không bằng lòng! Yêu cầu cậu trở về cùng chúng tôi. - Thôi, các bạn cứ an tâm, tôi sẽ cầu nguyện cho 
		các bạn được an lành trở về nước nhà, sung sướng cùng cha mẹ vợ con, 
		riêng tôi các bạn không lo! Toàn thể anh em ai cũng buồn! Họ đều chắp tay, 
		cầu chúc cậu đi được tốt lành, và xin giã biệt trở về. Buồm đã trương, những chiếc thuyền từ từ quay 
		mũi. Anh em đứng trên thuyền nhìn cậu mà rớt nước mắt! Thuyền đã chạy xa xa, bóng mờ mờ ngoài biển. Đại 
		Thí dâng hương lễ mười phương chư Phật lập thề rằng: - Kính lạy thập phương Đại Giác Từ bi chứng 
		giám! Con không quản đường xa dặm thẳm, nguy hiểm khó khăn, vào biển tìm 
		châu để cứu tế quần sinh, qua khỏi nạn đói khát, khốn khổ! Nguyện đem 
		công đức này, cầu thành Phật, xin dốc một lòng thành kính, cho lời thề 
		nguyện của con được thành tựu, và những người này được an lành, về không 
		gặp các tai nạn. Đại Thí ra đi ngày thứ nhất, nước ngập đến đầu 
		gối; đi trong bảy ngày nước sâu đến tận mông; đi bảy ngày nước đến ngang 
		lưng; bảy ngày nữa nước ngập tới cổ; bơi bảy ngày nữa tới một quả núi. 
		Đại Thí bẻ hai cành cây làm gậy chống, để leo núi; leo bảy ngày tới 
		ngọn, đi bảy ngày trên đỉnh núi ấy, rồi lại trở xuống; suốt bảy ngày đến 
		chân núi, tới một ven nước, dưới nước có hoa sen sắc vàng, lại có các 
		con rắn độc nằm trên hoa, hoặc trên ngó. Đại Thí thấy vậy, ngồi kết vòng tròn ngay ngắn, 
		hệ tâm nhiếp niệm, nhập phép quán Từ bi tam muội. Nghĩ tới những con rắn 
		này, do kiếp trước tạo nghiệp sân nộ ghét ghen, nên đọa sinh ở nơi đây, 
		chịu thân hình độc ác xấu xa. Bởi lòng Từ bi của Đại Thí giao cảm, nên 
		những con rắn đó, được hết nọc đọc. Đại Thí đứng dậy đi trên những bông hoa ấy suốt 
		bảy ngày thoát nạn rắn độc, nhìn trước mặt xa xa, thấy những con quỷ La 
		sát, vì chúng ngửi thấy hơi người mà tìm lại. Thấy thế, Đại Thí nhiếp 
		tâm niệm nhập phép Từ bi quán; nhờ phép quán ấy, nên các con quỷ tự phát 
		tâm cung kính, vui vẻ tới gần hỏi: - Bồ tát ở đâu tới đây? - Thưa Ngài, tôi đi tìm ngọc Như Ý! Quỷ vui vẻ, nghĩ như vầy: - Người này có phúc đức đi đến chỗ vua Long 
		Vương, nhưng hãy còn xa, làm sao đi nổi? Vậy chúng ta hãy đưa giúp, qua 
		chỗ nguy hiểm này. Nghĩ rồi, chúng dùng lực thần của quỷ, đưa Đại 
		Thí qua bốn trăm do tuần, rồi trở về. Tới đây, Đại Thí ngắm thẳng đường đi, thấy một 
		cái thành lớn bằng bạc, sáng quắc như mặt trời. Đại Thí biết đích thành 
		này của Long Vương, vui vẻ đi thẳng vào, thấy bên ngoài thành có bảy lần 
		hào nhiễu quanh, trong hào thuần rắn độc coi rất ghê sợ! Đại Thí tự nghĩ: - Những con rắn này lúc tiền 
		sinh, ác tâm nộ hại nhiều, nên nay phải đọa làm rắn, chịu thân hình cực 
		ác. Đem lòng Từ bi thương xót, thì các con rắn ấy tự 
		nhiên lẩn mất. Đại Thí đi thẳng vào thành. Ở cổng thành thấy có hai con 
		Rồng cuộn khúc, hai đầu giao nhau, dáng như cánh cửa. Thấy Đại Thí vào, 
		chúng ngóc đầu nhìn. Đại Thí nhập Từ bi quán; Rồng cúi đầu không dám ngó 
		nữa. Đại Thí bước lên đầu Rồng đi vào. Giữa lúc vua Long Vương đương ngồi ở điện Thất 
		bảo, nhìn thấy có người vào lấy làm ngạc nhiên, thầm nghĩ: - Thành của ta có bảy lần hào lũy, trong hào có 
		rất nhiều Rắn độc, ngoài ra lại còn có các loài độc Long, Quỷ Dạ xoa; 
		người này làm sao vào được? Chắc họ có đức lớn! Vua Long Vương phát khởi lòng cung kính, đón 
		chào hỏi han, mời ngồi giường Thất bảo, đem các món ăn ngon ra thết đãi. 
		Ăn xong, vua Long Vương hỏi rằng: - Ngài tới đây có chuyện gì cần thiết không? - Thưa Long Vương! Nhân dân trên cõi Diêm Phù 
		Đề, nghèo đói đau khổ! Do cơm ăn, áo mặc mà tạo các nghiệp ác, như: sát 
		sanh, trộm cắp, nói dối, lừa bịp lẫn nhau, bởi thế chết đọa vào ba ngả 
		ác. Tôi vì lòng thương! Muốn cứu chúng sinh, nên không quản đường xa dặm 
		thẳm tới đây yết kiến Đại Vương để xin viên ngọc Như Ý về cứu giúp dân 
		chúng, mong Đại Vương mở lượng Từ bi bố thí cho! - Dạ, ngọc Như Ý là một vật quý nhất, Ngài tới 
		đây cũng là một công phu mạo hiểm quên thân; tôi đâu dám từ chối, nhưng 
		xin Ngài lưu tâm ở lại đây một tháng; nhận chút cúng dàng mọn của tôi, 
		và thuyết Pháp cho tôi nghe, thì tôi xin biếu Ngài! - Dạ, quý hóa! Đại Vương có lòng cố lưu, và muốn 
		nghe thuyết Pháp, tôi xin ở nán lại, không dám từ chối. Vua Long Vương ngày ngày cúng dàng rất trịnh 
		trọng, dâng đủ các món ngoan lạ dưới Long cung. Trong giờ ăn, các nhạc 
		sĩ, vũ nữ, múa hát cúng dàng, gảy những cung đàn rất tuyệt! Ca những bài 
		hát cực hay! Đại Thí dùng biện tài vô ngại, giảng thuyết pháp 
		Tứ Niệm Xứ cho Vua nghe. Hết một tháng, từ biệt lên đường. Vua Long 
		Vương lấy ngọc Như Ý trong búi tóc ra tặng, và nói rằng: - Đại Thí có lòng Từ bi rộng lớn, tâm chí mãnh 
		liệt, quyết định thành Phật. Sau khi Ngài được thành Phật. Tôi xin làm 
		một đệ tử trí tuệ! - Quý hóa! Thưa Long Vương, ngọc này có năng lực 
		thế nào? - Dạ! Thưa Đại Thí, ngọc này có năng lực làm mưa 
		trong hai ngàn do tuần vuông bốn mặt; nước mưa ấy hóa ra những món chúng 
		sinh cần dùng trong đời sống. Đại Thí hoan hỷ đỡ lấy ngọc, rồi thầm nghĩ: - Hạt ngọc này tuy quý thực, nhưng chỉ có hạn 
		định, chưa cứu tế cho chúng sinh được nhiều, như ý nguyện của ta đã 
		định. Vua Long Vương và quần thần, đưa chân ra ngoài 
		cổng thành; Đại Thí từ tạ bước lên đường. Đi được ít lâu, tới một cái 
		thành, thuần bằng lưu ly xanh, ngoài thành có bảy lần hào vây xung 
		quanh, trong hào có rất nhiều rắn độc. Đại Thí thầm nghĩ như vầy: - Những con rắn này, lúc tiền sinh tạo nhiều sân 
		si tật đố, nên phải chịu thân hình xấu ác như vậy. Nghĩ xong, ngồi ngay nghiêm nhập phép Từ bi 
		quán, vì thương chúng đau khổ. Lòng Từ bi lan cảm, làm cho bạt hết tâm 
		độc của chúng. Đại Thí đứng dậy, bước lên đầu những con rắn ấy, 
		đi thẳng vào cổng thành; thấy hai con rồng, mình cuộn quanh thành, hai 
		đầu giao nhau ở trước cửa, cũng như cách canh gác. Rồng thấy người, ngóc 
		đầu, nháo mắt, nhìn một cách ác liệt. Đại Thí liền nhập quán Đại bi; Từ tâm thông cảm. 
		Rồng gục đầu, biểu lộ một vẻ hiền lành. Đại Thí tiến bước vào trong. Vua Long Vương đương ngồi ở điện Thất bảo, nhìn 
		thấy có người vào, thầm nghĩ như vầy: - Quái sao? Ngài thành có bảy lần hào, nào những 
		Rắn độc, Rồng độc, quỷ Dạ xoa, khó đi như thế, mà người này vào đây 
		được? Chắc họ có đức lớn, không phải người thường! Nghĩ xong, đứng lên ra đón chào hỏi han, rất 
		kính cẩn, mời lên bảo điện ngồi tòa Thất bảo, đem các món ngon quý ra 
		thết đãi. Ăn xong, niềm nở nói chuyện, và hỏi: Ngài ở đâu đến đây, có chuyện gì cần thiết 
		không? - Thưa Đại Vương! Tôi ở Châu Diêm Phù Đề, xuống 
		đây để xin Ngài hạt ngọc Như Ý! - Thưa Ngài, ngọc Như Ý hiếm có lắm! Nếu Ngài 
		muốn dùng xin ở lại đây hai tháng, giảng thuyết hạnh Bồ tát và nhậm chút 
		cúng dàng của chúng tôi. - Dạ, quý hóa! Nếu Đại Vương có tâm mến mộ Vô 
		thượng Pháp bảo của chư Phật, việc đó tôi xin thành kính, giảng giải. Vua Long Vương sai bày tòa cao, mỗi ngày hai 
		thời thỉnh thuyết Pháp, và sửa trai nghi cúng dàng rất trịnh trọng. Đại Thí dùng vô ngại biện tài, phân biệt nói về 
		"Tứ Thần Túc", hết hai tháng từ biệt ra về. Vua Long Vương lấy ngọc Như Ý ra tặng và phát 
		nguyện rằng: - Đại Thí Từ tâm phổ tế quần sinh, quảng đại vô 
		biên, quyết được thành Phật, khi đó tôi nguyện làm một thần túc đệ tử. - Dạ, hay lắm! Đại Vương nguyện như vậy, sẽ được 
		thành tựu! Còn viên ngọc này có năng lực thế nào? - Thưa Đại Thí! Viên ngọc này có năng lực làm 
		mưa tất cả các món ăn dùng của chúng sinh, quy vuông bốn ngàn do tuần? Đại Thí hoan hỷ, nhận lấy viên ngọc, rồi tự nghĩ 
		rằng: - Hòn ngọc này tuy cũng khá nhưng chưa xứng ý 
		của ta đã định! Vua Long Vương và quần thần tiễn chân ra ngoài 
		cổng thành, chờ đi xa mới trở về. Đại Thí đi chưa được bao lâu, thấy một cái thành 
		bằng vàng, rất mỹ quan, sáng rực một trăm dặm, tới gần thấy bảy lần hào 
		vây quanh, trong hào có rất nhiều rắn độc. Đại Thí thầm nghĩ: - Những con rắn này, do đời trước đây tâm ác 
		độc, ghen ghét nộ hại, nên phải chịu thân độc ác như vậy! Nghĩ xong nhập Từ tâm ái niệm, đánh bạt ác tâm 
		rắn độc, chúng nằm rạp xuống, Đại Thí bước lên trên mà đi, tới cổng, 
		thấy hai con Rồng cuộn khúc quanh thành hai đầu giao nhau, gác hai bên 
		cổng, thấy người, chúng ngóc cổ trố mắt nhìn một các ác nghiệt. Đại Thí liền nhập quán Từ bi; Rồng cúi đầu, Ngài 
		bước vào trong cổng. Lúc đó vua Long Vương đương ngồi ở bảo điện thấy 
		người vào, ngạc nhiên, thầm nghĩ: - Ngoài thành có bảy lần hào vây quanh, nào Rắn 
		độc, Rồng độc, quỷ Dạ xoa, khó khăn như thế mà sao người này vào được? 
		Chắc họ có đức lớn! Nghĩ thế rồi khởi lòng tôn trọng kính cẩn, bước 
		ra đón tiếp hỏi han, rồi mời Ngài vào điện, ngồi tòa Thất bảo, đem các 
		món ăn ngon quý dưới Long Cung thết đãi rất trịnh trọng. Ăn xong vua 
		hỏi: - Ngài ở đâu tới đây? Và có cần dùng việc gì 
		không? - Dạ, thưa Đại Vương! Chúng sinh trên cõi Diêm 
		Phù Đề bạc đức cùng khổ; làm ăn lao lực, đến nỗi sát hại lẫn nhau, cũng 
		chỉ vì miếng cơm manh áo, hoàn toàn làm mười điều ác, sau khi chết đọa 
		vào ba đường cực khổ! Tôi vì lòng Từ bi thương họ, không quản đường sá 
		xa xôi, bao lần nguy hiểm! Nghe biết Đại Vương có hạt ngọc Như Ý, có thể 
		làm cho chúng sinh hết đau khổ, vì thế tới đây xin Ngài, để cứu tế cho 
		nhân dân. - Dạ, thưa Đại Thí! Ngọc Như Ý là một vật quý 
		nhất dưới Hải Tạng, nếu Ngài muốn dùng xin ở lại đây bốn tháng nhận chút 
		cúng dàng, và giảng giải cho chúng tôi được biết đạo lý. - Dạ, như vậy hay lắm! Nếu Đại Vương muốn nghe 
		giảng thuyết về Chánh Pháp của Như Lai, tôi xin thành thực cúng dàng Vô 
		thượng Pháp bảo! Vua Long Vương hoan hỷ! Ngày ngày dâng cúng các 
		món ăn ngon quý dưới Long cung, lại bắt các nhạc sĩ mỗi ngày hai thời 
		tấu nhạc cúng dàng. Đại Thí dùng biện tài vô ngại giảng thuyết chân 
		lý cao siêu. Nhà vua chăm chỉ nghe pháp, chiều sớm ban hôm 
		không để mất thời tiết. Các hàng Long và quỷ Dạ xoa, đến xin hầu hạ, lúc 
		tiến, khi lui, tự đặt ra thời giờ phụng sự, trong bốn tháng rất nghiêm 
		kính và hợp phép tắc. Hết kỳ bốn tháng từ giã ra về. Vua Long Vương 
		cởi búi tóc lấy hạt ngọc Như Ý cúng dàng và thề nguyện rằng: - Đại Thí hoằng thệ vô biên, Từ tâm cao cả! Vì 
		thương quần sinh, không quản khó nhọc, sau này quyết được thành Phật, 
		tôi nguyện làm Thị giả một đệ tử tổng trì! - Quý hóa! Đại nguyện của Ngài sẽ được thành tựu 
		mau chóng, còn năng lực của hòn ngọc này như thế nào? - Dạ, thưa Đại Thí! Hạt ngọc này có năng lực, 
		mưa Thất bảo xuống tám ngàn do tuần quy vuông bốn mặt. Đại Thí hoan hỷ nhận ngọc rồi tự nghĩ rằng: - Đất Diêm Phù Đề này rộng bảy ngàn do tuần, 
		công năng hạt ngọc này tám ngàn do tuần, như vậy mới đạt được nguyện 
		vọng của ta! Tất cả ba hạt ngọc đem gói vào góc vạt áo. Cảm 
		tạ Long Vương lên đường. Vua và quần thần đưa chân ra khỏi cổng thành. Đại Thí đi khỏi thành xa xa, để hạt ngọc trên 
		bàn tay khấn rằng: - Nếu thực hạt ngọc Như Ý, xin cho tôi bay được 
		lên hư không! Khấn xong, rướn mình bay lên hư không tựa như 
		chim cắt. Một lát bay qua biển, tới bãi, xuống nghỉ. Tới đây, Đại Thí nằm ngủ trên bãi cát; bãi này 
		có mấy con Rồng biết rằng Đại Thí đi xin ngọc của vua Long Vương về, 
		chúng khởi tâm tham; thừa cơ Đại Thí ngủ cởi trộm, lặn xuống bể mất. Đại Thí thấy động, mở choàng mắt ra, nhìn không 
		thấy người, mất ba viên ngọc, nghĩ như vầy: - Ở đây làm gì có người, mất ba viên ngọc này, 
		chỉ có những con Rồng lấy của ta thôi! Ta mất bao công trình lao khổ mới 
		được, đem về cứu chúng sinh cho mãn nguyện bố thí của ta; lũ bây lấy của 
		ta, ta thề nếu không lấy lại được, quyết định không về, ta sẽ tát cho 
		hết nước để bắt lũ bay, đầu chết cũng cam tâm, chứ chẳng chịu về không! Vừa đi vừa nói trên bãi biển, bắt được cái mai 
		rùa. Ông Thần biển hiện lên nói rằng: - Biển này sâu ba trăm ba mươi sáu muôn dặm, dầu 
		cho tất cả toàn cõi Diêm Phù Đề tát cũng không thể cạn nổi, huống một 
		mình ông tát gì được? Đáp: - Ông nên biết: ai cương quyết làm việc gì, 
		thì việc ấy sẽ thành công. Tôi đi tìm hạt ngọc Như Ý, để giúp ích cho 
		nhân loại, khó đến như thế, mà tôi cương quyết không lui chí hướng, để 
		cầu thành Phật, thì việc tát bể đã lấy gì khó hơn. Khi đó có một người ở cõi Trời Tịnh Cư, thấy Đại 
		Thí nhất thân nhất ý với bao công trình khó nhọc, để cứu tế chúng sinh, 
		bị Rồng ăn cắp ngọc, ông gọi một số đông người ẩn hình đến giúp việc tát 
		biển. Cứ mỗi khi Đại Thí múc nước, thì các ông ấy lấy 
		áo cõi Trời, nhúng xuống biển, rồi lại đem áo vắt nước đi nơi khác. Cứ 
		mỗi lần Đại Thí múc nước như vậy, thì nước biển cạn đi bốn mươi dặm; hai 
		lần múc, cạn tám mươi dặm; ba lần múc cạn một trăm hai mươi dặm. Thấy cạn nước nhiều quá, mấy con Rồng ăn cắp sợ 
		hãi! Lên tận nơi nói rằng: - Thôi! Thôi! Đại Thí đừng múc nước nữa! Đại Thí 
		dùng hạt ngọc này để làm gì? - Dùng để cứu cấp cho tất cả chúng sinh, Châu 
		Diêm Phù Đề! - Theo như lời Đại Thí nói thì chúng tôi ở trong 
		biển này nhiều lắm, sao Ngài không cho chúng tôi, lại lấy đi? - Trong biển này tuy có chúng sinh, nhưng không 
		bị đau khổ như chúng sinh Châu Diêm Phù Đề, vì miếng ăn manh mặc mà sát 
		hại lẫn nhau, lừa bịp, dối trá lẫn nhau, tạo đủ mười điều ác, chết đọa 
		xuống tam đồ ác đạo, ta muốn cho họ hiểu được Pháp ấy, nên xuống đây xin 
		ngọc, trước cho họ ăn mặc đầy đủ, sau cho họ tu theo mười điều lành 
		(Thập Thiện). Rồng nghe xong, đem ba hạt ngọc Như Ý trả lại. Khi đó ông Thần biển thấy Ngài tinh tiến cứng 
		rắn như vậy, đối trước Ngài lập thệ nguyện rằng: - Đại Thí tinh tiến như thế, quyết định được 
		thành Phật, khi đó tôi nguyện làm một tinh tiến đệ tử! Nhận hạt châu rồi bay lên hư không, một lát gặp 
		các người cùng đi với mình, đáp xuống. Các người đó nhìn thấy Đại Thí 
		vừa ngạc nhiên vừa vui mừng! Hỏi rằng: - Cậu ở đâu tới đây? Thật là vô cùng sung sướng, 
		hôm nay lại gặp được ông bạn chí thân. Nói xong tay bắt mặt mừng, cùng nhau về tới nước 
		Phóng Bát. Ông Ca Tỳ Lê được tin Đại Thí ra biển tốt lành 
		trở về, vui vẻ ra đón chào hỏi han niềm nở, rồi mời tất cả về đãi ăn. Ăn xong nói chuyện những công việc hành lộ vừa 
		qua, rất là vui vẻ! Đại Thí đưa ngọc Như Ý chỉ vào các kho tàng, thì 
		những kho tàng nhà ông đều đầy dẫy vàng bạc ngọc ngà, trân bảo. Mọi 
		người đều tắc lưỡi khen lạ! Ông Ca Tỳ Lê trang điểm cho con gái đẹp đẽ, 
		trước rửa tay, sau dắt con gái giao cho Đại Thí! Khi ra về, ông cho năm trăm người kỹ nữ có đủ 
		tài năng, và năm trăm bạch tượng theo hầu con gái. Đại Thí giao cho các bạn cỡi voi lên đường về 
		nước nhà; hôm ấy cuộc tiễn chân rất là náo nhiệt! Rất vui vẻ! Tiếng hay 
		đồn khắp muôn phương. Từ khi Đại Thí đi, cha mẹ ở nhà, quá thương, 
		khóc nhớ! Đêm ngày sầu khổ! Đến nỗi lòa cả đôi mắt. Đại Thí ra lễ cha mẹ, và hỏi han sức khỏe, cùng 
		các công việc nhà. Ông bà mừng quá! Vì lòa không nhìn thấy con, lấy 
		tay xoa đầu vuốt mặt một cách nồng nhiệt, nói rằng: - Con nỡ bỏ cha mẹ đi xa xôi từ bấy đến nay, để 
		cha mẹ ở nhà thương nhớ. Vậy con vào biển được những bảo vật gì? - Dạ, thưa cha! Con xin vua Long Vương được hạt 
		ngọc Như Ý, cha cầm thử xem có quý không? Ông đỡ lấy rồi nói rằng: - Hòn đá này trong kho của nhà ta, nào có thiếu 
		chi; thế mà con liều thân hoại thể, trải bao tân khổ nơi biển cả với ba 
		đào hiểm trở, lấy về đây làm gì? Đại Thí cầm hạt châu chỉ vào mắt ông bà, tự 
		nhiên cặp mắt trông sáng hơn xưa, cũng như một cơn gió thổi tan mây 
		khói, bóng bình minh sáng giữa không gian. Ông bà được cặp mắt sáng 
		tinh, cảm niệm lực oai thần của hạt ngọc châu vô biên công đức! Rồi nói: - Quý hóa! Con tuy chịu đau khổ nhưng cũng không 
		luống công. Đại Thí lại dâng hạt châu lên nguyện rằng: - Nguyện xin tòa ngồi của cha mẹ tôi biến thành 
		tòa Thất bảo vào có tán Thất bảo che trên! Nguyện xong liền được như ý ngay. Lại nguyện rằng: - Nguyện cho kho tàng của cha 
		mẹ tôi, và vua quan, dân chúng đầy chật vàng bạc, của báu! Nguyện xong, tất cả toàn quốc từ vua chí dân, 
		nhà nào cũng có rất nhiều vàng, bạc, ngọc, ngà của cải. Thấy thế ai cũng ngạc nhiên và vui mừng! Sau thời gian này, Đại Thí sai người cỡi voi đi 
		tám ngàn dặm báo cáo cho toàn thể quốc dân biết rằng: - Cậu Đại Thí ra biển được tốt lành trở về, sau 
		bảy ngày nữa, ngọc Như Ý sẽ mưa xuống tất cả áo mặc, thức ăn uống, tùy 
		theo ai muốn dùng gì cũng được như ý. Nhưng nhân dân trai giới thanh tịnh và thành 
		kính mới được hưởng phúc vô biên ấy! Đến ngày thứ bảy, Đại Thí tắm gội sạch sẽ, mặc 
		áo mới; rồi đi đến một khu đất bằng phẳng cao rộng, để hạt ngọc Như Ý 
		trên đầu ngọn phướn cao, tay cầm lư hương nguyện rằng: - Tất cả chúng sinh trong cõi Diêm Phù Đề bần 
		cùng tân khổ, tôi muốn cứu họ khỏi sự thiếu thốn, nếu thực là ngọc Như 
		Ý, thì xin lần lượt, mưa xuống những món cần về đời sống của chúng sinh! Lời cầu nguyện vừa xong, bốn phương mây kéo râm 
		mát, một làn gió thổi mạnh làm tiêu tan tất cả những vật nhơ bẩn trên 
		mặt đất, sau mưa qua một lượt cho sạch bụi, rồi bay xuống các món ăn 
		ngon lành, tiếp tục năm thứ thóc rơi đầy mặt đất, quần áo, lụa vải, vàng 
		bạc khắp nhân gian đầy dẫy. Từ đây toàn cõi Diêm Phù Đề, nhà nào cũng đầy 
		kho vàng bạc, lưu ly, kim cương, thức ăn, áo mặc thừa thãi. Vì nhiều quá, nên bấy giờ họ coi vàng bạc, kim 
		cương như đất đá, vô giá trị. Đại Thí thấy dân đã đầy đủ các nguyện vọng, bèn 
		sai người đi báo cáo cho toàn cõi Diêm Phù Đề biết rằng: - Tất cả dân chúng trước đây, bị thiếu thốn về 
		áo mặc thức ăn uống, châu bảo, vì thế sát hại lẫn nhau, thấy lợi quên 
		nghĩa, không e dè tội phúc, chết đọa vào tam đồ ác đạo, cũng như người 
		từ chỗ tối, lại đi vô chỗ tối thêm, đày đọa tội khổ nhiều kiếp lâu dài. 
		Tôi thường thương xót không người cứu tế, vì thế mà tôi quên mình dấn 
		thân nơi biển cả, trải bao sự khó khăn gian hiểm lấy được viện ngọc Như 
		Ý, về cung cấp cho toàn thể quốc dân đầy đủ sung sướng! Giờ đây tôi mong 
		tất cả nhân dân, gắng sức tu mười điều lành, giữ gìn thân, miệng, ý và 
		có nhân từ, hiếu thảo, chớ nên phóng túng mới mong thoát khỏi ba đường 
		ác, đời đời được sinh Nhân Thiên, phú quý tự tại tu chứng đạo Bồ đề. Sau viết thư cho vua quan các nước khuyên dân tu 
		theo pháp Thập Thiện, ngoài ra còn dùng nhiều phương tiện dìu dắt chúng 
		sinh, cải tà quy chính, bỏ ác làm lành. Thuở đó tất cả nhân dân, trên Châu Diêm Phù Đề, 
		được nhờ ơn Đại Thí đầy đủ về vật chất, với tinh thần khuyên tu Thập 
		Thiện. Họ nghĩ không biết lấy gì đền đáp ơn cao cả ấy; họ chỉ biết tuân 
		theo lời giáo hóa tu Thập Thiện, và chuyên rèn luyện lòng Từ bi khiêm 
		nhượng, giữ gìn thân, miệng, ý thanh tịnh, để trả ơn ông Đại Thí. Sau 
		khi mạng chung đều được sinh về các tầng Trời cả. Nói tới đây Phật nhắc lại rằng: - Xá Lợi Phất! Ông nên biết: ông Ni Câu Lư Đà 
		thuở đó, chính là cha ta (Tinh Phạn), bà sinh Đại Thí đó, nay là mẹ của 
		ta (Ma Gia), còn ông Đại Thí chính là thiền thân của ta; ông vua Long 
		Vương ở thành bằng bạc, nay là ông Xá Lợi Phất; vua Long Vương ở thành 
		lưu ly nay là ông Mục Kiền Liên; ông Long Vương ở thành bằng vàng, nay 
		là ông A Nan; ông Thần Bể nay là ông Ly Việt. Ông A Nan khi đó làm Long Vương thết đãi ta một 
		cách khiêm kính, khéo biết thời nghi, ngày nay cũng muốn hầu ta, cho 
		đúng thời tiết; ông ưng được ba nguyện ấy, là tùy ý muốn của ông. Tôi rất hoan hỷ, khi đức Phật nói lại thuở tiền 
		sinh, nên tôi liền đứng dậy, tới trước quỳ thẳng, chắp tay bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Con xin thân hành thọ 
		làm Thị giả, cúi xin Ngài Từ bi hứa khả cho! Tất cả mọi người lúc đó ai nấy đều cảm niệm ơn 
		đức lớn lao của Phật đã quên mình vì chúng sinh, rồi ngồi ngay nghiệm 
		suy xét pháp Tứ Đế. Sau có người đắc quả Tu đà hoàn, cho đến quả A la 
		hán, cũng có người đắc nhân Bích Chi Phật, cũng có người phát tâm cầu 
		đạo Vô thượng Bồ đề, có người dự ngôi Bất Thoát, tất cả đều vui mừng tạ 
		lễ mà lui. 
		(Quyển Thứ Tám Hết) 
		Kinh 
		Hiền Ngu Quyển Thứ Chín 40/ Phẩm thứ bốn mươi A NAN TỔNG TRÌ Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá 
		Vệ, tại vườn Cấp Cô Độc, rặng cây của Thái tử Kỳ Đà. Vào thời bấy giờ tôi là một người thông mình 
		nhất, có trí nhớ nhất, nên các vị Tỳ kheo sanh lòng nghĩ như vầy: - Không rõ ông A Nan đời quá khứ làm công đức 
		gì? Mà nay được Tổng trì? Nghe Phật nói đến đâu là nhớ đến đó, không 
		quên một câu! Các vị nghĩ thế rồi lên bạch Phật rằng: - Kính đức Thế Tôn! Ông A Nan đời trước có công 
		đức gì? Kiếp này được vô lượng Tổng Trì như vậy? Cúi xin Ngài dạy bảo 
		cho chúng con được rõ? Phật: - Hay lắm! Các ông muốn biết phúc đức Tổng 
		trì của ông A Nan, hãy để ý nghe cho kỹ! Đây cũng là một đời thuộc kiếp 
		quá khứ, có một vị Tỳ kheo nuôi một bác Sa di, ngày ngày bắt bác ấy, 
		phải chăm tụng kinh và đúng thời khóa. Nếu bác tụng niệm thời khóa đầy 
		đủ thì ông vui! Nếu trễ, hoặc tụng thiếu sót, không đủ thời khóa, thì 
		ông buồn, và quở trách! Như thế nên bác Sa di, lúc nào cũng lo và buồn 
		vì được ăn thì mất tụng; được tụng thì mất ăn. Hôm nào đi khất thực về 
		sớm thì tụng niệm đủ khóa, hôm muộn thì mất khóa tụng kinh. Không may ngày hôm đó người dân ít cúng dàng, 
		nên phải đi mãi gần trưa mà chưa đủ hai Thầy trò ăn, thành ra trễ khóa 
		bị Thầy mắng! Ngày hôm sau buồn quá, vừa đi vừa khóc! Ông Trưởng giả thấy thế hỏi rằng: - Tại sao sư bác khóc thế? - Thưa Trưởng giả! Thầy tôi nghiêm khắc quá! 
		Ngày ngày bắt tôi tụng kinh định hạn theo thời khóa; nếu hôm nào tụng đủ 
		thời khóa thì Ngài hoan hỷ! Nếu thiếu trễ thì bẳn gắt. Vì đi khất thực 
		không có nhất định, hôm nào người dân cúng dàng đông, thì về sớm, tụng 
		niệm thời khóa đầy đủ; hôm nào người dân ít cúng dàng, phải đi mãi, về 
		đến chùa bị trễ, thiếu khóa tụng kinh, vì thế nên tôi khóc? Trưởng giả nói: Vậy từ ngày hôm nay trở đi, sư 
		bác cứ đến nhà tôi, tôi xin cúng dàng đầy đủ để khỏi lo việc ăn uống, cứ 
		việc chuyên tâm tụng kinh tu học! Từ đó sư bác được cúng dàng đầy đủ của ông 
		Trưởng giả, hàng ngày chuyên tâm tụng kinh tu học, thời khóa lễ niệm 
		hoàn toàn, cả hai Thầy trò đều vui vẻ! Phật nhắc lại rằng: - Tỳ kheo các ông nên biết! Ông Thầy của bác Sa 
		di khi đó, là đức Phật Định Quang, còn bác Sa di là tiền thân của ta, 
		ông Trưởng giả cúng dàng hằng ngày, nay là ông A Nan. Do thời quá khứ ông làm hạnh tụng kinh, nên kiếp 
		này được phúc báo Tổng trì không quên một câu kinh, hay một bài kệ, cho 
		đến một chữ; do ta tuyên giảng chánh pháp. Bấy giờ các vị Tỳ kheo nghe 
		Phật nói xong, ai nấy đều vui vẻ! Khát ngưỡng công đức trì tụng, và cúng 
		dàng cúi đầu tạ lễ mà lui. 41/ Phẩm thứ bốn mươi mốt ƯU BÀ TƯ Chính tôi được nghe: Một thời ở nước Xá Vệ, tại 
		vườn Cấp Cô Độc, cây của Kỳ Đà. Thuở đó nước La Duyệt Kỳ có hai anh em người lái 
		buôn, cùng ở một nơi. Người anh hỏi con gái ông Trưởng giả, nhưng cô ấy 
		hãy còn ít tuổi, nên chưa cho xin cưới. Vì sự sinh kế cho đời, nên người anh ra nước 
		ngoài buôn bán, không biết vì lý do gì mà lâu năm không về. Cô con ông 
		Trưởng giả đã lớn, chờ đợi sợ muộn xuân, tục thường nói: "Trai trẻ mãi, gái có thời". Nên ông Trưởng giả gọi cậu em đến bảo rằng: - Anh của chú đi xa, chắc chết rồi nên không 
		thấy về, vậy tôi gả con gái tôi cho chú, ý chú nghĩ sao? - Dạ, thưa Trưởng giả! Không được! Anh tôi hãy 
		còn sống và tôi không bao giờ làm những chuyện kỳ quặc như vậy! Từ đó trở đi, ông Trưởng giả luôn luôn thúc đẩy 
		phải lấy con gái ông, nhưng anh vẫn kiên nhẫn không nghe. Ông bất đắc dĩ phải mạo ra một lá thư, cho người 
		lái buôn khác mang lại, ý nói rằng: - Anh của chú đã chết lâu rồi. Khi bắt được thơ, mở xem biết rằng anh mình đã 
		chết, đương buồn phiền thương anh! Thì ông Trưởng giả đến hỏi: - Hôm nay tại sao chú buồn thế? - Thưa Trưởng giả, tôi vừa nhận được tin anh tôi 
		đã chết từ lâu! - Thôi chú ạ! Sự sinh tử chết sống của con người 
		là thường! Việc chết thì lo việc chết, còn việc sống phải lo việc sống! 
		Giờ đây tôi hỏi thực chú: con gái tôi có định kết duyên với nó thì xin 
		trả lời, bằng không tôi sẽ định liệu cho nó? Cũng do ông ép uổng quá, nên anh phải nhận lời. Từ đó trai gái hai người kết duyên với nhau, 
		chẳng bao lâu cô vợ đã có mang. Người em yên trí rằng: Anh mình chết, mình chẳng 
		lấy vợ của anh, thì kẻ khác cũng lấy, đương cuộc nồng nhiệt yêu nhau của 
		đôi vợ chồng trẻ! Bỗng nhiên được tin anh ở nước ngoài trở về, người em 
		sợ quá! Chạy trốn sang nước Xá Vệ. Sau khi chạy trốn thì các bạn thân của người anh 
		lại khám nghiệm té ra cô đã đánh đọa thai từ lâu. Người em tìm đến chốn Phật ngự, thấy Phật anh ta 
		tủi thẹn, cúi đầu lễ dưới chân, bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Con tới đây một lòng 
		thành kính, cầu xuất gia tu học, cúi xin Ngài Từ bi tế độ! Phật hoan hỷ cho nhập làm Sa môn và cải tên là 
		Ưu Bà Tư, Chăm chỉ tu hành, chẳng bao lâu đã đắc quả A la hán, đủ thần 
		thông đạo lực. Người anh khi về tới nhà, biết em đã lấy vợ của 
		mình, nổi giận hầm hầm đi tìm để giết, tìm mãi không thấy. Có người họ 
		mách em anh sang nước Xá Vệ, và đã theo Phật làm Sa môn. Anh ấy bỏ ra năm trăm lượng vàng, thuê người 
		giết, và cùng đi sang nước Xá Vệ, tới nơi thấy Ưu Bà Tư đương tọa thiền, 
		người đó tự phát sinh tâm Từ bi nghĩ như vầy: - Ta nỡ nào giết ông Tỳ kheo kia, ông có thù oán 
		gì với ta, nhưng nếu ta không giết thì sao lấy được số vàng này? Trương cung bắn soành một tiếng, cái tên ấy 
		trúng phải người anh, kêu la dữ dội oán hận mà chết, linh hồn đọa sinh 
		làm con rắn độc, ở hố cổng nơi ấy, chờ thời cơ để cắn chết báo thù; một 
		hôm bò qua ngưỡng cửa bị cánh cổng khép lại chết mất, tuy chết nhưng 
		lòng uất hận chưa nguôi, nên lại nguyện sinh làm con trùng độc ở ngay 
		phòng Ưu Bà Tư. Chờ khi Ưu Bà Tư tọa thiền nhảy xuống giữa đỉnh đầu đốt 
		chết. Trong chúng Đại Tỳ kheo, thấy ông Ưu Bà Tư chết 
		một cách tự nhiên, không hiểu tại sao? Ngài Xá Lợi Phât biết nguyên uỷ 
		như vậy, bạch với Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Ưu Bà Tư Tỳ kheo hiện đã 
		đắc La Hán quả; còn bị trùng đốt chết, cúi xin chỉ giáo cho chúng con 
		được biết nguyên do? Phật nói: - Xá Lợi Phất ông nên biết: Đây cũng 
		một nghiệp báo từ thời quá khứ; thuở bấy giờ có một vị Bích Chi Phật tu 
		trong rừng đã đắc quả, một hôm có người đi săn, đặt lưới bắt cầm thú, vị 
		Bích Chi Phật vì lòng thương nhân vật, nên Ngài hóa phép làm cho họ 
		không bắt được con nào. Vì thế người đi săn tức giận, dùng tên độc bắn 
		Ngài. Muốn cho người đó khỏi tội báo lâu đời, biết ăn năn tội lỗi của 
		mình, nên Ngài bay lên hư không hiện ra mười tám phép thần túc. Người đi săn thấy thế, sợ hãi trách mình, sinh 
		lòng kính cẩn tới trước tạ lỗi, cầu xin xá tội. Ngài cũng hoan hỷ cho sám hối. Sau khi về nhà bị 
		trùng độc đốt chết, thần hồn đọa xuống Địa ngục; khi hết tội Địa ngục 
		trong năm trăm kiếp bị trùng độc mà chết, cho đến ngày nay đắc đạo A la 
		hán, còn phải tội bị trùng độc cắn chết. Người đi săn thuở đó chính là 
		Tỳ kheo Ưu Bà Tư ngày nay, bởi lúc đó ác tâm hại vị Bích Chi Phật, nhưng 
		lại biết sám hối, và phát nguyện đời sau được gặp Thánh Sư, tu đắc phép 
		thần túc, bởi thế được gặp Ta và đắc đạo quả. Khi Phật nói xong, Ngài Xá Lợi Phất và tất cả 
		mọi người trong đại chúng, ai nấy đều sợ hãi nghiệp báo Từ tâm nóng giận 
		phát khởi chuyên lòng khắc ý, tẩy trừ sân hỏa, nguyện thanh tam độc, vui 
		mừng tạ lễ lui ra. 42/ Phẩm 
		thứ bốn mươi hai CON NGỘ SÁT CHA Chính tôi được nghe: Một thời ở nước Xá Vệ, tại 
		vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà. Thuở đó có một ông lão, vợ chết sớm, nhà nghèo, 
		hai cha con ở với nhau. Tự giác ngộ thấy đời là vô thường tất cả muôn 
		loài đều bị khổ: sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ não, bất luận sang 
		hèn bần tiện, đã có thân tất có khổ, chỉ theo Phật xuất gia là một đặc 
		điểm giải thoát hơn tất cả. Vì thế nên hai cha con đến chốn Phật ngự, cúi 
		đầu lễ sát đất bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con một lòng thành 
		kính tới đây, cầu xin xuất gia tu học, cúi xin Ngài từ bi tế độ! Phật dạy: Hay lắm! Theo ta tu học phải chăm chỉ 
		mới chóng có kết quả! - Dạ, lạy đức Thế Tôn, chúng con xin phụng giáo! Đức Phật ngài cho người cha thọ Tỷ kheo giới, 
		người con thọ Sa di giới. Cứ như thế cha con hằng ngày hầu Phật và Tăng, 
		sớm đi khất thực, tối về chùa tụng kinh tọa thiền. Một hôm hai cha con đến thôn xa khất thực, gần 
		tối mới ra về qua một khu rừng nhiều thú dữ, người con sợ. Nắm tay cha, 
		vừa lôi vừa đun đi cho mau. Cha già sức yếu, bị con lôi mạnh quá, xảy 
		chân vấp ngã đập đầu vào tảng đá chết mất! Người con thấy cha chết, bỏ 
		chạy về một mình. Song cũng không thưa trình gì với Phật và sư Tăng 
		chuyện đó, lặng yên như không. Các vị Tỳ kheo không thấy ông già, hỏi Sa di 
		rằng: - Cha con đâu? Không thấy ở Tinh xá? - Bạch chư Đại Đức, hôm qua cha con đi khất thực 
		xa quá đường tối sợ ác thú hổ lang vồ bắt, nên con đẩy cha đi cho mau, 
		không may cha con trượt chân ngã chết mất, lúc đó con sợ hãi quá chạy về 
		một mình! Các thầy Tỳ kheo mắng rằng: - Mi là kẻ đại ác, mi giết cha mi, giết sư của 
		mi, thế mà từ hôm qua đến nay, cứ lặng yên không nói chi cả! Không hỏi 
		đến cũng làm thinh! Rồi quý Thầy đem chuyện ấy thưa với Phật, để lo 
		liệu cho ông. Phật nói: - Tuy có mang danh giết cha, nhưng nó 
		không có ý ác, là vì không thật tâm định giết, chỉ là một sự ngộ sát 
		thôi! Phật hỏi Sa di rằng: - Con giết cha con phải không? - Dạ, lạy đức Thế Tôn, con chỉ có đẩy cha con đi 
		cho mau, chớ không có ý gì ác đối với cha con, mà thành ra con giết cha 
		con! Phật dạy: - Con nói phải rồi! Ta biết tâm con 
		không có ác, đời quá khứ cũng như thế; vì đời đó cha con cũng giết con; 
		lúc đó cha con cũng không có ý ác, như thế là do thiện ác, sự báo ứng 
		trả đáp. Các Thầy Tỳ kheo nghe Phật nói xong, thưa rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Đời quá khứ cha con ông 
		Tỳ kheo già này, tại nhân duyên gì mà giết nhau một cách vô tâm như vậy, 
		cúi xin Ngài nói lại cho chúng con được biết? Phật dạy: - Các ông hãy lắng tai nghe tôi nói: 
		từ đời đó tới đây đã lâu lắm, có hai cha con ở với nhau, gặp lúc người 
		cha có bệnh nằm trên giường bị ruồi muỗi làm xúc não, cha bảo con rằng: - Con ngồi cầm quạt, đuổi ruồi cho cha! Người con đuổi luôn tay, nhưng hễ ngơi tay đuổi 
		thì ruồi lại đến bâu. Người con đuổi mãi giận quá? Đi tìm một cây gậy 
		lớn, chờ cho ruồi đến bậu vào mắt, mặt, trán nhiều, giơ gậy đập vào giữa 
		trán, người cha vỡ trán, máu chảy đẫm mặt chết tươi, thì lúc đó người 
		con cũng không chủ tâm giết cha. Các ông nên biết rằng: Người con lúc đó nay là 
		ông Tỳ kheo già, chính cha là Sa di bấy giờ, mà người cha bị con đập 
		chết thuở đó, nay là Sa di. Bởi lúc đó vô tình đập chết cha, chứ không 
		cố định, thì nay trả báo, cũng không cố sát! Từ đó Sa di chăm chỉ tu hành chẳng bao lâu đã 
		đắc quả A na hàm. Các vị nghe Phật nói quả báo như vậy, ai nấy đều tin 
		thực, và biết rằng quả báo không bao giờ xóa nhòa được, dầu cho lâu kiếp 
		cũng phải đền trả, mọi người cúi đầu tạ lễ lui ra. 43/ Phẩm 
		thứ bốn mươi ba TU ĐẠT LÀM TINH XÁ Chính tôi được nghe: Một thời Phật ở thành Vương 
		Xá, tại vườn Trúc. Khi đó nước Xá Vệ có một ông quan đại thần tên 
		là Tu Đạt, nhà giàu, lại chăm làm hạnh bố thí, và hay cứu cấp kẻ nghèo 
		khốn cùng khổ, vì thế nên thời bấy giờ người gọi ông là: Cấp Cô Độc. Ông sinh được bảy người con trai và đã cưới vợ 
		cho sáu cậu. Cậu thứ bảy có đầy đủ phúc đức tài năng, tướng người tốt 
		đẹp, nên ông yêu quý hơn các cậu kia. Một hôm có người bạn thân dòng Bà la môn đến 
		chơi, ông nói rằng: - Thưa bác tôi sinh hạ được bảy cháu trai, đã 
		lập gia đình cho sáu cháu, còn cháu thứ bảy, muốn nhờ bác, tìm hộ cho 
		cháu, một nơi con nhà thế phiệt có đức hạnh tinh khiết, nết na hòa nhã, 
		thân tướng xinh đẹp. - Dạ, việc đó tôi xin giúp bác, không khó, vì 
		tôi quen biết nhiều. Hôm ấy ông sang thành Vương Xá, vào nhà quan Đại 
		Thần tên là Hộ Di khất thực. Cô con gái ông đưa món ăn cúng dàng, nhìn thấy 
		con người có đức hạnh và xinh, nên ông hỏi cô rằng: - Thưa cô, xin lỗi, tôi muốn hỏi thăm cô một lời 
		có được không? - Dạ, xin ông cứ việc hỏi, không sao. - Dầu tốt lành, hay không tốt lành cô đừng buồn 
		nhé! - Dạ ông cứ hỏi! - Thế này không phải! Cô đã lập gia đình chưa? - Thưa ông chưa có, cháu còn đương ở với ba má 
		cháu. - Đã có ai bỏ cau chưa à? - Thưa ông chưa có! - Quan đại thần hôm nay có nhà không? - Thưa ông, ba cháu hôm nay ở nhà! - Cô thưa với quan lớn, tôi muốn vào thăm quan, 
		và nói câu chuyện. Cô vào thưa với quan đại thần rằng: - Thưa cha, ngoài có người Bà la môn, muốn vào 
		gặp cha thưa chuyện? Ông ra nhà khách, hai người gặp nhau, hỏi han 
		vui vẻ! Bà la môn nói: - Thưa Phụ Tướng! Ngài có biết ông Tu Đạt làm 
		quan đại thần ở nước Xá Vệ không? - Thưa, chưa gặp ông lần nào; nhưng có biết 
		tiếng! - Thưa, Phụ Tướng! Ông này nhà giàu nhất nước Xá 
		Vệ; được người con trai út, thông minh tuấn tú, sau này có thể làm lớn, 
		tôi có nhận một lời ông ấy đi kén vợ cho cậu nhưng đã đi nhiều nơi. Song 
		chưa tìm đâu được người có thể hợp ý, tình cờ hôm nay vào đây, thấy con 
		gái của Ngài là một người đoan chính hơn đời. Vậy tôi xin mối cho con ông Tu Đạt thì Ngài có 
		vui lòng không? - Dạ, được lắm tưởng nhà ai, chứ nhà ông Tu Đạt 
		tôi rất bằng lòng. Định về báo tin, nhưng gặp người lái buôn về 
		nước Xá Vệ, nên ông biên thơ gởi cho ông Tu Đạt. Khi bắt được thư ông vào tâu rằng: - Tâu Bệ Hạ! Hạ thần có chút việc bên nước Xá 
		Vệ, xin phép Hoàng thượng đi ít ngày thu xếp. - Khanh có việc chi bên đó? - Tâu Bệ Hạ! Còn thằng cháu thứ bảy, để sang 
		cưới vợ cho cháu. - Con nhà ai bên đó? - Tâu Bệ Hạ! Quan Phụ Tướng Hộ Di. - Trẫm mừng cho Khanh! Được lắm! Ông sắm đủ các lễ vật, mang đi rất nhiều vàng 
		bạc. Trong khi đi đường gặp ai nghèo đói đều cấp tế cho họ. Khi tới nơi, ông Hộ Di ra tiếp chào mừng vui vẻ! 
		Rồi đưa vào nhà an nghỉ. Hôm ấy ông Tu Đạt thấy nhà ông Hộ Di, nhiều 
		người tấp nập, sửa sang nhà cửa, kê giường đặt ghế, trải chiếu, gối nệm 
		trang nghiêm và thấy nấu nhiều các món ăn ngon lạ, hỏi rằng: - Thưa Phụ Tướng, ngày mai có mời vua quan quý 
		khách, hay có việc chi, mà làm nhiều cỗ bàn như vậy? - Dạ, thưa không phải, muốn để cầu phước, nên 
		nhà tôi ngày mai mời Phật và chư Tăng đến nhà cúng dàng! Ông Tu Đạt được nghe thấy danh hiệu Phật và chư 
		Tăng ngạc nhiên quá! Hình như được một điềm gì hay! Vui vẻ hỏi: - Thưa Phụ Tướng, Phật là thế nào, xin nói cho 
		chúng tôi được rõ? - Ôi! Ngài không biết ư? Phật là con vua Tịnh 
		Phạn. Tên là Tất Đạt Đa, lúc sơ sinh có ba mươi hai vạn ông thần; xuống 
		thị vệ và có nhiều thụy ứng khác: Đi bảy bước trong bốn phương, một tay 
		chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất phán: - Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn! Thân sắc vàng, có ba mươi hai tướng tốt và tám 
		mươi vẻ đẹp, nếu ở tại gia thì làm Kim Luân Vương, cai trị bốn thiên hạ. 
		Vì thấy chúng sinh có bốn tướng sinh, già, bệnh, chết, nên Ngài xuất 
		gia, tu khổ hạnh trong sáu năm được nhất thiết trí, hết kết sử thành 
		Phật, hàng phục được mười tám ức vạn thiên ma ngoại đạo hiệu là Năng 
		Nhân. Có thập lực, tứ vô úy, thập bát cộng pháp, quang minh chói sáng, 
		soi suốt ba cõi nên gọi là Phật. - Dạ, thưa Phụ Tướng! Thế nào gọi là Tăng, xin 
		nói cho biết? - Khi Ngài thành Phật rồi, ông vua cõi Trời Phạm 
		Thiên xuống ân cần cầu thỉnh thuyết pháp. Sau khi nhận lời mời của ông. 
		Ngài đến nước Ba La Nại tại vườn Lộc Uyển thuyết pháp nói về tứ chân đế, 
		độ nhóm ông Kiều Trần Như năm người đắc quả La Hán hết lậu nghiệp đủ sáu 
		thần thông, tứ như ý túc, thất giác, bát đạo, trên hư không có tám vạn 
		người cõi Trời đắc quả Tu đà hoàn, và vô lượng người phát Bồ đề tâm. Sau 
		độ cho anh em ông Uất Bệ Ca Diếp ngàn người, cũng được hết lậu nghiệp 
		thành La Hán quả, thứ ba độ ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên, và tất 
		cả đồ chúng của các ông ấy cả thảy năm trăm người đều được đắc quả giải 
		thoát, có thể tác phúc cho nhân gian thiên thượng nên gọi là Tăng. Tu Đạt nghe nói một việc quý hóa, vui mừng bủn 
		rủn chân tay một lòng tin kính, mong cho chóng sáng, để đến yết kiến 
		Phật. Vì lòng thành kính thiết tha có thần cảm ứng, đương nữa đêm tối mà 
		ông tự thấy ánh sáng tỏ soi khắp mặt đất như ban ngày, lòng hoan hỷ khôn 
		xiết! Đứng dậy đi sang nước La Duyệt Kỳ để yết kiến đức Thế Tôn, vừa ra 
		khỏi thành gặp ngôi thiên tử, ông bước vào làm lễ, tự nhiên quên mất tâm 
		khát vọng Phật lại thấy tối om, sợ mãnh thú ác quỷ, định trở về thành 
		chờ đợi sáng sẽ đi. Cũng may ông có người bạn thân, chết được sinh 
		lên cõi Trời Tứ Thiên Vương, thấy ông hối hận trở về, liền xuống bảo 
		rằng: - Cư sĩ ông chớ hối nữa! Đi yết kiến Phật được 
		phúc vô biên, ví nay được một trăm cỗ xe chở châu bảo, không bằng cất 
		chân một bước, đi yết kiến đức Thế Tôn, còn được lợi gấp muôn ngàn; Cư 
		sĩ ông đi yết kiến Phật, chớ hối nữa ví như kiếp này được một trăm con 
		voi chở châu bảo, cũng không bằng rời chân một bước đi yết kiến đức Thế 
		Tôn còn được lợi ích khôn kể, Cư sĩ ông nên đi, chớ hối nữa, chính như 
		ông có được vàng bạc châu bảo, đầy cõi Diêm Phù Đề chăng nữa, cũng không 
		bằng dời chân một bước đi yết kiến đức Thế Tôn, còn được lợi trăm muôn 
		ngàn triệu; Cư sĩ ông nên đi chớ hối nữa, ví như kiếp nay ông được vàng 
		bạc châu bảo đầy bốn thiên hạ, cũng không bằng cất chân một bước đi 
		viếng đức Thế Tôn, còn được lợi ích gấp trăm muôn ngàn triệu kể trên. Ông Tu Đạt nghe nói, vui vẻ, cảm mến đức Thế 
		Tôn, tự nhiên u tối băng tiêu, ánh bình minh tỏa soi trên đại địa như 
		ban ngày, sung sướng đi yết kiến đức Thế Tôn. Phật biết ông có duyên lành từ lâu kiếp nên Ngài 
		ra ngoài đi kinh hành để ông gặp. Tu Đạt, đằng xa nhìn thấy đức Thế Tôn, 
		thân sáng như quả núi vàng, oai nghi đĩnh đạc, tôn nghiêm lẫm liệt, tuy 
		thấy Ngài nhưng ông không biết, vì chưa từng được gặp, tới nơi hỏi rằng: - Thưa Ngài, đức Thế Tôn ở nơi nào xin làm ơn 
		chỉ hộ? Phật nói: - Cư sĩ ông hãy ngồi tạm chơi. Khi ấy ông Tịnh Cư Thiên ở xa ngó thấy ông Tu 
		Đạt gặp đức Thế Tôn mà không biết lễ bái viếng thăm, ông bèn hóa ra bốn 
		người đi tới, cúi đầu lễ dưới chân, nhiễu về bên hữu ba vòng rồi lui 
		ngồi về một phía. Ông Tu Đạt thấy thế cũng bắt chước lễ bái như 
		mấy người kia, rồi lui ngồi về một bên. Khi đó đức Thế Tôn, giảng phép Tứ Diệu Đế, khổ, 
		không, vô thường. Ông Tu Đạt nghe xong, đắc quả Tu đà hoàn vui 
		mừng! Như người đói được ăn, khát được uống, cũng như lụa Bạch Điệp được 
		nhuộm các sắc. Ông quỳ chắp tay thưa rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Trong thành Xá Vệ, những 
		người nghe pháp, chóng giác ngộ như con có được nhiều không? Cúi xin 
		Ngài chỉ giáo cho? Phật dạy: "Trong thành Xá Vệ đối với sự nghe 
		pháp mau hiểu ngộ, không được một người thứ hai như khanh, phần nhiều kẻ 
		tà kiến khó được người tin theo chánh giáo". - Kính lạy đức Thế Tôn! Con nguyện xin Ngài sang 
		nước Xá Vệ thuyết pháp để khiến cho nhân dân biết bỏ tà quy chính! Phật nói: - Người xuất gia phải xa nơi thế tục, 
		làm thế nào có một Tinh xá, thì mới tiện nghi cho việc giảng diễn Chánh 
		Pháp! - Dạ, kính lạy đức Thế Tôn! Con xin về làm Tinh 
		xá, cúi xin Ngài hứa khả cho? - Muốn cho lợi ích chúng sinh, và gây phúc cho 
		chính mình, ông nên gắng sức, công đức vô lượng! Ông lễ tạ lui ra, về nhà lo việc cưới vợ cho con 
		xong đâu đấy, lại sang nước La Duyệt Kỳ bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Con về bản quốc lập Tinh 
		xá, nhưng không biết phương pháp làm thế nào? Kính xin Ngài cho một vị 
		Sa môn sang chỉ bảo cách thức? Ngài nghĩ như vầy: "Nước Xá Vệ nguyên những kẻ 
		Bà la môn tin theo tà giáo, ai là người hàng phục nổi! Chỉ có ông Xá Lợi 
		Phất trước là dòng Bà la môn. Cũng có chút đỉnh thông minh và phép thần 
		túc, sai đi có lẽ đắc lực". Phật gọi ông Xá Lợi Phất bảo rằng: - Xá Lợi Phất! Ông Tu Đạt muốn cho hưng long 
		ngôi Tam bảo, đưa dắt chúng sinh cải tà quy chính, nên ông định lập Tinh 
		xá tại nước Xá Vệ, mời ta về thuyết pháp, nhưng không biết cách thức 
		làm. Vậy ông sang đó, góp sức với ông ấy xây cất Tinh xá cho ta! - Dạ! Lạy đức Thế Tôn con xin phụng giáo! Ông Tu Đạt hỏi Ngài Xá Lợi Phất rằng: - Kính thưa Tôn giả! Đức Thế Tôn đi bộ mỗi ngày 
		được mấy dặm? Đức Thế Tôn đi mỗi ngày được nữa do tuần; cũng 
		bằng vua Chuyển Luân Thánh Vương. Bắt đầu từ thành Vương Xá, cứ cách hai mươi dặm 
		ông làm một Khách Xá (nhà nghỉ chân) cho tới nước Xá Vệ. Khi về tới nhà hai người an nghỉ vài ngày cho 
		mạnh sức, rồi đi tìm đất làm Tinh xá. Hai ông đi khắp nước không tìm 
		được nơi nào chỉ có khu vườn của Thái tử Kỳ Đà bằng phẳng rộng rãi mát 
		mẻ, cây cối tốt tươi có thể đắc xứ sở. Ngài Xá Lợi Phất bảo ông Tu Đạt 
		rằng: - Chỉ có khu vườn này làm được, không gần thành 
		thị, và cũng không xa, nếu xa chư Tăng đi khất thực khó; gần thì huyên 
		náo, sợ phế bỏ sự hành đạo. - Thưa Thái tử, tôi có một việc muốn phiền Thái 
		tử được không. - Ngài có việc gì, nếu có thể tôi xin giúp. - Thưa Thái tử! Vườn đất nhà tôi rất nhiều, 
		nhưng không dùng được khu nào để làm Tinh xá, mời Phật về nước ta thuyết 
		pháp, giáo hóa cho nhân dân, nhận thấy khu vườn của Thái tử nơi rộng rãi 
		mát mẻ, muốn mua lại khu vườn ấy, để kiến tạo Tinh xá, Thái tử có vui 
		lòng không? Thái tử cười nói: - Tôi có thiếu thốn gì mà phải 
		bán, để lúc thư nhàn ra hóng mát chỉ tiêu dao ý chí! Tu Đạt ân cần nói đến hai ba lần. Bất đắc dĩ 
		Thái tử, nói một giá rất đắt, để ông về nhà cho yên chuyện. - Vâng, nếu Đại Thần muốn mua thì đem vàng lát 
		khắp mặt đất không hở một chỗ nào thì tôi bán! - Dạ! Thái tử lấy từng ấy tôi cũng xin trả! Thái tử nói: - Tôi nói đùa vậy chứ bán làm sao 
		được! Tu Đạt nói: - Ngài làm Thái tử không thể nói dối 
		được. Nói dối sau này Ngài trị dân làm sao? Ông Tu Đạt định tâm nếu Thái tử không bán, thì 
		kiện. Vì thế ông Tịnh Cư Thiên, sợ các quan xử thiên lệch, nên hiện thân 
		xuống nói với Thái tử rằng: - Phép làm Thái tử không được nói dối: Ngài đã 
		hứa thì không nên sai lời! Thái tử nghe có lý đáp lời rằng: - Phải! Tôi vui lòng bán cho Đại Thần đấy! Tu Đạt vui vẻ, về nhà lập tức sai gia nhân, đưa 
		voi chở vàng đến, chỉ trong tám mươi khoảnh khắc đã lát vàng khắp mặt 
		đất, riêng còn đám gốc cây chưa lát xong. Tu Đạt thầm nghĩ: "Đám gốc cây này, chẳng còn 
		bao nhiêu, ta cứ lát hết!" Thái tử Kỳ Đà, nghĩ như vầy: - Đức Phật phải là người thế nào cho nên ông 
		này, mới khinh của như thế; chắc rằng cúng Ngài có phúc đức lớn, vậy ta 
		cũng nên cầu phước. Nghĩ xong ngăn lại nói rằng: - Thôi! Ông đừng cho lấy vàng đến nữa! Vườn là 
		thuộc ông, còn cây tôi xin dâng Phật làm Tinh xá. Thấy Thái tử đã phát tâm kính mộ Phật. Ông Tu 
		Đạt rất vui lòng! Về nhà đặt công tác xây cất. Đoạn này bọn Lục Sư nghe biết ông Tu Đạt xây cất 
		Tinh xá, để mời Phật về thuyết pháp, lên tâu vua rằng: - Tâu Bệ Hạ! Trưởng giả Tu Đạt mua rừng Kỳ Hoàn, 
		làm Tinh xá mời Sa môn Cồ Đàm về giảng đạo, xin Bệ Hạ cho chúng tôi đấu 
		phép: nếu Sa môn thắng thì cho làm; nếu chúng tôi thắng thì không cho 
		làm. Hiện nay đồ chúng của Sa môn Cồ Đàm ở thành Xá Vệ chúng tôi ở tại 
		đây. Nhà vua triệu ông Tu Đạt vào cung hỏi: - Tu Đạt, Lục Sư nói Khanh mua rừng Kỳ Hoàn làm 
		Tinh xá, để mời Sa môn Cồ Đàm về giảng đạo phải không? - Dạ! Tâu Bệ Hạ! Việc đó có thực, xin Bệ Hạ thứ 
		lỗi cho! - Chúng xin ta đấu phép với đệ tử của Sa môn: 
		nếu thắng được chúng thì cho làm, nếu thua thì không được làm. Khanh 
		nghĩ sao? - Tâu Bệ Hạ! Việc đó để Hạ Thần về hỏi xem, nếu 
		đệ tử của Sa môn vui lòng đấu, thì Hạ Thần xin tâu sau! Tu Đạt hết vui, vừa lo vừa buồn! Sớm ngày mai ông Xá Lợi Phất mặc áo cầm bát đến 
		nhà, thấy ông có vẻ buồn liền hỏi rằng: - Hôm nay coi ông có vẻ buồn! Hay việc chi cản 
		trở chăng? - Thưa Tôn giả! Việc làm Tinh xá không biết có 
		thành không? Vì thế nên tôi buồn! - Có việc chi mà ông sợ không thành? - Thưa Tôn giả bọn Lục Sư lên tâu vua, xin đấu 
		phép với Tôn giả; nếu Tôn giả thắng thì cho làm, nếu thua chúng thì 
		không được làm. Bọn chúng xuất gia tu học đã lâu năm, pháp thuật cao 
		cường khó người địch nổi, tôi không biết Tôn giả có thắng được không, 
		nên từ qua đến nay cứ tư lự mãi! - Không sao! Ông cứ yên tâm, dầu cho bọn chúng 
		nhiều như tre gỗ khắp mặt đất, cũng không có thể làm động nổi trên cái 
		lông chân của tôi, muốn đấu thì đấu, tôi hẹp chi! Tu Đạt mừng quá! Tắm rửa sạch sẽ, mặc áo tề 
		chỉnh lên tâu vua rằng: - Tâu Bệ Hạ! Hạ Thần về hỏi đệ tử của Sa môn vui 
		lòng đấu với Lục Sư, xin Bệ Hạ thông cáo! Nhà vua gọi Lục Sư lên nói rằng: - Trẫm đã hỏi đệ tử của Sa môn rồi! Họ bằng lòng 
		đấu phép, các ông sửa soạn đi, ta cho phép sau bảy ngày nữa sẽ đấu. - Dạ! Tâu Bệ Hạ, để thông cáo cho quốc dân biết 
		đến xem. - Được tùy ý! Nước Xá Vệ có mười tám ức người, luật đánh trống 
		hội họp như sau: Nếu nhân dân nghe thấy đánh trống đồng, thì số mười hai 
		ức người lại họp; nếu nghe thấy đánh trống bạc, thì mười bốn ức người 
		lại họp tất cả. Khi tới ngày đấu phép họ đánh trống vàng. Nhà vua sắc lệnh cho dân sửa sang nơi thí vàng, 
		treo cờ, dựng biểu ngữ, bày tòa đặt ghế trang nghiêm. Vua quan dân chúng 
		ra trước; vua ngồi trên, các quan ngồi dưới, dân chúng đứng vây quanh. 
		Lục Sư đồ chúng có hai ức người tới sau, thứ tự ngồi yên tĩnh. Ông Tu 
		Đạt cũng bày một tòa cao đẹp để dành riêng cho Ngài Xá Lợi Phất. Giữa lúc đó Ngài Xá Lợi Phất đương ngồi thiền 
		dưới gốc cây, sáu căn vắng lặng, du chơi các thiền định, vô chướng ngại, 
		thầm nghĩ như vầy: - Đại hội này chúng tập thói tà Kiền Đà Lâu, 
		kiêu ngạo tự cao tự đại cũng như lối cỏ rác, ta biết lấy đức gì để hóa 
		phục họ? Nghĩ thế rồi xuất định đứng lên dùng tam đức, và 
		lập thệ rằng: - Nếu tôi trong vô số kiếp đã tu từ hiếu với cha 
		mẹ, kính trọng Sa môn, Bà la môn, xin cho tôi mới tới hội, thì tất cả 
		đại chúng đều phải đứng dậy tác lễ! Khi đó Lục Sư thấy người đến đã đông đủ mà ông 
		Xá Lợi Phất chưa đến, lên tâu vua rằng: - Tâu Bệ Hạ! Sa môn đệ tử biết không có tài, 
		đánh bạo nói đấu, giờ đây thấy dân chúng đến đông đảo, chắc sợ không 
		lại! Vua gọi ông Tu Đạt hỏi rằng: - Tu Đạt, để tử của Thầy khanh nhận lời đấu 
		phép, tại sao giờ chưa tới? - Dạ, Tâu Bệ Hạ để hạ thần về tìm. Ông Tu Đạt về nơi Ngài ngự, quỳ bạch rằng: - Kính bạch Đại đức Tôn giả! Vua quan dân chúng, 
		và bọn Lục Sư đã tới đông đủ, xin Ngài ra hội. Ngài Xá Lợi Phất lấy áo mặc tề chỉnh, tấm Ni Sư 
		Đàn vắt vai bên tả đi ung dung đĩnh đạc, như Sư Tử Vương tới nơi. Tất cả 
		vua quan dân chúng, Lục Sư, nhìn thấy oai phong của Ngài đáng sợ; thốt 
		nhiên toàn thể đứng lên, lễ Ngài như giã gạo, chẳng khác chi một cơn gió 
		mạnh thổi lướt trên làn cỏ lau. Ngài thăng tòa ngồi nghiễm nhiên như núi Tu Di. 
		Bọn Lục Sư có một người tên là Lao Độ Sai, pháp thuật giỏi nhất, trước 
		mặt đại chúng đọc chú, hóa ra một cây to lớn che rợp cả đại hội, cành lá 
		xanh tươi, hoa quả tốt đẹp, mọi người đều vỗ tay reo, hoan hô thần biến 
		của Lao Độ Sai tài! Ngài Xá Lợi Phất dùng thần lực hóa thành cơn gió 
		lốc, đập gẫy tan cây ấy ra như vi trần. Đại chúng đều vỗ tay hô lớn, 
		thần biến của Ngài Xá Lợi Phất giỏi, Lao Độ Sai kém! Lao Độ Sai đọc chú hóa ra một cái ao, bốn bề đều 
		bằng Thất bảo, trong ao có rất nhiều hoa. Đại hội đều vỗ tay khen tài! Ngài Xá Lợi Phất hóa ra con bạch tượng sáu ngà, 
		trên mỗi ngà có bảy ao sen, trên mỗi hoa sen có bảy người ngọc nữ. Bạch 
		tượng từ từ đi đến ao của Lao Độ Sai hóa, thả voi hút hết nước. Đại hội 
		đều vỗ tay reo khen thần thông Ngài Xá Lợi Phất giỏi! Lao Độ Sai lại hóa ra một quả núi trang nghiêm 
		bằng Thất bảo có suối nước chảy, cây cối um tùm, hoa quả tốt tươi. Đại 
		chúng đều vỗ tay reo! Ngài Xá Lợi Phất hóa ra rất nhiều các vị Kim 
		Cương lực sĩ, đứng xa cầm chày chỉ, tự nhiên núi ấy tan bay ra như bụi 
		nhỏ. Đại chúng đều vỗ tay khen Ngài Xá Lợi Phất giỏi! Lao Độ Sai hóa ra một con rồng mười đầu bay trên 
		không gian, mưa các thứ châu bảo xuống, và làm sấm chớp dữ dội. Đại 
		chúng đều kinh sợ, và hoan hô giỏi! Ngài Xá Lợi Phất liền hóa ra một con chim Kỳ Súy 
		Điểu, lấy chân bắt rồng xé nát bỏ mồm nuốt chửng. Đại chúng vỗ tay kêu 
		như pháo nổ, hoan hô thần biến của Ngài Xá Lợi Phất đại thắng! Lao Độ Sai hóa ra một con trâu thân thể lớn, béo 
		tốt khỏe mạnh, chân to móng sắc, quỳ dưới đất kêu rống mấy tiếng rất dữ 
		dội, rồi chồm nhảy lại trước mặt Ngài Xá Lợi Phất. Ngài Xá Lợi Phất hóa ra một con Sư Tử, lấy chân 
		móc họng trâu rồi xé nát ra ăn hết. Đại chúng đều vỗ tay reo. Khen Ngài 
		Xá Lợi Phất thắng, Lao Độ Sai bại. Lao Độ Sai biến thân thành con quỷ Dạ xoa cao 
		lớn, trên đầu lửa cháy dữ dội, mắt đỏ như huyết, bốn răng khóe dài nhọn 
		mọc chìa ra ngoài, mồm phun ra lửa, chồm nhảy rất ghê sợ! Ngài Xá Lợi Phất tự hóa thân làm ông Tì Sa môn 
		Thiên Vương, quỷ Dạ xoa sợ hãi chạy trốn, bị bốn bên lửa cháy vây như 
		một bức thành, hết lối tẩu thoát, chỉ nơi Ngài Xá Lợi Phất mát mẻ. Đến đây Lao Độ Sai chịu khuất phục, năm thể gieo 
		xuống đất cúi đầu xin tha mệnh, nhưng vì bị nhục quá nên lửa ở quả tim 
		phát ra cháy thiêu mất thân thể. Khi đó tất cả đại chúng, đều vỗ tay kêu 
		như sấm! Vui mừng! Và hoan hô Ngài Xá Lợi Phất đại thắng. Muốn cho toàn thể vua quan, dân chúng, cải tà 
		quy chính, biết tôn sùng ngôi Tam bảo, nên Ngài bay lên hư không, hiện 
		ra bốn oai nghi: đi đứng nằm ngồi trên hư không, trên mình phun ra nước, 
		dưới mình phun ra lửa, ẩn bên đông, hiện bên tây, nhô bên nam, hiện bên 
		bắc; hoặc hiện thân to lớn chật hư không, rồi thu hình lại rất nhỏ; hoặc 
		biến ra trăm ngàn muôn ức thân, xong lại hợp nhất; đương trên không hốt 
		nhiên ở dưới đất; hoặc đi trên mặt nước, cũng như người đi trên đất, 
		biến hiện rất nhiều phép thần túc, lại về ngồi trên bảo tọa như cũ. Tất cả đại chúng từ vua đến dân, nhìn thấy phép 
		thần vô ngại, ai nấy đều kính phục, phát tâm tín kính ngôi Tam bảo. Ngài thấy họ đã phát tâm chuyển hướng theo Phật, 
		nên Ngài nói về tội phúc báo ứng, nhân duyên sinh Pháp. Nghe xong có 
		người đắc quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, cho đến quả A la hán. Còn ba ức đồ 
		chúng của Lục Sư, quay đầu về theo Ngài, làm đệ tử xuất gia, tất cả cúi 
		đầu tạ lễ lui ra, rồi giải tán. Cách mấy bữa sau, Ngài và ông Tu Đạt, đo đất tại 
		khu vườn Kỳ Hoàn, mỗi người cầm một đầu dây, thấy Ngài mỉm cười! Ông 
		hỏi: - Tôn giả cười gì? - Tôi cùng ông cầm dây đo, vừa hết một vòng vườn 
		này, thì cung điện ở trên sáu cõi trời đã làm xong! Vì thế mà tôi cười! - Vì lý do gì Tôn giả cười? - Vì ông làm Tinh xá cúng Phật nên phúc của ông 
		được ở các cung điện cõi trời, hiện ra nhanh như vậy! Tôi sẽ cho ông 
		mượn đạo nhãn mà coi! Ông Tu Đạt nhờ đạo nhãn, nhìn thấy những cung 
		điện rất trang nghiêm đẹp đẽ, dành riêng cho mình trên sáu cõi trời, 
		thưa rằng: - Kính thưa Tôn giả trong sáu cõi này; cõi nào 
		vui hơn nhất. - Ba cõi dưới đam hoang về sắc dục nhiều, đến 
		cõi thứ tư, là những người ít dục biết đủ, thường có những Bồ tát nhất 
		sinh bổ xứ sinh tới, tiếng thuyết pháp không lúc nào ngớt. Trên, còn hai 
		cõi nữa, chúng sinh ở đấy có tính kiêu mạn dậc lạc; buông lung lu bù. - Kính thưa Tôn giả! Nếu vậy, đời sau con nguyện 
		sinh lên cõi thứ tư! Ông nguyện xong, các cung điện kia đều diệt hết, 
		mà chỉ nhìn thấy cung điện cõi thứ tư, yên nhiên không biến động, bắt 
		đầu đo, ông nhìn thấy Ngài có sắc buồn! Bèn hỏi: - Tôn giả, tại sao Ngài có vẻ buồn? - Trưởng giả có nhìn thấy đàn kiến này không? - Dạ, thưa Tôn giả, có nhìn thấy! - Trưởng giả, vì chưa có đạo nhãn, nên không 
		biết nguyên uỷ đám kiến này. Đời quá khứ cũng ở khu đất này, ông làm 
		Tinh xá cúng dàng đức Phật Tỳ Bà Thi, thì đàn kiến này nó ở đây! Đến đời 
		đức Phật Thi Khí, ông cũng làm Tinh xá ở khu đất này cúng Phật, đàn kiến 
		này nó cũng sinh ở đây! Đến đời đức Phật Tỳ Xá Phú ông cũng làm Tinh xá 
		ở khu đất này cúng Phật, thì đàn kiến này nó cũng sinh đây! Đến đời đức 
		Phật Câu Lưu Tôn ông cũng làm Tinh xá ở khu đất này cúng Phật, đàn kiến 
		này nó cũng sinh ở đây! Đến đời đức Phật Na Hàm Mâu Ni ông cũng làm Tinh 
		xá ở khu đất này cúng Phật, đàn kiến này nó cũng sinh ở đây! Đến đời đức 
		Phật Ca Diếp ông cũng làm Tinh xá ở khu đất này cúng Phật, đàn kiến này 
		nó cũng sinh ở đây! Cho đến nay đã chín mươi mốt kiếp, còn phải làm thân 
		con kiến không thôi, biết ngày nào giải thoát? Ông nên coi sinh tử đọa 
		lạc lâu dài như thế, đã mấy ai biết sợ mà cầu giải thoát, cho nên con 
		người có trí phải biết bớt bỏ lòng tham dục si mê mà tu đạo làm thiết 
		yếu. Tu Đạt nghe xong rơi lệ chứa chan! Thương mình 
		và thương chúng sinh; mê đường lạc nẻo, tham chút vinh lạc nhơ bẩn của 
		thế gian, đến nỗi bỏ thân này, thụ thân kia, lộn vòng xoay trong các 
		thú! Đo đất xong bắt đầu xây cất Tinh xá, làm riêng 
		một lầu gác bằng gỗ chiên đàn cúng Phật, nơi biệt cư cúng Tăng, làm hai 
		mươi khu, gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị, để hiệp lệnh riêng. Làm 
		xong ông tự nghĩ rằng: - Dầu sao mình cũng là một kẻ hạ thần của nhà 
		vua, nếu cứ tự do mời Phật, sợ có chướng ngại hoặc vua không hài lòng, 
		vậy ta tâu vua xem ý thế nào? - Tâu Bệ Hạ! Hạ thần làm Tinh xá, để mời Phật về 
		nước nhà, giảng đạo, cho dân chúng bớt bỏ lòng bạo ngược tham tàn, tu 
		theo chánh giáo, ngõ hầu quốc gia được an lạc thái bình. Cúi xin Bệ Hạ, 
		cho sứ đi mời Phật, hạ thần được đội ơn vạn bội! Nhà vua nghe nói rất hợp ý mình, liền sai người 
		sang thành Vương Xá mời Phật và chư Tăng. Tuân lệnh, Sứ sang Vương Xá, 
		vào yết kiến Phật, cúi đầu làm lễ thưa rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Chúa công con và hạ thần 
		Tu Đạt, cho con tới đây câu thỉnh Thế Tôn hạ cố quang lâm sang nước Xá 
		Vệ, để tuyên dương chánh pháp, cho quần sinh được ân triêm đức hóa, cúi 
		xin Ngài Từ bi hoan hỷ! Cho chúa con và hạ thần Tu Đạt được ăn mày công 
		đức! Phật dạy: - Quý hóa! Chúa khanh và hạ thần Tu 
		Đạt muốn cho quốc dân được an vui sung sướng trên cõi nhân thiên, mãi 
		mãi, ta hứa một ngày gần đây sẽ đến. Sứ thần tạ lễ lui ra! Đức Thế Tôn sau khi nhận lời mời của nhà vua, 
		muốn cho chánh pháp chóng soi tỏ lòng người, nên đầu tiên Ngài phóng Đại 
		Quang Minh ở trên đỉnh đầu, làm chấn động thiên địa, khắp nước Xá Vệ mọi 
		người đều biết oai thần của Ngài. Khi đi sang nước Xá Vệ có rất nhiều đệ tử theo 
		hầu, tới khách xá, Ngài cùng đại chúng vào nghỉ chân. Trong lúc đi 
		đường, Ngài cũng giáo hóa được rất nhiều người quy y Tam bảo. Dần dần 
		tới nước, Quốc Vương quần thần nhân dân, mang hương hoa ra đón, người 
		đông như hội, ai nấy đều lễ sát đất, như một làn gió thổi lướt trên đám 
		cỏ lau, thực là một buổi vô cùng vui vẻ! Ngựa xe chật đường, người đi 
		như nước chảy. Nơi tiếp Ngài, một khu đất cao sạch mát mẻ, quy vuông năm 
		ngàn mẫu, trang trí tôn nghiêm, treo cờ, dựng biểu ngữ, phướn lọng rợp 
		trời. Đức Phật tới nơi ngồi trên bảo tọa oai nghiêm phóng Đại Quang Minh 
		chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, ngón chân bấm xuống đất làm 
		chuyển động hoàn cầu, các âm nhạc tự nhiên vang động, không người điều 
		khiển. Nhờ đức hóa của Phật, kẻ mù được sáng con mắt; kẻ điếc được nghe 
		rõ; kẻ câm ngọng được nói năng; kẻ còng được ngay thẳng, nói tóm lại tất 
		cả toàn quốc đều hết tật bệnh đau khổ. Nhân dân lớn nhỏ trai gái trẻ già 
		đều vui mừng hớn hở chen nhau đến lễ Phật. Khi đó, đức Phật tùy theo căn khí mà thuyết pháp 
		cho họ nghe. Cũng như ông Thầy thuốc, tùy theo bệnh nhân mà cho thuốc, 
		những người có phúc duyên nhiều, nghe pháp chóng được chứng đạo; có 
		người chứng quả Tu đà hoàn; Tư đà hàm; A na hàm; cho đến quả A la hán; 
		cũng có người gây nhân Bích Chi Phật, cũng có người phát tâm cầu đạo Vô 
		thượng Bồ đề. Khi đó Phật bảo tôi (A Nan) rằng: - Vuờn này thuộc ông Cấp Cô Độc, cây thuộc Thái 
		tử Kỳ Đà, hai người chung sức làm Tinh xá. Vậy nên đề rằng: Cây của Thái 
		tử Kỳ Đà, vườn của ông Cấp Cô Độc, lưu truyền cho hậu thế. Đức Phật dạy thế, tôi xin phụng mạng, rồi đó mọi 
		người đều cúi đầu, lễ Phật lui ra. 44/ Phẩm 
		thứ bốn mươi tư LẶC NA SÀ GIA Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Ca 
		Tỳ La Vệ, tại Tinh xá Ni Câu Lư Đà. Khi bấy giờ giòng họ Thích và nhân dân thấy đức 
		Thế Tôn có quang minh thần biến, tuyên dương chánh giáo, đường đường 
		chính chính, khắp nhân thiên phàm thánh đều quy ngưỡng. Họ ca tụng nhóm 
		ông Kiều Trần Như năm người đối với Phật có duyên gì tốt, mà được nghe 
		pháp đầu tiên; được đắc giải thoát trước, trong thành ngoài ấp đều tùng 
		phục tôn kính. Các vị Tỳ kheo nghe biết, lên bạch Phật rằng: Kính lạy đức Thế Tôn! Nhân dân họ đương tán tụng 
		Thế Tôn! Và khen nhóm ông Kiều Trần Như, tiền thế có phúc lành gì mà 
		được độ trước, cúi xin Ngài chỉ bảo cho. Phật dạy: Các ông nên biết kiếp 
		xưa đã quá lâu, ta phải lấy thân làm thuyền để cứu bọn ông; cũng do 
		duyên lành ấy, mà nay ta độ cho bọn ông trước! Các Thầy lại thưa với Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn, đời trước Ngài cứu bọn 
		ông ấy, việc đó thế nào cúi xin chỉ giáo cho chúng con được biết? - Các ông hãy để ý nghe cho kỹ! Cũng ở Châu Diêm 
		Phù Đề này, thời đó có một nước gọi là Ba La Nại, vua nước ấy là Phạm Ma 
		Đạt. Ông Lặc Na Sà Gia là một nhà buôn, hôm đó ra 
		chơi nơi khu rừng gặp một người khóc và đương thắt cổ tự tử! Ông tới nơi 
		hỏi rằng: - Anh tại sao thế? Thân người khó được, mạng 
		sống mỏng manh suy biến luôn luôn, nay còn mai thác! Thôi, anh hãy cởi 
		dây ra, đừng chết đi cho uổng, muốn gì nói cho tôi nghe, nếu có thể giúp 
		được, tôi xin giúp. - Thưa ông! Thôi nghèo khổ quá! Cùng cực khổ! 
		Công nợ nhiều, hết phương kế sống! Chủ nợ lại đòi sỉ nhục thậm tệ, nhà 
		cửa ruộng nương họ tịch thâu hết, tuy ông có tâm can tôi, nhưng sống 
		không chỗ dung thân, tôi định bỏ mạng ở đây cho hết khổ! - Anh cứ cởi dây ra, công nợ nhiều ít tôi sẽ trả 
		cho, đừng lo! - Anh ta vui mừng quá! Cởi dây, rồi theo về nhà. 
		Ngày mai ra chợ để gặp các chủ nợ, bảo cho họ biết sẽ trả, và dặn đến 
		nhà ông Lặc Na Sà Gia. Hôm sau họ đến đông quá, ông trả tận gia tài mà 
		chưa hết nợ, đến nỗi vợ con ông phải đi ăn xin, cha mẹ anh em làng xóm 
		đều ghét ông là kẻ cuồng si, phá hoại gia nghiệp, để vợ con đói khổ! Đương lúc ông bị cùng đường, có bọn nhà buôn mời 
		ông ra biển buôn một chuyến, ông nói: - Tôi là một người hướng đạo cho các bạn, lý ra 
		tôi phải mua thuyền cho các bạn đi, hồi này hết tiền thì các bạn tính 
		sao? Đáp: - Chúng tôi có năm trăm người, xin bỏ tiền 
		mua thuyền. Sau họ góp nhau lại được rất nhiều vàng đưa cho 
		ông, ông mua thuyền một ngàn lạng; mua lương thực ăn đường một ngàn 
		lạng, sắm các đồ trên thuyền một ngàn lạng. Còn bao nhiêu cho vợ con, và 
		cấp đỡ cho anh nhà nghèo nói trên. Chiếc thuyền dầy khỏe bảy lần ván, dùng bảy dây 
		buộc neo trên bờ, rồi phát lệnh cho các nhà buôn để sửa soạn nhập hải, 
		khi đến đông đủ, ông lớn tiếng nói rằng: - Ai không mến gia đình vợ con, thân mạng, cho 
		đến quốc gia thì đi, vì ra biển rất nhiều nguy hiểm, nào sóng to gío 
		lớn, cá Ma Kiệt, quỷ Dạ xoa, rồng độc, nói xong cắt một dây neo, bảy 
		ngày cắt bảy dây. Thuyền bắt đầu đi, biển cả mênh mông, một trời 
		một nước, hốt nhiên gặp sóng to gió lớn, làm cho thuyền nghiêng ngả chực 
		đắm, mọi người đều sợ hãi, khi đó kẻ dùng phao, dùng gỗ, người nhảy 
		xuống biển; người ở trên thuyền, trong số đó có năm người thưa với ông 
		rằng: - Chúng tôi theo ông tới đây, giờ chết sắp đến, 
		mong ông cứu chúng tôi! - Dạ, tôi nghe trong biển cả, không bao giờ chứa 
		nạp tử thi, vậy các ông nắm lấy tôi, tôi sẽ tự sát thân này cứu các ông, 
		nguyện đem công đức cầu thành Phật, khi đó tôi sẽ lấy thuyền Vô thượng 
		chánh pháp chở các ông sang qua bể lớn sinh tử trước. Nói xong lấy dao đâm cổ chết, đại hải bất nạp tử 
		thi, ông Thần biển dùng gió thổi xác ông dạt vào bờ, bọn năm người được 
		thoát chết trở về nước. Nói tới đây Ngài nhắc lại rằng: - Tỳ kheo các ông nên biết: Ông Lặc Na Sà Gia 
		thuở đó, chính là tiền thân của ta, còn năm người bám vào xác chết nay 
		là nhóm ông Kiều Trần Như năm người, tới nay ta thành Phật, bọn ông được 
		nghe pháp đắc quả đầu tiên, là vì lý do ấy. Nghe lời Phật nói, các vị đều tán thán công đức 
		của Phật vô cùng to lớn, ai nấy đều gắng sức tiến tu, cúi đầu tạ lễ lui 
		ra. 45/ Phẩm 
		thứ bốn mươi lăm CÁ TRĂM ĐẦU Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Ma 
		Kiệt Đề, tại vườn Trúc. Một hôm đức Thế Tôn và các vị Tỳ kheo, sang nước 
		Tỳ Xá Ly, ngồi nghỉ mát trên bờ sông Lê Việt. Trên bờ có năm trăm người 
		chăn trâu và năm trăm người đánh cá; những người đánh cá này, họ có ba 
		thứ lưới: một thứ hai trăm người kéo; một thứ ba trăm người kéo; một thứ 
		năm trăm người kéo. Đức Như Lai và các vị Tỳ kheo ngồi cách họ cũng 
		không xa, một lát thấy năm trăm người nọ, kéo hết sức cũng không nổi, 
		sau họ gọi bọn năm trăm người chăn trâu lại kéo giùm, một lúc kéo lên 
		được con cá rất lớn; trên mình cá có đủ trăm đầu thú: đầu ngựa, đầu lạc 
		đà, đầu hổ, đầu chó sói, đầu lợn v.v… cá lạ, xúm nhau lại xem. Thấy thế, Phật sai tôi lại coi. Tôi vâng lời, 
		lại nhìn thấy con cá lớn trên mình có đủ trăm đầu thú khác nhau, tôi lại 
		trở về bạch Ngài biết rõ căn nguyên. Ngài cùng đại chúng đi lại xem, khi tới nơi Ngài 
		hỏi cá rằng: - Cá, có phải là Ca Tỳ Lê không? Cá đáp: - Thưa phải. Ngài hỏi tiếp: - Kiếp này làm cá, kiếp sau biết về đâu không? - Thưa Ngài, kiếp sau về Địa ngục A Tỳ. Tôi và đại chúng không rõ tại sao, bèn hỏi Phật 
		rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài gọi con cá này là 
		Ca Tỳ Lê vì lý do gì, xin nói cho chúng con được rõ? Phật dạy: - Các ông hãy lắng nghe tôi nói nguyên 
		ủy con cá này cho biết: Trước đây, về thời đức Phật Ca Diếp có một người 
		Bà la môn sinh được cậu con trai, đặt tên là Ca Tỳ Lê; cậu này thông 
		minh tài trí, đối với hàng văn hoa trí thức thời đó; anh ta giỏi nhất. 
		Tuy thế nhưng đối với trí tuệ học vấn của các vị Sa môn thì anh ta kém 
		đặc. Khi cha anh chết có dặn anh rằng: - Con chớ đàm luận với các vị Sa môn của đức 
		Phật Ca Diếp; vì các vị có trí tuệ sâu rộng, con không thể bì kịp. Sau khi cha anh chết: anh vẫn còn đi học; và anh 
		được tiếng khen trong nước là người tài biện luận, nhưng không bao giờ 
		anh ngồi đàm luận với các vị Sa môn, thấy con khuyết điểm ấy, nên một 
		hôm mẹ anh hỏi rằng: - Con vốn là người cao minh học vấn; đời nay có 
		ai hơn được con không? - Dạ! Thưa mẹ, các vị Sa môn hơn con nhiều lắm! - Hơn con thế nào? - Thưa mẹ! Nếu con có chỗ nào không biết, đến 
		hỏi thì các vị giải đáp rõ ràng dễ hiểu; nếu các vị hỏi lại thì con 
		không đáp nỗi, bởi vậy nên con biết kém! - Vậy sao con không đến học hỏi phương pháp ấy? - Thưa mẹ! Nếu học phương pháp ấy, thì phải làm 
		Sa môn, con là kẻ thế tục làm sao học được! - Con sẽ giả làm Sa môn, học tập cho giỏi, rồi 
		lại trở về với mẹ có hại gì! - Dạ, mẹ dạy con nghe! Cách một thời gian, anh mang áo cầm bình giả làm 
		Sa môn, vào tu học, vì anh có trí thông minh sẵn, chỉ một thời gian đã 
		quán thông tam tạng, một hôm về nhà chơi, mẹ anh hỏi: - Con học đã giỏi 
		hơn các vị Sa môn chưa? - Thưa mẹ! Học vấn con giỏi ngang, còn tọa thiền 
		con kém. - Tại sao con biết kém? - Thưa mẹ, vì phép tọa thiền khó, lý thú siêu 
		hình, con tập cũng không được, học cũng không đạt, vì thế mỗi khi con 
		đàm luận đều bị thua! - Từ nay trở đi, có đàm luận nếu thua, thì con 
		cứ la mắng sỉ nhục! - Thưa mẹ, các vị Sa môn tu đạo Từ bi, có tội gì 
		mà mẹ bảo con mắng! - Vì con có mắng, thì con được! Ca Tỳ Lê nghe lời mẹ dạy, cứ mỗi khi đàm luận 
		với các vị Sa môn bị thua, mắng liền: người là kẻ ngu! Người là loài Súc 
		sanh hiểu biết gì? Rồi lại tỷ các vị như đầu con thú này; đầu con thú 
		khác, luôn luôn có thái độ ác liệt đối với cá vị Sa môn! Nói tới đây Phật nhắc lại rằng: - A Nan, ông nên biết Ca Tỳ Lê vì ác tâm mắng 
		các vị Sa môn thuở đó, nay phải chịu báo làm con cá trăm đầu! - Kính lạy đức Thế Tôn, Ca Tỳ Lê bao giờ được 
		thoát khỏi thân cá! - A Nan ông nên biết: như ta lấy Phật nhãn mà 
		coi, hãy còn lâu lắm, trong đời hiền kiếp, một ngàn đức Phật đã quá khứ 
		đi rồi, cũng chưa được thoát. Khi đó tôi và các vị Tỳ kheo nghe Phật nói xong, 
		ai nấy đều rùng mình rởn gáy, bi thương giao cảm! Đồng thanh nói: Tất cả 
		chúng sanh thân, miệng, và ý nghĩ, phải nên cẩn thận! Thấy Phật và đại chúng hỏi đáp như vậy, các 
		người đánh cá và chăn trâu, đều chắp tay bái Phật, xin xuất gia tu phạm 
		hạnh. Phật khen họ tốt và nói: - Thiện Lai Tỳ kheo! Ngài nói dứt lời, râu tóc họ rụng hết, áo mặc 
		mình họ hóa ra áo Cà sa, biến thành các vị Sa môn. Theo Phật tu học không bao lâu, đã hết lậu 
		nghiệp, đắc quả A la hán. Vì đại chúng, Phật giảng về Tứ Diệu Đế, tất cả 
		mọi người được nghe diệu pháp đều phát tâm hướng đạo Vô thượng Bồ đề, 
		cúi đầu tạ lễ mà lui. 46/ Phẩm 
		thứ bốn mươi sáu TỊNH CƯ THIÊN Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá 
		Vệ, tại vườn Cấp Cô Độc cây của Kỳ Đà. Khi bấy giờ vào khoảng chập tối, thấy một đạo 
		quang minh sáng lòe từ trên trời, chiếu xuống rừng Kỳ Hoàn; trong đạo 
		hào quang có một người cao lớn tươi đẹp, mình có ánh sáng như ngọc kim 
		cương, bay xuống vào yết kiến Phật, lễ ba lễ nhiễu ba vòng, quỳ thẳng 
		chắp tay bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Con ở trên cõi trời Tịnh 
		Cư, nghe thấy Ngài xuất thế độ sinh, tác phước điền cho cõi nhân gian 
		thiên thượng. Con tưởng rất khó gặp, với một tấm lòng thành kính, cung 
		thỉnh đức Thế Tôn và Tăng chúng, nhận cho ngày mai con được cúng dàng 
		trai Tăng và tắm gội? Đức Phật khen có tâm cầu phúc và hứa lời mời của 
		ông. Được Phật hứa khả, ông bay về trời đem các món ăn ngon quý trên 
		thiên cung và các đồ tắm gội, áo mặc xuống rừng Kỳ Hoàn, ông tự hóa ra 
		nhà ôn thất, nước pha không nóng, không lạnh, dâu bôi cỏ kỵ, đầy đủ các 
		vật, rồi lên mời Phật đi tắm. Khi tắm xong, đức Thế Tôn, về tư phòng, 
		ông lên bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn, trai thời đã đến, cúi 
		xin Ngài chứng giám thọ trai. Đức Phật và Tăng chúng tắm gội xong, chỉnh phục, 
		ra trai đường, dùng bữa ngọ xong, lại trở về bản tòa. Tôi liền đứng lên, tới đức Thế Tôn, quỳ thẳng 
		chắp tay hỏi rằng: - Kinh lạy đức Thế Tôn, người ở cõi Trời Tịnh Cư 
		cúng tắm gội hôm nay, trước làm công đức gì, mà được thân hình tốt đẹp, 
		uy đức đoan nghiêm, quanh minh chói sáng, như quả núi báu, cúi xin nói 
		cho chúng con được biết? Phật dạy: A Nan, muốn biết hãy lắng tai nghe! - Dạ lạy đức Thế Tôn! Con xin chú ý nghe. - Người này ở thời đức Phật Tỳ Bà Thi là một 
		người nghèo. Thường đi làm mướn để nuôi thân. Một hôm được nghe đức Phật 
		Tỳ Bà Thi nói công đức cúng dàng tắm gội lớn lao. Anh ta vui mừng muốn 
		được công đức ấy! Cố gắng đi làm mướn được chút gạo tiền, mua các thứ 
		hàng dùng tắm gội, cùng các món ăn, xếp đặt xong, đi mời Phật và chư 
		Tăng về nhà cúng dàng, do phước ấy lúc chết được sinh lên cõi trời Tịnh 
		Cư, và có quang minh. A Nan, ông nên biết người này, chẳng những hôm nay 
		mời ta và chư Tăng cúng dàng, tắm gội đâu! Thời đức Phật Thi Khí đã 
		xuống thế gian cúng dàng, cho đến thời đức Phật Ca Diếp cũng cúng dàng 
		như hôm nay; người này chẳng những cúng dàng bảy đức Phật; mà sau này 
		còn cúng dàng một ngàn đức Phật đời hiền kiếp, cũng như hôm nay. Nói xong Ngài thụ ký cho ông đủ một trăm kiếp A 
		tăng kỳ sẽ được thành Phật, hiệu là Tịnh Thân, mười hiệu đầy đủ, giáo 
		hóa chúng sinh nhiều không số lượng. Khi đó tôi và tứ chúng ai nấy đều 
		vui mừng đồng thanh nói rằng: - Đức Như Lai ra đời rất có lợi cho muôn loài 
		chúng sinh, như ông Tịnh Cư Thiên này cúng dàng ít, mà phúc báo vô cùng 
		to lớn! Phật khen rằng: - Các ông nói thế cũng hay lắm! 
		Như Lai ra đời một mục đích cứu quần sinh, khỏi đau khổ, và làm lợi ích 
		cho tất cả mà thôi! Nói xong, Ngài lại tuyên diễn chánh pháp cho đại 
		chúng nghe, nghe xong có người đắc quả vãng lai, quả bất hoàn, cũng có 
		người phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ đề, ai nấy đều vui mừng tạ lễ mà 
		lui. 
		(Quyển Thứ Chín Hết) 
		Kinh Hiền Ngu đến đây là trọn bộ 
 
		  |