|   | 
			
			
				
					
						| 
						 
						PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
						 
						Hòa Thượng Thích Thiện Hoa  
						 
						Mục Lục Khóa Thứ Nhất  
						Nhân Thừa Phật Giáo  
						 
						
						01 Ðạo Phật  
						02 Lược Sử Ðức Phật 
						Thích Ca (từ giáng sinh đến thành đạo)  
						03 Lược Sử Ðức Phật 
						Thích Ca (từ thành đạo đến Niết Bàn)  
						04 Quy Y Tam Bảo
						 
						05 Ngũ Giới
						 
						06 Sám Hối
						 
						07 Thờ Phật, Lạy 
						Phật, Cúng Phật  
						08 Tụng Kinh, Trì 
						Chú, Niệm Phật  
						09 Ăn Chay
						 
						10 Bát Quan Trai Giới 
						
						
						
						Phụ 
						bài số 10: NGHI THỨC THỌ BÁT QUAN TRAI GIỚI
						  
						 
						Lời Nói Ðầu  
						 
						Ðạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho 
						nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Ðạo Phật. Dân 
						chúng thường nói "Ðạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà 
						nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...". Kể về 
						số lượng thì tín đồ Phật Giáo ở Việt Nam thật là đông 
						đảo; nhưng xét về phần phẩm, thì chúng ta chưa có thể 
						lạc quan được. Tình trạng phẩm ít, lượng nhiều ấy phát 
						sinh vì nhiều nguyên-nhân phức tạp:  
						 
						- Có người theo đạo Phật vì truyền-thống của ông cha 
						(ông cha theo Ðạo Phật, nên con cháu cũng theo).  
						 
						- Có người theo đạo Phật vì cảm-tình đối với thân bằng 
						quyến thuộc, hay đối với cái Ðạo đã chia sẽ những phút 
						vui buồn, thịnh suy của đất nước.  
						 
						- Có người theo đạo Phật, vì mong cầu được tai qua nạn 
						khỏi, hay cầu của, cầu con v.v...  
						 
						Ngày nay, vẫn biết có một số đông tín đồ đã hiểu đúng 
						giá trị cao siêu và lợi ích rộng lớn của Ðạo Phật, nhưng 
						cái số ấy không phải là đa số, nếu đem so với cái khối 
						tín đồ hiểu Ðạo một cách nông cạn, hay sai lạc nói trên.
						 
						 
						Vì không hiểu một cách thấu đáo Ðạo Phật, nên lòng tin 
						không được chắc chắn. Mỗi khi gặp một lý thuyết nào lạ, 
						một tôn giáo nào mới, thì họ ùa hòa tin theo, như cây 
						thiếu rễ cái, gió thổi phía nào thì ngã rạp theo phía 
						ấy, thật đáng buồn thương.  
						 
						Tình trạng buồn thương ấy có thể bổ cứu được, nếu chúng 
						ta có một chương trình dạy Phật Pháp bằng chữ Việt. Dân 
						tộc ta là người Việt, ở đất Việt, ăn cơm Việt, nói tiếng 
						Việt, mà kinh sách bằng chữ ngoại quốc; cả chi triết lý 
						cao sâu của Ðạo Phật cẫn còn nằm nguyên trong 3 tạng chữ 
						Tàu, thử hỏi có mấy ai đọc được? Như thế thì bảo tín đồ 
						làm sao hiểu biết giáo lý cao sâu của Ðạo Phật và lòng 
						tin làm sao vững chắc được?  
						 
						Nóng lòng vì tình cảm ấy, chúng tôi bạo dạn và cố gắng 
						soạn ra chương trình "Phật Học Phổ Thông" này, mong giúp 
						tín đồ mau hiểu giáo lý, thấy được chỗ quí báu của Ðạo, 
						để cho lòng tin được chơn chánh và vững bền.  
						 
						Chúng tôi tự biết mình đức bạc tài sơ, chưa đủ khả năng 
						làm việc vĩ đại này. Nhưng nếu do dự và nhún nhường mãi, 
						rồi suất đời cũng chẳnh làm được gì. Chi bằng cứ cố gắng 
						hy sinh đắp trước con đường đất, để cho các bực có tài 
						đức sau này sửa chữa lại, rồi cán đá và tráng nhựa.
						 
						 
						Chương trình "Phật Học Phổ Thông" có mục đích xây dựng 
						cho tín đồ có căn bản giáo lý, hiểu biết Phật pháp từ 
						thấp đến cao, lấy Ngũ Thừa Phật Giáo làm nền tảng.  
						 
						Từ khóa thứ nhứt đến khóa thứ tư, chúng tôi đã soạn hết 
						Ngũ Thừa Phật Giáo. Khi tín đồ đã hiểu giáo lý căn bản 
						nói trên rồi các khóa sau, chúng tôi sẽ mở thêm bề rộng 
						và xây thêm bề cao của tòa nhà Phật Giáo. Từ khóa thứ V 
						đến khóa thứ XII, tín đồ sẽ tuần tự học về Ðại cương 
						kinh Lăng nghiêm, Viên giác, Duy thức Luận và Kim Cang, 
						Tâm Kinh.  
						 
						Chương trình này, chúng tôi đã soạn từ năm 1953 đến nay 
						và đã xuất bản thành tập, từ tập Phật Học Phổ Thông thứ 
						nhứt cho đến tập Phật Học Phổ Thông thứ 12.  
						 
						Công việc trên đây là cả một gánh nặng, mà đường lại 
						dài, chúng tôi khẩn thiết yêu cầu những vị nhiệt tâm vì 
						đạo, từ quý vị đại đức Tăng Già cho đến các hàng Cư Sĩ, 
						kẻ công người của tiếp sức với chúng tôi (hoặc giúp sáng 
						kiến, tài liệu hay tài chánh), cùng nhau xây dựng cho 
						hoàn bộ một chương trình Hoằng Pháp ở nước nhà, hầu bổ 
						cứu những khuyết điểm và dẹp bỏ những tình tệ trong Ðạo 
						Phật từ trước đến nay.  
						 
						Chúng tôi chấm dứt trong sự tin tưởng ở lòng nhiệt thành 
						vì Ðạo của quý vị độc giả xa gần.  
						 
						Thích Thiện Hoa  
						 
						Nguồn: TVHS 
						
						
						▲ Trở Lên 
						 | 
					 
					
						| 
						
						 Mục 
						Lục Khóa Thứ Nhất  
						Nhân Thừa Phật Giáo 
						  
						Bài Thứ 1  
						Ðạo Phật  
						 
						A-Mở Ðề:  
						 
						Phật ra đời vì một nhân duyên lớn: Khai thị chúng sanh 
						ngộ nhập Phật tri kiến.  
						 
						Người đời thường nói một cách hời hợt cho qua chuyện, 
						"Ðạo nào cũng tốt!". Lời nói ấy, hoặc vì xã giao để cho 
						vui lòng khách, hoặc vì chưa rõ bề mặt trong của các Ðạo 
						khác nhau thế nào, nên mới ra như thế. Thật ra về mục 
						đích thì đạo nào cũng có giá trị của nó, chẳng qua chỉ 
						hơn nhau về từng bậc cao thấp mà thôi. Nhưng mục đích 
						tốt dù sao, cũng chưa đủ. Ðiều quan trọng là làm sao 
						thực hiện được mục đích ấy, và đem lợi ích rộng lớn cho 
						đời. Thử hỏi nếu đạo nào cũng có giá trị như nhau, thì 
						sao trước đây 2500 năm, trong lúc xứ Ấn độ đã có 94 thứ 
						đạo rồi, mà đức Phật Thích Ca còn giáng sinh làm chi 
						nữa?  
						 
						Chẳng qua các Ðạo tuy nhiều, mà chưa được toàn "chơn, 
						thiện, mỹ", nên đức Phật mới ứng thân thị hiện, dạy cho 
						chúng sanh đạo Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, ngõ hầu 
						giải thoát khỏi khổ sanh tử luân hồi, được tự tại vô 
						ngại như Phật. Kinh Pháp Hoa chép, "Vì một nhân duyên 
						lớn, Phật mới xuất hiện ra đời".  
						 
						Nhân duyên lớn ấy là gì? Chính là: "Khai thị chúng sanh 
						ngộ nhập Phật tri kiến", để cho chúng sanh được nhờ đó 
						mà đổi mê ra ngộ thấy tánh tỏ tâm, vượt sống khỏi chết, 
						lìa khổ được vui.  
						 
						Ðịnh Nghĩa  
						1. Chữ Ðạo nghĩa là gì? Chữ đạo có ba nghĩa: Ðạo là con 
						đường; Ðạo là bổn phận; Ðạo là lý tánh tuyệt đối, là bản 
						thể.  
						 
						a) Ðạo là con đường, như người ta thường dùng trong 
						những chữ: nhân đạo, thiên đạo, địa ngục đạo, ngạ quỷ 
						đạo, súc sanh đạo. Phàm là con đường thì có tốt, xấu, có 
						thiện, ác v.v...Theo đạo Phật, h còn trong vòng đối đãi, 
						thì không thể gọi hoàn toàn rốt ráo.  
						 
						b) Ðạo là bổn phận, như người ta thường dùng những chữ: 
						đạo vua tôi, đạo thầy trò, đạo vợ chồng v.v...Phàm là 
						bổn phận thì thường chịu ảnh hưởng của phong tục hay tập 
						quán. Phong tục và tập quán của nước này không giống 
						nước kia. Vì vậy, chữ Ðạo là bổn phận cũng chưa đúng với 
						nghĩa chữ Ðạo mà nhà Phật muốn nói.  
						 
						c) Ðạo là* lý tánh tuyệt đối, là bản theă, nó lìa nói 
						năng, không thể nghĩ bàn. Ðức Lão tử nói: "Ðạo mà nói ra 
						được, không phải là đạo". Xưa có người hỏi một vị Tổ Sư: 
						"Ðạo là gì?". Tổ sư đáp: "Trước Phật Oai Âm Vương, không 
						có tên Phật và chúng sanh, lúc ấy chính là Ðạo".  
						 
						Chữ Ðạo của nhà Phật chính là đồng nghĩa với bản thể 
						vậy.  
						 
						2. Chữ Phật nghĩa là gì? Chữ Phật, nói cho đúng tiếng 
						Phạn là Bouddha (Phật Ðà). Người Trung Hoa dịch nghĩa là 
						Giác Giả, (bực đã giác ngộ, sáng suốt hoàn toàn). Giác 
						có ba bực:  
						 
						a) Tự giác: Nghĩa là tự giác ngộ hoàn toàn do phước huệ 
						và công phu tu hành, khác với phàm phu là những người 
						còn mê muội, bị luân hồi trong cõi trần lao, khổ hải.
						 
						 
						B) Giác tha: Nghĩa là mình đã giác ngộ, lại đem phương 
						pháp giác ngộ ấy dạy cho những người tu hành được giác 
						ngộ như mình. Người tu theo Tiểu Thừa không thể có được 
						giác tha, vì chỉ lo giải thoát cho mình. Chỉ người tu 
						theo Ðại Thừa mới có được giác tha, nghĩa là giác ngộ 
						cho hết thảy chúng sanh đang chìm đắm.  
						 
						C) Giác hạnh viên mãn: Nghĩa là giác ngộ hoàn toàn đầy 
						đủ cho mình và cho người. Những bậc Bồ Tát, tuy đã giác 
						ngộ cho mình và cho người, nhưng công hạnh chưa viên 
						mãn, nên chưa gọi được là "Giác Giác Hạnh Viên Mãn". Chỉ 
						có Phật mới có * được gọi là Giác Hạnh Viên Mãn.  
						 
						Chữ Phật là một danh từ chung để gọi những bậc đã tự 
						giác, giác tha và giác hạnh viên mãn, chứ không phải là 
						một danh từ riêng để gọi một người nào nhất định. Ai tu 
						hành được chứng quả như đã nói trên đều được gọi là Phật 
						cả.  
						 
						3. Ðạo Phật nghĩa là gì? Theo những định nghĩa về chữ 
						Ðạo và chữ Phật đã nói trên, chúng ta có thể giải thích 
						chữ Ðạo Phật như sau: Ðạo Phật là con đường chơn chánh, 
						hoàn toàn sáng suốt đưa đến bản thể của sự vật, là lý 
						tánh tuyệt đối, lìa tất cả hư vọng phân biệt, mà các 
						đấng giác ngộ hoàn toàn đã phát minh ra. Ðạo Phật gồm 
						tất cả tự lợi và lợi tha, tự giác, giác tha và có công 
						hạnh độ mình, độ người được hoàn toàn thành tựu, rốt ráo 
						viên mãn.  
						 
						 
						B- Chánh Ðề  
						 
						Ðạo Phật có từ lúc nào? có hai nghĩa: Ðứng về phương 
						diện bản thể mà xét thì Ðạo Phật có từ vô thỉ (nghĩa là 
						không có đầu mối, không có giới hạn ở trong thời gian). 
						Vì Ðạo Phật là bản tánh sáng suốt của chúng sanh, nên có 
						chúng sanh là có Ðạo Phật; mà chúng sanh đã có từ vô thỉ 
						thì Ðạo Phật cũng có từ vô thỉ. Ðứng về phương diện lịch 
						sử và hạn cuộc trong thế giới này mà nói, thì Ðạo Phật 
						đã có từ 2501 (1) năm nay (tính đến năm 1957), trước 
						Thiên Chúa Giáo 544 năm.  
						 
						 
						Ai khai sáng ra Ðạo Phật?  
						 
						Tín đồ Ðạo Phật cần phải biết lịch sử đức Giáo Chủ của 
						mình.  
						 
						Dưới đây, xin kể sơ lược những điểm chính của đời đức 
						Giáo Chủ, người đã khai sáng ra Ðạo Phật, tức là đức 
						Phật Thích Ca Mâu Ni  
						 
						Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, nguyên là Thái Tử nước Ca Tỳ 
						La Vệ (Kapilavastu) xứ Trung Ấn Ðộ, Phụ hoàng tên Tịnh 
						Phạn Vương Ðầu Ðà Nà (Sudhodana); Mẫu hoàng tên là Ma Da 
						(Maya). Họ Ngài là Kiều Ðáp Ma, xưa dịch là Cù Ðàm, tên 
						Ngài làTất Ðạt Ða (Shidartha). Còn chữ Thích Ca (Sakya), 
						Tàu dịch là Năng Nhơn: Năng là năng lực, Nhơn là từ bi. 
						Mâu Ni (Muni) nghĩa là Tịch Mặc: Tịch là yên lặng, không 
						bị khổ vui làm động tâm; Mặc là lặng lẽ, không bị phiền 
						não khuấy rối, độ mình độ người, công đức đầy đủ.  
						 
						Lúc nhỏ Ngài có trí tuệ sáng suốt và tài năng phi 
						thường. Lớn lên nhìn thấy nhân sinh thống khổ, thế cuộc 
						vô thường, nên Ngài cương quyết xuất gia tu hành, tìm 
						đường giải thoát cho mình và cho người, ngõ hầu đưa tất 
						cả chúng sanh lên bờ giác ngộ.  
						 
						Sau sáu năm tu khổ hạnh trong núi Tuyết (Hymalaya), Ngài 
						thấy tu khổ hạnh ép xác như thế, không thể đạt được chân 
						lý, nên Ngài đi qua núi Koda, ngồi dưới gốc cây Bồ Ðề 
						(Tất Bát La, dịch âm theo tiếng Ấn Ðộ) và thề rằng: "Nếu 
						ta không thành đạo, thì dù thịt nát xương tan, ta cũng 
						quyết không đứng dậy khỏi chỗ này". Với chí hùng dũng 
						cương quyết ấy, sau 49 ngày tư duy, Ngài thấy rõ chân 
						tướng của vũ trụ nhân sanh và chứng đạo Bồ Ðề. Sau khi 
						thành đạo, Ngài chu du khắp xứ, thuyết pháp độ sinh, để 
						chúng sanh chuyển mê thành ngộ, lìa khổ được vui. Suốt 
						thời gian 49 năm, như một vị lương y đại tài, xem bịnh 
						cho thuốc, Ngài đã dắt dẫn chúng sanh lên đường hạnh 
						phúc và vạch cho mọi người con đường giác ngộ giải 
						thoát.  
						 
						Ðến 80 tuổi, Ngài nhập Niết Bàn ở thành Câu Thi Na, 
						trong rừng Ta La (Song Thọ). Lúc bấy giờ, nhằm ngày Rằm 
						tháng 2 âm lịch.  
						 
						Giáo lý Ðạo Phật như thế nào?  
						 
						Giáo lý của đạo Phật gồm trong 3 tạng kinh điển là Kinh, 
						Luật, Luận.  
						 
						1. Kinh: Kinh là những lời của đức Phật Thích Ca đã nói 
						khi còn tại thế, để dạy chúng sanh dứt trừ phiền não và 
						đạt đến quả Niết Bàn.  
						 
						2. Luật: Luật là những giới luật mà Phật đã chế ra cho 
						các đệ tử, để các đệ tử răn chừa các điều dữ, tu tập các 
						điều lành, trau dồi thân tâm cho thanh tịnh.  
						 
						3. Luận: Luận là những sách phần nhiều do các đệ tử Phật 
						làm ra để bàn giải rõ ràng nghĩa lý mầu nhiệm trong 
						kinh, luật hoặc quyết đoán tánh, tướng của các Pháp, 
						phân biệt những lẽ phải *chẳng củam chánh đạo và tà đạo, 
						khiến cho người đời khỏi nhận lầm phải trái, chánh tà.
						 
						 
						Tam tạng kinh điển lại chia làm hai loại là Ðại Thừa và 
						Tiểu Thừa.  
						 
						Chữ Thừa nghĩa là chở, có chỗ cũng gọi là Thặng, nghĩa 
						là cổ xe. Thừa hay Thặng đều có hàm ý nghĩa là: Giáo lý 
						của Phật có công năng như một chiếc xe, đưa chúng sanh 
						từ nơi cõi trần lao phiền não đến cảnh giới an vui thanh 
						tịnh, từ biển khổ luân hồi đến Niết Bàn, giải thoát.
						 
						 
						Ðại thừa như là cỗ xe lớn, có thể chở nhiều người trong 
						một lúc; trái lại Tiểu Thừa như là một cỗ xe nhỏ, chỉ 
						chở mỗi lúc một vài người mà thôi.  
						 
						Sở dĩ giáo lý Ðạo Phật chia ra làm Ðại Thừa và Tiểu Thừa 
						như thế, vì căn cơ và nguyện vọng chúng sanh không đồng 
						nhau. Những hạng người nào nhận thấy mình chỉ đủ sức để 
						giải thoát cho riêng phần mình mà thôi, như chiếc xe nhỏ 
						chở được một vài người, thì theo giáo lý Tiểu Thừa.
						 
						 
						Những hạng người nào tự nhận thấy mình có thể vừa giải 
						thoát cho mình và cho người ra khỏi sanh tử luân hồi, tự 
						nguyện độ mình và người cùng đi đến Niết Bàn, như một cỗ 
						xe lớn, cùng chở trong một lúc được nhiều người, thì 
						theo Ðại Thừa. Hạng người này rõ biết phiền não, sanh tử 
						như huyển hóa, nên không chịu sớm an vui ở quả vị cuối 
						cùng của mình, mà thường độ sanh không bao giờ biết mỏi 
						mệt; và vì nhận thấy chúng sanh còn đau khổ, thì mình 
						chưa có thể an vui được.  
						 
						Sự Truyền Bá Của Ðạo Phât:  
						 
						Sau khi Phật Thích Ca nhập diệt, hai vị đại đệ tử của 
						Phật là Ngài Ca Diếp và Ngài A Nan thay Phật hoằng 
						truyền Phật pháp ở Ấn độ. Ðó là thời kỳ thứ nhứt. Thời 
						kỳ thứ hai do các vị Tổ sư Long Thọ, Mã Minh và Vô Trước 
						lãnh đạo. Thời kỳ thứ ba do các vị Tổ sư Long Trì, Thiện 
						Vô Úy và Liên Hoa Sanh đảm nhiệm.  
						 
						Từ Ấn Ðộ, Phật Giáo lan truyền vào các nước lân cận, rồi 
						toàn cõi Á Ðông, và cuối cùng toàn cả thế giới. Sự 
						truyền bá này đi theo hai hướng: một hướng về phương Bắc 
						và một hướng về phương Nam. (Xem Lịch sử truyền bá Phật 
						Giáo khóa 5)  
						 
						Về phương Bắc, thì gọi là Bắc Phương hay là Bắc Tôn Phật 
						Giáo, hay Ðại Thừa Phật Giáo, gồm có những nước: Tây 
						Tạng, Trung Hoa, Mông Cổ, Mãn Châu, Cao Ly, Nhật Bản, 
						Việt Nam v.v..  
						 
						Về phương Nam, thì gọi là Nam Phương hay Nam tôn Phật 
						Giáo, hay Tiểu Thừa Phật Giáo, hay Nguyên Thủy Phật 
						Giáo, gồm có những nước: Tích Lan, Miến Ðiện, Thái Lan, 
						Ai Lao, Cao Miên, Nam Dương v.v...  
						 
						Nhưng hiện nhờ sự giao thông tiện lợi và kinh điển được 
						trao* dồi khắp các nước, nên sự chia rẽ giữa Bắc tôn và 
						Nam tôn không còn được rõ ràng như trước: trong Ðại Thừa 
						vẫn còn có Tiểu Thừa và trong Tiểu Thừa vẫn còn có Ðại 
						Thừa.  
						 
						Sự Lợi ích Của Ðạo Phật:  
						 
						Mục đích của Ðạo Phật là đem lại những kết quả đẹp đẽ 
						sau này cho chúng sanh:  
						 
						1. Chơn thường: Chúng sanh trôi lăn, lặn hụp trong biển 
						sanh tử luân hồi; chúng sanh sống trong cảnh vô thường, 
						khi trẻ khi già, khi lành khi ốm, khi sống khi 
						chết...Ðạo Phật đem lại cho người tu hành một quả vị là 
						không bao giờ bị luật vô thường nói trên chi phối.  
						 
						2. Chơn lạc: Chúng sanh đang sống trong cảnh giới tối 
						tăm, buồn tủi, khổ đau; nếu có vui cũng chỉ vui được 
						trong chốc lát, như người khát, uống nước mặn vào, đỡ 
						khát trong chốc lát, rồi về sau lại càng khát hơn lúc 
						đầu. Ðạo Phật có mục đích đem lại cho kẻ tu hành một sự 
						an vui toàn vẹn và bất tận.  
						 
						3. Chơn ngã: Chúng sanh bị không biết bao nhiêu nghịch 
						cảnh ở chung quanh chi phối, ràng buộc, như kẻ tù tội bị 
						giam hãm trong ngục thất, không bao giờ được tự do hoạt 
						động theo ý muốn của mình. Ðạo Phật có mục đích làm cho 
						những người tu hành được giải thoát hoàn toàn ra ngoài 
						những trói buộc nói trên, làm cho con người đầy đủ năng 
						lực để thực hiện ý nguyện tốt đẹp của mình, và sống một 
						cuộc đời an nhiên tự tại.  
						 
						4. Chơn tịnh: Chúng sanh đang sống trong cảnh giới ô 
						trọc, lấm láp trong bùn nhơ của cõi tục, từ trong tâm 
						hồn cho đến ngoài thể chất. Ðạo Phật có mục đích làm cho 
						người tu hành gạn lọc được bao nhiêu ô trọc của cõi đời, 
						được sống một cuộc sống trong trắng, tinh khiết, không 
						vướng chút bận nhơ của trần tục.  
						 
						Không phải chỉ trong vị lai, Ðạo Phật mới đem lại lợi 
						ích cho đời, ngay trong xã hội hiện tại, Ðạo Phật cũng 
						đem lại nhiều lợi ích quý báu:  
						 
						- Ðạo Phật, nhờ tinh thần Từ Bi, làm cho xã hội, nhân 
						loại thương yêu nhau hơn.  
						 
						- Ðạo Phật, nhờ ánh sáng Trí Tuệ, làm cho xã hội, nhân 
						loại bớt si mê lầm lạc, thấy được đâu là giá trị thật, 
						đâu là phỉnh phờ, giả dối.  
						 
						- Ðạo Phật, nhờ tinh thần Bình Ðẳng tuyệt đối, san bằng 
						được những bất công của xã hội, nhân loại, và làm cho 
						cảnh giới Ta Bà này được sáng sủa, an vui hơn.  
						 
						Ðó là những lợi ích mà Ðạo Phật đem lại cho cõi đời.
						 
						 
						C - Kết Luận  
						 
						Những lợi ích nói trên quý báu như thế, nhưng sẽ không 
						bao giờ đến với chúng ta, nếu không học và hành theo 
						Phật.  
						 
						1. Học Phật: Ðức Phật mặc dù là một đấng xuất phàm, 
						thông minh xuất thế, nhưng khi xuất gia Ngài cũng phải 
						học hỏi đêm ngày, hao tốn sức biết bao nhiêu, mới phát 
						huy ra được cái giáo lý nhiệm mầu để lại cho chúng ta. 
						Vậy chúng ta muốn trở thành một Phật tử chân chính thì 
						trước tiên là phải học hỏi như Phật. Chúng ta không chỉ 
						học trong giáo lý của Ngài mà còn học qua đời sống, đức 
						hạnh, hành vi của đời Ngài nữa.  
						 
						2. Hành theo Phật: Nhưng học mà không tập, không hành, 
						thì chẳng khác gì cái đãy đựng sách, chữ nghĩa kinh sách 
						chất chứa thật nhiều, mà chẳng có ích lợi gì cả. Vậy nên 
						học phải đi đôi với hành. Chúng ta phải cố gắng thực 
						hành cho được những điều đã học, làm cho được những điều 
						mình thấy là hay là phải. Phật đã làm gì, chúng ta phải 
						tập làm lại; Phật đã có những đức tánh Từ, Bi, Hỷ, Xả, 
						Hoan Hỷ, Tinh Tấn, Thanh Tịnh...chúng ta cũng cố gắng 
						thực hiện cho được những đức tánh ấy.  
						 
						Có như thế, mới khỏi hổ với hai tiếng Phật tử và mới gọi 
						là đền đáp trong muôn một, ân đức sâu dày của đức Từ Phụ 
						Thích Ca.  
						 
						
						
						▲ Trở Lên 
						 
						 | 
					 
					
						| 
						
						 
						Bài Thứ 2  
						Lược Sử Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni  
						(từ Giáng Sanh đến Thành Ðạo)
						 
						 
						Mở Ðề:  
						 
						Ðời Ðức Phật Thích Ca Là Một Tấm Gương Sáng 
						 
						 
						Bắt nguồn một tôn giáo nào, vị giáo chủ bao giờ cũng là 
						một tấm gương sáng cho tín đồ soi chung để tiến bước. 
						Nhưng trong các vị giáo chủ của các tôn giáo hiện có 
						trên thế giới này, không có một vị nào đầy đủ ý nghĩa 
						cao đẹp, một đời sống sâu xa bằng đức Phật Thích Ca Mâu 
						Ni. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, cho đến mỗi 
						im lặng của Ngài đều là những bài học quý báu cho chúng 
						ta. Nếu chúng ta học giáo lý của Ngài mà không hiểu rõ 
						đời sống của Ngài, thì sự học hỏi của chúng ta còn phiến 
						diện, thiếu sót. Ðời Ngài chính là những biểu hiện giáo 
						lý của Ngài. Ngài nói và Ngài thực hành ngay những lời 
						Ngài đã nói. Ðời Ngài là một bằng chứng hiển nhiên để 
						người đời nhận thấy rằng giáo lý của Ngài có thể thực 
						hiện được, chứ không phải là những lời nói suông, những 
						không tưởng, những lâu đài xây dựng trên mây, trên khói.
						 
						 
						Vậy cho nên khi chúng ta học hỏi đời Ngài, chúng ta 
						không nên có cái quan niệm học cho biết để thỏa mãn tánh 
						hiếu kỳ, mà chúng ta cần phải tìm hiểu ý nghĩa thâm túy 
						của đời sống ấy để đem áp dụng cho đời sống của chúng 
						ta.  
						 
						Làm được như thế mới khỏi phụ ý nguyện lớn lao của đức 
						Phật khi giáng sanh xuống cõi Ta Bà này và đã cam chịu 
						bao nỗi đau khổ, gian lao trong kiếp sống như mỗi người 
						chúng ta.  
						 
						Chánh Ðề  
						 
						Ðịnh Nghĩa Hai Chữ Giáng Sanh  
						 
						Thường trong danh từ nhà Phật, khi nói đến sự hiện diện 
						của đức Phật Thích Ca trong cõi đời này, người ta thường 
						dùng chữ đản sanh (nghĩa là một sự ra đời vui vẻ, làm 
						hân hoan, xán lạn cho cõi đời); hay thị hiện (nghĩa là 
						hiện ra bằng xương bằng thịt, cho con mắt trần của chúng 
						ta thấy được); hay giáng sanh (nghĩa là từ một chỗ cao 
						mà xuống một chỗ thấp để sanh ra).  
						 
						Ba chữ ấy đều có 3 ý nghĩa khác nhau: Chữ đản sanh dùng 
						để ca tụng một bậc tôn quí ra đời; chữ thị hiện hàm cái 
						ý Phật bao giời cũng có cả, nhưng vì mắt người không 
						thấy được, phải hiện rõ ràng ra mới thấy; chữ giáng sanh 
						hàm cái ý đức Phật ở một cảnh giới cao hơn, tốt đẹp hơn 
						mà hạ xuống cảnh giới phàm trần này. Ba chữ ấy mặc dù 
						khác nhau, nhưng đều có thể dùng để chỉ sự ra đời của 
						đức Phật. Trái lại, khi một nguời phàm ra đời thì gọi là 
						"đầu thai". Ðầu thai có nghĩa là bị nghiệp báo hoặc 
						thiện hay ác bắt buộc phải luân hồi để chịu quả báo lành 
						hay dữ. Còn giáng sinh hay thị hiện thì không hàm cái 
						nghĩa bị nghiệp nhân câu thúc, mà do nơi lòng từ bi, 
						muốn lợi ích cho chúng sanh, nên tự nguyện ứng thân xuất 
						hiện ra đời trong một thời gian để cứu độ chúng sanh; 
						xong xuôi thì thâu thần tịch diệt, tự tại vô ngại ra 
						ngoài sống chết.  
						 
						Hoàn Cảnh Và Dòng Dõi Của Ðức Thích Ca  
						 
						Ðức Phật giáng sinh ở xứ trung Ấn Ðộ, bây giờ là nước 
						Népal, một nước ở ven sườn dãy núi Hy Mã Lạp Sơn, là một 
						dãy núi cao nhất thế giới. Phong cảnh ở đấy rất đẹp; đến 
						mùa xuân cả nước đơm bông nảy lá như một vườn hoa vĩ 
						đại. Dân cư ở xứ ấy rất là thuần lương. Vị vua trị vì là 
						Tịnh Phạn, một vị vua thuộc dòng Thích Ca, là một dòng 
						họ lớn đã mấy mươi đời nối nghiệp trị vì đất nước này. 
						Bà Hoàng Hậu Ma Da, cũng là một người thuộc dòng vua 
						chúa đã lâu đời. cả hai ông bà vua Tịnh Phạn đều là 
						người đã nhiều kiếp tu hành, có đức hạnh lớn, xứng đáng 
						làm cha mẹ muôn dân.  
						 
						Một hôm, trong thành Ca Tỳ La Vệ, là kinh đô của vua 
						Tịnh Phạn, có vía lễ tinh tú, vua tôi cùng nhau mở hội 
						ăn chơi. Hoàng Hậu Ma Da, sau khi dâng hương hoa cúng 
						kiến trong cung điện rồi, ra ngọ môn bố thí thức ăn, đồ 
						mặc cho dân bần cùng. Khi trở về cung an giấc, Bà nằm 
						mộng thấy một con voi trắng sáu ngà từ trên hư không 
						xuống, lấy ngà khai hông bên hữu của Bà mà chun vào. Bà 
						đem điềm chiêm bao ấy thuật lại cho vua Tịnh Phạn nghe. 
						Vua ra lịnh mời các thầy đoán mộng. Các nhà tiên tri 
						đoán rằng: "Hoàng hậu sẽ sanh một quý tử tài đức song 
						toàn". Vua Tịnh Phạn rất mừng rỡ, vì ngôi báu từ đây sẽ 
						có người truyền nối.  
						 
						Ðến sáng ngày mồng tám tháng tư âm lịch (trước Tây lịch 
						624 năm), tại vườn Lâm Tỳ Ni, cách thành Ca Tỳ La Vệ 15 
						cây số, Hoàng hậu Ma Da đang ngoạn cảnh, trông thấy cành 
						hoa Vô Ưu mới nở, thơm ngát, bà đưa tay phải với hái, 
						thì Thái Tử cũng vừa xuất hiện ngay đấy.  
						 
						Ngày đản sanh Thái Tử, trong thành Ca Tỳ La Vệ, cảnh vật 
						đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ, cây cỏ đều đơm hoa 
						trổ trái; sông, ngòi, mương, giếng nước đều trong đầy; 
						trên hư không chim chóc và hào quang chiếu sáng cả mười 
						phương.  
						 
						Vua Tịnh Phạn vui mừng khôn xiết mời các vị tiên tri đến 
						xem tướng Thái Tử. Trong số ấy, có đạo sĩ tên A Tư Ðà tu 
						ở núi Hy Mã Lạp, tiên đoán rằng: Thái Tử vì có 32 tướng 
						tốt xuất hiện, nên sẽ trở thành một vị Thánh. Nhưng vua 
						Tịnh Phạn lại chỉ muốn con mình làm một vị vua để nối 
						dõi tông đường mà thôi. Vì thế, Tịnh Phạn Vương muốn đổi 
						số mệnh con mình, nên đặt tên cho Thái Tử là Tất Ðạt Ða
						(Siddartha) theo tiếng 
						Phạn, nghĩa là: "Kẻ sẽ giữ chức vị mà mình phải giữ". 
						Chức vị mà Tịnh Phạn Vương muốn ám chỉ đây tức là ngôi 
						Vua. Ngài không ngờ rằng chính thật chức vị của Ngài là 
						chức vị Phật.  
						 
						Hoàng hậu Ma Da sau khi sanh Thái Tử được bảy ngày, vui 
						thú quá vì thấy mình đã làm tròn nhiệm vụ cao quý, và đã 
						rửa sạch nghiệp báo nên Bà trút được xác phàm và sanh về 
						cõi trời Ðao Lợi. Vua Tịnh Phạn giao Thái Tử cho em gái 
						Hoàng hậu là Ma Ha Ba Xà Ba Ðề nuôi dưỡng.  
						 
						Tài Năng Và Ðức Hạnh Của Thái Tử  
						 
						Thái Tử mỗi năm mỗi lớn, thì diện mạo càng thêm khôi 
						ngôi, tài năng càng phát lộ gấp bội. Ngài có một sức 
						khỏe hơn người, một trí thông minh xuất chúng. Từ nghề 
						văn cho đến nghiệp võ, Thái Tử học với ông nào thì trong 
						ít hôm sau, vị giáo sư ấy phải xin cáo thối, vì không 
						còn đủ sức để dạy nữa. Cho đến ông thầy danh tiếng đệ 
						nhất thời bấy giờ là Sằn Ðề Ðề Bà cũng chịu khuất phục 
						Ngài luôn.  
						 
						Nhưng, mặc dù tài sức hơn người, thông minh xuất chúng 
						lại ở trong địa vị cao sang quyền quý tột bậc, Thái Tử 
						không bao giờ tỏ vẻ ngạo mạn, khinh người. Ngài có một 
						thái độ rất hòa nhã ôn hòa, vô tư, bình đẳng. Lòng 
						thương người, thương vật của Ngài không ai sánh kịp, hễ 
						có dịp giúp đỡ, thì dù khó khăn bao nhiêu Ngài cũng 
						không từ nan. Bởi thế, Ngài được trên Vua cha yêu quý, 
						dưới thần dân kính trọng, nể vì.  
						 
						III Những Ràng Buộc Của Tịnh Phạn Vương Ðể Ngăn Chí 
						Xuất Gia Của Thái Tử  
						 
						Càng thương yêu, quý trọng con Tịnh Phạn Vương lại càng 
						lo sợ con mình sẽ không ở lại với mình, mà sẽ xuất gia 
						tìm Ðạo để thành một vị Thánh, như lời tiên đoán của đạo 
						sĩ A Tư Ðà. Nhất là khi nhận thấy càng lớn, Thái Tử lại 
						càng có vẻ suy nghĩ xa xăm, và nét mặt Thái Tử lại không 
						được vui tươi như thời thơ ấu, Vua Tịnh Phạn lại càng lo 
						sợ rằng lời tiên tri xưa sẽ thực hiện. Bởi thế, Vua cùng 
						triều thần ngấm ngầm sắp đặt mọi kế hoạch để ràng buộc 
						Thái Tử ở lại ngôi báo. Ngài truyền xây dựng ba tòa lâu 
						đài nguy nga tráng lệ để Thái Tử thay đổi nơi ăn chốn ở 
						cho hợp thời tiết quanh năm, và chọn từng trăm cung phi 
						mỹ nữ có tài đàn ca hay, múa giỏi để giải khuây cho Thái 
						Tử. Nhưng chừng ấy cũng chưa đủ Ngài còn làm lễ thành 
						hôn cho Thái Tử với một Công chúa con vua Thiện Giác là 
						Da Du Ða La, một Công chúa tuyệt đẹp và đức hạnh vô 
						cùng.  
						 
						Thái Tử bị bắt buộc phải lập gia thất và có một con 
						là La Hầu La.  
						 
						Nhưng, mặc dù sống một cuộc đời quá đầy đủ: nào chức 
						tước danh vọng, nào lâu đài cung điện, nào đàn ca múa 
						hát, nào vợ đẹp con ngoan, Thái Tử vẫn thấy lòng mình 
						nặng trĩu bao nỗi băn khoăn, thắc mắc. Ngài cho cảnh đời 
						Ngài đang sống đây không phải là hạnh phúc chân thật, mà 
						là giả dối, mê muội, chỉ làm cho kiếp sống thêm nặng nề 
						đau khổ. Ngài thấy cần phải tìm một lối thoát, một cuộc 
						sống chân thật, có ý nghĩa và cao đẹp hơn.  
						 
						Nhận Ra Bốn Tướng Khổ Ở Ðời Một hôm, nhân ngày lễ hạ 
						điền, Thái Tử theo vua cha ra đồng xem dân chúng cày 
						cấy. Cảnh xuân, mới nhìn qua, thật là đẹp mắt, nào hoa 
						lá tốt tươi, muôn chim đua hót; nào bầu trời quang đãng, 
						gió xuân phơi phới. Cảnh tượng có vẻ thái bình, an lạc 
						lắm. Nhưng tâm hồn Thái Tử không phải là một tâm hồn hời 
						hợt, xét đoán một cách nông nỗi. Trái lại, Ngài nhìn sâu 
						vào trong cảnh vật và đau đớn nhận thấy rằng cõi đời 
						không đẹp đẽ an vui như khi mới nhìn qua. Ngài thấy 
						người nông phu và trâu bò làm việc một cách cực nhọc 
						dưới ánh nắng thiêu đốt, để đổi lấy bát cơm, nắm cỏ. 
						Chim chóc tranh nhau ăn tươi nuốt sống côn trùng đang 
						giãy giụa trên những luống đất mới cày. Cũng trong lúc 
						ấy, trong bụi rậm người thợ săn đang nhắm bắn những con 
						chim kia, và trong khu rừng gần đấy, bọn hổ báo đang 
						rình bắt người thợ săn. Thật là một cảnh tương tàn tương 
						sát, không phút giây nào ngừng! Chỉ vì miếng ăn để sống 
						mà người và vật dùng đủ mọi phương kế để giết hại lẫn 
						nhau không biết gớm. Ngài nhận thức rõ ràng sự sanh sống 
						là khổ.  
						 
						Một hôm khác, Ngài xin phép Vua cha đi dạo ngoài bốn cửa 
						thành để được tiếp xúc với thần dân. Ra đến cửa Ðông, 
						Ngài gặp một ông già tóc bạc, răng rụng, mắt lờ, tai 
						điếc, lưng còng, nương gậy lần từng bước ngập ngừng như 
						sắp ngã.  
						 
						Ðến cửa Nam, Thái Tử thấy một người đau nằm trên cỏ, 
						đang khóc than rên siết, đau đớn vô cùng.  
						 
						Ðến cửa Tây, Ngài trông thấy một cái thây chết nằm giữa 
						đường, ruồi lằng bu bám, và sình lên, trông rất ghê tởm.
						 
						 
						Ba cảnh khổ già, đau, chết, cộng thêm vào cái ấn tượng 
						tương tàn trong cuộc sống mà Thái Tử đã nhận thấy khi đi 
						xem lễ cày ruộng, làm cho Ngài đau buồn, thương xót 
						chúng sanh vô cùng.  
						 
						Một hôm khác nữa, Ngài ra cửa Bắc, gặp một vị tu sĩ 
						tướng mạo nghiêm trang, điềm tỉnh thản nhiên như người 
						vô sự đi ngang qua đường. Thái tử thấy trong lòng nẩy 
						sinh một cảm mến đối với vị tu sĩ. Ngài vội vã đến chào 
						mừng và hỏi về ích lợi của sự tu hành. Vị Sa môn đáp 
						rằng: "Tôi tu hành là quyết bỏ dứt mọi sự ràng buộc của 
						cõi đời, và cầu cho mình khỏi khổ và thành chánh giác để 
						phổ độ chúng sanh đều được giải thoát như mình"  
						 
						Lời giải đáp trúng với hoài bão mà Thái Tử đang ấp ủ bấy 
						lâu, nên Ngài khôn siết vui mừng. Ngài liền trở về cung 
						xin vua cha cho mình xuất gia. Vua Tịnh Phạn không nhận 
						lời. Thái Tử yêu cầu vua cha 4 điều nếu vua giải quyết 
						được thì Ngài hoãn viêỉc đi tu, để trở lại lo chăn dân, 
						trị nước. Bốn diều này là:  
						 
						1. Làm sao cho con trẻ mãi không già  
						 
						2. Làm sao cho con mạnh mãi không đau  
						 
						3. Làm sao cho con sống hoài không chết  
						 
						4. Làm sao cho mọi người hết khổ  
						 
						Bốn điều này làm cho vua cha bối rối, không giải quyết 
						được điều nào cả.  
						 
						IV. Sự Xuất Gia Tìm Ðạo  
						 
						Tịnh Phạn Vương, khi biết được ý định xuất gia của Thái 
						Tử, lại càng lo sợ, lại tìm hết cách để ngăn cản, ràng 
						buộc Ngài trong "cung vui". Nhưng một khi Thái Tử đã 
						quyết thì không có sức mạnh gì ngăn trở được Ngài.  
						 
						Một đêm khuya thừa dịp quân lính canh gác và cung phi mỹ 
						nữ say ngủ sau một tiệc linh đình, Thái Tử lén trổi dậy, 
						khi nhìn vợ con lần cuối, rồi đánh thức tên giữ ngựa Xa 
						Nặc dậy, thắng yên cương, rồi hai thầy trò trốn ra khỏi 
						thành. Lúc bấy giờ nhằm đêm mồng tám tháng hai, và Ngài 
						được 19 tuổi.  
						 
						Sau khi vứt bỏ khỏi cuộc đời vương giả, Thái Tử đi vào 
						vùng sâu tìm Ðạo.  
						 
						Ban đầu Ngài đến ở tu với các vị tu khổ hạnh. Nhưng hạng 
						người này sống một cách kham khổ, nhịn ăn nhịn uống, dãi 
						nắng, dầm sương, hành thân hoại thể một cách ghê rợn. 
						Thấy cách tu hành như thế không hiệu quả, Ngài khuyên 
						các vị đó nên bỏ phương pháp tu hành ấy, nhưng họ không 
						nghe. Ngài lấy làm thương họ, nên tìm đi nơi khác để tu 
						hành. Ngài đi hết chổ này đến chổ khác, ở đâu nghe có 
						một vị tu hành đắc đạo thì Ngài tìm đến học; nhưng đến 
						đâu thì Ngài thấy đạo của họ vẫn còn hẹp hòi, thấp thỏi, 
						không thể giải thoát cho con người hết được. Từ đấy Ngài 
						tìm chốn tu tập một mình, đêm ngày nghiền ngẫm đến đạo 
						giải thoát, quên ăn bỏ ngủ thân hình mỗi ngày mỗi tiều 
						tụy. Một hôm Ngài kiệt sức, nằm ngã liệt trên cỏ, và 
						được một người chăn cỏ đến đổ sủa cho Ngài tỉnh lại. Từ 
						đó Ngài nhận thấy nếu muốn có kết quả, cần phải bổ dưỡng 
						thân thể cho được mạnh khỏe, chứ không bỏ quên nó đi 
						được.  
						 
						Khi thấy mình đủ sức khỏe để chiến đấu trong trận cuối 
						cùng với bóng tối si mê và dục vọng, và đem lại ánh sáng 
						giác ngộ, Ngài đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ Ðề và 
						thề rằng: "nếu ta không thành đạo thì thịt nát sương 
						tan, ta cũng quyết không rời chổ này."  
						 
						IV Thành Ðạo  
						 
						Ðức Thích Ca đã ngồi nhập định 49 ngày đêm dưới gốc Bồ 
						Ðề. Trong 49 ngày ấy Ngài đã chiến đấu với bọn giặc 
						phiền não ở nội tâm như tham, sân, si, nghi, mạn...và 
						chiến đấu với giặc Thiên Ma do Ma Vương Ba Tuần chỉ huy.
						 
						 
						Sau khi thắng cả giặc ở nội tâm cả ngoại cảnh, tâm trí 
						được khai thông, Ngài hốt nhiên đại ngộ.  
						 
						Trong đêm thứ 49, vào canh hai, Ngài chứng được quả "Túc 
						Mệnh Minh", thấy rõ được tất cả quá khứ của mình trong 
						tam giới. Ðến nữa đêm, Ngài chứng được quả "Thiên Nhãn 
						Minh", thấy được tất cả bản thể của vũ trụ và Ngài, 
						nguyên nhân cấu tạo của nó. Ðến canh tư, Ngài chứng được 
						quả của đau khổ và phương pháp dứt trừ đau khổ để được 
						giải thoát khỏi tư pháp luân hồi.  
						 
						Từ ngày ấy, Ngài được Ðạo vô thượng, thành bậc "Chánh 
						Ðẳng Chánh Giác", hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngày 
						thành đạo của Ngài tính theo âm lịch là ngày mồng 8 
						tháng 12, vào lúc sao mai mọc. Lúc ấy Ngài được 30 tuổi. 
						
						  
						IV Ý Nghĩa Cao Cả Trong Sự Xuất Gia Tìm Ðạo Của Ðức 
						Phật  
						 
						Những chiến sĩ chiến thắng quân địch ở ngoài chiến 
						trường, thường được ca tụng là anh hùng. Càng chiến 
						thắng được nhiều quân địch càng được hoan hô là anh hùng 
						cái thế. Nhưng những kẻ anh hùng cái thế ấy, như Nã Phá 
						Luân, Thành Cát Tư Hãn, Xê Ða (César), chính mình? cho 
						nên thắng người đã khó mà thắng mình lại khó hơn. Ðức 
						Phật đã thắng cả ngoại cảnh lẫn nội tâm, đã thắng được 
						giặc Ma Vương Dục Vọng. Ðức Phật thật xứng đáng với danh 
						hiệu Ðại Hùng Ðại Lực.  
						 
						Ngài không phải vì quyền lời riêng mình mà chiến đấu. 
						Ngài chiến đấu vì tình thương. Mà tình thương ở đây cũng 
						không phải chỉ nhằm tình thương trong phạm vi hẹp hòi 
						của gia đình: thương cha mẹ, vợ con, bạn bè. Tình thương 
						ở đây là tình thương chúng sanh, tất cả cõi đời. Tình 
						thương ấy nó rộng sâu như trời bể, thiết tha như tình mẹ 
						thương con. Ðức Phật thật xứng đáng với danh hiệu Ðai Từ 
						Ðại Bi.  
						 
						Lại vì tình thương ấy, Ngài đã hoan hỷ lìa bỏ ngôi báu 
						cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, đàn hay múa đẹp, 
						mùi ngon vị lạ để sống một đời kham khổ, đạm bạc, thiếu 
						thốn, giữa rừng thiêng nước độc. Một khi mà rời bỏ thứ 
						mà người đời cho là qúy báu nói trên, Ngài không một 
						phút giây nào hối tiếc, muốn quay về để hưởng thụ lại. 
						Bằng cớ là Ma Vương đã sai con gái mình giả làm nàng Gia 
						Du đến kêu gọi van xin Ngài trở về cung, mà Ngài không 
						một chút bận tâm thối chuyển. Ngài xứng đáng với danh 
						hiệu là Ðại Hỷ Ðại Xả.  
						 
						Cho nên ngày nay, mỗi khi xưng tán danh hiệu Ngài, chúng 
						sanh không thể không suy gẫm cái ý nghĩa sâu sắc và đúng 
						đắn mà người đời từ xưa đến nay đã tôn xưng Ngài là Ðại 
						Hùng, Ðại Lực, Ðại Từ, Ðại Bi, Ðại Hỷ, Ðại Xả.  
						 
						C. Kết Luận  
						 
						Chúng Ta Nên Phát Tâm Rộng Lớn Và Mạnh Mẽ  
						 
						Chúng ta đã được biết qua đời sống của Ðức Phật từ khi 
						sơ sanh cho đến thành đạo. Bài học của đời Ngài dạy cho 
						chúng ta nhiều ý nghĩa, nhiều phương diện quý báu.  
						 
						Nhưng điều quý báu nhất đối với kẻ sơ cơ như chúng ta là 
						phải phát tâm Bồ Ðề rộng lớn, nguyện vì đời, vì đồng 
						bào, đồng loại mà tu hành, chứ không phải là ích lợi 
						riêng cho chúng ta.  
						 
						Chúng ta lại phải phát tâm dõng mãnh, tích cực trong sự 
						tu hành; một khi vào đường đạo, thì dù gặp nguy nan, 
						hiểm trở khó khăn cũng nhất thiết không thối lui quay 
						gót. Chúng ta phải tập cho được cái đức kiên trí như Ðức 
						Phật khi ngồi thiền định dưới gốc Bồ Ðề.  
						 
						Ðược như vậy mới xứng đáng là "chân chánh Phật tử".  
						
						 
						
						▲ Trở Lên 
						 | 
					 
					
						| 
						
						 
						Bài Thứ 3  
						Lược Sử Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni  
						(từ thành đạo đến nhập Niết 
						bàn)  
						 
						A - Mở Ðề:  
						
  
						Trong bài trước chúng ta đã thấy Ðức Phật Thích Ca vì 
						một đại nguyện lớn lao, vì một lòng từ bi vô bờ bến mà 
						xuất gia tìm Ðạo. Ðại nguyện và lòng từ bi lớn lao ấy 
						là:"cầu thành Phật quả để trên đền đáp bốn ơn sâu, dưới 
						cứu vớt ba đường khổ".  
						 
						Cho nên sau khi giác ngộ, Ngài không vội nhập Niết bàn, 
						mà nghĩ ngay đến sứ mạng của Ngài là: Thay thế chư phật 
						đời trước, tiếp tục chuyển mê khai ngộ cho tất cả mọi 
						người.  
						 
						Sứ mạng ấy Ngài biết trước không phải dễ dàng, vì cái 
						Ðạo của Ngài thì cao thâm huyền diệu, mà chúng sanh căn 
						cơ lại không đều, và từ muôn kiếp đã lặn hụp trong si mê 
						lầm lạc, khó có thể nhận hiểu được ngay ý nghĩa cao thâm 
						của Giáo lý Ngài. Chúng sanh từ lâu đời lâu kiếp quen 
						sống trong bóng tối của si mê, ngày nay chắc không khỏi 
						choá mắt, hoảng sợ khi tiếp xúc với ánh sáng bừng chói 
						của trí tuệ. Nhưng Ngài xét biết rằng mặc dù sống trong 
						tăm tối, nhưng mỗi chúng sanh đều có mầm Phật tánh, như 
						hoa sen, mặc dù sống trong bùn tanh hôi, nhưng vẫn tỏa 
						nhụy vàng thơm ngát. Ngài cương-quyết thực-hiện sứ mạng 
						của mình.  
						 
						B - Chánh Ðề  
						 
						I - Sự Hóa Ðộ Rộng Lớn Và Cùng Khắp Của Ðức Phật 
						 
						 
						Sứ mạng hóa độ của Ðức Phật, như chúng ta đã biết, thật 
						nặng nề và khó khăn. Nhưng nhờ trí tuệ sáng suốt, lòng 
						từ bi rộng sâu, nhờ tinh thần bình đẳng triệt để và nhờ 
						ý chí dũng mãnh không thối chuyển, mà Ðức Phật đã hoàn 
						thành sứ mạng của mình một cách viên mãn. Trong khi hóa 
						độ, Ngài đã dựa theo ba nguyên tắc sau đây:  
						 
						1. Hóa độ theo thứ lớp căn cơ.  
						Khi bắt đầu đi truyền Ðạo, ý nghĩ trước tiên của 
						Ngài là đến vườn Lộc Uyển tìm mấy người bạn đồng tu với 
						Ngài trước kia để thuyết pháp. Mấy người bạn ấy là các 
						ông: KiềuTrần Như, Bạc Đề (Bhaddiya), Thập Lực Ca Diếp 
						(Dasabala-Kasyapa), Ma Nam Câu lợi (Mahanama) và Át Bệ 
						(Assaji). Bài thuyết pháp đầu tiên ấy là Tứ-diệu-đế. Năm 
						vị nầy đều được khai ngộ, và trở thành 5 đệ tử đầu tiên 
						của Phật. Kế đó Phật thuyết luôn ba tháng cho 55 người 
						Bà-la-môn, mà người đứng đầu là ông Da-Xá, 55 người nầy 
						đèu xin qui y theo Phật, và hợp với 5 người trong nhóm 
						ông KiềuTrầnNhư thành 60 đệ tử, 60 đệ tử này sau khi giữ 
						đúng giới luật, được Phật thọ-ký cho đi truyền Ðạo khắp 
						nơi.  
						 
						Ðức Phật rời vườn Lộc-uyển đi về phía Nam đén xứ 
						Ưulầutầnloa và hàng phục một vị tổ sư rất có uy tín của 
						Ðạo Thờ Lửa là ông Ma-ha Ca-Diếp và hai người em của 
						Ông. Ông Ca-Diếp mang tất cả đồ đệ của mình là 1,250 vị, 
						xin qui-y theo Phật.  
						 
						Nhớ lại lời hẹn xưa với vua Tần-bà-xa-la, Ngài đến xứ 
						Makiệtđà vào thành Vươngxá để độ cho vua. Vua Tầnbàxala 
						gặp lại Ngài, vui mừng khôn xiết, truyền xây cất tịnh xá 
						Trúc lâm, để thỉnh Phật và chư Tăng ở lại thuyết Pháp độ 
						sanh.  
						 
						Trong lúc Phật ở tịnh xá Trúc lâm, thì vua Tịnh-Phạn 
						nghe tin Ngài đã thành Phật, truyền sứ-giả đi thỉnh Ngài 
						về thành Catỳlavệ. Nhưng 9 lần 9 sứ giả đi đều biệt tăm, 
						không trở lại. Thì ra những người này khi đến Trúc lâm 
						tịnh xá nghe Phật thuyết pháp, đã say mê quên sứ mạng 
						của mình và xin thọ giới xuất gia. Lần thứ 10, Tịnh 
						Phạn-vương sai một cận thần thân tín là Ưu-Ðà-Di, mới 
						thỉnh được Phật về. Trên đường từ thành Vương xá trở về 
						Catỳlavệ, Ðức Phật đã thuyết pháp độ cho không biết bao 
						nhiêu người. Về thành Catỳlavệ, Ngài ở lại 7 ngày. Mặc 
						dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi ấy, Ðức Phật đã cảm hóa 
						tất cả dòng họ Thích và tất cả những người trong dòng họ 
						này đều xin qui y và một số lớn xin xuất gia theo Phật, 
						như các ông: Nan-Ðà, A-Nan-Ðà, A-Nậu-Lâu-Ðà, 
						La-Hầu-La...  
						 
						Sau khi trở về thăm gia đình và quê hương, Ðức Phật cùng 
						các đệ tử lại tiếp tục đi truyền Ðạo. Ngài đi đến thành 
						Xá-Vệ là kinh đô nước Kiều tát la, thuộc quyền thống trị 
						của vua Ba-tư-Nặc. Ở thành này có một vị đại thần tên là 
						Tu-Ðạt-Ða, giàu lòng bố thí cho những kẻ bần cùng côi 
						cút, nên được gọi danh hiệu là Trưởng giả cấp cô độc. 
						Ông rất ngưỡng mộ Ðức Phật nên đã trút hết tất cả tiền 
						của vàng bạc trong kho ra mua khu vườn rộng lớn của Thái 
						tử KỳÐà để làm tịnh xá cho Phật và đệ tử của Ngài ở, 
						thuyết pháp độ sanh.  
						 
						Ðược ít lâu nghe tin vua Tịnh-Phạn đau nặng, sắp băng 
						hà, Ðức Phật vội trở về thăm cha lần cuối cùng. Thấy phụ 
						thân buồn rầu trên giường bịnh Phật thuyết về "Lẽ 
						vô-thường, khổ, không, vô ngã" cho vua nghe. Nghe xong 
						,vua liền dứt phiền não, gương mặt vui tươi, cất tiếng 
						niệm Phật, rồi băng hà một cách êm ái.  
						 
						Sau khi Tịnh-Phạn-Vương mất, bà mẹ nuôi của Phật là MaHa 
						Ba Xà Ba Ðề và bà Da Du Ðà La cùng nhiều người bên nữ 
						giói họ Thích xin được phép xuất gia. Từ đó trong Ðạo 
						Phật lần đầu tiên có hàng Tỳ Kheo Ni.  
						 
						Ðức Phật cùng các đệ tử lại tiếp tục đi truyền Ðạo, đi 
						đến đâu Ngài cũng được sùng mộ, tin theo và nhiều người 
						noi theo gương của ông Cấp Cô Ðộc lập Tịnh Xá, cất giảng 
						đường để Ngài thuyết pháp độ sanh
						 
						
						Như thế chúng ta thấy Ðức Phật đã tuần tự hóa độ và kết 
						nạp đệ tử, từ những hạn người đủ căn trí dễ hiểu thấu 
						giáo lý của Ngài rồi mới rộng ra những người khác; Lập 
						Tỳ Kheo trước rồi Tỳ Kheo Ni sau.  
						 
						2- Hóa độ tùy phương tiện.  
						
						Trong suốt thời gian đi thuyết pháp độ sanh, lắm khi 
						Ðức Phật cũng gặp nhiều cảnh gay go trái ngược do lòng 
						đố kĩ của ngoại đạo, tà giáo, hay lòng ganh ghét của nội 
						thân quyến thuộc gây ra. Nhưng lúc nào Ngài cũng tuỳ 
						phương tiện để cảm hóa ho, và đưa họ về đường ngay lẽ 
						phải. Chẳng hạn, khi thì Ngài bị cô gái con ngoại đạo 
						độn bụng giả có chửa đến giữa Ðạo tràng để vu oan cho 
						Ngài; khi thì Ngài bị anh chàng Vô não đuổi theo quyết 
						giết Ngài để lấy ngón tay góp thêm cho đủ số một ngàn 
						ngón mà nó đã giết người để lấy, vì theo thuyết tà đạo, 
						nó tin rằng có làm được như thế mới chứng quả; khi thì 
						Phật bị Ðề Bà Ðạt Ða, người em họ hung ác, âm mưu hãm 
						hại Phật bằng cách thả voi say cho chạy đến chà đạp 
						Phật, hay lăn đá to từ trên núi xuống đè Phật.  
						 
						Nhưng tất cả những âm mưu ấy đều vô hiệu quả, vì oai đức 
						uy danh và trí huệ của Phật bao bọc Phật, không một hành 
						động xấu xa nào có thể thắng Phật được. Ngài có đủ 
						phương tiện khôn ngoan khéo léo, xoay chiều đổi hương dễ 
						dàng, hoán cải được tất cả nghịch cảnh trở thành thuận 
						lợi. Và cuối cùng kẻ khinh ghét Ngài trở lại kính mến 
						Ngài; người chống ngài trở lại phục Ngài; kẻ ngoại đạo 
						trở thành phật tử. Bằng chứng là: Ðế Bà Ðạt Ða cũng được 
						Phật thọ ký; anh chàng Vô Não cũng được qui y; bầy voi 
						say cũng được sám hối; Vua A Xà Thế cũng hối cải và quay 
						về đường ngay.  
						 
						Nói tóm lại, Ðức Phật có đủ muôn ngàn phương tiện thích 
						ứng với mọi người, mọi vật, mọi hoàn cảnh để hóa độ tất 
						cả những ai mà Ngài gặp trên đường truyền Ðạo của Ngài. 
						Không phải chỉ ở ngoài đời, mà trong Giáo hội của Ngài, 
						Ngài cũng tuỳ theo căn cơ, tâm lý của mỗi đệ tử mà áp 
						dụng phương pháp thích hợp. Chẳng hạn như đối với ông 
						Nan Ðà, mặc dù thân đã xuất gia, mà tâm vẫn muốn ngao 
						du, luyến ái bạn bè, Ngài dùng thần thông để đua ông lên 
						cõi trời xem những cảnh sống tốt đẹp, vui thú khác 
						thường, rồi đưa ông xuống địa ngục mục kích những hình 
						phạt đau đớn, rùng rợn hãi hùng để ông so sánh hai cảnh 
						đời trái ngưọc nhau mà tự chọn lấy một đường.  
						 
						Còn đối với ông A-Nan, người học rộng nghe nhiều, nhưng 
						vì nghiệp duyên còn nặng, nên mắc nạn "Ma Ðăng Già", thì 
						Phật lại đem giáo lý thâm sâu là Kinh Lăng-Nghiêm ra 
						giảng dạy để cho ông A-Nan thấy rõ được cái quí giá của 
						chân tâm mà lo tu luyện, chứ không giong ruổi theo giả 
						cảnh nữa.  
						 
						Xem như thế thì Ðức Phật đã dùng phương tiện để tùy 
						duyên hóa độ, như ông lương y giỏi tùy bịnh cho thuốc, 
						chứ không nhất thiết phải theo một đường lối cố định nào 
						cả. Ðối với kẻ thân, người thù, đối với kẻ thông minh 
						hay người ngu độn, đối với kẻ giàu, người nghèo, Ngài 
						đều có đủ pháp môn cho họ khai ngộ và quy y theo Ngài.
						 
						 
						3 - Hóa độ theo tinh thần bình đẳng.  
						Tinh thần triệt để bình đẳng là một điểm son quí giá 
						nhật trong giáo lý của Ðức Phật, cũng như trong tâm hồn 
						Ngài. Ngay từ khi còn ấu thơ, tinh thần ấy đã được bộc 
						lộ trong những cử chỉ cứu giúp nhữ kẻ bần cùng, những 
						con vật lâm nạn, như chúng ta đã thấy trong bài trước.
						 
						 
						Khi thành Ðạo, tinh thần bình đẳng ấy lại bộc lộ rõ ràng 
						hơn nữa. Ngài đã có những câu nói bất hủ, khiến cho ngày 
						nay, người ta vẫn đem ra làm khuôn vàng thưóc ngọc, như 
						khi Ngài xin nước của một người thuộc giai cấp hạ tiện 
						nhất Ấn-độ, người nầy sợ làm lây ô-uế cho Ngài, thì Ngài 
						phán bảo:"không có giai cấp trong giọt máu cùng đỏ, 
						trong nước mắt cùng mặn. Mỗi người sanh ra đều có Phật 
						tánh và có thể thành Phật".  
						 
						Trong Giáo hội của Ngài, Ngài nhận cả những người thuộc 
						giai cấp hạ tiện. Như ông ƯuBaLy, một đệ tử của Ngài có 
						tiếng tăm về giới luật, lại là một người thuộc giới hạ 
						tiện Chiênđàla, làm nghề gánh phẩn. Sự thâu nhập ấy đã 
						làm cho các vị vua chúa bất mãn. Chính vua BaTưNặc đã 
						bạch Phật:" Ðấng Chí Tôn thâu nhận kẻ hèn hạ vào hàng 
						Tăng Ðồ như vậy, không ngại rằng đá sỏi lẫn lộn với châu 
						ngọc, làm mất giá trị của chúng Tăng sao?" Phật dạy 
						rằng: "Người hèn hạ mà biết phát tâm BồÐề, xuất gia tu 
						hành, chứng được quả Thánh, thì quí báu vô cùng, chẳng 
						khác gì hoa sen mọc ở bùn lầy nhơ bẩn mà vẫn tinh khiết 
						thơm tho". "Một người sanh ra không phải liền thành 
						Bàlamôn (giai cấp trên hết) hay Chiênđàla (giai cấp thấp 
						nhất) mà chính vì sở hành của người ấy, tạo thành 
						Chiênđàla hay Bàlamôn".  
						 
						Ngài xâu giùm kim cho người mù, hoan hỷ nhận hòn đất sét 
						mà đứa bbé đã nắn để dâng Ngài, thọ lãnh bữa cơm cuối 
						cùng do người thợ đốt than nghèo nàn dâng cúng. Chính vì 
						sự hóa độ bình đẳng như thế, mà kinh Ðại Niết-Bàn đã 
						táụn thán:  
						 
						-"Ðức Như Lai không chỉ thuyết 
						pháp cho hạng người quyền quí như vua BạcÐềCa, mà cũng 
						thuyết pháp cho hạng người bẫn cùng như ông ƯuBaLy; 
						không riêng thọ lãnh sự cúng dường của những người giàu 
						có như ông TuÐạtÐa, mà cũng thọ lãnh sự cúng dường của 
						các hạng nghèo khổ như ông ThuầnÐà; không riêng cho phép 
						xuất gia các hạng không có tánh tham như Ngài CaDiếp, mà 
						cũng cho phép xuất gia những người có nhiều tánh tham 
						như ông NanÐà; không những thuyết pháp cho hạng người an 
						tịnh không dự việc đời, mà cũng thuyết pháp cho vua 
						TầnBàSaLa trong lúc đang bận rộn việc nước; không những 
						thuyết pháp cho hạng thanh niên trẻ tuổi, mà cũng thuyết 
						pháp cho ông già 80 tuổi; không những thuyết pháp cho bà 
						hoàng hậu MạtLĩ, mà cũng thuyết pháp cho dâm nữ 
						LiênHoa".  
						 
						II- Năm Thời Kỳ Nói Kinh  
						 
						Tóm lại, trong một đời của Ðức Phật, tùy theo trình độ 
						của mọi người mà thuyết pháp giáo hóa, mãi đến khi Ngài 
						nhập diệt, cộng là 49 năm. Những Kinh Pháp của Ngài nói 
						ra, về sau các đệ tử kết tập chia ra làm năm thời:  
						 
						1.Thời thứ nhất nói Kinh Hoa-Nghiêm  
						 
						Khi Phật mới thành Ðạo, ở tại cội Bồ Ðề, nói KINH HOA 
						NGHIÊM 21 ngày. Vạch rõ chân tánh, chỉ bày chỗ cao sâu 
						mầu nhiệm của Ðạo Phật, chủ dích có hai điều:  
						a) Dẫn dắt các bậc Bồ tát lên địa vị Ðẳng giác và Diệu 
						giác.  
						b) Nêu bày giáo pháp rốt ráo của Như Lai, chỉ có Phật 
						với Phật mới hiểu rõ mà thôi; Ngoài ra hàng nhị thừa 
						ngồi nghe như đui, như điếc, huống chi ngoại đạo, tà 
						giáo làm sao hiểu nổi! Ðức Phật trình bày giáo pháp siêu 
						việt tuyệt vời ấy, là muốn cho đại chúng phải tu theo 
						Ðại thừa Phật giáo mới được hoàn toàn rốt ráo.  
						 
						2.Thời thứ hai Phật nói Kinh A-Hàm  
						 
						Biết rằng: "Muốn đi xa phải do nơi gần, muốn lên cao 
						phải từ nơi thấp", Ðức Thích Ca y theo chư Phật mà nói 
						pháp Tam thừa. Vì vậy thời thứ hai, Ngài nói Kinh A Hàm 
						trọn 12 năm, dùng thí dụ thực tế, chỉ rõ chân lý cho 
						hàng Tiểu thừa dễ nhận, mà lo bề tự tu và tự độ.  
						 
						3.Thời thứ ba Phật nói Kinh Phương Ðẳng.  
						 
						Ðạo Phật chẳng những dạy pháp giác ngộ phần mình mà Ngài 
						còn chỉ bày phương pháp giác tha nữa, tức là khuyến 
						khích từ cái giác ngộ tiêu cực nhỏ hẹp của Tiểu thứa 
						(AlaHán), để tiến lên cái giác ngộ tích cực bao la của 
						Ðại thừa Phật giáo. Ấy là thời nói Kinh phương Ðẳng trọn 
						8 năm, dẫn dắc Tiểu thừa qua Ðại thừa.  
						 
						4.Thời thứ tư Phật nói Kinh Bát Nhã.  
						 
						Ðến khi Ðức Phật xem căn cơ của chúng sanh có thể tiến 
						lên một từng cao nữa là hấp thụ được hoàn toàn giáo pháp 
						Ðại thừa, nên Ngài chỉ bày Ðạo lý chân không của Vũ trụ, 
						thuyết minh cái thật tướng, vô tướng của các pháp. Ấy là 
						thời kỳ nói Kinh Bát Nhã trọn 22 năm.  
						 
						5.Thời thứ năm Phật nói Kinh Pháp Hoa và Niết Bàn.
						 
						 
						Sự hóa độ một đòi của Ðức Phật gần viên mãn, thêm thấy 
						căn cơ của chúng sanh đã thuần thục, có thể gánh vát Ðại 
						thừa Chánh pháp của Như Lai, nên Ngài bèn nói rõ bản 
						hoài của Ngài thị hiện ra đời là vì một nguyên nhân lớn: 
						"Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến". Ngài phú 
						chúc, thọ ký cho các hàng đệ tử, tương lai sẽ thành 
						Phật. Ấy là thời nói Kinh Pháp Hoa và Kinh Niết Bàn trọn 
						8 năm. Ðến đây nhiệm vụ thuyết pháp độ sanh của đời Ngài 
						đã viên mãn.  
						 
						Tóm lại 5 thời thuyết pháp Cổ nhơn có làm bài kệ như 
						sau:  
						 
						Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhựt  
						A-Hàm thập nhị Phương Ðẳng bát  
						Nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm  
						Pháp Hoa Niết Bàn cộng bát niên.  
						DỊCH NGHĨA  
						Trước nói Hoa Nghiêm hăm mốt ngày  
						A-Hàm mười hai, Phương Ðẳng tám  
						Hai mươi hai năm nói Bát Nhã  
						Pháp Hoa Niết Bàn cộng tám năm.  
						 
						III- Sự Hóa Ðộ Viên Mãn  
						 
						Từ khi thành Ðạo dưới gốc cây Bồ Ðề cho đến ngày nhập 
						diệt, trải qua một thời gian 49 năm, Ðức Phật đã đi khắp 
						xứ Ấn độ rộng lớn bao la, hết nước này đến nước khác. Hễ 
						chỗ nào có chân Ngài dẫm đến là Ánh Ðạo Vàng bừng tỏa 
						huy hoàng.  
						 
						Mỗi ngày Ngài theo một thời dụng biểu, một chương trình 
						nhất định, không bao giờ xao lảng, giải đãi, từ khi trẻ 
						cho đến già, từ mùa mưa cho đến mùa nắng. Mỗi ngày khi 
						trời chưa sáng, Ngài đã lìa khỏi giường đi tắm rửa, thay 
						đổi y phục rồi vào phòng quán cơ cho đến lúc mặt trời 
						xuất hiện. Sau đó Ngài thuyết pháp cho chúng Tăng đến 
						lúc trưa mới nghỉ để thụ trai. Buổi chiều, Ngài thuyết 
						pháp cho Tín đồ các vùng lân cận đến nghe; rồi lại giảng 
						giải những nghi vấn của các Tăng về những vấn đề mà Ngài 
						đã thuyết pháp buổi sáng.  
						 
						Mỗi năm, Ngài đi chu du để thuyết pháp độ sanh trong 9 
						tháng nắng ráo; còn ba tháng về mùa hạ có mưa lớn (theo 
						thời tiết Ấn độ), thì Ngài lại ở luôn trong Tịnh xá để 
						an cư kiết hạ.  
						 
						Ròng rã trong 49 năm như thế, hạt giống Từ bi được Ngài 
						tinh tấn gieo rắc khắp các xứ ở Ấn Độ. Từ Bắc chí Nam, 
						từ Ðông sang Tây, từ rừng rú đến đồng bằng, không nơi 
						nào là Ngài không đặt chân đến, hay truyền đệ tử đến 
						thay Ngài để hóa độ chúng sanh. Và ở đâu Ngài và các đệ 
						tử cũng được, nhân dân, từ vua đến dân, từ giàu đến 
						nghèo, từ già đến trẻ, từ phái nam đến phái nữ, đổ xô ra 
						đón tiếp Ngài, vui thú đươc tắm gội trong ánh nắng trí 
						huệ và nước Từ bi do Ngài tưới xuống. Ở đâu có Ánh Ðạo 
						vàng đến, thì Tà giáo và ngoại giáo lui xa dần, tan biến 
						như những làn mây, như những bóng tối, tan biến trước 
						ánh bình minh đang lên. Giọng thuyết pháp của Ngài có 
						oai lực như tiếng sư tử rống, làm cho cầm thú phải khiếp 
						phục, như tiếng Hải triều lên, lấn ác tất cả bao nhiêu 
						tiếng tỉ tê của côn trùng, chim chóc.  
						 
						Ðạo Bồ Ðề từ đây đã ăn sâu gốc rễ trên bán đảo Ấn độ bao 
						la, và trở thành tôn giáo chính của các nước lớn, nhỏ 
						thời bấy giờ tại Ấn độ. Ðức Phật sau khi đã tự giác, đã 
						giác tha và đến đây giác hạnh của Ngài đã viên mãn.
						 
						 
						IV- Trước Khi Nhập Niết bàn  
						 
						1 - Phật báo tin sắp lìa đời.  
						 
						Khi giác hạnh đã viên mãn thì Phật đã 80 tuổi. Ðến đây, 
						sắc thân tứ đại của Ngài cũng theo luật vô thường mà 
						biến đổi, yếu gìa. Năm ấy Ngài vào hạ ở rừng SaLa trong 
						xứ CâuLy, cách thành Balanại chừng 120 dặm. Một hôm Ngài 
						gọi ông Anan, người đệ tử luôn luôn ở bên cạnh Ngài đến 
						và phán bảo:  
						-"A Nan! Ðạo ta nay đã viên mãn. Như lời nguyện xưa, nay 
						ta đã có đủ bốn hạng đệ tử: TỳKheo, TỳKheoNi, ƯuBàTắc, 
						ƯuBàDi. Nhiều đệ tử có thể thay ta chuyển xe pháp, và 
						Ðạo ta cũng đã truyền bá khắp nơi. Bây giờ ta có thể rời 
						các ngươi mà ra đi. Thân hình ta, theo luật vô thường, 
						bây giờ như một cổ xe đã mòn rã. Ta đã mượn nó để chở 
						pháp, nay xe đã vừa mòn mà pháp cũng đã lan khắp nơi, 
						vậy ta còn mến tiếc làm gì cái thân tiều tụy này nữa? 
						A-Nan! Trong ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết bàn".  
						 
						Tin Ðức Phật sắp vào Niết bàn, lan ra như một tiếng sét. 
						Các đệ tử của Ngài đi truyền giáo ở các nơi xa, lục tục 
						trở về để cùng đấng Giác Ngộ chia ly lần cuối.  
						 
						Trong thời gian ba tháng cuối cùng của Ngài, Ðức Phật 
						vẫn không nghỉ ngơi, mà vẫn tiếp tục đi truyền Ðạo. Một 
						hôm Ngài đi thuyết pháp ngang qua một khu rừng, gặp một 
						người làm nghề đốt than, ông Thuần Ðà, thỉnh Ngài về nhà 
						để thọ trai. Ngài im lặng nhận lời cùng các đệ tử theo 
						ông về. Ðến nhà ông Thuần Ðà dọn ra cúng dường Ngài một 
						bát cháo nấm Chiên đàn, thường gọi là nấm heo rừng, vì 
						giống nấm này rất được giống heo rừng ưa thích.  
						 
						Thụ trai xong, Phật cùng các đệ tử từ giã ông Thuần Ðà 
						ra đi. Ðược một quãng đường, Ngái giao bình bát cho ông 
						A Nan và truyền treo võng lên, trong rừng cây Ta-la (Tàu 
						dịch là cây song thọ, cây có hai nhánh lớn chia ra như 
						hai cái nạn), để Ngài nằm nghỉ. Ngài nằm xuống võng đầu 
						trở về hướng Bắc, mình nghiêng về phiá tay phải, mặt xây 
						về hướng mặt trời lặn, hai chân tréo vào nhau.  
						 
						Nghe tin Ngài sắp nhập Niết bàn, dân chúng quanh vùng 
						đến kính viếng rất đông, trong số ấy có một ông già 
						ngoài 80 tuổi, tên TuBạcÐàLa đến xin xuất gia thọ giới 
						Sadi với Ngài, Ngài hoan hỷ nhận lời. Ðó là người đệ tử 
						chót trong đời Ngài.  
						 
						2- Phật nói Kinh Di Giáo và những lời phú chúc  
						 
						Lúc bấy giờ các đệ tử của Ngài đều có mặt đông đủ, chỉ 
						trừ ông Ca-Diếp vì đi thuyết pháp xa, chưa về kịp. Ngài 
						hội tất cả đệ tử và tín đồ đến quanh Ngài và dặn dò một 
						lần cuối. Ngài phú chúc như sau:  
						 
						a) Y,bát của Ngài sẽ truyền cho ông Ma-Ha Ca-Diếp.  
						 
						b) Các đệ tử phải lấy giới luật làm Thầy.  
						 
						c) Ở đầu các Kinh phải nên nêu 4 chữ: "Như thị ngã văn".
						 
						 
						d) Xá lợi của Ngài sẽ chia làm ba phần:  
						 
						- Một phần cho Thiên cung,  
						 
						- Một phần cho Long cung,  
						 
						- Một phần chia cho 8 vị Quốc vương ở Ấn Ðộ  
						 
						Sau đây là lời vàng ngọc mà Ngài đã để lại trong giờ 
						phút cuối cùng.  
						 
						- "Này! Các người phải tự mình thắp đuốc lên mà đi! Các 
						người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta 
						mà tự giải thoát! Ðừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào 
						khát, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài 
						các người!..".  
						 
						- "Này! Các người đừng vì dục vọng mà quên lời ta dặn. 
						Mọi vật ở đời không có gì quí giá. Chỉ có chân lý cuả 
						Ðạo ta là bất di, bất dịch. Hãy tinh tiến lên để giải 
						thoát, hỡi các người rất thân yêu của ta!".  
						 
						Sau khi đã dặn dò cặn kẽ xong, Ngài nhập định rồi vào 
						Niết bàn. Lúc bấy giờ nhằm ngày rằm tháng hai ÂL (theo 
						giáo sử Trung hoa).  
						 
						Rừng cây Ta-la tuôn hoa xuống phủ lên thân Ngài, trời 
						đất u ám, cây cỏ héo úa, chim chóc im bặt tiếng hót. Vạn 
						vật như chìm lặng trong giây phút nặng nề của sự chia 
						ly.  
						 
						Các đệ tử tẩn liệm xác Ngài vao trong kim quan và 7 ngày 
						sau, đua kim quan Ngài vào thành Câu thi để tại chùa 
						Thiện Quang và làm lễ trà tỳ (lễ hỏa thiêu).  
						 
						Tám vị Quốc vương lớn ở Ấn độ kéo binh hùng tướng dũng 
						đến toan tranh dành XáLợi. Nhưng ông Hương-Tích y theo 
						di chúc của Phật, đứng ra điều đình, và nhờ thế việc 
						phân chia XáLợi đều được ổn thỏa.  
						 
						C - Kết Luận  
						 
						Ðức Phật đã nhập Niết Bàn, nhưng gương sáng của đời Ngài 
						vẫn còn chiếu sáng rực rỡ trước mắt chúng ta. Suốt một 
						đòi, trong 80 năm trời, không một lúc nào Ngài xao lảng 
						mục đích tối thượng là hóa độ chúng sanh đang trầm luân 
						trong bể khổ. Khi còn tại gia, Ngài là người ở trong một 
						địa vị có diễm phúc nhất, cao nhất của người đời.  
						 
						Thế mà Ngài vẫn không màng tưởng đến; khi vào trong Ðạo, 
						Ngài là người ở trong địa vị cao chót vót của Ðạo, thế 
						mà Ngài vẫn không chịu ở yên trong địa vị ấy, lại vất vả 
						dủi rong trên mọi nẻo đường buị bặm, gai góc để đưa 
						chúng sanh lên con đường hạnh phúc an vui và giải thoát 
						hoàn toàn. Lòng thương của Ðức Phật thật vô biên.  
						 
						1- Người đời nên noi gương sáng của Phật.  
						Sự hy sinh cao cả, lòng từ bi rộng lớn, trí tuệ sáng 
						suốt, ý chí dũng mãnh của Ngài không những là bao nhiêu 
						gương sáng cho riêng hàng Phật tư, mà còn cho tất cả mọi 
						người. Nếu chúng ta quang niệm Ngài là một vĩ nhân của 
						nhân loại từ xưa đến nay. Nếu chúng ta quan niệm Ngài là 
						một bậc siêu nhân, thì đó là một bậc siêu nhân cao hơn 
						những bậc siêu nhân khác. Nếu ta quan niệm đời Ngài là 
						một sự thị hiện của Phật, thì đó là sự thị hiện đẹp đẽ 
						nhất và đầy đủ ý nghĩa hơn hết trong các sự thị hiện. 
						Cho nên không những đối với Tín đờ Phật giáo, mà đối với 
						toàn thể nhân loại, Ðức Phật đáng được tôn sùng và chiêm 
						ngưỡng.  
						 
						2- Tín đồ nên ghi nhớ những lời di chúc của Phật
						
						 
						- Chúng ta , những Phật tử, ai cũng biết đời Ðức Phật là đẹp đẽ, 
						cao cả; bài học của đời Ngài là quí báu, sâu xa. Nhưng 
						nếu chúng ta không cố gắng học tập, thì bài học dù hay 
						ho quí báu bao nhiêu cũng vô ích. Ðức Phật trước khi 
						nhập diệt, đã dặn chúng ta một câu cuối cùng:  
						 
						- "Mọi vật ở đời không có gì quí giá. Thân thể rồi sẽ 
						tan rã. Chỉ có Ðạo ta là quí báu. Chỉ có chân lý của Ðạo 
						ta là bất di bất dịch.  
						HÃY TINH TẤN LÊN ÐỂ GIẢI THOÁT!"  
						 
						Vậy thì diều kiện trọng yếu nhất để giải thóat là sự 
						tinh tấn. Chúng ta đừng bao giờ quên điều kiện ấy trong 
						khi tu hành.  
						 
						
						
						▲ Trở Lên 
						 | 
					 
					
						
						
						Bài Thứ 4  
						Quy Y Tam Bảo  
						 
						A-Mở Ðề:  
						 
						Cảnh giới Ta bà của chúng ta là một cảnh giới đầy mê mờ 
						và dục vọng. Chúng ta đang lặn hụp trong bể nước mắt của 
						đau khổ và bùn nhơ của dục vọng, sống trôi lăn trong 
						cảnh ấy, chúng ta khó thấy được bến bờ sáng sủa, yên ổn 
						để lội vào. Thật là đáng thương cho thân phận con người 
						chúng ta.  
						 
						Nhưng bản nguyện chúng ta đâu có thế! Chúng ta, từ vô 
						thỉ, ở nơi nguồn chơn vắng lặng, sáng suốt vô cùng. Vì 
						một niệm bất giác, khởi vô minh vọng tưởng, nên chúng ta 
						bị quay cuồng trong sanh tử, trôi nổi trong ba cõi sáu 
						đường.  
						 
						Vậy thì trong chúng ta ai là người không muốn thoát ra 
						khỏi cõi đen tối, sầu đau này, để được trở về nguồn 
						trong sáng, an vui?. Nhưng làm sao để thoát ra được? Ai 
						sẽ là kẻ rủ lòng thương để đưa đường chỉ lối cho chúng 
						ta? Ai là người có đủ phương pháp thần diệu để giúp 
						chúng ta ra khỏi sinh tử luân hồi?  
						 
						- Ðấng cao cả sáng suốt và đầy đủ năng lực ấy không ai 
						khác hơn là Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, người đã chứng quả 
						bất sanh, bất diệt; và chỉ có Giáo pháp của Ngài mới cứu 
						được chúng sanh ra khỏi vô thường đau khổ.  
						 
						Vậy chúng ta còn ngần ngại gì nữa mà chẳng chịu quy y 
						Tam-Bảo.  
						 
						B- Chánh Ðề:  
						 
						I - Ðịnh Danh Và Giải Nghĩa.  
						 
						1- Quy-y nghĩa là gì? Quy là trở về; Y là nương tựa, 
						Quy-y là trở về nương tựa nơi mà mình đã vì si mê, phóng 
						đãn lià bỏ ra đi, như đứa trẻ khờ dại đã rời bỏ cha mẹ 
						để ra đi trong hoan phá, bây giờ biết sự dại khờ do kinh 
						nghiệm khổ đau, quay trở về nương tựa lại dưới bóng hạnh 
						phúc và yêu thương của cha mẹ. Chữ Quy-y nguyên dịch 
						nghĩa là kính vâng hay phục tòng.  
						 
						2- Tam bảo nghĩa là gì? Tam bảo là ba ngôi báu: PHẬT, 
						PHÁP, TĂNG.  
						 
						Ở thế gian, vàng bạc, ngọc ngà và danh vọng là quí báu. 
						Nhưng sự thật, vàng bạc, danh vọng đâu có cứu được con 
						người khỏi khổ, sống, già, bịnh, chết, mà lắm khi còn 
						làm cho con người thêm khổ nữa! Còn Phật, Pháp, Tăng thì 
						có đủ năng lực dắt dẫn con người ra khỏi những cái khổ 
						nói trên. Bỡi thế, người đời mới tôn sùng Phật Pháp, 
						Tăng là ba ngôi báu (Tam Bảo).  
						 
						a) PHẬT: Chữ Phật do chữ Phạn Bouddha phiên âm ra. Tàu 
						dịch là Giác Giả nghĩa là: Bực đã giác ngộ sáng suốt 
						hoàn toàn về ba phương diện: Tự giác, giác tha, giác 
						hạnh viên mãn.  
						 
						b) PHÁP: Pháp là do chữ Phạn Dharma mà dịch nghĩa ra. 
						Pháp là phuơng pháp tu hành mà Phật đã phát huy ra để 
						diệt trừ mọi mê muội, khổ đau và chứng được quả Phật. Ba 
						Tạng Kinh Ðiển đều gọi chung là Pháp.  
						 
						c) TĂNG: Tăng hay Tăng già là do chữ Phạn Shanga mà 
						phiên âm ra; Tàu dịch là: Hòa hợp chúng, nghĩa là một 
						đoàn thể tu hành từ bốn người sắp lên, cùng nhau sống 
						chung một chỗ, đồng giữ giới luật của Phật, đồng chia 
						sớt cho nhau một cách hòa thuận những gì đã thâu nhận 
						được, từ vật chấc đến tinh thần.  
						 
						3- Quy-y Tam-bảo là thế nào? - Quy-y Tam-bảo là trở về 
						nương tựa ba ngôi báu: PHẬT, PHÁP, TĂNG.  
						 
						Tại sao phải Quy-y Phật? - Vì Phật là đấng hoàn toàn 
						sáng suốt, từ bi vô lượng, phước huệ vô biên, đức hạnh 
						viên mãn; - Vì Phật là người dẫn đường vĩ đại nhất, đã 
						có cái kinh nghiệm bản thân thoát ra ngoài vòng sanh tử 
						để chứng Ðạo.  
						 
						Tại sao quy-y Pháp? - Vì chỉ có phương pháp của Phật là 
						đầy đủ công năng để đưa chúng ta qua khỏi bể khổ, đến bờ 
						giải thoát.  
						 
						Tại sao lại quy-y Tăng? - Vì Tăng là người đã hy sinh 
						gia đình, tiền của, danh vọng... để tình nguyện theo 
						Phật dắt dẫn chúng sanh trên đường Ðạo.  
						 
						II- Ba Bực Tam Bảo  
						 
						Tam Bảo có ba bực:  
						- Ðồng thể Tam bảo,  
						- Xuất thế gian Tam bảo,  
						- Thế gian trụ trì Tam bảo.  
						 
						1 - Ðồng Thể Tam Bảo  
						 
						a) Ðồng Thể Phật Bảo: tức là nói tất cả chúng sanh cùng 
						chư Phật đồng một thể tánh sáng suốt.  
						 
						b) Ðồng Thể Pháp Bảo: tức là nói tất cả chúng sanh cùng 
						chư Phật đồng một pháp tánh từ bi bình đẳng.  
						 
						c) Ðồng Thể Tăng Bảo: tức là nói tất cả chúng sanh cùng 
						chư Phật đồng một thể tánh thanh tịnh, sự, lý hòa hợp.
						 
						 
						2 - Xuất Thế Gian Tam Bảo  
						 
						a) Xuất Thế Gian Phật Bảo: là chỉ cho Ðức Phật Thích Ca 
						Mâu Ni, Ðức Phật A-Di-Ðà, Chư Phật trong mười phương ba 
						đời, đã tự giải thoát ra khỏi sự ràng buộc của thế gian.
						 
						 
						b) Xuất Thế Gian Pháp Bảo: là chỉ cho Chánh pháp của 
						Phật, có công năng làm cho chúng sanh thoát khỏi sự ràng 
						buộc của thế gian, như Tứ-đế, Thập-nhị nhân-duyên, Lục 
						-độ v.v...  
						 
						c) Xuất Thế Gian Tăng Bảo: là chỉ cho các vị Thánh-Tăng 
						đã thoát ra ngoài sự ràng buộc của thế gian như đức 
						QuánThếÂm, Ðại Thế Chí, Văn Thù, Ca-Diếp, A-Nan v.v...
						 
						 
						3- Thế Gian Trụ Trì Tam Bảo  
						 
						a) Thế Gian Trụ Trì Phật Bảo, là chỉ cho Xá Lợi của 
						Phật, tượng Phật đức bằng kim khí, chạm trổ bằng danh 
						mộc, tô bằng đất, đắp bằng xi măng, thêu bằng vải, hay 
						vẽ trên giấy.  
						 
						b) Thế Gian Trụ Trì Pháp Bảo, là chỉ cho ba tạng Giáo 
						điển: Kinh, Luật, Luận viết hay in trên giấy, trên vải 
						trên lá buôn v.v...  
						 
						c) Thế Gian Trụ Trì Tăng Bảo, là chỉ các vị Tỳ Kheo, Tỳ 
						Kheo Ni tu hành chơn chánh, đạo đức trong sạch, giới 
						luật trang nghiêm trong hiện tại.  
						 
						III- Sự Quy y Tam Bảo  
						 
						Sau khi đã hiểu rõ thế nào là Quy-y Tam bảo, tất nhiên 
						phải thực hành sự hiểu biết ấy.Thực hành bằng sự tướng 
						cung kính, vâng theo Tam-bảo, như thế gọi là sự quy-y 
						Tam-bảo.  
						 
						1 - Sự Quy-Y Phật: Hằng ngày chúng ta phải nhớ tưởng 
						luôn đến Phật, niệm danh hiệu Phật, chiêm ngưỡng tượng 
						Ngài, và nguyện suốt đời theo bước chân Ngài, ấy là sự 
						quy-y Phật.  
						 
						2 - Sự Quy-Y Pháp: Hằng ngày tụng đọc Kinh, Luật, Luận; 
						sớm hôm hai thời công phu, tìm hiểu nghĩa lý thâm huyền 
						của Pháp bảo. Khi đọc tụng Kinh điển tâm trí ta không 
						nghĩ xằn bậy, không nhớ tưởng những việc không hay, 
						không bàn mưu tính kế để lợi kỷ, tổn nhơn. Chúng ta trừ 
						bỏ được dục vọng, tâm trí được sáng suốt, an lành, thanh 
						tịnh.  
						 
						3- Sự Quy-Y Tăng: Thế gian thường nói: "Trọng Phật, phải 
						kính Tăng". Cho nên, nếu chúng ta thành tâm thờ Phật bao 
						nhiêu, thì chúng ta phải thật dạ kính Tăng bấy nhiêu. 
						Người thực hành sự quy-y Tăng, hễ thấy người đầu tròn áo 
						vuông, chân chính tu hành, giữ gìn giới luật, thì liền 
						kính nể, quý trọng, xem như đó là vị đại diện cho Ðức 
						Phật. Làm như thế là sự quy-y Tăng.  
						 
						Tóm lại, thờ Phật, tụng Kinh, giữ Giới, nghiên cứu Phật 
						pháp, kính trọng Tăng già chân chính, đó chính là sự 
						quy-y tam-bảo.  
						 
						IV- Lý Quy y Tam Bảo  
						 
						Lý là bên trong. Lý quy-y Tam-bảo nghĩa là quy-y Tam-bảo 
						trong tâm chúng ta. Nếu chúng ta chỉ thực hành sự quy-y, 
						chỉ dong ruổi theo Tam-bảo bên ngoài, mà quên lý quy-y, 
						nghĩa là quên Tam-bảo bên trong tâm chúng ta, thì chúng 
						ta chưa thực hành đúng nghĩa Tam-quy. Thật thế, bên 
						trong tâm chúng ta cũng có đủ Tam-bảo. Chúng ta cần thực 
						hành lý quy-y, hay Tam Tự Quy-Y:  
						 
						1- Tự Quy-Y Phật: Tự nghĩa là mình đối với tự tâm mình. 
						Tư quy-y Phật là mình tự trở về với Phật tánh sáng suốt 
						của tâm mình, - Vâng mỗi người đều có Phật tánh, và đều 
						có thể thành Phật. Ðó là lời Phật Thích Ca đã dạy. Nhưng 
						Phật tánh ấy bị mê lầm, vọng tưởng che lấp. Vọng tưởng 
						như mây mờ, Phật tánh như trăng. Mây mờ có thể che 
						khuất, chứ không thể tiêu diệt được trăng sáng. Phật 
						tánh chúng ta bị vọng tưởng vô minh che lấp sâu kín đến 
						đâu cũng vẫn thường còn. Vậy thì sao chúng ta lại bỏ 
						quên Phật tánh của chúng ta, mà chỉ chạy theo cầu khẩn 
						Phật bên ngoài; như đứa "cùng tử" có viên ngọc quý, cha 
						mẹ đã giấu sẵn trong chéo áo mà nó không biết, lại đi 
						xin ăn cùng khắp mọi nơi!  
						 
						2- Tự Quy-Y Pháp: nghĩa là vâng theo pháp tánh của mình. 
						Trong tâm ta có đủ tất cả các Pháp: Từ-bi, Trí-tuệ, Bình 
						đẳng, Sáng-suốt, Nhẫn-nhục, Tinh-tấn... chúng ta cần 
						phát huy những đức tánh ấy và hành động theo chúng, tuân 
						theo chúng. Như thế là Tự Quy-Y Pháp.  
						 
						3- Tự Quy-Y Tăng: nghĩa là vâng theo Thầy trong tâm 
						mình, Thầy trong tâm mình là đức tánh hòa hợp thanh tịnh 
						của mình, như Tăng già là hiện thân của sự hòa hợp thanh 
						tịnh bên ngoài. Bấy lâu vì mình mê muội, không nhận thấy 
						được ông Thầy trong tâm, nay nhờ Phật chỉ dạy, mình nhận 
						thấy được ông Thầy thanh tịnh ấy, thì mình phải quy-y 
						Thầy của mình trước đã chứ!  
						 
						Nói tóm lại, mình phải nương tựa, quay về với Phật trong 
						tâm mình là tánh sáng suốt; với Pháp trong tâm mình là 
						các đức tính Từ-bi, Hỷ-xả v.v..., với Tăng trong tâm 
						mình là sự hòa hợp, thanh tịnh của bản tâm. Như thế là 
						Lý Quy-Y Tam-bảo.  
						 
						V- Nghi Thức Quy Y  
						 
						Sau khi chúng ta đã hiểu rõ SỰ và LÝ Quy-y rồi, chúng ta 
						cũng cần biết qua nghi thức của lễ Quy-y.  
						 
						1- Trưóc Tiên Phải Gội Rửa Thân Tâm Cho Trong Sạch.
						 
						 
						Quy-y là buổi lễ quan trọng nhất trên đường tu tập của 
						chúng ta. Nó là cuộc khởi hành để đi đến mục đích giải 
						thoát, vì thế chúng ta không thể xem thường, cử hành một 
						cách bừa bãi được.  
						 
						Khi muốn quy-y, chúng ta phải y-phục chỉnh tề, sắm khay 
						lễ thỉnh chư Tăng đến trai đường, đảnh lễ và cầu xin chư 
						Tăng rủ lòng Từ-bi truyền trao quy-giới cho mình.  
						 
						Trước ngày hành lễ, thân tâm chúng ta phải được gội rửa 
						trong sạch. Ta tắm rửa sạch sẽ ăn mặc chỉnh tề. Ðó là về 
						thân; còn về tâm thì ta phải ba phen sám hối, cho ba 
						nghiệp được thanh tịnh. Nhờ sự tẩy gội cả trong lẫn 
						ngoài ấy, ta mới xứng đáng đón nhận Pháp thanh tịnh cao 
						quý của Tam-bảo.  
						 
						2- Phát Nguyện.  
						 
						Ðến giờ quy-y, chúng ta phải qùy xuống; theo lời hướng 
						dẫn của chư Tăng, chí thành phát nguyện:  
						 
						- Ðệ tử suốt đời quy-y Phật.  
						 
						- Ðệ tử suốt đời quy-y Pháp.  
						 
						- Ðệ tử suốt đời quy-y Tăng.  
						 
						Sau khi phát nguyện Tam-quy rồi, người phát nguyện tin 
						chắc rằng mình đã gieo hạt giống giải thoát, thế nào 
						cũng sẽ gặt được kết quả tốt là thoát ly ba đường ác: 
						Ðịa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh. Vì thế người quy-y liền nói 
						tiếp ba lần:  
						 
						- Ðệ tử quy-y Phật rồi, khỏi đọa địa ngục.  
						 
						- Ðệ tử quy-y Pháp rồi, khỏi đọa ngạ quỷ.  
						 
						- Ðệ tử quy-y Tăng rồi, khỏi đọa súc sanh.  
						 
						Thế là trọn vẹn Tam-quy và Tam-kiết.  
						 
						Ðể bảo tồn lý tưởng cao cả của mình và giữ vững đức tin 
						trên đường Ðạo, người quy-y tự nguyện một cách mạnh mẽ 
						và thành khẩn:  
						 
						- Ðệ tử quy- Phật, nguyện trọn đời không quy y thiên, 
						thần, quỷ, vật.  
						 
						- Ðể tử quy-y Pháp, nguyện trọn đời không quy-y ngoại 
						đạo, tà giáo.  
						 
						- Ðệ tử quy-y Tăng, nguyện trọn đời không quy-y tổn hữu 
						ác đảng.  
						 
						Như thế là lễ quy-y đã hoàn tất. Người Tín đồ chỉ còn 
						việc làm theo đúng những lời mình đã phát nguyện và đã 
						tuyên thệ trước Tam-bảo.  
						 
						VI- Lợi Ích Của Quy Y Tam Bảo  
						 
						1- Khỏi đi lạc đường đòi vào nơi tăm tối.  
						 
						Như chúng ta đã thấy ở đoạn mở đầu bài này, chúng ta 
						đang lặng hụp trong biển khổ, đang bơ vơ lạc lỏng giữa 
						đêm tối mênh mông. Trong hoàn cảnh bi đát như thế, nếu 
						không thấy được những phương tiện để đi đến, không có 
						những bậc Thầy để dìu dắt đến, thì chúng ta sẽ quay 
						cuồng mãi mãi trong biển sanh tử luân hồi. Cái đích sáng 
						ấy là Ðức Phật, những phương tiện ấy là Pháp, và những 
						bậc Thầy dìu dắc ấy là Tăng. Khi chúng ta đã biết có 
						những sự quý báu như thế mà không nắm bắt lấy, thì chẳng 
						khác gì người sắp chết đuối thấy cái bè gỗ trôi qua mà 
						lại dại khờ xua đẩy nó ra.  
						 
						Sự quy-y chính là một cách bám víu vào cái bè Tam-bảo mà 
						Phật đã chế ra để cứu vớt những kẻ sắp chết duối trong 
						biển đời là toàn thể chúng ta.  
						 
						2- Khi đã phát nguyện quy-y, mình dễ giữ đúng lời đã 
						hứa, vì có sự chứng minh của Chư Phật và Chúng Tăng.
						 
						 
						Có người nói: "Tôi tôn sùng Ðức Phật, vì biết Ngài là 
						một Ðấng sáng suốt hoàn toàn; Tôi trọng trọng Pháp vì 
						biết Pháp Phật có đủ năng lực đưa người đến giải thoát; 
						tôi kính Tăng vì biết đấy là những vị đại diện cho Ðức 
						Phật. Biết như thế cũng đủ, cần gì phải làm lễ phát 
						nguyện quy-y?"  
						 
						Nói như thế là chưa hiểu giá trị về phương diện tâm lý 
						của lời hứa, lời thề trước mặt người khác. Khi chúng ta 
						đã hứa với ai một điều gì, mà nuốt lời hứa, thì tâm hồn 
						chuíng ta bức rức, hối hận không an. Ðã hứa tất có bổn 
						phận làm trọn lời hứa, nếu thất lời hứa, tất ta sẽ tự 
						khinh ta. Nhất là khi lời hứa, lời nguyện ấy lại cử hành 
						trong một khung cảnh trang nghiêm trước Ðiện Phật, trên 
						có sự chứng tri của Chư Phật, dưới có sự chứng tri của 
						chư Tăng, chung quanh có sự hộ niệm của những thân bằng 
						quyến thuộc; phát nguyện trong khung cảnh ấy, tất nhiên 
						chúng ta khó lòng mà trái lời nguyện hay xao lảng được.
						 
						 
						C - Kết Luận  
						 
						Khuyên tín đồ nên quy-y cả Sự lẫn Lý và tinh tiến trong 
						sự quy-y  
						 
						Chúng ta đã thấy, là Phật tử thì phải quy-y. Quy-y phải 
						đủ Sự và Lý. Không nên hoàn toàn ỷ lại bên ngoài mà xao 
						lảng bên trong. Cũng không nên hoàn toàn tự tôn tự trọng 
						riêng mình mà khinh thị bên ngoài. Muốn quy-y thì trước 
						tiên phải long trọng làm lễ quy-y để đánh dấu bước đi 
						đầu tiên của mình trên đường giải thoát. Lễ ấy như là lễ 
						tiễn đưa một người ra đi nhận một nhiêm vụ mới. Nhưng 
						một khi đã đặt chân lên đường, thì người ấy phải dong 
						ruổi, quyết tiến mau cho đến đích, chứ không phải chần 
						chờ, quay đi lộn lại một chỗ, hay rẽ qua một ngả khác. 
						Ðã phát nguyện quy-y mà không theo dấu chân của Ðức Phật 
						đã để lại, không soi vào gương sáng của Ðức Phật đã nêu 
						cao, không theo giáo pháp mà rèn luyện tâm tánh; không 
						giữ giới luật, không vâng lời nhắc nhở của Chư Tăng, như 
						thế là tự lừa dối mình và lừa dối người khác, và cái tai 
						hại lại càng lớn lao hơn cả không quy-y.  
						 
						Trái lại, nếu chúng ta quy-y và thực hành đúng như lời 
						đã phát nguyện thì con đường giải thoát dù xa, cũng sẽ 
						có ngày thấy đích.  
						 
						Xin hãy luôn luôn ghi nhớ lời nói cuối cùng của Ðức 
						Phật:  
						 
						- "Hãy tinh tiến lên để giải thoát!".
						
						
						▲ Trở Lên 
						 
						 | 
					 
					
						| 
						
						 
						Bài Thứ 5  
						Ngũ Giới  
						 
						A.-Mở Ðề  
						 
						Sau khi quy y Tam bảo phải sống đúng theo quy luật mà 
						Ðức Phật đã chế ra, để tiến bước trên đường Ðạo. Quy 
						luật ấy là Ngũ Giới. Người theo đạo Nho phải sống đúng 
						theo Tam cương, Ngũ thường, thì người theo Ðạo Phật cũng 
						không thể chỉ thọ Tam Quy mà không trì Ngũ Giới.  
						 
						Người đã phát tâm quy y Tam Bảo là đã bước chân lên nấc 
						thang giải thoát, nhưng nếu không giữ năm giới là chỉ 
						mới bước một nấc đầu rồi dừng lại, không thể tiến đến 
						giải thoát thật sự được. Năm Giới này không những đưa 
						người mạnh tiến trên đường giài thoát, mà còn đem lại 
						trật tự, an vui, hòa bình cho gia đình, Quốc gia, xã hội 
						nữa. Ngũ giới chính là giềng mối chắc thật tạo hạnh phúc 
						cho cá nhân và đoàn thể, chính là ông thầy ngăn ngừa 
						chúng ta làm điều xằng bậy trong thời mạc pháp. Vì thế, 
						Ðức Phật Thích Ca đã có lời di chúc khẩn thiết sau đây 
						trước khi Ngài nhập Niết bàn:  
						 
						- "Sau khi ta diệt độ, các người tu hành phải tôn kính 
						giới luật làm thầy; dầu cho ta còn tại thế để dạy dỗ cho 
						các người mấy ngàn đời đi nữa, ta cũng thêm điều nào 
						ngoài giới luật." giới luật Phật chế ra rất nhiều, vì 
						cần phải áp dụng cho nhiều hạng người tu hành: - Tỳ 
						kheo,- Tỳ kheo ni,- Sa di, -Sa di ni. Riêng đối với hàng 
						Phật tử tại gia, thì chỉ có 5 giới mà thôi. Nhưng nếu 
						giữ được 5 giới ấy thì lợi ích cho mình, cho người không 
						xiết kể.  
						 
						B.- Chánh Ðề:  
						 
						I.- Ðịnh Nghĩa 
						  
						Ngũ 
						giới là năm điều ngăn cấm mà Phật đã chế ra, để ngăn 
						những tưởng niệm ác, nói năng chẳng lành, hành động bất 
						chính. Năm điều răn ấy là: - Không 
						được giết hại, - Không được trộm cướp, - Không được tà 
						dâm, - Không được nói dối, - Không được uống ruợu. 
						Năm điều này y cứ trên tâm từ bi, bình đẳng trên phương 
						diện dứt trừ tội lỗi cá nhân và đem lại trật tự, an vui 
						cho xã hội mà thành lập. Ðức Phật không bắt buộc chúng 
						ta phải triệt để tuân theo và cũng không hăm dọa nếu 
						chúng ta không tuân theo thì phải bị Ngài trừng phạt. Sự 
						giữ hay không giữ giới là do chúng ta hoàn toàn tự liệu 
						lấy. Ðạo Phật khác với các Tôn giáo khác chính là ở điểm 
						Ðức Phật không phải là một quan tòa tối cao giữ quyền 
						thưởng phạt. Một ý nghĩ, một lời nói, một hành động tốt 
						hay xấu chính đã mang theo nó một mầm thưởng phạt rồi. 
						Ðức Phật chỉ là một vị dẫn đường rất từ bi, và rất sáng 
						suốt. Ngài chỉ cho chúng ta con đường nào là con đường 
						sáng và con đường nào là con đường nguy hiểm không nên 
						đi. Nhưng nếu chúng ta không theo con đường sáng mà lại 
						muốn đi vào con đường nguy hiểm, thì tất nhiên chúng ta 
						sẽ gặp tai họa tự nhiên, chứ Phật không tạo ra tai họa 
						để trừng phạt chúng ta. Tòa án chính là luật nhân quả. 
						Ta làm ác thì ta chịu quả xấu; ta làm thiện thì ta được 
						qủa tốt. Năm giới chính là năm thành trì ngăn chận cho 
						ta đừng đi lạc vào đường ác, là năm hàng rào ngăn chận 
						cho ta khỏi rơi xuống vực sâu, trong khi ta đi trên con 
						đường giải thoát.  
						 
						II.- Năm Giới  
						 
						1.- Không được giết hại. Ðiều ngăn cấm thứ 
						nhứt mà Phật khuyên chúng ta, là không được giết sanh 
						mạng, từ loài người cho đến loài vật. Sanh mạng là một 
						gía trị qúy báu, nhất là sanh mạng người; giết hại sanh 
						mạng kia để tô bồi cho sanh mạng này là một điều ác, 
						không hợp lý đạo.  
						 
						Phật giáo cấm sát sanh bỡi nhiều lý do:  
						 
						a) Tôn trọng sự công bằng. - Chúng ta coi sanh 
						mạng mình là quý, là một của báu tuyệt đối. Nếu ai mưu 
						hại, là mình chống trả triệt để bảo vệ sanh mạng. Mình 
						đã biết quý trong thân mạng mình, tại sao lại muốn chà 
						đạp sanh mạng người? Suy rộng ra, các loài vật cũng biết 
						quý trọng mạng chúng. Như một con bò hay một con heo sắp 
						bị đập đầu, thọc huyết, ta thấy sự phản kháng mãnh liệt, 
						sự đau thương cùng cực của chúng, bằng những tiếng kêu 
						gào, những cái dãy dụa thoát chết! Theo lẽ công bình, 
						đìều ta không muốn ai làm cho ta, thì ta cũng đừng làm 
						cho người khác, hay loài khác. Phật dạy: "Ai ai cũng sợ 
						gươm dao, ai ai cũng sợ sự chết. Vậy nên lấy lòng mình 
						suy lòng người, chớ giết! Chớ bảo giết!".  
						 
						b) Tôn trọng Phật tánh bình đẳng. - Chúng ta mỗi 
						loài tuy thân hình khác nhau, mà vẫn đồng một Phật tánh. 
						Phật tánh đã bình đẳng thì không thể viện lý do gì để 
						nói rằng Phật tánh ở người giá trị hơn ở vật, ở giai cấp 
						này màu da này gía trị hơn giai cấp kia màu da kia. Sát 
						hại một sanh vật là sát hại Phật tánh.  
						 
						c) Nuôi dưỡng lòng từ bi. - Lòng từ bi của Ðức 
						Phật xem mọi loài như con, nên Ngài không đồng ý cho đệ 
						tử Ngài sát hại sanh vật, bất cứ trong trường hợp nào. 
						Bỡi vì đem tâm giết hại sanh mạng là lòng độc ác đã cực 
						thịnh, tâm từ bi bị bóp chết. Nhẫn tâm vô cớ giết một 
						con vật, tính bạo ác không kém giết một con người. Nhẫn 
						tâm làm cho kẻ khác hay vật khác phải dãy dụa, rên siết, 
						quằng quại trong máu đào, trong lệ nóng trước khi trút 
						hơi thở cuối cùng, là tự giết lòng từ bi của mình, là 
						bóp chết cái mầm thương yêu rất quý báu trong tâm hồn 
						chúng ta. Như thế, khó mà tu hành để thành chánh quả 
						được. Ðức Khổng Tử có dạy: "Văn kỳ thanh bất nhẫn kiến 
						kỳ thực, kiến kỳ sanh bất nhẫn kiến kỳ tử". (Nghe tiếng 
						kêu la của con vật, không nỡ ăn thĩt nó; thấy nó sống 
						không đành thấy nó chết). Như vậy người có tâm từ bi hay 
						lòng nhân đều không nỡ giết hại người hay loài vật.
						 
						 
						d) Tránh nhân qủa báo ứng oán thù. - Khi ta giết 
						một người hay một con vật thì sự oán hận của họ tràn trề 
						khó dập tắt được. Họ vì cô thế, vì yếu sức nên bị ta 
						giết hại. Trong khi ấy, họ ôm lòng căm hận, chờ gặp dịp 
						báo thù, hay con cái thân nhân họ sẽ báo thù lại. Cứ thế 
						mỗi ngày ta đều gieo căm hờn cho người và vật, tích lũy 
						lâu ngày, khối oan gia ấy to hơn sức ta, chừng ấy ta bị 
						nó sát hại lại. Càng tạo nghiệp sát, càng lao mình vào 
						đau khổ. Phật dạy: "Người thường sanh tâm sát hại, càng 
						tăng trưởng nghiệp khổ,, mãi xoay vần trong sanh tử, 
						không có ngày ra khỏi" (Kinh Lăng Già).  
						 
						Lợi ích của sự không sát hại. 
						  
						- Vì 
						những lý do trên, Ðức Phật cấm Phật tử không giết haị. 
						Không giết hại, sẽ có những điểm lợi sau đây:  
						 
						a) Về phương diện cá nhân. - Một người không tàn 
						nhẫn sát nhân, hại vật, không độc ác làm đổ máu, không 
						lóc da, xẻ thịt, chặt đầu, thắt cổ, thì trong lòng không 
						bức rứt, hối hận, thân tâm được nhẹ nhàng, thơ thới, 
						giấc ngủ được an lành, nét mặt được hiền hòa, trong 
						sáng.  
						 
						b) Về phương diện xã hội. - Nếu tất cả nhân loại 
						trên thế giới này đều giữ đúng giới thứ nhất của Phật 
						dạy đây, thì chiến tranh sẽ không có, mà các nghiệp sanh 
						tử luân hồi cũng đươc giải thoát. Cho nên Tổ xưa có dạy:
						 
						 
						''Hết thảy chúng sanh không nghiệp giết,  
						Mười phương nào có nổi đao binh.  
						Mỗi nhà, mỗi chốn đều tu Thiện.  
						Lo gì thiên hạ chẳng thái bình. ''  
						 
						Hạn chế: Vẫn biết giết hại là tạo nhân khổ, nhưng người 
						tại gia còn ăn mặn, còn làm công việc kia nọ, thì khó 
						tránh khỏi phạm giới sát. Ở đây không bắt buộc chúng ta 
						phải giữ triệt để như thế, chỉ cần giữ phần quan trọng 
						là không giết người, và những con vật lớn như: Trâu, bò, 
						ngựa, chó, heo, gà v.v... Còn những con nhỏ nếu tránh 
						được bao nhiêu quý bấy nhiêu. chúng ta nên đi từ từ thì 
						chắc ăn hơn. Nhất là không nên giết hại sinh vật một 
						cách vô lý, giết để thỏa lòng thích giết. Trong khi giữ 
						giới sát, ta nên đề phòng hai đều sau đây:  
						 
						a) Không nên để cho ác ý sanh khởi. Giết một con 
						vật lớn mà vì vô ý hay tự vệ, thì cái qủa của nó còn nhẹ 
						hơn là giết một con chuồn chuồn với cái ác ý muốn giết 
						cho vui tay.  
						 
						b) Nên tránh sự huân tập trong hoàn cảnh giết hại: 
						Những đứa bé lên 3, lên 5 ra sân gặp chuồn chuồn, bươm 
						bướm chụp bắt rồi ngắt cánh, rứt đầu nếu cha mẹ thấy mà 
						không rầy la; đến 12,13 tuởi, chúng sắm ná, giàng thun 
						bắn chim, đến 20,25 tuởi, chúng đâm họng heo, giết chó, 
						vẫn không bị ngăn cấm thì sau này, quen với tánh hung 
						bạo, trong cơn giận dữ, chúng có thể giết người không 
						gớm tay. Vậy chúng ta không nên để tự do cho con cái 
						quen cái sự giết hại sinh vật, mà cũng không cho chúng 
						mục kích những cảnh chém giết ở các rạp chiếu bóng hay ở 
						giữa đời.  
						 
						2. - Không được trộn cướp. Ai cũng biết 
						trộn cướp là lấy những tài vật thuộc quyền sở hữu của 
						người, mà không có sự ưng thuận , hay cưỡng ép người ta 
						ưng thuận bằng võ lực hay quyền hành. Những vật quý giá 
						như nhà cửa, ruộng vườn, tiền bạc, ngọc ngà... cho đến 
						vật hèn mọn như lá trầu, trái ớt... người ta không cho 
						mà mình tự lấy đều là trộm cướp. Trộm cướp có nhiều hình 
						thức: Ỷ mạnh bè đảng giựt ngang của người là ăn cướp,; 
						cậy thế ỷ quyền làm tiền kẻ yếu là ăn cướp; bắt chẹt 
						người ta trong lúc túng thiếu để cho vay nặng lời, cầm 
						bán gía rẻ mạt là ăn cướp; tích trử đầu cơ để bán giá 
						chợ đen là ăn cướp. Dùng mưu mẹo rình rập, lén lút lấy 
						của người là ăn trộm; cân non, đong thiếu, trốn xâu, lậu 
						thuế, được của người ta mà không tìm cách trả lại là ăn 
						trộm. Có thể nói tóm một câu là; Bất cứ hình thức nào, 
						do lòng tham lam lấy của người bất chính đều là trộm 
						cướp cả. Nếu vì nghèo nàn thiếu thốn, vợ ốm con đau, 
						thiếu gạo thiếu thuốc, nên phải buộc lòng gian xảo, thì 
						tội còn được châm chế; chứ đã giàu có, ăn sung mặc 
						sướng, lên xe xuống ngựa mà còn lường gạt người lấy của, 
						cướp công, để sống một cách vương giả trên mồ hôi nước 
						mắt của kẻ nghèo đói, thì tội ác thật nặng nề!  
						 
						Vì lý do gì Phật cấm trộm cướp? Phật cấm trộm cướp 
						vì những lý do sau đây:  
						 
						a) Tôn trọng sự công bằng: Chúng ta không muốn ai 
						lấy của mình, tại sao mình lại chăm chăm muốn đoạt của 
						người? Quyền sở hữu cá nhân của ta, ta biết tôn trọng, 
						thì tại sao ta lại chà đạp lên quyền sở hữu của người? 
						Làm như thế là trái lẽ công bằng. Một xã hội mà thiếu 
						công bằng thì không thể tồn tại lâu dài được.  
						 
						b) Tôn trọng sự bình đẳng. - Mỗi người đều có 
						Phật tánh như nhau, tại sao ta lại muốn làm khổ người 
						khác để ta được sung sướng? Tại sao ta lại muốn hưởng 
						nhữnh đặc ân bất chính trong khi ta cũng chỉ là một con 
						người như bao nhiêu con người khác?  
						 
						c) Nuôi dưỡng lòng từ bi. - Một khi vô ý đánh mất 
						một vật gì hay một số tiền, ta dàu dàu buồn khổ, ăn 
						không ngon, ngủ không yên, tại sao ta lại nỡ tâm lấy của 
						người để cho người phải khóc than, đau khổ vì ta? Người 
						ta thường nói: "Tiền tài là huyết mạch". Như vậy, kẻ 
						cướp đoạt của người tức là cướp đoạt xương máu người, 
						sát hại sinh mạng người vậy. Chỉ những người không có 
						lòng thương người, tán tận lương tâm mới làm những việc 
						đen tối như vậy. Còn ta, đã là Phật tử, đang cố gắng 
						nuôi dưỡng lòng từ bi, ta không thể trộm cướp của ai 
						được.  
						 
						d) Tránh nghiệp báo oán thù. - Trong xã hội có tổ 
						chức, tôn trọng lẽ công bằng, thì tội trộm cướp bao giờ 
						cũng bị trừng trị. Ăn trộm là bị đưa ra tòa án tiểu 
						hình, ăn cướp thì ra tòa án đại hình. Khi chưa bị bắt, 
						kẻ trộm cướp phải tìm trăm phương ngàn kế để trốn tránh. 
						sống chui rúc trong bóng tối. Khi bị bắt, người trộm 
						cướp phải bi trói buộc, tra khảo, ngồi tù, nhốt khám. 
						Phận mình đã đành cực thân khổ trí, lại làm cho gia đình 
						mình, cha mẹ, vợ con cũng buồn rầu xấu hổ, và mất hết cả 
						hy vọng ở tương lai.  
						 
						Nhưng nếu luật pháp thế gian không trừng trị, thì người 
						trộm cướp cũng không thoát khỏi luật nhân quả nghiệp 
						báo. Trộm cướp của người thì sẽ bị người trộm cướp lại, 
						gây bao thù oán khổ đau. Phật dạy: "Người tham luyến sắc 
						tài không chịu rời bỏ, cũng như đứa bé luyến tiếc một 
						chút mật trên lưỡi dao, thè lưỡi liếm, phải bị cái họa 
						đứt lưỡi" (Kinh Tứ Thập Nhị Chương). Chính thế, vì tham 
						tiền của, lắm người đã tự gieo mình vào khám đường, vào 
						địa ngục. Chúng ta hãy lắng nghe bài kệ cảnh tỉnh của 
						vua Trần Thái Tông:  
						 
						Khoét vách xoi tường chí những đâu,  
						Ngàn mưu trăm kế luống tham cầu;  
						Của người dầu có đời nay được,  
						Ðời khác luôn luôn kiếp ngựa trâu. 
						  
						Vì những lý do trên nên Ðức Phật cấm các để tử trộm 
						cướp.  
						 
						Lợi ích của sự không trộm cướp.  
						 
						a) Về phương diện cá nhân. - Người không gian 
						tham thì đời sống hiện tại được an ổn, không bị đòi hỏi, 
						giam cầm, tù tội, đi đâu cũng được người khác tin cậy, 
						giao phó cho mình những địa vị quan trọng. Người không 
						gian tham thì đời sau được hưởng phước báu giàu sang, an 
						vui, và con cháu nhiều đời cũng nhờ thừa hưởng âm chất 
						của ông bà, cha mẹ để lại mà được vinh hiển.  
						 
						b) Về phương diện đoàn thể. - Nếu một ngày nào 
						trong xã hội không ai có tâm gian tham, trộm cướp thì 
						nhà không cần đóng cửa, của khỏi lo gìn giữ, vật đánh 
						rơi không mất, thật không còn gì sung sường hơn! Người 
						ta khổ bỡi không có của, nhưng kẻ có của nhiều cũng vẫn 
						khổ, vì phải lo gìn giữ. Người không trộm cướp tức là đã 
						âm thầm ban cho người khác sự an ổn rồi. Nhà Nho có câu: 
						"Nhơn phi nghĩa bất giao, vật phi nghĩa bất thủ", Huống 
						chúng ta là Phật tử lại đi trộm cướp hay sao?  
						 
						3. - Không được tà dâm. Tà dâm tức là muốn 
						nói về sự dâm dục phi lễ, phi pháp. Luật dạy người xuất 
						gia ly tục phải dứt hẳn dâm dục, còn người tại gia thì 
						không được tà dục. Khi vợ chồng có cưới hỏi đủ lễ gọi là 
						chánh; ngoài ra, lén lút lang chạ làm việc phi pháp với 
						người khác phái gọi là tà. Nhưng nếu vợ chồng chính thức 
						đi nữa, mà nằm không phải chỗ, gần giũ nhau không chừng 
						mực thì cũng thuộc về tà dâm cả. Ðó là nói về mặt thô 
						thiển. Nói một cách vi tế hơn, thì phàm những sự phóng 
						tâm đắm sắc, nghĩ ngợi bất chánh, chơi bời lả lơi, cũng 
						đều thuộc về loại tà dâm cả.  
						 
						Phật cấm tà dâm vì những lý do sau đây:  
						 
						a) Tôn trọng sự công bình. - Mỗi người ai cũng 
						muốn gia đình mình êm ấm, yên vui, vợ con mình đoan 
						chánh, thì sao lại đi phá hại gia cang, làm nhục nhã 
						tông môn người, đưa vợ con người vào con đường dâm loạn.
						 
						 
						b) Bảo vệ hạnh phúc gia đình. - không gì đau khổ, 
						đen tối hơn, khi một gia đình mà chồng hoặc vợ có dạ 
						riêng tư, tà vạy. Hạnh phúc đâu còn, khi chồng vợ không 
						tin nhau! Một khi gia đình lâm vào cảnh ấy, thì con cái 
						sẽ xấu hổ, bê tha, côi cút, bà con không đoái hoài đến, 
						sự nghiệp tan tành, làng xóm chê bai, danh giá hoen ố. 
						Ðiều kiện thiết yếu để giũ gìn hạnh phúc gia đình chính 
						là lòng chung thuỷ của hai vợ chồng. Người ta bảo: 
						"Thuận vợ thuận chồng, tác bể Ðông cũng cạn". Vì sự tà 
						dâm của một trong hai người bạn đường mà trong gia đình 
						thường xảy ra những vụ ghen tương, cãi vã, đánh đập có 
						khi đến gây án mạng. Có khi, để trả thù, người ta thường 
						thấy xảy ra cái cảnh "Ông ăn chả, bà ăn nem". Một người 
						chồng để tâm dòm ngó vợ người, thì chính vợ con họ cũng 
						lăm le vạch rào sang nhà kẻ khác rồi. Họ phá hạnh phúc 
						gia đình ngưởi, thì chính hạnh phúc gia đình họ cũng đã 
						tan rã trước.  
						 
						Cho nên cấm tà dâm là một điều kiện cần thiết để xây 
						dựng hạnh phúc cho gia đình mình và gia đình người.
						 
						 
						c) Tránh oán thù và quả báo xấu xa. - Phật dạy: 
						"Người ôm lòng ái dục cũng như kẻ cầm đuốt đi ngược gió, 
						quyết bị nạn cháy tay" (Kinh Tứ Thập Nhị chương). Thật 
						vậy, người ta có tâm xấu xa đắm mê sắc dục, không sớm 
						thì chầy quyết bị hại: nếu không tan nhà mất nước, thì 
						cũng gãy chân mất mạng bỡi mũi súng, ngọn gươm. Xưa nay 
						những kết qủa thảm khốc đen tối do sự đắm mê sắc dục gây 
						ra không thiếu gì; chúng ta chỉ cần dở những chồng sách 
						lịch sử hay chồng bao hằng ngày, sẽ thấy nhan nhản trong 
						mỗi trang, mỗi đoạn. Trong các sự oán thù, không có sự 
						oán thù nào mãnh liệt bằng sự oán thù do sự lừa dối phụ 
						rẫy về tình ái gây ra. các cuộc án mạng xảy ra hằng 
						ngày, phần lớn là kết qủa của tà dâm.  
						 
						Lợi ích của sự không tà dâm.Vì thế nên sự giữ giới cấm 
						tà dâm sẽ có những lợi ích sau đây:  
						 
						a) Về phương diện cá nhân.  
						 
						- Kinh ThậpThiện nói:"Người thế gian không tà hạnh thì 
						được hưởng bốn điều lợi sau:  
						 
						- Sáu căn (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý) đều được vẹn 
						toàn.  
						- Trọn đời được người kính trọng.  
						- Ðoạn trừ được hết cả phiền lụy khuấy nhiễu.  
						- Cuộc tình duyên trọn đời không ai dám xâm phạm."  
						 
						b) Về phương diện đoàn thể.  
						 
						- Trong một xã hội mà ai cũng không tà hạnh, thì gia 
						đình được yên vui hạnh phúc, những sự thương luân bại lý 
						sẽ tiêu tan, những cảnh thù hiềm, chém giết sẽ không xảy 
						ra nữa; con cái được mạnh khẻo, nâng niu, xã hội  
						sẽ cường thịnh. Nói tóm lại, cõi Ta bà ô trọc, đau khổ 
						này sẽ biến thành thế giới thanh tịnh, an vui.  
						 
						4. - Không được nói sai sự thật. Nói sai 
						sự thật có bốn cách: Nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai 
						chiều, nói lời hung ác.  
						 
						a) Nói dối hay nói láo, là không nói thật, chuyện 
						có nói không, chuyện không nói có, việc phải nói trái, 
						việc trái nói phải; điều nghe nói không nghe, điều không 
						nghe nói nghe; hoặc giả trước mặt khen dồi, sau lưng chê 
						mạc; hay là khi ưa thì nói dịu ngọt thơm tho, khi ghét 
						lại đắng cay chua chát. Tóm lại, ý nghĩ lời nói việc làm 
						trước sau mâu thuẫn, trên dưới khác nhau, trong ngoài 
						bất nhứt, đều thuộc về nói dối cả.  
						 
						b) Nói thêu dệt, là việc ít xít cho nhiều, làm 
						cho người nghe nổi sân hận; là trau tria lời nói, chuốt 
						ngót giọng hay, lên hơi xuống giọng cho êm tai mát dạ để 
						cám dỗ người nghe, làm cho người say mê đắm nhiễm; cũng 
						có khi là nói biếm, nói bâm, nói châm, nói chích làm cho 
						người nghe phải khổ sở. Tóm lại, bao nhiêu lời nói không 
						đúng nghĩa chân thật, thêm bớt cho đến văn chương phù 
						phiếm, bóng bẩy làm cho kẻ nghe phải loạn tâm, sanh 
						phiền não, đều gọi là nói thêu dệt cả.  
						 
						c) Nói lưỡi hai chiều, hay nôm na hơn, là nói 
						"đòn xóc nhọn hai đầu", nghĩa là đến chỗ này thì nói hùa 
						với bên này để nói xấu bên kia, đến bên kia thì nói hùa 
						bên ấy để nói xấu bên này, làm cho bạn bè đang thân nhau 
						trở lại chống nhau, kẻ ân, người nghĩa chống đối, oán 
						thù nhau.  
						 
						d) Nói lời hung ác, là nói những tiếng thô tục 
						cộc cằn chửi rủa, làm cho người nghe phải đau khổ, buồn 
						rầu, sợ hãi.  
						 
						Vì sao Phật cấm nói sai sự thật? Phật cấm nói sai 
						sự thật vì những lý do sau đây:  
						 
						a) Tôn trọng sự thật. - Ðạo Phật là Ðạo như thật; 
						người tu theo Ðạo Phật phải tôn trọng sự thật. Người 
						quen với dối trá, không thiết tìm sự thật thì khó có thể 
						chứng qủa được. Chúng ta đang sống trong vọng tưởng, 
						công việc chính của người tu hành là cố gắng phá tan 
						vọng tưởng ấy để thấy được bản nguyện; nếu không làm 
						được như thế mà trái lại còn chồng chất thêm cái vọng 
						tưởng ấy với những sự dối trá lừa phỉnh nữa, thì thật là 
						trái đạo.  
						 
						b) Nuôi dưỡng lòng từ bi. - Cái động lực chính 
						của sự dối trá là lòng ích kỷ, ác độc, muốn hại người để 
						thỏa lòng dục vọng đen tối của mình. Người bị lừa dối, 
						phỉnh gạc phải đau khổ vì mình, có khi phải mắt thù vươn 
						oán, có khi phải tan gia bại sản. Người tu hành mà làm 
						như thế là đã tán tận lương tâm, đã bóp chết tình thương 
						trong lòng họ rồi. Một khi lòng từ bi không có nữa, 
						nghĩa là cái động lực chính đã mất, thì sự tu hành chỉ 
						còn là giả dối, lừa bịp người, và tất nhiên không bao 
						giờ có kết qủa  
						tốt.  
						 
						c) Bảo tồn sự trung tín trong xã hội. - Trong một 
						gia đình, một đoàn thể, một xã hội mà không ai tin ai, 
						thì mọi công cuộc từ nhỏ đến lớn đều thất bại. Trong đạo 
						Nho, một trong 5 đức tính căn bản là lòng tin. "Nhơn vô 
						tín bất lập", đó là lời dạy của Khổng Tử, Hạnh phúc gia 
						đình và xã hội không thể có được trong sự dối trá. nghi 
						ngờ, đố kĩ.  
						 
						d) Tránh nghiệp báo khổ đau. - lời nói tuy không 
						phải là lưỡi kiếm, nhưng nó nguy hiểm hơn lưỡi kiếm, vì 
						nó có hai mũi ngọn, một mũi đâm vào người khác, một mũi 
						đâm vào chính người xử dụng nó. Ai ai cũng chắc chưa 
						quên câu chuyện thằng bé chăn cừu muốn đánh lừa hàng 
						xóm, bằng cách la "Lửa! Lửa!", nhưng nó chỉ phỉnh người 
						được một lần, lần sau nhà nó cháy thật, mặc dù nó kêu la 
						thảm thiết cũng không ai thèm đến chữa nữa. Ðấy, người 
						dối trá chỉ gây họa cho mình. Do đó, Phật dạy: "Phàm kẻ 
						ở đời, lưỡi búa bén nằm sẵn trong miệng, sở dĩ chém mình 
						là do lời nói ác". Ðã đành nói ly gián, nói xuyên tạc là 
						để hại người, nhưng khi đã làm hại người thì thế nào 
						người cũng hại lại mình. "Ác lai ác báo" là thế. Ðể 
						tránh sự thù hằn, tránh nghiệp dữ, chúng ta không nên 
						dối trá, điêu ngoa.  
						 
						Lợi ích của sự không dối trá:  
						 
						a) Về phương diện cá nhân. - Ðược người trọng nể, 
						tin cậy, không ai oán hận thù hiềm; đi đâu cũng được 
						người chung quanh dành cho một địa vị thân tín, niềm nỡ 
						tiếp đón. Trong nghề nghiệp làm ăn, người chân thật được 
						nhiều thân chủ, và được giao phó cho nhiều trọng trách 
						quý báu.  
						 
						b) Về phương diện đoàn thể. - Gia đình và xã hội 
						được đoàn kết trong sự tin cậy. Mọi công cuộc chung, 
						được xúc tiến có kết qủa tốt.Ðồng bào thương yêu, thông 
						cảm nhau hơn.  
						 
						Hạn chế: Nói dối là một tai họa lớn lao, cho mình và xã 
						hội. Tuy nhiên, cũng có vài trường hợp nên nói dối. Ðó 
						là khi nào vì lòng từ bi mà phải nói dối để cứu người 
						hay vật. Nói dối phạm tội là trong trường hợp do lòng 
						tham, sân làm động cơ thúc đẩy . Ngược lại, nếu do lòng 
						từ bi thúc đẩy mà phải nói dối, thì không phạm tội.
						 
						 
						5. - Không được uống rượu. Tất cả những 
						thứ có chất men làm say người, hay chấc độc hại người 
						đều không được uống. Chính mình không uống đã đành, mà 
						cũng không được ép nài người khác uống. Ép nài, khuyến 
						khích người khác uống, tội lại nặng hơn cả chính mình 
						uống nữa. Lúc lâm bịnh nặng, uống các thứ thuốc không 
						lành, lương y bảo phải dùng rượu hòa vào thuốc, thì tạm 
						được dùng. Nhưng trước khi dùng phải bạch cho chúng Tăng 
						biết. Khi hết bịnh, không được tiếp tục uống thuốc có 
						hòa rượu ấy nữa.  
						 
						Vì những lý do gì Phật cấm uống rượu? - Phật cấm 
						uống rượu vì những lý do sau đây:  
						 
						a) Bảo toàn hạt giống trí tuệ. - Rượu còn nguy 
						hiểm hơn thuốc độc. Một ché thuốc độc ta uống vào chết 
						ngay, nhưng chỉ chết một thân hiện tại, chứ rượu uống 
						vào, làm mất giống trí tuệ, phải chết đi sống lại vô số 
						kiếp. Vì thế để bảo toàn hạt giống trí tuệ quý báu, Phật 
						cấm uống rượu.  
						 
						b) Ngăn ngừa những nguyên nhân sanh ra tội lỗi. - 
						Rượu chính nó không phải là một tội lỗi như sát sanh, 
						trộm cướp, tà dâm, nhưng nó có thể làm nhân cho những 
						tội lỗi kia sanh ra. Khi đã uống rượu vào say sưa, thì 
						tội nào cũng có thể phạm được. Dưới đây là một câu 
						chuyện để chứng minh đìều đó: - Một anh nông phu kia 
						đang cày ruộng giữa đồng, bỗng thấy hiện ra sừng sững 
						trước mặt mình một hung thần to lớn, kỳ dị, hăm giết 
						anh. Anh kinh sợ, khóc lóc xin tha mạng. Vị hung thần 
						bảo:  
						 
						- Nếu ngươi làm một trong ba việc này thì ta tha chết 
						cho: hoặc là giết cha ngươi, hoặc là đánh mẹ ngươi hay 
						uống hết lít rượu để trên bàn nhà ngươi.  
						 
						Anh nông dân suy nghĩ mộ hồi rồi trả lời:  
						 
						- Xin Ngài cho con được uống lít rượu.  
						 
						Hung thần nghe xong có vẻ hài lòng rồi biến mất. Trưa 
						hôm ấy, anh nông dân về nhà, thấy lít rượu mà ông thân 
						mua để đãi khách, vì nhà sắp có giỗ, anh ta vội vàng 
						chụp lấy, nốc cạn một hơi. Cha anh thấy đứa con hỗn láo, 
						nắm gậy xông lại đánh mắng con. Ma men đã thấm, anh ta 
						không còn biết phải trái, giựt gậy của cha, đánh ông một 
						cây chết tốt! Bà mẹ chạy đến ôm con la làng. Anh ta chưa 
						hả giận, đánh mẹ túi bụi. Xóm làng chạy lại bắt anh dẫn 
						lên quan vì tội giết cha đánh mẹ. Tỉnh lại anh mới biết 
						uống rượu là tội nặng nhứt trong ba diều mà hung thần 
						bắt anh làm.  
						 
						Tóm lại rượu gây ra nhiều tội lỗi. Sau đây là 10 tai hại 
						của rượu mà trong Kinh đã nói đến: 1 - Của cải rơi mất; 
						2 - Tăng trưởng lòng giết hại; 3 - Trí tuệ kém dần; 4 - 
						Sự nghiệp chẳng thành; 5 - Thân tâm nhiều khổ; 6 - Thân 
						hay tật bịnh; 7 - Tâm sân hận bồng bột, ưa cãi lẫy; 8 - 
						Phước đức tiêu mòn; 9 - Tuổi thọ giảm bớt; 10 - Mạng 
						chung đọa vào địa ngục.  
						 
						Lợi Ích Của Sự Cấm Uống rượu  
						 
						a) Về phương diện cá nhân. - Người không uống rượu thì 
						tránh được 10 điều hại vừa kể trên.  
						 
						b) Về phương diện đoàn thể. - Gia đình được yên vui, con 
						cái ít tật bịnh, xã hội được hòa mục, nòi giống được 
						hùng cường.  
						 
						C. - Kết Luận  
						 
						1. - Phật tử không giữ giới không phải là Phật tử. - 
						Chúng ta đã thấy công dụng thiết thực và lợi ích của 5 
						giới về phương diện cá nhân và đoàn thể. Nếu Tam Quy là 
						nền tảng, thì ngũ giới là 5 nấc thang của người Phật tử 
						tại gia để bước dần lên Thánh qủa. Trong bước đầu, người 
						Phật tử nếu có thể phát nguyện giữ cả năm giới thì càng 
						tốt; nếu vì nhiều sự ràng buộc chưa thể giữ được cả năm 
						giới thì có giữ vài giới mà mình thấy có thể thực hành 
						được, như: Không uống rượu, không nói dối. Rồi với sự 
						tinh tấn và Bồ đề tâm dũng mãnh , ta tiếp tục phát 
						nguyện giữ thêm những giới khác như không trộm cắp, 
						không tà dâm... Nhưng đã phát nguyện giữ giới nào thì 
						giữ cho trung kiên, đừng có một bước tiến tới, hai bước 
						thoái lui, dùng dằng như thế mãi thì không bao giờ đi 
						đến đâu cả. Nếu người Phật tử mà không giữ giới nào thì 
						sao gọi là Phật tử? Người thường, không theo Phật mà còn 
						giữ đúng tư cách như không uống rượu, không nói dối, 
						không trộm cắp thay, huống hồ là Phật tử? Ta đến với Ðạo 
						Phật là muốn vượt lên trên đời tầm thường của thế nhân. 
						Nếu chúng ta vào Ðạo rồi mà vẫn tiếp tục cuộc đời trôi 
						nổi cũ, hay còn tệ hơn cuộc đời thường của thế nhân, thì 
						đó là chúng ta muốn làm hoen ố Ðạo,  
						 
						Cho nên người Phật tử phải cố gắng giữ giới để cho xứng 
						đáng với danh nghĩa của mình, để đem hạnh phúc đến cho 
						mình và chúng sanh.  
						 
						2 Người không theo Ðạo Phật cũng nên giữ giới. - Năm 
						giới nói trên không có gì là cao siêu, huyền bí. Ðó là 
						một bài học công dân thông thường mà bất cứ một xã hội 
						nào, một quốc gia nào muốn phồn thịnh, hùng cường cũng 
						không thể bỏ sót được. Cho nên năm điều luật ấy không 
						phải chỉ để áp dụng riêng cho giới Phật tử, mà còn chung 
						cho tất cả những ai muốn sống một cuộc sống lành mạnh, 
						an vui, có lễ nghĩa và tiến bộ.  
						 
						Một xã hội mà mọi phần tử đều thực hiện được năm giới 
						cấm ấy, thì đó là một xã hội gương mẫu, văn minh nhứt 
						thế giới.  
						 
						
						
						▲ Trở Lên 
						 | 
					 
					
						
						
						Bài Thứ 6  
						Sám Hối  
						 
						A - Mở Ðề  
						 
						Chúng ta sống trên đời này không ai là hoàn toàn trong 
						sạch. Phật thường dạy: "Phàm còn xuống lên ba cõi, lăn 
						lộn trong sáu đường, thì không một loài nào được hoàn 
						toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi".
						 
						 
						Thật thế, cõi đời này đã được gọi là cõi trần, thì làm 
						sao trong sạch được? Người ta thường nói "ở bầu thì 
						tròn, ở ống thì dài"; vậy thì ở trong bụi tất phải lấm 
						bụi. Bụi đời đã lâu đời lâu kiếp phủ lên thân, lên đầu 
						chúng ta, vào trong buồng gan lá phổi của chúng ta. Nó 
						làm cho chúng ta mờ mắt không thấy được đường chánh; nó 
						làm cho chúng ta đục lòng, không thấy được chân tâm. Nếu 
						chúng ta muốn sống mãi trong cảnh bụi nhơ, muốn đắm mình 
						trong tội lỗi, thì không nói làm gì. Nhưng khi chúng ta 
						đã muốn được trong sạch thảnh thơi, muốn trút bỏ tội lỗi 
						cho lòng được nhẹ nhàng, thư thới, thì tất nhiên chúng 
						ta phải tìm phương pháp để trừ cho hết bụi bặm, tẩy trừ 
						cho hết tội lỗi. Trong Ðạo Phật, phương pháp tẩy trừ ấy 
						gọi là sám hối.  
						 
						B.- Chánh Ðề  
						 
						I.- Ðịnh Nghĩa:  
						 
						Chữ "Sám", tiếng Phạn gọi là Samma; Tàu dịch là "Hối 
						quá". Kinh nói: "Sám giả sám kỳ tiền khiên, Hối giả hối 
						kỳ hậu quá". Nghĩa là, Sám là ăn năn lỗi trước, còn Hối 
						là chừa bỏ lỗi sau. Nếu dùng một chữ Sám hay một chữ Hối 
						không thì chưa đủ ý nghĩa, nên các Tổ xưa ghép hai chữ 
						lại thành danh từ "Sám hối", dịch theo tiếng Việt là "ăn 
						năn chừa lỗi". Như thế trong chữ Sám hối có hàm nghĩa ăn 
						năn, hối hận vì những lỗi lầm trong quá khứ, bất luận là 
						lâu mau, và bây giờ cho đến về sau, mình nguyện là không 
						tái phạm nữa. Nếu biết lỗi cũ là bậy, bây giờ mình xin 
						chuộc lỗi, mà sau nầy vẫn còn làm lại, thì không phải là 
						đúng nghĩa Sám hối trong Ðạo Phật.  
						 
						II.- Các cách Sám Hối.  
						 
						1.- Sám hối sai lầm.  
						 
						Ðúng ra chữ Sám hối là danh từ riêng của Ðạo Phật. Khi 
						Sám hối mà gọi là sai lầm, thì không phải là Sám hối nữa 
						rồi. Nhưng để tiện việc diễn đạt, chúng ta hãy tạm dùng 
						hai chữ ấy để nói chung những cách chuộc tội ở thế gian 
						hay trong các đạo ngoài (ngoại đạo).  
						 
						Người thế gian, khi có tội lỗi với ông bà, làng nước, 
						thường dùng trầu ruợu, hay heo gà, tiền bạc để tạ tội, 
						xin lỗi. Có khi người ta lại dùng hình thức "đoái công 
						chuộc tội", nhưng khi phạm tội với triều đình hay trong 
						quân ngũ chẳng hạn. Hình thức lấy công chuộc tội cũng có 
						chỗ hay, nhưng chưa hoàn hảo và còn thô thiển. Nó chỉ áp 
						dụng để đối phó với bên ngoài, chứ bên trong trường hợp 
						những tội lỗi xảy ra trong nội tâm của chúng ta, những 
						tội lỗi rất vi tế, rất sâu xa, thì khó có thể mà áp dụng 
						được hình thức nói trên.  
						 
						Trong các ngoại đạo, người ta cũng có dùng nhiều hình 
						thức chuộc tội: như có đạo dùng máu thú vật để xin rửa 
						tội với thần linh; có đạo chủ trương xuống tắm ở những 
						sông, suối mà người ta cho là linh thiêng thì hết tội; 
						có đạo lại đem phẩm vật để xin Thánh Thần xả tội; có đạo 
						lại chủ trương khổ hạnh, ép xác như đánh đập thân mình, 
						nhịn đói khát, chịu nóng rét, nằm gai nếm mật để được 
						giải thoát tội lỗi. Những cách chuộc tội như thế đều sai 
						lầm hết. Tội lỗi thuộc về tâm lý, không có hình tướng. 
						Vậy thì làm sao có thể lấy vật chất như nước, máu huyết, 
						phẩm vật hay xác thân để làm sạch tội được.  
						 
						2.- Sám hối chân chính.  
						 
						Ðức Phật dạy rằng tội lỗi do tâm của người tạo ra, không 
						ai có quyền thưởng phạt được. Kẻ gieo giống xấu thì ăn 
						trái dở, người trồng giống quý thì hưởng quả ngon. Tội 
						lỗi đã từ tâm tạo, thì cũng phải từ tâm mà sám. Lời nói 
						thật rõ ràng, chí lý, hợp với thực nghiệm. Vậy chúng ta 
						muốn hết tội, phải y theo những pháp Sám hối chân chánh 
						của Ðạo phật mà thật hành. Trong Ðạo Phật, có 4 pháp sám 
						hối sau đây, có pháp thuộc về sự, có pháp thuộc về lý:
						 
						 
						a) Tác pháp sám hối: Pháp sám hối này thuộc về sự, phải 
						lập giới đàn và thỉnh thanh tịnh Tăng chứng minh, nên 
						gọi là tác pháp. Khi vào giới tràng, mình phải thành 
						thật tỏ bày tội lỗi một cách thành khẩn, chí tâm ăn năn 
						và nguyện về sau không tái phạm nữa. Một lòng thành kính 
						sám hối như vậy, khi giới thể được thanh tịnh, tức là 
						hết tội.  
						 
						b) Thủ tướng sám hối: Pháp nầy thuộc về sự, và khó hơn 
						pháp trước. Phật chế pháp này, là sám hối thuộc quán 
						tưởng, cho những người tu hành có trình độ cao, hoặc ở 
						chỗ không có Tăng, hay có, nhưng không được thanh tịnh. 
						Muốn tu pháp này, hành giả phải đến trước Tượng Phật hay 
						Bồ tát, thành tâm lễ bái, trình bày những tội lỗi đã 
						phạm, và nguyện ăn năn chừa bỏ. Làm như thế từ 1 ngày, 3 
						ngày, 7 ngày, 49 ngày, và mãi mãi đến khi nào thấy được 
						hảo tướng: như thấy hào quang, hoa sen báu, thấy Phật, 
						Bồ tát đến xoa đầu v.v... thì mới thôi.  
						 
						c) Hồng danh sám hối: Pháp sám hối này cũng thuộc về sự, 
						do Ngài Bất Ðộng Pháp Sư đời nhà Tống bên Trung hoa soạn 
						ra. Ngài rút 53 danh hiệu Phật trong Kinh "Ngũ Thập Tam 
						Phật" tức là từ Ðức Phật Phổ Quang cho đến Ðức Phật Nhứt 
						Thế Pháp Tràng Mãn Vương, và rút 35 hiệu Phật trong Kinh 
						"Quán Dược Vương, Dược Thượng", với Pháp thân Ðức Phật 
						A-Di-Ðà, sau thêm vào kệ Phổ Hiền Ðại Nguyện, thành nghi 
						thức sám hối này, tổng cộng là 108 lạy, để ám chỉ trừ 
						108 phiền não. Nghi thức sám hối này, nếu ai chí thành 
						kính lễ, thì sẽ diệt trừ được những phiền não và tội lỗi 
						đã tạo, trong đời hiện tại cũng như nhiều đời quá khứ. 
						Ðức Phật Tỳ-Bà-Thi nói: "Nếu chúng 
						sanh nào nghe danh hiệu 53 vị Phật này, thì trăm ngàn ức 
						kiếp không đọa vào ba đường ác". Ðức Phật Thích 
						Ca nói: "Thuở xưa, đời Phật Diệu Quang, ta đi tu nhằm 
						đời mạt pháp, nhờ được nghe danh hiệu 53 vị Phật này, và 
						thành tâm lễ bái, mà tránh khỏi những đau khổ trong 
						đường sanh tử luân hồi nhiều kiếp". Còn 35 danh hiệu 
						Phật sau, từ Ðức Phật Thích Ca cho đến Ðức Phật 
						Bửu-Liên-Hoa Thiện-Trụ-Ta-La-Thọ Vương, thì trong Kinh 
						Bưủ-Tích nói: "Nếu tất cả chúng sanh, hoặc phạm tội ngũ 
						nghịch hay thập ác, đến muôn kiếp không thể sám hối, chỉ 
						xưng danh hiệu 35 vị Phật này và lễ bái, thì bao nhiêu 
						tội chướng đều tiêu trừ".  
						 
						Hồng danh của Chư Phật có công đức không thể nghĩ bàn 
						như vậy, nên Ngài Bất Ðộng Pháp sư mới soạn ra để làm 
						nghi thức sám hối. Pháp hồng danh sám hối hiện nay, hầu 
						hết các chùa đều thực hành theo. Về sau Ngài Từ Vân Pháp 
						sư vì những người yếu đuối hoặc không quen lạy nhiều, 
						nên đã soạn ra một nghi thức sám hối, rất gọn dễ và đầy 
						đủ ý nghĩa, cũng gọi là pháp tiểu sám hối, để cho Phật 
						tử hằng ngày có thể sám hối tội lỗi của mình.  
						 
						d) Vô-sanh sám hối: Pháp này thuộc về lý sám hối, rất 
						cao và khó, bực thượng căn mới có thể thực hành được
						 
						 
						- QUÁN TÂM VÔ SANH: Nghĩa là quan sát tự tâm mình 
						hiện tiền không sanh. Như trong Kinh Kim-Cang nói: "Tâm 
						quá khứ không thể được, tâm hiện tại chẳng có, tâm vị 
						lai cũng không". Quán trong ba thời gian đều không có 
						tâm, thì vọng niệm không từ đâu mà có, nếu vọng niệm 
						không có, thì các tội lỗi cũng không. Kinh nói: "Tội từ 
						nơi tâm sanh mà cũng từ nơi tâm diệt. Nếu tâm này không 
						sanh, thì tội cũng chẳng còn, thế mới thật là sám hối".
						 
						 
						- QUÁN PHÁP VÔ SANH: Nghĩa là quan sát thật tướng 
						(chơn tánh) của các pháp không sanh. Chữ "thật tướng", 
						nghĩa là cái tướng ấy không sanh không diệt, không hư 
						dối; từ xưa đến nay nó vẫn thường như thế, không bị thời 
						gian thay đổi, hay không gian chuyển dời, suốt xưa thấu 
						nay, nên gọi là thật tướng (Tướng chân thật). Nó cũng có 
						tên là chơn như hay chơn tâm... Khi nhận được thật tướng 
						rồi, thì các giả tướng đều không còn. Lúc bấy giờ những 
						tội lỗi (giả tướng) kia, không còn gá nương vào đâu mà 
						tồn tại. trong Kinh Quán Phổ Hiền có chép: "Muốn sám 
						hối, phải quán thật tướng của các pháp, thì tội mới hoàn 
						toàn tiêu diệt.  
						 
						III .- Phát Triển Hạnh Lành mới Ðể Tiêu Trừ Tội Lỗi 
						Cũ  
						 
						Làm lễ sám hối xong , phải phát triển những hạnh lành 
						cho nhiều, để tiêu trừ những tội lỗi cũ.  
						 
						1.- Luận về tội lỗi thời gian đã qua. Những tội 
						lỗi xưa của chúng ta rất nhiều, có thể nói là vô số. Sự 
						sống của chúng ta tiếp nối liên lạc với nhau từ đời nọ 
						đến đời kia, như một xâu chuỗi dài vô tận. Rồi cứ trong 
						mỗi đời, từ sanh đến tử, từ tử đến sanh, chúng ta cứ tạo 
						thêm tội mãi. Từ cái tệ này bắt qua cái dở khác, rồi từ 
						cái lỗi nhỏ đi đến cái tội lớn, cái đà ấy cứ tăng tiến 
						mãi tạo thành một sức mạnh gọi là nghiệp lực, dắt dẫn 
						chúng ta vào đường khổ não, mê lầm, tức là dòng sanh tử 
						mà chúng ta đang thọ vậy. Trong Kinh Hoa Nghiêm Ðức Phổ 
						Hiền Bồ tát có nói: "Nếu tội lỗi 
						chúng sanh có hình tướng, thì tất cả hư không cũng không 
						chứa hết". Thật thế, tội lỗi của chúng sanh chất 
						chồng từ muôn vạn kiếp, và truyền nối qua thời gian, bỡi 
						di truyền, phong tục, thói quen v.v ... Chẳng hạn như 
						tánh tham, chúng ta mới sanh, nào có ai dạy cho chúng ta 
						đâu, thế mà chúng ta vẫn biết! Cũng không ai bảo chúng 
						ta giận hờn, vậy mà gặp điều gì trái ý, là chúng ta cau 
						có, ù la lối liền. Những tánh xấu ấy có một lần với thân 
						và rất sâu sắc, khó dứt trừ. Trong Kinh gọi chúng nó là 
						"câu sanh phiền não", hay "bổn hữu chủng tử", nghĩa là 
						những hạt giống có từ lâu. Những hạt giống xấu này lại 
						còn làm duyên sanh ra các tội lỗi khác, mà trong Kinh 
						luận gọi là "phân biệt phiền não" hay "thỉ khởi chủng 
						tử", nghĩa là hạt giống mới nhiễm do ảnh hưởng thời đại, 
						tập quán, phong tục chi phối. "Phân biệt phiền não thì 
						có thể dễ trừ, nhưng "câu sanh phiền não" rất khó trừ. 
						Chúng như cỏ cú, đâm sâu gốc rễ rất xa; nếu người làm 
						vườn khinh thường nó thì không dễ gì dọn đất sạch cỏ.
						 
						 
						Cho nên chúng ta không nên sám hối lấy lệ, lấy có được! 
						Chúng ta phải làm sao cho:  
						 
						a) Những tánh xấu kia yếu bớt dần dần, do sức mạnh 
						của lòng thành khẩn và chí cương quyết;  
						b) Rồi dứt tuyệt các tính xấu không cho chúng tái sanh.
						 
						 
						Muốn dứt tuyệt chúng, mà nếu không có phương pháp thích 
						hợp, thì chẳng khác gì lấy đá đè cỏ: nó nằm bẹp tạm 
						thời, nhưng khi dời đá đi, nó sẽ mọc lên mạnh mẽ hơn 
						trước. Phương pháp thích hợp trong sự sám hối là: Phát 
						triển hạnh lành, để tiêu trừ tội lỗi cũ.  
						 
						2.- Phát triển hạnh lành. Trong lòng mỗi chúng ta 
						không phải toàn chứa đựng những tánh xấu xa. Nếu tánh 
						xấu đã có từ muôn đời, thì tánh tốt cũng đã có từ vô 
						thỉ. Chúng ta mỗi người đều có Phật tánh là cái mầm của 
						muôn hạnh lành, cái mầm ấy đã bị chôn vùi dưới bao lớp 
						dục vọng, si mê. Bây giờ muốn tiêu trừ dục vọng thì 
						chúng ta phải tạo điều kiện, cho cái mầm Phật tánh trổ 
						lá, lên hoa, kết trái Bồ đề. Ðiều kiện làm cho mầm Bồ đề 
						phát triển là những hạnh lành như: Từ bi, Hỷ xả, Bố thí, 
						Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn v.v... Nếu chúng ta phát 
						triển những tính tốt ấy, tất nhiên những tánh xấu không 
						có đất để mọc lên nữa.  
						 
						C.- Kết Luận:  
						 
						Như chúng ta đã thấy ở các đoạn trên, người thế gian hay 
						các tôn giáo đều có những cách thức ăn năn ngừa lỗi cả. 
						Song, chỉ có pháp sám hối của Ðạo Phật mới dứt trừ được 
						tội lỗi, do chỗ lấy sự cải ác, tùng thiện làm cốt yếu. 
						Trong bốn pháp sám hối của Ðạo Phật, có pháp về sự, có 
						pháp về lý, có pháp cao, có pháp thấp. Vậy phải tùy theo 
						căn cơ và hoàn cảnh của mỗi người mà áp dụng. Người 
						thượng căn, thì quán pháp vô sanh sám hối. Người không 
						gặp cảnh thuận tiện, không có giới đàn, không gặp cao 
						Tăng, thì dùng pháp thủ tướng sám hối. Người được cảnh 
						thuận tiện có giới đàn thanh tịnh, có cao Tăng Ðại đức 
						thì dùng pháp tác pháp sám hối. Còn thấy mình tội chướng 
						nặng nề, và thấy các pháp trên khó thực hành được, thì 
						cứ mỗi đêm, hay trong những bữa ăn chay và ngày sóc 
						vọng, tuỳ tiện đến chùa hay ở nhà chí tâm lạy Hồng Danh 
						sám hối, hoặc tiểu sám hối cũng tốt.  
						 
						Trong các pháp sám hối của Ðạo Phật, mặc dù có lạy, có 
						quỳ, có lễ bái, nhưng không phải để cầu cạnh van xin 
						được tha tội đâu. Trong cái lạy, cái quỳ ấy, có chứa 
						không biết bao nhiêu ý nghĩa và ích lợi. Vẫn biết lạy và 
						quỳ, nhứt là trong pháp Hồng danh sám hối, thật là hao 
						hơi mệt xác, nhưng trong cái mệt xác thân, có cái vui 
						tinh thần, trong cái sự tướng bên ngoài có hàm cái ý 
						nghĩa bên trong. Thật vậy, tuy có lạy nhiều, niệm lâu, 
						nhưng vẫn không ra ngoài những mục đích sau:  
						 
						1.- Tìm cách thiết thực làm cho tâm tánh con người 
						được trong sạch, hết sự lỗi lầm ở trong đời hiện tại, mà 
						cũng tiêu trừ những tội ác trong những đời quá khứ.
						 
						 
						2.- Tìm cách phát triển những hạnh cao cả, noi theo 
						những gương mẫu sáng suốt của các bậc Thánh hiền. 
						 
						 
						Tóm lại, các pháp sám hối của Ðạo Phật, nếu thực hành 
						một cách đứng đắn, sẽ đem lại những kết quả quí báu sau 
						đây:  
						 
						- Làm phát triển lòng thành thật.  
						 
						- Trau dồi đức tánh cương quyết trong sự diệt trừ tánh 
						xấu.  
						 
						- Dứt được tội, sanh phước.  
						 
						- Mau thắng đến chỗ giải thoát an vui.  
						 
						Nhờ pháp sám hối của Ðạo Phật, con người có thể cải hóa 
						lòng mình tốt đẹp hơn. Nhờ pháp sám hối, con người có 
						thể làm cho đời sống cá nhân được hạnh phúc, và đời sống 
						xã hội được hòa bình, an lạc.  
						 
						Vậy ai là người muốn hết tội lỗi; ai là người muốn giải 
						thoát sanh tử luân hồi; ai là người yêu chuộng chân lý, 
						hãy cùng nhau nghiên cứu và thực hành các pháp sám hối 
						của Ðạo Phật cho kỹ lưỡng, để trước là cải thiện đời 
						sống cá nhân, sau là đời sống của giống hữu tình được 
						bớt đau khổ, và thêm an vui.  
						
						
						▲ Trở Lên 
						 | 
					 
					
						
						
						
						
						Bài Thứ 7  
						Thờ Phật, Lạy Phật, Cúng Phật
						
						A. Mở Ðề
						 
						 
						Xưa nay, những bậc có công ơn lớn đối với Quốc gia, xã 
						hội đều được tôn sùng, nhưỡng mộ. Sự tôn sùng ngưỡng mộ 
						này do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính là 
						lòng tri ân và sự mong muốn được noi theo gương sáng. 
						Tục ngữ có câu: "Ăn trái phải nhớ kẻ trồng cây, uống 
						nước phải nhớ người đào giếng". Lòng tri ân là một đức 
						tính quí báu, mà những người có chút công bằng không thể 
						thiếu được. Một xã hội gồm những phần tử phi ân bội 
						nghĩa, ăn cháo đá bát, không có thể tồn tại được lâu 
						dài, vì nó làm chán nản những kẻ có lòng, và làm khô cạn 
						nguồn hy sinh. Vả lại, nếu con người thấy điều tốt, 
						người hiền mà chẳng hâm mộ, thấy điều xấu, người ác mà 
						không tránh xa, thì con người ấy là người thiếu căn bản 
						đạo đức, thiếu mầm thiện, khó có thể tiến bộ. Vì những 
						lý do trên, ta thấy trên thế giới, bất luận ở phương 
						trời nào, dân tộc nào, thời đại nào, hễ kẻ có công với 
						làng xóm, thì được làng xóm tôn thờ, kẻ có công với quốc 
						gia, dân tộc, thì được quốc gia, dân tộc tôn thờ, kẻ có 
						công đức với nhân loại, thì được nhân loại sùng thượng.
						 
						 
						Sự thờ cúng trong các tôn giáo cũng không ra ngoài những 
						lý do đã kể trên. Nhưng ở các tôn giáo, sự thờ cúng có 
						tính cách thường trực và thiết tha hơn, vì các vị Giáo 
						chủ là những bậc có công ơn lớn đối với nhân loại và là 
						những gương sáng mà tín đồ cần đặt luôn luôn ở trước mắt 
						để soi sáng đời mình. Trong các vị Giáo chủ, thì Ðức 
						Phật là Vị được nhiều tín đồ sùng mộ nhất. Sự sùng mộ ở 
						đây biểu hiện trong sự thờ, lạy và cúng Phật.  
						 
						B. Chánh Ðề  
						 
						I.- Thờ Phật  
						 
						1) Phật là bậc đáng tôn thờ. Phật là những bậc đã 
						dày công tu luyện phước đức và trí tuệ, cho nên đã được 
						hoàn toàn sáng suốt và có đầy đủ đức hạnh cao quý. Các 
						Ngài đã dùng đức và trí ấy để dẫn dắt chúng sanh ra 
						ngoài biển khổ luân hồi, và đưa đến địa vị sáng suốt an 
						vui. Trong công việc độ sanh ấy, các Ngài lại không bao 
						giờ thối chuyển ngã lòng mặc dù gặp trở lực khó khăn. 
						Các Ngái đã nguyện độ cho toàn thể chúng sanh, cho đến 
						khi nào không còn một chúng sanh nào để độ nữa mới thôi. 
						thật là đúng với câu: "Tự giác, giác tha, giác hạnh viên 
						mãn". Một bậc có đủ ba đức tính quý báu là Bi, Trí, 
						Dũng, ba đức tính căn bản mà một con người muốn được 
						toàn thiện, toàn mỹ, toàn chân, không thể thiếu được. 
						Một bậc siêu phàm xuất chúng, có những lời dạy quý báu, 
						những cử chỉ cao thượng, những hành động sáng suốt, một 
						đời sống gương mẫu như Phật, mà chúng ta không tôn thờ, 
						thì còn tôn thờ ai nữa?  
						 
						2) Nhưng chúng ta phải thờ Phật như thế nào mới đúng 
						ý nghĩa. Như trên đã nói, chúng ta thờ Phật là để tỏ 
						lòng tri ân của chúng ta đối với một Vị đã có ân đức lớn 
						với nhân loại. Chúng ta thờ Phật là để có luôn luôn ở 
						trước mặt một gương mẫu sáng suốt trọn lành để khuôn rập 
						tư tưởng, lời nói và hành động của chúng ta được chân, 
						thiện, mỹ như Phật vậy. Người ta thường nói: "Gần mực 
						thì đen, gần đèn thì sáng". Chúng ta thờ Phật là muốn 
						luôn luôn được có bên mình ngọn đèn trí tuệ của Ngài, 
						cái hương từ bi của Ngài, để được sáng lây, thơm lây, 
						chứ không phải chúng ta có mục đích cầu cạnh Ngài để 
						Ngài ban phước, trừ họa, để Ngài che chở cho chúng ta 
						mua may bán đắt một cách bất lương, hay để chúng ta dựa 
						vào thế lực của Ngài, tha hồ làm những điều bất chính. 
						Nếu chúng ta thờ Ngài với mục đích sai lạc như vừa nói ở 
						trên, thì không những chúng ta đã phỉ bán Ðức Phật, mà 
						chúng ta còn tự tạo tư tưởng không tốt cho chúng ta nữa.
						 
						 
						3) Phải thờ Ðức Phật nào? Ðức Phật nào cũng có 
						nghĩa vô lượng quang, vô lượng thọ bao la cùng khắp và 
						công đức tu hành phước trí vô lượng vô biên cả; nên hễ 
						thờ một Ðức Phật là thờ tất cả các Ðức Phật. Nhưng chúng 
						ta cũng nên tuỳ theo thời kỳ giáo hóa của mỗi Ðức Phật 
						và pháp môn tu hành mà thờ cho xứng lý, hợp cơ. Thí dụ 
						như hiện nay, chúng ta ở vào thời kỳ giáo hóa của Ðức 
						Phật Thích Ca Mâu Ni, thì lẽ cố nhiên, chúng ta phải thờ 
						Ngài trước hết. Nếu tín đồ nào tu về "Tịnh Ðộ Tông", 
						chuyên về pháp môn "Trì danh niệm Phật" để cầu vãng 
						sanh, thì tín đồ ấy phải thờ Ðức Phật A-Di-Ðà. Hoặc giả, 
						nếu Phật tử muốn thờ tất cả Phật trong ba đời, thì nên 
						thờ Ðức Phật Thích Ca, Ðức A-Di-Ðà, và Ðức Di-Lặc, gọi 
						là thờ "Tam Thế Phật".  
						 
						4) Cách thức thờ Phật. Như vậy trong nhà tín đồ, 
						nếu muốn thờ tượng Phật, thì nhiều nhất là ba Vị. Và nên 
						nhớ rằng, trong khi thờ Tam Thế Phật, phải sắp đặc chung 
						một bàn. Nếu tượng lồng kiếng thì nên treo ngay thẳng, 
						không được cái cao, cái thấp, cũng không được cái to, 
						cái bé; còn như tượng gỗ, tượng đồng tượng sành, thì để 
						ngang hàng đồng bực, không nên để tùng trên, cấp dưới. 
						Bàn thờ Phật phải đặt chính giữa nhà, bàn thờ ông bà ở 
						phía dưới hoặc sau đúng câu: "Tiền Phật hậu Linh, hay 
						Thượng Phật hạ Linh". Nếu nhà lầu thì thờ Phật ở tầng 
						trên. Tại bàn thờ Phật không nên để tạp vật nào khác, 
						ngoài bình bông, lư hương,, chân đèn và dĩa quả. Những 
						vật này mỗi ngày đều chăm sóc lau quét sạch sẽ luôn. Lần 
						đầu tiên thỉnh Tượng Phật, tín đồ phải làm lễ thượng 
						tượng, cũng gọi là lễ an vị Phật. Lễ này không bắt buộc 
						phải tổ chức linh đình, chỉ nên làm một cách đơn giản, 
						nhưng không kém vẻ trang nghiêm và tinh khiết. Muốn được 
						hai đặc diểm ấy, chủ nhà phải dọn mình sạch sẽ: ăn chay, 
						giữ giới và mời thêm thiện hữu trí thức đến hộ niệm một 
						thời kinh. Và bắt đầu từ ngày làm lễ an vị Phật trở đi, 
						tất cả mọi người trong nhà, mỗi ngày ra vô trông thấy 
						tượng Phật, nên nghĩ nhớ đến đức hạnh cao cả của Ngài mà 
						chỉnh đốn lại thân tâm mình. Mỗi ngày đều lo cải thiện 
						lại sự cư xử với nhau, đối nội cũng như đối ngoại, phải 
						luôn luôn thấm nhuần tinh thần từ bi, bác ái và bình 
						đẳng. Như thế mới xứng đáng với danh nghĩa của một gia 
						đình có thờ Phật. Thờ phụng lâu năm, tượng Phật bi hư 
						rách, không thể sơn phết hay sửa chữa lại được, thì nên 
						thay đổi tượng mới. Khi có tượng mới rồi thì tượng cũ 
						phải dâng vào chùa chờ dịp nhập tháp, chớ không nên bạ 
						đâu bỏ đó, mà mang tội.  
						 
						II.- Lạy Phật
						 
						 
						1) Ý nghĩa lạy Phật.- Ngày xưa, khi Ðức Phật còn 
						tại thế, các đệ tử từ vua quan , đến dân chúng, mỗi lần 
						được may mắn gặp Ðức Phật Thích Ca, đều cuối xuống ôm 
						chân Phật và đặt trán mình lên chân Ngài để tỏ lòng 
						ngưỡng mộ, tôn thờ một bậc tối thượng: Bi, trí siêu 
						phàm. Cử chỉ ấy là một cử chỉ vô cùng khiêm tốn, nhu 
						thuận và hoàn toàn tin cậy đối với Ðức Phật. Sau khi 
						Phật nhập diệt, toàn thể tín đồ vẫn xem Ngài như còn tại 
						thế, và cái cử chỉ cuối xuống ôm chân Phật vẫn còn tiếp 
						nối tồn tại cho đến ngày nay và muôn ngàn năm sau. Cái 
						cử chỉ ấy chỉ có cái công dụng làm cho tínn đồ bao giờ 
						cũng hình dung như Ðức Phật còn ngồi trước mặt mình để 
						chứng giám cho tấm lòng thành kính thiết tha của mình.
						 
						 
						2) Phải lạy Phật như thế nào mới đúng ý nghĩa.- 
						Ðể cho đúng với ý nghĩa trên, khi lạy Phật phải quỳ 
						xuống, ngửa hai bàn tay ra như đang nâng hai chân Phật 
						và cuối lưng xuống đặt trán mình trên hai lòng bàn tay. 
						Trước khi lạy Phật, phải dọn mình cho sạch sẽ: rửa mặt, 
						súc miệng, lau tay chân, thay y phục và mặc áo tràng. 
						Xong xuôi, mới đốt hương ra trước bàn Phật, đứng ngay 
						thẳng, tay chắp để trước ngực, mắt nhìn tượng Phật, tâm 
						tưởng đến các tướng tốt và những đức hạnh cao cả của 
						Ngài, và tỏ bày nguyện vọng chân chánh của mình, xá rồi 
						cắm hương vào lư, đánh tiêng chuông và lạy Phật ba lạy. 
						Lễ Phật như thế mới đúng pháp; trong kinh gọi là "thân 
						tâm cung kính lễ" , nghĩa là thân tâm hăng hái tề chỉnh, 
						nghiêm trang, tâm thì hớn hở vui mừng và hết lòng thành 
						kính như gặp được Phật còn tại thế. Trái lại, chúng ta 
						lễ Phật với lòng ngã mạng (ngã mạng lễ), hay với tâm cầu 
						danh (cầu danh lễ), thì đã không có kết quả gì, mà còn 
						mang thêm tội.  
						 
						Ngã mạng lễ, là khi lạy Phật mà trong tâm còn ngạo nghễ, 
						kiêu căng, năm vóc (đầu, hai tay, hai chân) không sát 
						đất, đứng lên cuối xuống một cách cẩu thả, qua loa cho 
						có chuyện. Cầu danh lễ, là khi thấy có đông người thì 
						miệng liền to tiếng dài hơi xưng danh hiệu Phật, thân 
						lại siêng năng lạy không ngừng nghỉ, cố ý để cho mọi 
						người khen ngợi. Trái lại khi không có người thì thân 
						lại biếng nhác, tâm lại giải đãi, không muốn lễ bái gì 
						cả. Hai cách lễ ái trên đây rất giả dối, vậy những ai 
						muốn tiến trên đường Ðạo, thì phải nên tránh ngay.  
						 
						3) Bốn phép lạy (thuộc về lý).- Về phương diện lý 
						thì có bốn phép lễ.  
						 
						a) Phát trí thanh tịnh lễ.- Trong phép này, người 
						hành lễ phải thấu suốt rằng cảnh giới của Chư Phật đều 
						tùy tâm hiện bày, nên lạy một Ðức Phật, tức là lạy tất 
						cả Chư Phật, lạy một lạy, tức là lạy tất cả Pháp giới, 
						vì Pháp thân của Phật dung thông.  
						b) Biến nhập pháp giới lễ.- Trong pháp này, người 
						hành lễ phải tự quán thân, tâm cùng tất cả các pháp, từ 
						hồi nào đến giờ đều không rời pháp giới.  
						 
						c) Chánh quán lễ.- Trong pháp này, người hành lễ 
						lạy Ðức Phật ngay nơi tự tâm của mình, chứ không duyên 
						với Ðức Phật nào khác, vì tất cả chúng sanh từ xưa đến 
						nay, đều sẵn có Phật tánh viên mãn, bình đẳng và chân 
						giác.  
						 
						d) Thật tướng bình đẳng lễ.- Trong pháp lễ này, 
						người hành lễ không thấy có tự, có tha; người và mình là 
						một, phàm và Thánh nhứt như, thế và dụng không hai. Do 
						đó, Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát có nói: "Năng lễ, sở lễ 
						tánh không tịch", nghĩa là người  
						lạy, và đấng mình lạy, thể tánh đều vẳng lặng. Như thế 
						mới thấu đáo và hợp lý Bát Nhã.  
						 
						Bốn phép lễ này, lý cao khó nghĩ bàn, nếu chẳng phải bực 
						thượng căn, thượng trí, thì không thấu nổi và khó làm 
						theo được.  
						 
						III.- Cúng Phật : 
						Là nói tắt, nói cho đủ nghĩa là cúng dường Tam Bảo: 
						Phật, Pháp, Tăng. Cúng dường có nghjĩa là cung cầp và 
						nuôi dưỡng.  
						 
						1.- Ý nghĩa về cúng Phật.- Có người sẽ hỏi: Tại 
						sao Ðức Phật đã là bất sanh, bất diệt mà lại còn phải 
						cúng dường? Thật ra, Ðức Phật đã thoát ra ngoài vòng 
						sanh tử, thì đâu còn hạn cuộc trong sự ăn uống. Nhưng 
						đây chỉ là một hình thức để ngụ ý rằng, mặc dầu Phật đã 
						nhập diệt lâu rồi, nhưng đối với chúng ta, bao giờ cũng 
						xem như Ngài còn tại thế. Xưa, các đệ tử, các đàn na thí 
						chủ đã cúng dường Ngài như thế nào, nay chúng ta vẫn 
						tiếp tục cái cử chỉ ấy. Sự cúng dường này làm cho chúng 
						ta gần với Phật, có cảm tưởng như bao giờ cũng ở bên 
						cạnh Phật. Cũng nhơn sự thờ phụng, lễ bái cúng dường này 
						mà chúng ta được kết duyên lành với Phật, hình dung rõ 
						rệt cuộc đời của Ngài để quyết noi theo bước chân của 
						Ngài.  
						 
						2.- Phải cúng Phật với những gì? (Về sự) .- Vẫn 
						biết rằng chúng ta nên cúng dường Phật để hình dung như 
						Ngài còn tại thế, nhưng nếu chúng ta, mỗi khi cúng Phật, 
						lại bày biện đủ thức ăn uống, nào yến tiệc cỗ bàn linh 
						đình thì thật là phí của, phí công mà lại còn làm sai 
						lạc ý nghĩa sâu xa của sự cúng Phật. Vậy muốn cúng Phật 
						đúng ý nghĩa thì chỉ nên dùng hương thơm, đèn sáng, hoa 
						tươi, trái tốt, nước trong và đôi khi thêm cơm trắng là 
						đủ.  
						 
						3.- Năm món diệu hương để cúng Phật. Ðoạn trên là 
						nói về Sự, về hình tướng bên ngoài để cúng Phật. Còn về 
						phương diện Lý, thì phải dùng năm món diệu hương để cúng 
						Phật như sau:  
						 
						a) Giới hương.- Pháp thân của Phật rất thanh 
						tịnh, nếu về mặt Sự, chúng ta đã dùng hương trầm đốt 
						cúng, thì về mặt Lý, chúng ta cũng phải trì giới cho 
						trang nghiêm thanh tịnh, để cúng dường được đủ cả về Sự 
						và Lý.  
						 
						b) Ðịnh hương.- Thân tâm chúng ta bị mê nhiễm và 
						thường loạn động trong mọi hoàn cảnh. Nếu để buông trôi 
						mãi trong tình trạng ấy, thì chúng ta chẳng tu hành gì 
						được. Vậy hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, hằng giây, 
						hằng sát na chúng ta phải cố gắng tập định tĩnh tâm hồn, 
						đừng để cho những ý nghĩ, hành động xấu xa xâm chiếm tâm 
						hồn và làm cho chúng ta phải loạn động. Làm cho tâm tư 
						lắng xuống, như thế là dùng Ðịnh hương cúng Phật.  
						 
						c) Huệ hương.- Huệ hương cúng Phật là lúc nào 
						cũng phải lưu tâm vào ba món sáng tỏ: Văn huệ, Tư huệ, 
						và Tu huệ. Văn huệ là lắng nghe lời giáo hóa quý báu của 
						Chư Phật và Thánh Hiền Tăng, Tư huệ là đem những lời quý 
						báu nói trên ra suy xét, nghiền ngẫm, biết thế nào là 
						phải, thế nào là quấy, cái nào là chân thật, cái nào là 
						luống dối để khỏi lầm lạc vào đường tà; Tu huệ là quyết 
						tâm thực hành những điều mình cho là phải, trừ bỏ những 
						điều mình cho là trái, thực hiên đúng đắng giáo lý sáng 
						suốt của Ðức Phật.  
						 
						d) Giải thoát hương.- Giải thoát hương cúng Phật 
						là quyết tâm phá trừ ngã chấp, nguồn gốc của bao sự đau 
						khổ luân hồi. Chúng ta phải luôn luôn quán vô ngã, không 
						nhận chiếc thân tứ đại này là mình, cũng không nhìn cái 
						nghiệp thức phân biệt là mình, để được thoát ly ra ngoài 
						vòng sanh tử luân hồi.  
						 
						e) Giải thoát tri kiến hương.- Chúng ta đã biết 
						quán vô ngã, để phá trừ ngã chấp thì được giải thoát, 
						song vẫn còn "Pháp chấp" ràng buộc, nên chưa đến được 
						cảnh giới tự tại, vô ngại như Phật. Còn Pháp chấp nghĩa 
						là còn thấy các pháp như : đất, nước, gió, lửa là có 
						thật; còn thấy vui buồn sướng khổ là có thật. Khi nào 
						chúng ta thể nhận được rằng tứ đại sở dĩ in tuồng có 
						thật là vì chúng ta còn ở trong nghiệp người, chớ đối 
						với các loài khác, như cá chẳng hạn, thì nước đâu phải 
						là nước như chúng ta quan niệm, mà chính là lâu đài, nhà 
						cửa; đối với loài mọt, thì gỗ đâu phải như chúng ta quan 
						niệm, mà là những thức ăn và nhà ở. Cho đến vui, buồn, 
						sướng, khổ đều là đối đãi với nhau mà sanh ra. Vậy thì 
						Pháp cũng như Ngã, đều là giả dối, không có thật, mà chỉ 
						là những danh từ suông mà thôi. Luôn luôn, quán như thế, 
						để được giải thoát ra khỏi sự chấp Pháp, như thế gọi là 
						"Giải thoát tri kiến hương" cúng Phật.  
						 
						4.- Cúng dường Pháp bảo: Pháp bảo là các Pháp của 
						Phật đã giảng dạy, để cho chúng sanh y theo đó mà tu 
						hành. Muốn cúng dường Pháp bảo, trước hết chúng ta phải 
						học Kinh, Luật, Luận và nghiên cứu giáo lý để nhận định 
						thế nào là Pháp bảo, là chánh giáo. Nếu chúng ta có học 
						thức rộng thì phải nghĩ đến việc phiên dịch các Kinh 
						điển Ngoại ngữ ra Việt ngữ để hoàn thành một bộ Tam Tạng 
						Việt Nam, chúng ta có thể giúp vào việc hoằng pháp lợi 
						sanh bằng sự diễn giảng hay sáng tác những vấn đề có 
						liên quan đến Phật pháp. Nếu chúng ta có tài chánh thì 
						nên xuất tiền ra ấn tống hay xuất bản Kinh điển để phổ 
						thông Pháp bảo. Những việc làm như trên đều là cúng 
						đường Pháp bảo cả.  
						 
						5.- Cúng dường Tăng bảo: Nếu chúng ta đã thành 
						tâm thờ cúng Phật, thì tất nhiên chúng ta phải kính 
						trọng Tăng. Chư Tăng đã thay Phật mà truyền giáo lý của 
						Ngài lại cho chúng ta, lẽ nào chúng ta lại làm ngơ không 
						biết đến? Chúng ta không nên phân biệt Tăng ở xứ nào, 
						chùa nào hay phái nào. Vị Tăng nào có đủ giới đức chúng 
						ta cũng sẵn sàng cung phụng cả, như thế gọi là cúng 
						dường Tăng bảo.  
						 
						C.- Kết Luận:
						 
						 
						1.- Lợi ích của sự thờ lạy và cúng Phật. Như các 
						đoạn trên đã nói, chúng ta thờ lạy và cúng Phật là do 
						lòng tri ân sâu xa của chúng ta đối với bậc đã hy sinh 
						tất cả hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng sanh; Lý do thứ hai 
						của sự thờ lạy và cúng, ấy là để cho chúng ta luôn luôn 
						có trước mắt, trên đầu chúng ta, một cái gương mẫu hoàn 
						toàn chân, thiện, mỹ để noi theo. Sự thờ lạy và cúng 
						Phật, nếu thực hành một cách thành tâm, thiện chí và 
						đúng ý nghĩa, thì sẽ đem lại cho người rất nhiều lợi ích 
						trong hiện tại và vị lai:  
						 
						a) Trong hiện tại: mỗi chúng ta và gia đình chúng 
						ta, bao giờ cũng như sống trong bầu không khí xán lạn, 
						trong ảnh hưởng tốt lành, đạo vị của Chư Phật. Chúng ta 
						luôn luôn sống trong nghiêm chỉnh, trong lễ nghi, trên 
						thuẫn dưới hòa, vì mỗi ý nghĩ, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói 
						của chúng ta đều được đôi mắt sáng suốt của Ðức Phật soi 
						xuống. Chúng ta không dám sống bừa bãi, làm xằng, nghĩ 
						quấy khi Ðức Phật đang ngự trị trong gia đình và trong 
						lòng mỗi chúng ta. Chỉ những tâm hồn trống rổng, không 
						tin tưởng, không tôn thờ một vị thiêng liêng cao cả nào, 
						mới dễ sa ngã, trụy lạc. Cho nên trong gia đình, nếu 
						muốn có hạnh phúc trong hiện tại, muốn sống một đời sống 
						có ý nghĩa, muốn con em đừng bê tha, trụy lạc, thì người 
						gia chủ nên thiết bàn Phật, để ngày ngày lễ bái và cúng 
						dường Ngài và tập cho con em sống một đời sống hiền 
						lương và có đạo vị.  
						 
						b) Khi lâm chung: Nghiệp lành mà chúng ta đã huân 
						tập trong hằng ngày sẽ cảm ứng đến lòng từ bi vô hạn của 
						Chư Phật và Bồ tát. Do "Luật đồng thanh tương ứng, đồng 
						khí tương cầu", Chư Phật và Bồ tát sẽ phóng quang đến 
						tiếp dẫn giác linh chúng ta về cõi Tịnh độ an vui, tự 
						tại.  
						 
						2.- Khuyên phát tâm chánh tín trong sự thờ, lạy và 
						cúng Phật, Pháp, Tăng. Muốn có được kết qủa tốt đẹp 
						như trên, chúng ta phải phát tâm chánh tín. Nếu thờ, lạy 
						và cúng dường Tam bảo một cách sai lạc thì không những 
						không ích lợi gì cho ta mà lại còn mang thêm tội, và 
						trôi lăn mãi trong cảnh sanh tử luân hồi. Chúng ta phải 
						tin tưởng một cách mạnh mẽ rằng:  
						 
						a) Ðức Phật là bậc hoàn toàn gíac ngộ, siêu sanh, thoát 
						tử, có năng lực độ thoát chúng sanh khỏi nẻo luân hồi, 
						và xứng đáng làm thầy chúng sanh trong ba cõi. Vì thế 
						nên chúng ta thờ Ngài.  
						 
						b) Phật pháp là phương thuốc thần diệu, trừ được tất cả 
						nguyên nhân đau khổ của chúng sanh; vì thế cho nên chúng 
						ta thờ Phật pháp.  
						 
						c) Chư Tăng, nếu có đủ giới hạnh thanh tịnh, là những 
						Thầy sáng, bạn lành của chúng ta. Vì thế, chúng ta kính 
						thờ, thân cận các Ngài để học hỏi đường lối tu hành.
						 
						 
						d) Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh sáng suốt, nếu chí 
						tâm tu tập theo Phật pháp, thì chắc chắn sẽ thành Phật.
						 
						 
						e) Lý nhân quả không hề sai chạy, nếu tạo nhân lành thì 
						hưởng quả tốt. Trong các nhân lành, không có nhân lành 
						nào thù thắng hơn là nhân "Thờ Phật, lạy Phật, và cúng 
						dường Tam Bảo", đủ cả sự và lý. Vẫn biết thờ, lạy và 
						cúng phật đủ cả hai phương diện sự và lý là khó, nhưng 
						chung quanh chúng ta, ở trong thế giới này sẵn có vô 
						lượng vô biên kim cương Bồ tát và Hộ pháp thần vương, 
						đồng phát tâm giúp đỡ, hộ niệm cho tất cả những người 
						phát tâm chánh tín thờ cúng Phật, thì lo gì công của 
						chúng ta không tròn, qủa của chúng ta không mãn?  
						  
						
						
						▲ Trở Lên 
						 | 
					 
					
						| 
						
						 
						
						
						Bài Thứ 8  
						Tụng Kinh, Trì Chú, Niệm Phật 
						  
						
						 A.- 
						Mở đề 
						
						
						  
						Người Phật tử, nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, thì cũng 
						chưa có thể gọi là thuần thành. Người Phật tử thuần 
						thành còn phải tụng kinh, trì chú và niệm Phật. Vả lại 
						nếu bỏ qua ba phần sau này, thì ba phần trước là thờ, 
						lạy và cúng khó có thể viên dung cả Sự và Lý được. Vì 
						phần Lý là phần cao siêu khó thực hành, mà nếu chúng ta 
						không tụng kinh, niệm Phật để cho tâm hồn được sáng 
						suốt, tỏ ngộ các lý lẽ sâu xa huyền diệu trong kinh 
						đìển, thì chúng ta không làm thế nào để đạt được 4 phép 
						lạy thuộc về Lý là: Phát trí thanh tịnh lễ, biến nhập 
						pháp giới lễ, chánh quán lễ, thật tướng bình đẳng lễ và 
						5 món diệu hương để cúng Phật là: Giới hương, Ðịnh 
						hương, Huệ hương, Giải thoát hương, Giải thoát tri kiến 
						hương. Và nếu không thực hành được 4 phép lạy về Lý và 
						cúng dường được 5 món diệu hương, thì sự lạy và cúng chỉ 
						là phần "Sự" là phần hình thức, và vì thế, kẻ tín đồ khó 
						có thể tiến được trên đường Ðạo. Bỡi vậy, cùng một lần 
						với thờ, lạy và cúng Phật, chúng ta phải tụng kinh, trì 
						chú và niệm Phật. Ðó là những điểm căn bản tối thiểu mà 
						một Phật tử thuần thành không thể bỏ qua được.  
						 
						B.- Chánh Ðề 
						 
						 
						I.- Ðịnh Nghĩa
						 
						 
						1) Tụng kinh: 
						Tụng là đọc thành tiếng một cách có âm diệu và thành 
						kính. Tụng kinh là đọc một cách thành kính những lời Ðức 
						Phật đã dạy trong kinh điển, hợp với chân lý và căn cơ 
						của chúng sanh.  
						 
						2) Trì chú: Trì 
						là nắm giữ một cách chắc chắn. Chú là lời bí mật của Chư 
						Phật mà chỉ có Chư Phật mới hiểu được, chứ các hàng Bồ 
						tát cũng không hiểu thấu. Các bài chú đều có oai thần và 
						công đức không thể nghĩ bàn, dứt trừ được nghiệp chướng, 
						tiêu tai giải nạn và tăng trưởng phước huệ, nên cũng gọi 
						là thần chú.  
						 
						3) Niệm Phật: 
						Niệm là tưởng nhớ. Niêm Phật là tưởng nhớ danh hiệu 
						Phật, hình dung  
						Phật và đức hạnh của Phật, để luôn luôn cố gắng noi theo 
						bước chân Ngài.  
						 
						II.- Lý Do Phải Tụng 
						Kinh - Trì Chú - Niệm Phật  
						 
						1) Vì sao phải tụng 
						kinh? Chúng ta sống trong cõi dục, cho nên lòng 
						dục vọng của chúng ta không bao giờ ngừng nghỉ, cho đến 
						trong giấc ngủ, cũng còn chiêm bao cãi lẩy, cười khóc, 
						vui buồn như lúc thức. Trong cảnh mê mờ đầy dục vọng ấy, 
						may thay, Ðức Phật vì đã thương xót chúng sanh mà truyền 
						dạy những lời vàng ngọc, có thể phá tan màng mây u ám 
						của vô minh và tội lỗi. Nhưng những lời lẽ cao siêu ấy, 
						chúng ta nghe qua một lần , hai lần cũng không thể hiểu 
						thấu và nhớ hết được. Cho nên chúng ta cần phải đọc đi 
						đọc lại mãi, để cho lý nghĩa thâm huyền được tỏa ra, và 
						ghi khắc trong thâm tâm chúng ta, không bao giờ quên 
						được. Ðó là lý do khiến chúng ta phải tụng kinh.  
						 
						2) Vì sao phải trì chú? 
						Chú có công năng phi thường, nếu người thành tâm trì 
						chú, thì được nhiều hiệu lực không thể tưởng tượng. 
						Chẳng hạn thần chú "Bạc nhứt thế nghiệp chướng căn bổn 
						đắc sinh Tịnh độ Ðà la ni" có hiệu lực tiêu trừ được hết 
						gốc rễ nghiệp chướng, làm cho người được vãng sanh về 
						Tịnh độ. Thần chú "Tiêu tai kiết tường" có hiệu lực làm 
						cho tiêu trừ các hoạn nạn, tai chướng, được gặp những 
						điều lành. Thần chú "Lăng Nghiêm" thì phá trừ được những 
						ma chướng và nghiệp báo nặng nềv.v... Thần chú "Chuẩn 
						Ðề" trừ tà, diệt quỷ. Thần chú "Thất Phật diệt tội" có 
						công năng tiêu trừ tội chướng của chúng ta từ nhiều đời 
						nhiều kiếp v.v... Vì thế nên chúng ta phải trì chú.
						 
						 
						3) Vì sao phải niệm 
						Phật? Tâm chúng ta bị vô minh làm mờ đục, chẳng 
						khác gì nước bị bùn nhơ làm ngầu đục. Muốn cho nước đục 
						kia hóa ra trong, không có phương pháp nào hay hơn là 
						gia một chút phèn vào, thì các chất dơ bẩn ngầu đục kia 
						dần dần lắng xuống, bấy giờ nước đục trở nên trong sạch. 
						Phương pháp niệm Phật cũng vậy, có công năng trừ phá các 
						vọng niệm đen tối ở nơi tâm của chúng ta, làm cho tâm mê 
						muội, mờ ám trở nên sáng suốt, chẳng khác gì chất phèn 
						làm cho nước trở nên trong vậy.  
						 
						Vì sao niệm Phật lại làm cho tâm mê muội trở nên trong 
						sáng ? Vì lý do rất dễ hiểu sau đây:  
						 
						Tâm chúng ta rất điên đảo, không bao giờ dừng nghỉ. Kinh 
						thường nói: "Tâm viên, ý mã", nghĩa là "tâm" lăng xăng 
						như con vượn nhảy từ cành nầy qua cành khác, và "ý" như 
						con ngựa chạy lung tung luôn ngày suốt buổi. Làm sao cho 
						tâm ý chúng ta đừng nghĩ xằng bậy? Chỉ có một cách là 
						bắt nó nghĩ những điều tốt lành, hay đẹp. Niệm Phật 
						chính là nhớ nghĩ đến những Vị hoàn toàn tốt đẹp, những 
						hành động trong sáng, những đức tánh thuần lương. Càng 
						niệm Phật nhiều chừng nào, thì ít niệm ma chừng ấy. Ma ở 
						đây là tất cả những gì xấu xa đen tối, làm hại mình hại 
						người. Vì thế chúng ta nên luôn luôn niệm Phật.  
						 
						III.- Phải Thường Tụng 
						Những Bộ kinh Nào, Trì Chú Gì Và Niệm Danh Hiệu Phật Nào 
						?  
						 
						1.- Các kinh thường 
						tụng. Phàm là kinh Phật thì bộ nào tụng cũng được 
						cả, vì kinh nào cũng có công năng thù thắng là phá trừ 
						mê mờ, khai mở tâm trí sáng suốt cho chúng sanh, nếu 
						chúng ta chí thành đọc tụng. Nhưng vì căn cơ của chúng 
						ta không đến, nên chúng ta phải lựa những bộ kinh nào 
						thích hợp với căn cơ và sở nguyện của chúng ta mà đọc 
						tụng.  
						 
						Thông thường, các Phật tử Việt Nam, từ xuất gia cho đến 
						tại gia đều trì tụng những kinh như: Di-Ðà, Hồng Danh, 
						Vu-Lan, Phổ Môn, Dược Sư, Ðịa Tạng, Kim Cang, Lăng 
						Nghiêm, Pháp Hoa v.v...  
						 
						Nhiều người có quan niệm, chọn bộ kinh cho thích hợp với 
						mỗi hoàn cảnh, mỗi trường hợp để tụng, như lúc:  
						 
						- Cầu siêu thì tụng kinh Di-Ðà, Ðịa Tạng, Vu Lan v.v...; 
						- Cầu an thì tụng kinh Phổ Môn, Dược Sư v.v...; - Cầu 
						tiêu tai giải bịnh thì tụng kinh Kim-Cang, Lăng-Nghiêm 
						v.v...; - Cầu sám hối thì tụng kinh Hồng-Danh.  
						 
						Cái quan niệm lựa chọn như thế cũng có phần hay là làm 
						cho tâm chuyên nhất sẽ được hiệu nghiệm hơn. Nhưng chúng 
						ta không nên quên rằng về mặt giáo lý cũng như về mặt 
						công đức, bất luận một bộ kinh nào, nếu chí tâm trì 
						tụng, thì kết qủa cũng đều mỹ mãn như nhau cả.  
						 
						2.- Các chú thường trì.
						Ở chùa, chư Tăng hằng ngày, trong thời khóa trụng 
						khuya, trì chú Lăng Nghiêm, Ðại Bi, Thập chú hay Ngũ Bộ 
						chú v.v... còn ở nhà, phần nhiều cư sĩ trì chú Ðại Bi và 
						Thập chú, bỡi hai lẽ: một là thời giờ ít ỏi, vì còn phải 
						lo sinh sống cho gia đình; hai là chú Lăng Nghiêm đã 
						dài, lại thêm chữ âm vận, trắc trở khó đọc, khó thuộc. 
						Nhưng nếu cư sĩ nào có thể học hết các thần chú, trì 
						tụng được như chư Tăng thì càng tốt.  
						 
						3.- Các hiệu Phật thường 
						niệm. Ðúc Phật nào cũng đủ cả 10 hiệu, đồng một 
						tâm toàn giác, từ bi vô lượng, phước trí vô biên, thương 
						chúng sanh vô cùng vô tận, nên chỉ niệm danh hiệu một 
						Ðức Phật nào cũng đều được cảm ứng đến tất cả Chư Phật, 
						công đức cũng đều vô lượng vô biên.  
						 
						Nhưng đứng về phương diện trình độ và hoàn cảnh mà luận, 
						thì hiện nay, chúng ta là người ở thế giới Ta Bà, nhằm 
						quốc độ của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa, lẽ cố 
						nhiên chúnng ta phải niệm danh hiệu của Ngài. Dụ như dân 
						chúng ở trong nước nào, phải nhớ nghĩ đến ơn nhà cầm 
						quyền chính trị sáng suốt ở trong nước đó.  
						 
						Nếu Tín đồ nào tu theo pháp môn Tịnh Ðộ, thì thường ngày 
						phải niệm danh hiệu Ðức Phật A-Di-Ðà. Pháp môn này được 
						thành lập do lời dạy sau đây của Ðức Phật Thích Ca: 
						"Ở cõi thế giới Ta Bà này, đến thời kỳ mạc pháp, cách 
						Phật lâu xa, chỉ có pháp "Trì danh niệm Phật", cầu vãng 
						sanh về Tây phương cực lạc là quốc độ của Ðức Phật 
						A-Di-Ðà, thì dễ tu dễ chứng hơn hết". Ngoài ra, 
						cũng có người niệm danh hiệu Ðức Phật Di-Lặc, để cầu 
						sanh về cõi trời Ðâu Xuất; hoặc niệm danh hiệu Ðức Phật 
						Dược Sư, để cầu cho khỏi tật bịnh.  
						 
						Tóm lại, tín đồ phải niệm đủ Tam thế Phật:  
						 
						a) Niệm Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, là niệm Ðức Phật hiện 
						tại, cũng là Ðức Phật Giáo chủ của chúng ta.  
						 
						b) Niệm Ðức Phật A-Di-Ðà, là niệm Ðức Phật đã thành từ 
						quá khứ xa xưa, mà cũng là Ðức Phật tiếp dẫn chúng ta về 
						Cực Lạc.  
						 
						c) Niệm Ðức Phật Di-Lặc, là niệm Ðức Phật vị lai.  
						 
						IV.- Lợi Ích Của Sự Tụng 
						Kinh - Trì Chú - Niệm Phật  
						 
						1.- Lợi ích của sự tụng 
						kinh. Những lời giáo hóa trong ba tạng kinh điển 
						của Phật, đều toàn là những lời hiền lành, sáng suốt do 
						lòng từ bi và trí tuệ siêu phàm của Phật nói ra. Kinh 
						Phật, vì thế, có phần siêu việt hơn tất cả những lời lẽ 
						của thế gian. Nếu chúng ta chí tâm trì tụng, chắc chắn 
						sẽ được nhiều lợi ích cho mình, cho gia đình và những 
						người chung quanh:  
						 
						a) CHO MÌNH: Lúc 
						tụng niệm, hành giả đem hết tâm trí chí thành đặt vào 
						văn kinh để khỏi sơ xuất, nên sáu căn: Mắt, tai, mũi, 
						lưỡi, thân, ý không còn móng lên mười điều ác nữa, mà 
						chỉ ghi nhớ những lời hay, lẽ phải.  
						 
						b)CHO GIA ÐÌNH: 
						Trước khi sắp sửa tụng kinh, những người trong nhà đều 
						dứt các câu chuyện ngoài đời và khách hàng xóm đến ngồi 
						lê đôi mách cũng tự giải tán. Trong gia đình nhờ thế 
						được thanh tịnh, trang nghiêm, hòa thuận.  
						 
						c)CHO NGƯỜI CHUNG QUANH: 
						Trong những lúc đêm thanh canh vắng, lời tụng kinh trầm 
						bỗng theo với tiềng mõ nhịp đều, tiếng chuông ngân nga, 
						có thể đánh thức người đời ra khỏi giấc mê, đưa lọt vào 
						tai kẻ lạc lối những ý nghĩa thâm huyền, những lời 
						khuyên dạy bổ ích, chứa đựng trong kinh mà hành giả đang 
						tụng.  
						 
						Như vậy rõ ràng tụng kinh chẳng những có lợi ích cho 
						mình, cho gia đình, mà còn cho những người chung quanh 
						nữa. Ðó là mới nói những điều ích lợi thông thường có 
						thể thấy được, ngoài ra tụng kinh còn có những điều lợi 
						ích, linh nghiệm lạ thường, không thể giải thích được, 
						ai tụng sẽ tự chứng nghiệm mà thôi.  
						 
						2.- Lợi ích của sự trì 
						chú. Các thần chú tuy không thể giải nghĩa ra 
						được, nhưng người chí tâm thọ trì, sẽ được công hiệu 
						thật là kỳ diệu, khó có thể nghĩ bàn, như người uống 
						nước ấm, lạnh thì tự biết lấy. có thể nói: một câu thần 
						chú, thâu gồm hết một bộ kinh, vì vậy, hiệu lực của các 
						thần chú rất phi thường. Khi gặp tai nạn, nếu thực tâm 
						trì chú, thì mau được giải nguy. Như thuở xưa, Ngài 
						A-Nan mắc nạn, Ðức Phật liền nói thần chú Lăng Nghiêm, 
						sai ngài Văn Thù Sư Lợi đến cứu, thì Ngài A-Nan liền 
						được thoát nguy.  
						 
						Ngày nay có nhiều trường hợp mà người thành tâm niệm chú 
						thấy được hiệu nghiệm rõ ràng. Theo lời Bác sĩ Thiện 
						Thành nói lại, thì vào năm 1946, giữa lúc loạn ly, BS ở 
						trong một vùng rừng sâu, núi hiểm tại Trung việt. Một 
						lần BS bị một chứng bịnh nan y, mặc dù lương dược Ðông, 
						Tây sẵn có trong tay, cũng không làm sao trị được. Bác 
						sĩ tưởng sẽ bỏ mình trong xóm người Sơn cước, không ngờ 
						lúc còn ở dưới mái nhà cha mẹ, thường đêm nghe thân phụ 
						trì chú "Công Ðức Bảo Sơn", BS liền đem thần chú ấy ra 
						áp dụng. Trong lúc ấy, các người nuôi bịnh cũng xúm lại 
						hộ niệm cho BS suốt đêm. Sáng hôm sau, quả thật BS lành 
						mạnh trở lại một cách dễ dàng, làm cho tất cả các bạn 
						đồng nghiệp đều ngạc nhiên.  
						 
						3.- Lợi ích của sự niệm 
						Phật. Niệm Phật công đức lại còn to lớn hơn nữa, 
						vì một câu niệm Phật có thể gồm thâu cả 3 tạng kinh 
						điển, hết thảy thần chú, cùng là các pháp viên đốn, như 
						tham thiền, quán tưởng v.v...  
						 
						Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có dạy rằng: "Sau khi Phật nhập 
						diệt , về thời kỳ mạt pháp, đến kiếp hoại, các kinh sẽ 
						bị tiêu diệt hết, chỉ còn kinh Di-Ðà lưu truyền lại độ 
						trăm năm rồi cũng diệt luôn. Lúc bấy giờ chỉ còn một câu 
						niệm Phật gồm 6 chữ "Nam mô A-Di-Ðà Phật", mà đủ năng 
						lực đưa chúng sanh về cõi "Cực-Lạc".  
						 
						Lời Phật nói không sai, bằng chứng là có nhiều nhân vật 
						chuyên trì một câu niệm Phật, mà biết được ngày giờ và 
						thấy được điềm lành trước khi vãng sanh. Như Tổ Huệ 
						Viễn, trong 10 năm niệm Phật, 3 lần thấy Ðức Di-Ðà rờ 
						đầu; trong hội Liên xã, có 123 người chuyên tu phép "Trì 
						danh niệm Phật", đều lần lược được Phật rước về cõi Tịnh 
						Ðộ. Gần đây ở Nam phần VN, vào năm 1940, có 3 vị sĩ quan 
						Pháp là Ðại úy Touffan, Trung úy Retourna, Thiếu úy 
						Brillant đồng lái một chiếc thuỷ phi cơ bay từ đảo Côn 
						Lôn về Sài gòn. Giữa đường, chiếc phi cơ hư, , rơi xuống 
						biển. Thiếu úy Brillant (người Pháp lai Việt) niệm Phật 
						cầu cứu. Chiếc thủy Phi cơ lửng thửng trên mặt biển suốt 
						3 giờ , mới gặp một chiếc tàu đánh cá của người Nhật đến 
						cứu. Khi 3 vị vừa bước sang tàu, thì chiếc phi cơ chìm 
						ngay xuống biển. Ai nấy đều lấy làm lạ, hỏi nhau: Tai 
						sao khi nãy có 3 người ngồi nặng, phi cơ lại nổi, mà bây 
						giờ không có người nó lại chìm ngấm? Chỉ có thiếu úy 
						Brillant mới giải thích được sự lạ lùng ấy. Ông kể lại 
						cho mọi người nghe sự linh ứng của pháp niệm Phật mà ông 
						thường áp dụng, và lần nầy là lần thứ hai ông được thoát 
						nạn nhờ phép niệm Phật ấy. Ðại úy Touffan và trung úy 
						Retourna hết lòng tin tưởng, nên khi về đến Saigon, hai 
						vị sĩ quan ấy chung nhau một số tiền, cất một cái am đẹp 
						đẽ ở Cát lái, làng Thạnh Mỹ Lợi, tỉnh Gia Ðịnh để thờ 
						Phật gọi là tỏ lòng tri ân. Ðây chỉ là một câu chuyện 
						trong muôn ngàn câu chuyện về sự lợi ích của phép niệm 
						Phật.  
						 
						C.- Kết Luận 
						 
						 
						Khuyên Phật Tử Tụng kinh Niệm Phật Và Trì Chú Cả Sự Lẫn 
						Lý Cho Được Viên Dung . Tụng kinh, trì chú, niệm Phật là 
						3 phương pháp tu hành gồm đủ cả Sự và Lý. Dù tại gia hay 
						xuất gia, dù tiểu thừa hay Ðại thừa, tiêu cực hay tích 
						cực, không ai có thể rời 3 phương pháp nầy được. Bỡi 
						thế, Phật tử cần phải học tụng kinh, niệm Phật và trì 
						chú cho Sự,Lý đi đôi, lời nói và việc làm phù hợp, mới 
						có được kết quả tốt đẹp.  
						 
						Ba pháp môn tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tuy không 
						đồng mà kết qủa đều thù thắng. Phật tử có thể tùy theo 
						trình độ, hoàn cảnh của mình mà tu một, hai hay cả ba 
						pháp ấy. Thí dụ như người biết chữ và mạnh khoẻ, công ăn 
						việc làm hằng ngày không bận rộn lắm, thì nên tụng kinh, 
						trì chú, niệm Phật đủ cả ba pháp môn. Còn người tuổi 
						gìa, sức yếu, mắt mờ, răng rụng, miệng lưỡi phều phào, 
						thân thể mỏi mệt, nếu tụng kinh , trì chú không nổi, thì 
						phải chuyên tâm niệm Phật, đi đứng nằm nồi, túc nào cũng 
						phải niệm Phật. Nhưng các Phật tử nên nhớ, khi miệng 
						tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tay gõ mõ, đánh chuông, 
						lần chuỗi, thì tâm trí phải gột rửa hết bao ý nghĩ bất 
						chính, những ham muốn đê hèn, và đạc vào dấy hình ảnh 
						của Ðấng Từ Bi. Rồi phải noi gương Ngài, mở lòng thương 
						rộng lớn, nghĩ đến nỗi thống khổ của muôn loài và phát 
						nguyện đem sức mình ra, ban vui cứu khổ cho tất cả. Ðến 
						khi thôi tụng niệm, trở lại tiếp xúc việc đời, thì phải 
						làm thế nào cho những hành động của mình cũng được từ bi 
						như tư tưởng và lời nói của mình vậy.  
						 
						Người tụng kinh trì chú và niệm Phật, làm đúng như thế, 
						thì chắc chắn sẽ được chứng qủa Thánh không sai. 
						  
						
						
						▲ Trở Lên 
						 | 
					 
					
						
						
						
						
						Bài Thứ 9  
						Ăn Chay
						Mở Ðề
						 
						 
						Ăn Chay Là Một Phương Pháp Tu Hành Của Người Phật Tử
						 
						 
						Vấn đề ăn uống là một vấn đề quan trọng đối với tất cả 
						mọi người, mọi chúng sanh. Nếu sống mà không cần ăn, thì 
						tất cả chúng sanh đều thành Thánh cả rồi. Ðức Phật Thích 
						Ca, khi còn là một vị Thái Tử, đã nói một câu đầy ý 
						nghĩa: "Sự sống sống bằng sự chết". Hãy nghĩ lại mà xem: 
						từ khi lọt lòng mẹ đến bây giờ, để được sống, mỗi chúng 
						ta đã làm chết bao nhiêu sinh vật rồi? Chúng ta ăn, 
						chúng ta uống, chúng ta thở, chúng ta nằm, chúng ta 
						đứng, chúng ta đi, mỗi mỗi động tác như thế, đều đã gây 
						bao tang tóc cho những sinh vật ở chung quanh chúng ta! 
						Ðó là chưa kể những kẻ hung ác, giết để được thích thú, 
						được tiền tài, danh vọng...Nếu sự sống mà không làm ai 
						chết cả, thì cuộc đời sẽ đẹp đẽ biết bao nhiêu ! Sự ước 
						ao này có thể thực hiện được một phần lớn, nếu chúng ta 
						áp dụng phương pháp ăn chay mà Phật đã chế ra.  
						 
						Như thế, ăn chay đối với người Phật tử không phải là một 
						sự hiếu kỳ, một sự hiếu danh, một cách đổi món ăn cho 
						ngon miệng, một cách kiêng cữ theo lời dặn của bác sĩ. 
						Ăn chay chính là một phương pháp tu hành rất quan trọng, 
						mà người Phật tử thực hành được nhiều chừng nào thì được 
						nhiều kết quả tốt đẹp chừng ấy.  
						 
						Chánh Ðề  
						 
						Ðịnh Nghĩa  
						 
						Ăn chay, hay ăn lạt, nghĩa là ăn những loài thảo mộc: 
						hoa quả, rau cải, không ăn những món ăn thuộc loài động 
						vật như thịt, cá, tôm, cua, sò, ốc những vật hữu tình, 
						biết tham sống sợ chết như người.  
						 
						Lý Do Ăn Chay  
						 
						1. Vì lòng từ bi và bình đẳng  
						 
						Khi đức Phật còn tại thế, một hôm Ngài A Nan hỏi Phật 
						rằng:  
						 
						-Bạch Phật , tại sao trước kia, Phật cho các Ðệ tử ăn 
						ngũ tịnh nhục (Ngũ tịnh nhục là năm thứ thịt thanh tịnh: 
						a) Thịt ăn mà không thấy người giết. b) Thit ăn mà mình 
						không nghe tiếng con vật bị giết kêu. c) Thịt ăn mà mình 
						không nghi người ta giết cho mình. d) Thịt con thú tự 
						chết. đ) Thịt con thú khác ăn còn dư), mà nay Ngài lại 
						cấm tuyệt ăn thịt cá?  
						 
						Phật trả lời Ngài A Nan: Vì trình độ các ông trong buổi 
						sơ cơ còn thấp kém, chưa có thể lãnh thọ giáo pháp Ðại 
						Thừa, thực hành đúng lý đặng, nên khi ta còn nói pháp 
						Tiểu Thừa, phương tiện cho các ông tạm dùng ngũ tịnh 
						nhục. Ðến nay trình độ các ông đã cao, lãnh thọ được 
						giáo pháp Ðại Thừa, nên ta cấm tuyệt ăn thịt cá. Còn ăn 
						thứ ấy, thì còn phạm giới sát sanh, nếu không trực tiếp 
						sát thì cũng gián tiếp sát, làm mất hạt giống từ bi bình 
						đẳng, không thể nào tu hành thành Phật được.  
						 
						Lời Phật dạy đã rõ ràng: Ăn chay là cốt yếu để nuôi 
						dưỡng lòng từ bi và tinh thần bình đẳng.  
						 
						Thật thế, Phật tử là người đã theo đạo từ bi, thì không 
						lý nào lại không thực hành đức từ bi trong đời sống của 
						mình từ ý nghĩ, lời nói, cho đến cách ăn uống.  
						 
						Nếu chúng ta vì muốn ăn cho khoái khẩu, sướng bụng, mà 
						nhẫn tâm nhìn cảnh chặt đầu, lột da những con vật hiền 
						lành vô tội, nhẫn tâm bịt tai giả điếc trước những kêu 
						la thảm thiết của những con vật đang giẫy giụa trêm tấm 
						thớt, trên bàn thịt, thì sao được gọi là Phật tử.  
						 
						Nếu không có một lòng thương xót trước những cảnh giết 
						chóc như thế, thì hạt giống từ bi mỗi ngày mỗi héo khô, 
						cằn cỗi, và công phu tu hành, tụng kinh niệm Phật của 
						chúng ta trở thành vô ích.  
						 
						Ðạo Phật là đạo Từ Bi mà cũng là đạo Bình Ðẳng. Phật 
						dạy: "Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh như nhau". Vậy 
						thì người Phật tử dưới tầm con mắt của mình, không nên 
						thấy Người và vật khác nhau, mà chỉ đồng một tri giác 
						bình đẳng, ẩn trong thân hình sai biệt. Nói rằng: "Vật 
						dưỡng nhơn" là một quan niệm rất sai lầm, do sự ích kỷ 
						và ngạo mạn của người sinh ra. Quan niệm ấy dung túng 
						cho người ta thẳng tay giết hại sanh vật, và tạo ra một 
						tình trạng bất bình đẳng, thì không bao giờ cõi đời có 
						thể yên ổn, hòa bình được.  
						 
						2. Vì muốn tránh quả báu 
						luân hồi  
						 
						Phật dạy: "Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, cứ tạo 
						nhân tội ác, sát hại ăn thịt lẫn nhau, nên bị ác quả, là 
						sanh tử luân hồi mãi trong sáu đường". Kinh Lăng Nghiêm 
						nói: "Hể giết một mạng thì hãy trả lại một mạng; tâm 
						giết hại chẳng dứt trừ, thì không thể nào ra khỏi trần 
						lao được." Vậy muốn tránh oan báo luân hồi, tránh các 
						điều tội lỗi thuộc về giới sát. Phật tử phải ăn chay. 
						Nếu ăn mặn hoài thì không thể nào hết nợ thân mạng và nợ 
						xương thịt, máu huyết được.  
						 
						3. Vì hợp vê sinh
						 
						 
						Không phải mới từ nay mà từ ngàn xưa, một triết gia, ông 
						Senèque, đã nói rằng: "Mỗi bữa ăn, người ta dùng thịt là 
						tự đầu độc, thành thử con người tự sát ngấm ngầm mà 
						không hay biết, do đó con người bị mạng yểu, chết sớm". 
						Thật thế, ngày nay những nhà y khoa bác sĩ trứ danh như 
						ông Soteyko, Varia Kiplami có nói: "Trong các thứ thịt, 
						có nhiều chất độc rất nguy hiểm cho sức khỏe con người". 
						Bằng chứng cụ thể là rau cải để lâu ngày thì héo khô, 
						hoặc ung bấy mà ít hôi; còn thịt cá để lâu ngày thì 
						sình, ương, hôi tanh không ai chịu nổi, và khi ăn vào, 
						ta thấy trong người rất nặng nề, mệt nhọc ,khó tiêu. Hơn 
						nữa, các loài thú vật, thường mắc bệnh này hay bệnh khác 
						như: bệnh lao, bệnh thương hàn, bệnh sán, sên v.v...,nếu 
						chúng ta ăn vào, sẽ vướng bệnh, rất nguy hiểm.  
						 
						Ðể tránh những bệnh tật, và tăng sức khỏe, chúng ta nên 
						ăn nhiều rau cải. Các nhà khoa học, cũng như các nhà y 
						học Ðông, Tây đều công nhận đồ ăn chay là nhẹ nhàng, 
						thanh khiết, dễ tiêu hóa và có nhiều sinh tố rất bổ. Bởi 
						thế, ở nước Nhật có hội "Tổ Thực Chủ Nghĩa", ở Pháp, 
						Ðức, Anh, Mỹ đều có "Thảo Mộc Thực Hội".  
						 
						Có nhiều người có thành kiến sai lầm rằng: ăn thịt cá, 
						mới có đủ sức mạnh. Thật ra, người ăn thịt không có sức 
						mạnh và sức chịu nhọc dẻo dai bằng người ăn chay trường. 
						Chính Giáo sư Irwin Fischer ở Ðại học đường Yale, sau 
						nhiều cuộc thí nghiệm, đã long trọng tuyên bố rằng:
						 
						 
						Ăn thịt hay ăn những vật có nhiều chất đạm, sẽ làm cho 
						con người không đủ sức chịu nhọc, không khác nào như 
						người uống rượu.  
						 
						Bà White, một bác học gia cũng đã tuyên bố rằng:  
						 
						Các thứ hột, các thứ trái cây, đậu và rau cải là những 
						thức ăn mà thiên nhiên đã dành để nuôi chúng ta. Các 
						thức ăn ấy nấu nướng một cách giản dị, thì rất hợp vệ 
						sinh và rất bổ. Nó làm cho thân thể tráng kiện, tinh 
						thần sáng suốt và tránh biết bao nhiêu bệnh tật.  
						 
						I. Cách Thức Ăn Chay
						 
						 
						1. Chương trình ăn chay  
						 
						Mặc dù sự ăn chay đối với người Phật tử là một điều cần 
						thiết, một phương pháp tu hành nhưng muốn được lợi ích 
						thiết thực, cần phải có phương pháp, và áp dụng một cách 
						tuần tự theo căn cơ và sở nguyện của mình. Trước tiên, 
						không phải người Phật tử nào cũng có thể bỏ hẳn ngay tập 
						quán ăn mặn của mình để ăn chay. Vì thế, trong đạo có 
						chia làm hai loại: ăn chay kỳ và ăn chay trường.  
						 
						a) Ăn chay kỳ. 
						Ăn chay kỳ là ăn có kỳ hạn nhất định trong mỗi tháng hay 
						mỗi năm:  
						 
						Nhị trai: Ăn 2 ngày chay trong mỗi tháng vào ngày mồng 
						một và rằm âm lịch.  
						 
						Tứ trai: Ăn 4 ngày chay trong tháng: mồng một, mồng tám, 
						rằm và hăm ba.  
						 
						Lục Trai: Ăn sáu ngày chay trong tháng là: mùng 8, 14, 
						15, 23, 29, 30. (tháng thiếu thì ăn ngày 28, 29.) 
						 
						Thập trai: Ăn mười ngày chay trong tháng là: mồng một, 
						mồng tám, mồng bốn, rằm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm 
						tám, hăm chín và ba mươi (nếu tháng thiếu thì 27, 28, 
						29).  
						 
						Nhất nguyệt trai: Là ăn một tháng chay vào tháng giêng 
						hay tháng bảy.  
						 
						Tam nguyệt trai: Là ăn ba tháng chay: Tháng giêng, tháng 
						bảy và tháng chín (hay tháng mười); hoặc ăn liên tiếp 
						trong ba tháng.  
						 
						Nếu tập ăn chay kỳ trong một thời gian mà không gặp một 
						phản ứng nào về thân, tâm và nhận thấy có lợi ích, thì 
						nên lần đến ăn chay trường.  
						 
						b) Ăn chay trường. 
						Ăn chay trường hay trường trai là ăn toàn chay luôn 
						trong mỗi ngày, không gián đoạn cho đến hết đời.  
						 
						Nếu mỗi ngày, phát tâm không ăn sau 12 giờ trưa, thì gọi 
						là ngọ trai.  
						 
						2. Phương pháp thực hành
						 
						 
						a) Chọn lựa thay đổi 
						thức ăn. Ðể ăn cho được lâu dài và không ngán, 
						chúng ta nên chọn những món ăn có nhiều sinh tố, bổ 
						dưỡng như: cà chua, rau muống, đậu nành, nấm rơm, cải 
						bắp, khoai tây, nếp lức v.v...và những món ăn cũng phải 
						thay đổi luôn  
						 
						Vậy trong một bữa ăn, cần phải ăn những món gì để bữa ăn 
						có đầy đủ chất bổ và ngon miệng? Dưới đây là vài bữa ăn 
						kiểu mẫu:  
						 
						Trái cây cùng ăn với cơm hay bắp, bột mì và rau, cải, 
						đậu phụng rang.  
						 
						Sữa tươi cùng ăn với trái cây ngọt và cơm, bắp hay bột 
						mì.  
						 
						Các món ăn chính nói trên là cần thiết, nhưng cũng cần 
						thêm gia vị như hột cải cay, tiêu ớt, giấm v.v...để giúp 
						bộ máy tiêu hóa làm việc dễ dàng. Nhưng nếu dùng gia vị 
						quá nhiều thành ra có hại, như làm cho bộ máy tiêu hóa 
						nóng, sinh bệnh hay làm kích thích cơ thể.  
						 
						b) Cách nấu. 
						Thức ăn là cần thiết nhưng cách nấu cũng quan trọng; 
						chúng ta đừng có quan niệm sai lầm là đã ăn chay thì nấu 
						thế nào cũng được cả, không cần thiết là phải quan tâm 
						đến. Nếu thức ăn bổ mà không biết cách nấu, thì cũng làm 
						cho nó hết bổ, và có khi làm hại bộ máy tiêu hpá nữa. 
						Dưới đây là vài điều nên nhớ trong khi nấu ăn:  
						 
						Không nên chiên xào nhiều quá, vì sinh tố B và C sẽ bị 
						dầu sôi tiêu diệt và các món có nhiều dầu làm cho bao tử 
						mệt.  
						 
						Nên ăn đồ nướng, nhất là nướng không có thoa dầu.  
						 
						Khi nấu hay luộc phải nên đậy nắp để sinh tố khỏi bị mất 
						và nên đổ ít nước để chất bổ khỏi loãng. Và nước luộc ấy 
						rất tốt, không nên đổ đi, vì nó chứa rất nhiêu chất bổ 
						và sinh tố.  
						 
						c) Giảm thịt cá dần dần trong những ngày ăn mặn. Ðối với 
						những người ăn chay kỳ thì khi ăn mặn, nên mua những vật 
						người ta làm sẵn, hoặc làm giảm bớt số lượng thịt cá, ăn 
						nhiều rau cải, sữa, tạm dùng trứng gà, trứng vịt không 
						tượng con.  
						 
						Khi đã tinh tấn về mặt tinh thần, không nên ăn trứng gà, 
						trứng vịt, vì trứng cũng là một sanh vật sắp nảy nở.
						 
						 
						3. Những điều cần tránh
						 
						 
						a) Không nên kiêu mạn. Người có phúc duyên ăn 
						chay được dễ dàng, không nên sanh lòng kiêu mạn, tự cho 
						mình là hơn người, và khinh người ăn mặn. làm như thế đã 
						sanh ác cảm với người mà lại còn làm tổn âm đức của mình 
						nữa.  
						 
						b) không nên háo danh. 
						Có người mới bước vô đường đạo, đã ăn trường trai ngay, 
						cốt để người khác khen ngợi. Ăn chay như thế là do lòng 
						háo danh mà ra; hành động này không có lợi cho sự tu 
						hành mà lại còn có hại: khi không còn ai khen ngợi nữa, 
						thì không thấy hứng thú để tiếp tục ăn chay nữa.  
						 
						c) Không nên ép xác. 
						Có người tưởng lầm rằng: ăn chay là để hành hạ thân xác, 
						nên cố ăn một cách cực khổ, như chỉ ăn ròng rã tương 
						rau, muối sả...từ năm này sang năm khác. Ăn như thế thì 
						sẽ hao mòn thân xác và chết yểu trước khi thành đạo.
						 
						 
						d) Không nên giả mặn. 
						Có nhiều bà nội trợ muốn trổ tài khéo léo của mình bằng 
						cách nấu chay mà giả mặn, rồi đặt tên món ăn mặn, hay 
						làm ra những hình thức giống như đồ mặn. Thí dụ như: củ 
						hủ cao, củ hủ dừa kho mà gọi là cá tra kho; bắp chuối 
						luộc trộn giấm và rau răm, lại đặt tên thịt gà xé phay; 
						bí đao xắt mỏng cặp gắp nướng ăn với bánh hỏi mà lại đặt 
						tên là thịt bò lụi v.v....  
						 
						Như thế, là đã vô tình xúi giục người ăn chay nghĩ đến 
						món mặn, miệng ăn rau dưa, mà lòng tưởng nhớ đến thịt 
						cá, làm trò cười cho thế gian.  
						 
						đ) Không được quên ngày 
						chay. Không nên khinh thường quên những ngày chay 
						mà mình đã phát nguyện, dù gặp trường hợp bất thường như 
						đi lỡ đường, làm việc quá buổi, lúc đói quá mà không có 
						sẵn thức ăn chay.  
						 
						e) Không nên dùng ngũ 
						vị tân. Ngũ vị tân là: hành, hẹ, tỏi, nén và hưng 
						cừ, không nên dùng, vì các thứ này đã hôi, lại có nhiều 
						chất kích thích lòng dục vọng.  
						 
						IV.Lợi Ích Của Sự Ăn 
						Chay  
						 
						1. Phương diện cá nhân  
						 
						Những lới ích của sự ăn chay đối với cá nhân rất lớn 
						lao. Người ăn chay không những thâu hoạch được những lợi 
						ích trong hiện tiền mà cả trong đời sống tương lai nữa.
						 
						 
						a) Trong hiện tại, người ăn chay được hưởng lợi 
						ích sau đây:  
						 
						Tiết kiệm được tài chánh, vì đồ ăn chay rẻ hơn đồ ăn 
						mặn.  
						 
						Tiết kiệm được ngày giờ và công lao nấu nướng, vì mướp, 
						dưa, bầu bí, khoai...cắt rửa mau và ít tốn nước; và kho, 
						luộc, nấu nướng lại mau chín, ít hao củi.  
						 
						Thân thể được mạnh khỏe; tinh thần được nhẹ nhàng, trong 
						sạch; trí tuệ được minh mẫn dể tu thiền quán.  
						 
						b) Trong đời sau, không chịu quả báu giết hại, 
						nên không phải trả nợ máu thịt, khỏi phải thường mạng. 
						Nếu trở lại làm người, thì được trường thọ.  
						 
						2. Phương diện xã hội, 
						nhân loại, chúng sanh  
						 
						Ăn chay không những có lợi ích cho cá nhân, mà còn cho 
						xã hội, nhân loại, chúng sanh nữa. Nếu ai ai cũng ăn 
						chay thì thế giới Ta Bà này làm gì có tiếng rên siết vì 
						chết oan của oài vật và tiếng than thở, đau đớn của 
						người vì nạn tương tàn, tương sát.  
						 
						Một nhà Bác học có nói: "Muốn thế giới hòa bình, bắt đầu 
						trong bữa ăn con người phải không có một chút máu hay 
						một miếng thịt cá nào cả".  
						 
						Câu nói đầy đạo đức này cũng đồng một ý nghĩa với câu 
						nói của Cổ nhân:  
						 
						"Nhất thế chúng sanh vô 
						sát nghiệp,  
						Hà sầu thế giới động đao binh".  
						 
						(Nếu tất cả chúng sanh không sát hại lẫn nhau, thì sợ gì 
						thế giới có giặc giã).  
						 
						Người ăn chay là một chiến sĩ của Hòa bình. Thật vậy 
						người ăn chay, với một tâm từ bi vô lượng, coi muôn loài 
						là mình, mình là muôn loài, không giết hai sanh vật để 
						thỏa mãn dục vọng, không bao giờ nỡ tâm tàn sát đồng 
						loại để đạt mục đích lợi danh.  
						 
						Nếu trong xã hội, ai ai cũng ăn chay, thì đâu có những 
						chuyện gây gỗ, đánh đập nhau, như chúng ta thường thấy 
						hằng ngày.  
						 
						Nếu trong một nước, ai ai cũng ăn chay thì không có 
						chuyện mạnh hiếp yếu, khôn lấn dại, chém giết lẫn nhau 
						để thỏa lòng dục vọng.  
						 
						Nếu trong thế giới, ai ai cũng ăn chay, thì thế giới này 
						là Cực lạc thế giới.  
						 
						Kết Luận  
						 
						Mọi Người Dù Phật Tử Hay Không Ðều Nên Ăn Chay
						 
						 
						Như chúng ta đã thấy ở các đoạn trên, xét về phương diện 
						khoa học hay Phật học, về phương diện cá nhân hay đoàn 
						thể, về hiện tại hay tương lai, sự ăn chay đều có rất 
						nhiều lợi ích.  
						 
						Vì vậy, những người không phải là Phật tử , nếu muốn 
						thân thể được mạnh khỏe, tinh thần được khinh an, trí 
						tuệ được minh mẫn để học tập; nếu muốn tiết kiệm được 
						tài chánh, công lao, thời giờ, nếu muốn gia đình được 
						hòa thuận yên vui, thì hãy mau mau làm quen với những 
						thức ăn chay.  
						 
						Còn những ai đã là Phật tử , đã nguyện theo bước chân 
						của đức Từ phụ, thì phải thực hành phép ăn chay, để lòng 
						Từ bi được mở rộng, tinh thần bình đẳng được lan xa, trí 
						tuệ được tỏ ngộ, đạo quả được chóng viên thành.  
						 
						Vẫn biết, nói dễ mà làm khó; nhưng một người tiến bộ và 
						có thiện chí, khi đã thấy rõ những điều lợi ích, thì dù 
						khó bao nhiêu cũng quyết thực hành cho được. Sự thực 
						hành ấy không phải làm ngay trong một lần, mà phải tuần 
						tự tiến bước.  
						 
						Nếu chúng ta biết áp dụng phép ăn chay đúng như những 
						cách thức đã nói ở trên, thì thiết tưởng không có gì là 
						khó lắm. Ðiều quan trọng nhất là chúng ta thật có thiện 
						chí hay không mà thôi. 
						 ▲
						Trở Lên 
						 | 
					 
					
						
						
						
						
						Bài Thứ 10  
						Bát Quan Trai Giới 
						
						A. Mở Ðề
						 
						 
						Ðức Phật Thích Ca nói pháp gần 50 năm, có đến 84.000 
						pháp môn, vô lượng diệu nghĩa. Mặc dù giáo pháp nhiều 
						như thế, nhưng không ngoài ba môn chính là "giới, định, 
						huệ".  
						 
						Trong "giới, định, huệ", thì giới là phần quan trọng, là 
						phần căn bản. Nhờ giới, tâm mới định, tâm có định, huệ 
						mới phát sanh, huệ có phát sanh mới dứt trừ được vô minh 
						phiền não; vô minh phiền não có dứt trừ mới minh tâm 
						kiến tánh và thành Phật. Nhưng giới cũng có nhiều thứ: 
						có thứ cao, thứ thấp, có thứ áp dụng cho hàng xuất gia, 
						có thứ cho hàng tại gia. Trong hàng xuất gia, thì Sa di 
						chỉ giữ 10 giới, Tỳ kheo giữ 250 giới, Tỳ kheo ni đến 
						348 giới. Về phía tại gia thì có Tam quy, Ngũ Giới, Bát 
						quan trai giới, Bồ Tát giới, Tam quy Ngũ Giới, thì chúng 
						ta đã học rồi; Bồ Tát giới thì khó khăn hơn, chúng ta sẽ 
						học sau. Bây giờ đây, chúng tôi chỉ nói đến Bát quan 
						trai giới.  
						 
						B. Chánh Ðề  
						 
						I. Ðịnh Nghĩa  
						 
						Bát quan trai giới là một phép tu hành của người tại gia 
						áp dụng trong một ngày một đêm (24 giời).  
						 
						Chữ "Quan" là cửa, cửa ngăn chặn 8 điều tội lỗi. Chữ 
						"Trai", tiếng Phạn là Posadha, nghĩa là khi đã qua giờ 
						ngọ (12 giờ trưa) không được ăn nữa. Vậy "Bát quan trai 
						giới" là sự giữ gìn cho thân tâm được thanh tịnh trong 
						24 tiếng đồng hồ bằng cách ngăn chặn 8 điều tội lỗi sau 
						đây:  
						 
						1. Không được sát sanh
						 
						2. Không được trộm cướp  
						3. Không được dâm dục  
						4. Không được nói dối  
						5. Không được uống rượu  
						6. Không được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và xem 
						múa hát.  
						7. Không được nằm ngồi giường cao rộng đẹp đẽ  
						8. Không được ăn quá giờ ngọ  
						 
						II. Giải Rõ Tám Ðiều 
						Ngăn Cấm Nói Trên  
						 
						1. Không được sát sanh.  
						 
						a) Ý nghĩa vì sao không được sát sanh:  
						 
						Chúng sanh mặc dù hình dáng có khác nhau, nhưng cùng có 
						một điểm quan trọng giống nhau là tham sống, sợ chết, 
						biết đau khổ vui mừng. Không cần phải dẫn chứng cho xa 
						xôi, ngay trong sự quan sát hằng ngày, chúng ta cũng 
						nhận thấy: cá thấy người cá lội xa, chim thấy người chim 
						bay cao, cũng như người thấy cọp người lẩn trốn, vì đều 
						sợ lâm nguy đến tính mạng cả. Khi bị bắt, chim, cá hay 
						người đều vùng vẫy để trốn thoát. Và khi được thả ra, 
						thoát chết, chao ôi! Còn gì sung sướng cho bằng! Nhận 
						thấy được sự tham sống sợ chết, nối vui mừng, đau xót 
						của muôn loại như thế, mà chúng ta còn đang tâm giết hại 
						sanh mạng, thì thật lạ nhẫn tâm, tàn ác vô cùng.  
						 
						Từ trước đến nay, loài người đã giết hại rất nhiều, bằng 
						đủ phương tiện, nào làm lưới để bắt cá dưới nước, dùng 
						cung tên súng đạn để bắt cầm thú trên đất...và nhất là 
						dùng đủ mưu mô kế hoạch để giết hại chém giết lẫn nhau. 
						Về phía thiện, thì có nhiều người cũng thiện vô cùng; 
						nhưng về phía ác, thì cũng nhiều người ác vô cùng.  
						 
						Chúng ta là Phật tử , nghĩa là những người theo đạo Từ 
						bi. Chúng ta cần phải cố gắng đừng sát hại sinh vật và 
						nhất là đừng sát hại người. Về sự sát hại người, trong 
						Ngũ Giới Phật đã tuyệt đối cấm chỉ, và chúng ta cũng đã 
						phát nguyện giữ giới ấy. Nhưng về sinh vật, vì một số 
						Phật tử còn ăn mặn, nên chưa tuyệt đối giữ được giới 
						sát. Vậy ít ra trong ngày thọ Bát quan trai, chúng ta 
						hãy tuyệt đối giữ giới ấy. Chúng ta không giết người, 
						không trù tính mưu mô giết người, đã đành ! Chúng ta 
						cũng không nên động lòng trước sanh mạng của tất cả mọi 
						loài hữu hình. Hơn nữa, nếu thấy ai có ý giết hại sinh 
						vật, chúng ta phải khuyên lơn ngăn cản đừng cho người ta 
						thi hành ác ý ấy.  
						 
						Ðược như thế là ta giữ được trọn vẹn giới sát, mặc dù 
						chỉ trong một ngày đêm, nhưng lợi ích sẽ lớn lao vô cùng 
						cho việc tu hành của chúng ta.  
						 
						2. Không được trộm cướp.
						 
						 
						Hai chữ trộm cướp ở đây có một ý nghĩa vô cùng. Những 
						vật thuộc quyền sở hữu của người ta, từ vàng, bạc, châu 
						báu, đất ruộng nhà cửa, cho đến đồ đạc, cây kim sợi chỉ, 
						cọng rau, người ta không cho mà mình lấy, là trộm cướp. 
						Lường thăng tráo đấu, đo thiếu lấy thừa, đi làm trễ giờ, 
						bóc lột công nhân, lấy của công, ăn hối lộ, được của 
						người không trả lại, đều là trộm cướp.  
						 
						Người đời coi tiền của hơn tánh mạng, trèo non, lặn 
						suối, lo mưu này tính kế nọ để làm ra tiền nuôi thân và 
						gia đình, và để dành dụm phòng khi đau ốm, tai nạn. Nếu 
						rủi bị mất tiền của do mồ hôi nước mắt mà có, người ta 
						vô cùng đau khổ, tuyệt vọng có khi đến quyên sinh. Chúng 
						ta cũng đã có nhiều khi đau buồn vì mất của, thì xét 
						người khác cũng vậy. Chúng ta không muốn ai trộm cướp 
						của mình, thì tất nhiên mình cũng không nên trộm cướp 
						của ai. Ðó là lẽ công bằng rất giản dị. Huống chi chúng 
						ta là Phật tử , nghĩa là những người quyết tâm diệt trừ 
						tham dục, để được giải thoát, thì lẽ nào ta lại lấy của 
						phi nghĩa?  
						 
						Trong cuộc đời tranh đấu hằng ngày để sống, có nhiều khi 
						chúng ta không giữ được một cách tuyệt đối giới cấm này, 
						chẳng hạn, chúng ta làm ít mà cố đòi lương cho cao, bán 
						hàng xấu với giá cao, mưu tính chước này kế nọ để được 
						lợi nhiều một cách thiếu chính đáng...Có khi chúng ta 
						nhận thấy như thế là bất chính, nhưng tự bào chữa rằng 
						vì sự sống của gia đình, thân thuộc mà phải làm như thế.
						 
						 
						Nhưng trong ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy 
						quyết không trộm cướp đã đành, mà cũng không được để cho 
						một ý nghĩ tham lợi móng lên trong tâm. Chúng ta không 
						trộm cướp, không nghĩ đến sự trộm cướp, mà thấy ai trộm 
						cuớp hay nẩy ra ý trộm cướp thì chúng ta cũng khuyên can 
						họ, ngăn ngừa không cho họ làm bậy. Không những không 
						trộm cướp và ngăn ngừa sự trộm cướp mà thôi, chúng ta 
						còn bố thí cho những người nghèo khổ, thiếu ăn thiếu 
						mặc, tìm cách giúp đỡ những người thân thuộc, trong cảnh 
						túng thiếu.  
						 
						Giữ được giới này một cách tuyệt đối, thì dù thời gian 
						ngắn ngủi trong 24 giờ đồng hồ, chúng ta cũng đã gieo 
						được những nhân lành tốt đẹp cho sự tu hành của chúng 
						ta.  
						 
						3. Không được dâm dục.
						 
						 
						Dâm dục là cái nghiệp nhơn sanh tử luân hồi, nên người 
						xuất gia phải đoạn hẳn. Phật dạy rằng: "Người muốn đoạn 
						trừ sanh tử, chứng quả Niết bàn mà không trừ hẳn dâm 
						dục, thì không khác kẻ nấu cát sạn mà muốn cho thành 
						cơm, dù ra công đem nấu, trải qua năm ngàn kiếp cũng 
						không thành cơm được".  
						 
						Vậy những Phật tử xuất gia, muốn thành Phật quả thì phải 
						trừ dâm dục.  
						 
						Còn những Phật tử tại gia, chưa có thể hoàn toàn đoàn 
						trừ dâm dục được, thì Phật chỉ cấm tà dâm, nghĩa là 
						ngoài vợ chồng, không được lan chạ; và giữa vợ chồng, 
						cũng cần phải giữ chánh lễ, biết tiết dục để cho thân 
						tâm được trong sạch nhẹ nhàng.  
						 
						Nhưng đây là nói về ngày thường của Phật tử tại gia. Chứ 
						đến ngày thọ Bát quan trai giới, thì tuyệt đối phải giữ 
						giới tịnh hạnh, không được hành động dâm dục đã đành, mà 
						cũng không được nhớ nghĩ đến những điều dâm dục.  
						 
						Nếu triệt để giữ đúng giới này, thì dù chỉ trong 24 giờ 
						đồng hồ, lợi ích cũng rộng lớn vô cùng, vì chúng ta đã 
						có dịp để gieo nhơn tịnh hạnh là một nhơn rất quý báu 
						trong sự tu hành diệt dục.  
						 
						4. Không được nói dối.
						 
						 
						Nói dối là tâm nghĩ miệng nói trái nhau. Nói dối có 4 
						cách, mà chúng ta đã có học rồi trong bài Ngũ Giới. Ðó 
						là: nói không thật, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, 
						nói lời hung ác.  
						 
						Chúng ta đã thấy, hằng ngày trong đời, tai hại của sự 
						nói dối. Tai hại lớn nhất là làm mất lòng tin cậy nhau. 
						Trong một gia đình mà không tin nhau, thì gia đình sẽ 
						tan nát; trong một xã hội mà không tin nhau, thì xã hội 
						sẽ điêu tàn.  
						 
						Trong đời sống hằng ngày chúng ta chưa có thể hoàn toàn 
						giữ giới này được, thì trong ngày thọ Bát quan trai 
						giới, chúng ta hãy triệt để thực hành giới cấm này. 
						Chúng ta không nói sai, không nói thêu dệt, không nói 
						hai chiều, không nói lời hung ác đã đành; chúng ta lại 
						còn khuyên răn những người chung quanh giữ đúng giới 
						không nói láo ấy !  
						 
						Nếu thực hành triệt để giới cấm này, thì dù chỉ trong 
						một ngày đêm, chúng ta cũng đã gieo được một hột nhơn 
						quý báu rất hiếm có trong đời này là: lòng chân thật.
						 
						 
						5. Không được uống rượu.
						 
						 
						Rượu làm say mê, tối tăm trí não người uống. Nó còn nguy 
						hiểm hơn cả thuốc độc, vì thuốc độc uống vào chết ngay, 
						song chỉ giết chết một đời người thôi; chớ rượu làm cho 
						người cuồng tâm, mất trí, gây nên nhièu tội lỗi, chết đi 
						sanh lại, luân hồi nhiều kiếp trong tối tăm si ám.  
						 
						Bởi thế, trong Kinh, Phật dạy: "Thà uống nước đồng sôi 
						cho tan mất thân này, chứ không nên uống rượu".  
						 
						Chúng ta là Phật tử , nghĩa là những người đang trau dồi 
						Trí tuệ để được sáng suốt như Phật, chúng ta không được 
						uống rượu. Chúng ta không uống rượu đã đành, mà cũng 
						không khuyên mời người uống rượu. Tự mình uống rượu tội 
						còn nhẹ, chớ khuyên mời người khác uống, tội lại nặng 
						hơn.  
						 
						Song, trong lúc đau ốm, nếu lương y bảo phải có rượu hòa 
						với thuốc uống mới lành bệnh, thì chúng ta cũng được tạm 
						dùng, Khi đó rượu trở thành một vị thuốc, chứ không phải 
						là một vị làm cho trí não ta cuồng loạn nữa.  
						 
						Ðấy là nói về ngày thường, chứ trong ngày thọ "Bát quan 
						trai giới", chúng ta phải trừ tuyệt rượu, không được 
						uống đã đành, mà còn khuyên răn người khác đứng uống 
						nữa.  
						 
						6. Không được trang 
						điểm, thoa dầu thơm, múa hát và đi xem múa hát. 
						 
						 
						Năm giác quan: tai, mắt, mũi, lưỡi, thân là năm cửa ngõ, 
						có thể mở đường cho chúng ta đến cảnh giới Niết Bàn, hay 
						vào địa ngục. Nếu chúng ta biết mở năm cánh cửa ấy về 
						nẻo thanh tịnh, nghe những lời hay lẽ phải, thấy những 
						điều thiện, điều lành, ngửi những mùi thơm tinh khiết, 
						đạo vị, thì con đường đến Niết Bàn, giải thoát không xa. 
						Trái lại, nếu chúng ta hướng những cánh cửa giác quan ấy 
						vào cõi ô trọc, mở rộng chúng cho tội lỗi ùa vào, nào 
						nghe tiếng du dương luyến ái của dục vọng, thấy cảnh 
						trụy lạc, dâm ô, ngửi mùi vị say nồng, kích thích dục 
						lạc, thì con đường địa ngục đã sẵn sàng mở rộng để đón 
						chờ chúng ta.  
						 
						Phật cấm Phật tử trang điểm, tô sơn trét phấn, xức ướp 
						dầu thơm, múa hat lả lơi, quyến rũ, hay cấm đi xem những 
						cảnh múa hát ấy, là vì muốn cho chúng ta khỏi đọa vào 
						địa ngục.  
						 
						Nhưng trong đời sống hằng ngày của người Phật tử tại 
						gia, vì còn tiếp xúc với đời sống xã hội, nên phải ăn 
						mặc tề chỉnh trang nghiêm, đôi khi cũng phải đi dự những 
						buổi hòa nhạc, hay múa hát, miễn là những thứ âm nhạc, 
						những điệu múa hát ấy có tánh cách trong sạch, xây dựng 
						và hướng thiện. Nhưng trong hiện tại, các thứ nghệ 
						thuật: kịch nhạc, ca, vũ, cải lương, chiếu bóng..phần 
						nhiều có tánh cách trụy lạc, thoái hóa, chúng ta nên đề 
						phòng, đừng quá dễ dãi mà sa vào vòng tội lỗi.  
						 
						Trên đây là nói trong ngày thường, chứ ngày thọ giới Bát 
						quan trai, chúng ta nhất định không được trang điểm, xức 
						ướp dầu thơm, múa hát hay đi xem múa hát. Hơn nữa, chúng 
						ta phải cố gắng diệt trừ những âm hưởng, bóng dáng của 
						những thứ nghệ thuật không lành mạnh, trong đầu óc chúng 
						ta.  
						 
						Ðược như thế, thì tuy thời gian chỉ ngắn ngủi có 24 giờ, 
						ảnh hưởng tốt đẹp của nó vô cùng quý báu cho sự tu hành 
						của chúng ta.  
						 
						7. Không được nằm ngồi 
						giường cao đẹp, rộng lớn.  
						 
						Ðiều răn cấm này cũng như điều răn cấm thứ sáu, có mục 
						đích ngăn ngừa thân xác ta, không cho buông lung theo 
						những cảm giác mơn trớn khoái lạc của giường cao nệm 
						tốt, chăn ấm màn êm. Vì những cảm giác này có thể kích 
						thích lòng ham muốn bất chính của xác thân, tạo điều 
						kiện cho chúng ta gây tội lỗi, nên Phật chế ra giới cấm 
						này. Xưa Ngài Ngộ Ðạt Quốc sư là một bực cao đức, được 
						vua Ý Tôn và vua Hy Tôn hết sức ưu đãi. Vua Ý Tôn cúng 
						cho Ngài một bảo tọa bằng trầm hương rất quý báu. Từ khi 
						được bảo tọa ấy, Ngộ Ðạt Quốc Sư mống niệm danh lợi, 
						thành ra thất đức, phải chịu nhiều tai vạ và đau khổ.
						 
						 
						Vì hiểu rõ cái tai hại của giường cao chiếu rộng, chăn 
						ấm nệm êm, nên xưa Ngài Hiếp Tôn Giả từ khi xuất gia, 
						lưng không nằm chiếu; Ngài Cao Phong Diệu thiền sư lập 
						nguyện: ba năm không nằm giường chõng; đức Phật Thích Ca 
						, trong khi xuất gia tìm đạo, đã gối cỏ nằm sương, từ 
						năm này sang năm khác...  
						 
						Noi gương người xưa, các vị xuất gia chỉ nằm trên một 
						cái giường nhỏ hẹp, vừa ngủ, chứ không bao giờ dùng 
						giường rộng nệm cao. Kẻ tại gia cũng nên tập dần đức 
						tánh giản dị đạm bạc ấy. Nếu chưa làm được trong ngày 
						thường, thì ngày thọ giới Bát quan trai, cũng phải triệt 
						để thi hành giới thứ bảy này.  
						 
						8. Không được ăn quá giờ 
						ngọ.  
						 
						Trong luật Phật dạy: "Chư thiên ăn sớm mai, Phật ăn giờ 
						ngọ, súc sanh ăn sau giờ ngọ, ngạ quỷ ăn tối, chư Tăng 
						học theo Phật, phải ăn đúng giờ ngọ".  
						 
						Ăn đúng giờ ngọ, được năm điều lợi sau đây:  
						 
						Ít mống tâm sai quấy  
						Ít buồn ngủ  
						Dễ được nhất tâm  
						Ít hạ phong  
						Thân được yên ổn và ít sanh bệnh.  
						 
						Trừ một vài trường hợp như khi đau ốm, luật cũng châm 
						chước cho được ăn cơm cháo sau giờ ngọ, nhưng khi ăn 
						phải sanh lòng hổ thẹn.  
						 
						Vì những lợi ích thiết thực nói trên, nên người xuất gia 
						cần phải thực hành. Còn Phật tử tại gia, khi tu Bát quan 
						trai giới cũng phải giữ đúng giới này.  
						 
						C Kết Luận  
						 
						1. Lợi ích của Bát quan trai giới rất lớn lao.
						 
						 
						Như chúng ta đã thấy ở các đoạn trên, Bát quan trai giới 
						là một phát tu vô cùng lợi ích cho Phật tử tại gia. 
						Trong thời gian tu hành ấy, thân, khẩu, ý của người thọ 
						giới được hoàn toàn thạnh tịnh, tuy chỉ có 24 giờ đồng 
						hồ, nhưng 24 giờ ấy còn quý báu hơn cả một đời của người 
						không tu hành. Tuy lượng rất ít, mà phẩm lại nhiều vô 
						cùng. Nó chỉ là giọt nước, nhưng là một giọt nước trong 
						sạch hoàn toàn, cho nên nó còn quý hơn cả một ao nước 
						đục bùn nhơ, nó chỉ là một viên ngọc nhỏ xíu, nhưng đó 
						là viên ngọc Ma ni, nên nó còn quý hơn trăm ngàn châu 
						báu khác.  
						 
						Chúng ta hãy phân tích một cách rõ ràng những lợi ích mà 
						chúng ta đã thâu hoạch được trong 24 giờ ấy mà xem.
						 
						 
						Nhờ giới thứ Nhất, tâm ta không có ác ý giết hại sanh 
						vật, miệng ta không nhai nuốt những máu huyết tanh hôi, 
						thân ta không nặng nề vì thịt cá. Ðối với chung quanh, 
						ta không làm cho người và súc vật đau khỏ, mất thân 
						mạng.  
						 
						Nhờ giới thứ Hai, tâm ta không động, ý ta không tham 
						lam, thân ta không mang nặng những vật phi nghĩa. Ðối 
						với người chung quanh, ta không làm họ đau khổ vì mất 
						của cải mà họ đã nâng niu, quý trọng.  
						 
						Nhờ giới thứ Ba, tâm ta được thanh tịnh, thân ta khỏi ô 
						uế. Ðối với người bạn trăm năm, cùng những người chung 
						quanh, ta giữ đúng lề, làm choi họ kính trọng.  
						 
						Nhờ giới thứ Tư, tâm ta không tà vạy, lưỡi ta không dối 
						trá, điêu ngoa. Ðối với người chung quanh, ta giữ được 
						chữ tín, làm mọi người khỏi lo sợ, nghi ngờ vì ta.  
						 
						Nhờ giới thứ Năm, tâm ta được minh mẫn, miệng ta không 
						nồng nặc hơi men, thân ta không loạn động. Ðối với người 
						chung quanh, ta không làm cho họ phải lo sợ, khổ sở vì 
						con ma men này hành hạ.  
						 
						Nhờ giới thứ Sáu, tâm ta không buông luông theo dục lạc 
						ta không dung chứa những hình ảnh, mùi vị, âm thanh tà 
						tạp, dâm ô...Ðối với người chung quanh, ta không làm cho 
						họ phải tập nhiễm những cảm giác không trong sạch, không 
						thanh thoát.  
						 
						Nhờ giới thứ Bảy, tâm ta không mống lên những niệm danh 
						lợi, xa hoa; thân ta không bị dục lạc lôi cuốn. Ðối với 
						người chung quanh, ta gần gũi, thân cận, vì không bị cái 
						cao sang, phù phiếm bên ngoài ngăn cách.  
						 
						Nhờ giới thứ Tám, tâm ta được định tỉnh, sáng suốt, thân 
						ta nhẹ nhàng, ít bệnh tật; đối với các loài chung quanh, 
						như người nghèo đoí, ngạ quỷ, súc sinh, ta không gây ra 
						sự thèm khát, vì sự lục lạo ăn uống về đêm.  
						 
						Bao nhiêu sự lợi ích cho mình và cho người mà chúng ta 
						đã thâu thập được trong khoảng 24 giờ đồng hồ, thử hỏi 
						có một pháp tu hành của người tại gia nào quý báu hơn 
						thế nữa?  
						 
						2. Bởi vậy Phật tử nên 
						thực hành Bát quan trai giới.  
						 
						Phật tử tại gia mặc dù suốt ngày suốt tháng bận bịu về 
						sinh kế làm ăn, mỗi tháng cũng nên sắp xếp việc nhà, vào 
						chùa thọ Bát quan trai giới một vài lần. Nếu hoàn cảnh 
						thuận lợi, có thể thọ được nhiều lần lại càng tốt.  
						 
						Nếu không đủ điều kiện đến chùa, thì phương tiện của nhà 
						tu cũng được, nhưng lợi ích không bằng đến chùa.  
						 
						Vậy xin khuyên các Phật tử tại gia, nên cố gắng thực 
						hành y như lời Phật dạy, tu theo hạnh giải thoát, rồi 
						khuyên nhiều người thật hành theo, để cùng nhau tiến 
						bước lên đường giải thoát, an vui.  
						
						
						▲ Trở Lên 
						 | 
					 
					
						| 
						
						
						▲ Trở Lên
						
						 | 
					 
				 
			 
			 | 
			
			
			
			mm |