|   | 
						
						
						
						
						
						BÀI THỨ BẢY
						
						B. PHẦN 
						CHÁNH TÔN 
						
						(Tiếp 
						theo)
						
						38. Người thọ 
						trì kinh này công đức vô lượng 
						39. Công đức kinh này vô lượng vô biên không thể nghĩ 
						bàn 
						40. Phật khuyên người thọ trì đọc tung kinh này sẽ được 
						đạo quả Bồ Đề 
						41. chỗ phụng thờ kinh này, cũng được nhơn thiên và 
						thánh thần cúng dường 
						42. Người thọ trì kinh này mà bị người kkhinh khi là do 
						tội chướng đời trước của họ rất nặng nề. 
						43. Người thọ trì kinh này, công đức nhiều hơn Phật 
						Thích Ca cúng dường vô số chư Phật 
						44. Kinh này nghĩa lý không thể nghĩ bàn, nên phước báo 
						của người thọ trì kinh này cũng không thể nghĩ bàn. 
						45. Đây là lần thứ hai, ông Tu Bồ Đề hỏi lại Phật hai 
						câu quan trọng 
						46. Phật phá cái chấp "Như Lai có đắc pháp với Phật 
						Nhiên Đăng". 
						47. Phật nói: "Tất cả các pháp đều là Phật pháp. 
						 
						 
							
							38. NGƯỜI THỌ 
							TRÌ KINH NÀY CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG
						
						Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Như Lai 
						dùng Trí huệ Phật, thấy rõ ràng và biết chắc chắn: đời 
						sau nếu có người phát tâm thọ trì đọc tụng kinh này, 
						người ấy sẽ thành tựu công đức vô lượng vô biên". 
						LƯỢC 
						GIẢI 
						Đầy là lần 
						thứ 6, Phật khuyến khích về công đức thọ trì kinh này. 
						Kinh này 
						nghĩa lý cao siêu khác thường, quá tầm hiểu biết của 
						người, sợ người không hiểu và không tin thì sẽ mất lợi 
						ích lớn, nên Phật dạy: "Như Lai dùng Trí huệ Phật, thấy 
						biết rõ ràng và chắc chắn: sau này nếu có người thọ trì 
						đọc tung kinh này, sẽ được công đức vô lượng". 
						Người hiểu 
						biết được nghĩa lý và thọ trì kinh này, người ấy sẽ ngộ 
						được kinh Kim Cang Bát Nhã, tức là đã trồng hạt giống Bồ 
						Đề, tất nhiên sẽ đặng quả Bồ Đề nên Phật nói: "được công 
						đức vô lượng". 
						
						39. CÔNG ĐỨC KINH 
						NÀY VÔ LƯỢNG VÔ BIÊN KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN
						Phật dạy: "Tu 
						Bồ Đề! Nếu có người nào, một ngày ba lần: Sớm mai, đem 
						thân mình nhiều như số cát sông Hằng để bố thí; Trưa, 
						đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng để bố thí; 
						Chiều, cũng đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng để 
						bố thí. Bố thì như vậy cho đến vô lượng trăm ngàn muôn 
						ức kiếp, phước đức của người này vô lượng vô biên. 
						Nếu có người 
						nghe kinh này, tin hiểu không nghi ngờ, thì người này 
						phước đức nhiều hơn người trước. Chỉ tin mà thôi còn 
						được phước đức như vậy, huống chi là thọ trì đọc tụng, 
						hoặc phiên dịch hay giảng dạy cho người. Tóm lại, công 
						đức của kinh này vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn". 
						LƯỢC 
						GIẢI 
						Đây là lần 
						thứ 7, Phật tán thán công đức của kinh này không thể 
						nghĩ bàn. Người đem một thân mình bố thí đã khó, huống 
						chi là nhiều thân. Nhưng, giả sử có người đem nhiều thân 
						mình ra bố thí, mỗi ngày ba lần, sớm mai, trưa và chiều 
						đều bố thí vô lượng vô số thân mình, cho đến nhiều ngày, 
						nhiều tháng, nhiều năm và nhiều kiếp đều bố thí như vậy, 
						thì phước đức người này biết là bao nhiêu. 
						Nhưng, nếu có 
						người nghe kinh này, chỉ sanh lòng tin, không nghi ngờ, 
						thì phước đức còn nhiều hơn người trước, huống chi thọ 
						trì đọc tụng hoặc giảng dạy cho người khác. 
						Tại sao vậy?_ 
						Vì người tin được kinh này là người đã ươm trồng hạt 
						giống Kim Cang Bát Nhã; thọ trì đọc tụng là huân tưởng 
						hạt giống Bát Nhã; giảng dạy cho người là làm cho người 
						huân sanh hạt giống Bát Nhã. Hạt giống Bát Nhã đã sanh 
						trưởng thì thế nào cũng được thành Phật. Bởi thế nên 
						nguời tin thọ hoặc giảng dạy kinh này, phước đức nhiều 
						hơn người bố thí thân mạng. 
						Tóm tắt đoạn 
						này, Ngài Xuyên Thiền sư có làm bài tụng rằng: 
						Nguuyên văn 
						(dịch âm): 
						
							
								- Sơ tâm hâu phát thí tân đồng
 
								Công đức vô biên toán mạc cùng 
								Tranh tợ tín tâm tâm bất lập 
								Nhứt quyền đã phá thái hư không, 
							 
						 
						Dịch nghĩa: 
						
							
								- Sớm trưa bố thí phát tâm đồng
 
								Công đức vô biên tính chẳng cùng 
								Đâu bằng tính tâm không trụ chấp 
								Một tay đánh phá cõi hư không. 
							 
						 
						ĐẠI Ý 
						BÀI TỤNG 
						Đây là lần 
						thứ 8, Phật tán thán công đức người thọ trì kinh này sẽ 
						đặng quả Bồ Đề của Phật . 
						Phật vì những 
						hàng Đại thừa Bồ Tát và những người phát tâm Tối thượng 
						thừa cầu quả Phật, mà nói kinh này. Bởi thế nên những 
						người chịu nghe và tin theo kinh này, hoặc thọ trì đọc 
						tụng hay giảng dạy cho người nghe, tất nhiên người ấy đã 
						có căn tánh (hạt giống) Đại thừa hay Tối thượng 
						thừa, nên đặng công đức vô lượng vô biên và sẽ thành 
						Phật. 
						Trái lại, 
						những người căn tánh Tiểu thừa, bị gò bó trong cái khung 
						bốn tướng, tư tưởng không hợp với giáo lý Đại thừa, nên 
						không bao giờ họ lãnh hội được kinh Đại thừa và tu hành 
						theo Đại thừa hoặc giảng dạy cho người. 
						
						41. CHỖ PHỤNG THỜ 
						KINH NÀY CŨNG ĐƯỢC NHƠN THIÊN VÀ THÁNH THẦN CÚNG DƯỜNG
						Phật dạy: "Tu 
						Bồ Đề! Chỗ nào phụng thờ kinh này, thì chổ ấy như có 
						chùa tháp của Phật; tất cả trời người, thánh thần đều 
						cung kính lễ bái, dâng hoa cúng dường hoặc di nhiễu". 
						LƯỢC 
						GIẢI 
						Đây là lần 
						thứ 9, Phật tán thán công đức Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba 
						La Mật. 
						Trong đoạn 
						thứ 13, Phật dạy:"Tất cả Phật và Pháp đều từ kinh này 
						sanh ra". Vì kinh này rất quý báu như vậy, nên trong 
						đoạn 20 và đoạn này (41) đều nói, chỗ thờ kinh này, cũng 
						được trời, người, thần thánh xem như chùa Phật hay tháp 
						Phật, đều đến cung kính lễ bái cúng dường, hoặc đi kinh 
						hành (đi xung quanh chỗ thờ kinh). 
						
						42. NGƯỜI THỌ TRÌ 
						KINH NÀY MÀ BỊ NGƯỜI KHINH KHI LÀ DO TỘI CHƯỚNG ĐỜI 
						TRƯỚC CỦA HỌ RẤT NẶNG NỀ.
						Phật dạy:" Tu 
						Bồ Đề! Nếu người tho trì đọc tụng kinh này, mà bị người 
						khing khi, thì người này do tội chướng đời trước rất 
						nặng nề còn thừa lại, đáng lẽ phải đoạ vào ác đạo; nhưng 
						nay chỉ bị người khinh khi, nhưng tội chướng đời trước 
						bị tiêu diệt và họ sẽ mau đặng quả Bồ Đề". 
						LƯỢC 
						GIẢI 
						Đây là lần 
						thứ 10, Phật tán thán công đức Kinh Kim Cang Bát Nhã. 
						Kinh này công 
						đức vô biên và rất quý báu như thế, nên người thọ trì 
						kinh này lẽ ra phải được sự cung kính tôn trọng. Nhưng 
						trái lại, bị người khinh khi, thì biết người này do tội 
						chướng đời trước nặng nề còn thừa lại, đáng lẽ phải bị 
						đoạ vào ác đạo. Nhờ công đức thọ trì kinh này, nên họ bị 
						quả báo rất nhẹ, là chỉ bị người khinh khi. Từ đây các 
						tội chướng đời trước tiêu diệt và họ sẽ đặng thành quả 
						Phật. 
						Tóm tắt đoạn 
						này, Ngài Trương Vô Tận có làm bài tụng: 
						Nguyên văn 
						(dịch âm): 
						
							
								- Tứ tự diêm hương khứ phục hoàn
 
								Thánh phàm chỉ tại sát na gian 
								Tiền nhơn tội nghiệp kim nhơn tiện 
								Đáo khước tiền nhơn tội nghiệp sơn. 
							 
						 
						Dịch nghĩa: 
						
							
								- Bốn mùa lạnh nóng mãi trôi qua
 
								Phàm thánh không ngoài một sát na 
								Tội nghiệp tiền thân nay phải chịu 
								Chịu rồi mới hết nghiệp oan gia. 
							 
						 
						ĐẠI Ý 
						BÀI TỤNG 
						Bốn mùa nóng 
						lạnh, ngày tháng trôi qua là sự tuần hoàn của vũ trụ. 
						Chứng thánh hay đoạ phàm, chỉ ở trong sát na mê hay ngộ. 
						Kiếp trước làm tội ác nên kiếp này phải trả, bị người 
						khinh khi. Trả xong nghiệp chướng oan gia mới được tự 
						tại giải thoát. 
						
						43. NGƯỜI THỌ TRÌ 
						KINH NÀY CÔNG ĐỨC NHIỀU HƠN PHẬT THÍCH CA CÚNG DƯỜNG VÔ 
						SỐ CHƯ PHẬT
						Phật dạy:" Tu 
						Bồ Đề! Ta nhớ trong quá khứ, về vô lượng vô số kiếp, 
						trước thời Phật Nhiên Đăng, ta cúng dường và phụng thờ 
						tám trăm bốn ngàn muôn ức vô số chư Phật. Nhưng về sau 
						này, nếu có người thọ trì đọc tụng kinh này, thì công 
						đức của người này so với công đức của ta cúng dường 
						phụng thờ vô số chư Phật trước kia, công đức của ta 
						không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần vạn, 
						một phần ức của người này; cho đến dùng toán số hay thí 
						dụ cũng không thể tính toán hay thí dụ được công đức của 
						người thọ trì kinh này". 
						LƯỢC 
						GIẢI 
						Đây là lần 
						thứ 11, Phật tán thán công đức Kinh Kim Cang Bát Nhã. 
						Cúng Phật 
						thuộc về tu phước, dù nhiều bao nhiêu, cũng thuộc về 
						phước hữu vi. 
						Người thọ trì 
						kinh này, sẽ tỏ ngộ được lý Bát Nhã và sẽ mau đặng đạo 
						quả Bồ Đề. Sau khi thành đạo, họ sẽ trở lại hoá độ vô số 
						chúng sanh đều được giải thoát, thì công đức làm sao thí 
						dụ được hay tính toán cho hết. Bởi thế nên Phật 
						nói:"Công đức của người thọ trì kinh này nhiều hơn công 
						đức của Phật cúng dường vô số chư Phật về quá khứ". 
						
						44. KINH NÀY NGHĨA 
						LÝ KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN NÊN PHƯỚC BÁO CỦA NGƯỜI THỌ TRÌ 
						KINH NÀY CŨNG KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN
						Phật dạy:" 
						Nếu ta nói hết công đức của người thọ trì đọc tụng kinh 
						này, sợ e người nghe, tâm sanh cuồng loạn, hoặc nghi ngờ 
						không tin. 
						Tóm lại, kinh 
						này nghĩa lý vô biên, không thể suy nghĩ và luận bàn, 
						nên phước báu của người thọ trì kinh này cũng không thể 
						suy nghĩ và luận bàn". 
						LƯỢC 
						GIẢI 
						Đây là lần 
						thứ 12, Phật tóm lại, tán thán nghĩa lý của kinh này vô 
						biên, nên công đức của người thọ trì kinh này, cũng 
						không thể nghĩ bàn. 
						Từ trước đến 
						đây đã 12 lần, Phật so sánh, khuyến khích và tán dương 
						công đức của người thọ trì kinh này. Nếu nói hết lời, 
						Phật e người nghe rối trí, hoặc nghi ngờ không tin. Nếu 
						người hiểu được nghĩa lý cao thâm của kinh này, không 
						thể nghĩ bàn, thì họ sẽ tin công đức phước báu của người 
						thọ trì kinh này, cũng không thể nghĩ bàn. 
						
						45. ĐÂY LÀ LẦN THỨ 
						HAI, ÔNG TU BỔ ĐỀ HỎI LẠI PHẬT HAI CÂU QUAN TRỌNG
						Khi ấy, ông 
						Tu Bồ Đề bạch Phật:"Bạch Thế Tôn! nếu có người phát tâm 
						Bồ Đề, thì làm sao hàng phục vọng tâm và làm sao an trụ 
						chơn tâm?" 
						Phật dạy:" Tu 
						Bồ Đề! nếu có người phát tâm Bồ Đề, thì phải dụng tâm 
						như vầy: Ta hoá độ tất cả chúng sanh, nhưng không thấy 
						có mình độ và chúng sanh được độ. Tại sao vậy? Nếu Bồ 
						Tát còn thấy mình độ và chúng sanh được độ, thì Bồ Tát 
						còn tướng ngã, nhơn, tướng chúng sanh và tướng thọ giả, 
						tức nhiên không phải là Bồ Tát. 
						Tu Bồ Đề! 
						Thật không có một pháp gì gọi là phát tâm Bồ Đề". 
						LƯỢC 
						GIẢI 
						Đây là lần 
						thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn 1), ông Tu Bồ Đề hỏi 
						Phật "Làm sao hàng phục vọng tâm? Và làm sao an trụ chơn 
						tâm?". 
						Đại ý Phật 
						dạy:" Nguời phát tâm Bồ Đề ra làm các Phật sụ, lợi ích 
						tất cả chúng sanh, không nên chấp ngã, pháp hay bốn 
						tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Nếu không chấp 
						ngã pháp hay bốn tướng thì sóng phiền não vọng niệm 
						không sanh. Nếu sóng phiền não vọng niệm không sanh thì 
						biển chơn tâm tự yên tịnh. Đó là phương pháp "hàng phục 
						vọng tâm" mà cũng là "an trụ chơn tâm". 
						Nếu Bồ Tát 
						làm Phật sự, hoá độ chúng sanh, mà còn thấy có mình hoá 
						độ (ngã) và người được độ (nhơn) thì Bồ 
						Tát chưa nhập được Kim Cang Bát Nhã, vì còn chấp bốn 
						tướng: ngã, nhơn v.v...nên không phải là Bồ Tát. 
						Nói đến "Tâm 
						Bồ Đề", sợ có người trụ chấp tâm Bồ Đề, nên Phật liền 
						phá chấp:" Thật không có một pháp gì gọi là phát tâm Bồ 
						Đề". 
						Ngộ được lý 
						vô trụ của kinh Kim Cang Bát Nhã, Ngài Trường Sa có làm 
						bài kệ như sau: 
						Nguyên văn 
						(dịch âm): 
						
							
								- Bách xích can đầu bất động nhơn
 
								Tuy nhiên đắc nhập vị vi chơn 
								Bách xích can đầu tu tấn bộ 
								Thập phương thế giới hiện toàn thân. 
							 
						 
						Dịch nghĩa: 
						
							
								- Đầu sào trăm thước đứng vững trân
 
								Tuy ngộ nhưng chưa đúng lý chơn 
								Đầu sào trăm thước thêm một bước 
								Mười phương thế giới hiện toàn thân. 
							 
						 
						ĐẠI Ý 
						BÀI KỆ 
						Hai câu đầu 
						là nói, người tu hành dầu cao siêu đến đâu, nhưng nếu 
						còn chấp một tí nào, thì cũng chưa phải là thật tu, thật 
						chứng, cũng như người đứng trên đầu sào trăm thước, tuy 
						cao, nhưng chưa thoát ly được đầu sào. 
						Hai câu sau 
						là nói, hành giả phải rời tất cả vọng chấp ngã, pháp mới 
						nhập được pháp giới tánh (chơn tâm hay Bát Nhã); 
						lúc bấy giờ thân mình hiện khắp cả mười phương pháp 
						giới; cũng như chim đã bỏ đầu sào trăm thước, thung dung 
						tự tại bay đi trong cõi thái hư. 
						
						46. PHẬT PHÁ CÁI 
						CHẤP "NHƯ LAI CÓ ĐẮC PHÁP VỚI PHẬT NHIÊN ĐĂNG"
						Phật hỏi: "Tu 
						Bồ Đề! Về quá khứ, Như Lai có đắc pháp Bồ Đề với Phật 
						Nhiên Đăng không ?" 
						Tu Bồ Đề 
						thưa: "Bạch Thế Tôn! Như Lai không có đắc pháp Bồ Đề với 
						Phật Nhiên Đăng: 
						Phật dạy: 
						"Đúng như vậy, Như Lai không có đắc pháp gì cả. Nếu Như 
						Lai có đắc pháp thì Phật Nhiên Đăng không thọ ký cho ta 
						rằng: về sau, ông sẽ thành Phật hiệu là Thích ca Mâu 
						Ni". 
						Phật dạy 
						tiếp: "Tu Bồ Đề! Có người nói: "Như Lai đặng quả Bồ Đề 
						". Thật ra, Như Lai là bản thể như như của các pháp, nên 
						Như Lai không đặng pháp gì cả. 
						Tu Bồ Đề! Như 
						Lai đặng đạo Bồ Đề, không phải hư, không phải thật". 
						LƯỢC 
						GIẢI 
						Đây là lần 
						thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn 15) phật dùng Trí 
						huệ Kim Cang Bát Nhã, phá cái chấp "Phật có đắc pháp". 
						Đúng theo thinh thần kinh Kim Cang Bát Nhã, thì phải phá 
						trừ hết các mây vô minh vọng chấp nhơn, ngã v.v...lúc 
						bấy giờ mặt trời Bát Nhã chơn không (chơn như hay 
						Phật tánh) mới hiện. 
						Bởi thế nên 
						Phật tuy đắc pháp Bồ Đề, nhưng không thấy mình có đắc 
						(vô ngã) và pháp Bồ Đề (vô pháp) đã đắc, nên 
						mới được Phật nhiên Đăng thọ ký. 
						Nếu Như Lai 
						còn thấy mình có đắc pháp Bồ Đề, tức nhiên Như Lai còn 
						chấp ngã (mình đặng) và chấp pháp (pháp Bồ 
						Đề), chưa nhập được Kim Cang Bát Nhã, thì đâu được 
						Cổ Phật Nhiên Đăng chứng nhận cho: "Về sau ông sẽ thành 
						Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni". 
						Chúng sanh 
						chấp "Như Lai đặng quả Bồ Đề", vì chúng sanh chưa hiểu 
						hai chữ "Như Lai". Phật giải thích: "Như Lai là bản thể 
						như như của các pháp"; đã là như như, nên không có đặng 
						pháp gì cả. 
						Phật dạy 
						tiếp:" Như Lai đặng đạo Bồ Đề, không phải hư, không phải 
						thật". Nếu đạo Bồ Đề mà còn có hư hay là thật, thì không 
						phải Bồ Đề. Đến chỗ này thì dùng lời nói luận bàn không 
						trúng, đem ý thức suy nghĩ phân biệt cũng chẳng nhằm. 
						Đây là lần thứ ba, Phật phá cái chấp "Như Lai đặng đạo 
						Bồ Đề" (lần thứ nhứt và thứ hai ở về đoạn 15 và 36). 
						Ngộ được lý 
						"Phật tuy đã thành Phật, nhưng không thấy mình được 
						thành Phật", nên ngài Phật Quốc Thiền sư có làm bài kệ 
						như sau: 
						Nguyên văn 
						(dịch âm): 
						
							
								- Tâm tâm tức Phật, Phật tâm tâm
 
								Phật Phật tâm tâm, tức Phật tâm 
								Tâm Phật ngộ lai vô nhứt vật 
								Tướng quân chỉ khát vọng mai lâm. 
							 
						 
						Dịch nghĩa: 
						
							
								- Tâm tâm tức phật, phật tức tâm
 
								Phật phật tức tâm, tâm tức Phật 
								Tâm, Phật ngộ rồi không chi cả 
								Nói me đỡ khát vạn quân binh. 
							 
						 
						ĐẠI Ý 
						BÀI KỆ 
						Người mê, 
						chấp tâm và Phật riêng khác. Kẻ hiểu lại nói: Phật tức 
						tâm, tâm tức Phật. Người tỏ ngộ rồi không còn thấy có 
						Phật và tâm. Vì cảm hoá chúng sanh nên mới đặt ra có 
						danh từ tâm và Phật để kêu gọi. Cũng như vì muốn cho vạn 
						quân đỡ khát nước, nên vị Chỉ huy mới phương tiện nói 
						"gần đến rừng me". 
						
						GIẢI DANH TỪ 
						Thọ ký: 
						Truyền trao và ký nhận. 
						
						47. PHẬT NÓI:" TẤT 
						CẢ CÁC PHÁP ĐỀU LÀ PHẬT PHÁP"
						Phật dạy:" Tu 
						Bồ Đề! Như Lai nói: Tất cả các pháp đều là Phật pháp". 
						Tu Bồ Đề! Như Lai nói các pháp thật ra không phải các 
						pháp, chỉ giả gọi "các pháp"; cũng như thân Phật cao 
						lớn, Như Lai nói không phải thân Phật cao lớn, chỉ giả 
						gọi "thân Phật cao lớn". 
						LƯỢC 
						GIẢI 
						Đoạn này Phật 
						phá cái chấp "các pháp và thân Phật". Kinh chép:" Pháp 
						thân Phật biến khắp tất cả; cảnh giới của Phật ở gọi là 
						Thường tịch quang. Bởi thế nên nói "tất cả các pháp đều 
						là Phật pháp". 
						Chúng ta bị 
						mây vô minh che khuất trăng Bát Nhã, nên chỉ thấy các 
						pháp ngã, nhơn v..v.. chư Phật và Bồ Tát đã giác ngộ , 
						phá tan mây vô minh, trăng Bát Nhã được sáng tỏ, nên chỉ 
						thấy toàn là Phật pháp. 
						Vừa nói đến 
						"các pháp", sợ chúng sanh chấp "các pháp mà không ngộ 
						được tánh Bát Nhã chơn không, nên Phật liền phá:" Như 
						Lai nói "các pháp" thật ra không phải "các pháp", chỉ 
						giả gọi là "các pháp". Cũng như thân Phật, thật ra không 
						phải thân Phật, chỉ giả gọi thân Phật". 
						
						
						▲ Trở Lên 
						
						 
							
								
								
								
								BÀI THỨ TÁM
								
								B. 
								PHẦN CHÁNH TÔN 
								
								
								(Tiếp theo)
								
								48. Phật 
								phá cái chấp "Bồ Tát có độ sanh" 
								49. Phật phá cái chấp "Bồ Tát có làm trang 
								nghiêm cõi Phật" 
								50. Phật có đủ 5 loại con mắt 
								51. Phật thấy biết hết các tâm niệm của chúng 
								sanh trong hằng sa thế giới 
								52. Phật phá cái chấp "phước đức nhiều" 
								53. Phật phá cái chấp "thấy sắc thân và tướng 
								tốt của Phật là thấy Phật" 
								54. Phật phá cái chấp "Như Lai có thuyết pháp" 
								55. Phật phá cái chấp "thật có chúng sanh" 
								
								  
								
								48. PHẬT 
								PHÁ CÁI CHẤP "BỔ TÁT CÓ ĐỘ SANH"
								
								Phật 
								dạy:" Tu Bồ Đề! nếu Bồ Tát còn chấp mình hoá độ 
								vô số chúng sanh thì không phải là Bồ Tát. Tại 
								sao vậy? Vì thật ra không có một pháp gì gọi là 
								Bồ Tát. Bởi thế nên Phật nói: "Tất cả các pháp 
								không ngã, không nhơn, không chúng sanh và không 
								thọ giả". 
								
								LƯỢC GIẢI 
								
								Đoạn này Phật dùng Trí huệ 
								Bát Nhã phá trừ cái chấp "thật có Bồ Tát, thật 
								có độ sanh" và Phật dạy:" Các pháp đều giả, 
								không có bốn tướng". 
								
								Đúng theo tinh thần kinh 
								Bát Nhã, thì pháp nào hay việc làm nào của Bồ 
								Tát, hợp với tánh Bát Nhã chơn không, thì pháp 
								đó hay việc làm đó mới là thật. 
								
								Nếu Bồ Tát còn chấp có mình 
								độ sanh tức là Bồ Tát còn nhơn (người 
								được độ) ngã (mình 
								độ) v.v...thì không hợp với 
								tinh thần Bát Nhã, nên không phải là Bồ Tát. Đây 
								là lần thứ hai (lần thứ nhứt ở 
								đoạn 3) Phật phá cái chấp "Bồ 
								Tát có độ sanh". 
								
								Vì Bồ Tát hợp với tánh Bát 
								Nhã chơn không, nên Phật dạy:" Không có một pháp 
								gì gọi là Bồ Tát". Cũng vì các pháp hợp với tánh 
								Bát Nhã chơn không, nên Phật dạy:" Tất cả các 
								pháp đều không ngã, không nhơn, không chúng sanh 
								và không thọ giả". 
								
								49. PHẬT 
								PHÁ CÁI CHẤP "BỔ TÁT CÓ LÀM TRANG NGHIÊM CÕI 
								PHẬT"
								
								Phật dạy:" Tu Bồ Đề! Nếu Bồ 
								Tát chấp rằng:" Ta làm trang nghiêm cõi Phật", 
								thì không phải là Bồ Tát. Tại sao vậy? Như Lai 
								nói:" Bồ Tát làm trang nghiêm cõi Phật, mà không 
								chấp mình có làm trang nghiêm cõi Phật, mới thật 
								là trang nghiêm cõi Phật. 
								
								Tóm lại, nếu Bồ Tát không 
								còn chấp ngã chấp pháp, Như Lai mới gọi là "thật 
								Bồ Tát". 
								
								LƯỢC GIẢI 
								
								Đoạn này Phật dạy: Bồ Tát 
								không còn chấp ngã, chấp pháp, phải hợp với tánh 
								Bát Nhã chơn không, mới phải thật là Bồ Tát và 
								mới phải là trang nghiêm cõi Phật. Đây là lần 
								thứ hai (lần thứ nhứt, xem đoạn 
								16) Phật phá cái chấp "Bồ Tát 
								có trang nghiêm cõi Phật". 
								
								Bồ Tát làm trang nghiêm cõi 
								Phật, mà không chấp mình có làm trang nghiêm, 
								như thế mới thật là trang nghiêm cõi Phật. Trái 
								lại, nếu Bồ Tát chấp mình có làm trang nghiêm 
								cõi Phật, tức là Bồ Tát còn chấp ngã (ta 
								làm) chấp pháp (cõi 
								Phật), không hợp với tinh thần Bát Nhã, thì 
								không phải là trang nghiêm và cũng không phải là 
								Bồ Tát. 
								
								Tóm lại, Phật dạy:" Nếu Bồ 
								Tát nhập vào Bát Nhã chơn không, không còn các 
								vọng chấp ngã, pháp, thì Như Lai mới gọi là thật 
								"Bồ Tát". 
								
								Ngài Xuyên Thiền sư làm bài 
								tụng tóm tắt lại ý nghĩa trên, như sau: 
								
								Nguyên văn (dịch âm): 
								
									
										- Tá bà sam tử 
										bái bà môn
 
										Lễ số châu truyền dĩ thập phần 
										Trúc ảnh tảo dai, trần bất động 
										Nguyệt luân xuyên hải thuỷ vô ngần. 
									 
								 
								
								Dịch nghĩa: 
								
									
										- Mượn áo 
										tràng bà để lạy bà
 
										Lễ rồi, áo trả lại cho bà 
										Bóng trúc quét sân, trần chẳng động 
										Vừng trăng xuyên biển, nước không xao. 
									 
								 
								
								ĐẠI Ý BÀI TỤNG 
								
								Bài kệ này nói về lý "vô 
								trụ vô tướng của kinh Bát Nhã, Bồ Tát làm trang 
								nghiêm cõi Phật; cũng như người mượn áo tràng 
								của bà để lạy bà. Nhưng Bồ Tát không chấp có 
								trang nghiêm cõi Phật; như người lạy rồi trả áo, 
								không còn giữ lại vết tích gì cả. 
								
								Bồ Tát độ sanh hay làm các 
								Phật sự mà không thấy có mình độ và chúng sanh 
								được độ v.v...cũng như bóng trúc quét bụi, tia 
								sáng của vừng trăng xuyên biển; bụi trần không 
								động mà nước cũng không dợn. 
								
								50. PHẬT CÓ 
								ĐỦ NĂM LOẠI CON MẮT
								
								Phật hỏi:" Tu Bồ Đề! Như 
								Lai có nhục nhãn không? "Tu Bồ Đề thưa:" Bạch 
								thế Tôn! Như Lai có nhục nhãn". 
								
								"Tu Bồ Đề! Như Lai có thiên 
								nhãn không?" 
								
								"Bạch Thế Tôn! Như Lai có 
								thiên nhãn". 
								
								"Tu Bồ Đề! Như Lai có Huệ 
								nhãn không?" 
								
								"Bạch Thế Tôn! Như Lai có 
								Huệ nhãn". 
								
								"Tu Bồ Đề! Như Lai có Pháp 
								nhãn không?" 
								
								"Bạch Thế Tôn! Như Lai có 
								Pháp nhãn". 
								
								"Tu Bồ Đề! Như Lai có Phật 
								nhãn không?" 
								
								"Bạch Thế Tôn! Như Lai có 
								Phật nhãn". 
								
								LƯỢC GIẢI 
								
								Đoạn này phá cái chấp "Phật 
								và Bồ Tát không thấy chi hết". 
								
								Mục đích của kinh Bát Nhã 
								là phải phá hết các vọng chấp, thì chơn tâm hay 
								Phật tánh (Bát Nhã) mới 
								hiện. Bởi thế nên, chấp "có" đã bị bác, mà chấp 
								"không" cũng bị bác. 
								
								Từ trước đến đây, Phật đã 
								nhiều lần phá về chấp có. Như nói: "Bồ Tát phải 
								không thấy có mình độ sanh, không thấy có chúng 
								sanh được độ. Bồ Tát không thấy mình làm trang 
								nghiêm và không thấy cõi Phật được trang nghiêm 
								v.v..." 
								
								Sợ người chấp:" ...như thế 
								thì chư Phật và Bồ Tát không thấy chi hết", nên 
								đến đoạn này, Phật mới hỏi ông Tu Bồ Đề:" Như 
								Lai có năm món nhãn không?" . Ông Tu Bồ Đề thưa: 
								"Như Lai có đủ năm món nhãn"; nghĩa là có đủ năm 
								loại con mắt, nên Như Lai thấy tất cả. 
								
								GIẢI 
								DANH TỪ 
								
								1. 
								Nhục nhãn: Con mắt thịt cùa phàm phu, chỉ thấy 
								trong phạm vi nhỏ hẹp; nếu bị vật gì che ngăn 
								thì không thấy. 
								
								2. 
								Thiên nhãn: Con mắt của chư thiên, do tu thiền 
								định hoặc sanh lên các cõi trời, mới được con 
								mắt này. Thiên nhãn thấy được xa và thấu suốt 
								tất cả, không bị vật gì làm chướng ngại. 
								
								3. 
								Hụê nhãn: Con mắt Trí huệ. Huệ nhãn chỉ thấy 
								"ngã không"; nghĩa là chúng sanh không thật, chỉ 
								do ngũ uẩn và tứ đại hoà hợp. Hàng Thinh văn và 
								Duyên giác mới có Huệ nhãn. 
								
								4. 
								Pháp nhãn: Con mắt thấy suốt tất cả các pháp. Bồ 
								Tát đặng pháp nhãn, thấy "ngã pháp", đều không; 
								nghĩa là Bồ Tát không những rõ thấu ngã, nhơn, 
								chúng sanh và thọ giả đều không, mà cũng rõ thấu 
								tất cả các pháp đều không thật, chỉ do các duyên 
								hoà hợp sanh. 
								
								5. 
								Phật nhãn: Con mắt Phật. Phật thấy biết tất cả 
								các pháp trong thế gian và xuất thế gian. Phật 
								thấy hoàn toàn viên mãn, dù hằng sa thế giới, vô 
								lượng chúng sanh. Phật cũng đều thấy và biết tất 
								cả. 
								
								Tóm lại, Phật có đủ 5 con 
								mắt; Bồ Tát có 4 con mắt; Nhị thừa còn 3; phàm 
								phu chỉ một; chư thiên có 1 hoặc 2. 
								
								Cổ nhơn làm bài tụng nói về 
								ngũ nhãn như sau: 
								
								Dịch âm (nguyên văn): 
								
									
										- Thiên nhãn 
										thông phi ngại
 
										Nhục nhãn ngại phi thông 
										Pháp nhãn phi quán tục 
										Huệ nhãn liễu trí thông 
										Phật nhãn như thiên nhựt 
										Chiếu dị thể hoàn đồng. 
									 
								 
								
								Dịch nghĩa: 
								
									
										- Mắt Trời 
										thấy thông suốt
 
										Mắt Thịt thấy có ngại 
										Mắt Pháp thấy pháp không 
										Mắt Huệ thấy ngã không 
										Mắt Phật thất tất cả 
										Muôn pháp đồng nhứt thể. 
									 
								 
								
								51. PHẬT 
								THẤY BIẾT HẾT TÂM NIỆM CỦA CÁC CHÚNG SANH, TRONG 
								HẰNG SA THẾ GIỚI
								
								Phật hỏi: "Tu Bồ Đề! Cát ỏ 
								trong sông hằng, Như Lai có gọi là cát không?". 
								
								Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế 
								Tôn! Như Lai cũng gọi là cát". 
								
								Phật hỏi: "Như một sông 
								Hằng có vô số cát, rồi lấy mỗi một hạt cát, để 
								thí dụ một sông Hằng, thì có vô số sông Hằng. 
								Trong vô số sông hằng, mỗi một sông Hằng lại có 
								vô số cát nữa, rồi đem vô số hạt cát trong vô số 
								sông Hằng đó, lại thí dụ nữa, mỗi một hạt cát là 
								một hạt cát của Phật (Đại thế giới). Như thế, 
								thế giới của Phật có nhiều không?". 
								
								Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế 
								Tôn nhiều lắm". 
								
								Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Tất cả 
								chúng sanh ở trong vô số thế giới như vậy, có 
								bao nhiêu tâm niệm, Như Lai đều thấy biết tất 
								cả". 
								
								Phật dạy tiếp: "Tu Bồ Đề! 
								Như Lai nói tâm, không phải thật có tâm, chỉ giả 
								gọi là "tâm". Tại sao vậy?_ Vì tâm quá khứ tìm 
								không được, tâm hiện tại tìm không được, tâm vị 
								lai cũng tìm không được". 
								
								LƯỢC GIẢI 
								
								Đoạn nay tiếp với đoạn trên 
								(50), Như Lai có 5 con mắt, nên Như Lai thấy 
								biết vô cùng thế giới và vộ tận chúng sanh. 
								
								Trong vô số thế giới, mỗi 
								thế giới có vô số chúng sanh, mỗi chúng sanh có 
								bao nhiêu tâm niệm, Như Lai đều thấy biết tất 
								cả. 
								
								Vừa nói đến "tâm", sợ chúng 
								sanh vọng chấp "có tâm" mà không nhhập được Kim 
								Cang Bát Nhã, nên Phật liền phá: "Như Lai nói 
								"tâm" không phải thật có tâm, chỉ giả gọi là 
								"tâm". 
								
								Phật giải thích thêm: Vì 
								tâm quá khứ đã diệt, tâm vi lai chưa đến, tâm 
								hiện tại không dừng trụ, nên trong ba đời tìm 
								tâm không thể được. 
								
								Thuở xưa, Ngài Huệ Khả (Nhị 
								Tổ) đến cầu Tổ Đạt Ma (Sư Tổ) về pháp an tâm 
								(xen "bản đồ tu Phật" tập 4). 
								
								Tổ Đạt ma hỏi: "Ông đến đây 
								để làm gì?". 
								
								Ngài Huệ Khả thưa: "Bạch Tổ 
								Sư! Con đến đây để cầu pháp an tâm". 
								
								Tổ Đạt Ma hỏi:" Quá khứ tâm 
								bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai 
								tâm bất khả đắc, vậy ông muốn an cái tâm nào?". 
								
								Ngài huệ Khả thưa: "Trong 
								ba thời (quá khứ, hiện tại và vị lai) con tìm 
								tâm đều không thể được". 
								
								Tổ Đạt Ma dạy: "ta đã an 
								tâm cho ông rồi". Ngài huệ Khả liền tỏ ngộ. 
								
								Ngài Xuyên Thiền sư có làm 
								bài kệ nói về ba tâm 
								
								Nguyên văn (dịch âm): 
								
									
										- Tam tế cầu 
										tâm, tâm bất biến
 
										Luỡng nhãn y nhiên đối lưỡng nhãn 
										Bất tu di kiếm khắc chu tầm 
										Tuyết nguyệt phong hoa thường kiến diện 
									 
								 
								
								Dịch nghĩa: 
								
									
										- Hai mắt trơ 
										trơ chỉ ngó chăm
 
										Tìm mãi ba đời chẳng thấy tâm 
										Tuyết nguyệt phong ba thường đối diện 
										Kiếm rơi hà tất khắc khe tầm 
									 
								 
								
								LƯỢC GIẢI VÀ ĐẠI Ý 
								
								Thuở xưa, có người đi 
								thuyền làm rơi cây kiếm dưới sông. Người ấy liền 
								lấy dao khắc be thuyền, để chờ thuyền đậu nghỉ 
								sẽ tìm. Đến khi thuyền đậu, người ấy xuống sông 
								mò hoài không được kiếm. Anh ta thắc mắc: "Cây 
								kiếm mới rớt, tôi khắc thuyền làm dấu ngay chỗ 
								này, sao tìm hoài không được". 
								
								Người trí thấy vậy bảo:"Anh 
								dại quá! Kiếm rớt hồi nãy, thì anh phải tìm ngay 
								chỗ hồi nãy và tại chỗ đó; chớ đợi đến bây giờ, 
								đã khác chỗ rồi, thì làm sao tìm được". 
								
								Cũng thế, người tu hành 
								phải trực ngộ bản tâm mình. Nếu còn móng tâm để 
								tìm tâm ở đâu đâu, thì không bao giờ tìm được; 
								vì tâm quá khứ đã diệt, tâm hiện tại không dừng, 
								tâm vị lai chưa đến. 
								
								Tóm lại, đại ý bài tụng: 
								
								Những cảnh vật thiên nhiên, 
								như tuyết trong, trăng sáng, gió mát, hoa tươi ở 
								trước mắt, đều biểu lộ bản thể chơn tâm thường 
								trú. Hành giả phải tức nơi muôn vật đó mà trực 
								ngộ bản tâm mình, cần gì phải tìm đâu xa. Nếu 
								hành giả không trực ngộ, mà cứ lo tìm tâm quá 
								khứ, hiện tại và vị lai, thì cũng như người khắc 
								dấu lên thuyền để mò kiếm, không bao giờ mò 
								được. 
								
								52. PHẬT 
								PHÁ CÁI CHẤP "PHƯỚC ĐỨC NHIỀU"
								
								Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Nếu có 
								người dùng 7 món báu, đựng đầy trong một Đại thế 
								giới (một nghìn triệu thế giới nhỏ) đem bố thí, 
								người này được phước đức không?". 
								
								Tu Bồ Đề thưa: "Nếu chấp 
								phước đức này thật có, thì Như Lai nói phước đức 
								này không nhiều. Không chấp phước đức nhiều, Như 
								Lai mới nói "đặng nhiều phước đức". 
								
								LƯỢC GIẢI 
								
								Nếu đem tân chấp tướng mà 
								làm việc phước đức, thì phước đức đó thành hữu 
								vi hữu lậu; dầu có nhiều bao nhiêu cũng có ngày 
								cùng tận. Trái lại, nếu đem tâm vô tướng (không 
								cầu danh, cầu lợi, không chấp nhơn, chấp ngã 
								v.v...) mà làm việc phước đức, 
								thì phước dức này thuộc về vộ lậu thanh tịnh, 
								hợp với tánh Bát Nhã chơn không (chơn 
								tâm) dù làm ít, nhưng phước đức 
								vô cùng tận. 
								
								Thuở xưa, Tổ Đạt Ma đến 
								Trung Hoa truyền đạo. Vua Lương Võ Đế đem việc 
								bố thí làm phước, đúc chuông, tạo tượng và lập 
								72 cảnh chùa v.v...để hỏi Tổ Đạt Ma. Trong câu 
								hỏi có tánh cánh khoe khoang chấp tướng. 
								
								Vua hỏi: "Trẫm lập 72 cảnh 
								chùa, đúc chuông, tạo tượng, tu kiều, bồi lộ 
								v.v...phước đức có nhiều không?". 
								
								Trả lới đúng theo tinh thần 
								"vô trụ, vô tướng" của kinh Bát Nhã, Tổ Đạt Ma 
								nói: "Không có phước đức". Vua Lương Võ Đế vì 
								trình độ quá kém, không hiểu được lời của Tổ 
								dạy, nên nghi rằng không phải Tổ, lại đem dâng 
								thuốc độc cho Tổ Đạt Ma uống ...(xem quyển "Tổ 
								Đạt Ma", do Hương Đạo xuất bản). 
								
								Ngài Xuyên Thiền sư tả về 
								cảnh: khi các mây vô minh vọng chấp hết, thì mặt 
								trăng Trí huệ Bát Nhã hiện ra, bằng hai câu như 
								sau: 
								
								Nguyên văn (dịch âm): 
								
									
										- Vô hạn dã 
										tâm phong quyển tận
 
										Nhứt luân cô nguyệt chiếu thiên tâm 
									 
								 
								
								Dịch nghĩa: 
								
									
										- Gió cuốn mây 
										đen về biển cả
 
										Một vừng trăng sáng giữa trời không 
									 
								 
								
								53. PHẬT 
								PHÁ CÁI CHẤP "THẤY SẮC THÂN VÀ TƯỚNG TỐT CỦA 
								PHẬT LÀ THẤY PHẬT"
								
								Phật hỏi: "Tu Bồ Đề! ông có 
								thể cho thấy sắc thân của ta đây là thấy được 
								Phật không?". 
								
								Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế 
								Tôn! Không thể cho thấy sắc thân của Phật là 
								thấy được Phật. Tai sao vậy? Vì Như Lai nói sắc 
								thân, không phải thật sắc thân, chỉ giả gọi là 
								sắc thân". 
								
								Phật hỏi tiếp: "Tu Bồ Đề! 
								ông có thể cho thấy các tướng tốt (32 tướng tốt, 
								80 vẻ đẹp) của ta đây là thấy được Phật không?". 
								
								Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế 
								Tôn! không thể cho thấy các tướng tốt của Phật 
								là thấy được Phật. Tại sao vậy? Vì Như Lai nói 
								các tướng tốt, không phải thật tướng tốt, chỉ 
								giả gọi là tướng tốt". 
								
								LƯỢC GIẢI 
								
								Đoạn này Phật dùng Trí huệ 
								Kim Cang Bát Nhã phá trừ cái chấp: "Thấy sắc 
								thân và tướng hảo của Phật là thấy được Phật". 
								Đây lần thứ ba (lần thứ nhứt và 
								nhì ở đoạn 7 và 25) Phật phá 
								cái chấp về việc thấy Phật. 
								
								Kinh Kim Cang, Phật dạy: 
								"Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng" (phàm 
								cái gì có hình tướng đều là hư dối). 
								
								Sắc thân của Phật, do bốn 
								đại hoà hợp giả tạo ra thân tướng, nên thân 
								tướng của Phật cũng hư vọng không thật, chỉ giả 
								gọi là thân Phật. 
								
								Rồi từ trên thân tướng, do 
								bốn đại giả tạo, lại sanh ra nhiều tướng, những 
								tướng ấy cũng hư vọng không thật, chỉ giả gọi là 
								32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. 
								
								Đến lúc hoàn thành nhiệm vụ 
								độ sanh, Phật thâu thần nhập diệt, xả thân tướng 
								tứ đại để vào cõi Niết bàn, thì xác thân và 32 
								tướng tốt, do tứ đại giả hợp của Phật cũng theo 
								luật "sanh, trụ, dị, diệt" mà biến đổi. Lúc bấy 
								giờ không còn cái gì để gọi là sắc thân và tướng 
								tốt. 
								
								Bởi thế nên Phật dạy: 
								"Không phải sắc thân, chỉ giả gọi sắc thân; 
								không phải tướng tốt, chỉ giả gọi là tướng tốt". 
								Vì thế nên ông Tu Bồ Đề thưa: "Không thể cho 
								thấy sắc thân hay thấy tướng tốt của Phật mà cho 
								là thấy được Phật". 
								
								54. PHẬT 
								PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ LAI CÓ THUYẾT PHÁP"
								
								Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Ông 
								chớ nên nghĩ rằng: "Như Lai có thuyết pháp". Tại 
								sao vậy? Nếu người nào không hiểu lời của Phật 
								dạy, lại nói rằng: "Như Lai có thuyết pháp", thì 
								người ấy khinh báng Phật". 
								
								Tu Bồ Đề! Như Lai nói: 
								"Thuyết pháp, tức là không có pháp gì có thể nói 
								được, mới gọi là thuyết pháp". 
								
								LƯỢC GIẢI 
								
								Đoạn này Phật dùng Trí huệ 
								Kim Cang Bát Nhã phá trừ cái chấp "Như Lai có 
								thuyết pháp". Đây là lần thứ 3, Phật phá cái 
								chấp về "Như Lai có thuyết pháp" (lần 
								thứ nhứt ở đoạn 11 và 23) 
								
								Nếu người nào chấp: "Phật 
								có thuyết pháp", thì người đó còn chấp ngã (Phật) và 
								chấp pháp (thuyết pháp) Đem 
								tâm vọng chấp ngã pháp cuả phàm phu mà suy nghĩ 
								luận bàn đến chánh pháp của Phật, thì chánh pháp 
								của Phật, trở thành vọng chấp của phàm phu. Ngài 
								Xuyên Thiền sư nói: "Tà nhơn thuyết chánh pháp, 
								chánh pháp tức qui tà" (người tà 
								nói pháp chánh, pháp chánh trở thành tà). 
								Bởi thế nên Phật nói: "người đó khinh báng Phật 
								". Vì họ không nhập được "lý Kim Cang Bát Nhã", 
								nên Phật nói: "Họ không hiểu được lời của Phật 
								dạy". 
								
								Đức Lão Tử nói: "Đạo mà có 
								thể nói được, thì không phải thật là Đạo (Đạo 
								khả đạo, phi thường đạo)". Cũng đồng một ý này, 
								Đức Phật dạy: "Không có pháp gì có thể nói được, 
								mới gọi là thuyết pháp". 
								
								Phật nói bài kệ như sau: 
								
								Nguyên văn (diịch âm): 
								
									
										- Thị tùng 
										thành đạo hậu
 
										Chung chí Bạt đề hà 
										Ư thị nhị trung gian 
										Vị thường thuyết nhứt tự 
									 
								 
								
								Dịch nghĩa: 
								
									
										- Từ khi mới 
										thành đạo
 
										Đến lúc nhập Niết bàn 
										Trong khoảng thời gian ấy 
										Ta không nói một chữ. 
									 
								 
								
								ĐẠI Ý BÀI KỆ 
								
								Bài kệ này, nói về lý kinh 
								Bát Nhã. Cổ nhơn dạy: "vô thuyết vô văn chơn Bát 
								Nhã", (không nói Bát Nhã và 
								không nghe Bát Nhã, mới thật là nói Bát Nhã và 
								nghe Bát Nhã), (xin độc giả xem lại đoạn giải 11 
								và 23). 
								
								55. PHẬT 
								PHÁ CÁI CHẤP "THẬT CÓ CHÚNG SANH"
								
								Khi đó, ông Tu Bồ Đề thưa 
								Phật: "Bạch Thế Tôn! Đời sau, nếu có chúng sanh 
								nào nghe đến kinh Bát Nhã, không biết họ có thể 
								tin được không?". Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Chúng 
								kia, không phải chúng sanh, cũng không phải phi 
								chúng sanh. Tại sao vậy? Như Lai nói chúng sanh, 
								thật không phải chúng sanh, chỉ giả gọi là chúng 
								sanh". 
								
								LƯỢC GIẢI 
								
								Đoạn này Phật dùng Trí huệ 
								Kim Cang Bát Nhã phá cái chấp "thật có chúng 
								sanh". Trong tánh Bát Nhã chơn không thì ngã và 
								pháp đều không, bốn tướng chẳng còn. 
								
								Bốn tướng đã không, ngã 
								chấp chẳng còn, thì đâu có gì là chúng sanh hay 
								phi chúng sanh. Đã không phải chúng sanh hay phi 
								chúng sanh, thì có gì là tin hay không tin. Đúng 
								theo tinh thần kinh Bát Nhã, nếu còn phân biệt 
								vọng chấp, thì không phải là thật. Bởi thế nên 
								Phật dạy tiếp: "Như Lai nói chúng sanh, không 
								phải thật chúng sanh, chỉ giả gọi là chúng 
								sanh". 
								
								Ngài Phó Đại sĩ làm bài 
								tụng, để tóm tắt lại đoạn này, như sau: 
								
								Nguyên văn (dịch âm): 
								
									
										- Chúng sanh 
										dữ thọ giả
 
										Uẩn thượng lập hư danh 
										Như qui mao bất thật 
										Tợ thố giác vô hình 
									 
								 
								
								Dịch nghĩa: 
								
									
										- Ngã, nhơn, 
										chúng sanh và thọ giả
 
										Trên năm uẩn chỉ có giả danh 
										Như lông rùa không có thật thể 
										Tợ như sừng thỏ chẳng có hình. 
									 
								 
								
								ĐẠI Ý BÀI TỤNG 
								
								Tất cả các pháp trên năm 
								uẩn như ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả 
								v.v...đều không thật có, như lông rùa, sừng thỏ, 
								chỉ có giả sanh mà thôi. 
								
								
								
								▲ Trở Lên 
								 | 
							 
							
								
								
								
								
								
								BÀI THỨ CHÍN
								
								B. 
								PHẦN CHÁNH TÔN 
								(Tiếp theo)
								
								56. 
								Phật phá cái chấp "Như Lai đặng đạo quả vô 
								thượng Bồ Đề" 
								
								57. Pháp này bình đẳng không có thấp cao 
								
								58. Phật nói công đức của người thọ trì kinh này 
								không thể nghĩ bàn* 
								
								59. Phật phá cái chấp "Như Lai có độ chúng 
								sanh". 
								
								60. Thấy 32 tướng tốt của Phật chưa phải là thấy 
								được Phật. 
								
								61. Phật nói bài kệ, phá cái chấp "thấy Phật 
								bằng sắc tướng, nghe Phật bằng âm thanh". 
								
								62. Phật phá cái chấp "không" (tức là chấp đoạn 
								diệt) 
								
								63. Người ngộ "tất cả các pháp không thật", 
								phước đức nhiều hơn người bố thí vô số bảy báu 
								
								  
								
								56. PHẬT 
								PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ LAI ĐẶNG ĐẠO QUẢ VÔ THƯỢNG BỔ 
								ĐỀ"
								
								Ông 
								Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Như Lai có 
								chứng đặng đạo quả Vô thượng Bồ Đề không? Phật 
								dạy: "Tu Bồ Đề! Như Lai không có một tí gì gọi 
								là đặng đạo quã Vô thượng Bồ Đề". 
								
								LƯỢC GIẢI 
								
								Đoạn này Phật dùng Trí huệ 
								Kim Cang Bát Nhã phá trừ cái chấp "Phật có đặng 
								Đạo quả Bồ Đề". Đây là lần thứ 4 (lần 
								thứ nhứt, hai và ba ở đoạn 15, 36, và 46). 
								
								Trong Duy thức Tam thập 
								tụng có chép: "Nếu hành giả hiện tiền còn phần 
								nào thấy mình có chứng Duy thức tánh, thì chưa 
								phải thật chứng Duy thức tánh, vì còn chấp "có 
								sở đắc" vậy". 
								
								Đồng một ý với đoạn kinh 
								này, nếu còn chấp "mình đặng đạo quả Vô thượng 
								Bồ Đề", tức là còn bốn tướng: ngã, nhơn, chúng 
								sanh và thọ giả thì không phải thật chứng đạo vô 
								thượng Bồ Đề. 
								
								Hành giả phải ngộ nhập Kim 
								Cang Bát Nhã, xa lìa các vọng chấp, không còn 
								thấy mình chứng (không ngã) và 
								đạo quả Bồ Đề để chứng (không 
								pháp) thì mới thật là chứng đạo 
								vô thượng Bồ Đề. Bởi thế nên Phật dạy: "Như Lai 
								không có một tí gì gọi là đặng đạo vô thượng Bồ 
								Đề". 
								
								57. PHÁP 
								NÀY BÌNH ĐẲNG KHÔNG CÓ CAO THẤP
								
								Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Pháp 
								này bình đẳng không có cao thấp, không ngã, 
								không nhơn, không chúng sanh và không thọ giả, 
								tạm gọi là đạo vô thượng Bồ Đề. 
								
								Tu Bồ Đề! Do tu tất cả pháp 
								lành mà đặng đạo vô thượng Bồ Đề, Như Lai nói 
								pháp lành, không phải pháp lành, mới gọi là pháp 
								lành". 
								
								LƯỢC GIẢI 
								
								Đoạn này Phật nói "pháp này 
								bình đẳng, không có cao thấp", và phá cái chấp 
								"pháp lành". 
								
								Hành giả còn chấp "ta tu 
								pháp lành" tức là còn chấp ngã (ta 
								tu) chấp pháp (pháp 
								lành). Nếu đem tâm chấp ngã 
								chấp pháp mà tu pháp lành, thì pháp lành ấy 
								thuộc về hữu vi hữu lậu, không phải là pháp lành 
								cứu cánh. 
								
								Hành giả phải dùng Trí huệ 
								Kim Cang Bát Nhã, phá trừ các chấp ngã, chấp 
								pháp mà tu các pháp lành, thì các pháp lành ấy 
								mới hợp với Bát Nhã chơn không, thuộc về vô lậu 
								thanh tịnh, mới phải lá pháp lành rốt ráo. Bởi 
								thế nên Phật dạy: "Như Lai nói các pháp lành, 
								không phải pháp lành, mới gọi là pháp lành". 
								
								Hành giả nhập Kim Cang Bát 
								Nhã, phá trừ các vọng chấp mà tu các pháp lành 
								thì sẽ chứng được đạo vô thượng Bồ Đề. Đạo này 
								không ngã, không nhơn, không chúng sanh, không 
								thọ giả, nên Phật nói: "Pháp này bình đẳng, 
								không có cao thấp". 
								
								Cổ nhơn có làm một bài 
								tụng, nói về cảnh giới khi ngã và pháp đều hết, 
								như sau: 
								
								Nguyên văn (dịch âm): 
								
									
										- Võ tiền chỉ 
										kiến hoa gian điệp
 
										Võ hậu toàn vô điệp để hoa 
										Hoa điệp phân phân quá tường khứ 
										Bất tri xuân sắc lạc thi gia 
									 
								 
								
								Dịch nghĩa: 
								
									
										- Trước mưa 
										chỉ thấy hoa cùng bướm
 
										Mưa rồi chẳng thấy bướm với hoa 
										Hoa rụng bướm bay qua khỏi vách 
										Vậy ai đã hưởng thú xuân này 
									 
								 
								
								ĐẠI Ý BÀI TỤNG 
								
								Đây là lần thứ 13, Phật tán 
								thán công đức không thể nghĩ bàn của người thọ 
								trì và truyền bá kinh này. 
								
								Bố thí 7 báu tuy quí, nhưng 
								chỉ giúp cho người về vật chất, giàu có sung 
								sướng trong một đời mà thôi. Phước đức tuy 
								nhiều, nhưng thuộc về hữu vi hữu lậu. 
								
								Người thọ trì hay giảng dạy 
								kinh Kim Cang Bát Nhã, sẽ được lợi ích về phần 
								tinh thần, mình và người đều sẽ tỏ ngộ lý Bát 
								Nhã và sẽ thành Phật, rồi tự độ và độ tha, lợi 
								ích muôn đời, nên mặc dù thọ trì rất ít, nhưng 
								phước đức vẫn nhiều hơn người trước. Phước này 
								thuộc về vô lậu thanh tịnh, nên không thể tính 
								lường hay thí dụ được. 
								
								59. PHẬT PÁ 
								CÁI CHẤP "NHƯ LAI CÓ ĐỘ CHÚNG SANH"
								
								Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Ông 
								chớ lầm tưởng: Như Lai nghĩ rằng: "Ta độ chúng 
								sanh". Tại sao vậy? Nếu Như Lai có nghĩ: "Ta độ 
								chúng sanh", thì Như Lai còn chấp bốn tướng: 
								ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả, tức nhiên 
								không phải Như Lai. Bởi thế nên, Như Lai thật 
								không có độ chúng sanh nào cả. 
								
								Tu Bồ Đề! Như Lai nói "ta", 
								thật ra không có "ta"; nhưng chúng phàm phu lại 
								chấo có ta. Tu Bồ Đề! Như Lai nói phàm phu, 
								không phải phàm phu, chỉ giả gọi là phàm phu". 
								
								LƯỢC GIẢI 
								
								Đoạn này Phật dùng Trí huệ 
								Bát Nhã phá cái chấp "Phật có độ chúng sanh". 
								
								Nếu còn thấy "ta độ chúng", 
								tức là còn vọng chấp ngã (ta) nhơn (chúng 
								sanh) thì không nhập được Kim 
								Cang Bát Nhã, nên không phải là Phật . 
								
								Vì Như Lai đã nhập Kim Cang 
								Bát Nhã, không còn các vọng chấp ngã, nhơn, 
								v.v...nên Như Lai không thấy "thật có độ sanh". 
								
								Vì phá trừ nghi vấn: Phật 
								đã không chấp bốn tướng, tai sao còn nói "ta"? 
								nên Phật dạy tiếp: "Như Lai nói "ta", nhưng thật 
								ra không có cái "ta", do chúng phàm phu vọng 
								chấp là ta". 
								
								Nói đến phàm phu, sợ chúng 
								sanh chấp "thật có phàm phu", nên Phật liền phá: 
								"Như Lai nói phàm phu, không phải thật phàm phu, 
								chỉ giả gọi là phàm phu". 
								
								60. THẤY 32 
								TƯỚNG TỐT CỦA PHẬT CHƯA PHẢI LÀ THẤY ĐƯỢC PHẬT
								
								Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Ông có 
								thể cho thấy 32 tướng tốt của ta đây, là thấy 
								được Phật không?". 
								
								Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế 
								Tôn! Đúng như vậy, thấy 32 tướng tốt của Phật là 
								thấy được Phật". Phật dạy: "Ông hiểu lầm rồi! 
								nếu thấy 32 tướng tốt của ta đây, mà cho là thấy 
								được Phật, thì Vua Chuyển Luân Thánh Vương cũng 
								có đủ 32 tướng tốt như ta, vậy vua Chuyển Luân 
								Thánh Vương cũng là Phật hay sao?". 
								
								Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế 
								Tôn! Con hiểu ý Phật rồi, không thể cho thấy 32 
								tướng tốt của Phật là thấy được Phật". 
								
								LƯỢC GIẢI 
								
								Đoạn này Phật dùng Trí huệ 
								Bát Nhã phá cái chấp: "thấy sắc thân của Phật là 
								thấy được Phật". Đây là lần thứ 4 (lần 
								1, 2, 3 ở đoạn 7, 25, 3) nói về 
								viễc thấy Phật . 
								
								Muốn rõ thêm đoạn này, tôi 
								xin nhắc lại một lần nữa: 
								
								Thuở xưa, có hai vị Tỳ 
								kheo, từ phương xa đến yết kiến Phật. Đi nữa 
								đường, một vị vì sợ phạm giới, không uống nước 
								có sinh trùng, nên bị khát chết. Một vị kia nhờ 
								uống nước được sống, đến yết kiến Phật. 
								
								Phật quở: "Ông Tỳ kheo kia 
								giữ giới, không uống nước tuy chết, nhưng ông đã 
								thấy ta trước rồi. Còn ông không giữ giới, tuy 
								sống đến yết kiến ta, nhưng ông lại cách ta ngàn 
								dặm !". 
								
								Vậy thì, thấy Phật là thấy 
								cái gì? Không thể cho thấy sắc thân có 32 tướng 
								tốt của Phật, mà cho là thấy được Phật. Bởi thế 
								nên Phật nói: "Nếu thấy 32 tướng tốt của Phật là 
								thấy được Phật, thì vua Chuyển Luân Thánh Vương 
								cũng có đủ 32 tướng tốt như Phật, vậy thì vua 
								Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Phật hay sao?". 
								
								Tóm lại, theo tinh thần Bát 
								Nhã, phải xa lìa tất cả các vô minh vọng chấp, 
								thì chơn tâm hay Phật tánh mói hiện. Đó mới là 
								thật thấy Phật. 
								
								Ngộ được nghĩa lý uyên thâm 
								của đoạn này, nên Cổ nhơn có làm bài tụng như 
								sau: 
								
								Nguyên văn (dịch âm) 
								
									
										- Phật tức tâm 
										hề tâm tức Phật
 
										Tâm Phật tùng lai giai vọng vật 
										Nhược tri vô Phật phục vô tâm 
										Thỉ thị chơn như pháp thân Phật 
									 
								 
								
								Dịch nghĩa: 
								
									
										- Phật tức là 
										tâm, tâm tức Phật
 
										Tâm Phật cả hai đều vọng vật 
										Người ngộ vô tâm và vô Phật 
										Liền chứng chơn như pháp thân Phật 
									 
								 
								
								ĐẠI Ý BÀI TỤNG 
								
								Phật tức tậm, tâm tức Phật. 
								Tâm và Phật chỉ là hai danh từ để gọi mà thôi, 
								chớ không có cái gì chơn thật. Nếu người diệt 
								trừ các vô minh vọng chấp, ngộ được lý Phật và 
								tâm đều không, thì người ấy sẽ chứng đặng chơn 
								như hay Pháp thân Phật. 
								
								61. PHẬT 
								NÓI BÀI KỆ PHÁ CÁI CHẤP "THẤY PHẬT BẰNG SẮC 
								TƯỚNG, NGHE PHẬT BẰNG ÂM THANH"
								
								Khi đó, Ðức Thế Tôn nói 
								tiếp bài kệ rằng: 
								
									
										- Nếu thấy ta 
										bằng sắc tướng
 
										Nghe ta bằng âm thanh 
										Người này đi đường tà 
										Không thấy được Như Lai. 
									 
								 
								
								LƯỢC GIẢI 
								
								Bài kệ này tóm lại đoạn 
								trên, Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá cái chấp 
								"thấy Phật qua sắc tướng của Phật "và "nghe Phật 
								qua âm thanh của Phật". 
								
								Đoạn trên đã giải nếu chấp 
								sắc thân có 32 tướng tốt của Phật là Phật, thì 
								vua Chyển Luân Thánh Vương cũng có đủ 32 tướng 
								tốt như Phật, vậy vua Chuyển Luân Thánh Vương 
								cũng là Phật hay sao? 
								
								Nếu chấp tiếng nói thanh 
								thao vi diệu của Phật là tiếng Phật, thì tiếng 
								chim Ca Lăng Tần Già, cũng thanh thao vi diệu 
								như tiếp Phật, vậy tiếng chim Ca Lăng Tần Già 
								cũng là tiếng Phật hay sao? 
								
								Tóm lại, phải phá trừ các 
								vô minh vọng chấp, nhập Kim Cang Bát Nhã, mới 
								thật thấy và nghe được Phật. Trái lại, nếu còn 
								vô minh vọng chấp, chấp sắc tướng hay âm thanh 
								của Phật, không nhập được Kim Cang Bát Nhã, thì 
								không bao giờ thấy được Phật. Bởi thế nên Phật 
								quở: "Người này đi đường tà (vọng), không 
								bao giờ thấy được Như Lai". 
								
								62. PHẬT 
								PHÁ CÁI CHẤP "KHÔNG" (TỨC LÀ CHẤP ĐOẠN DIỆT)
								
								Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Ông 
								chớ nên nghĩ rằng: "Như Lai không thừa nhận thân 
								tướng ,tốt đẹp này là thân Phật". Tại sao vậy? _ 
								Nếu người phát tâm Bồ Đề mà nghĩ như vậy, thì 
								mắc về cái chấp "đoạn diệt". Tu Bồ Đề! Người 
								phát tâm Bồ Đề, đối với các pháp, không nên chấp 
								"đoạn diệt" (chấp không). 
								
								LƯỢC GIẢI 
								
								Đoạn này Phật dùng Trí huệ 
								Bát Nhã phá cái chấp "sắc thân đủ 32 tướng tốt 
								của Phật không phải là Phật". 
								
								Đúng theo tinh thần kinh 
								Bát Nhã, thì phá hết các chấp: ngã, pháp hữu, vô 
								v.v...lúc bấy giờ chơn tâm, Phật tánh hay Bát 
								Nhã v.v...mới hiện. 
								
								Bởi thế nên "chấp sắc thân 
								đầy đủ tướng tốt của Phật là Phật", đã bị Phật 
								quở là "lạc vào đường tà, không thấy được Phật"; 
								mà "chấp sắc thân đầy đủ tướng tốt của Phật, 
								không phải là Phật", cũng bị Phật quở là "chấp 
								đoạn diệt" nghĩa là "chấp không", thuộc về "đoạn 
								kiến ngoại đạo". 
								
								Chấp "có" (chấp 
								thường) chấp "không" (chấp 
								đoạn) cũng đều là vọng chấp cả, 
								không thể chứng đặng Đạo Bồ Đề. Bởi thế nên Phật 
								dạy: "Người phát tâm Bồ Đề, đối với các pháp, 
								không nên chấp đoạn diệt". 
								
								Kinh chép: 
								
									
										- Nhược nhơn 
										dục thức Phật cảnh giới
 
										Đương tịnh kỳ ý như hư không 
									 
								 
								
								Dịch nghĩa: 
								
								  
								
									
										- Nếu người 
										muốn biết cảnh giới Phật
 
										Tâm phải thanh tịnh như hư không 
									 
								 
								
								ĐẠI Ý 
								
								Người muốn nhập cảnh giới 
								Phật hay chứng đạo Bồ Đề, thì phải xa lìa các 
								vọng chấp: có, không, đoạn, thường v.v...giữ tâm 
								ý thanh tịnh như hư không 
								
								63. NGƯỜI 
								NGỘ "TẤT CẢ CÁC PHÁP KHÔNG THẬT", PHƯỚC ĐỨC 
								NHIỀU HƠN NGƯỜI BỐ THÍ VÔ SỐ BẢY BÁU
								
								Phật day: "Tu Bồ Đề! Nếu 
								các vị Bồ Tát dùng 7 món báu, đựng đầy trong 
								hằng sa thế giới, đem bố thí; và có vị Bồ Tát 
								ngộ "tất cả pháp không thật" (nhứt thế pháp vô 
								ngã) và chứng đặng "pháp không" (pháp nhẫn) thì 
								công đức của vị Bồ Tát sau này, nhiều hơn vị Bồ 
								Tát trước. Tại sao vậy? Vì vị Bồ Tát sau này 
								không lãnh thọ phước đức". 
								
								Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch 
								Thế Tôn! Tại sao Bồ Tát không lãnh thọ phước 
								đức". Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Bồ Tát làm các việc 
								phước đức, nhưng không tham trước, nên nói Bồ 
								Tát không lãnh thọ phước đức 
								
								LƯỢC GIẢI 
								
								Đoạn này có Bồ Tát nhập Kim 
								Cang Bát Nhã chứng được "các pháp vô ngã" (vô 
								sanh pháp nhẫn) nên làm các 
								việc phước đức, mà không tham trước, không mong 
								cầu về mình, không chấp tướng phước đức, nên 
								phước đức nhiều hơn vị Bồ Tát bố thí bảy món báu 
								đựng đầy trong hằng sa thế giới. 
								
								Người đem tâm vọng chấp 
								ngã, pháp của phàm phu, mà làm các việc phước 
								đức, dù phước đức ấy có nhiều đến dâu, cũng 
								thuộc về hữu vi hữu lậu của thế gian phàm phu mà 
								thôi. 
								
								Trái lại, nếu người đem tâm 
								thanh tịnh, không chấp ngã, chấp pháp, hợp với 
								tánh Bát Nhã chơn không, mà làm việc phước đức, 
								không tham cầu phước đức riêng về phần mình, thì 
								người này mặc dù làm rất ít, mà phước đức nhiều 
								vô tận; vì phước đức này thuộc về vô lậu thanh 
								tịnh. 
								
								Giải thích đoạn này. Ngài 
								Trí Giả Đại sư làm bài tụng: 
								
								Nguyên văn (dịch âm) 
								
									
										- Tam thiên 
										đại thế giới
 
										Thất bảo mãn kỳ chung 
										Hữu nhơn trì bố thí 
										Đắc phước giả như phong 
										Du thắng xan tham giả 
										Vị đắc đạt chơn tông 
										Chung tu tứ cú kệ 
										Tri giác chứng toàn không 
									 
								 
								
								Dịch nghĩa: 
								
									
										- Cả đại thiên 
										thế giới
 
										Đựng đầy bảy món báu 
										Bố thí để cầu phước 
										Đặng phước cũng như gió 
										Còn hơn người bỏn xẻn 
										Chưa hiểu nghĩa chơn thật 
										Trì tụng bốn câu kệ 
										Mới ngộ được lý không 
									 
								 
								
								ĐẠI Ý BÀI TỤNG 
								
								Người đem bảy báu đựng đầy 
								một nghìn triệu thế giới nhỏ, để bố thí, được 
								phước đức tuy nhiều, nhưng không lâu dài, như 
								gió thổi qua; không bằng người tỏ ngộ lý chơn 
								không của kinh Bát Nhã, sẽ đặng phước vô lậu 
								thanh tịnh. 
								
								GIẢI DANH TỪ 
								
								"PHÁP KHÔNG" (hay PHÁP 
								NHẪN): bản thể chơn như thanh tịnh; nhưng vì mây 
								ngã pháp che mờ. Hành giả tu hành phá trừ được 
								ngã chấp (ngã không) thì 
								một phần chơn như hiện ra, nên gọi là "ngã không 
								chơn như"; phá trừ pháp chấp (pháp 
								không) thì một phần nữa chơn 
								như hiện ra, nên gọi là "pháp không chơn như". 
								
								Chứng được lý ngã không (sanh 
								không) và pháp không, thì gọi 
								là "nhị không chơn như" tức là đặng "vô sanh 
								pháp nhẫn", (chứng đặng ngã pháp 
								đều không). 
								
								(*) Khiếm khuyết đoạn 
								này 
								
								
								
								▲ Trở Lên 
								 | 
							 
						 
						
						 | 
								  |