|   | 
		
		
			
				
				
					
						 PHẬT HỌC PHỔ THÔNG 
						Hòa Thượng Thích 
						Thiện Hoa 
						Thành Hội Phật Giáo HCM Ấn Hành PL 2541-1997 
						KHOÁ THỨ MƯỜI 
						HAI 
						KINH KIM CANG - DỊCH NGHĨA & 
						LƯỢC GIẢI
					
					
						
							 - KINH KIM CANG
 
							Dịch Nghĩa & Lược Giải 
						
					 
					
					  
					
					LỜI TỰA
					
					Phật nói 
					kinh Đại Bát Nhã, tại 4 chỗ, 16 hội, chép đến 600 quyển(1) 
					mới hết (Nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm). Tóm tắt bộ kinh lớn 
					trên là "Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật", gọi tắt là "Kinh 
					Kim Cang". Kinh này rút lại trong một bài là "Ma Ha Bát Nhã 
					Ba La Mật Đa Tâm Kinh", gọi tắt là "Tâm kinh", gồm 260 chữ. 
					Rốt sau Phật dạy:" Ta không nói một chữ". 
					
					Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, mở 
					đầu, mà cũng là trọng tâm của kinh này, bằng hai câu hỏi của 
					ông Tu Bồ Đề: 
					
					"Vân hà ưng trụ?" 
					"Vân hà hàng phục kỳ tâm?" 
					
					Nghĩa là: 
					
					"Làm sao hàng phục vọng tâm?" và 
					"Làm sao an trụ chơn tâm?"  
					
					Toàn bộ kinh Kim Cang Bát Nhã, 
					Phật chỉ giải đáp hai câu hỏi trên, tóm tắt lại chỉ trong 
					một câu: 
					
					"Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm". 
					
					Nghĩa là: "Đừng sanh vọng tâm trụ chấp 
					một nơi nào". Đây là câu "tinh ba" của bộ kinh Kim Cang Bát 
					Nhã, mà ngày xưa đức Lục Tổ Huệ Năng nhờ đó đã được tỏ ngộ. 
					
					Phật dạy: "Đừng sanh vọng tâm trụ chấp 
					một nơi nào", tức là dạy: "Dùng trí huệ Kim Cang Bát Nhã, 
					phá trừ rốt ráo (Ba la mật) các vô minh vọng chấp: ngã, pháp 
					hay bốn tướng" (Ngã, Nhơn, Chúng sanh và Thọ giãi). 
					
					Khi các vô minh phiền não vọng chấp hết 
					rồi thì chơn tâm thanh tịnh hiện ra. Đó là từ bờ mê muội 
					triền phược của chúng sanh mà sang bờ giác ngộ giải thoát 
					của chư Phật, tức là: "đáo bỉ ngạn (đến bờ giác ngộ). 
					
					Phật dạy: "Đừng sanh vọng tâm trụ chấp 
					một nơi nào". Đó là phương pháp tu hành của Đại thừa đốn 
					giáo, để "hàng phục vọng tâm" mà cũng là "an trụ chơn tâm" 
					vậy. 
					
					Vì phạm vi của bài tựa này có hạn và 
					theo trình độ tầm thường của tôi, nên tôi chỉ trình bày sơ 
					sài được một vài đặc diểm của kinh này thôi. Ngoài ra, không 
					biết bao nhiêu nghĩa lý cao siêu mầu nhiệm còn bí ẩn trong 
					kinh này; dù tôi có suốt đời, cũng không thể dùng trí phàm 
					phu diễn tả hay lời nói phàm phu giải thích thấu đáo được ý 
					nghĩa của Thánh hiền! 
					
					Xin quí vị hãy cố gắng đọc kỹ và tinh 
					tấn tu hành để hiểu được nghĩa lý cao siêu của kinh này. 
					
					Tôi dịch kinh này đến ba năm mới xong. 
					Bắt đầu từ ngày 24 tháng 2 năm Qúi mão (19/3/1963) đến ngày 
					mùng 10 tháng 7 năm Ất Tî (6/8/1965). Vì kinh đã khó, mà 
					trong khi dịch lại găp nhiều duyên trở ngại: bị hai năm Pháp 
					nạn lận đận lao đao, quá lao tâm khổ trí; đến khi Phật giáo 
					thống nhất, lại Phật sự quá tràn ngập, rồi tiếp đến hai lần 
					tôi vào dưỡng đường, nên công việc phải chậm trễ. 
					
					Hôm nay, nhờ Tam bảo gia hộ, tôi đã 
					dịch và lược giải xong kinh Kim Cang và Bát Nhã Tâm kinh, là 
					bộ kinh thuộc khoá XII trong toàn bộ Phật học phổ thông, do 
					tôi chủ trương biên soạn. Thế là tôi đã đóng hoàn thành cây 
					thang giáo lý 12 nấc, mà tôi đã hoài bảo trên 25 năm nay(1). 
					
					Được mãn nguyện, tôi rất vui mừng và 
					thành tâm đốt nén hương lòng, cầu nguyện:  
					
					Mặt trời Phật sáng thêm 
					Xe chánh pháp chạy hoài 
					Trên đền đáp bốn ơn 
					Dưới cứu độ ba loài 
					Thế giới được hoà bình 
					Nhơn dân đều an lạc 
					Đệ tử và chúng sanh 
					Đều trọn thành đạo Phật. 
					 
					 
					
					Mùa Hạ Năm Ất Tị 1965 
					Sa Môn Thích Thiện Hoa 
					
					PHẬT HỌC PHỒ 
					THÔNG 
					Do Hoà Thượng 
					Thích Thiện Hoa biên soạn 
					
					THÀNH HỘI PHẬT GIÁO TP. 
					HỔ CHÍ MINH 
					ấn hành 
					
					Chịu trách nhiệm ấn 
					hành TT .THÍCH GIÁC TOÀN 
					Biên tập kỹ thuật TT. THÍCH THIỆN MINH 
					ĐĐ. THÍCH ĐỔNG BỒN 
					Sửa bàn in MINH THANH 
					Trình bày PHÁP TUỆ _ TÂM CAO 
					
					NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ 
					HỔ CHÍ MINH 
					Xuất bản 
					62 . Nguyễn Thị Minh Khai _ Quận I 
					Tel. 8225340 8296764 8222726 8296713 8293637 
					In lại theo bản in Phật lịch 2536 1992 
				 
				 | 
			 
			
				
				
				
				BÀI THỨ 
				NHẤT
				
				LƯỢC GIẢI 
				
				Đề mục kinh có tám chữ: "Kim Cang 
				Bát Nhã Ba la mật kinh"; gọi tắt là kinh Kim Cang" 
				
				KINH: Kinh điển hay giáo lý, do Phật hoặc Bồ Tát nói ra. 
				Chữ "Kinh" có nhiều nghĩa, nhưng tóm lại có ba nghĩa như sau: 
				
				1. Đường canh (nghĩa đen): Sợi chỉ xuôi trong tấm 
				vải. Nhờ sợi chỉ xuôi xâu kết các sợi chỉ ngang, để làm thành 
				một tấm vải. "Kinh" cũng có nghĩa là sự tổng hợp ghi chép lại 
				các lời nói của Phật hoặc thánh hiền. 
				
				  2.Thường: Không thay đổi. Chơn lý của Phật không 
				thay đổi; dù Phật quá khứ, hiện tại hay vị lai cũng đều nói chơn 
				lý như vậy. 
				
				  3. Hợp (Khế): Kinh của Phật "hợp với chơn lý của 
				vũ trụ" và "hợp với căn cơ trình độ của chúng sanh". Cũng một bộ 
				kinh, mà tuỳ theo trình độ của mỗi người, kẻ hiểu cao, người 
				hiểu thấp. Tuy sự hiểu ngộ có cao thấp không đồng, mà cứ như lý 
				tu hành thì đều được khỏi khổ luân hồi, không sót một người nào. 
				Kinh Phật có những đặc điểm như thế, nên gọi là "Khế kinh" 
				
				KIM CANG: Chữ "Cang", người Nam đọc là "cang", người Bắc 
				đọc là "cương". Có hai nghĩa: 
				
				1. Ngọc Kim cương: Thuộc về loại khoáng vật rất quí giá. 
				Tánh nó rất cứng và rất bén, đã không bị các vật phá hoại, trái 
				lại còn phá hoại các vật. 
				
				2. Kim Cang: chất cứng rắn trong loại kim khí, tức là 
				"thép", cũng thuộc về loại khoáng vật. Tánh nó cũng rất cứng 
				bén, và cũng không bị các vật phá hoại, trái lại còn phá hoại 
				các vật, như khoan sắt, đục đá v.v...dao búa nhờ có thép mới 
				bén. 
				
				Chất "cứng rắn" của "ngọc Kim cương" hay của "thép", đã sẳn có 
				từ hồi nào đến giờ, không phải do rèn luyện mới có, hay nhờ các 
				vật bên ngoài tạo thành. 
				
				Phật dùng "ngọc kim cương" hay "chất thép cứng", để thí dụ "trí 
				huệ Bát Nhã" rất quí báu và sẳn có trong mọi người (tức là 
				tánh Phật sáng suốt của mỗi chúng sanh). 
				
				Trí huệ Bát Nhã, không phải do tu mới có, hay nhờ các duyên bên 
				ngoài luyện tập mới thành. Nó có sẳn trong mỗi chúng sanh từ vô 
				thỉ đến nay. Dù ở địa vị phàm phu nó cũng không giảm, hay chứng 
				quả Thánh nó cũng không thêm. Nó đã không bị các vô minh phiền 
				não tàn phá, trái lại còn phá tiêu tất cả vô minh phiền não từ 
				vô thỉ đến nay. Nó phá một cách rốt ráo và dễ dàng, như gió thổi 
				mây bay, mặt trời chiếu sương mù tan. Bởi thế nên gọi là "Bát 
				Nhã Ba La mật" Trí huệ rốt ráo. 
				
				BÁT NHÃ: Dịch âm của chữ Phạn "Prajnà". Vì Trung hoa 
				không có chữ dịch cho cân xứng nên chỉ dịch nguyên âm là "Bát 
				Nhã". 
				
				Bát Nhã có nhiều nghĩa sâu xa, nhưng tóm lại có sáu nghĩa: 
				
				1. Viễn ly: xa lìa các vô minh, phiền não vọng chấp; 
				
				2. Minh: Sáng, không mờ tối 
				
				3. Huệ: Sáng tỏ 
				
				4. Thanh tịnh: trong sạch không nhiễm ô 
				
				5. Trí: Thông suốt 
				
				6. Trí huệ: Sáng tỏ thông suốt 
				
				Bát Nhã có nhiều nghĩa như vậy, nếu lấy một nghĩa thì không được 
				đúng lắm, nên các nhà dịch chỉ để nguyên âm chữ Phạn (Bát 
				Nhã). 
				
				Tuy nhiên, trong 6 nghĩa trên đây, nếu đem so sánh và cân nhắc, 
				thì có thể dùng tạm nghĩa "trí huệ"; vì nghĩa "trí huệ" có phần 
				rõ ràng và xác đáng hơn hết. 
				
				Nhưng cần phải chọn lọc thật kỹ, bỏ ra các thứ Trí huệ sau đây, 
				mới đúng với nghĩa chữ "Bát Nhã": 
				
				1. Trí huệ thế gian: Trong thế gian, những người học rộng 
				thấy xa, thông minh lanh lợi, khôn khéo lịch duyệt, hay giỏi mọi 
				phương diện, thiên hạ gọi đó là người "trí huệ". Nhưng trí huệ 
				đó là trí huệ của thế tục phàm phu, chứ không phải là "trí huệ 
				Bát Nhã". 
				
				2. Trí huệ ngoại đạo: Chúng ngoại đạo tu thiền định 
				(xem bài "Thiền định" trong bản đồ tu Phật) lâu ngày cũng có 
				trí huệ, biết được quá khứ vị lai, thần thông biến hoá vô cùng, 
				nhiều pháp kỳ lạ. Nhưng trí huệ đó là tà trí huệ, chứ không phải 
				là "trí huệ Bát Nhã". 
				
				3. Trí huệ Nhị thừa: Hàng Thinh văn và Duyên giác, do tu 
				pháp Tứ đế và Thập Nhị Nhơn duyên mà đặng đạo quả. Các vị này đã 
				khỏi sanh tử luân hồi, thần thông tự tại và có trí huệ biết được 
				việc quá khứ, hiện tại và vị lai. Nhưng trí huệ đó thuộc về Tiểu 
				thừa trí huệ, chỉ thấy về "ngã không chơn như" (thiên không), 
				chớ chưa thấy được "pháp không chơn như", nên cũng không phải 
				trí huệ Bát Nhã. 
				
				Trừ ba loại trí huệ trên đây, duy chỉ có trí huệ Phật hay của 
				Đại thừa Bồ Tát, mới phải là trí huệ Bát Nhã. 
				
				Công dụng cũa trí huệ Bát Nhã, như mặt nhựt chiếu phá các mây mù 
				vô minh vọng chấp: ngã, pháp, bốn tướng (ngã, nhơn, chúng 
				sanh, thọ giả), có, không, chẳng phải có, chẳng phải không 
				v.v...Bởi thế nên Trí huệ Bát Nhã chiếu soi các pháp, thì pháp 
				nào cũng bỏ hình tướng giả dối, mà hiện ra tướng chơn thật. 
				Tướng chơn thật của các pháp đã hiện, tức là chơn tâm, chơn như 
				hay chơn lý của vũ trụ hiện ra vậy. 
				
				Trí huệ Bát Nhã, có công năng như chiếc thuyền đưa chúng sanh 
				một cách rốt ráo, từ bên này bờ mê muội triền phược của phàm 
				phu, đến bên kia bờ giác ngộ giải thoát của chư Phật, nên cổ 
				nhơn cũng gọi là "thuyền Bát Nhã". 
				
				Muốn phân biệt trí huệ Bát Nhã khác với trí huệ của phàm phu, 
				ngoại đạo và Tiểu thừa, thì chúng ta nên dịch nghĩa chữ "Bát 
				Nhã" như sau: 
				
				1. Trí huệ Phật 
				
				2. Trí huệ rốt ráo (Bát Nhã 
				Ba La mật) 
				
				3. Trí huệ Bát Nhã (dùng cả 
				chữ Phạn và chữ hán) 
				
				BA LA MẬT: "ba la mật" hoặc "ba la mật đa" là dịch âm của 
				chữ Phạn "Paramita". Có hai nghĩa: 
				
				1. Đáo bỉ ngạn: Đến bờ bên kia. Trí huệ Bát Nhã có công 
				năng đưa chúng sanh từ bờ triền phược mê muội của phàm phu bên 
				này, mà qua đến bờ giác ngộ giải thoát của chư Phật bên kia, nên 
				gọi là "Bát Nhã Ba la mật". 
				
				2. Cứu kính viên mãn: hoàn toàn rốt ráo. Theo tục ngữ ở 
				Ấn Độ, phàm làm việc gì, khi đã được hoàn toàn viên mãn, thì gọi 
				là "Ba la mật". Trí huệ Bát Nhã là loại trí huệ đã rốt ráo viên 
				mãn, nên gọi là "Bát Nhã Ba la mật". 
				
				Tóm lại, "Kim Cang Bát Nhã Ba la mật kinh" là kinh nói về "Trí 
				huệ Phật" (Bát Nhã), loại Trí huệ đã rốt ráo viên mãn 
				(ba la mật). Trí huệ này có công năng đưa hành giả từ bến mê 
				muội triền phược của chúng sanh, sang bờ giác ngộ giải thoát của 
				chư Phật (đáo bỉ ngạn). 
				
				Trí huệ Phật (Bát Nhã) rất quý báu (như ngọc kim cương), 
				vừa cứng rắn và sắc bén (như thép), có thể phá tiêu núi 
				vô minh vọng chấp (ngã, pháp hay bốn tướng) và đốn tận gốc rừng 
				phiền não nghiệp chướng, từ vô lượng kiếp đến nay, mà không bị 
				hư tổn; cũng như ngọc kim cương hay chất thép, có thể đục chẻ 
				các loại rất cứng, như sắt, đá v.v...mà không bị hư hoại. 
				
				Phật nói kinh "Đại Bát Nhã" tại 4 chỗ, 16 hội gồm 600 quyển, 
				trong 22 năm mới xong (nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm). 
				Tóm tắt lại kinh Đại Bát Nhã là "kinh Kim Cang Bát Nhã Ba la 
				mật". 
				
				NÓI VỀ DANH, TƯỚNG, THỂ, DỤNG VÀ TÔN CHỈ CỦA KINH NÀY: 
				
				Danh: Kinh này lấy "thí dụ" (Kim Cang) và "pháp"
				(Bát Nhã Ba la mật) mà đặt tên. 
				
				Tướng: Kinh này lấy "Đại thừa" làm giáo tướng. 
				
				Thể: Kinh này lấy "Thật tướng" làm thể. 
				
				Dụng: Công dụng của kinh này là phá các chấp tướng 
				(Ngã, pháp) đoạn hết các vô minh mê hoặc. 
				
				Tôn chỉ: Kinh này lấy "Vô trụ" (không trụ chấp nơi 
				nào) làm tôn chỉ. 
				
				KẾT LUẬN 
				
				Mới đọc đến đề mục kinh, chúng ta đã thấy thích thú lắm rồi! Đề 
				mục kinh chỉ có tám chữ, mà đã nói lên được rõ ràng nội dung và 
				tôn chỉ của kinh: Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẳn có Trí huệ 
				Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã
				(Phật tánh sáng suốt hay khả năng thành Phật) rất là quý 
				báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép. Trí huệ Bát 
				Nhã có sẳn từ vô thỉ đến nay, đã không bị cái gì làm hư hoại; 
				trái lại, còn phá tiêu núi Ngã tướng, Nhơn tướng, chúng sanh 
				tướng và Thọ giả tướng, hay núi Ngã chấp, pháp chấp; nói tổng 
				quát là phá các vô minh vọng chấp từ vô thỉ đến nay. Nó phá một 
				cách hoàn toàn rốt ráo (Ba la mật) và dễ dàng, như mặt 
				trời chiếu sương tan, gió thổi mây bay. 
				
				Trí huệ Bát Nhã có công năng như chiếc thuyền, đưa hành giả từ 
				bên này bến vô minh mê muôi của chúng sanh, vượt qua khỏi sông 
				mê bể khổ, đến bờ bên kia Giác ngộ giải thoát của chư Phật, tức 
				là "Đáo bỉ ngạn" (Ba la mật). Bởi thế nên Cổ nhơn gọi là 
				"Thuyền Bát Nhã". 
				
				Chúng ta đã sẳn có "Trí huệ Bát Nhã" hay "Trí huệ Phật", thì thế 
				nào chúng ta cũng sẽ thành Phật. 
				
				TÊN DỊCH GIẢ 
				
				Đức Phật Thích ca Mâu ni nói kinh này tại tịnh xá của ông Trưởng 
				giả Cấp Cô Độc trong vườn của Thái tử Kỳ Đà, ở nước Xá Vệ. 
				
				Ngài A-Nan kiết tập. Ngài Tam Tạng Pháp sư tên Cưu Ma La thập 
				dịch từ văn Phạn (Ấn Độ) qua văn Trung hoa. 
				
				TAM TẠNG PHÁP SƯ: Tam Tạng là ba kho tàng; vì có công 
				năng trùm chứa văn nghĩa của Phật pháp, nên gọi là "Tàng". 
				
				1. Kinh tạng: chép những lời Phật dạy hoặc những lời của 
				các vị Bồ Tát nói ra, khi đã được Phật chứng nhận. 
				
				2. Luật tạng: chép những giới và luật (kỹ luật) 
				trong 7 chúng (Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, sa di ni, Thức xoa 
				và Ưu bà tắc, Ưu bà di). 
				
				3. Luận tạng: chép những lời nghị luận chánh tà, phân 
				biệt chơn vọng của các vị Bồ Tát và chư Tổ. 
				
				Thầy giảng "kinh" thì gọi là "Pháp sư" 
				
				Thầy giảng "luật" thì gọi là "Luật sư" 
				
				Thầy giảng "luận" thì gọi là "Luận sư" 
				
				Ngài Cưu Ma La Thập, thông suốt cả ba tạng và giảng dạy cả Kinh, 
				Luật, Luận, nên gọi Ngài là "Tam Tạng Pháp sư" (vị Pháp sư 
				thông ba tạng). 
				
				CƯU MA LA THẬP (Kumàralabdha): Tên của một vị Pháp sư có 
				danh tiếng lỗi lạc ở Ấn Độ; bên Trung hoa dịch nghĩa là "Đồng 
				Thọ", nghĩa là vị Pháp sư, tuổi tác thì "đồng niên", mà tài đức 
				lại "kỳ lão" (thọ). 
				
				Kinh này có nhiều bản dịch, nhưng bản dịch của Ngài Cưu Ma La 
				Thập rất rõ ràng sáng suốt, nên được phổ biến nhiều hơn hết. 
				
				A. PHẦN TỰ
				
				(PHẦN MỞ ĐẦU KINH BÁT 
				NHÃ) 
				
				Tôi nghe như vầy: Một hôm, tại nước Xá Vệ, Phật và 1250 vị 
				Đại Tỳ kheo, đều ở Tịnh xá Kỳ hoàn, trong vườn của ông Thái tử 
				Kỳ Đà và ông Trưởng giả Cấp Cô Độc. 
				
				Sắp đến giờ ngọ trai, Phật và chúng tăng đều đắp y, mang bình 
				bát vào thành Xá Vệ, theo thứ lớp khất thực. 
				
				Khất thực xong, Phật và chúng tăng đồng về Tịnh xá để thọ 
				trai. Sau khi thọ trai xong, Phật xếp y, cất bình bát và rữa 
				chân, rồi trải toạ cụ, ngồi yên tịnh. 
				
				LƯỢC GIẢI 
				
				Đây là những cử chỉ bình thường và rất đơn giản; nhưng đã tạo 
				thành một bức tranh tuyệt diệu, nói lên được tinh thần "giải 
				thoát vô trụ", để mở màn cho Phật nói kinh Bát Nhã. 
				
				Chúng ta hãy định tâm, đọc kỹ lại một lần nữa, những câu sau 
				này, thì chúng ta sẽ thấy bộc lộ rõ ràng tinh thần Bát Nhã 
				(giải thoát vô trụ). 
				
					
						- "Sắp đến giờ ngọ trai, Phật 
						và chúng tăng
 
						đều đắp y, mang bình bát vào thành 
						Xá Vệ, theo thứ lớp khất thực. 
						Khất thực xong, Phât và chúng tăng 
						đồng về Tịnh xá để thọ trai. Sau khi 
						thọ trai xong, Phật xếp y, cất bình 
						bát và rữa chân, rồi trải toạ cụ ngồi 
						yên tịnh." 
					 
				 
				
				Vì ngộ được tánh "Bát Nhã giải thoát", trùm khắp trên muôn vật, 
				nên Cổ nhơn có nói hai câu: 
				
					
						- Thanh thanh tuý trúc, 
						tổng thị Chơn như 
 
						Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã. 
						 
					 
				 
				
				Dịch nghĩa: 
				
					
						- Mướt mướt tre xanh, biểu lộ 
						Chơn như.
 
						Mởn mởn hoa vàng, trình bày Bát Nhã.  
					 
				 
				
				Ngài Thái hư pháp sư giảng: 
				
				"Phật nói kinh này để chỉ rõ trong mỗi chúng sanh đều sẳn đủ bản 
				thể Kim Cang Bát Nhã. Cái diệu dụng của Kim Cang Bát Nhã là làm 
				cho hành giả khi tu Lục độ vạn hạnh, mà không trụ chấp các 
				tướng. 
				
				Người ngộ được Kim Cang Bát Nhã rồi thì đối với các pháp và mọi 
				việc đều thông suốt vô ngại; những việc làm bình thường hằng 
				ngày đều là Phật pháp, tạm bình thường đó cũng là Phật pháp cho 
				đến đi, đứng, nằm, ngồi v.v... cũng đều là Phật pháp. Những việc 
				thần thông biến hoá đều là diệu dụng vô thượng của chư phật đã 
				đành, mà những nỗi mừng, vui, giận, ghét cũng là cái phương tiện 
				hay khéo của phật pháp. 
				
				Trái lại, nếu người chưa nhập được "Kim Cang Bát Nhã", dù có 
				được thần thông biến hoá di sơn đảo hải đi nữa, thì cũng là tà 
				thuật của yêu ma ngoại đạo, dù có thiền định muôm năm, cũng chỉ 
				hưởng phước quả hữu lậu của cõi nhơn, thiên mà thôi; một mai 
				nghiệp báo hết rồi, vẫn trở lại thọ khổ luân hồi trong lục đạo. 
				Quí vị nên chín chắn nghĩ xét! 
				
				Kinh Kim Cang Bát Nhã, trong mỗi người đều sẳn đủ và khắp cả 
				pháp giới. Nó không ở trong, không ở ngoài, không ở chính giữa 
				và cũng không rời trong ngoài và chính giữa; không thể nghĩ bàn 
				và cũng không trụ chấp được. Nếu người bền chí tu hành lâu dài, 
				thì sẽ có ngày tự nhiên đốn ngộ. Trái lại, nếu người hướng ngoại 
				tìm cầu, chấp rằng Phật có thần thông biến hoá v.v... phải có đủ 
				như thế, mới phải là Phật. Những người chấp như thế, không thể 
				phân biệt, giản trạch được thế nào là Phật pháp và thế nào là 
				ngoại đạo. Than ôi! nếu sai một hào ly, thì cách xa ngàn dặm! 
				Quí vị phải cẩn thận, rất cẩn thận!" 
				
				(KIM CANG GIẢNG LỤC) 
				
				GIẢI DANH TỪ 
				
				TÔI NGHE NHƯ VẦY: trong trí Độ Luận có chép: "Khi Đức Như 
				Lai sắp nhập Niết bàn ông Ưu Ba Ly nói với A- Nan rằng:_ Ông là 
				người giữ gìn "Pháp tạng" của Phật, ông phải bạch Phật những 
				điều cần yếu về sau. 
				
				Ông Ưu Ba Ly và A-Nan cùng nhau đến bạch Phật bốn điều: 
				
				1. Tất cả các kinh của Phật, mở 
				đầu nên đề chữ gì? 
				
				2. Phật nhập diệt rồi lấy ai 
				làm thầy? 
				
				3. Nương nơi đâu mà trụ? 
				
				4. Xá lợi và y bát của Phật, 
				phân như thế nào? 
				
				Phật dạy: 
				
				1. Mở đầu các kinh, hãy để "Như 
				thị ngã văn" (tôi nghe như vầy). 
				
				2. Ta nhập Niết bàn, các ông 
				phải lấy "giới luật" làm thầy. 
				
				3. Các ông phải trụ nơi pháp 
				"Tứ niệm xứ" (quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô 
				thường, quán pháp vô ngã). 
				
				4. Xá lợi của ta chia làm ba 
				phần (một phần thờ tại nhơn gian, một phần thờ trên các cõi 
				trời, một phần thờ dưới Long cung) còn y và bát truyền lại 
				cho ông Ma Ha Ca Diếp. 
				
				TỲ KHEO: Tỳ kheo là dịch âm của tiếng Phạn, dịch nghĩa có 
				ba: 
				
				1. Khất sĩ: Là kẻ đi xin: trên xin giáo pháp của Phật để 
				nuôi tâm, dưới xin vật thực để nuôi thân. 
				
				2. Phá ác: Phá trừ các việc tội ác. 
				
				3. Bố ma: Làm khủng bố các ma. 
				
				NGỌ TRAI: Phật độ cơm đúng giờ ngọ (12 giờ trưa) nên gọi 
				là "ngọ trai". Những thực phẩm cúng dường chư Tăng, trong giờ 
				ngọ, thì gọi là "Trai Tăng" 
				
				Y: Y phục của chư tăng, tức là áo Cà sa. Y phục của chư 
				Tăng bằng vải, có nhiều loại: Không điều (mạn y), năm điều, bảy 
				điều và chín điều v.v... 
				
				BÌNH BÁT: Đồ đựng thức ăn của chư tăng, làm bằng sành 
				v.v...lớn hay nhỏ tuỳ sức người dùng. 
				
				TOẠ CỤ: Tấm vải để lót vải ngồi của Phật hoặc chư Tăng. 
				
				
				▲ Trở Lên 
				 | 
			 
			
				
				
				
				BÀI THỨ 
				HAI
				
				PHẦN CHÁNH TÔN
				
					- 1. 
					Ông Tu Bồ Đề hỏi Phật hai câu quan trọng
 
					- 2. 
					Phật khen Ông Tu Bồ Đề và hứa sẽ khai thị
 
					- 3. 
					Phật dạy Bồ Tát hoá độ chúng sanh không nên chấp tướng
 
					- 4. 
					Phật dạy Bồ Tát bố thí không nên chấp tướng
 
					- 5. 
					Bố thí không chấp tướng, phước nhiều như mười phương hư 
					không
 
					- 6. 
					Phật dạy an trụ chơn tâm.
 
				 
				
				1. ÔNG TU BỔ ĐỀ 
				HỎI PHẬT HAI CÂU QUAN TRỌNG
				
				Khi đó, ở trong đại chúng, ông 
				Trưởng lão Tu Bồ Đề đứng dậy, vén tay áo bên hữu, gối quỳ xuống, 
				chắp tay cung kính và bạch Phật rằng: 
				
				"Hy hữu thay Ðức Thế Tôn! Ngài thường nhớ nghĩ và bảo hộ các vị 
				Bồ Tát. Ngài rất hay khéo dạy bảo các vị Bồ Tát . 
				
				Bạch Thế Tôn! Nếu có người phát tâm Bồ Đề muốn cầu quả Phật, 
				thì: 
				
				Làm sao hàng phục vọng tâm ? 
				
				Và làm sao an trụ chơn tâm ? 
				
				LƯỢC GIẢI 
				
				Đoạn này, ông Trưởng lão Tu Bồ Đề hỏi Phật hai câu quan trọng, 
				để mở đầu, phật nói kinh Bát Nhã. 
				
				"Hàng phục vọng tâm" và "an trụ chơn tâm" là vấn đề khó nhất. 
				Nhưng nếu người phát tâm Bồ Đề, mà không "hàng phục được vọng 
				tâm" và "an trụ chơn tâm" thì không bao giờ chứng đặng quả Phật. 
				
				Vậy "làm sao hàng phục vọng tâm?" 
				
				Và "làm sao an trụ chơn tâm?" 
				
				Đó là điều quan trọng, mà ông Trưởng lão Tu Bồ Đề, đã đại diện 
				cho toàn thể đại chúng, đứng lên cung kính hỏi Phật. 
				
				Lãnh hội được diệu nghĩa của kinh này nên Ngài Xuyên Thiền sư có 
				làm bài tụng rằng: 
				
				Nguyên văn (dịch âm): 
				
					
						- Nễ hỷ ngã bất hỷ
 
						Quân bi ngã bất bi 
						Nhạn tư phi hàn bắc 
						Yến ức cựu sào qui 
						Thu nguyệt xuân hoa vô hạn ý 
						Cá trung chỉ hứa tự gia tri 
					 
				 
				
				Dịch nghĩa 
				
					
						- Người vui ta chẳng vui
						
 
						Người buồn ta chẳng buồn  
						Nhạn bay về biển Bắc  
						Yến nhớ ổ trời Nam  
						Xuân hoa thu nguyệt vô cùng ý 
						Lãnh hội thế nào tự mình thôi (biết)  
					 
				 
				
				ĐẠI Ý 
				
				Bài này diễn tả lý Bát Nhã vô trụ 
				
				Hai câu đầu nói về "vô trụ vô chấp". Ba câu sau tả canh vật 
				thiên nhiên, như nhạn bay về biển Bắc; chim yến nhớ tổ bay về 
				phương Nam, mùa xuân đến trăm hoa đua nở, mùa thu thì mặt trăng 
				sáng tỏ. 
				
				Bức tranh tuyệt diệu của vũ trụ bao la, vô cùng ý tứ, biểu lộ 
				"Bát Nhã chơn như". Tự người ngộ lấy. 
				
				2. PHẬT KHEN ÔNG 
				TU BỔ ĐỀ VÀ HỨA SẼ KHAI THỊ
				
				Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Lời ông vừa hỏi thật là quí lắm! vậy ông 
				hãy chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ dạy". 
				
				Phật dạy tiếp: "Tu Bồ Đề! Nếu có người phát tâm Bồ Đề, muốn cầu 
				quả Phật, thì như lời ta dạy đây mà "hàng phục vọng tâm" và "an 
				trụ chơn tâm". 
				
				LƯỢC GIẢI 
				
				Nhờ ông Tu Bồ Đề thưa thỉnh, mà Phật nói kinh Bát Nhã, để chỉ 
				dạy cho chúng sanh tỏ ngộ: Tự mình có tánh "Bát Nhã" và phải tự 
				trở về với tánh "Bát Nhã" của mình; nên phật khen câu hỏi của 
				ông Tu Bồ Đề thật là quí lắm! 
				
				Nhưng ngộ nhập được lý "Bát Nhã", không phải người vọng tâm loạn 
				ý mà nhập được; phải người dọn mình sạch sẽ, thành tâm định ý, 
				mới lãnh hội được, nên Phật dạy: "Phải chăm chú nghe". Và Phật 
				hứa sẽ dạy phương pháp "hàng phục vọng tâm và an trụ chơn tâm" 
				như sau. 
				
				GIẢI DANH TỪ: 
				
				Tâm Bồ Đề: Bồ Đề là dịch âm tiếng Phạn, dịch nghĩa là "Giác" tức 
				là giác ngộ. Tâm Bồ Đề là tâm giác ngộ, sáng suốt; nói dễ hiểu 
				hơn là "tâm Phật" (Phật cũng dịch là Giác) 
				
				Người phát tâm Phật để cầu quả Phật, tâm Bồ Đề là "Nhơn Phật" 
				quả Bồ Đề là "quả Phật". 
				
				Tu Bồ Đề: Tên của một vị đệ tử phật. Trung hoa dịch có 3 nghĩa: 
				1. Thiện hiện (khéo thị hiện), 2. Thiện kiết (điềm lành), 3. 
				Không sanh (ông ưa nhập "không định" và ngộ lý "chơn không" 
				thứ nhứt). 
				
				Ông Tu Bồ Đề, bên trong thì ẩn hạnh Bồ Tát, bên ngoài lại hiện 
				tướng Thinh văn; địa vị cao, phước đức lớn, nên gọi là "Trưởng 
				lão". 
				
				Thế Tôn: "Phật là một đấng mà tất cả chúng sanh trong thế gian 
				và xuất thế gian đều tôn kính. 
				
				3. PHẬT DẠY BỒ TÁT ĐỘ SANH 
				KHÔNG NÊN CHẤP TƯỚNG
				
				Phật dạy: "Tu Bồ Đề! các ông phải y như lời ta dạy đây, mà hàng 
				phục vọng tâm của mình. 
				
				Tu Bồ Đề! Các vị Đại Bồ Tát phải độ tất cả các loại chúng sanh 
				(như loài sanh trứng, loài sanh con, loài sanh chỗ ẩm thấp, loài 
				hoá sanh, loài có sắc, loài có tưởng, loài chẳng phải không 
				tưởng v.v...) đều được nhập Niết bàn. Bồ Tát tuy độ vô lượng vô 
				số chúng sanh như vậy, nhưng không thấy có một chúng sanh nào 
				được độ. Tại sao vậy? Nếu Bồ Tát còn thấy có mình độ và chúng 
				sanh được độ, tức là Bồ Tát còn chấp bốn tướng (tướng ngã, tướng 
				nhơn, tướng chúng sanh và tướng thọ giả) thì không phải là Bồ 
				Tát". 
				
				LƯỢC GIẢI 
				
				Đoạn này Phật dạy Bồ Tát độ sanh, phải dùng Trí huệ Bát Nhã, phá 
				các vọng chấp ngã, nhơn v.v...đó là phương pháp "hàng phục vọng 
				tâm". 
				
				Bồ Tát muốn biết mình còn phiền não vọng chấp hay không, để diệt 
				trừ, tất nhiên phải lao mình vào phiền não; nghĩa là phải nhập 
				thế độ sanh, làm các Phật sự. 
				
				Phật dạy Bồ Tát khi nhập thế độ sanh làm các Phật sự, luôn luôn 
				phải dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ các chấp ngã, chấp pháp, không 
				còn thấy bốn tướng (ngã nhơn v.v....)thì phiền não vọng 
				chấp không sanh. Đó là phương pháp "hàng phục vọng tâm". 
				
				Nếu Bồ Tát vừa khởi vọng chấp: "có mình độ và người được độ 
				v.v...", tức là Bồ Tát còn ngã, nhơn, bỉ, thử, thì vô số phiền 
				não đua nhau nổi lên như sóng. Cổ nhơn nói: 
				
				"Nhứt ba tài động, vạn ba tuỳ". 
				
				Nghĩa là: Một lượng sóng vừa nhô lên, thì trăm ngàn lượng sóng 
				liền theo đó mà nổi lên. 
				
				Nếu Bồ Tát còn vô minh phiền não vọng chấp nổi lên, thì không 
				phải là Bồ Tát; vì chưa nhập được Trí huệ Bát Nhã. 
				
				Kinh Tứ thập nhị chương chép: 
				
				"Giáo pháp của ta: "Niệm" mà không trụ chấp nơi niệm, mới thật 
				là "Niệm". "Làm" mà không trụ chấp nơi làm, mới thật là "làm". 
				"Nói" mà không trụ chấp nơi nói, mới thật là "nói". "Tu" mà 
				không trụ chấp nơi tu, mới thật là "tu". "Chứng" mà không trụ 
				chấp nơi chứng, mới thật là "chứng". 
				
				Đó là tôn chỉ "vô trụ tướng" của kinh Bát Nhã. 
				
				GIẢI DANH TỪ: 
				
				Tất cả chúng sanh chia làm 9 loại: 
				
				1. Loài sanh trứng (noãn 
				sanh): như gà, vịt, chim, cò v.v... 
				
				2. Loài sanh con (thai 
				sanh): như người, trâu, bò v.v... 
				
				3. Loài sanh nơi ẩm thấp 
				(thấp sanh): như vi trùng, con oăn v.v... 
				
				4. Loài hoá sanh (hoá sanh): 
				như cỏ mục hoá sanh đơm đớm v.v... 
				
				5. Loài có hình sắc (hữu 
				sắc):như chúng sanh ở cõi Dục và cõi Sắc. 
				
				6. Loài không hình sắc (vô 
				sắc): như chúng sanh ở cõi Vô sắc v.v... 
				
				7. Loài có tâm tưởng (hữu 
				tưởng): như chúng sanh ở cõi trời hữu tưởng v.v... 
				
				8. Loài không tâm tưởng (vô 
				tưởng): như chúng sanh ở cõi vô tưởng. Chúng sanh ở cõi Dục, 
				tu định vô tưởng, được sanh về cõi trời Vô tưởng, hưởng thọ 500 
				kiếp, rồi vẫn trở lại trong vòng sanh tử luân hồi. 
				
				9.Loài chẳng phải có tưởng và 
				chẳng phải không tưởng (phi hữu tưởng, phi vô tưởng): như chúng 
				sanh ở cõi trời phi phi tưởng xứ, trong cõi Vô sắc. Chúng sanh ở 
				cõi này, đồng với hư không, không có thân thể và thế giới. Họ 
				chỉ có định không có huệ, thọ đến tám vạn kiếp, rồi trở lại đoạ 
				về chỗ không vong. 
				
				BỐN TƯỚNG: Mỗi chúng sanh đều có bốn tướng: Như đối với người 
				khác tự xưng "tôi" hay "ta", là "ngã tướng"; Ta có nhơn cách là 
				"nhơn tướng"; Ta thuộc loài hữu tình, sanh vật là "chúng sanh 
				tướng"; Ta có thân mạng, sống trong một thời gian là "thọ giả 
				tướng". 
				
				Tóm lại, phàm chấp một tướng, tất nhiên chấp đủ bốn tướng: 
				
				_ Ngã tướng: chấp có "ta" 
				
				_ Nhơn tướng: chấp có "loài người". 
				
				_ Chúng sanh tướng: chấp có chúng sanh. 
				
				_ Thọ giả tướng: chấp có mạng sống trong một thời gian 
				
				NIẾT BÀN: Dịch âm của tiếng Phạn "Nirvana", dịch nghĩa là viên 
				tịch: Viên mãn vắng lặng. Niết bàn có bốn loại: 
				
				1. Tánh tịnh Niết bàn. 
				
				2. Vô trụ xứ Niết bàn. 
				
				3. Hữu dư Niết bàn. 
				
				4. Vô dư Niết bàn. 
				
				(Xem đoạn Diệt đế trong quyển Tứ diệu đế).  
				
				4. PHẬT DẠY BỔ TÁT BỐ THÍ 
				KHÔNG NÊN CHẤP TƯỚNG
				
				Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Bồ Tát khi tu pháp Bố thí, không nên trụ 
				chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần là: 
				sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp. Tại sao vậy? Nếu Bồ Tát bố 
				thí mà không chấp tướng bố thí, thì phước đức nhiều lắm, không 
				thể nghĩ bàn". 
				
				LƯỢC GIẢI 
				
				Đoạn trên (đoạn 3), Phật dạy Bồ Tát khi độ sanh, phải 
				dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ  "ngã chấp", tức là không chấp 
				bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. 
				
				Đoạn này, Phật dạy Bồ Tát khi bố thí, cũng phải dùng Trí huệ Bát 
				Nhã, phá trừ "pháp chấp"; nghĩa là không chấp tướng sáu trần: 
				sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp. Đó là phương pháp "hàng phục 
				vọng tâm". 
				
				Bồ Tát làm Phật sự, như hoá độ chúng sanh hay bố thí v.v...mà 
				tâm còn chấp ngã chấp pháp, tất nhiên tâm còn phiền não nhiễm ô 
				mà làm các phật sự (phước thiện), thì các Phật sự đó cũng 
				biến thành nhiễm ô; cũng như đem đồ nhơ bẩn mà đựng vật tinh 
				khiết, thì vật tinh khiết trở thành nhơ bẩn, nên hành giả chỉ 
				hưởng phước hữu lậu nhiễm ô; nghĩa là phước báu nhơn thiên ở thế 
				gian, hưởng có thời hạn; như hư không bị cuộc hạn trong ly nhỏ. 
				
				Trái lại, khi làm các Phật sự, như bố thí v.v...nếu Bồ Tát dùng 
				Trí huệ Bát Nhã, phá trừ chấp ngã, chấp pháp; nghĩa là không 
				chấp mình là người bố thí, ban ơn (chấp ngã), kia là kẻ 
				thọ thí, chịu ơn (chấp nhơn), đây là vật bố thí (chấp 
				pháp), thí các phiền não nhiễm ô không sanh, tâm được thanh 
				tịnh. Tâm thanh tịnh tức là tâm Phật hay tâm chơn như, rộng rãi 
				bao la, như mười phương hư không. Nếu đem tâm thanh tịnh mà bố 
				thí, thì hành giả được phước vô lậu thanh tịnh, rộng lớn như hư 
				không, không cùng tận. Cũng như một giọt nước tuy nhỏ (bố thí 
				ít), nhưng được hoà vào biển cả (tâm tinh) thì cũng 
				được biến khắp cả biển, rộng rãi bao la. 
				
				Bởi thế nên Phật dạy: Bồ Tát khi bố thí phải "tam luân không 
				tịch", nghĩa là không thấy (chấp) có mình ban ơn, kẻ chịu 
				ơn và vật bố thí. Như thế mới gọi là "Bố thí Ba la mật" (Bố 
				thí rốt ráo). 
				
				5. BỐ THÍ KHÔNG CHẤP TƯỚNG 
				PHƯỚC NHIỀU NHƯ MƯỜI PHƯƠNG HƯ KHÔNG
				
				Phật hỏi: "Tu Bồ Đề! Hư không ở phương Đông có thể nghĩ bàn được 
				không?". Tu Bồ Đề thưa: "bạch Thế Tôn! không thể nghĩ bàn được". 
				
				Phật hỏi tiếp: "Hư không phương Tây, phương Nam, phương Bắc, 
				phương trên, phương dưới và bốn gốc, có thể nghĩ bàn được 
				không?" Tu Bồ Đề thưa: "Bạch thế tôn! không thể nghĩ bàn được". 
				
				"Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Bồ Tát bố thí, không trụ chấp các tướng, 
				đặng phước đức cũng như mười phương hư không, nghĩa là nhiều lắm 
				không thể nghĩ bàn". 
				
				LƯỢC GIẢI 
				
				Đoạn này tiếp theo đoạn trên (đoạn 4), Phật dùng mười 
				phương hư không, để thí dụ phước đức của người bố thí không chấp 
				tướng. 
				
				Phật dạy, Bồ Tát không chấp tướng bố thí, hay nói cách khác là 
				đúng như Trí huệ Bát Nhã mà làm việc bố thí, thì được phước đức 
				vô lậu thanh tịnh và nhiều như mười phương hư không, không có 
				cùng tận. 
				
				_Thế nào là phước hữu lậu nhiễm ô, có cùng tận? Và thế nào là 
				phước vô lậu thanh tịnh, không cùng tận? 
				
				Chúng tôi xin dẫn một thí dụ làm điển hình, để giải thích vấn đề 
				này: 
				
				Có hai gia đình nghèo khó, đồng gặp một hoàn cảnh như nhau, 
				trong nhà đều có tai nạn. Cả hai đều đến hai nhà khá giả để mượn 
				triền. Một nhà khá giả có tâm tham, thủ lợi, nên khi đưa của ra 
				đòi có lời. Nhà khá giả thứ hai có tâm từ bi, thương người nghèo 
				khổ lại gặp tai nạn, nên cho mượn không, chẳng nghĩ đến việc cảm 
				ơn hay tiền lời. 
				
				Đúng kỳ hẹn, cà hai gia đình tai nạn đều đem số tiền trả cho hai 
				người khá giả. Người khá giả tham lợi, nhận thêm số tiền lời chi 
				tiêu ít ngày hết. Thế là hai bên không còn ơn ích gì nhau nữa 
				cả. Người khá giả thứ hai, vì tâm nhơn từ giúp người không cầu 
				danh lợi, nên được người khốn khó kia nhớ ơn và thương kính mãi 
				mãi. 
				
				Đến khi nước nhà bị giặc giã, cả hai nhà khá giả đều tản cư. Gia 
				đình người tham lợi, tìm người giúp đỡ không ra; đến cậy anh vay 
				tiền lúc trước cũng không được. Đây là dụ cho phước hữu lậu 
				nhiễm ô (đem tâm tham làm phước) có cùng tận. 
				
				Trái lại, gia đìng người nhơn từ, được người nghèo khó thọ ơn 
				trước kia, tình nguyện hy sinh giúp đỡ mãi mãi không tính tiền 
				công. Đây là dụ cho phước vô lậu thanh tịnh (đem tâm từ bi 
				làm phước) không cùng tận. 
				
				Tóm lại, nếu hành giả đem tâm phiền não nhiễm ô (tham, sân, 
				si v.v...) mà làm các Phật sự, thì chỉ hưởng phước ô trược 
				hữu lậu của nhơn thiên, có cùng tận. 
				
				Trái lại, nếu hành giả đem tâm thanh tịnh (từ bi, Trí huệ, 
				không cầu danh lợi v.v...) mà làm các Phật sự, thì hưởng 
				phước vô lậu thanh tịnh của Phật, không cùng tận. 
				
				6. PHẬT DẠY AN TRỤ CHƠN TÂM
				
				Tóm lại, Phật dạy: "Tu Bồ Đề! các vị Bồ Tát phải y như lời ta 
				dạy đó mà an trụ chơn tâm". 
				
				LƯỢC GIẢI 
				
				Đoạn này Phật tóm kết lại hai đoạn trên, để trả lời câu hỏi của 
				ông Tu Bồ Đề: "Làm sao an tru chơn tâm". 
				
				Phật dạy: "Các vị Bồ Tát độ vô lượng vô biên chúng sanh đều được 
				nhập Niết bàn, nhưng không thấy có một chúng sanh nào được độ"; 
				và "Bồ Tát tu pháp bố thí, không nên trụ chấp các tướng như sắc, 
				thinh, hương, vị, xúc và pháp", nghĩa là Bồ Tát không chấp ngã
				(khi độ sanh) không chấp pháp (khi bố thí); đó là 
				phương pháp "hàng phục vọng tâm" mà cũng là "an trụ chơn tâm". 
				
				Nếu Bồ Tát độ sanh và làm các Phật sự, mà còn khởi vọng tâm, 
				chấp nơi các tướng (ngã, nhơn v.v...) thì các phiền não 
				tham, sân, si đua nhau nổi lên. Nếu tham, sân, si đã nổi thì sao 
				không khởi tạo nghiệp sanh tử luân hồi. 
				
				Trái lại, nếu Bồ Tát độ sanh hay làm các Phật sự, mà không khởi 
				vọng tâm, chấp các tướng ngã, pháp v.v...thì các phiền não không 
				sanh. Phiền não không sanh, thì không tạo nghiệp. Nghiệp không 
				tạo thì không còn sanh tử luân hồi. 
				
				Tóm lại, Phật dạy: "Đừng trụ chấp một nơi nào". Đó là phương 
				pháp "hàng phục vọng tâm" và "an tru chơn tâm" của hàng Đại thừa 
				Bồ Tát. 
				
				Ngài Long Tế Hoà thượng ngộ được lý "vô trụ" của kinh Bát Nhã, 
				nên có làm bài tụng rằng: 
				
				Nguyên văn (dịch âm) 
				
					
						- Tâm cảnh đốn tiêu dung
 
						Phương minh sắc dữ không 
						Dục thức bổn lai thể 
						Thanh sơn bạch vân trung 
					 
				 
				
				Dịch nghĩa 
				
					
						- Không còn chấp tâm và cảnh
						
 
						Mới ngộ được lý sắc, không  
						Muốn biết bổn lai bản thể  
						Kìa, mây trắng với non xanh.  
					 
				 
				
				ĐẠI Ý 
				
				Muốn ngộ được lý "sắc tức thị không, không tức thị sắc", thì 
				phải trừ các vọng chấp ngã (tâm) và pháp (cảnh). 
				Muốn biết bản thể Bát Nhã chơn không, xưa nay như thế nào, thì 
				cứ xem "Kìa, mây trắng với non xanh" 
				
				
				▲ Trở Lên 
				 | 
			 
			
				
				
				
				BÀI THỨ 
				BA
				
				B. PHẦN CHÁNH TÔN 
				(Tiếp theo)
				  
				
				07. Không nên chấp: 
				"Thấy thân tướng của Phật là thấy được Phật". 
				08. Người tin được kinh này, là do đã trồng căn lành từ nhiều 
				kiếp. 
				09. Người thọ trì kinh náy được công đức vô lượng 
				10. Giáo pháp của Phật cũng như chiếc thuyền đưa người qua bể 
				khổ 
				11. Phật phá cái chấp "Như Lai có thành Phật và thuyết pháp". 
				12. Phật pháp không có sai khác, do trình độ của chúng sanh mà 
				thấy có sai khác 
				 
				
				7. KHÔNG NÊN CHẤP:"THẤY 
				ĐƯỢC THÂN CỦA PHẬT LÀ THẤY ĐƯỢC PHẬT"
				
				Phật hỏi: "Tu Bồ Đề! Ông có thể 
				cho thấy cái thân tướng của ta đây là thấy được Như Lai chăng?". 
				
				Tu Bồ Đề thưa: "Bạch thế Tôn! không thể cho thấy cái thân tướng 
				của Ngài đó là thấy Như Lai. Tại sao vậy?_ Vì Như Lai nói: "Cái 
				thân tướng này, không phải thật là thân tướng của Như Lai". 
				
				Phật dạy tiếp: "Tu Bồ Đề! Phàm cái gì có hình tướng đều là hư 
				vọng. Nếu ông thấy các pháp (tướng) đều hư vọng, không thật (phi 
				tướng) tức là thấy được Như Lai (thật tướng các pháp). 
				
				LƯỢC GIẢI 
				
				Đoạn này, Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp: "Thấy sắc 
				thân của Phật là thấy được Phật". Đây là lần thứ nhứt, nói về 
				việc thấy Phật. 
				
				Trên đường tu hành, phải có đủ cả Sự và Lý. Nhờ Sự tướng bên 
				ngoài, mới ngộ được lý tánh bên trong; có ngộ Lý tánh bên trong, 
				mới thấy rõ được Sự tướng bên ngoài. 
				
				Người chấp Lý mà bỏ Sự, cũng như người chỉ kể suông đủ các thức 
				ăn cao lương mỹ vị, nhưng bụng vẫn đói. Người mê Sự mà bỏ Lý, 
				cũng như trẻ con mê bánh vẽ. 
				
				Nhờ có tượng cốt giả, kinh giấy, tăng phàm v.v...là sự tướng bên 
				ngoài, để giúp chúng ta nhớ lại tìm cầu Phật thiệt, Pháp thiệt 
				và Tăng thiệt trong tự tâm của chúng ta. 
				
				Nếu bác bỏ Sự tướng bên ngoài là hư giả (không thờ Phật, tụng 
				kinh v.v...) mà chỉ chấp suông về phần Lý tánh bên trong 
				(Phật tức tâm), thì Đức Phật nơi tâm ta cũng không làm sao biểu 
				lộ ra được. 
				
				Chư Tổ dạy: 
				
					
						- "Thật tế lý địa, bất thọ 
						nhứt trần
 
						Phật sự muôn trùng, bất xả nhứt pháp". 
					 
				 
				
				Nghĩa là: Về Phật tâm thanh tịnh, thì không có một nảy trần. 
				Nhưng về phần Sự tướng tu hành, thì không thể bỏ qua một pháp 
				nào. 
				
				Trái lại, nếu chấp về Sự tướng (cầu Phật bên ngoài) mà 
				không tìm Phật thiệt nơi tự tâm của mình, thì cũng không bao giờ 
				thấy được Phật. Bởi thế nên phật dạy: 
				
				"Nếu người chấp: "thấy sắc thân của ta cho là thấy được Phật, 
				nghe tiếng nói Pháp của ta cho là nghe được tiếng Phật", thì 
				người đó đã đi lạc về đường tà, không bao giờ thấy được Phật". 
				
				(KINH KIM CANG) 
				
				Ngày xưa có hai vị Tỳ kheo, từ phương xa đến chiêm bái Phật. Đi 
				đường xa hết nước, bị khát lâu ngày, vừa gặp ao nước có sinh 
				trùng, một vị giữ giới không uống nên chết giữa đường; một vị 
				uống nước được sống, đi đến ra mắt Phật. 
				
				Phật quở rằng: "Ông Tỳ kheo giữ giới kia tuy chết, nhưng ông vẫn 
				sống và đã thấy ta rồi. Còn ông không giữ giới tuy sống, ở sát 
				bên ta, nhưng thật ra ông đã chết và cách ta ngàn dặm". 
				
				Tại sao, vị Tỳ kheo giữ giới bị chết giữa đường không thấy Phật, 
				mà Phật lại cho "đã thấy được ta rồi"; trái lại, vị Tỳ kheo 
				không giữ giới còn sống ở bên Phật thấy được Phật, mà Phật lại 
				cho là "cách Phật ngàn dặm?". 
				
				Cho biết, thấy cái sắc thân có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp bên 
				ngoài của Phật, chưa phải là thấy được Phật; phải thấy "Phật tâm 
				thanh tịnh" hay "pháp thân Phật" mới thật là thấy Phật. 
				
				Song le, đa số chúng sanh, chỉ rong ruổi chạy theo giả tướng, 
				tìm Phật bên ngoài, mà không biết xoay trở lại tìm Ðức Phật 
				thiệt trong tâm của mình. Bởi thế nên cổ nhơn quở: "Phật trong 
				nhà không thờ, mà thờ Ðức Phật Thích Ca ngoài đường" là vậy. 
				
				Vì phá cái mê lầm này, nên Tổ Đơn Hà đốt một vị Phật gỗ (Phật 
				giả). Có người hỏi ngài: "đốt để làm gì?"._ Ngài trả lời: 
				"đốt để tìm xá lợi" (tìm Phật thiệt). Ông chủ chùa thấy vậy sợ 
				khủng khiếp, nên rụng hết râu mày; vì huỷ kinh đốt Phật là tội 
				rất nặng. 
				
				Vì sự kiện này, nên cổ nhơn có lám bài kệ: 
				
				Nguyên văn (dịch âm): 
				
					
						- Đơn Hà thiêu mộc Phật
 
						Viện chủ lạc tu mi 
						Nhứt trường kỳ đặc sự 
						Thiên hạ thiểu nhơn tri 
					 
				 
				
				Dịch nghĩa: 
				
					
						- Tổ Đơn Hà đốt Phật gỗ
 
						Ngài viện chủ rụng râu mày 
						Một trường hợp rất đặc biệt 
						Trong thiên hạ ít người biết.  
					 
				 
				
				Trọng tâm trong đoạn văn này là hai chữ "thấy Phật". Phật hỏi: 
				"Ông có thể cho thấy cái thân tướng của ta đây là thấy được Như 
				Lai chăng?"_ Ngài Tu Bồ Đề đáp: "Không thể cho thấy cái thân 
				tướng của Phật là thấy Phật". 
				
				Phật dạy tiếp: "Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng", 
				(phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng). Sắc thân của Phật do 
				tứ đại giả hợp, có hình tướng nên cũng là hư vọng. Bởi thế nên 
				thấy sắc thân của Phật, chưa phải là thấy được Phật. 
				
				Vậy thì thấy cái gì mới thấy được Phật? 
				
				Phật dạy tiếp: "Nếu ông thấy các pháp (tướng) đều là hư 
				vọng, tức là thấy được Như Lai (thật tướng các pháp). 
				
				Ngài thái Hư Pháp sư giảng: 
				
				Đoạn này không những nói sắc thân của Phật là hư vọng, mà tất cả 
				các hình tướng, như thế giới chúng sanh v.v...cũng đều hư vọng, 
				như hoa trong gương, như trăng duới nước, không có chơn thật. 
				Nếu người rõ thấu được các tướng đều hư vọng như vậy, tức là đã 
				thấy được "pháp thân của Như Lai", tức là rõ thấu được "tướng 
				chân thật của các pháp", cũng tức là "Trí huệ vô thượng", và 
				cũng tức là "Kim Cang Bát Nhã diệu tâm". 
				
				(KIM CANG GIẢNG LỤC) 
				
				Tóm lại, đoạn kinh nầy, Phật dùng Trí huệ Kim Cang Bát Nhã, phá 
				trừ vọng chấp: "Thấy sắc thân có 32 tướng tốt, và 80 vẻ đẹp bên 
				ngoài của Phật, rồi chấp là thấy được Phật", mà quên xoay trở 
				lại, tự tìm cầu Đức Phật thiệt trong tự tâm của minh. 
				
				8. NGƯỜI TIN ĐƯỢC KINH NÀY, 
				DO ĐÃ TRỔNG CĂN LÀNH TỪ NHIỀU KIẾP
				
				Ông Tu Bồ Đề hỏi Phật: "Bạch Thế Tôn! chúng sanh nghe đến kinh 
				này, chẳng biết có tin được không?". 
				
				Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Ông chớ nên lo như vậy. Không những hiện 
				tại mà cả vị lai đều có người nghe và tin được kinh này. Sau 500 
				năm, khi Như Lai nhập diệt, nếu có người xuất gia (trì giới) 
				hoặc tại gia (tu phước) nghe đến kinh này, mà sanh lòng tin thọ, 
				thì biết người này đã trồng căn lành (đã tu), không phải mới bốn 
				năm đời Phật, mà đã nhiều kiếp tu hành, từ vô lượng vô số chư 
				Phật đến nay 
				
				LƯỢC GIẢI 
				
				Ông Tu Bồ Đề hỏi Phật: "Không biết chúng sanh nghe đến kinh này, 
				có tin được không?". Đây là lần thứ nhứt hỏi về việc tín thọ. 
				
				Phật vì những hàng Đại thừa Bồ Tát, nói kinh Kim Cang Bát Nhã, 
				dạy các vị Bồ Tát, dùng Trí huệ Bát Nhã, phá trừ các vô minh 
				vọng chấp ngã, pháp, để trở về với bản tâm thanh tịnh là tánh 
				Bát Nhã chơn không, vô trụ vô tướng. 
				
				Ông Tu Bồ Đề lo ngại cho chúng sanh căn cơ thấp kém, sợ e không 
				hiểu và không tin, nên ông hỏi Phật: "Không biết chúng sanh nghe 
				đến kinh này, có tin được không?". 
				
				Đại ý, Phật dạy: không những hiện tại ở đời Chánh pháp, có chúng 
				sanh hiểu và tin được kinh này, mà vị lai, sau khi Phật nhập 
				diệt 500 năm, trong đời Tượng pháp hoặc Mạt pháp, cũng có chúng 
				sanh hiểu và tin được kinh này. Nhưng, những chúng sanh đời 
				Tượng pháp hoặc Mạt pháp tin được kinh này, là do họ đã nhiều 
				kiếp có tu hành, trồng căn lành từ vô lượng Ðức Phật về trước 
				(như Ngài Huệ Năng chỉ nghe một câu "ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ 
				tâm" trong kinh này mà được tỏ ngộ), chứ không phải mới tu 
				từ bốn năm đời Đức Phật trở lại đây. 
				
				9. NGƯỜI THỌ TRÌ KINH NẦY 
				CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG
				
				Phật dạy tiếp: "Tu Bồ Đề! Như Lai thấy rõ ràng và biết chắc 
				chắn: Nếu có chúng sanh nào nghe đến kinh này, sanh tâm tin thọ, 
				cho đến trong thời gian rất ngắn, chỉ nhứt niệm, thì chúng sanh 
				đó sẽ được phước đức vô lượng vô biên. 
				
				Tại sao vậy"_ Vì chúng sanh này không còn chấp tướng ngã tướng 
				nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, tướng phải pháp và tướng 
				không phải pháp". 
				
				LƯỢC GIẢI 
				
				Phật khuyên người tin và thật hành theo kinh này, sẽ được công 
				đức vô lượng. Đây là lần khuyên thứ nhứt. 
				
				Người có cái khiếu về âm nhạc, mới nhận được cái hay và ưa thích 
				về âm nhạc. Người có cái khiếu về hội hoạ mới thấy được cái đẹp 
				và ưa thích về hội hoạ. Người có cái khiếu về văn chương mới 
				thấy cái hay và ưa thích về văn chương. 
				
				Cũng thế, người có cái khiếu về Bát Nhã, hay nói theo danh từ 
				Duy thức là "hạt giống Bát Nhã", mới hiểu và tin được kinh Bát 
				Nhã. 
				
				Người đã có hạt giống Bát Nhã, tất nhiên không còn chấp các 
				tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, tướng phải pháp (Phật 
				pháp) và tướng không phải pháp (tà pháp). Người này 
				đuợc nghe thêm kinh Bát Nhã làm cho hạt giống Bát Nhã của mình 
				được sanh trưởng, sẽ mau đặng quả Bồ Đề. Bởi thế nên phật dạy: 
				"ta thấy rõ ràng và biết chắc chắn: chúng sanh nào nghe hiểu và 
				tin được kinh này, thì sẽ được phước đức vô lượng vô biên". 
				
				10. GIÁO PHÁP CỦA PHẬT CŨNG 
				NHƯ CHIẾC THUYỀN ĐƯA NGƯỜI QUA BỂ KHỒ
				
				Phật dạy: "Nếu các ông còn chấp các tướng, hoặc chấp "tướng 
				chánh pháp" hay chấp "tướng phi chánh pháp" thì cũng đều bị dính 
				mắc nơi bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Bởi thế nên 
				không được chấp "tướng chánh pháp" hay chấp "tướng phi chánh 
				pháp". 
				
				Cũng vì lẽ đó, nên Như Lai thường dạy: "Các thầy Tỳ kheo phải 
				biết: giáo pháp của ta cũng như chiếc đò, đưa người qua sông; 
				các ông không nên trụ chấp nơi giáo pháp. 
				
				"Chánh pháp" còn không nên trụ chấp huống chi là "phi pháp". 
				
				LƯỢC GIẢI 
				
				Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã, phá trừ cái chấp "chánh 
				pháp" và chấp "phi chánh pháp". 
				
				Phật dạy hành giả, không nên chấp một tướng gì cả; dù là "chánh 
				pháp" (hay Phật pháp) cũng không được chấp. Nếu còn trụ chấp, 
				bất luận một tướng gì, thì cũng đếu bị mắc vào bốn tướng: ngã, 
				nhơn, chúng sanh và thọ giả, hay nói gọn hơn là mắc vào tướng 
				ngã, pháp. Nếu còn chấp ngã, pháp thì phiền não vọng chấp đua 
				nhau sanh khởi. Phiền não vọng chấp sanh khởi, thì hành giả 
				không thể hàng phục được vọng tâm và an trụ chơn tâm. 
				
				Bởi thế nên Phật dạy: "Giáo pháp của Phật cũng như chiếc đò đưa 
				người qua sông". Khi đến bờ rồi hành giả phải bỏ chiếc đò, mà 
				lên bờ. Trái lại, nếu hành giả cứ khư khư chấp giữ chiếc đò, thì 
				không bao giờ lên bờ được. Người tu hành cũng thế, phải bỏ cái 
				"chấp", mới lên bờ giải thoát được. 
				
				Trong kinh Viên giác chép:"Tất cả kinh giáo của Phật, cũng như 
				ngón tay để chỉ mặt trăng. Người xem, phải nương ngón tay mới 
				thấy được mặt trăng. Nhưng nếu chấp ngón tay (chỉ xem ngón 
				tay) thì không bao giờ thấy được mặt trăng". 
				
				Tóm lại, Phật dạy: "chánh pháp" (Phật pháp) còn không nên chấp, 
				huống chi là "phi pháp". 
				
				Ngài Xuyên Thiền sư ngộ được lý vô trước của kinh Bát Nhã, nên 
				làm bài kệ rằng: 
				
				Nguyên văn (dịch âm): 
				
					
						- Đắc thọ phàn chi mạt túc kỳ
 
						Huyền nhai tán thủ trượng phu nhi 
						Thuỷ hàn dạ lãnh ngư nan mích 
						Lưu đắc không thuyền tải nguyệt qui. 
					 
				 
				
				Dịch nghĩa: 
				
					
						- Níu nhánh chuyền cây chẳng 
						phải tài
 
						Dốc đứng buông tay mới trượng phu 
						Gió lạnh đêm khuya câu chẳng có 
						Thuyền không chỉ chở bóng trăng thanh. 
					 
				 
				
				ĐẠI Ý 
				
				Câu thứ nhứt, nói về tiệm tu, phải lần hồi, còn chấp trụ nơi 
				danh tướng; cũng như người đi mà níu nhánh vịn cây, thì không có 
				gì hay cả. 
				
				Câu thứ hai, nói về đốn tu, không trụ chấp các tướng; cũng như 
				người đi lên dốc ngược, mà không níu vịn đâu hết, mới là bực đại 
				tài. 
				
				Câu thứ ba, nói về tâm cảnh đều vắng lặng, cũng như canh khuya 
				thanh vắng, bầu trời yên lặng, mặt nước phẳng lặng như tờ, cá 
				chim cũng đều lặng nghỉ, không hoạt động. 
				
				Câu thứ tư, nói về khi các vọng chấp các tướng ngã, pháp đã hết, 
				thì chỉ còn ánh Trí huệ Bát Nhã chơn không; cũng như chiếc 
				thuyền không (không chấp) chỉ chở bóng trăng thanh 
				(Trí huệ Bát Nhã). 
				
				11. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ 
				LAI CÓ THÀNH PHẬT VÀ THUYẾT PHÁP"
				
				Phật hỏi ông Tu Bồ Đề:"Như Lai có thành Phật không? Và Như Lai 
				có thuyết pháp không?". 
				
				Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn! Như Lai không thành Phật và Như 
				Lai cũng không thuyết pháp. Tại sao vậy? Vì pháp của Như Lai, 
				không thể chấp thủ, nói năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhằm, 
				không phải chánh pháp, mà cũng không phải phi pháp. 
				
				Như thế thì làm sao, có cái gì quyết định là "thành Phật", và có 
				cái gì quyết định là "nói pháp". 
				
				LƯỢC GIẢI 
				
				Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp "Như Lai 
				thật có thành Phật, và thật có nói pháp". 
				
				Trong Duy thức Tam thập tụng có chép: 
				
					
						- Hiện tiền lập thiểu vật
 
						Vị thị Duy thức tánh 
						Dĩ hữu sở đắc cố 
						Phi thật trụ Duy thức 
					 
				 
				
				Nghĩa là: nếu hành giả hiện tiền còn phần nào chấp mình có chứng 
				Duy thức tánh, thì chưa phải thật chứng Duy thức tánh, vì còn 
				vọng chấp có "sở đắc" vậy. 
				
				Nếu Như Lai có thành Phật, tất nhiên phải có chúng sanh chưa 
				thành Phật, thế thì bốn tướng: ngã, nhơn v.v....đua nhau sanh 
				khởi. Nếu còn ngã, nhơn v.v...thì không phải là Phật. 
				
				Nếu Như Lai có nói pháp, tất nhiên phải có chúng sanh nghe pháp. 
				Nếu còn có kẻ nói người nghe, tức nhiên còn nhơn, ngã, bỉ, thứ. 
				Nếu còn ngã, nhơn thì không phải là thuyết Phật pháp. Bởi thế, 
				nên Phật thuyết pháp 49 năm, mà rốt cuộc Phật nói:"Ta không nói 
				một chữ". 
				
				Đức Lão Tử nói: Cái "đạo" mà có thể nói được, thì không phải 
				thật là đạo. Cái "tên mà có thể kêu gọi được, thì không phải 
				thật là "tên" (Đạo khả đạo, phi thường đạo giả, danh khả 
				danh, phi thường danh). 
				
				Kinh chép: "Một hôm, ông Tu Bồ Đề ngồi yên lặng dưới gốc cây. 
				Trời Đế Thích đến rưới hoa cúng dường. Ông Tu Bồ Đề hỏi: "Ai rãi 
				hoa và rãi hoa để làm gì?". Trời Đế Thích thưa:  "Ngài nói 
				kinh Bát Nhã hay quá! Con đến rãi hoa cúng dường". Ông Tu Bồ Đề 
				nói: "Ta không nói kinh Bát Nhã". Trời Đế Thích thưa:"Ngài không 
				nói, con không nghe". 
				
				Kết luận:"Không nói Bát Nhã và không nghe Bát Nhã", như thế mới 
				thật là "nói Bát Nhã và nghe Bát Nhã". 
				
				Ông Tu Bồ Đề đã hiểu: "Phật pháp" không thể nghĩ bàn, không thể 
				chấp thủ, chẳng phải "có", chẳng phải "không", không phải "chánh 
				pháp" và cũng không phải "phi chánh pháp"; nên bạch Phật 
				rằng:"Như Lai không thành Phật và Như Lai cũng không thuyết 
				pháp". 
				
				Tóm lại, phải rời các vọng chấp, không còn dụng tâm suy nghĩ và 
				lời nói luận bàn, mới thật là "thành Phật" và "thuyết pháp". 
				
				12. PHẬT PHÁP KHÔNG CÓ SAI 
				KHÁC, DO TRÌNH ĐỘ CỦA CHÚNG SANH MÀ THẤY CÓ SAI KHÁC
				
				Ông Tu Bồ Đề bạch Phật: "Phật pháp đã như thế, tại sao lại có 
				các quả thánh hiền cao thấp khác nhau?". Phật dạy: "Vì trình độ 
				của chúng sanh có sai khác, nên có các quả thánh hiền sai khác, 
				chứ không phải Phật pháp (vô vi) có sai khác". 
				
				LƯỢC GIẢI 
				
				Đoạn nầy phá cái chấp "Phật pháp có sai khác". 
				
				Đoạn trên đã nói: "Pháp của Như Lai, không thể chấp thủ, nói 
				năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhằm, không phải chánh pháp và 
				cũng không phải phi pháp". Phật pháp đã cao siêu như vậy, vượt 
				ra ngoài nói năng và suy nghĩ, tại sao lại có các quả thánh hiền 
				cao thấp khác nhau? 
				
				Phật giải thích: "Vì trình độ của chúng sanh có sai khác, nên có 
				các quả thánh hiền sai khác, chứ không phải Phật pháp có sai 
				khác" 
				
				Trong kinh thường thí dụ: "Như ba con thú qua sông". Nghĩa là 
				Phật pháp như con sông, không cạn không sâu. Hành giả như ba con 
				thú lội qua sông: Con Dê thì lội ngập đầu (dụ cho Tiểu thừa); 
				con Nai thì lội ngập cổ (dụ cho Trung thừa); con Voi thì lội 
				ngập ống chân (dụ cho Đại thừa). 
				
				Phật pháp cao siêu huyền diệu, không thể nói năng và luận bàn, 
				nên Ngài Xuyên Thiền sư có làm bài tụng rằng: 
				
				Nguyên văn (dịch âm): 
				
					
						- Hư không cảnh giới khởi tư 
						lương
 
						Đại đạo thanh u lý cánh trường 
						Đản đắc ngũ hồ phong nguyệt tại 
						Xuân lai y cựu bách hoa hương. 
					 
				 
				
				Dịch nghĩa: 
				
					
						- Hư không rộng rãi lớn bao la
 
						Lý đạo lại càng quá thẩm xa 
						Trăng, gió, nước hồ thường tự tại 
						Chào xuân đua nở trăm nghìn hoa. 
					 
				 
				
				ĐẠI Ý 
				
				Hư không đã rộng lớn bao la không thể nghĩ bàn, Phật pháp lại 
				càng cao siêu huyền diệu rộng lớn hơn hư không. Cảnh vật thiên 
				nhiên của vũ trụ, như trăng thanh gió mát, nước hồ phẳng lặng, 
				xuân về trăm hoa đua nở v.v...đều nói lên tinh thần tự tại giải 
				thoát của Phật pháp. 
				
				Kinh chép: "Nhứt thế chư Pháp vô phi Phật pháp". Nghĩa là "Tất 
				cả các pháp thế gian cũng đều là Phật pháp". Nếu mê thì pháp thế 
				gian, còn ngộ là Phật pháp. 
				
				GIẢI DANH TỪ 
				
				Chấp thủ: nắm giữ 
				
				Chánh Pháp: Pháp chơn chánh 
				
				Phi Pháp: Pháp không chơn chánh 
				
				Vô vi: Pháp không bị tạo tác thi vi, không sanh diệt, tức là 
				chơn như hay Phật tánh 
				
				
				▲ Trở Lên 
				 | 
			 
		 
		 |  |