BÀI THỨ MƯỜI
						
						B. PHẦN 
						CHÁNH TÔN 
						(Tiếp theo)
						
						64. Phật phá cái 
						chấp "Như Lai cũng có đi, đứng, nằm, ngồi" 
						65. Phật phá cái chấp "thật có vi trần và thế giới" 
						66. Phật phá"chấp ngã" 
						67. Phật phá"chấp pháp" 
						68. Phật tán thán công đức thọ trì kinh Kim Cang Bát 
						Nhã. 
						69. Phật nói bài kệ: Quán các pháp hữu vi đều giả. 
						
						  
						
						64. PHẬT PHÁ CÁI 
						CHẤP "NHƯ LAI CŨNG CÓ ĐI, ĐỨNG, NẰM, NGỔI"
						
						Phật 
						dạy:" Tu Bồ Đề! Nếu có người chấp: Như Lai cũng tới, 
						lui, nằm, ngồi v.v...thì người đó không hiểu nghĩa Như 
						Lai. 
						
						Tu Bồ Đề! Như Lai nghĩa là không từ 
						đâu đến và cũng không đi về đâu, nên gọi là Như Lai". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã 
						phá cái chấp "Như Lai cũng đi, đứng, nằm, ngồi v.v..." 
						
						Pháp thân của Phật như như bất 
						động, không khứ không lai, không sanh không diệt. Phật 
						chứng được pháp thân này, nên gọi là Như Lai. 
						
						65. PHẬT PHÁ CÁI 
						CHẤP "THẬT CÓ VI TRẦN VÀ THẾ GIỚI"
						
						Phật dạy:" Tu Bồ Đề! Nếu có người 
						chẻ nhỏ Đại thiên thế giới (một nghìn triệu thế giới 
						nhỏ) thành vi trần. Vậy số vi trần này nhiều không?" 
						
						Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn! Nhiều 
						lắm". 
						
						Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Như Lai nói 
						các vi trần, không phải thật vi trần, chỉ giả gọi là vi 
						trần. Nếu các vi trần thật có, thì Như Lai không gọi là 
						vi trần (chỉ gọi cái tướng, do chẻ nhỏ thế giới mà 
						thành). 
						
						Tu Bồ Đề! Như Lai nói thế giới, 
						không phải thật thế giới, chỉ giả gọi thế giới. Nếu thế 
						giới thật có, thì Như Lai không gọi là thế giới, mà chỉ 
						gọi là cái tướng của tổng hợp của nhiều vi trần. 
						
						Tu Bồ Đề! Như Lai nói cái tướng 
						tổng hợp (thế giới) không phải tướng tổng hợp, chỉ giả 
						gọi là tướng tổng hợp. 
						
						Tu Bồ Đề! chúng phàm phu vì không 
						biết đó là một cái tướng tổng hợp của nhiều vi trần, nên 
						chấp là thật có thế giới, rồi sanh tâm tham lam luyến ái 
						v.v...". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã 
						phá cái chấp "thật có vi trần và thế giới". Đây là lần 
						thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn 24) Phật phá cái 
						chấp vi trần và thế giới. 
						
						Chẻ vật lớn nhứt như thế giới, chẻ 
						cho đến lúc không còn chẻ được nữa, thì tạm gọi đó là 
						"vi trần" (bụi nhỏ). Rồi tổng hợp rất nhiều vi 
						trần , đến mức cùng tột mà tạm thành. Cả hai vi trần và 
						thế giới đều không thật thể, chỉ có giả danh mà thôi. 
						
						Tóm lại, tất cả muôn sự muôn vật 
						trong vũ trụ, lớn như thế giới, nhỏ như vi trần, đều 
						không thật thể, chỉ có giả danh mà thôi. Chúng sanh 
						không biết, vọng chấp là thật, nên gặp cảnh thuận thì 
						sanh tâm tham lam; còn gặp cảnh nghịch thì sân, si 
						v.v...rồi tạo ra các nghiệp sanh tử luân hồi, từ đời này 
						đến kiếp nọ, không biết bao giờ cùng tận. 
						
						Bởi thế nên Phật thuyế kinh Kim 
						Cang Bát Nhã, mục đích để phá các vô minh vọng chấp thật 
						ngã. Khi mây vô minh vọng chấp hết rồi, thì trăng Phật 
						tánh (Trí huệ Bát Nhã) hiện ra, chiếu khắp cả 
						mười phương thế giới. 
						
						66. PHẬT PHÁ CHẤP 
						NGÃ
						
						Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Nếu có người 
						nói: "Phật cũng có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh 
						tướng và thọ giả tướng". Vậy, người này có hiểu được 
						nghĩa của Như Lai nói không?". 
						
						Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn! Người 
						này không hiểu được nghĩa của Như Lai nói. Tại sao vậy? 
						Vì Như Lai nói bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ 
						giả, nhưng không phải thật có bốn tướng, chỉ giả gọi bốn 
						tướng ngả, nhơn, chúng sanh và thọ giả mà thôi". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đoạn này Phật dùng Trí huệ Kim Cang 
						Bát Nhã phá trứ cái "ngã chấp". 
						
						Có người chấp: "Nếu không có "ngã", 
						tại sao Phật cũng nói có bốn tướng: ngã, nhơn, chúng 
						sanh và thọ giả? "_ Vì chúng sanh chấp bốn tướng thật 
						có, nên Phật cũng nói cái tên bốn tướng, để giải thích 
						cho chúng sanh biết bốn tướng đó là giả, chứ không phải 
						Phật chấp thật có bốn tướng như chúng sanh. Bởi thế nên 
						Phật day: "Như Lai nói bốn tướng, nhưng không phải thật 
						có bốn tướng, chỉ giả gọi bốn tướng". 
						
						67. PHẬT PHÁ CHẤP 
						PHÁP
						
						Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Người phát tâm 
						Bồ Đề chẳng nên chấp các pháp thật có, mà phải thấy các 
						pháp là giả, biết các pháp là giả, hiểu các pháp là giả 
						và tin các pháp là giả 
						
						Tu Bồ Đề! Như Lai nói "các pháp" 
						không thật có "các pháp", chỉ giả gọi là "các pháp" 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đoạn này Phật dùng Trí huệ Kim Cang 
						Bát Nhã, phá trừ cái chấp pháp 
						
						Chúng sanh vì chấp thật có ta 
						(ngã) nên suốt đời, chỉ lo cho ta ăn ngon, lo cho ta 
						mặc đẹp, lo nhà cửa cho ta, lo tiền cho ta tiêu dùng, lo 
						cho ta có danh vọng, quyền tước v.v...làm việc gì cũng 
						vì ta. Rồi cái gì hợp với ta thì sanh tâm tham lam luyến 
						ái, cái gì nghịch với ta thì sân, si, tật đố v.v...tạo 
						đủ điều tội lỗi. 
						
						Không ngờ cái "ta" chẳng thật, do 
						các duyên hoà hợp giả tạo. Khi các duyên tan rã rồi, thì 
						có cái gì gọi là "ta". 
						
						Ngoài sự chấp "ta", chúng sanh còn 
						chấp "pháp"; nghĩa là chấp muôn sự muôn vật thật có. Vì 
						chất sự vật thật có và lâu dài, nên chúng sanh cả đời 
						chịu khổ sở, vất vả để tìm cầu. Được rồi tham cầu nữa, 
						không biết bao giờ đủ; không được thì sân hận, tạo không 
						biết bao nhiêu tội lỗi. Do đó mà bị sanh tử luân hồi, 
						không biết bao giờ cùng tận. 
						
						Không ngờ các pháp cũng đều hư giả, 
						không thật, như bể cả biến làm ruộng dâu, ruộng dâu hoá 
						làm bể cả, có cái gì chơn thật và trường tồn. Bởi thế 
						nên Phật dạy: "Người phát tâm Bồ Đề, không nên chấp các 
						pháp thật có, mà phải thấy các pháp là giả, hiểu các 
						pháp là giả, và tin các pháp là giả". 
						
						Hành giả thấy biết và tin các pháp 
						là giả, mới ngăn chận được vọng tưởng tham, sân, si 
						v.v...và mới trở về với chơn tâm thanh tịnh của mình. 
						
						Cũng vì thế, nên toàn bộ kinh Kim 
						Cang Bát Nhã, đều nhắm mục đích đả phá các vọng chấp 
						ngã, pháp để chúng sanh trở về với bản tâm thanh tịnh 
						hay Phật tánh sáng suốt của mình. 
						
						Đó là phương pháp "hàng phục vọng 
						tâm mà cũng là để an trụ chơn tâm". 
						
						68. PHẬT TÁN THÁN 
						CÔNG ĐỨC THỌ TRÌ KINH KIM CANG BÁT NHÃ
						
						Phật dạy: "Tu Bồ Đề! nếu có người 
						dùng 7 món báu, đựng đầy vô lượng vô số thế giới đem bố 
						thí. Và, nếu có người phát tâm Bồ Đề thọ trì đọc tụng 
						hoặc giảng dạy kinh này, trọn quyển hay nữa quyển, cho 
						đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì phước đức của người này 
						nhiều hơn người trước. 
						
						Tại sao người thọ trì đọc tụng kinh 
						này, phước đức nhiều hơn người trước? Vì người này chẳng 
						chấp thủ các tướng (ngã, chấp), nhập được thể tánh Kim 
						Cang, như như bất động vậy". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đoạn này Phật tán thán công đức 
						người thọ trì kinh này, nhiều hơn người bố thí vô số 
						thất bảo. Đây là lần thứ 14, phật nói về công đức trì 
						kinh. 
						
						Người thọ trì kinh này, sẽ phá trừ 
						hết các vọng chấp ngã, pháp hay bốn tướng, ngộ nhập được 
						Kim Cang Bát Nhã là tánh như như bất động và sẽ thành 
						Phật, rồi trở lại giáo hoá vô lượng vô số chúng sanh đều 
						được giải thoát, nên phước đức nhiều hơn người bố thí 
						bảy báu 
						
						69. PHẬT NÓI BÀI 
						KỆ: QUÁN CÁC PHÁP HỮU VI ĐỀU HƯ GIẢ
						
						Dịch âm (nguyên văn): 
						
							
								- Nhứt thế hữu vi pháp
 
								Như mộng, huyễn, bào, ảnh 
								Như lộ diệc như điển 
								Ưng tác như thị quán. 
							 
						 
						
						Dịch nghĩa: 
						
							
								- Phải quán như thế 
								này:
 
								Tất cả pháp hữu vi 
								Như mộng, huyễn, bọt, bóng 
								Như sương, như điển chớp 
							 
						 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Phật kết thúc thời kinh Bát Nhã 
						bằng một bài kệ, quán các pháp hữu vi đều giả, để hàng 
						phục vọng tâm và an trụ chơn tâm. 
						
						Hành giả phải luôn luôn quán tất cả 
						các pháp trong vũ trụ đều hư giả, như chiêm bao, như vật 
						huyễn thuật, như bọt nước, như bóng tối, như sương mai 
						và điện chớp. 
						
						Khi hành giả đã đi sâu vào pháp 
						quán giả; nghĩa là thấy một cách chắc chắn "các pháp đều 
						hư giả" như sáu món hư huyễn trên, thì hành giả không 
						còn khởi vọng tâm chấp thủ ngã pháp hay bốn tướng. 
						
						Khi các vô minh vọng chấp không còn 
						thì chơn tâm thanh tịnh hiện ra, hay nói cách khác là 
						tánh Kim Cang Bát Nhã như như bất động hiện ra. Lúc bấy 
						giờ, hành giả liền chứng được quả Bồ Đề, không cần phải 
						gian lao khổ hạnh, nhiều kiếp tu hành hay phải tìm đâu 
						xa lạ. 
						
						Tóm lại, đây là một phương pháp tu 
						mau chóng, đặc biệt của kinh Kim Cang Bát Nhã, để "hàng 
						phục vọng tâm và an trụ chơn tâm". 
						 
						
						
						
						PHẦN LƯU THÔNG
						
						PHẦN 
						TRUYỀN BÁ LƯU THÔNG
						
						Khi Phật nói kinh này rồi, ông 
						Trưởng lão Tu Bồ Đề, các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, thiện 
						nam, tín nữ, trời, người và thần A Tu La, đều tin thọ và 
						hoan hỷ vâng làm. 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Theo thông lệ, thì tất cả các kinh 
						của Phật đều chia làm ba phần: Phần Tự (phần mở đề), 
						phần Chánh tôn (phần chánh đề) và phần Lưu thông
						(phần truyên bá lưu thông). 
						
						Đoạn này là phần Lưu thông, nói về 
						các thính giả, sau khi nghe Phật nói kinh Kim Cang Bát 
						Nhã rồi, tất cả đều lãnh thọ tin theo và hoan hỷ vâng 
						làm.  
						
						
						Dịch xong, ngày 10 7 Ất Tî
						 
						
						
						(Nhằm ngày 6/8/ 1965) 
						
						
						▲ Trở Lên 
						 | 
					
					
						
						
						
						KINH ĐẠI BÁT NHÃ TOÁT YẾU
						NGUYÊN VĂN 
						(Bản dịch thứ nhất)
						
						Ngài 
						Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã 
						rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không 
						còn các khổ. 
						
						Ngài gọi ông Xá Lợi Tử dạy rằng: 
						"Này Xá Lợi Tử! Năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) 
						chẳng khác với "không" chẳng khác với năm uẩn; năm uẩn 
						tức là "không", "không" tức là năm uẩn. 
						
						Này Xá Lợi Tử! "Tướng không" (Bát 
						Nhã) của các pháp đây, nó không sanh không diệt, không 
						nhơ không sạch, không thêm không bớt. 
						
						Bởi thế nên, trong "Tướng không" 
						(Bát Nhã) này, không có năm uẩn là: sắc, thọ, tưởng, 
						hành, thức; không có Sáu căn là: nhãn ,nhĩ, tỷ, thiệt, 
						thân, ý; không có Sáu trần là: sắc, thinh, hương, vị, 
						xúc, pháp; không có Sáu thức là: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ 
						thức, thiệt thức, thân thức và ý thức; 
						
						Không có mười hai nhơn duyên; nghĩa 
						là không có "vô minh" và cũng không có "hết vô minh"; 
						cho đến không có "Lão tử" và cũng không có "hết Lão tử"; 
						
						Không có Tứ đế là: khổ, tập, diệt, 
						đạo; cũng không có "trí" tu chứng và đạo quả để chứng 
						(đắc). Tóm lại, không có "đặng" cái gì cả. 
						
						Các vị Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ 
						Bát Nhã (Tướng không) mà xa lìa được các mộng tưởng điên 
						đảo, nên tâm không còn ngăn ngại, lo sợ và chứng được 
						rốt ráo Niết bàn. 
						
						Các Ðức Phật quá khứ, hiện tại và 
						vị lai cũng đều y theo Trí huệ Bát Nhã (Tướng không) mà 
						đặng đạo Vô thượng Bồ Đề. 
						
						Vì Trí huệ Bát Nhã (Tướng không) có 
						khả năng diệt trừ hết các khổ, chắc chắn như vậy, không 
						hư dối, nên gọi là thần chú Bát Nhã Ba La Mật; cũng gọi 
						là "chú Đại thần, chú Đại minh, chú Vô thượng và chú Vô 
						đẳng đẳng". 
						
						Ngài Quán tự tại Bồ Tát liền nói 
						Thần chú Bát Nhã: "Yết đế yết đế, Ba la yết đế, Ba la 
						tăng yết đế, Bồ Đề tát bà ha". 
						
						
						▲ Trở Lên 
						 | 
					
					
						
						
						
						BÁT NHÃ TÂM KINH 
						Ngài Tam Tạng 
						Pháp Sư CƯU MA LA THẬP, Dịch 
						Chữ Phạn Ra Chữ Hán 
						Sa Môn THÍCH THIỆN HOA Dịch 
						Lại Chữ Việt & Lược Giải
						NGUYÊN VĂN 
						(Bản dịch thứ hai)
						KINH ĐẠI BÁT NHÃ TOÁT YẾU
						
						Sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã 
						rồi, Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thấy các pháp đều là Bát 
						Nhã (không), nên không còn các khổ. 
						
						Ngài gọi ông Xá Lợi Tử dạy rằng: 
						"Này Xá Lợi Tử! các pháp chẳng khác với Bát Nhã (không), 
						Bát Nhã chẳng khác với các Pháp; các Pháp tức là Bát Nhã 
						(không), Bát Nhã tức là các Pháp. 
						
						Này Xá Lợi Tử! Bát Nhã (tướng 
						không) là tánh của các Pháp. Nó không sanh không diệt, 
						không nhơ không sạch, không thêm không bớt. 
						
						Bởi thế nên trong Bát Nhã (không), 
						không có các Pháp thế gian như: Năm uẩn (sắc, thọ, 
						tưởng, hành, thức), sáu căn (nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, 
						ý), sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp), sáu 
						thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân 
						thức và ý thức). 
						
						Và trong Bát Nhã, cũng không có các 
						Pháp xuất thế gian như: Tứ đế (khổ, tập, diệt, đạo), 
						Mười hai nhơn duyên (không có vô minh và vô minh tận; 
						không có Lão tử và Lão tử tận), không có "trí" tu chứng 
						và đạo quả để chứng (đắc). Tóm lại, trong Bát Nhã không 
						có cái gì cả. 
						
						Các vị Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ 
						Bát Nhã (không) mà xa lìa được các mộng tưởng điên đảo, 
						nên tâm không còn ngăn ngại, lo sợ và chứng được đạo quả 
						Niết bàn. 
						
						Các Ðức Phật quá khứ, hiện tại và 
						vị lai, cũng đều y theo Trí huệ Bát Nhã (không) mà đặng 
						đạo vô thượng Bồ Đề. 
						
						Vì Trí huệ Bát Nhã có khả năng diệt 
						trừ hết các khổ, chắc chắn như vậy không hư dối, nên 
						cũng gọi là Thần chú Bát Nhã, cũng gọi là chú Đại thần, 
						chú Đại minh, chú Vô thượng và chú Vô đẳng đẳng". 
						
						Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, liền nói 
						thần chú Bát Nhã: 
						
						"Yết đế yết đế, Ba la yết đế, Ba La 
						Tăng Yết đế, Bồ Đề tát bà ha". 
						
						
						▲ Trở Lên 
						 |