|   | 
			
			
				
					| 
					 
					Mục Lục Khóa Thứ Ba 
					 
					Thinh Văn 
					Thừa Phật Giáo 
					
					  
					
					
					01 Khái niệm tổng quát về Tứ diệu đế
					
					 
					
					02 Khổ đế
					 
					03 Tập đế 
					 
					04 Tập đế 
					(tiếp theo)  
					05 Diệt đế
					 
					06 Diệt đế 
					(tiếp theo)  
					07 Ðạo đế 
					(Tứ niệm xứ)  
					08 Ðạo đế 
					(Tứ chánh cần)  
					08-2 Ðạo đế 
					(Tứ như ý túc)  
					09 Ðạo đế 
					(Ngũ căn Ngũ lực)
					 
					09-2 Ðạo đế 
					(Thất bồ đề phần)  
					10 Ðạo đế 
					(Bát chánh đạo) 
					
					  
					
					
					Bài Thứ 1 
					 
					Khái 
					Niệm Tổng Quát Về Tứ Diệu Ðế (Ariya Saccani) 
					  
					
					
					A.Mở Ðề 
					 
					
					Nguyên Nhân Và Hoàn 
					cảnh Ðức Phật Thích Ca Giảng Về Pháp Tứ Diệu Ðế Lần Ðầu 
					Tiên    
					
					Ðức Phật Thích Ca, sau 
					khi thành đạo dưới cội cây bồ đề, liền nghĩ đến việc đem 
					giáo lý của Ngài vừa chứng được, ra truyền bá cho chúng 
					sanh. Nhưng giáo lý của Ngài là giáo lý cao siêu, thâm diệu, 
					còn chúng sanh phần đông căn cơ còn thấp kém, khó có thể 
					giác ngộ nhanh chóng như Ngài được. Nhưng không lẽ vì giáo 
					pháp của Ngài thậm thâm vi diệu mà không giáo hóa chúng 
					sanh? Ðể làm tròn nhiệm vụ hóa độ của Ngài, Phật phương tiện 
					nói pháp Tứ Diệu Ðế là Tiệm giáo để cho chúng sanh dễ bề tu 
					hành.   
					
					Quan sát căn cơ năm 
					người bạn đồng tu với Ngài trước kia là nhóm ông Kiều Trần 
					Như, có thể khai ngộ được với pháp Tứ Diệu Ðế, đức Phật đi 
					đến Lộc Uyển là nơi họ đang tu hành để nói pháp Tứ Diệu Ðế. 
					 
					
					Sau khi nghe Phật 
					thuyết pháp Tứ Diệu Ðế, thành kiến mê lầm tan vỡ, trí huệ 
					siêu thoát xuất hiện, năm vị này được ngộ đạo, chứng nhập 
					quả vị A La Hán. Ðó là năm vị đệ tử đầu tiên của đức Phật 
					Thích Ca.   
					
					từ đây về sau, Tứ Diệu 
					Ðế là giáo lý căn bản về Tiệm giáo (phương pháp tu chứng từ 
					từ) và đã giác ngộ cho không biết bao nhiêu đệ tử của Phật. 
					 
					
					Ngày nay, chúng tôi đem 
					giáo pháp Tứ Diệu Ðế ra trình bày với quí vị độc giải trong 
					tập sách này, cũng không ngoài mục đích ấy. 
					
					 
					 
					
					B. Chánh Ðề 
					 
					
					I. Ðịnh Nghĩa Về Tứ 
					Diệu Ðế   
					
					Tứ là bốn; Diệu là hay 
					đẹp, quý báu, hoàn toàn; Ðế là sự chắc chắn, rõ ràng đúng 
					đắn nhất. Chữ Phạn là Ariya Saccani. 
					 
					
					Tứ diệu đế là bốn sự 
					thật chắc chắn, quí báu, hoàn toàn nhất, không có một giáo 
					lý ngoại đạo nào có thể sánh kịp. Với bốn sự thật mà Ðức 
					Phật đã phát huy đây, người tu hành có thể từ địa vị tối 
					tăm, mê mờ, đi dần đến quả vị giác ngộ một cách chắc thật, 
					không sai chạy, như một ngọn đuốc thiêng có thể soi đường 
					cho người bộ hành đi trong đêm tối đến đích. Vì cái công 
					dụng quí báu, mầu nhiệm, vô cùng lợi ích như thế nên mới gọi 
					là Diệu.   
					
					Chữ Ðế còn có nghĩa là 
					một Sự Thật lớn nhất, cao nhất, bao trùm tất cả các Sự Thật 
					khác, và muôn đời bất di bất dịch, chứ không phải là sự thật 
					hạn cuộc trong không gian và thời gian. 
					 
					
					Trong giáo lý Tiểu thừa 
					thì Tứ Diệu Đế là giáo lý căn bản. 
					
					 
					 
					
					II. TỨ Diệu Ðế Gồm 
					Những Gì? 
					
					 
					 
					
					Tứ diệu đế là: Khổ đế, 
					Tập đế, Diệt đế và Ðạo đế.  
					
					  
					
					1. Khổ đế ( Dukkha). 
					Khổ đế là chân lý chắc thật, trình bày rõ ràng cho chúng ta 
					thấy tất cả những nỗi đau trên thế gian này mà mỗi chúng 
					sinh đều phải chịu, như Sống là khổ, Ðau là khổ, Già là khổ, 
					Chết là khổ V.V..những nỗi khổ dẫy đầy trên thế gian, bao 
					vây chúng ta, chìm đắm chúng ta như nước biển. Do đó, Ðức 
					Phật thường ví cõi đời là một bể khổ mênh mông. 
					
					 
					 
					
					2. Tập đế (Sameda 
					Dukkha). Tập đế là chân lý chắc thật, trình bày nguyên nhân 
					của bể khổ trần gian, là lý do vì đâu có những nỗi khổi ấy. 
					Khổ đế như là bản kê hiện trạng của chứng bệnh; còn Tập đế 
					như là bản nói rõ nguyên nhân của chứng bệnh, lý do vì sao 
					có bệnh. 
					
					 
					 
					
					3. Diệt dế (Nirodha 
					Dukkha). Diệt đế là chân lý chắc thật, trình bày rõ ràng 
					hoàn cảnh quả vị an lành, tốt đẹp mà chúng sanh sẽ đạt đến 
					khi đã diệt trừ được những nỗi khổ và những nguyên nhân của 
					đau khổ. Diệt đế như là một bản cam đoan của lương y nói rõ 
					sau khi người bệnh lành thì sẽ ăn ngon, ngủ yên như thế nào, 
					thân thể sẽ tráng kiện, tâm hồn khoan khoái như thế nào. 
					
					 
					 
					
					4. Ðạo đế (Nirodha 
					Gamadukkha). Ðạo đế là những phương pháp đúng đắn, chắc thật 
					để diệt trừ đau khổ. Ðó là chân lý chỉ rõ con đường quyết 
					định đi đến cảnh giới Niết Bàn. Nói một cách giản dị, đó là 
					những phương pháp tu hành để diệt khổ và được vui. 
					 
					
					Ðạo đế cũng như cái toa 
					thuốc mà vị lương y đã kê ra để người bịnh mua và những lời 
					chỉ dẫn mà bịnh nhân cần phải y theo để lành bệnh. 
					
					 
					 
					
					III. Bố Cục Kỳ Diệu 
					Của Tứ Diệu Ðế   
					
					Tứ diệu đế đã được Ðức 
					Phật sắp đặt theo một thứ tự rất khôn khéo, hợp lý, hợp 
					tình. Ngày nay các nhà nghiên cứu Phật học Âu Tây, mỗi khi 
					nói đến Tứ Diệu Ðế, ngoài cái nghĩa lý sâu xa, nhận xét xác 
					đáng, còn tóm tắt tán thán cái kiến trúc, cái bố cục, cái 
					thứ lớp của toàn bộ pháp môn ấy. 
					 
					
					Trước tiên, đức Phật 
					chỉ cho chúng sanh thấy cái thảm cảnh hiện tại cỉa cõi đời. 
					Cái thảm cảnh bi đát nầy có nằm ngay trước mắt ta, bên tai 
					ta, ngay trong chính mỗi chúng ta; những sự thật có thể 
					thấy, nghe, ngửi, nếm, rờ được, chứ không phải những sự thật 
					xa lạ ở đâu đâu. Ðã là một chúng sanh, ai không có sanh, ai 
					không đau ốm, ai không già, ai không chết v.v...? Và những 
					trạng thái ấy đều mang theo tánh chất khổ cả. Ðã có thân, 
					tất phải khổ. Ðó là một chân lý rõ ràng, giản dị, không ai 
					là không nhận thấy, nếu có một chút ít nhận xét. 
					 
					
					Khi chỉ cho mọi người 
					thấy cái khổ ở trước mắt, ở chung quanh và chính trong mỗi 
					chúng ta rồi, đức Phật mới đi qua giai đoạn thứ hai, là chỉ 
					cho chúng sanh thấy nguồn gốc, lý do của những nỗi khổ ấy. 
					Ngài đã từ hiện tại đi dần về quá khứ, đã từ bề mặt đi dần 
					xuống bề sâu, đã từ cái dễ thấy đến cái khó thấy. Như thế là 
					lý luận của Ngài đã đặt căn bản lên thực tại, lên những điều 
					có thể chứng nghiệm được, chứ không phải xa lạ, viễn vong, 
					mơ hồ.   
					
					Ðến giai đoạn thứ ba, 
					đức Phật nêu lên trình bày cho chúng ta thấy cái vui thú của 
					sự hết khổ. Giai đoạn nầy tương phản với giai đoạn thứ nhứt: 
					giai đoạn trên khổ sở như thế nào, thì giai đoạn nầy lại vui 
					thú như thế ấy. Cảnh giới vui thú mà Ngài trình bày cho 
					chúng ta thấy ở đây, cũng không có gì là mơ hồ, viễn vong, 
					vì nếu đã có cái khổ là có cái vui. và khi đã thấy rõ được 
					cái khổ như thế nào, thì mới hăng hái tìm cách thoát khổ và 
					khao khát hướng đến cai vui mà đức Phật đã giới thiệu. 
					 
					
					Ðến giai đoạn thứ tư là 
					giai đoạn Phật dạy những phương pháp để thực hiện cái vui 
					ấy. Ở đây chúng ta nên chú ý là đức Phật trình bày cảnh giới 
					giải thoát trước, rồi mới chỉ bày phương pháp tu hành sau. 
					Ðó là một lối trình bày rất khôn khéo, đúng tâm lý: trước 
					khi bảo người ta đi, thì phải nêu mục đích sẽ đến như thế 
					nào, rồi để người ta suy xét, lựa chọn có nên đi hay không. 
					nếu người ta nhận thấy mục đích ấy cao quý, đẹp đẽ, khi ấy 
					người ta mới hăng hái, nỗ lực không quản khó nhọc, để thực 
					hiện cho được mục đích ấy. 
					 
					
					Như thế, chúng ta có 
					thể phác họa lại cái bố cục của bức họa Tứ Diệu Ðế như sau: 
					 
					
					Chúng ta đang đứng 
					trước một bức họa vĩ đại gồm có hai phần chính: Phần dưới là 
					một bể thẳm mênh mông, sóng gió tơi bời, trong ấy thuyền bè 
					đang bị đắm chìm, với vô số nạn nhân đang lặn hụp, kêu la, 
					khóc lóc, chới với...(Khổ đế). 
					 
					
					Trong cái phần nầy của 
					bức tranh, ta cũng thấy được những nguyên nhân gây ra những 
					thảm họa ấy: đó là những luồng gió dục vọng, tham, sân, si.. 
					những đám mây vô minh đen nghịt, che khuất cả mặt trời (Tập 
					đế).   
					
					Nhìn đến phần trên của 
					bức họa, ta thấy quang cảnh dần dần sáng sủa, yên tĩnh; ở 
					đây, giông tố không đến được, không có những vực sâu, hố 
					hiểm, không có những nạn nhân đang rên siết, khóc than...đây 
					là một miền cao nguyên, cang lên cao, cảnh trí càng đẹp đẽ, 
					yên vui. Người ở đây trông có vẻ bình tĩnh, thảnh thơi, vui 
					vẻ lắm; và cũng như cảnh trí, những người càng ở tầng bậc 
					cao thì lại càng có dung mạo đẹp đẽ, cốt cách phương phi, 
					giải thoát...(Diệt đế).  
					 
					
					Trong 
					phần nầy, nếu chúng ta chú ý nhìn rõ, thì thấy từ một cảnh ở 
					dưới lên một cảnh trên, có những con đường đi với những cái 
					bản đề tên đường đi, rất hay như: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, 
					Tứ như ý túc,. Bát chánh đạo v.v...Trên những con đường ấy, 
					có rất nhiều người đang đi lên, và rất ít người đi xuống. và 
					càng lên cao thì con đường lại càng rộng rãi mát mẻ, tốt đẹp 
					và những khách bộ hành lại càng mang rất ít hành lý...(Ðạo 
					đế).   
					
					Bức họa ấy có ghi mấy 
					chữ ở phần dưới là: "Thế gian" và phần trên là "Xuất thế 
					gian".   
					
					Ðây, bức họa Tứ Diệu Ðế 
					rõ ràng trình bày ra trước mắt chúng ta hai cảnh giới: Thế 
					gian và Xuất thế gian, tương phản như thế đó. Những ai đã 
					nhìn được bức họa ấy, tất đều có một thái độ là muốn xa lành 
					cảnh ở phần dưới và mong ước được sống trong cảnh giới trình 
					bày ở phần trên bức họa. 
					
					 
					 
					
					VI. Ðịa Vị Quan 
					Trọng Của Tứ Diệu Ðế Trong Toàn Bộ Giáo Lý Của đức Phật 
					Thích Ca    
					
					Tứ Diệu Ðế là giáo lý 
					căn bản của đạo Phật, không phải riêng đối với Tiểu Thừa mà 
					chung cho cả Ðại Thừa nữa. Người tu hành muốn có một kết quả 
					chắc chắn, không thể bỏ qua Tứ Diệu Ðế được. Pháp môn nầy, 
					tuy tiến chậm, nhưng khi tiến được bước nào là chắc bước 
					nấy. Pháp môn nầy tuy không đưa thẳng người tu hành đến quả 
					vị Phật, nhưng với một sự tinh tấn và quyết tâm nó có thể dễ 
					dàng đưa người tu hành đến quả vị A La Hán. Rồi từ quả vị A 
					La Hán, hành giả sẽ tu thêm một pháp môn khác của Ðại Thừa, 
					để tiến đến quả vị Phật. Căn cơ nào, trình độ nào cũng có 
					thể tu theo pháp môn nầy được, chứ không phải như một số 
					pháp môn khác, phải cần có một trình độ học thức cao và một 
					trí tuệ trên mức trung bình mới có thể theo được. Vì thế, nó 
					là một pháp môn phổ thông cho cả hai phái Tiểu Thừa lẫn Ðại 
					Thừa, Nam tông và Bắc tông. Ngày nay pháp môn này là pháp 
					môn được phổ biến nhất trên thế giới. Các Phật tử Âu Mỹ hầu 
					hết đều tu theo pháp môn nầy là những tập sách nghiên cứu về 
					đạo Phật, của những nhà Phật học tây phương đều nói nhiều 
					nhất về Tứ Diệu Ðế. 
					
					 
					 
					
					C. Kết Luận 
					 
					
					Phật Tử Phải Học và 
					Thực Hành Pháp Tứ Diệu Ðế  
					 
					
					Một giáo lý căn bản, 
					quan trọng như Tứ Diệu Ðế, người Phật tử không thể không 
					hiểu được. Không hiểu biết về Tứ Diệu Ðế là không hiểu biết 
					gì về giáo lý đạo Phật cả. Người Phật tử, hơn ai cả, phải 
					thấu triệt cõi đời là khổ. Muón thế, không gì hơn là hãy 
					lắng nghe đức Phật dạy về Khổ đế, vì chỉ có Khổ đế mới nói 
					lên một cách tường tận đầy đủ, chính xác về mọi nỗi khổ đau 
					của cõi đời.   
					
					Thấy rõ được mọi nỗi 
					khổ đau rồi, ta cần tìm hiểu vì đâu có khổ, nguyên nhân của 
					khổ là đâu. Vì chỉ khi nhận thấy được nguồn gốc của nó, mới 
					có thể diệt trừ tận gốc nó được. Ðiều này, cũng không chỗ 
					nào nói rõ ràng, phân tích ràng mạch bằng Tập đế. Nhưng thấy 
					được mọi nỗi đau khổ của cõi đời và nguồn gốc của nó, không 
					phải để mà chán ngán, khóc lóc, rên siết. Nếu thế thì không 
					có gì tiêu cực bi quan bằng. Một sô dư luận tưởng lầm đạo 
					Phật là yểm thế bi quan là vì họ đã dừng lại ở hai phần đầu 
					của Tứ Diệu Ðế.   
					
					Nhưng người Phật tử 
					không dừng lại đó. Ðã thấy đau khổ làm cho cuộc đời xấu xa, 
					đen tối, khổ đau, thì phải diệt trừ đau khổ. Hạnh phúc không 
					đâu xa, hạnh phúc hiện ra sau khi đã diệt trừ được đau khổ. 
					Ðau khổ lùi chứng nào thì hạnh phúc đến chứng ấy, như bóng 
					tối tan đi đến đau thì ánh sáng thay vào đến đó. Muốn thấy 
					ánh sáng của Niết Bàn thì phải thực hiện những lời dạy của 
					Phật trong Diệt đế.   
					
					Muốn thực hiện Niết Bàn 
					thì phải có đủ phương tiện. Những phương tiện nầy, đức Phật 
					đã cung cấp một cách đầy đủ trong trong Ðạo đế. 
					 
					
					Như thế, đức Phật Thích 
					Ca đã làm đầy đủ nhiệm vụ của kẻ dẫn đường cho chúng ta đi 
					từ cõi đời đen tối đến quả vị A La Hán. Ngài đã đặt vào tay 
					chúng ta một bản đồ chỉ dẫn rõ ràng về cuộc hành trình và 
					ban cho chúng ta đầy đủ phương tiện cần thiết trong chuyến 
					đi vĩ đại ấy.   
					
					Chúng ta chỉ còn lên 
					đường và bước đi.   
					
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					Bài Thứ 2 
					 
					Khổ Ðế 
					(Dukkha) 
					
					
					A. Mở Ðề 
					 
					
					Ðời Là Một Biển Khổ Ðầy 
					Mồ Hôi Và Nước Mắt    
					
					Có một số người cho 
					rằng đời là một bữa tiệc dài, không hưởng thụ cũng uổng. Do 
					đó, họ không để lỡ một dịp nào có thể đem lại cho họ những 
					khoái lạc vật chất.   
					
					Nhưng họ không ngờ rằng 
					những khoái lạc ấy điều là giả dối, lừa phỉnh, chẳng khác gì 
					cái khoái lạc mong manh của người khát mà uống nước mặn, 
					càng uống lại càng khát; và cổ họng, sau cái phút uống vào, 
					lại thêm đắng chát.   
					
					Khế kinh có câu: "Nước 
					mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển". Thật thế ! Cõi đời 
					không vui, cõi đời toàn là khổ. Những nỗi vui, nếu có, cũng 
					chỉ là tạm bợ, hào nhoáng như một lớp sương bên ngoài mà 
					thôi; chứ bản chất của cõi đời là đau khổ. Cõi đời là một 
					biển đầy mồ hôi và nước mắt, trong ấy chúng sinh đang bơi 
					lội, hụt lặn, chìm nổi, trôi lăn. Ðó là sự thật. Nhưng sự 
					thật ấy, không ai nhìn thấy một cách tường tận và nói lên 
					một cách rõ ràng như đức Phật đã nói trong khổ đế, phần thứ 
					nhứt của Tứ Diệu Ðế.  
					 
					
					B. Chánh Ðề 
					 
					
					I. Ðịnh Nghĩa Chữ Khổ 
					Ðế (DUKKHA)   
					
					Khổ đế do chữ Dukkha mà 
					ra. "DU", nghĩa là khó; "KKHA" là chịu đựng, khó kham nhẫn. 
					Dukkha nghĩa là đắng; nghĩa rộng là những cái gì làm cho 
					mình khó chịu, mình đau đớn như: ốm đau, đói khát, buồn rầu, 
					sợ hãi v.v..   
					
					"ÐẾ" là một sự thật 
					vững chắc, đúng đắn, hoàn toàn, cao hơn cả. 
					 
					
					Khổ đế, là sự thật đúng 
					đắn vững chắc cao hơn cả về sự khổ ở thế gian. Sự thật nầy 
					nó rõ ràng, minh bạch không ai có thể chối cãi được. 
					 
					
					Dưới đây, chúng ta hãy 
					nghe đức Phật giải bày một cách tường tận, sâu sắc, tỉ mỉ về 
					sự khổ của thế gian.  
					 
					
					II. Luận Về Sự Khổ 
					Của Thế Gian   
					
					Kể cho hết cả sự khổ ở 
					thế gian, thì không bao giờ cùng. Song căn cứ theo kinh 
					Phật, có thể phân loại ra làm ba thứ khổ (tam khổ) hay tám 
					thứ khổ (bát khổ).   
					
					1. Ba khổ: Ba thứ khổ 
					là: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. 
					 
					
					a) Khổ khổ. Cái 
					khổ chồng chất lên cái khổ, bản thân đã là khổ, mà hoàn cảnh 
					chung quanh lại đè lên bao cái khổ khác: đó là "Khổ khổ" 
					 
					
					Thật thế, mỗi một chúng 
					sanh, tự mình đã là nạn nhân của bao nhiêu cái khổ, cái xấu 
					xa; thân thể là một bầu thịt xương dơ bẩn, nếu một vài ngày, 
					không săn sóc, rửa ráy, thì thối tha không thể chịu đựng 
					được. Hơn nữa, cái thân ấy cũng không bền chắc, mà trái lại 
					rất mong manh: khát nước độ ba ngày, ngạt thở độ năm phút, 
					đứt một mạch máu, bị nhiễm một số vi trùng độc...thế là mạng 
					vong.  
					
					Lại trên cái khổ sống 
					chết bất ngờ mà con người không làm chủ được, còn nhiều cái 
					khổ khác nữa chất chồng, không sao tránh khỏi được như: bệnh 
					tật, đói khát, bão lụt, hỏa hoạn, chiến tranh, áp bức, sưu 
					cao thuế nặng v.v...Vì thế nên gọi là "khổ khổ". 
					 
					
					b) Hoại khổ. 
					Trong Khế kinh chép: "Phàm vật có hình tướng đều phải bị 
					hoại diệt". Thực thế, vạn vật trong vũ trụ đều bị luật vô 
					thường chi phối, không tồn tại mãi được. Cứng rắn như sắt 
					đá, lâu năm cũng mục nát; to lớn như trái đất, mặt trăng, 
					mặt trời lâu ngày cũng tan rã. Yếu ớt, nhỏ nhen như thân 
					người, thì mạng sống lại càng ngắn ngủi, phù du! Cái búa tàn 
					ác của thời gian đập phá tất cả; mỗi phút mỗi giây ta sống, 
					cũng là mỗi phút mỗi giây ta đang bị hủy hoại. Và dù ta có 
					sức mạnh bao nhiêu, quyền thế bao nhiêu, giàu có bao nhiêu 
					cũng không thể cản ngăn, chống đỡ không cho thời gian hủy 
					diệt đời ta. ta hoàn toàn bất lực trước thời gian. Thật là 
					khổ sở, tủi nhục, đớn đau !. 
					 
					
					c) Hành khổ. Về 
					phương diện vật chất, ta bị ngoại cảnh, thời gian chi phối, 
					phá hoại; còn về phương diện tinh thần, ta cũng không hề tự 
					chủ, yên ổn, tự do được. tâm hồn ta thường bị dục vọng dằn 
					vặt, lôi kéo, thúc đẩy từng phút từng giây. tư tưởng ta cũng 
					luôn luôn biến chuyển nhảy vọt lăng xăng từ chuyện này sang 
					chuyện khác, như con ngựa không cương, như con vượn chuyền 
					cây, không bao giờ dừng nghỉ. Thật là đúng như lời Phật dạy: 
					"tâm viên, ý mã".   
					
					Nếu xét sâu xa hơn nữa, 
					ta sẽ thấy tâm hồn ta còn bị cái phần bên trong kín sâu, nằm 
					dưới ý thức, là phần tiềm thức chi phối, sai sử một cách vô 
					cùng mãnh liệt trong mỗi ý nghĩ, cử chỉ hành động của chúng 
					ta. ta giận, ta thương, ta ghét, ta muốn thứ này, ta thích 
					thứ kia, phần nhiều là do tiềm thức ta sai sử, ra mệnh 
					lệnh.   
					
					Nói tóm lại, ta không 
					được tự do, ta bị chi phối bởi những ý tưởng, dục vọng, tiềm 
					thức, và luôn luôn chịu mệnh lệnh của chúng. Ðó là "Hành 
					khổ".   
					
					2. Tám khổ: nếu chúng 
					ta phân tích tỉ mỉ hơn, thì cái khổ của thế gian có thể chia 
					ra làm tám loại. tám loại này tựu trung cũngk ngoài ba khổ 
					kia.   
					
					Tám loại khổ: sanh 
					khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc 
					khổ, oán tắng hội khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. Dưới đây chúng 
					ta hãy nói rõ về tám nỗi khổ ấy. 
					 
					
					a) Sanh khổ: Sự 
					sanh sống của con người có hai phần khổ: Khổ trong lúc sanh, 
					khổ trong đời sống.   
					
					Khổ trong lúc sanh. 
					Người sanh và kẻ bị sanh đều khổ cả. Khi người mẹ mới có 
					thai là đã bắt đầu biếng ăn, mất ngủ, nôn ọe, dả dượi, bất 
					thần...Thai mỗi ngày mỗi lớn, thì người mẹ mỗi ngày mỗi mệt 
					mỏi, nặng nề, đi đứng khó khăn, làm lụng chậm chạp. Ðến khi 
					gần sanh, sự đau đớn của người mẹ không sao nói xiết. Dầu 
					được thuận thai đi nữa, mẹ cũng phải chịu dơ uế nhiều ngày, 
					yếu đuối nhiều tháng, vì tinh huyết hao mòn, ngũ tạng suy 
					kém. Còn rủi bị nghịc thai, thì mẹ phải bị mổ xẻ, đau đớn 
					nhiều nữa. Có khi sau một lần sinh bị giải phẩu, mẹ phải 
					chịu tật suốt đời.   
					
					Còn con, từ khi mới đầu 
					thai cho đến lúc chào đời, cũng phải chịu nhiều điều khổ sở. 
					Trải qua chín tháng mười ngày, con bị giam hãm trong khoảng 
					tối tăm, chật hẹp, còn hơn cả lao tù ! Mẹ đói cơm, khát 
					nước, thì con ở trong thai bào lỏng bỏng như bong bóng phập 
					phều. mẹ ăn no thì con bị ép như bồng bột bị đè dưới thớt 
					cối, khó bề cựa quậy. Ðến kỳ sanh sản, thân con phải chen 
					qua chỗ chật hẹp như bị đá ép bốn bể, nên khi vừa thoát ra 
					ngoài, liền cất tiếng khóc vang: "Khổ a ! Khổ a !". Thật 
					đúng như hai câu thơ của Ôn Như Hầu: 
					 
					
					"Thảo nào lúc mới chôn 
					nhau   
					
					Ðã mang tiếng khóc ban 
					đầu mà ra !" 
					
					 
					 
					
					Khổ trong đời sống. Về 
					phương diện vật chất, hay tinh thần, đời sống đều có nhiều 
					điều khổ sở.   
					
					Về vật chất, con người 
					đòi hỏi những nhu cầu thiết yếu như món ăn, thức uống, đồ 
					mặc, nhà ở, thuốc men. Muốn có những nhu cầu ấy, con người 
					phải cần lao kham khổ, đổ mồi hôi, sôi nước mắt, mới mua 
					được chén gạo, bát cơm, manh quần, tấm áo. Về nhà ở, thì có 
					khi suốt đời vất vả làm lụng, vẫn không đủ sức tạo được một 
					ngôi nhà nho nhỏ.   
					
					Nhưng chẳng phải đợi 
					đến cảnh đói khát mới gọi khổ; ăn uống thất thường, thiếu 
					thốn cũng đã là khổ rồi. Chẳng đợi phải lâm vào cảnh màn 
					trời chiếu đất, hay ăn lông ở lỗ mới gọi là khổ; áo quần 
					không đủ ấm, nhà cửa không che được nắng mưa, cũng đã là khổ 
					rồi. Nhưng nào phải chỉ có những người nghèo hèn mới khổ 
					đâu? Người giàu có cũng cứ khổ như thường: muốn có tiền, tất 
					phải thức khuya dậy sớm, buôn tảo bán tần, đầu tắt mặt tối 
					trong công việc, đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có được, chứ 
					đâu phải tiền bạc ở trên hư không rơi xuống cho đâu ! Ðó là 
					còn chưa nói dến những nỗi khổ vật chất bất thường khác nữa 
					mà không ai có thể tránh khỏi được. 
					 
					
					Về phương diện tinh 
					thần, đời người cũng có nhiều điều khổ nhục, có nhiều khi 
					còn đau khổ hơn cả những thiếu thốn vật chất. Không nói gì 
					nhiều, chỉ xin đơn cử ở đây một thí dụ về nỗi khổ trong sự 
					học hỏi.   
					
					Muốn tìm lẽ phải, chơn 
					lý, đạo đức, tất phải gia công học hỏi nhiều năm cả về 
					phương diện lý thuyết lẫn thực nghiệm. Về lý thuyết ta học 
					trong sách vở với thầy với bạn hay tự học. Về thực nghiệm ta 
					cũng gặp lắm điều khổ sở, khó khăn. Như học lý thuyết với 
					thầy ở trường, lắm khi gặp bài khó, lại thêm thầy giảng dạy 
					quá cao, học trò không thu nhận được gì hết, thế là người 
					giận kẻ buồn khổ tâm quá ! Còn tự học ở nhà với quyển sách 
					trơn, có lúc gặp đoạn văn mắc mỏ, lại không đủ tài liệu tra 
					cứu thêm, bị bít lối ra, rồi khởi tâm tức giận buồn phiền, 
					cũng là khổ. Về sự học thực nghiệm ở đời, lắm khi cũng phải 
					trả một giá rất đắc. ta sẽ bị người này phỉnh gạt, người kia 
					áp bức, kẻ nọ oán thù, kẻ kia khinh bỉ...bao nhiêu hạng 
					người là bấy nhiêu tâm tánh. Và hiểu đời được một phần nào 
					là ta đã phải chịu đựng biết bao nhục nhã, khổ đau. 
					 
					
					Tóm lại, về vật chất 
					hay tinh thầnh, sự sống mang theo nhiều cái khổ. Sanh khổ là 
					thế.   
					
					b) Lão khổ. Ca 
					dao có câu:   
					
					"Già nua là cảnh cảnh 
					điêu tàn   
					
					Cây già cây cỗi, người 
					già người si". 
					
					 
					 
					
					Con người đến lúc già, 
					thân thể hao mòn, tinh thần suy kém, nên khổ thể xác lẫn 
					tinh thần.   
					
					Khổ thể xác. Càng già, 
					khí huyết càng hao mòn. Bên trong, ngũ tạng, lục phủ càng 
					ngày càng mỏi mệt, hoạt động một cách yếu ớt; bên ngoài các 
					giác quan dần dần hư hoại, như mắt mờ, tai điếc, mũi nghẹt, 
					lưỡi đớ, tay chân run rẩy, đi đứng khó khăn, việc gì cũng 
					nhờ vả kẻ khác.   
					
					Ðã vậy, mỗi khi thời 
					tiết xoay trở thì cảm nhiễm theo khí hậu mà đau, như trời 
					mới nắng thì đã sốt, trời mới mưa thì đã rét v.v.. không 
					chút gì gọi là vui thú cả ! 
					 
					
					Khổ tinh thần. Người 
					xưa có nói: "Ða thọ, đa nhục". Thật thế, tuổi nhiều, nhục 
					lắm ! Càng già thân thể càng suy kém thì trí tuệ cũng càng 
					lu mờ. Do đó, sanh ra lẫn lộn, quên trước, nhớ sau, hành 
					động như kẻ ngây dại: ăn dơ, uống bẩn; nói năng giống người 
					mất trí; ăn rồi bảo chưa ăn, chưa ăn bảo ăn rồi; có khi lại 
					còn chửi bới, nói nhảm nhí làm trò cười cho lũ trẻ. Thật 
					đúng là "Lão khổ".   
					
					c) Bệnh khổ. 
					Hành hạ xác thân con người, làm cho nó khổ sở không gì hơn 
					là cái đau ! Ðã đau, bất luận là đau gì, từ cái đau lăt vặt 
					như đau răng, nhức đầu, đến cái đau trầm trọng như phung, 
					lao v.v...đều làm cho con người phải rên xiết, khổ sở, khó 
					chịu. Nhất là những bệnh trầm kha (lâu ngày khó chữa), thì 
					lại càng hành hạ xác thân, đắng cơm, nghẹn nước, cầu sống 
					không được, cầu chết cũng không, oan oan ương ương, thật là 
					khổ não.   
					
					Thân đã đau, mà tiền 
					lại hết. Có nhiều người sau một lần đau, chỉ còn hai bàn tay 
					trắng ! Cho nên ngạn ngữ có câu: "Không đau làm giàu biết 
					mấy".   
					
					Ngoài ra, bệnh tật lại 
					còn làm cho lục thân quyến thuộc buồn rầu, lo sợ. Mỗi lần 
					trong nhà có người đau, thì cả gia quyến đều rộn rịp, băn 
					khoăn ngồi đứng không yên, quên ăn quên ngủ, biếng nói, 
					biếng cười, bỏ công ăn việc làm. thật đúng là "Bệnh khổ". 
					 
					
					d) Tử khổ. Trong 
					bốn hiện tượng của vô thường; sanh, già, bệnh, chết thì 
					"chết" là cái làm cho chúng sanh kinh hãi nhất. Con người sợ 
					chết đến đổi ở trong hoàn cảnh sống thừa, đáng lẽ không nên 
					sống làm gì nữa, thế mà nghe nói đến cái chết, cũng sợ không 
					dám nghĩ đến. Những người xấu số bị bịnh nan y như ung thư, 
					bịnh hũi, sống thêm một ngày là khổ thêm một ngày, thế mà 
					những người bạc phước ấy cũng vẫn muốn sống mà thôi. 
					 
					
					Cái chết làm khổ con 
					người như thế nào mà ai cũng sợ hãi thế? 
					 
					
					Về thân xác. Có mục 
					kích một người bệnh khi hấp hối bị hành xác rồi mới biết cái 
					chết là đáng sợ. người sắp chết, mệt ngột không ngằn, trợ 
					mắt, méo miệng, giựt gân chuyển cốt, uốn mình, giăng tay, bẻ 
					chân...Trong lúc ấy tai hết nghe, mắt hết thấy, mũi hết thở, 
					miệng hết nói. Rờ thử vào người chết, thì thấy lạnh ngắt như 
					đồng, thân cứng đơ như gỗ. xác chết dần dần sình lên, trong 
					rất ghê tởm; nếu để lâu ngày lại nứt ra, chảy nước tanh hôi 
					khó chịu vô cùng.   
					
					Về tinh thần. Khi sắp 
					chết, tâm thần rối loạn, sợ hãi vô cùng: phần xót thương cha 
					mẹ, vợ chồng, anh em, con cái từ đây đoạn tuyệt, phần lo 
					mình một thân cô quạnh, bước sang thế giới mịt mù xa lạ. 
					Thật không còn gì đau khổ bằng phút chia ly vĩnh viễn này ! 
					 
					
					Tóm lại, cái chết làm 
					cho thân thể tan rã, thần thức theo nghiệp dẫn đi thọ sanh ở 
					một cõi nào chưa rõ. Thật là "tử khổ". 
					 
					
					e) Ái biệt ly khổ. 
					Trong cái tình yêu thương giữa vợ chồng, con cái, anh em 
					đang mặn nồng, thắm thiết mà bị chia ly, thì thật không có 
					gì đau đớn hơn. Sự chia ly có hai loại: sanh ly và tử biệt. 
					 
					
					Sanh ly khổ. Một gia 
					đình đang sống trong cảnh đàm ấm vui vầy, bỗng bì hoàn cảnh 
					bắt buộc, hay vì một tai họa thình lình xảy đến, như giặc 
					giã, bão lụt...làm cho mỗi người bơ vơ thất lạc mỗi nơi: kẻ 
					đầu này trông đợi, người gốc kia nhớ chờ. thật đau lòng xót 
					dạ ! Người đời thường nói: "Thà lìa tử, chứ ai nỡ lìa 
					sanh?". Ðó là cái khổ của "Sanh ly". 
					 
					
					Tử biệt khổ. Nhưng mặc 
					dù xã cách nhau người sống còn có ngày gặp gỡ; chứ chết rồi 
					bao thuở được vum vầy? Vì vậy, đứng trước cảnh chết, là một 
					sự biệt ly vĩnh viễn, con người không ai là chằng khổ đau. 
					Do đó, lâm phải cảnh tử biệt này, có người đã xót thương rầu 
					rĩ đến quên ăn, bỏ ngủ, có người đau đớn, tuyệt vọng đến nỗi 
					toan chết theo người quá cố. Ðó là cái khổ của "tử biệt". 
					 
					
					g) Cầu bất đắc khổ 
					(thất vọng). Người ta ở đời, hễ hy vọng càng nhiều thì 
					thất vọng càng lắm. Bất luận trong một vấn đề gì, số người 
					được toại nguyện thì quá hiếm hoi, mà kẻ thất bại bất như ý, 
					thì không sao kể xiết. Muốn được kết quả tốt đẹp, người ta 
					phải vận dụng không biết bao nhiêu năng lực, lao tâm, tổn 
					trí, mất ăn, bỏ ngủ, chỉ mong sao cho chóng đến ngày thành 
					công. Thế rồi, chẳng may những điều mong ước ấy không thành, 
					sự đau khổ không biết đâu là bờ bến. Dưới đay, xin nêu lên 
					vài thí dụ về những thất vọng mà người đời thường gặp nhiều 
					nhất.   
					
					Thất vọng vì công danh. 
					Trong đời, danh vọng thường là một miếng mồi ngon mà phần 
					đông người đời ưa thích. Nhưng miếng mồi ấy, phải đâu dễ 
					giành giật được? Không nói gì đến những kẻ nhảy dù, muốn làm 
					quan tắt, nên phần nhiều hay thất bại, chỉ nói đến trường 
					hợp những kẻ mong cầu danh vọng một cách chánh đáng, bằng 
					năng lực, tài trí, học hỏi của mình. Ðối với những hạng 
					người này, cũng phải nếm bao mùi thất bại, cuối cùng may ra 
					mới được thành công. Thật đúng như lời Ôn Như Hầu Nguyễn gia 
					Thiều đã nói:   
					
					"Gót danh lợi, bùn pha 
					sắc xám   
					
					Mặt phong trần nắng nám 
					mùi dâu !"  
					
					  
					
					Thất vọng vì phú quý. 
					Số người thất vọng vì công anh đã nhiều. Nhưng sô người thất 
					vọng vì phú quý cũng không phải ít. Muốn cho mau giàu, nhiều 
					người tìm mưu này chước nọ để lừa phỉnh người ta; nhưng rồi 
					mưu gian chước lận đỗ bể ra, tài sản bị tịch thu, bản thân 
					bị tù tội, gia quyến bị nhục nhã theo, thực là khổ ! 
					 
					
					Thất vọng vì tình 
					duyên. Tình duyên cũng là một điều làm cho bao người phải 
					điêu đứng, khổ sở. Trong trường tình ái, thử hỏi đã mấy ai 
					được toại nguyện? Nhan nhãn trên báo chí hằng ngày, những 
					câu chuyện tình duyên trắc trở đưa đến sự quyên sinh, thật 
					không sao kể xiết. Ðấy là "Cầu bất đắc khổ". 
					 
					
					h) Oán tắng hội khổ. 
					Con người ở trong cảnh thương yêu, chẳng ai muốn chia ly; 
					cũng như ở trong cảnh hờn ghét, chẳng ai mong gặp gỡ. Nhưng 
					oái oăm thay ! Ở đời khi mong muốn được hội ngộ, lại phải 
					chia ly; cũng như khi mong ước được xa lìa, lại phải sống 
					chung đụng nhau hằng ngày ! Cái khổ phải biệt ly đối với hai 
					người thương yêu nhau như thế nào, thì cái khổi phải hội ngộ 
					đối với hai người ghét nhau cũng như thế ấy. 
					 
					
					Người ta thường nói: 
					"Thấy mặt kẻ thù, như kim đâm vào mắt; ở chung với người 
					nghịch, như nếm mật, nằm gai". 
					 
					
					Chưa nói đến trường hợp 
					những người xa lạ, ngay trong gia đình bà con quyến thuộc, 
					giữa vợ chồng, anh em, khi vì một lý do gì đó, sanh ra bất 
					hòa với nhau, cũng đủ khó chịu rồi. Muốn lánh mặt nhau, mà 
					mỗi khi đi ra đi vào lại phải gặp nhau mãi ! Quyết không nói 
					chuyện với nhau, mà nhiều khi bắt buộc nín không được, phải 
					nói ra với sự ngượng ngùng. Ðịnh tuyệt giao hẳn, ngặt vì còn 
					phải ăn chung ở lộn một nhà, dầu cố sức trốn tránh, song lắm 
					lúc cũng phải giao thiệp lấy lệ. Thật là khổ. Ðấy là bà con 
					cật ruột, có tình cốt nhục, có nghĩa đồng bào, mà sự hờn 
					ghét còn thúc đẩy con người hết muốn thân mến, không mong 
					gặp gỡ nhau thay ! Huống chi đối với người dưng, nước lã, 
					khác giống, khác nòi, một khi đã thù ghét nhau rồi mà phải 
					sống bên cạnh nhau thì thế nào cũng có một ngày xảy ra đại 
					họa. Ðó là ý nghĩa của "Oán tắng hội khổ". 
					 
					
					i) Ngũ ấm xí thạnh 
					khổ. Cái thân tứ đại của con người cũng gọi là thân ngũ 
					ấm (năm món che đậy): sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và 
					thức ấm. Với cái thân ngũ ấm ấy, con người phải chịu không 
					biết bao nhiêu là điều khổ. Giữa ngũ ấm ấy luôn luôn có sự 
					xung đột, mâu thuẫn, chi phối lẫn nhau. Vì sự xung đột, mâu 
					thuẫn ấy, nên cái thân con người mới chịu những cái khổi sau 
					đây:   
					
					Bị luật vô thường chi 
					phối không ngừng, từ trẻ đến già, từ mạnh đến ốm, từ đau đến 
					chết, luôn luôn làm cho con người phải lo sợ, buồn phiền. 
					 
					
					Bị thất tình, lục dục 
					lôi cuốn, làm cho con người phải đắm nhiểm sáu trần, phải 
					khổ lụy thân tâm.   
					
					Bị vọng thức điên đảo 
					chấp trước, nên con người nhận thức một cách sai lầm: có ta, 
					có người, còn, mất, khôn dại, có không, và sanh ra rầu lo, 
					khổ não.   
					Ấy 
					là "Ngũ ấm xí thạnh khổ." 
					 
					
					III. Ðức Phật Nêu Rõ 
					Những Nỗi Khổ Ấy Ðể Làm Gì?  
					 
					
					Có người sẽ băn khoăn, 
					thắc mắc tự hỏi: Ðức Phật nêu lên một cách rốt ráo những nỗi 
					khổ của thế gian để làm gì? Cuộc đời đã đau khổ như thế, thì 
					nên che giấu bớt đi chừng nào hay chừng ấy, chứ sao lại lột 
					trần nó ra làm gì cho người ta càng thêm đau khổ? Ta cố gắng 
					tạo nên một ảo tưởng tốt đẹp về cuộc đời để sống an ổn trong 
					ấy, có hơn không? Ðứa trẻ nít sống một cách hồn nhiên, yên 
					ổn trong hạnh phúc, vì nó không biết đến những nỗi đau khổ, 
					xấu xa của cuộc đời. Tại sao ta lại không cố bắt chước như 
					chúng, đừng tìm biết gì cả về những sự xấu xa, khổ sở của 
					cõi đời, để sống một cuộc sống có hạnh phúc hơn? Ðức Phật là 
					một đấng thường được gọi là đấng từ bi, sao lại làm một vịệc 
					nhẫn tâm như thế?   
					
					Những câu hỏi thắc mắc 
					trên, mới nghe thì hình như có lý, nhưng nếu suy xét một 
					cách rốt ráo, sẽ thấy chúng là nông cạn. Ðức Phật không nhẫn 
					tâm khi nêu lên những nỗi khổ căn bản của cõi đời; chính là 
					vì lòng từ bi mà Ngài làm như thế. Ðức Phật muốn cho người 
					đời biết rõ những nỗi khổ của trần gian, vì những lợi ích 
					lớn sau đây:   
					
					1. Gặp cảnh không 
					khủng khiếp: Những nỗi khổ mà Ðức Phật nói ra ở trên là 
					những nổi khổ căn bản, không ai tránh khỏi được. Ðã sống, 
					tất phải gặp chúng. Có ai không ốm, không già, không chết? 
					Có ai suốt đời không gặp chia ly với người thân thuộc, không 
					bị chung sống với những kẻ thù nghịch? Có ai đạt được tất cả 
					những điều mình mong ước? Cho nên dù có muốn tạo ra một ảo 
					tưởng đẹp đẽ về cuộc đời để sống cho yên ổn, thì ảo tưởng 
					ấy, sớm hay muộn gì cũng sẽ bị thực tế phủ phàng xé tan đi 
					mất ! Và khi ấy, cuộc thế tràn truồng, xấu xí, ghê tởm sẽ 
					hiện ra một cách vô cùng đột ngột, trước mắt những kẻ thường 
					quen sống trong ảo tưởng đẹp đẽ. Bấy giờ những kẻ thiếu 
					chuẩn bị để sống một cuộc sống đau khổ, sẽ hoảng lên, vô 
					cùng tuyệt vọng và có nhiều khi không đủ can đảm để sống 
					nữa.   
					
					Trái lại, khi chúng ta 
					biết rõ cảnh Ta Bà này có nhiều điều khổ, thì gặp cảnh khổ, 
					chúng ta không đến nỗi khủng khiếp, tán loạn tinh thần, mà 
					trái lại, chúng ta sẽ điềm tĩnh nhẫn nại để tìm phương giải 
					thoát. Tỷ như nhà nông, biết bổn phận mình là phải vất vả 
					với nghề cày sâu cuốc bẫm, tay lấm chân bùn, mới có lúa gạo 
					để sống, nên gặp cảnh mưa tuôn, nắng táp cũng không nao núng 
					chút nào. Trái lại, một kẻ quyền quí, quen sống trong nhung 
					lụa, trong cảnh đền đài nguy nga, rủi gặp thời cuộc hổn 
					loạn, đôi thay bất ngờ, đâm ra kinh hãi và liều mình tự tử. 
					 
					
					2. Không tham cầu 
					nên khỏi bị hoàn cảnh chi phối: Khi chúng ta rõ biết 
					cuộc đời vui ít buồn nhiều, và hễ càng ham muốn nhiều thì 
					lại càng đau khổ lắm, khi biết rõ như thế, chúng ta sẽ tiết 
					chế dục vọng của chúng ta và sẽ "biết đủ". Do đó, chúng ta 
					không bị hoàn cảnh chi phối, không bị sóng đời lôi kéo, vùi 
					dập chúng ta xuống vực thẳm mênh mông của cõi Ta Bà đen tối. 
					Tỷ như người trí, rủi bị giam cầm, biết lo nghĩ phương kế để 
					thoát ly lao ngục, chứ không như kẻ dại, trong khi ngồi tù, 
					chỉ lo tranh giành những món cơm thừa, canh cặn mà quên rằng 
					mình sẽ bị đem xử tử, nếu mình không sớm tìm kế thoát thân. 
					 
					
					3. Gắng sức tu hành 
					để thoát khổ: Khi đã biết thân người nhiều khổ và cảnh 
					Ta Bà ít vui, con người mới mong ước được thoát ly ra khỏi 
					cảnh giới đen tối của mình và sống ở một cảnh giới tốt đẹp 
					hơn. Cũng như lũ trẻ đang chơi mê mẩn trong cảnh nhà đang 
					cháy, may nhờ đấng cha lành báo động, chúng mới biết và gấp 
					rút tìm đường thoát ra.  
					 
					
					C. Kết Luận 
					 
					
					Biết Khổ Phải Tìm 
					Nguyên Nhân Sanh Ra Khổ Ðể Diệt Trừ  
					 
					
					Chúng ta đã được đức 
					Phật từ bi chỉ rõ cho thấy rằng cõi Ta Bà này, cũng như tam 
					giới đều là biển khổ. Kinh Pháp Hoa cũng nói: "Ba cõi không 
					an, ví như nhà lửa", tiếc vì chúng sinh mê muội, lấy khổ làm 
					vui mà không tự biết, nên phải bị trầm luân. 
					 
					
					Nay chúng ta đã biết rõ 
					mặt thật xấu xí của đời rồi, đã biết nó là một biển khổ mênh 
					mông luôn luôn dậy sóng, thì ta phải nhàm chán nó, xã lánh 
					nó. Biết khổ để rồi chán đời, nản chí, buông xuôi tay ngồi 
					khóc than. Nhưng làm thế nào để thoát ly nó, nếu chúng ta 
					chưa rõ biết ngành ngọn, đường đi nước bước, chưa biết rõ vì 
					đâu phát sinh đau khổ? Nhà lương y giỏi muốn trừ bênh, phải 
					tìm căn nguyên của bệnh. Một viên tướng giỏi muôn trừ diệt 
					tận gốc bọn phiến loạn, phải cho điều tra kỹ lưỡng sào 
					huyệt, tổng hành dinh của chúng ở đâu, nhiên hậu mới có thể 
					bao vây, đánh bắt chúng nó đầu hàng một cách dễ dàng. 
					 
					
					Cũng vậy, biết khổ chưa 
					đủ để diệt khổ. Muốn diệt khổ tận gốc phải tìm nguyên nhân 
					phát sanh ra khổ.   
					
					Nguyên nhân phát sanh 
					ra khổ, đức Phật đã thuyết trong đoạn thứ hai của tứ diệu đế 
					là Tập đế, mà quý độc giả sẽ đọc trong bài thứ ba của tập 
					sách này.   
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					Bài Thứ 3 
					 
					Tập Ðế 
					(Sameda Dukkha) 
					
					
					A. Mở Ðề  
					 
					
					Vì Sao Phật Nói Khổ Ðế 
					Trước và Tập Ðế Sau   
					
					Trong Khổ đế, chúng ta 
					đã thấy rõ những nỗi thống khổ của trần gian. Trước những 
					nỗi khổ ấy, không ai là không nhàm chán, ghê sợ cho cuộc đời 
					ở cảnh giới Ta Bà nầy, và không ai có thể an tâm, điềm nhiên 
					sống trong cảnh ấy. Nhiều câu hỏi liền nẩy ra trong đầu óc 
					chúng ta: Vì đâu sanh ra những nỗi khổ ấy? Ta có thể thoát 
					ra khỏi móng vuốt của chúng để sống ở một cảnh giới đẹp đẽ 
					hơn chăng? Và thoát ra bằng cách nào? 
					 
					
					Ðó là những câu hỏi mà 
					đức Phật sẽ lần lượt giải đáp một các tường tận ở ba phần: 
					Tập, Diệt và Ðạo đế.  
					 
					
					Ngay trong phần Tập đế 
					nầy, đức Phật giải đáp câu hỏi thứ nhứt của chúng ta là nói 
					rõ nguyên nhân của đau khổ. 
					 
					
					Ðức Phật rất rành tâm 
					lý của chúng sanh, nên mới nêu lên cái khổ trước rồi mới nói 
					cái nhân sau. Nếu vào ngay đầu, Ngài nói: "Nầy các ngươi ! 
					hãy nghe ta nói rõ những nguyên nhân sanh ra đau khổ đây !" 
					Nếu Ngài bảo như thế, chắc chúng ta sẽ không chú ý nghe cho 
					lắm, vì chúng ta, mặc dù là sống trong bể khổ, nhưng vì mê 
					mờ, chúng ta có thấy một cách tường tận và rùng rợn tất cả 
					những nỗi khổ của cảnh Ta Bà đâu? Có nhiều khi chúng ta còn 
					cho cảnh giới nầy là vui nữa là khác. Do đó, chúng ta không 
					thiết tha đi tìm nguyên nhân phát anh đau khổ. Chỉ khi nào 
					chúng ta đã ý thức một cách sâu sắc những nỗi khổ sở của 
					chúng ta, khi ấy chúng ta mới thấy sự băn khoăn khẩn cấp đi 
					tìm đường tự giải cứu cho chúng ta. Và muốn tự giải cứu, tất 
					chúng ta cầm tìm xem vì đâu mà có đâu khổ; như vị lương y, 
					muốn trị bệnh, trước phải tìm hiểu nguyên nhân sinh bệnh. 
					 
					
					Nguyên nhâ sinh bệnh 
					khổ đau của chúng sanh, đức Phật gọi là Tập đế. 
					 
					
					B. Chánh Ðề 
					 
					
					I. Ðịnh Nghĩa 
					 
					
					Tập đế: Tập là chứa 
					nhóm, dồn thêm mỗi ngày mỗi nhiều hơn lên. Ðế là sự thật 
					vững chắc, đúng đắn hơn cả. Tập đế là sự thật đúng đắn, vững 
					chắc về nguyên nhân của những nỗi khổ đã chứa nhóm, tích trữ 
					lâu đời, lâu kiếp trong mỗi chúng sanh. Ðó là sự thật về cội 
					gốc của sanh tử, luân hồi, của bể khổ trần gian. 
					 
					
					II. Nguyên Nhân Của 
					Ðau Khổ Là Những Gì?  
					 
					
					Phật dạy: Cội gốc của 
					sanh tử luân hồi do các phiền não mê lầm là những dục vọng 
					xấu xa, những ý niệm sai quấy, làm não loạn thân tâm chúng 
					ta.   
					Phiền 
					não rất nhiều, nói rộng thì đến tám muôn bốn ngàn (84.000), 
					nói hẹp lại thì có mười phiền não gốc, gọi là căn bản phiền 
					não. Do mười phiền não gốc nầy mà sanh ra vô số phiền não 
					ngành ngọn (xin xem quyển Tu Tâm). Mười phép phiền não gốc 
					là:   
					
					1. Tham: Nghĩa 
					là tham lam. Tánh tham có động lực bắt ta phải dòm ngó, theo 
					dõi những cái gì nó ưa thích, như tiền tài, danh vọng, miếng 
					ăn, chỗ ở v.v...rồi nó xúi ta lập mưu nầy, chước nọ để tầm 
					kiếm cho được những thứ ấy. Ðiều tai hại nhất là lòng tham 
					không có đáy, thâu góp bao nhiêu cũng không vừa; được một 
					muốn có mười, được mười muốn có trăm. Tham cho mình chưa đủ, 
					còn tham cho bà con quyến thuộc và xứ sở của mình. Cũng vì 
					tham mà cha mẹ vợ con xung đột; cũng vì tham mà bè bạn chìa 
					lìa; cũng vì tham mà đồng bào trở lại xung đột, xâu xé nhau; 
					cũng vì tham mà chiến tranh tiếp diễn, giết hại không biết 
					bao sanh linh. Tóm lại, cũng vì tham mà nhân loại, chúng 
					sanh chịu không biết bao nhiêu điều thống khổ. 
					 
					
					Tham không những hại 
					cho mình và cho người, trong hiện tại mà cả đến tương lai 
					nữa.   
					
					2. Sân: Nghĩa là 
					nóng giận. Khi gặp những cảnh trái ý nghịch lòng, như lòng 
					tham không được toại nguyện, thì sân nổi lên, như một ngọn 
					lửa dữ đốt cháy lòng ta. Thế là mặt mày đỏ tía hay tái xanh, 
					bộ dạng thô bỉ, nói năng hung dữ, có khi dùng đến võ lực hay 
					khí giới để hạ kẻ đã làm trái ý, phật lòng ta. Vì nóng giận 
					mà cha mẹ, vợ con, anh em xa lìa, bạn bè ly tán; vì nóng 
					giận mà đồng bào trở nên thù địch, nhân loại đua nhau ra 
					chiến trường; vì nóng giận mà kẻ bị tàn tật, người vào khám 
					đường, kẻ mất địa vị, người tan sự nghiệp. Kinh Hoa Nghiêm 
					chép: "Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai", 
					nghĩa là một niệm sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp 
					chướng đều mở ra. Sách Phật chép: "Nhất tinh chi hỏa, năng 
					thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn", nghĩa là một đóm lửa 
					giận, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức. Thật vậy, lửa 
					sân hận đã bừng cháy lên giữa lòng nhân loại, và đã đốt 
					thiêu không biết bao nhiêu là công lao, sự nghiệp mà nhân 
					loại đã tốn bao nhiêu mồ hôi và nước mắt để tạo nên. 
					 
					
					3. Si: Nghĩa là 
					si mê, mờ ám. Si như là một tấm màn dày đặc, đen tối trùm 
					lên trí huệ của ta, làm cho ta không thể nhìn thấy được sự 
					thật, phán đoán được cái hay, cái dỡ, cái tốt, cái xấu. Do 
					đó, ta gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi, làm hại mình, 
					hại người mà không hay. Vì si mà lòng tham trở thành không 
					đáy, bởi vì nếu người sáng suốt thấy cái tai hại của tham, 
					thì người ta đã kềm hãm được một phần nào tánh tham. Vì si 
					mà lửa sân tự do bùng cháy; nếu người sáng suốt biết cái tai 
					hại của lửa sân thì không để cho nó hoành hành như thế. Tổ 
					sư đã dạy: "Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác tri". 
					Nghĩa là không sợ tham và sân nổi lên, mà chỉ sợ mình giác 
					ngộ chậm. Nói một cách dễ hiểu hơn: Không sợ tham và sân, mà 
					chỉ sợ si mê. Thật đúng như thế: Nếu tham, sân nổi lên, mà 
					có trí sáng suốt ngăn chận lại, thì tham, sân không thể tồn 
					tại được; như khi đã có ánh sáng mặt rời lên, thì bóng tối 
					tất nhiên phải tự tan biến. 
					 
					
					Ba tánh tham, sân, si 
					này, Phật gọi là ba món độc; vì do chúng nó mà chúng sanh 
					phải chịu nhiều kiếp sanh tử luân hồi, đọa vào địa ngục, ngạ 
					quỉ và súc sinh.   
					
					4. Mạn: Nghĩa là 
					tự nâng cao mình lên và hạ người khác xuống; tự thấy mình là 
					quan trọng mà khinh rẻ mọi người; ỷ mình có tiền của, tài 
					trí hay quyền thế mà dương dương tự đức, mục hạ vô nhân, 
					khinh người già cả, hỗn láo với người đức hạnh, chà đạp 
					người dưới, lấn lướt người trên. 
					 
					
					Vì lòng ngã mạn cho 
					mình là hơn hết, nên chẳng chịu học hỏi thêm, không nghe lời 
					nói phải. Do đó, làm nhiều điều lầm lẫn sai quấy, phước lành 
					tổn giảm, tội lỗi càng tăng, phải chịu sanh tử luân hồi 
					không bao giờ cùng.   
					
					Mạn có bảy thứ: 
					 
					
					a) Mạn: hơn người ít, 
					mà nghĩa mình hơn nhiều.  
					 
					
					b) Ngã mạn: ỷ mình hay 
					giỏi mà lấn lướt người.  
					 
					
					c) Quá mạn: mình bằng 
					người mà cho là hơn người, người hơn mình mà cho là bằng. 
					 
					
					d) Mạn quá mạn: người 
					hơn mình nhiều mà cho mình hơn người. 
					 
					
					đ) Tăng thượng mạn: 
					chưa chứng thánh quả mà cho mình đã chứng. 
					 
					
					e) Ty liệt mạn: mình 
					thua người nhiều mà nói rằng thua ít. 
					 
					
					g) tà mạn: người tu về 
					tà đạo, được chút ít thần thông, hoặc hiểu biết được đôi 
					chút việc quá khứ, vị lai, rồi khinh lướt người. 
					 
					
					5. Nghi: nghĩa 
					là nghi ngờ, không có lòng tin. Người nghi ngờ không làm nên 
					được việc gì hết. Ðối với người thân trong gia đình, họ 
					không tin cậy giao phó công việc; đối với bạn bè, họ nghi 
					ngờ tất cả mọi thiện chí. Ngay đối với mình, họ cũng không 
					tự tin nữa. Ðã không tự tin, họ còn gây hoang mang cho người 
					chung quanh, làm cho người thế gian ngã lòng, thối chí. 
					 
					
					Ðối với đạo lý chân 
					chánh, họ cũng không hăng hái tin theo. Những pháp tu giải 
					thoát và các điều phước thiện, họ do dự không làm. 
					 
					
					Nghi có ba phương 
					diện:   
					
					a) Tự nghi: Nghĩa là 
					nghi mình. Chẳng hạn như nghe chư Tăng bảo: "Tu hành sẽ được 
					giải thoát", nhưng lại tự nghi rằng: "Chẳng biết mình tu có 
					được không?". Vì lòng do dự nghi ngờ ấy, nên không tu. 
					 
					
					b) Nghi pháp: Nghĩa là 
					nghi phương pháp mình tu. Chẳng hạn như nghe kinh Di Ðà nói: 
					"Người chí tâm niệm Phật, từ một ngày cho đến bảy ngày, được 
					nhất tâm bất loạn, đến khi lâm chung sẽ được Phật Di Ðà tiếp 
					dẫn sanh về nước Cực lạc"; nhưng họ lại nghi ngờ "Phương 
					pháp ấy không biết có kết quả đúng như vậy không? " Do sự 
					nghi ngờ đó mà không tu.  
					 
					
					c) Nghi nhơn: Nghĩa là 
					nghi người dạy mình. Như có người dạy rằng: "Làm lành sẽ 
					được phước, làm ác sẽ bị tội"; nhưng lại nghi rằng: "Chẳng 
					biết người này nói có thật không ". Do sự nghi ngờ ấy mà 
					không làm.   
					
					Tóm lại, tánh nghi ngờ 
					làm cản trở sự tiến triển của mình, ngăn ngại mọi công tác 
					hữu ích và làm cho cuộc đời không vượt ra khỏi cảnh tối tăm 
					khổ sở.   
					
					6. Thân kiến: 
					Nghĩa là chấp thân ngũ ấm tứ đại giả hiệp này làm ta. Vì cái 
					chấp sai lầm ấy, nên thấy có một cái Ta riêng biệt, chắc 
					thật không biến đổi, thấy cái Ta ấy là riêng của ta, không 
					dính dấp đến người khác, và là một thứ rất quý báu. Vì tưởng 
					lầm như thế, nên kiếm món ngon, vật lạ cho ta ăn, may sắm 
					quần áo tốt đẹp cho Ta mặc, lo xây dựng nhà cao, cửa lớn cho 
					Ta ở, thâu góp thật nhiều của cải, đất ruộng để dành cho Ta 
					hãnh diện với mọi người. Do sự quý chuộng phụng sự cho cái 
					Ta ấy, mà tạo ra lắm điều tội lỗi, chà đạp lên bao nhiêu cái 
					Ta khác, làm cho họ đau khổ vì Ta. Và thế giới trở thành một 
					bãi chiến trường cũng vì cái Ta. 
					 
					
					7. Biên kiến: 
					nghĩa là chấp một bên, nghiêng về một phía, có một thành 
					kiến cực đoan. Biên kiến có hai lối chấp sai lầm lớn nhất 
					là:   
					
					a) Thường kiến: nghĩa 
					là chấp rằng khi chết rồi, cái Ta vẫn tồn tại mãi: người 
					chết sẽ sanh ra người, thú chết sẽ trở lại thú, thánh nhơn 
					chết trở lại làm thánh nhơn. Do sự chấp ấy, họ cho rằng tu 
					cũng vậy, không tu cũng vậy, nên không sợ tội ác, không 
					thích làm thiện. Lối chấp này, đạo Phật gọi là "Thường kiến 
					ngoại đạo".   
					
					b) Ðoạn kiến: nghĩa là 
					chấp rằng chết rồi là mất hẳn. Ðối với hạng người chấp Ðoạn 
					kiến, thì hễ tắt thở là không còn gì tồn tại nữa; tội cũng 
					không mà phước cũng chẳng còn. Họ không tin nhân quả luân 
					hồi, nên mặc tình làm các điều tội lỗi. Họ tự bảo: "Tu nhơn 
					tích đức già đời cũng chết; hung hăng, bạo ngược tắt thở 
					cũng không còn".   
					
					Có người đối trước 
					những cảnh buồn lòng, nghịch ý, những chuyện tình duyên trắc 
					trở, tưởng rằng chết là hết đau khổ, là giải thoát tất cả, 
					nên họ đã không ngần ngại mượn chén thuốc độc, hay dòng sông 
					sâu để kết liễu đời mình. Họ đâu có ngờ rằng chết rỗi vãn 
					chưa hết ! Lối chấp này, kinh Phật gọi là "Ðoạn kiến ngoại 
					đạo".   
					
					8. Kiến thủ: 
					nghĩa là chấp chặt sự hiểu biết sai lầm của mình. 
					 
					
					Kiến thủ có hai phương 
					diện:   
					
					a) Kiến thủ vì không ý 
					thức được sai lầm của mình. hành vi của mình sai quấy, ý 
					kiến của mình sai lầm, nhưng vì không đủ sáng suốt để nhận 
					thấy, nên cứ bảo thủ hành vi, ý kiến của mình, tự cho là 
					giỏi, ai nói cũng chẳng nghe. 
					 
					
					b) Kiến thủ vì tự ái 
					hay vì cứng đầu. Biết mình làm như thế là sai, nói như vậy 
					là dở, nhưng vì tự ái, cứ bảo thủ cái sai cái dở của mình, 
					không chịu thay đổi. Như ông biết trước đã lỡ theo tà đạo, 
					nay con cháu vẫn biết đó là tà, nhưng cứ theo như thế mãi 
					không chịu đổi. Họ cứ nói một cách liều lỉnh: "Xưa sao nay 
					vậy", hay "Xưa bày nay làm". Hay như cha mẹ trước đã lỡ làm 
					nghề tội lỗi, đến đời con cháu, vẫn cứ bảo thủ nghề ấy không 
					chịu thay nghề khác.  
					 
					
					Nói rộng ra trong thế 
					giới, có một số đông người, mặc dù thời thế đã cải đổi, tiến 
					bộ mà họ cứ vẫn giữ lại những lề thói, cổ tục hủ bại mãi. 
					Chẳg hạn như ở Việt Nam ta, đến bây giờ mà vẫn có những Phật 
					tử, hễ trong nhà có người chết là giết heo bò để cúng kiến; 
					khi đưa đám tang, gánh theo những con heo quay to tướng, đi 
					biểu diễn qua các đường phố; mỗi khi tuần tự hay kỵ giỗ, thì 
					đốt giấy tiền vàng bạc, áo quần kho phướng, mỗi năm phải hội 
					họp để cúng tế tà thần, ác quỷ v.v...Chấp chặt những hủ tục 
					như thế, đều thuộc và "Kiến thủ" cả. 
					 
					
					9. Giới cấm thủ: 
					nghĩa là làm theo lời răn cấm của ngoại đạo tà giáo. Nhưng 
					sự răn cấm nầy nhiều khi thật vô lý, mê muội, dã man, không 
					làm sao đưa người ta đến sự giải thoát được, thế mà vẫn có 
					nhiều người tin và làm theo. Chẳng hạn như ở Ấn Độ, có phái 
					ngoại đạo lấy đá dằn bụng, đứng một chân giữa trời nắng, nằm 
					chỗ bẩn thỉu, leo lên cao nhảy xuống, gieo mình vào lửa, hay 
					nhảy xuống sông trầm mình để được phước. Có đạo, mỗi năm lại 
					bắt tín đồ giết một người để tế thần, hay như đạo của anh 
					chàng Vô Não, phải giết một trăm người lấy một trăm ngón tay 
					xâu làm chuỗi hạt mới đắc đạo. 
					 
					
					Những thứ cuồn tín như 
					thế, không làm cho cuộc đời sáng sủa, mà còn làm đen tối, 
					khổ đau thêm.   
					
					10. Tà kiến: 
					nghĩa là chấp theo lối tà, không chơn chánh, trái với sự 
					thật, trái với luật nhân quả. Nói một cách khác, Tà kiến 
					nghĩa là mê tín dị đoan, như thờ đầu trâu, đầu cọp, bình 
					vôi, ông táo, xin xâm, bói quẻ, buộc tôm, đeo niệt, coi sao, 
					cúng hạn v.v...   
					
					Nói rộng ra, cả bốn món 
					chấp trên, đều thuộc và Tà kiến cả. 
					 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					Bài Thứ 4 
					 
					Tập Ðế (Sameda 
					Dukkha)  
					
					(tiếp theo) 
					
					
					III. Tánh Chất Của 
					10 Món Căn Bản Phiền Não  
					 
					
					Tánh chất của mười món 
					căn bản phiền não không giống nhau: có thứ nhanh nhẹn, có 
					thứ chậm chạp; có thứ mãnh liệt, có thứ yếu ớt; có thứ đâm 
					sâu gốc rễ trong lòng người, có thứ nằm khơi khơi ở trên ý 
					thức; có thứ dễ dứt trừ, có thứ khó tiêu diệt. Vì tính chất 
					không đồng ấy mà đức Phật đặt cho chúng những danh từ khác 
					nhau, để dễ phân biệt, như Kiết sử, Kiến hoặc, Tư hoặc. 
					 
					
					1. Kiết sử: Mười thứ 
					phiền não gốc: thâm, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên 
					kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến cũng gọi là "Thập Kiết 
					sử".   
					
					Kiết là trói buộc; Sử 
					là sai khiến. Mười phiền não nầy gọi là Kiết Sử, vì chúng nó 
					có mãnh lực trói buộc loài hữu tình không cho ra khỏi ba cõi 
					và sai sử chúng sinh phải quay lộn trong vòng sanh tử luân 
					hồi, từ đời nầy đến kiếp nọ, và phải chịu không biết bao 
					nhiêu điều khổ não.   
					
					Tuy đều có tánh chất 
					sai sử, trói buộc cả, nhưng mười Kiết sử này có thứ mạnh, 
					thứ yếu, thứ chậm chạp, thứ mau lẹ, nên đức Phật chia chúng 
					ra làm hai thứ với hai tên gọi khác nhau là: Lợi sử và Ðộn 
					sử.   
					
					a) Lợi sử là những món 
					phiền não rất lanh lẹ, dễ sanh khởi mà cũng dễ trừ bỏ (lợi 
					là lanh lợi). Lợi sử gồm có năm là: 
					Thân kiến Biên Kiến, 
					Kiến Thủ, Giới Cấm thủ ,Tà Kiến. 
					 
					
					b) Ðộn sử là những món 
					phiền não nặng nề, chậm chạm, sanh khởi một cách ngấm ngầm, 
					sâu xa, nhưng mãnh liệt, khó dứt trừ (độn là chậm lụt). 
					Thuộc về Ðộn sử gồm có năm phiền não là: 
					Tham, Sân, Si, Mạn, 
					Nghi. 
					 
					
					Người học Phật muốn 
					giải thoát, tất nhiên phải chặt đứt mười thứ dây nhợ, xiềng 
					xích nầy mới được.   
					
					Trước khi muốn chặt đứt 
					chúng một cách có hiệu quả, phải hiểu rõ tánh chất mềm hay 
					cứng, bở hay dai của chúng để liệt chúng vào loại dễ chặt 
					hay khó chặt. Như người bửa củi, chia củi ra làm hai loại: 
					loại dễ bửa và loại khó bửa; loại dễ bửa thì dùng bú nhỏ, 
					loại khó bửa thì dùng búa lớn; cũng vậy, hành giả trước khi 
					muốn chặt đứt phiền não, phải liẹt chúng làm hai loại: loại 
					Kiến hoặc dễ trừ, và loại Tư hoặc khó diệt. 
					 
					
					2. Kiến hoặc: 
					Chữ Kiến hoặc có hai nghĩa: 
					 
					
					a) Loại mê lầm nầy mong 
					manh cạn cợt, chỉ tu hành đến địa vị Kiến đạo (thấy chân lý) 
					thì đoạn được.   
					
					b) Loại mê lầm nầy 
					thuộc về phần vọng kiến (vọng chấp), phân biệt của ý thức 
					đối với sự vô thường, vô ngã v.v....mà sinh ra; hay do lầm 
					nghe theo lời khuyên dạy của ta sư ngoại đạo mà sinh ra. 
					 
					
					Nói một cách dễ hiểu 
					hơn, Kiến hoặc là cái lầm thuộc về mê lý, do vọng chấp (chấp 
					sai) phân biệt của ý thức sanh ra. Ðến địa vị Kiến đạo là 
					đoạn trừ được cái hoặc này. Bởi chúng nó dễ trừ, cũng như cỏ 
					mọc khơi trên mặt đất, hễ dẫy (phác) thì hết, nên cũng gọi 
					là "Phân biệt hoặc" (nghĩa là cái lầm về phần phân biệt của 
					ý thức).   
					
					Tóm lại, Kiến hoặc hay 
					Phân biệt hoặc là do mê lý mà sanh, và sẽ bị diệt trừ khi 
					ngộ được chân lý.   
					
					Mười phiền não nói 
					trên, hay Kiến hoặc, nếu đem phối hợp với bốn Ðế trong ba 
					cõi, thì thành ra tám mươi tám hoặc. 
					 
					
					Ðể có một ý niệm rõ 
					ràng hơn, chúng ta hãy phân tách như sau: 
					 
					
					Mười món Kiến hoặc là: 
					Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ, 
					Giới cấm thủ và Tà kiến.  
					 
					
					Trong ba cõi (Dục giới, 
					Sắc giới, Vô sắc giới), mỗi cõi có bốn Ðế (khổ, tập, diệt, 
					đạo), mỗi đế có các hoặc (mê lầm) chung hiệp lại thành tám 
					mươi tám Kiến hoặc.   
					
					Như Dục giới có bốn Ðế: 
					Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Khổ đế có đủ mười hoặc. Tập đế và Diệt 
					đế chỉ có bảy hoặc (vì trừ Thân kiến, Biên kiến và Giới cấm 
					thủ). Ðạo đế có tám hoặc (trừ Thân kiến và Biên kiến). Bốn 
					đé cộng thành ba mươi hai Kiến hoặc. 
					 
					
					Cõi Sắc và Vô sắc cũng 
					y như Dục giới, song ở trong đó mỗi Ðế đều trừ ra một món 
					Sân (vì hai cõi nầy chỉ có vui trong thiền định, nên chẳng 
					có Sân) nên mỗi cõi chỉ có hai mươi tám hợc. Hai cõi hiệp 
					lại thành năm mươi sáu hoặc; cộng với ba mươi hai hoặc ở cõi 
					Dục nữa, tổng cộng thành ra tám mươi tám món Kiến hoặc. 
					 
					
					Ðây là biểu đồ 88 món 
					Kiến hoặc   
					
					I. Dục giới (có 32) 
					 
					
					1. Khổ đế: 10 
					 
					
					a) Tham, b) Sân 
					c) Si, d) mạn, 
					đ) Nghi   
					
					e) Thân kiến 
					ê) Biên kiến, g) 
					Kiến thủ   
					
					h) Giới cấm thủ 
					 
					
					I) Tà kiến 
					
					 
					 
					
					2. Tập đế: 7 
					 
					
					Như Khổ đế, trừ Thân 
					kiến, Biên kiến và Giới cấm thủ 
					 
					
					3. Diệt đế: 7  
					 
					
					Như tập đế 
					 
					
					4. Ðạo đế: 8 
					 
					
					Trừ Thân kiến và Biên 
					kiến   
					
					II. Sắc giới (có 28) 
					 
					
					1. Khổ đế: 9 
					 
					
					Như Khổ đế ở Dục giới, 
					trừ Sân.   
					
					2. Tập đế: 6 
					 
					
					Như Tập đế ở Dục giới, 
					trừ Sân.   
					
					3. Diệt đế: 6 
					 
					
					Như Diệt đế ở Dục giới, 
					trừ Sân.   
					
					4. Ðạo đế: 7 
					 
					
					Như Ðạo đế ở Dục giới, 
					trừ Sân.   
					
					III. Vô sắc giới (có 
					28)   
					
					Như Khổ, Tập, Diệt, Ðạo 
					ở Sắc giới.   
					
					Sắc giới và Vô sắc giới 
					đều trừ Sân, là vì hai cõi nầy ở trong thiền định, có hỷ có 
					lạc, nên Sân không sanh khởi. 
					 
					
					Khổ đế đủ mười hoặc là 
					vì thuộc về Quả. Tập đế ít hơn (có 7) là vì thuộc và Nhân. 
					Diệt đế là quả xuất thế nên chỉ có 7. Đạo đế về phần tu hành 
					nên chỉ có 8.   
					
					3. Tư hoặc: 
					Trong số mười phiền não căn bản nói trên, có bốn thứ ăn sâu 
					gốc rễ từ vô thỉ rất khó diệt trừ là Tham, Sân, Si, Mạn (bốn 
					Ðộn sử) thì gọi là Tư hoặc. Theo tân dịch thì Tư hoặc có hai 
					nghĩa:   
					
					a) Nó ngấm ngầm khởi 
					lên, do mê muội về sự vật mà sanh; như đối với sự vật ăn, 
					mặt, ở ( sắc, thanh, hương, vị, xúc) sanh tham gia trước. 
					 
					
					b) Sự mê lầm này phải 
					đến địa vị Tu đạo mới trừ dứt được. 
					 
					
					Chúng nó có từ vô thỉ 
					đến giờ, hễ có ta là có nó, nó với ta đông minh một lượt, 
					nên cũng gọi là "câu sanh hoặc ". Chúng nó có tiềm tàng sâu 
					kín, và chi phối sai tử chúng ta một cách mãnh liệt, nên 
					hành giả phải hết sức tu trì, mới có thể lần hồi trừ được. 
					Cũng như cỏ cú, phải ra công moi đào nhiều lần, mới nhổ sạch 
					tận gốc.   
					
					Tóm lại Tư hoặc cũng có 
					tên Câu sanh hoặc, do sự mê là sanh, và chỉ khi đến địa vị 
					Tu đạo mới đoán ra được.  
					 
					
					Mười món này phối hợp 
					với bốn đế ở ba cõi, sẽ thành 81 món như sau: 
					 
					
					Mười món Dục giới, có 
					4: Tham, San, Si, Mạn.  
					 
					
					Tư Hoặc Sắc giới, có 3: 
					Tham, Si, Mạn.   
					
					Vô sắc giới, có 3: 
					Tham, Si, Mạn   
					
					(hai cõi sau vì ở trong 
					thiền định, nên không có sân) 
					 
					
					Bốn thứ tư hoặc này lại 
					chia ra làm ba hạng: hạng nhất là bậc thượng; hạng vừa là 
					hạng bậc trung; hạng kém hơn là hạng bậc hạ. Mỗi hạng như 
					thế lại chia ra làm ba bậc hay ba phẩm nữa (thượng, trung, 
					hạ), cộng tất cả thành chín phẩm. 
					 
					
					(Xem biểu chín phẩm Tư 
					hoặc dưới đây)   
					
					Mười thứ I.  
					
					Thượng 1. Thượng 
					thượng   
					
					Tư hoặc 2. Thượng 
					trung   
					
					chia làm 3. Thượng hạ  
					 
					
					Chín 
					phẩm II.  
					
					Trung 1. Trung 
					thượng   
					
					2. Trung trung 
					 
					
					3. Trung hạ 
					 
					
					III.  
					
					Hạ 1. Hạ thượng 
					 
					
					2. Hạ trung 
					 
					
					3. Hạ hạ 
					 
					
					Chín phẩm Tư hoặc nhân 
					cho ba cõi (gồm chín địa 81 thứ) hoặc. 
					 
					
					(Xem biểu đồ 81 món Tư 
					hoặc đưới đây)   
					
					I. Dục giới 1.Ngũ 
					thứ tạp cư địa, có: 9 phẩm Tư hoặc 
					 
					
					II.Sắc giới 2. 
					Sơ Thiền, ly sanh hỷ lạc địa: __ 
					 
					
					3. Nhị thiền định sanh 
					hỷ lạc địa: __   
					
					4. Tam thiền ly hỷ lạc 
					địa: __   
					
					5. Tứ thiền xả niệm 
					thah tịnh địa: __   
					
					III. Vô sắc giới 6. 
					Không vô biên xứ địa __  
					 
					
					7. Thức vô biên xứ đia 
					__   
					
					8. Vô sỡ hữu xứ địa __ 
					 
					
					9. Phi phi tưởng xứ địa 
					__   
					
					Cộng: 9 địa Thành: 81 
					phẩm Tư hoặc  
					
					  
					
					VI. Tóm Tắt Về Ý 
					Nghĩa Kiến Hoặc và Tư Hoặc  
					 
					
					Nói tóm lại, nhưng cái 
					mê lầm thuộc về phần phân biệt (do ý thức phân biệt mà sanh) 
					đều thuộc về Kiến hoặc. Những cái mê lầm thuộc về phần Câu 
					sanh (ngấm ngầm cùng với ta đồng sanh) thì thuộc về phần Tư 
					hoặc.   
					
					Lại một nghĩa nữa, 
					những cái mê lầm thuộc về phần mê lý, đến khi Kiến đạo là 
					đoạn trừ đuợc, nên gọi là Kiến hoặc. những cái mê lầm thuộc 
					về phần mê sự, phải tu hành đến địa vị Tu đạo, mới lần đoạn 
					trừ, thì gọi là tư hoặc. Ðoạn Kiến hoặc chỉ mới là cái lầm 
					trên phương diện kiến thức; đến khi đoạn Tư hoặc thế gian 
					thì cả cái lầm trên phương diện ý thức, hành vi đều không 
					còn nữa.   
					
					Ðoạn 88 cái lầm về Kiến 
					hoặc và 81 cái lầm về Tư hoặc thì sẽ chứng được 4 quả thánh 
					Thanh văn của Tiểu thừa, trong đó quả vị cao nhất là quả vị 
					A la hán (1)   
					
					C. KẾT LUẬN: 
					 
					
					Sỡ dĩ chúng sinh chịu 
					được các đều khổ não, nguyên nhân là do phiền não gây tạo ra 
					nghiệp Tập đế. Tập đế gồm có nhiều thứ phiền não; nhưng có 
					mười thứ căn bản phiền não là: tham, sân, si, mạn, nghi, 
					thân kiếm, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến. 
					 
					
					Trong 10 món này, vì 
					căn cứ theo nhiều cái dễ phát sinh dễ trừ là năm món sử, thì 
					gọi là Ngũ lợi sữ; còn 5 món trước tánh nó ngấm ngầm phát 
					sanh và khó đoạn trừ thì gọi là Ngũ độn sử. 
					 
					
					Ðứng về phương diên Tu 
					chứng mà xét, thì hành giả trong khi tu hành, chia 10 món 
					phiền não trên làm hai loại, để đoạn trừ trong thời kỳ sau 
					đây:   
					
					1. Những cái mê lầm khi 
					thấy đạo (chân lý) mới đoạn được, thì gọi là Kiến hoặc. 
					 
					
					2. Những cái mê lầm khi 
					đến địa vị tu đạo mới đọan được thì gọi là Tư hoặc. 
					 
					
					Về Kiến hoặc, ở cõi Dục 
					giới có 32 món mê lầm, ở cõi sắc giới có 28 và Vô sắc giới 
					cũng có 28, cộng lại thành 88 món mê lầm. Cái lầm ở cõi dục 
					rất thô, đến cõi sắc và Vô sắc giới thì vi tế hơn. Ðoạn được 
					88 thứ Kiến hoặc trong ba cõi, thì chứng đặng quả thánh thứ 
					nhất trong bốn quả của Tiẻu thừa là Tu đà hoàn (Tàu dịch là 
					Dự lưu). Ðến qủa này, 81 phẩm tư hoặc của ba cõi vẫn chưa 
					đoạn trừ.   
					
					Về Tư hoặc thì cõi Dục 
					giới có 4: tham, sân, si man. Cõi sắc giới và vô sắc, mỗi 
					cõi có ba (vì trừ sân). Cộng chung lại là mười món Tư hoặc. 
					Vì chúng có thô, vi tế không đồng nên phân ra có thượng, 
					trung, hạ phẩm. Mỗi phẩm lại phân ra ba phẩm nữa là: Thượng, 
					trung, hạ cộng thành 9 phẩm. 
					 
					
					Trong ba cõi có chia ra 
					làm 9 địa mỗi địa có 9 phẩm Tư hoặc từ thô đến tế, công 
					chung 9 địa thành ra 81 Tư hoặc (1)  
					 
					
					Chín phẩm Tư hoặc ở cõi 
					Dục thì rất thô, còn hai cõi trên lần vi tế. Các thứ phiền 
					não Tư hoặc vi tế dây, chiêu cảm với những khổ quả sanh tử, 
					luân hồi trong ba cõi, Diệt được tất cả thì chứng quả A la 
					Hán.   
					  
					 
					
					Phần Phụ Chú  
					 
					Tứ Ðế là thuộc 
					về giáo lý tiểu thừa. Trong khi nghiên cứu và trung thành 
					với giáo lý này, chúng tôi chỉ kể chỉ có hai thứ hoặc và 
					kiến hoặc và Tư hoặc. Nhưng theo giáo lý Ðạị thừa thì ngoài 
					hai hoặc trên, có hai thứ hoặc khác nữa là Trần sa hoặc và 
					Vô minh hoặc, nếu chứng quả vị Ðại Thừa Bồ tát hay Phật, thì 
					phải đoạn trừ hai hoặc sau này  
					 
					
					Ðể có một ý niệm tổng 
					quát về các thứ hoặc, chúng tôi xin được phụ chú dưới đây 
					hai loại hoặc ấy:    
					
					1. Trần sa hoặc: Trần 
					sa hoặc là cái mê lầm như cát bụi. Cái mê lầm không phải của 
					mình, vì khi chứng đươc quả A la Hán thì cái mê lầm về phần 
					Kiến Hoặc và Tư hoặc nơi cá nhân mình đã hết. Cái chơn trí ở 
					nơi tâm mình đã sáng suốt rồi. Nhưng so với mình, còn thấy 
					cái mê lầm của chúng sinh nhiều như cát bụi, nên sanh tâm 
					chán ngán, thối chí độ sanh, cứ trầm không thu tịch, thủ 
					cảnh thiên không Niết Bàn của Tiểu Thừa, không chịu ra hóa 
					đạo độ sanh (vì còn pháp chấp, mê lầm thấy thật có pháp mình 
					tu, Niết Bàn mình chứng). 
					 
					
					2. Vô minh hoặc: Vô 
					minh là mê lầm, không rõ được bản chất chơn tâm. Thứ mê lầm 
					này là góc của các thứ mê làm khác, nên gọi là bản vô minh. 
					Nó rất vi tế, phá trừ trần sa hoặc rồi mới phá trừ được Vô 
					minh hoặc.   
					
					Cứ theo lối tu chứng 
					của Ðại Thừa mà luận, thì phải trải qua 51 địa vị, mới phá 
					hết dược các vô minh. khi mãn địa vị Thập tín rồi bắt đầu 
					lên thập trụ (10 vị) phá một phần vô minh thì được một phần 
					đức pháp tánh (3 đức: Pháp thân, báo thân, Giải thoát), 
					chứng lên vị sơ trụ. Như thế cứ phá thêm một phần vô minh là 
					chứng lên một địa vị; cho đến phá được 10 phần thì phá đước 
					Thập trụ. Bước qua Thập hạnh (10 vị), Thập hồi hướng (10 vị) 
					và thập địa (10 vị ) cũng thế, nghĩa là phá một phần vô minh 
					thì chứng lên một địa vị. Cho đến địa vị thứ 51; là Ðẳng 
					giác, dùng trí kim cương phá sạch hết tướng vô minh rất tinh 
					tế rồi, thì chứng được địa vị thứ 52 là quả Diệu giác 
					(Phật). Lúc bấy giờ vô minh diệt hết trí giác thế gian toàn 
					minh, cũng như trăng rằm Trung thu, bao nhiêu mây mờ vẹt 
					hết, tỏa ánh sáng khắp mười phương. 
					 
					
					Chúng ta nên lưu ý: 
					Kiến hoặc, Tư hoặc là chiêu cảm phần đoạn sanh tử trong ba 
					cõi. Ðoạn Kiến hoặc. Tư hoặc thì không thọ phần sanh tử ra 
					ngoài tam giới, được thiên lý chơn, chúng nhị thừa: Thanh 
					văn, Duyên giác. Ðoạn Trần sa hoặc chứng quyền thừ Bồ tát. 
					Ðoạn sạch vô minh chứng quả Phật vô thuợng. Xét như thế thì 
					từ khi phát tâm tu hành cho đến thành Phật, phải trải qua 
					một công trình lớn lao và một thời gian lâu xa mới được. 
					 
					
					(1) Sở dĩ gọi là phẩm 
					mà không gọi là món, loại hay thứ là vì trong mỗi mê lầm ấy, 
					không khác chất, chỉ khác phẩm lượng mà thôi, nghĩa là nó 
					đậm hay nhạt, mạnh hay yếu mà thôi
					 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					Bài Thứ 5 
					 
					Diệt 
					Ðế (Nirodha Dukkha) 
					  
					
					
					A. Mở Ðề 
					 
					
					Sau Khi nói về phương 
					diện khổ đau xong, Ðức Phật nói về phương diện an lạc.  
					 
					
					Sau khi giải bày đầy đủ 
					hiện tượng nhân quả về phần nhiễm, về phương diện đau khổ 
					xong, đức Phật liền thuyết minh các hiện tượng nhân quả về 
					phần tịnh, về phương diện An lạc. Nói một cách khác sau khi 
					dạy xong Khổ đế và tập đế, đức Phật liền dạy Diệt đế và đạo 
					đế. Có người chỉ thấy hai phần đầu của Tứ đế là khổ và Tập, 
					nên đã tưỡng Phật là đạo yếm thế, bi quan. Họ cho rằng Phật 
					giáo gieo vào lòng người sự chán đời là kẻ thấy cuộc đời xấu 
					xa, đau khổ, mà không tìm ra phương pháp để giải thoát ra 
					khói cảnh ấy, mà chỉ buông xuôi tay ngồi nhìn và khóc than, 
					sầu khổ. Ðạo Phật không làm như thế. Ðạo Phật trình bày cho 
					mọi người nhìn thấy cái hiện tại đen tối của mình, cái hoàn 
					cảnh xấu xa, có nhiề sự khuyết điểm, để cải đổi nó, kiến tạo 
					lại một cuộc sống đẹp đẽ, an vui hơn. Một giáo lý như thế, 
					không thể gọi là yếm thế, bi quan được mà chính là yêu đời, 
					lạc quan, vì còn tin tưởng ở khả năng kiến tạo của mình và 
					chúng sinh. Cảnh giới mà Ðức Phật trình bày cho chúng ta 
					thấy ở đầy là một cảnh giới hoàn toàn trái ngược với cảnh 
					giới tối tăm, sầu khổ, đớn đau mà chúng ta đang sống. Cảnh 
					giới ấy là cảnh giới huy hoàng, an lạc, mà chỉ những người 
					diệt tục, hết mê mới đạt được. 
					 
					
					Cảnh giới ấy, chúng ta 
					sẽ nghe đức Phật trình bày trong phần diệt đế sau đây: 
					
					 
					 
					
					B. Chánh Ðề 
					 
					
					I. Ðịnh Nghĩa Sao gọi 
					là Diệt đế?   
					
					Diệt là tiêu diệt, trừ 
					diệt. Diệt ở đây tức là diệt dục vọng mê mờ, phiền não. Ðế 
					là lỹ lẽ chắc thật, đúng đắn do trí tuệ sáng suốt soi thấu 
					và thuyết minh. Diệt đế, chữ Pali gọi là "Nirodha Dukkha" 
					tức là sự thật đúng đắn, mà đức Phật đã thuyết minh về hoàn 
					cảnh tốt đẹp mà mọi người có thể đạt được khi đã diệt hết 
					mọi phiền não, mê mờ. Phiền não, mê mờ là nguyên nhân của 
					đau khổ, như chúng ta đã nghe Phật thuyết trong Tập đế. 
					 
					
					Khổ là quả, mà tập là 
					nhân. Diệt khổ mà chỉ diệt cái quả thì không bao giờ hết khổ 
					được. Muốn diệt khổ tận gốc, thì phải diệt cái nhân của nó, 
					như muốn nhổ cái thân cây, thì phải cắt cho hết cái rễ ăn 
					sâu trong lòng đất.   
					
					Trong khi nhân quả, 
					Phật dạy rằng: "Các ông phải biết, ví Tập nhân phiền não mới 
					có quả khổ sanh tử, vậy các ông phải dứt trừ phiền não tập 
					nhân. Khi đã dứt trừ rồi, lại thường thương nắm chắc chổ dứt 
					trừ cho chắn chắc, không khi nào nới bỏ. Ðến khi chứng được 
					đạo Niết Bàn, thì phải tất nhiên tập nhân phiền não phải 
					diệt hết, mà khổ luân hồi cũng không còn". 
					 
					
					Thế cho biết, muốn giải 
					thoát tất phải tu hành. Mà tu hành là gì? 
					 
					
					Là diệt trừ tập nhân 
					phiền não vậy. Diệt trừ phần nào tập nhân là đã bước đến hết 
					gần giải thoát chừng ấy, như một cái phao càng bớt dần chừng 
					nào vật nặng dìm nó xuống, thì nó lại nổi dần lên mặt nước 
					chừng ấy vậy. 
					
					 
					 
					
					II. Thứ Lớp Ðoạn 
					Hoặc (mê lầm)   
					
					Như 
					chúng ta đã biết trong bài tập đế, tập nhân phiền não rất 
					phức tạp, có thứ mong manh, cạn cợt, có thứ in sâu vào tâm 
					thức từ lâu đời lâu kiếp rất khó dứt trừ. Do tính chất cạn 
					sâu của các thứ phiền não ấy, nên đoạn trừ cũng phải tuần 
					tự, theo thứ lớp.   
					
					Có hai lớp đoạn hoặc 
					chính là:   
					
					1. Kiến đạo sở đoạn 
					hoặc: Những mê lầm nầy, khi thấy chánh đạo mới đoạn 
					được. Ðây là sự dứt trừ những sai lầm về phần lý trí. Những 
					phiền não nầy thuộc loại cạn cợt gây ra bởi sự gần gũi tà 
					sư, sự tuyên truyền ta, vạy của sách vở, cùng những người 
					tri kiến không chân chánh. Nếu gặp được Minh sư, thấy được 
					chân lý, thì liền đoạn hết. Vì thế sự dứt trừ những phiên 
					não nầy, gọi là "Kiến đạo sở đoạn hoặc". 
					 
					
					2. Tu đạo sở đoạn 
					hoặc: Những mê lầm nầy, khi tu đạo mới đoạn được. Ðây là 
					sự đoạn trừ những phiền não, sâu kín, đã đâm sâu gốc rễ 
					trong tâm thức, biến thành thói quen, như sự chấp ngã, sự 
					say đắm nhục dục, tham, giận, kiêu căng v.v...Ðối với những 
					thứ phiền não nầy, phải cần nhiều công phu tu hành dẻo dai, 
					chắc chắn mới có thể đoạn trừ được. Do đó, mới gọi là "Tu 
					đạo sở đoạn hoặc". 
					
					 
					 
					
					III. Các Tầng Bậc Tu 
					Chứng   
					
					Ðoạn trên đã nói tổng 
					quát về hai loại đoạn diệt phiền não cho dễ phân biệt và dễ 
					hiểu. Ðến đây, để có một ý niệm rõ ràng về các tầng bậc tu 
					chứng mà một hành giả cần phải trải qua, chúng ta hãy tuần 
					tự điểm qua các quả vị từ thấp đến cao.  
					
					  
					
					1. Tứ gia hạnh: 
					Muốn đoạn trừ kiến hoặc, trước tiên người tu hành phải rời 
					xa các tà thuyết, xoay tâm ý, tư tưởng dần vào chân lý: vô 
					thường, vô ngã, bất tịnh, tứ đế, để nhận chân được các tánh 
					cách vô thường, vô ngã, bất tịnh, không thật v.v...của cuộc 
					đời. Nhờ sự gần gũi với chân lý như thế, nên những điều thấy 
					biết sai lầm điên đảo sẽ tan hết và 88 món kiến hoặc cũng 
					không còn. Tuy nhiên, không phải chỉ trong một lúc mà đoan 
					được tất cả kiến hoặc; trái lại, phải cần nhiều thời giờ, 
					công phu tu tập. Từ những tư tưởng, thành kiến mê lầm của 
					phàm phu mà đến Thánh trí để dự vào lòng Thánh quả, người tu 
					hành phải tu bốn gia hạnh sau đây: 
					 
					
					a) Noản vị: Noản 
					là hơi nóng; vị là địa vị. Người xưa, khi muốn lấy lửa, họ 
					dùng hai thanh củi tre cọ sát vào nhau; trước khi lửa sắp 
					bật lên, phải qua giai đoạn phát ra hơi nóng. Người tu hành 
					muốn có lửa trí tuệ, cũng phải trải qua giai đoạn hơi nóng. 
					Tất nhiên hơi nóng lửa trí tuệ chưa đốt cháy được củi phiền 
					não, nhưng không thể không qua giai đoạn nầy được. Ðó là 
					giai đoạn "Noản vị".  
					 
					
					b) Ðảnh vị: Ðảnh 
					là chóp cao. Qua khỏi giai đoạn Noản vị, người tu hành tiếp 
					tục tiến bước và lên được trên chóp đỉnh núi mê lầm. Ðứng ở 
					địa vị nầy, toàn thân hành giả được tắm trong khoảng không 
					gian rộng rãi vô biên, nhưng chân chưa rời khỏi chóp núi mê 
					lầm.   
					
					c) Nhẫn vị: Nhẫn 
					là nhẫn nhịn, chịu đựng. Người biết nhịn, luôn luôn vẫn yên 
					lặng sáng suốt trước sự khuấy phá của đối phương. Người tu 
					hành lên đến bậc này, trí giác ngộ đã gần sáng tỏ, thân tâm 
					vẫn giữ được mực yên lặng trong sáng, mặc dù các pháp có 
					lăng xăng và ẩn hiện.  
					 
					
					d) Thế hệ nhất vị: 
					Bậc nầy cao quí nhất trong đời. Tu đến bậc này là một công 
					phu rất to tát, gần giải thoát ra ngoài vòng Dục giới, như 
					con diều giấy bay liệng giữa không trung, tự do qua lại, 
					không còn bị cái gì làm ngăn ngại, ngoài sợi giây gai nhỏ. 
					Nếu bứt sợi gai kia là diều bay luôn. Cũng như thế, người tu 
					hành phá hết phần kiến hoặc nhỏ nhít sau cùng là được giải 
					thoát luôn.   
					
					Tóm lại, người tu hành 
					thường xuyên qua bốn món gia hạnh nầy, tức là phá được cái 
					lầm về tri kiến hay kiến hoặc, cái lầm của Phi phi tưởng mà 
					chứng đặng quả Tu đà hoàn là quả vị đầu tiên trong Thanh văn 
					thừa. 
					
					 
					 
					
					2. Tu đà hoàn: 
					Tàu dịch là Dư lưu quả (dự vào dòng Thánh). Ở quả vị này, ý 
					thức đã sáng suốt, không còn bị mê lầm nữa, song thất thức 
					còn chấp ngã, nên phải trở lại trong cõi Dục, nhiều nhất là 
					bảy phen sanh tử nữa, mới gọt sạch các kiết sử phiền não 
					thầm kín, nằm nép trong tâm thức, và chứng quả A La Hán. 
					
					 
					 
					
					3. Tư đà hàm: 
					Tàu dịch là Nhất lai, nghĩa là một phen sanh lại cõi Dục để 
					tu hành và dứt cho sạch phần mê lầm ở cõi Dục, mới tiến đến 
					bực A La Hán. Trên kia, quả tu đà hoàn chỉ là kết quả của 
					công phu tu hành đoạn được kiến hoặc, chứ chưa đá động đến 
					tư hoặc. Sau khi chứng quả Thánh đầu tiên rồi, phải tu nữa 
					để đoạn trừ tư hoặc, mới chứng được bậc nầy. Tuy nhiên, ở 
					cõi Dục có chín phẩm tư hoặc, mà vị này chỉ mới đoạn có 6 
					phẩm, còn 3 phẩm nữa chưa đoạn. Nghĩa là mới đoạn sáu phẩm 
					thô thiển bên ngoài, còn ba phẩm sâu kín bên trong chưa 
					đoạn. Vì thế, phải trở lại một phen để đoạn cho hết ba phần 
					sau, mới bước lên Thánh quả thứ ba là A na hàm được. 
					
					 
					 
					
					4. A na hàm: Tàu 
					dịch là Bất lai (nghĩa là không trở lại cõi Dục nữa). Khi 
					còn mê lầm của cõi Dục lôi kéo, mới sanh vào cõi Dục. Ðến 
					địa vị A na hàm nầy những mê lầm ấy không còn nữa, nên không 
					bị tái sanh ở đấy nữa, trừ trường hợp phát nguyện trở lại 
					cõi nầy để độ sanh. Vị nầy ở cõi Trời Ngũ tịnh cư thuộc Sắc 
					giới, cũng gọi là Ngũ bất hoàn thiên hay Ngũ na hàm. Vị nầy 
					đã cách xa chúng ta như trời vực, đã thoát ra ngoài cõi Dục. 
					Tuy thế, họ vẫn còn mang trong mình những mê lầm vi tế cu 
					sanh của hai cõi Sắc và Vô sắc. Vì vậy, ở Ngũ tịnh cư thiên, 
					họ phải tu luyện để dứt cho hết vi tế hoặc, mới bước lên 
					Thánh quả A La Hán (Tư hoặc gồm có 9 phẩm. Từ đà hàm quả 
					đoạn sáu hoặc, A na hàm quả đoạn thêm ba hoặc; đến A La Hán 
					quả là đoạn hết). 
					
					 
					 
					
					5. A La Hán: Ðây 
					là quả vị cao nhất, trong Thanh Văn Thừa. Tàu dịch có ba 
					nghĩa:   
					
					a) Ứng cúng: Vị nầy có 
					phước đức hoàn toàn, trí huệ hơn cả, đáng làm nơi phước điền 
					cho chúng sinh cúng dường. 
					 
					
					b) Phá ác. Vị nầy đã 
					phá tan những nhiền não tội ác, không còn bị chúng khuấy phá 
					sai sử trói buộc nữa.  
					 
					
					c) Vô sanh. Vị nầy 
					không còn lo xoay vần trong sanh tử luân hồi nữa, vì đã phá 
					trừ được phiền não là yếu tố của sanh tử luân hồi. 
					 
					
					Trong ba nghĩa nầy, Vô 
					sanh là nghĩa quan trọng hơn hết, nên đã được nêu lên trong 
					chữ A La Hán. Vị nầy không những đã phá hết mê hoặc nông 
					cạn, mà chính ngay chủng tử mê lầm thầm kín cũng đã dứt 
					sạch. Cho đến chủng tử chấp ngã là nguồn gốc phiền não, 
					nguồn gốc luân hồi, cũng bị dẹp lại một bên, không còn bóng 
					dáng ra vào trong A lại da thức nữa. 
					 
					
					Tánh cách của lòng ngã 
					chấp là khiến chúng sanh luôn luôn cố chấp bản thân nhỏ hẹp, 
					tạo thành ranh giới giữa mình và người, mình và sự vật, để 
					rồi gây nên vô lượng tội nghiệp và chịu vô lượg khổ báo. Một 
					tánh cách nguy hại của lòng ngã chấp nữa là thường làm cho 
					chúng sanh không tỏ ngộ, không thể chấp được cái tánh "đồng 
					nhất, không mất" của vạn sự vạn vật. Do đó, chúng sanh phải 
					chịu lắm nỗi thăng trầm với xác thân bé nhỏ của mình. 
					 
					
					Vị A La Hán, do sự cố 
					công bền chí, đã diệt được lòng chấp ngã ấy, nên không bị 
					sống chết khổ đau, lo buồn sợ hãi chi phối. Như đồ đệ của ả 
					Phù dung, một khi đã bỏ được bệnh nghiền thì không còn ra 
					vào nơi tiệm hút làm bạn với bàn đèn ống khói nữa. A La Hán 
					là vị đã đoạn được cái sai lầm của cõi trời Phi phi tưởng, 
					nên không còn vương vấn với các cõi trời ấy nữa. 
					 
					
					Song quả A La Hán cũng 
					chia làm hai bực, tùy theo căn cơ lanh lợi hoặc chậm lụt của 
					các vị ấy.   
					
					a) Bất hồi tâm độn A 
					La Hán: là vị A La Hán trầm không trệ tịch, tự thỏa chí 
					vào địa vị đã chứng, chứ không phát tâm xoay về Ðại Thừa. 
					 
					
					b) Hồi tâm đại A La 
					Hán: là vị A La Hán lợi căn lợi trí, phát tâm xoay về 
					Ðại Thừa rộng lớn chứ không tự mãn ở địa vị đã chứng.  
					
					  
					
					IV. Giá Trị Diệu 
					Dụng Của 4 Cõi Thánh  
					 
					
					Bốn quả thánh của Thanh 
					văn trên đây, đều là những kết quả giải thoát hiển nhiên của 
					công phu tu tập. Không cứ căn cơ nào đều có thể ở ngay trong 
					cảnh giới của mình (kinh gọi là tự địa, tự giới), mà tu tập 
					để đạt đến bốn quả vị ấy. Hễ đoạn trừ mê lầm được chứng nào 
					thì chứng quả đến chứng ấy, chứ không phải chờ sanh qua thế 
					gian khác mới chứng quả kia đâu. 
					 
					
					Khi chứng đến quả Tu đà 
					hoàn thì gọi "Kiến đạo sở đoạn". Ở đây, ý thức đã tương ứng 
					với Huệ tâm sở, sáng suốt, trực nhận đạo lý một cách rõ 
					ràng. Còn các vị sau, thuộc về "Tu đạo sở đoạn", nghĩa là 
					sau khi đã gội rửa các chủng tử mê lầm (tư hoăc) của A lại 
					da thức mới chứng được. Do sự dứt trừ phiền não sâu hay cạn 
					đó, mà diệu dụng của mỗi quả vị khác nhau. 
					 
					
					Ở địa vị "Kiến đạo sở 
					đoạn" là thành tựu được năm phép thần thông (công dụng tự 
					tại không bị chướng ngại). 
					 
					
					a) Thiên nhãn thông: 
					Nhãn lực soi thấy khắp muôn loài cùng sự sanh hóa trong thế 
					gian bao la hiện tại.  
					 
					
					b) Thiên nhĩ thông: 
					Nhĩ lực nghe khắp mọi nơi, đủ các tiếng tăm đồng loại và dị 
					loại.   
					
					c) Tha tâm thông: 
					Tâm lực biết được tâm niệm, sở cầu của kẻ khác. 
					 
					
					d) Túc mạng thông: 
					Trí lực hay biết các kiếp trước của mình. 
					 
					
					đ) Thần túc thông: 
					Có hai nghĩa: một là được thần thông tự tại như ý muốn, hai 
					là trong giây lát muốn đi đâu liền được như ý muốn, không bị 
					sự vật hữu hình làm chướng ngại. 
					 
					
					Năm phép thần thông 
					nầy, tuy có đặc biệt hơn nhân loại nhiều, song chưa phải là 
					điểm quan trọng của người tu hành cầu giải thoát. Ðiểm quan 
					trọng nhất của người tu giải thoát là "Lậu tận thông". Lậu 
					tận thông là được trí tuệ thông suốt cả ba đời, không còn bị 
					các phiền não hữu lậu làm ngăn ngại, nghĩa là giải thoát 
					sanh tử. Chỉ những vị A La Hán mới được qủa nầy. 
					 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					Bài Thứ 6 
					 
					Diệt Ðế (Nirodha 
					Dukkha)  
					
					(tiếp theo) 
					  
					
					
					V. Diệt Ðế Tức Là 
					Niết bàn    
					
					Kinh Niết Bàn dạy: "Các 
					phiền não diệt gọi là Niết Bàn, xa lìa các pháp hữu vi cũng 
					gọi là Niết Bàn".   
					
					Như các đoạn trước của 
					bài nầy đã nói, đến bốn quả Thánh thì phiền não nông cạn và 
					sâu kín đã tuần tự bị tiêu diệt. Vậy chứng được bốn quả 
					Thánh ấy, tức là đã chứng được Niết Bàn. Nói một cách khác, 
					Diệt đế tức là Niết Bàn.  
					 
					
					Niết Bàn hay Niết Bàn 
					na hay Nê hoàn là do dịch âm chữ Phạn Nirvana mà ra. Niết 
					Bàn có nhiều nghĩa như sau: 
					 
					
					Niết (Nir) là ra khỏi; 
					Bàn (vana) là rừng mê, Niết Bàn là khỏi rừng mê. 
					 
					
					Niết là chẳng; Bàn là 
					dệt. Còn phiền não thì còn dệt ra sanh tử, không phiền não 
					thì không còn dệt ra sanh tử. Vậy Niết Bàn là không dệt ra 
					sanh tử luân hồi.   
					
					Chữ Bàn cũng có nghĩa 
					là không ngăn ngại. Niết Bàn còn có nhiêu nghĩa khác nữa, 
					song tóm lại không ngoài ba nghĩa: Bất sanh, giải thoát, 
					tịch diệt.   
					
					Bất sanh, nghĩa là 
					không sanh ra, không sanh các thứ mê lầm tội lỗi. 
					 
					
					Giải 
					thoát, nghĩa là thoát ra ngoài sự ràng buộc, không mắc vào 
					các huyễn ngã, huyễn pháp. 
					 
					
					Tịch diệt, nghĩa là 
					vắng lặng, dứt sạch. Vắng lặng, an lành, dứt sạch tất cả 
					nguòn gốc mê lầm.   
					
					Vì lẽ Niết Bàn có nhiều 
					nghĩa như thế, nên trong kinh thường để nguyên âm mà không 
					dịch nghĩa.   
					
					Theo định nghĩa của chữ 
					Niết Bàn nầy, thì bốn quả vị trên kia đều gọi Niết Bàn cả. 
					Song vì đã hoàn toán hay chưa hoàn toàn mà chia ra làm hai 
					thứ:   
					
					1. Hữu dư y Niết 
					Bàn: (Niết Bàn chưa hoàn toàn). Từ quả vị thứ nhất Tu đà 
					hoàn đến quả vị thứ ba A na hàm, tuy đã đoạn trừ tập nhân 
					phiền não, những chưa tuyệt diệt, tuy đã vắng lặng an vui, 
					nhưng chưa viên mãn, tuy an vui chưa hoàn toán, vì phiền não 
					và báo thân phiền não còn sót lại, nên gọi là Niết Bàn hữu 
					dư y. Vì phiền não còn sót lại nên phải chịu quả báo sanh tử 
					trong năm bảy đời; song ngã chấp đã phục, nên ở trong sanh 
					tử mà vẫn được tự tại, chứ không bị ràng buộc như chúng 
					sinh.   
					
					2. Vô dư y Niết Bàn: 
					(Niết Bàn hoàn toàn). Ðến quả vị A La Hán, đã đoạn hết phiền 
					não, diệt hết câu sanh ngã chấp, nên hoàn toán giải thoát cả 
					khổ nhân lẫn khổ quả. Sự sanh tử không còn buộc ràng vị nầy 
					được nữa, nên gọi là Niết Bàn vô dư y. Ðây là quả vị cao tột 
					của hàng Thanh văn. Ðến đây ngọn lửa dục vọng đã hoàn toàn 
					tắt hết, và trí vô ngại hiện ra một cách đầy đủ, không khi 
					nào còn trở lại tâm khởi chấp ngã nữa. Vì thế, nên được tự 
					tại giải thoát ngoài vòng ba cõi: Dục, Sắc, và Vô sắc giới. 
					
					 
					 
					
					VI. Niết Bàn Của Ðại 
					Thừa Giáo   
					
					Phật Giáo gồm có Tiểu 
					Thừa và Ðại Thừa mà Niết Bàn là danh từ chung cho cả hai 
					thừa ấy. Trên đây đã nói đến Diệt đế, hay Niết Bàn của Tiểu 
					Thừa, nhưng chưa nói đến Niết Bàn của Ðại Thừa. Vậy nói đến 
					Niết Bàn, thì cũng nên mở rộng phạm vi, nói luôn cả Niết Bàn 
					của Ðại Thừa để độc giả có một quan niệm đầy đủ về hai chữ 
					Niết Bàn.   
					
					Nói như thế, không có 
					nghĩa là Niết Bàn của Tiểu Thừa và Ðại Thừa là hai loại hoàn 
					toàn khác nhau về tính chất. Nếu có khác, thì chỉ khác về 
					phạm vi rộng hẹp, rốt ráo hay chưa rốt ráo mà thôi; nghĩa là 
					Niết Bàn của Ðại Thừa rộng rãi hơn có thể gồm cã Niết Bàn 
					của Tiểu Thừa, mà Niết Bàn của Tiểu Thừa không thể gồm cã 
					Niết Bàn của Ðại Thừa. Các thánh giả Nhị thừa (Tiểu Thừa) 
					tuy đã đoạn hết phiền não, nhưng tập khí vẫn còn, công đức 
					trí tuệ chưa viên mãn nên Niết Bàn mà họ chứng, dù là Niết 
					Bàn của hàng A La Hán đi nữa, đối với Ðại Thừa cũng chưa 
					hoàn toàn, nghĩa là còn là Hữu dư y Niết Bàn. Chỉ có Niết 
					Bàn của chư Phật mới được gọi là Vô dư y Niết Bàn. 
					 
					
					Ngoài cái nghĩa rộng 
					hẹp trên, Niết Bàn của Ðại Thừa đại khái có hai loại: 
					 
					
					1. Vô trụ xư Niết 
					Bàn: Ðây là Niết Bàn của các vị Bồ Tát. Các A La Hán, do 
					tu nhân giải thoát mà chứng được quả giải thoát; nhưng chưa 
					biết nguồn gốc của nhân quả, còn chấp có thực pháp phải tu, 
					quả vị phải chứng, nên chưa được hoàn toàn tự tại. Các vị Bồ 
					Tát thì trái lại, đã hiểu rõ "Tam giới duy tâm, vạn pháp duy 
					thức", pháp tánh bình đẳng như như; không thấy một pháp gì 
					cố định, một vật gì chắc thật, biệt lập chỉ thấy chúng là 
					những hình ảnh giả dối, do đối đãi với thức tâm, tạo thành 
					bởi thức tâm. Các vị Bồ Tát không có tâm địa đảo điển sai 
					lầm, không gán cho sự vật một giá trị nhứt định, như tốt, 
					xấu, khổ, vui, nên không sanh ra những thái độ oán, thân, 
					bỉ, thử, ưa, ghét. hễ có tri kiến sai lầm đó, là bị chướng 
					ngại khổ đau. Các vị ấy tu hành chứng theo sự tánh bình 
					đẳng, đem tâm hòa đồng cùng sự vật mà làm việc lợi tha. Tuy 
					làm việc lợi tha, mà vẫn ở trong chánh quán. Quán các phép 
					như huyễn như hóa, không có thật sanh tử, không có thật Niết 
					Bàn, không bao giờ trụ trước (vô trụ). Do đó, Bồ Tát thường 
					ra vào sanh tử lấy pháp lục độ để độ sanh, mà vẫn ở trong 
					Niết Bàn tự tại.   
					
					2. Tánh tịnh Niết 
					Bàn: Ðây là một thứ Niết Bàn tự tánh thường vắng lặng mà 
					thườg sáng suốt, thường sáng suốt mà thường vắng lặng ra 
					ngoài tâm lượng hẹp hòi của phàm phu và trí thức hữu hạn của 
					Nhị thừa, ngoại đạo. Nó thường bộc lộ sáng suốt nơi chư 
					Phật, mà vẫn thường sẵn có nơi mọi loài chúng sinh. Trong 
					kinh có khi gọi đó là Phật tánh, là chơn tâm, là Như lai 
					tạng v.v...   
					
					Nếu chúng sinh tự tin 
					mình có tánh Niết Bàn thanh tịnh, và khởi tâm tu hành theo 
					tự tánh ấy, tức có thể thành Phật không sai. 
					 
					
					Mạng tự tánh Niết Bàn 
					mà để cho phiền não cấu trần che lấp, thì làm chúng sanh 
					trầm luân trong bể khổ.  
					 
					
					Trái lại, ngộ tự tánh 
					Niết Bàn mà hết vọng tưởng mê lầm là thành Phật, và có đầy 
					đủ bốn đức: thường, lạc, ngã, tịnh. "Thường" nghĩa là không 
					bị chi phối bởi tánh vô thường, khi nào cũng như khi nào, 
					không lên bổng xuống trầm không có già trẻ, chết sống, đổi 
					thay. "Lạc" nghĩa là không còn khổ não, lo buồn. "Ngã" là 
					được hoàn toàn tự chủ, không bị nội tâm hay ngoại cảnh chi 
					phối. "Tịnh" là không còn ô nhiễm, luôn luôn thanh tịnh, 
					trong sáng. Chúng ta đừng lầm tưởng tánh "Chơn thường" nầy 
					với điều thường hằng của thế gian; tánh "Chơn lạc" với sự 
					vui thích tương đối là sự vui thích còn che đậy mầm mống đau 
					khổ bên trong; tánh "Chơn ngã" với sự tự chủ trong nhất 
					thời, tự chủ ngày nay bị động ngày mai; tánh "Chơn tịnh" với 
					sự trong sạch tương đối ở thế gian, sự trong sạch vật chất, 
					sự tướng bên ngoài, chứ bên trong vẫn còn nhiễm ô. 
					 
					
					Vì tính cách quí trọng, 
					cao cả tuyệt đối của bốn đức; Thường, Lạc, Ngã, Tịnh nên 
					Tánh tịnh Niết Bàn là thứ Niết Bàn cao quí tột đỉnh của đạo 
					Phật, và người Phật tử Ðại Thừa trong khi tu hành, đều phát 
					nguyện rộng lớn quyết tâm chứng được thứ Niết Bàn ấy mới 
					thôi. 
					
					 
					 
					
					VII. Biện Minh Về 
					Niết Bàn   
					
					Tánh cách của Niết Bàn 
					quá rộng rãi, cảnh giới của Niết Bàn quá cao thâm, nên hay 
					gây ra nhiều sự hiểu lầm cho các căn cơ thiển bạc, mà tập 
					quán, thành kiến, hoàn cảnh hằng ngày làm chủ trí thức. 
					Người đời hay lấy tâm lượng hẹp hòi của mình để hình dung 
					Niết Bàn, và đã hình dung một cách sai lạ, nên cuối cùng họ 
					kết luận rằng: cứu cánh của đạo Phật là một sự không tưởng. 
					Câu chuyện ngụ ngôn sau đây chứng minh một cách hùng hồn tâm 
					trạng ấy:    
					
					Ngày xưa có một con cá, 
					vì nó là loài ở nước, nên dĩ nhiên cuộc đời chỉ sống trong 
					nước, và ngoài nước ra không biết gì hết. 
					 
					
					Một hôm nó đang nhởn 
					nhơ bơi lội trong hồ, tình cờ gặp một con rùa, mà nó đã quen 
					từ trước, đi du lịch trên đất liền về. Nó liền chào: 
					 
					
					Chào anh ! Ðã từ lâu 
					tôi không gặp anh. Vậy xưa rày anh ở đâu? 
					 
					
					Ồ ! Tôi đi du lịch từ 
					trên đất liền về. Trên ấy, mặt đất khô ráo quá ! 
					 
					
					Ðất khô ! Anh nói cái 
					gì lạ vậy? Tôi chưa bao giờ thấy nơi nào kỳ lạ như vậy. Lẽ 
					nào lại có đất khô?   
					
					Xin thề rằng tôi không 
					nói đùa với anh đâu. Nhưng nếu quả tình anh không thể tin 
					được thì tùy anh, không ai ngăn cản được anh; nhưng dù sao, 
					tôi cũng mới từ đó về.  
					 
					
					Này anh, anh hãy cố 
					gắng diễn đạt cho hợp lý hơn. Tôi nghi rằng cách diễn đạt 
					của anh chưa được rõ ràng lắm. Anh vui lòng cho tôi biết đất 
					mà anh nói đó có giống như cái gì trong thế gian của chúng 
					ta ở đây? Nó có ẩm ướt không? 
					 
					
					Không ! Nó không ẩm 
					ướt.   
					
					Thế nó có mát dịu và 
					lạnh không?   
					
					Nó không mát, không dịu 
					mà cũng chẳng lạnh.   
					
					Thế nó có trong suốt để 
					cho ánh sáng xuyên qua được không? 
					 
					
					Không, nó không trong 
					suốt và ánh sáng không thể xuyên qua được. 
					 
					
					Thế nó có mềm và dễ bị 
					ép để cho tôi có thể quậy vi và đi lại dễ dàng trong ấy 
					không?   
					
					Không, nó không mềm, 
					không bị dồn ép dễ dàng và trong ấy, anh cũng không thể bơi 
					lội được.   
					
					Thế nó có lưu động và 
					đổ thành thác được không? 
					 
					
					Không, nó không lưu 
					động và cũng không đổ thành thác được. 
					 
					
					Vậy thì nó có dâng lên 
					để tạo thành những mũi sóng bạc đầu được không? 
					 
					
					Không, tôi chưa bao giờ 
					thấy nó dâng thành làn sóng cả. 
					 
					
					Ðến đây, con cá vênh 
					váo tự đắc than rằng:  
					 
					
					Tôi đã từng nói với anh 
					rằng: đất mà anh nói đó là không phải cái gì cả. Tôi cũng 
					vừa hỏi anh về đất ấy và với câu hỏi nào anh cũng trả lời 
					rằng không. Ðất anh nói đã là không phải bất cứ cái gì tôi 
					nêu ra, vậy thì đất hẳn là ngoan không. Anh đừng tìm cách 
					bịp tôi nữa.   
					
					Tốt ! Anh đã quả quyết 
					rằng không có đất liền. Tôi cũng không có cách nào hơn là cứ 
					để anh tiếp tục tin như anh đã nghĩ. Nhưng một mai, có ai 
					khác hơn tôi và đủ sức phân biệt cho anh thấy sự sai khác 
					giữa đất và nước, ngày ấy anh sẽ thấy rằng anh chỉ là một 
					con cá ngốc.   
					
					Tâm 
					trạng của con cá này là tâm trạng của một số người thường 
					dựa vào sự hiểu biết nông cạn của mình, để quan niệm Niết 
					Bàn. Có người nghĩ rằng Niết Bàn là một trạng thái hư vô 
					tịch diệt luôn; có người nghĩ Niết Bàn là cảnh Thiên đường 
					như của ngoại đạo; có người lại bảo nếu Niết Bàn không phải 
					là hư vô tich diệt mà cũng không phải là Thiên đường, thì 
					Niết Bàn là một không tưởng. 
					 
					
					Niết Bàn không thể là 
					một trạng thái hư vô tich diệt được. Tam tạng giáo điển chưa 
					bao giờ nói đến cảnh giới hư vô ấy. Sự hiểu lầm Niết Bàn với 
					hư vô là con đẻ của sự nghiên cứu thô thiển, nông cạn qua 
					các định nghĩa của Niết Bàn. Nghe nói Niết Bàn tức là 
					"Diệt", người ta vội tưởng ngay "Diệt" nghĩa là hoại diệt 
					không có gì tồn tại cả. Người ta không ngờ rằng "Diệt" ở 
					đây, có nghĩa là diệt nguồn góc đau khổ, phiền não, mê lầm. 
					mà khi đau khổ diệt thì an vui tất phát sinh, mê lầm diệt 
					thì sáng suốt tất tỏ lộ.  
					 
					
					Như trên đã trình bày, 
					Niết Bàn có đủ diệu dụng: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh thì sao gọi 
					là hư vô được?   
					
					Niết Bàn của Phật cũng 
					không phải là một cảnh thiên đường như người đời và các 
					ngoại đạo thường ca tụng. Nguyên nhân của sự hiểu lầm này là 
					do tập quán xem Phật Giáo cũng như các "thần đạo" khác. 
					Trước khi Phật giáng thế, trong kinh Vệ đà (véda) của ngoại 
					đạo ở Ấn độ, cũng từng dùng danh từ Niết Bàn với nhiều định 
					nghĩa khác nhau, tùy theo trình độ hiểu biết cao thấp của 
					họ. Có đạo cho chết rồi mất hẳn là Niết Bàn; có đạo cho cõi 
					trời của Dục giới là Niết Bàn; có đạo cho chứng được tánh 
					không tham ái ở cõi Sơ thiền là Niết Bàn; có đạo cho các 
					định cảnh Không vô biên xứ; Phi phi tưởng xứ ở cõi trời Vô 
					sắc là Niết Bàn.   
					
					Nhưng, với đạo Phật 
					những nơi ấy còn ở trong vòng tam giới luân hồi. Bởi ở đó 
					chưa diệt được hết lòng chấp ngã, chấp pháp, còn sống chết 
					theo vọng tưởng sanh diệt, chứ chưa được rốt ráo như Niết 
					Bàn của Phật. Nói một cách tốm tắt dễ hiểu, Niết Bàn của đạo 
					Phật là sự thể nhập vào bản thể sáng suốt, thanh tịnh, đầy 
					đủ các đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. bản thể ấy không phải 
					chết lặng mà là sống động, có dầy đủ công năng, một sự sống 
					động vắng lặng, mà kinh thường gọi là "vắng thường soi, soi 
					mà thường vắng" (tịch nhi thường chiếu, chiếu nhi thường 
					tịch).   
					
					Một học giả tây phương 
					rất thông hiểu về đạo học Ðông phương. Ông Ram Linsen đã 
					viết trong quyển Le Destin du 20 siècle (vận mệnh của thế kỷ 
					hai mươi) như sau về Niết Bàn: "Niết Bàn không phải tịch 
					nhiên bất động, cũng không phải là cái trống không, là cái 
					chết mất vô tông vô tích. Niết Bàn là sự thực chứng cái bản 
					thể của vũ trụ. Không thực chứng được cái bản thể đó là 
					người còn thiếu sót, là sống một đời sống mất quân bình giữa 
					xác thịt và tâm linh. Niết Bàn không phải là ngoài cái động. 
					và chính Niết Bàn mới là nguồn gốc của những việc làm chân 
					chính. Ðây là một sự thật, nhất là đối với Ðại Thừa Phật 
					Giáo".   
					
					Như thế, Niết Bàn không 
					phải là một lối không tưởng, viễn vong không thực hiện được. 
					Miễn là tự tin mình có tánh Niết Bàn và cố gắng tập sống 
					theo tự tánh ấy, thì Niết Bàn là một kết quả rất thiết thực. 
					Mê muội không tự tin mình có tánh Niết Bàn là làm phát triển 
					tánh ấy là Thánh giả. Ðể cho phiền não tham, sân, si vô minh 
					chấp ngã làm chủ, là luân hồi. Gạn lọc cấu bẩn phiền não vô 
					minh nơi tâm thức cho hết sạch, như gạn bỏ bùn nhơ nơi nước, 
					cho đến khi ly nước hoàn toán trong suốt, ấy là Niết Bàn 
					hiển hiện. 
					
					 
					 
					
					VIII. Một Mẫu Chuyện 
					Về Niết Bàn   
					
					Ðể chứng minh tánh cách 
					triền phược của phiền não và giải thoát của Niết Bàn trên 
					đây, trong kinh Samitha Nikaya (Tạp A Hàm) Phật kể một mẫu 
					chuyện như sau:   
					
					"Có một tên trộn bị 
					người ta bắt được đem nạp cho nhà vua. Muốn giam giữ nó, nhà 
					vua ra lệnh dở nắp rương thả ra bốn con rắn độc. Con thứ 
					nhất quấn lất tay mặt tội nhân; con thứ hai quấn lấy tay 
					trái tội nhân; con thứ ba quấn lấy ngang hông và con thứ tư 
					quấn quanh cổ nó.   
					
					Một người đức hạnh đến 
					gần tội nhân, thấy rõ tình cảnh, liền nói rằng: Người đã bị 
					người ta giữ gìn cẩn thận, vậy hãy đứng yên, chớ nên cựa 
					quậy mà bị rắn cắn. Nọc con rắn thứ nhất sẽ là cho thân 
					người cứng đơ như đá; nọc con rắn thứ hai làm cho thân người 
					tiêu ra như nước; nọc rắn thứ ba làm cho thân người tan ra 
					như bột và bị gió cuốn đi; nọc con rắn thứ tư sẽ đốt người 
					cháy như ngọn lửa.   
					
					Tên trộm trả lời: 
					 
					
					Không phải ! Những con 
					rắn ấy đều là đồ trang sức của tôi. Ðây là đôi vòng của tôi, 
					đây là sợi dây chuyển cổ và đây là sợi dâylưng. 
					 
					
					Người đức hạnh lại dạy 
					nó từ từ giữ bốn con rắn ấy, đem bỏ vào trong rương, đạy nắp 
					lại, rồi mau mau chạy trốn. 
					 
					
					Nó làm theo. 
					 
					
					Hay tin, nhà vua liền 
					truyền lệnh cho năm trên lính đuổi theo bắt tên trộm. 
					 
					
					Nó ráng chạy được một 
					đổi, lại gặp người đức hạnh khi nãy hô to: 
					 
					
					Người hãy chạy thật mau 
					lên ! Có năm tên lính đang đuổi theo sau lưng kìa ! Chúng 
					lại thả ra bốn con rắn độc để rượt bắt người đấy. Khi đã 
					đuối sức, tên trộm liền dừng chân lại, và thấy phía trước có 
					sáu cái nhà bỏ trống, và bị sáu tên cướp vào vét sạch của 
					cải.   
					
					Sáu tên cướp lại nhập 
					đoàn với năm tên lính để đuổi bắt nó. 
					 
					
					Người đức hạnh lại hô 
					to lên nữa:   
					
					Người ráng chạy mau lên 
					! Bọn cướp và lính nhà vua sắp đến nơi. Chúng lại bắt thêm 
					một người bạn thân của người để dụ người trở về trị tội. 
					 
					
					Nhưng chạy được một 
					đỗi, tội nhân lại gặp một cái biển ngay trước mặt, nên phải 
					dừng chân lại. Nó hết sức lo âu, vì tại đây không có ghe 
					thuyền chi để thoát thân cả. 
					 
					
					Người đức hạnh dạy nó 
					lấy tám cành cây khô, kết lại thành bè, để bơi đi trốn. 
					 
					
					Làm bè xong, nó bơi ra 
					được một đỗi thì gặp một hòn cù lao. Nó định ghé lên, nhưng 
					dòm ngoái lại phía sau, thấy quân lính vẫn còn đuổi nà theo. 
					Nó cố sức bơi đến một cù lao thứ nhì, rồi thứ ba và thứ tư. 
					Nhân dân ở tại chỗ đó liền tôn nó lên làm vua. Lúc ấy, đoàn 
					người đuổi theo sau nó đều bị tiêu diệt và nó không còn thấy 
					hình bóng đâu nữa !   
					
					Nhà vua ám chỉ cái 
					nghiệp; tên trộm, ám chỉ người đi tìm đạo; bốn con rắn độc, 
					ám chỉ tứ đại; năm tên lính, ám chỉ ngũ uẩn; sáu cái nhà bỏ 
					trống sau khi bị cướp, ám chỉ sáu căn; sáu tên cướp, ám chỉ 
					sáu trần; tám cành cây kết lại thành bè, ám chỉ bát chánh 
					đạo; bốn cù lao, ám chỉ bốn bực thiền định hay bốn quả 
					Thánh; lễ tôn vương, ám chỉ sự giải thoát; sự tiêu diệt của 
					đoàn người đuổi theo sau, ám chỉ sự tan biến của màn vô minh 
					và sự bẻ gảy bánh xe luân hồi ". 
					 
					
					Mẫu chuyện trên nầy ngụ 
					ý rằng: kẻ phàm phu bị màn vô minh che lấp, đắm mê theo vật 
					dục, nhận khổ làm vui, nhận xấu là tốt, khác gì kẻ tội trộm 
					nhận rắn độc làm đồ trang sức. Nếu nó không nhờ nhà tu hành 
					đức hạnh hạy bảo, thì đâu biết mình đang bị rắn độc bao vây 
					để chạy thoát, và đâu có gắng sức dẻo dai để bước lên bờ 
					giải thoát.   
					
					Chúng sinh khi còn mê 
					lầm, gây nên tội lỗi, thì giời phút nào cũng bị cầm tù trong 
					đau khổ, bị trói buộc vì nghiệp nhân. Nhưng đến khi bước lên 
					bờ giải thoát, được tự tại thì chẳng khác gì một vị chúa 
					tể.   
					
					Bốn cù lao mà tên trộm 
					đến được trong câu chuyện này, chỉ mới có nghĩa là bốn quả 
					Thánh của hàng Nhị thừa chưa phải là Niết Bàn rốt ráo, hoàn 
					toàn của chư Phật. Nhưng dù sao câu chuyện trên cũng cho 
					chúng ta một ý niệm thô thiển về sự tiến triển của kẻ tu 
					hành đi từ cảnh giới đau khổ, phiền não là cảnh giới Ta bà 
					nầy, đến trạng thái Thường, Lạc, Ngã, Tịnh là Niết Bàn. 
					
					 
					 
					
					C. Kết Luận  
					 
					
					Nói tóm lại, Diệt đế 
					tức là chân lý chắc thật nói về quả vị mà một kẻ tu hành có 
					thể chứng được. Quả vị ấy tức là Niết Bàn. 
					 
					
					Nhưng vì sự tu hành có 
					thấp có cao, có rộng có hẹp, nên quả chứng tức là Niết Bàn 
					cũng có thấp có cao, có hoàn toàn, có chưa hoàn toàn. 
					 
					
					Ðối với hàng Tiểu Thừa, 
					thì ba quả đầu: Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm là thuộc về 
					hữu dư y Niết Bàn, vì phiền não chưa hoàn toàn tuyệt diệu. 
					Chỉ đến quả vị A La Hán là quả vị mà mọi phiền não đã tuyệt 
					diệt, mới thuộc về Vô dư y Niết Bàn. 
					 
					
					So với Ðại Thừa, thì 
					Niết Bàn của A La Hán cũng còn là Hữu dư y Niết Bàn, vì các 
					vị A La Hán mặc dù phiền não đã dứt sạch, ngã chấp đã hết, 
					nhưng pháp chấp hãy còn, thấy có pháp mình tu, có Niết Bàn 
					mình chứng, nên chưa có thể gọi là được Vô dư y Niết Bàn. 
					Chỉ có Niết Bàn của Ðại Thừa mới là Vô dư y Niết Bàn, vì ở 
					đây đã dứt sạch ngã chấp, pháp chấp, không còn thấy có pháp 
					mình tu, Niết Bàn mình chứng. 
					 
					
					Niết Bàn của Ðại Thừa 
					có hai loại: Vô trụ xứ Niết Bàn của các vị Bồ Tát, và Tánh 
					tịnh Niết Bàn là chân tánh bản lai thanh tịnh và sáng suốt 
					của vũ trụ, mà các đức Phật đã thể chứng. 
					 
					
					Trên đây kể sơ qua các 
					loại Niết Bàn, là các quả vị của Diệt đế Niết Bàn mà chúng 
					tôi diễn tả bằng văn tự ở đây so với Niết Bàn thật, còn xa 
					cách muôn trùng, Nhưng với hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, 
					không có phương tiện nào khác hơn, để trình bày và tìm hiểu 
					Niết Bàn, thì đành phải dùng văn tự này. 
					 
					
					Muốn thấy được Niết Bàn 
					thật, phải tự mình thân chứng, phải thể nhập Niết Bàn. Muốn 
					thân chứng, thể nhập Niết Bàn, cần phải tu theo phương pháp 
					mà đức Phật đã dạy trong phần Ðạo đế, là phần mà chúng tôi 
					sẽ trình bày trong những bài sau đây.
					 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					Bài Thứ 7 
					 
					Ðạo Ðế 
					(Nirodha Gamadukkha) 
					  
					
					
					A. Mở Ðề 
					 
					
					Nói Tổng Quát Về Ðạo 
					Ðế  
					
					  
					
					Như trong bài trước đã 
					nói, muốn thực chứng, thể nhập Niết Bàn thì phải tu theo 
					phương pháp mà Phật đã dạy. phương pháp chân chính, có hiệu 
					quả chắc thật để thành Phật đó là Ðạo đế. Phần nầy là phần 
					quan trọng nhất trong bài Tứ diệu đế, vì nếu có rõ biết đời 
					là đau khổ, nguyên nhân của nó là gì, và nếu có thiết tha 
					cầu giải thoát khỏi cảnh khổ để đến một cõi an vui tốt đẹp 
					nhất là Niết Bàn, nhưng nếu không có phương pháp hiệu nghiệm 
					để thực hiện ý muốn ấy, thì biết cho nhiều cũng vô ích và 
					càng thêm đau khổ. Do đó, Ðạo đế là phần quan trọng và được 
					Phật dạy một cách rõ ràng chu đáo. 
					
					 
					 
					
					Ðạo đế có 37 phẩm, chia 
					ra làm 7 loại:   
					
					1 Bốn món Niệm xứ (Tứ 
					Niệm Xứ)   
					2 Bốn món Chánh cần (Tứ Chánh cần)   
					3 Bốn món Như ý túc (Tứ Như ý túc)   
					4 Năm Căn (ngũ Căn)   
					5 Năm Lực (Ngũ Lực)   
					6 Bảy phần Bồ đề (Thất Bồ đề phần)   
					7 Tám phần Chánh đạo (Bát Chánh đạo phần). 
					
					 
					 
					
					B. Chánh Ðề 
					 
					
					A. Tứ Niệm Xứ  
					
					  
					
					Ðịnh Nghĩa Về Tứ Niệm 
					Xứ   
					
					TỨ là bốn; NIỆM là hằng 
					nhớ nghĩ; XỨ là nơi chốn. tứ Niệm Xứ là bốn chữ, bốn điều mà 
					kẻ tu hành thường để tâm nhớ nghĩ đến. Ðó là: 
					
					 
					 
					
					Quán Thân bất tịnh 
					 
					
					Quán Tâm vô thường 
					 
					
					Quán Pháp vô ngã 
					 
					
					Quán thọ thị khổ.  
					
					  
					
					1. Quán thân bất 
					tịnh: Quán nghĩa là tập trung tư tưởng để quan sát 
					cho thấu đáo. Bất tịnh nghĩa là không sạch. Quán thân bất 
					tịnh nghĩa là tập trung tư tưởng để quan sát một cách tường 
					tận về sự dơ bẩn của cái thân ta. 
					 
					
					Nói cái thân là bất 
					tịnh, chắc có nhiều người ngạc nhiên, phản đối cho là Phật 
					đã nói quá đáng.   
					
					Trong 
					đời còn cái gì quý báu hơn cái thân đâu? Người ta bảo bọc 
					nó, nâng niu nó, cung phụng nó đủ điều. Người ta cung cấp 
					cho nó đủ thức ngon vật lạ; người ta đùm bọc nó trong hàng 
					lụa, là, gấm vóc; người ta che chở nó trong nhà cao cửa lớn; 
					người ta dám làm tất cả những việc bất nhân tổn đức để cho 
					nó được sung sướng. Cái thân được quí chuộng, tôn trọng như 
					thế, mà bảo rằng nó là dơ bẩn, gớm ghiếc thì ai mà nghe 
					được.   
					
					Song bình tĩnh mà xét 
					lại, cái thân nầy thật không có gi là trong sạch cả. Ngay từ 
					khi mới đầu thai, cái thân nầy đã bất tịnh rồi, vì nó là do 
					hai thứ nhơ nhớp là phụ tinh và mẫu huyết mà cấu thành. Ở 
					trạng thái đầu tiên, nó chẳng khác gì một con hộ trùng, rồi 
					dần dần lớn bằng hạt đậu, rồi bằng miếng thịt, nằm lẫn trong 
					máu me nhơ nhớp.   
					
					Về sau, nhờ sự duy trì 
					của nghiệp thức nó tượng thành hình người, chìm ngập trong 
					một cái bọc đầy máu huyết. Cái thân nằm co rút trong đó cho 
					đến chín tháng mười ngày, rồi chun theo một con đường rất 
					bẩn thỉu, để ra khỏi bụng mẹ. Từ đó, nhờ những thực phẩm 
					phần nhiều cũng không được tinh khiết gì như thịt cá, mà cái 
					thân lớn dần. Nếu xét về sự tiêu hóa của thức ăn thì chúng 
					ta cũng không khỏi lấy làm khó chịu: những món ngon vật lạ, 
					mới nuốt vào thì cũng ưa thích, nhưng khi đã nuốt vào khỏi 
					cổ cách một đêm sẽ biến thành đồ bất tịnh khi bài tiết ra 
					thì không ai chịu nổi, ngay đến chủ nhân của nó. Chưa nói 
					đâu xa, cái thân nầy vài ngày chưa tắm đã thấy bẩn thỉu, rít 
					rắm; cái miệng sáng dạy chưa súc, đã nghe có mùi hôi rồi. 
					Trong thân, chín lỗ thường trôi chảy ra những đồ bất tịnh 
					như: đại, tiểu, ghèn, rái, mũi, dãi...lắm chuyện nhơ nhớp. 
					Ðó là mới nói bề ngoài, bề trong thân người lại dơ hơn thập 
					phần. Khi mổ bụng một con gà, con heo ta thấy một đống nào 
					bọc chứa, ruột non, ruột già, tim, gan, phèo, phổi, bong 
					bóng...như thế nào, thì các bộ phận trong cơ thể ta cũng 
					chẳng khác gì thế ấy. Nhất là bộ tiêu hóa là chỗ chứa đựng 
					đủ thứ vật thực hôi thúi, chẳng khác gì một thùng phân. 
					 
					
					Ðó là mới nói khi lành 
					mạnh, còn khi đau ốm lại càng dễ sợ hơn: nào đàm, nào mũi, 
					thúi tha tanh hôi không sao chịu được, nhất là gặp những 
					bệnh nan y như lao, cùi, giang mai, hoa liễu, thì thật là 
					không ai dám lại gần. Ðó là khi trẻ, còn khi già đầu bạc 
					răng long, lưng còm, da nhăn, má cóp, đi đứng yếu ớt, không 
					còn đủ sức để sửa soạn bề ngoài thì lại càng nhớp nhúa hơn 
					nữa.   
					
					Ðến khi chết, nghiệp 
					thức không còn duy trì để thay lớp mới đổi lớp cũ, thì da 
					thịt rã rời, đụng đâu rệu đấy. Nếu không đem chôn cất cho 
					kín, thì ruồi bọ, giòi rúc rỉa, mùi hôi thúi xông lên không 
					ai chịu nổi.   
					
					Vậy cái thân nầy quả 
					thật là bất tịnh, không còn chối cãi vào đâu được. Nhưng 
					người đời vì không xét kỹ nên mới yêu quí nó, cưng dưỡng nó 
					đủ điều: hễ thân ưa thì mình ưa, thân ghét thì mình ghét; 
					làm nô lệ cho thân, gây nghiệp, chịu quả báo đời đời kiếp 
					kiếp không dứt. Cũng vì thân, mà tham, sân, si nổi lên; cũng 
					vì thân mà sát, đạo, dâm sinh ra; cũng vì thân mà cọng ngôn, 
					ỷ ngữ, lưỡng thiện, ác khẩu hoành hành. Trăm ngàn vạn điều 
					lỗi lầm, cũng vì quá cưng dưỡng cái thân nầy mà tạo thành 
					ra.   
					
					Vậy 
					hành giả cần phải quan sát rõ cái thân là bất tịnh, mới 
					tránh được những nghiệp tham ái. Nhưng quán sát như thế 
					nào?   
					
					Xưa ở Ấn độ, khi một 
					hành giả muốn quán sát thân bất tịnh, thì tìm đến khu rừng 
					người ta bỏ xác người chết, gọi là thi lâm(1) để quán theo 
					lối" Cửu tưởng quán" của Phật dạy: Phép quán này gồm các 
					giai đoạn như sau: 
					
					 
					 
					
					a) Trướng tưởng: Ngày 
					đầu ở gần bên cạnh thây chết, quán thây sình trướng to lên. 
					 
					
					b) Thanh ứ tưởng: Ngày 
					thứ hai quán thây bị gió nắng xanh xám. 
					 
					
					c) Hoại tưởng: Ngày thứ 
					ba quán thây bị rã nát.  
					 
					
					d) Huyết đồ tưởng: Ngày 
					thứ tư, quán thây máu thịt rơi rớt lai láng. 
					 
					
					đ) Nồng lãnh tưởng: 
					Ngày thứ năm, quán thây chết da thịt rục rã. 
					 
					
					e) Hám tưởng: Ngày thứ 
					sáu, quán chim thú đến mổ ăn thây. 
					 
					
					ê) Tán tưởng: Ngày thứ 
					bảy, quán sau khi chim thú ăn, gân xương, đầu mình, tay chân 
					chia tan nát vỡ.  
					 
					
					g) Cốt tưởng: Ngày thứ 
					tám, quán huyết thịt đã hết, chỉ còn bộ xương trắng bừa 
					bãi.   
					
					h) Thiêu tưởng: Ngày 
					thứ chín, quán bộ xương trắng đốt cháy thành tro đất.  
					
					  
					
					Chín phép quán tưởng 
					nầy, để đối trị lòng tham sắc dục. 
					 
					
					Một khi phép quán nầy 
					đã thuần thục, thì kẻ tu hành thấy một cách tường tận như ở 
					trước mắt, thân mình và tất cả mọi người điều bất tịnh, 
					không có gì đáng quý chuộng, ham muốn. Do đó, có thể đối trị 
					được bịnh tham sắc dục là một bịnh rất trầm trọng và nguy 
					hiểm của con người trên bước đường tu hành. Nhưng quán thân 
					bất tịnh là để trừ lòng tham sắc dục, chứ không phải để ghê 
					tởm thân mình, đến nỗi hũy bỏ mạng sống, như sáu mươi vị Tỳ 
					Kheo trong thời Phật tại thế, sau khi quán thân bất tịnh 
					thuần thục ròi, thấy ghê tởm mình và người chung quanh, đến 
					nỗi thuê người giết đi. Ðấy là một điều mà đức Phật nghiêm 
					cấm.   
					
					Ngày nay chúng ta không 
					có được huệ nhãn như Phật để trỏ vào bọn nữ sắc mà Thiên ma 
					sai đến để quấy rối, và bảo rằng: "Những cái túi da đựng 
					toàn những đồ dơ bẩn kia, hãy đi đi, ta không dùng ! ". 
					Nhưng nhờ khoa học đã phát minh ra quang tuyến, chúng ta có 
					thể thấy được rõ ràng những bộ xương sườn, xương sống, đầu 
					lâu, tim, gan, phèo, phổi của một tuyệt thế giai nhân, qua 
					ống rọi kiếng. Và chỉ chừng ấy củng đủ cho chúng ta quan 
					niệm rằng: Cái đẹp chỉ là bộ mã bên ngoài , là lớp da bọc, 
					chứ bên trong thì bộ xương nào cũng giống nhau cả, và chiếu 
					qua quang tuyến X, thì cái đầu lâu của một người đẹp, cũng 
					chẵn khác gì cái đầu lâu trắng phêu đang nằm lăn lóc ngoài 
					bãi tha ma.   
					
					Hỡi Phật tử, nếu ai đã 
					phát tâm chân thật tu hành, thì hãy cố gắng thi hành pháp 
					"quán thân bất tịnh "; nếu chưa đủ phương tiện để thực hành 
					phép quán ấy, thì cũng đừng bao giờ nên quên rằng: thân 
					người không trong sạch, không có gì đáng say mê đắm đuối để 
					đến nỗi phải gây ra bao nhiêu tai hại, tội lỗi không lường 
					cho mình và người chung quanh.  
					 
					
					2. Quán tâm vô 
					thường: Tâm vô thường, nghĩa là cái tướng của tự tâm 
					chúng ta luôn luôn đổi thay, không thường. Cái tướng của tự 
					tâm là gì? Chính là cái phân biệt, hiểu biết hằng ngày, cái 
					thức.   
					
					Người không học Phật 
					thì không nhận biết thể chơn như rộng lớn cùng khắp cả vũ 
					trụ, mà nhận lầm cái phân biệt, cái thức là Ta, và cho rằng 
					cái Ta ấy là thường còn, không thay đổi, như những ngoại đạo 
					chấp có thần ngã hay có linh hồn thường trụ. 
					 
					
					Thần ngã là lối chấp 
					của " Số luận sư ". Họ cho rằng mỗi chúng ta có thần ngã tự 
					tại, trong sạch, nhưng vì phân biệt, nên nhận thấy có vũ trụ 
					vạn hữu, rồi sanh lòng ưa muốn, bỏ mất thần ngã tự tại trong 
					sạch ấy. Vậy muốn cho thần ngã được giải thoát, thì phải dứt 
					các món phân biệt. Dứt cho hết sạch, không thấy, không nghe, 
					không biết nữa, thì thần ngã mới hiển lộ ra, và khi ấy mới 
					nhận biết rằng vì mình mới sanh ra có vũ trụ. Họ cho như thế 
					là rốt ráo, mà không biết thần ngã ấy cũng chỉ là vọng thức 
					mà thôi.   
					
					Còn linh hồn là lối 
					chấp của đa số thần giáo. Họ cho rằng duy có xác thịt chết, 
					chứ cái linh hồn trong trường hợp nào cũng vẫn nhận biết 
					mình, biết người, cũng thấy nghe như xác thịt, không bao giờ 
					chết...   
					
					Nhưng sự thật không 
					phải thế: cái tâm của chúng ta không thường chút nào hết. Nó 
					thay đổi luôn, khi nhỏ khác, khi lớn khác, khi có học khác, 
					khi chưa học khác, khi vui khi buồn, khi thương khi ghét, 
					khi chuyên niệm về một chỗ, khi tản mát ra các trần 
					duyên...thật không có gí là thường hết. Nó là tâm pháp vô 
					thường, nó thay đổi đủ cách, tùy chỗ tu tập của mình mà tiến 
					hóa. Nếu tâm là thường thì không có sanh tử. Nếu tâm là 
					thường, thì dù có tu hành cũng không tăng trưởng, thì người 
					dốt cứ dốt, người vụng cứ vụng, người dữ cứ dữ. Nếu tâm là 
					thường thì không có nhân quả, tu cũng chừng ấy, mà lành cũng 
					chừng ấy, cho đến người học, người không học cũng như nhau, 
					chẳng có gì sai khác, thay đổi cả. 
					 
					
					Vì muốn đối trị cái 
					vọng chấp kia, nên Phật mới dạy phép quán "Tâm vô thướng", 
					để cho chúng sanh nhận biết rằng cái tâm không phải như một 
					vật bất biến vô dụng, không phải là cái "Ta" chắc thật muôn 
					đời, rồi nương vào đó mà sanh ra không biết bao nhiêu là 
					vọng tưởng phiền não. Những tánh tham, sân, si, mạn, nghi, 
					ác kiến v.v...đều do ngã chấp mà sanh ra cả. 
					 
					
					Lại cũng vì chấp tâm là 
					thường nên chi chi cũng là do bản tánh của mình, không thể 
					sửa đổi được , như bảo:" Tánh tôi hay nóng giận, hay tham 
					lam "; "Tánh tôi hay đam mê đờn ca xướng hát "; "Tánh tôi 
					thích cờ bạc rượu chè".  
					 
					
					Họ cho đó là một lối 
					bào chữa, vì không phải lỗi tại họ, mà tại cái bản ngã chắc 
					thật của họ như thế rồi, không làm sao sửa đổi được. Do đó, 
					họ không thể nâng cao tâm trí theo con đường chơn chánh 
					được.   
					
					Vậy, Phật tử chúng ta 
					cần phải quán sát cái "tâm vô thường" đổi cái tâm mê lầm ra 
					cái tâm giác ngộ, phải trừ ngã chấp để ra khỏi vòng sanh tử 
					luân hồi.   
					
					3. Quán pháp vô 
					ngã: Pháp, theo tiếng Phạn là Dharma. tàu dịch là 
					quỹ trì, nghĩa là năm giữ phạm vi của mình, như vuông, dài, 
					tròn méo...để mỗi khi người ta trông đến, liền nhận biết cái 
					nầy là gi, và khỏi lẫn lộn với vật khác. Nghĩa chữ Pháp rộng 
					lớn mênh mông, chỉ cho tất cả mọi sự thật trên vũ trụ, chẳng 
					những các vật hữu hình, cho đến các vật vô hình tưởng tượng 
					như lông rùa, sừng thỏ, cũng gọi là Pháp CẢ. 
					 
					
					Còn Ngã có nghĩa là chủ 
					lễ, là riêng có tự tướng của mình. Người ta thường chấp các 
					pháp đều có tự tướng của người, vật có tự tướng của vật, thế 
					giới có tự tướng của quốc gia, xã hội có tự tướng của xã 
					hội.   
					
					Ðã chấp có tự tướng của 
					mình, tất nhiên thấy có tự tướng của người khác. Ðối với tự 
					tướng của một vật, hễ về mình thì không về người khác, còn 
					về người khác thì không về mình. Do đó, sinh ra tâm niệm 
					nhân, ngã, bỉ thử, quí trọng, khinh rẽ, tranh chấp, đấu 
					tranh trong xã hội.   
					
					Song, xét ra cho kỹ thì 
					các pháp nào phải thật có "tự tướng"? Nói về lục trần thì 
					sắc đối với không, động đối với tịnh, sanh đối với 
					diệt...nào có cái gì riêng một mình thật có tự tướng đâu? 
					Trần đối với căn mà có hình tướng, căn đối với trần mà có 
					tác dụng, ngoài trần không có căn, ngoài căn không có trần. 
					Như thế, thì biết tất cả các pháp, dù căn, dù trần cũng đều 
					không có tự tướng.   
					
					Trong 
					kinh Lăng Nghiên có câu: "Nhân duyên hòa hợp, hư vọng hữu 
					sanh, nhân duyên biệt ly, hư vọng hữu diệt". Nghĩa là: các 
					nhân duyên nhóm họp thì giả dối có sanh, các nhân duyên chia 
					rẽ, thì giả dối có hoại diệt. Vậy đủ biết: tất cả các pháp 
					làm nhân duyên cho nhau, in tuồng là có, chứ không có tự 
					tướng. Không có tự tướng, tức là "vô ngã". 
					 
					
					Ví như trong giấc chiêm 
					bao, vì nhân duyên chiêm bao hiện ra thấy có cảnh nầy cảnh 
					khác. Ðương khi ấy, người chiêm bao, cũng lầm tưởng là thật 
					có, đến khi thức dậy, mới nhận ra đó là cảnh giả dối trong 
					chiêm bao. Chúng ta cũng thế, vì mê lầm nên không nhận ra 
					được sự giả dối của sự vật. Trong khi tâm duyên với cảnh, 
					cảnh duyên với tâm, vạn pháp hiện ra giữa vũ trụ, chúng ta 
					tưởng là thật có. thật ra, các pháp đều không tự tướng, đều 
					là "vô ngã".   
					
					Chúng ta không biết lý 
					"pháp vô ngã", cho nên ngoài bị hoàn cảnh kích thích, trong 
					bị phiền não lay động, quay cuồng theo sự múa rối của giả 
					cảnh. Vì thế, tuy muốn tự tại mà chưa lúc nào chúng ta được 
					tự tại, muốn an vui mà chưa lúc nào được an vui, muốn thường 
					trụ mà vẫn phải trôi lăn trong vòng sanh tử. 
					 
					
					Nếu 
					chúng ta chứng được pháp vô ngã rồi, thì một thể vô ngã trùm 
					khắp cả pháp giới. Cảnh cũng vô ngã, tâm thức cũng vô ngã, 
					thì còn cái chi mà ghét, mà thương, mà chịu sanh tử luân hồi 
					nữa.   
					
					Pháp vô ngã là lối tu 
					giải thoát rốt ráo. Nếu ai ai cũng biết tu hạnh vô ngã một 
					đôi phần thì đâu có sự ích kỷ hại nhân, và cảnh tượng thế 
					giới hòa bình đâu phải là điều không thể thực hiện được? 
					 
					
					4. Quán thọ thị 
					khổ: Thọ là chịu, nhận lãnh. Thọ thi khổ nghĩa là có 
					nhận lãnh là có khổ.  
					 
					
					Nhận lãnh đây là nhận 
					lãnh cái gì?   
					
					Nhận lãnh ở đây có 
					nghĩa vô cùng rộng rãi, nghĩa là nhận lãnh tất cả những gì 
					mà người đời có thể nhận được trong cuộc sống. Trước tiên 
					nhận lãnh cái thân nầy là cái thân riêng của ta, cái tâm nầy 
					là cái tâm riêng của ta. Sự thọ nhận nầy là nguồn gốc đầu 
					tiên để thọ nhận những cái khác nhau về sau: để giữ gìn thân 
					mạng, ta thọ cái ăn, thọ cái mặc, thọ cái ở, thọ sắc, thanh, 
					hương, vị, xúc; thọ những cái gì làm cho ta khoái trá, thích 
					thú, vui vẻ. và lòng tham càng nhiều, thì thọ lại càng lắm. 
					Từ cái thọ cần thiết cho cuộc sống, ta tiến dần đến những 
					cái thọ ít cần thiết, rồi đến những cái thọ xa xỉ, thừa thải 
					vô ích, nhưng vì thói quen góp nhặt, tham lam, ta không thể 
					bỏ qua được. Nói tóm lại, mỗi chúng sanh, mỗi cuộc đời là 
					một chuỗi thọ nhận liên tiếp. 
					 
					
					Và chính thọ nhận ấy là 
					mầm chính của đau khổ.  
					 
					
					Trước tiên ta thọ nhận 
					cuộc đời; nhưng cuộc đời là gì nếu không phải là một trường 
					đau khổ, như chúng ta đã thấy trong phần khổ đế? Nào sanh, 
					nào lão, nào bệnh, nào tử, nào yêu mà phải xa lìa, nào oán 
					mà phải gặp gỡ v.v...thật là toàn những khổ nhưng đó là mới 
					nói những nỗi khổ căn bản. Ngoài ra, còn bao nhiêu nỗi khổ 
					khác, cũng do thọ mà ra như: nhận được một cái gì cho là quý 
					thì nơm nớp sợ mất, lo tìm kiếm cách nầy, chước nọ để giữ 
					gìn nó. Nhưng cuộc đời đã là vô thường thì còn cái gì là tồn 
					tại mãi? Ngay cuộc đời của ta mà cũng không giữ mãi được thì 
					còn cái gì được nữa? Do đó, sanh buồn thương, tiếc nuối, mất 
					ăn bỏ ngủ. Và người càng thọ nhiều chừng nào lại càng khổ 
					chừng ấy. Kẻ giàu thì sợ mất của, kẻ có địa vị thì sợ mất 
					địa vị, kẻ có người yêu đẹp thì sợ mất người yêu, kẻ có danh 
					vọng lớn thì sợ mất danh vọng... 
					 
					
					Nhưng có phải muốn thọ 
					lãnh thì bao giờ cũng được thọ lãnh theo ý muốn đâu? Thọ mà 
					may gặp thuận cảnh thì được thỏa dạ trong phát đầu tiên, 
					nhưng thọ mà gặp nghịch cảnh thì càng thêm đau khổ. Ở đời, 
					thuận cảnh thì ít, mà nghịch cảnh thì quá nhiều. Thường 
					thường, ta ngửa tay mong nhận lãnh một cái nầy, mà một cái 
					trái ngược khác lại rơi vào tay ta ! Do đó, sanh giận dữ, 
					thất vọng, khổ đau.   
					
					Ðó là nghĩa của "Thọ 
					thì khổ". Phép quán nầy mục đích đối trị bệnh tham là một 
					bệnh trầm trọng nhất trong các bệnh phiền não, đã ăn sâu gốc 
					rễ trong lòng chúng sanh từ lâu đời lâu kiếp. 
					 
					
					Vậy Phật tử chúng ta, 
					muốn diệt trừ tánh tham, phải quán "thọ thị khổ". ta phải 
					luôn luôn nhớ lời Phật dạy: hễ có lãnh thọ thì có khổ; càng 
					lãnh thọ nhiều thì càng khổ lắm. càng ít lãnh thọ, thì khổ 
					đau càng ít. Tất nhiên chúng ta không thể xả bỏ tất cả trong 
					một lúc; nhưng chúng ta nên tuần tự xả những gì dễ xả, có 
					thể xả được, rồi đi dần đến những cái khó xả. Càng xả chừng 
					nào lại càng nhẹ gánh đau thương. Người đời thường cho rằng 
					càng gánh nhiều vàng bạc châu báu, danh vọng, địa vị, sắc 
					đẹp, vui thú, lại càng sướng; nhưng đã gọi là gánh thì gánh 
					gì cũng là gánh, và càng gánh nặng thì vai càng đau, chân 
					càng mỏi, đi càng chậm; tóm lại khổ càng nhiều. Trái lại, 
					nếu chúng ta không lãnh thọ, như sắc đẹp, mùi ngon, vị lạ 
					v.v...thì thân tâm ta không bị lay động. Ðối với cảnh ta 
					thấy không có gì đáng ưa, cũng không có gì đáng khổ sở. Như 
					thế mới được an nhiên tự tại thoát vòng khổ đau. 
					
					 
					 
					
					C. Kết Luận  
					 
					
					"Tứ niệm xứ" là gíao lý 
					căn bản trong phần Ðạo đế. Có hiểu được giáo lý nầy một cách 
					tường tận thì sự tu hành mới vững chắc được. Nó đánh đổ được 
					một cách rốt ráo bốn thành kiến sai lầm lớn lao của con 
					người là: tưởng thân mình là quý báu tốt đẹp trong sạch; 
					tưởng tâm mình là vĩnh viễn thường còn, như một linh hồn bất 
					diệt; tưởng mọi sự vật trên đời nầy chắc thật trường cữu; 
					tưởng thu nhận tom góp được nhiều chừng nào thì sung sướng 
					chừng ấy.   
					
					Nhưng sự thật lại rất 
					trái ngược:   
					
					1) Thân thì bất tịnh, 
					như một cái đãy đựng đồ dơ, không đáng nâng niu chìu chuộng. 
					 
					
					2) tâm thì vô thường, 
					luôn luôn biến đổi theo với hoàn cảnh bên ngoài, không có gì 
					là trường tồn, bất diệt.   
					
					3) Pháp thì vô ngã, 
					không có tự tánh nhất định, không chắc thật mà đều là như 
					huyễn như hóa.   
					
					4) Thọ thì khổ, 
					chẳng hạn, ta thọ lãnh cái thân, thì cái thân là dơ bẩn; ta 
					thọ lãnh cái tâm, thì tâm là vô thường là luôn luôn biến 
					đổi; ta thọ lãnh sự vật ở chung quanh, thì sự vật đều là giả 
					trá, như khói, như mây. Do đó, càng thọ lãnh nhiều chừng 
					nào, lại càng đau khổ nhiều chừng ấy. 
					 
					
					Vậy 
					chúng ta phải luôn luôn quán sát, ghi nhớ bốn sự thật trên 
					đây. Càng chứng được bốn sự thật ấy chừng nào thì sự chấp 
					ngã, chấp pháp, tham, sân, si lại càng bớt dần chừng ấy. 
					 
					
					Phật tử càng nắm vững 
					bốn sự thật ấy chừng nào, thì sự tu hành theo các môn trong 
					Ðạo đế sau nầy, như bốn món chánh cần, bốn món Như ý túc, 
					Ngũ căn, Ngũ lực v.v...mới dõng mãnh và chóng có kết quả 
					chừng ấy.   
					
					(1) Ở Ấn-độ có 4 cách 
					táng người chết là thả xuống sông, hỏa tiêu, chôn và bỏ vào 
					rừng.  
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					Bài Thứ 8 
					 
					Ðạo Ðế (Nirodha 
					Gamadukkha)  
					
					(tiếp theo) 
					  
					
					
					B. Tứ Chánh Cần 
					 
					
					A. Mở Ðề 
					 
					
					Nhờ Tứ Niệm Xứ, chúng 
					ta đã thấy rõ sự thật của đời. Ðó là: thân bất tịnh, tâm vô 
					thường, pháp vô ngã và thọ thị khổ. Thấy rõ được sự thật đau 
					khổ ấy rồi, chúng ta phải gia công, cố sức làm thế nào để 
					thoát ra ngoài móng vuốt nguy hiểm của chúng. 
					 
					
					Muốn thế, sự siêng 
					năng, Tinh tấn là điều kiện trên hết trong công cuộc giải 
					thoát của chúng ta.   
					
					Ngoài đời cũng như 
					trong đạo, mỗi người muốn đạt được kết quả tốt đẹp trong đời 
					mình thì phải luôn luôn gia công gắng sức. Nhất là người tu 
					hành, mà cái quả là xuất trần, cái cứu kính là an vui vĩnh 
					viễn, thì sự gia công, sức cố gắng lại càng phải bền bỉ, dẻo 
					dai vượt bực mới thành tựu được. 
					 
					
					Hơn ai cả, đức Phật 
					hiểu rõ sự quan trọng của tự tướng, nên đã dạy bảo chúng ta 
					trước khi đi sâu vào Ðạo, phải chuẩn bị những phương tiện 
					cần thiết, phải tỏ rõ một thái độ quyết tâm: Quyết tâm xa 
					lánh điều dữ và thực hiện những điều lành. Ðó là ý nghĩa của 
					"Tứ Chánh cần" mà chúng ta sẽ nghiên cứu dưới đây.  
					
					  
					
					B. Chánh Ðề 
					 
					
					I. Ðịnh Nghĩa Tứ Chánh 
					Cần   
					
					Tứ Chánh cần là bốn 
					phép siêng năng Tinh tấn hợp với chánh đạo. Bốn phép Tinh 
					tấn ấy là: 
					
					 
					 
					
					1. Tinh tấn ngăn ngừa 
					những điều ác chưa phát sinh. 
					 
					
					2. Tinh tấn dứt trừ 
					những điều ác phát sinh.  
					 
					
					3. Tinh tấn phát triển 
					những điều lành chưa phát sinh. 
					 
					
					4. Tinh tấn tiếp tục 
					phát triển những điều lành đã phát sinh. 
					
					 
					 
					
					II. Quan Niệm Về 
					Ðiều Dữ Và Ðiều Lành Trong Ðạo Phật 
					 
					
					Trước khi làm điều lành 
					tránh điều dữ, chúng ta phải biết rõ thế nào là lành, thế 
					nào là dữ. Những điều dữ là những điều gì có thể làm tổn hại 
					cho mình và người trong hiện tại cũng như trong tương lai. 
					Chúng bao giờ cũng nghịch với từ bi, bình đẳng, trí tuệ và 
					chân lý.   
					
					Trái lại, những điều 
					lành là những điều có thể lợi ích cho mình và người, trong 
					hiện tại cũng như tương lai. Chúng bao giờ cũng hợp với từ 
					bi, bình đẳng, trí tuệ và chân lý. 
					 
					
					Với hai định nghĩa nầy, 
					không phải đợi đến khi phát lộ ra bằng hành động, mới gọi là 
					lành hay dữ. Ngay trong ý nghĩ, và quan trọng nhứt là ý 
					nghĩ, cũng đã phân biệt được lành hay dữ rồi. Theo đạo Phật, 
					ba nơi phát sanh của lành hay dữ là: thân, khẩu, ý. Như thế, 
					một cử chỉ, một lời nói hay một ý nghĩ, đều có thể là lành 
					hay dữ. Do đó, đức Phật dạy chúng ta phải ngăn ngừa những 
					điều dữ, hay thực hiện những điều lành, ngay khi chúng còn ở 
					trong ý thức.   
					
					(Xem lại bài tập Thập 
					thiện trong khóa nhì)  
					
					  
					
					III. Nội Dung Của Tứ 
					Chánh Cần   
					
					1. Tinh tấn ngăn 
					ngừa những điều ác chưa phát sanh: Tâm mình chưa 
					móng tưởng điều ác thì mình phải ráng giữ gìn, đừng cho nó 
					phát khởi lên, cũng như sợi dây buột mũi con trấu, kềm nó, 
					không cho ăn lúa.   
					
					Sau đây là một ít thí 
					dụ cụ thể có thể xảy ra hằng ngày trong đời chúng ta: 
					 
					
					Khi chúng ta muốn tổ 
					chức một cuộc đi săn bắn, để lấy thịt rừng cụng ly đánh chén 
					với bè bạn, nhưng chúng ta lại nghĩ: "ta đã là đệ tử Phật, 
					đã thọ tam quy, trì Ngũ Giới rồi, không lẽ dám quên lời hứa 
					nguyện, sát hại chúng sinh và uống rượu !" Thế là chúng ta 
					không thi hành cuộc săn bắn nữa. 
					 
					
					Khi phát khởi tâm gian 
					lận, muốn lập mưu kế lấy của người, chúng ta liền xét lại 
					rằng: "Của mình mất mình biết buồn rầu, thì của người mất 
					người đâu có vui ! Vả lại, mình đã nguyện trọn đời không 
					tham một vật nhỏ của ai, lẽ nào mình dám quên lời thệ 
					nguyện?" Sau khi nghĩ thế rồi, chúng ta không thi hành mưu 
					kế đen tối trên nữa.  
					 
					
					Khi móng tâm hoa 
					nguyệt, chúng ta lại nghĩ rằng: "Mình đã nguyện trọn đời 
					không tà dâm, thì phải trì chí giừ gìn tiết hạnh". Và do ý 
					nghĩa ấy, chúng ta ngăn chặn được lòng hoa nguyệt. 
					 
					
					Khi muốn nói dối để cho 
					được việc riêng của mình, chúng ta liền nghĩ rằng: "Mình đã 
					nguyện trọn đời nói lời ngay thật, thì phải cố gắng giừ cho 
					trọn lời thệ nguyện". Như thế, chúng ta khỏi phạm tội vọng 
					ngữ.   
					
					Nói tám lại, mỗi khi 
					tâm chúng ta móng lên một ý nghĩ sái quấy, muốn thực hiện 
					một đièu ác gì, chúng ta phải tìm những lý do chánh đáng, 
					tưởng nghĩ đến hậu quả tai hại của nó, để dập tắt ngay những 
					ý nghĩ bất chính, và ngăn ngừa không để cho nó phát sinh 
					trong hành động.   
					
					Người tu hành sửa các 
					giặc phiền não, si mê len lỏi vào tâm mình cướp mất của báu 
					công đức, nên luôn luôn cẩn thận giữ gìn, như người nhà giàu 
					giữ của: ngăn tường đóng ngõ, bỏ tủ, khóa chặt không để cho 
					kẻ gian vào nhà trộm mất. 
					 
					
					Sự ngăn chặn, giữ gìn 
					không cho điều ác phát khởi nầy, không phải hạn cuộc trong 
					một thời gian nhất định nào, mà trái lại, phải tiếp tục luôn 
					luôn trong từng sát na, từng giây phút, từng ngày tháng, 
					từng năm nầy sang năm khác, cho đến chừng nào tâm mình được 
					thuần thục an nhiên, không nghĩ đến điều ác nữa mới thôi. 
					Công cuộc ngăn chận nầy đòi hỏi một sự siêng năng, Tinh tấn 
					dẻo dai, bền bỉ mới có hy vọng thành tựu được như ý muốn. 
					
					 
					 
					
					2. Tinh tấn dứt 
					trừ những điều ác đã phát sanh: Trong đời sống của 
					chúng ta, nhất là khi chưa hiểu biết Phật pháp và không tu 
					hành, chúng ta đã phạm rất nhiều tội ác. Những tội ác nầy 
					làm cho tâm của ta càng ngày càng tối tăm, lu mờ, như một 
					tấm gương bỏ lâu ngày, không ai chùi rửa, không thể soi được 
					nữa. nay chúng ta đã nhận thấy cái nguy hại của những điều 
					ác, thì chúng ta phải quyết tâm dứt trừ. Ðiều ác không ở đâu 
					xa, chúng phát sinh trong thân, khẩu, ý của mỗi chúng ta. 
					Vậy, trừ tội ác tức là ngăn chận không cho thân, khẩu, ý 
					chúng ta tiếp tục tạo nghiệp dữ nữa. Nhưng cái đà tội lỗi, 
					như cái đà một chiếc xe xuống dốc, càng xuống càng mau, càng 
					mãnh liệt, cho nên muốn diệt trừ tội lỗi, chúng ta phải vận 
					dụng nhiều nghị lực, nhiều cố gắng, phải luôn luôn siêng 
					năng Tinh tấn. Ðể ngăn chận cái đà tội lỗi, Phật tử chúng ta 
					phải luôn luôn nhớ nghĩ như vầy: 
					 
					
					Sát sanh là điều ác đã 
					gây tội lỗi cho mình phải mắc nợ máu thịt và mạng sống, lại 
					làm hại cho người lẫn vật. 
					 
					
					Trộm cướp làm khổ cho 
					người bị nghèo đói, rách rưới, buồn rầu đau khổ không thể kể 
					xiết.   
					
					Tà 
					dâm là điều không hợp lễ tiết, thường gây sự rối ren trong 
					gia đình và nhất là mang tiếng xấu hổ, làm mất phẩm giá con 
					người. 
					
					 
					 
					
					Nói dối mất lòng tin 
					cậy.   
					
					Nói thêu dệt làm chia 
					lìa ân nghĩa.   
					
					Nói lưỡi hai chiều làm 
					tăng trưởng oán thù.  
					 
					
					Nói lời hung ác, trước 
					dơ miệng mình, sau chiêu lấy họa. 
					 
					
					Ham muốn quá sức (tham) 
					tháy mình thiếu mãi, càng khổ thân nhọc trí. 
					 
					
					Giận hờn tức tối, lửa 
					sân nổi lên, làm hư công hỏng việc và bao nhiêu rừng công 
					đức đều tiêu tan.  
					 
					
					Si mê không rõ chánh 
					tà, mờ ám chân lý gây đủ các tội. 
					
					 
					 
					
					Xét như vậy rồi, nếu 
					tội ác đã trót lỡ sanh, thì bất cứ tội nào chằng hạn, chúng 
					ta phải đoạn trừ tận gốc rễ, đừng cho nó đâm chồi nẩy nhánh 
					nữa. Trong lúc đó, chúng ta lại huân tập các hột giống lành 
					thay thế vào tạng thức, thì lần hồi, chúng ta sẽ trở thành 
					người thuần thiện. 
					
					 
					 
					
					3. Tinh tấn làm 
					phát sanh những điều lành chưa phát sanh: Nhiều khi 
					chúng ta có những ý định hay đẹp, muốn giúp ích người nầy, 
					nâng đỡ người khác, nhưng vì tánh giải đãi, hay thiếu nghị 
					lực, chúng ta không thực hiện được những ý định tốt đẹp ấy. 
					Như thế, dù có thiện chí bao nhiêu, cũng không đem lại lợi 
					ích gì cho ta và cho người chung quanh cả. Muốn tạo những 
					thiện nghiệp, như nói lời hòa nhã với mọi người trong mọi 
					trường hợp, bố thí cho người nghèo túng, giúp đỡ cho người 
					có công ăn việc làm, thì chúng ta đừng chần chờ, mà trái 
					lại, phải hăng hái, Tinh tấn làm ngay. ta phải luôn luôn 
					thúc đẩy ta, biến những ý nghĩ tốt thành hành động. người 
					Pháp có câu tục ngữ rất có ý nghĩa, để châm biếm những người 
					có dự định tốt mà không bao giờ thực hiện: "Ðịa ngục lót đầy 
					những dự định tốt". (L'enfer est pavé de bonnes intentions). 
					Thật đúng như vậy, ở đời có bao nhiêu người có nhiều thiện 
					chí, có ý định làm điều hay điều phải, nhưng cho đến chết 
					vẫn chưa thực hiện được, và mang theo xuống địa ngục. 
					 
					
					Vậy 
					chúng ta phải luôn luôn hăng hái làm phát triển những điều 
					lành, mỗi khi chúng vừa móng khởi trong tâm, đừng chần chờ, 
					giải đãi cho đến khi tử thần đến gõ cửa, mới ân hận là mình 
					chưa gây tạo được cho mình những nhân lành gì cả, nên phải 
					rơi vào địa ngục.  
					
					  
					
					4. Tinh tấn tiếp 
					tục phát triển những điều lành đã phát sanh: Những 
					điều lành khi đã phát lộ ra hành động rồi, chúng ta đừng cho 
					thế là vừa, là đủ, không cần phải cố gắng làm thêm nữa. 
					 
					
					Khi chúng ta làm điều 
					trọn lành, chúng ta có lợi về hai phương diện: một mặt, ngăn 
					chặn điều ác không cho tác hại; một mặt, làm điều thiện có 
					lợi ích cho mình và cho người. Chẳng hạn, như khi chúng ta 
					thọ giới bất sát sinh và thật hành theo giới ấy, là chúng ta 
					vừa ngăn chận sự giết hại người và vật, mà vừa chuộc người 
					và phóng sinh nữa. Các giới khác cũng vậy, nghĩa là một mặt 
					vừa "chỉ ác", một mặt vừa "tu thiện", rồi cứ như thế mà 
					siêng năng Tinh tấn luôn luôn mới được. Chúng ta phải tập 
					làm điều thiện cho thật thuần thục, cho thành thói quen, cho 
					đến khi mỗi ý nghĩ, mỗi lơi nói, mỗi việc làm điều thiện cả 
					mới được.  
					
					  
					
					C. Kết Luận 
					 
					
					Ý Nghĩa Rộng Lớn Và 
					Diệu Dụng Của Tứ Chánh Cần 
					 
					
					Tứ Chánh cần là bốn 
					phép siêng năng chân chính trong công cuộc diệt trừ tội ác 
					và phát triển điều thiện. Nó bao gồm tất cả những quy điều 
					căn bản thiết yếu của mọi tôn giáo, đạo đức, luân lý. 
					 
					
					Thật thế, nếu suốt đời, 
					chúng ta chỉ theo cho đúng 4 phép siêng năng nầy là: ngăn 
					ngừa không cho những điều ác phát sinh, diệt trừ những điều 
					ác đã lỡ phát sinh; thúc đẩy thực hiện những điều lành vừa 
					mống lên ở trong tâm, tiếp tục thực hiện được. nếu chúng ta 
					Tinh tấn làm được như thế, thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt 
					được địa vị Thánh hiền.  
					 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					Bài Thứ 8 
					(tt)   
					C. Tứ 
					Như Ý Túc 
					  
					
					
					A. Mở Ðề 
					 
					
					Sau khi đã nhận rõ được 
					chân tướng của cõi đời (Tứ niệm xứ), đã quyết tâm bỏ ác theo 
					thiện (Tứ Chánh cần), hành giả muốn đi xã trên đường đạo, 
					cần phải vạch cho mình một hướng tiến nhất định và phải có 
					một thái độ quyết tâm nhắm theo đúng hướng đã vạch mà đi, 
					không nhìn ngang nhìn ngửa, không mong ước cái này cái khác. 
					Hành giả chí quyết đi một đường, tập trung tất cả mong ước, 
					chí nguyện, ý chí, năng lực tinh thần của mình vào đó đến 
					khi được toại nguyện như ý mới thôi. 
					 
					
					Muốn được như thế, hành 
					giả phải tu theo pháp môn "Tứ Như ý túc", một trong những 
					pháp môn của Ðạo đế dưới đây.  
					
					  
					
					B. Chánh Ðề  
					 
					
					I. Ðịnh Nghĩa Tứ Như Ý 
					Túc   
					
					Tứ Như ý túc là bốn 
					phép thiền định. Nói cho rõ đó là bốn phươngtiện giúp chúng 
					ta thành tựu các tam ma địa Samadhi: (chánh định), vì thế 
					nên cũng gọi là định pháp. "Như ý" là được như ý mình muốn. 
					"Túc" là chân, có nghĩa nương tựa mà cũng có nghĩa là đầy 
					đủ. Tứ Như ý túc, có nghĩa là bốn phép làm nơi nương tựa cho 
					các công đức thiền định, thần thông được thành tựu mỹ mãn 
					như ý muốn của mình. Bởi lý do ấy, nên cũng gọi nó bằng tên 
					Tứ thần túc. Luận Câu xá quyển 25 có nói: "Vì sao định mà 
					gọi là thần túc? Vì các công đức linh diệu thù thắng đều 
					nương nơi bốn định này mà được thành tựu". 
					 
					
					Bốn định ấy là: 
					
					 
					 
					
					Dục Như ý túc  
					 
					
					Tinh tấn Như ý túc 
					 
					
					Nhất tâm Tứ Như ý túc 
					 
					
					Quán Như ý túc. 
					
					 
					 
					
					II. Thành Phần Và 
					Nội Dung Của Tứ Như Ý Túc  
					 
					
					1. Dục như ý túc: 
					Dục là mong muốn. Mong muốn một cách thiết tha, mong muốn 
					cho kỳ được, mong muốn cho đến khi mãn nguyện mới thôi. Ðó 
					gọi là dục như ý túc. Nhưng mong muốn cái gì? Tại sao đã là 
					Phật tử mà còn "dục", còn mong muốn? 
					 
					
					Trước tiên, chúng ta 
					nên nhận định rõ ràng tánh chất của sự mong muốn ở đây. Có 
					thứ mong muốn thỏa mãn những thú tánh, những tham vọng, đó 
					là mong muốn tội lỗi, nên diệt trừ. Có thứ mong muốn hướng 
					thượng, trong lành, như mong muốn sống một cuộc đời đẹp đẽ, 
					thanh cao, mong muốn được giải thoát ra ngoài biển khổ sanh 
					tử, đó là thứ mong muốn hợp lý, đáng khuyến khích. Người 
					Phật tử mong muốn được thành đạt pháp thiền định mình đang 
					tu, để tiến lên chứng các Thánh quả. Thứ mong muốn này rất 
					cần cho người tu hành; nếu không mong muốn thiết tha, mãnh 
					liệt thì khó mà đi đến đích giải thoát được. Ðây cũng là một 
					sự cải chính rất hùng hồn để đánh tan quan niệm sai lầm cho 
					rằng: người Phật tử phải diệt dục, mà diệt dục nghĩa là diệt 
					tất cả, diệt luôn cả sự sống. Thật ra diệt dục ở đây tức là 
					dục vọng, diệt những phần ham muốn xấu xa đê hèn, làm cho 
					con người bị đọa xuống hàng thấp thỏi như loài sức sanh, địa 
					ngục, chứ đâu có diệt luôn cả những chí nguyện, những mong 
					ước, những đức tánh tốt đẹp của con người. Sự mong muốn sau 
					nầy, người Phật tử không bao giờ lãng quên, trái lại họ trút 
					cả tâm tư hướng về cái đích mình đang nhắm, những pháp mình 
					đang tu. Người thế gian ưa thích vật dục mạnh mẽ như thế 
					nào, thì người tu hành mong muốn thành tựu những pháp thiền 
					định của mình cũng mạnh mẽ như thế ấy. Có như thế, hành giả 
					mới tăng tiến mãi trên bước đường tu hành của mình. 
					 
					
					2. Tinh tấn như ý 
					túc: Tinh tấn là dũng mãnh, chuyên nhất vào pháp 
					thiền định mình đang tu. Phần trên chỉ mới là sự ước muốn. 
					Sự ước muốn dù đẹp đẽ bao nhiêu mà không ra công, gắng sức, 
					luôn luôn bền tâm vững chí, nghĩa là thiếu sự Tinh tấn dũng 
					mãnh, thì ước muốn muôn đời cũng chỉ là ước muốn suông mà 
					thôi.   
					
					Chúng ta nên nhớ rằng: 
					Tinh tấn không phải chỉ là sự hắng hái, bồng bột trong chốc 
					lát, như sự ồ ạt, bốc cháy của ngọn lửa rơm. Tinh tấn là 
					nghị lực tu tập mạnh mẽ, thường hằng, không bao giờ gián 
					đoạn. Trong kinh Di Giáo đức Thế Tôn có dạy: "...Như người 
					kéo cây lấy lửa, cây chưa nóng đã thôi, tuy muốn được lửa, 
					nhưng khó thể được".  
					 
					
					Vậy người muốn chứng 
					đạo quả, phải thường Tinh tấn đầy đủ như ý mình ước nguyện. 
					 
					
					3. Nhất tâm như ý 
					túc: Nhất tâm là tâm chuyên nhất vào định cảnh, 
					không bào giờ tán loạn. Một con sông lớn, nếu bị chia nhiều 
					ngành tất nhiên sức chảy của nó bị yếu. Trái lại, một giòng 
					suối nhỏ, nếu chỉ chảy một đường, cũng đủ sức xoi thủng đá. 
					Người tu hành, tâm được chuyên nhất, không bị tán loạn, thì 
					muôn sự đều thành. Phật có dạy: "như người chứa nước, khéo 
					giữ bờ đê, người tu hành giữ nước trí tuệ cũng vậy, phải 
					khéo tu thiền định, chớ cho tán động". 
					 
					
					4. Quán như ý 
					túc: Quán nghĩa là dùng trí tuệ sáng suốt quán sát 
					pháp mình đang tu. Quán trí ấy do định mà phát sanh, trí ấy 
					là tịnh trí. Vì tịnh cho nên nó có thể như thật thông đạt 
					thật nghĩa (chân lý) của các pháp (vũ trụ). 
					 
					
					C. Kết Luận 
					 
					
					Tóm Tắt Ý Nghĩa Và Diệu 
					Dụng Của Tứ Như ý Túc   
					 
					
					Sở dĩ Dục, Tinh tấn, 
					Nhất tâm và Quán đều được gọi là như ý túc, vì chúng ta là 
					những thứ để cho tất cả công đức tu hành, thần lực nương vào 
					đó mà phát sanh, hợp như ý muốn của hành giả. 
					 
					
					Bốn phép nầy như bốn 
					nấc thang kế tiếp theo nhau, để đưa hành giả từ cái nhân hữu 
					lậu mê mờ, đến cái nhân vô lậu giải thoát: Trước hết, do tu 
					tâm hằng mong muốn (Dục), cho nên sự tu tập dũng mãnh (Tinh 
					tấn); nhờ sự tu tập dũng mãnh, nên phiền não tiêu, tán động 
					hết, do đó tâm được chuyên nhất (Nhất tâm), nhờ tâm chuyên 
					nhất nên quán trí được thanh tịnh mãnh lợi (Quán), và có 
					năng lực phá tan cội gốc vô minh. 
					 
					
					Khi vô minh hết, thì vô 
					số nghiệp chướng phải tiêu, hằng sa trí đức phát hiện. Người 
					tu hành, khi trí tuệ và công đức viên mãn tức khắc đày đủ vô 
					biên thần dụng trong sự hiện thân, hiện độ để cứu khổ chúng 
					sanh, chứ đâu có phải chỉ khi chứng được lục thông mới được 
					tự tại? 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					Bài Thứ 9 
					 
					Ðạo Ðế (Nirodha 
					Gamadukkha)  
					(Tiếp theo)
					 
					  
					
					Ngũ Căn Ngũ Lực  
					  
					
					
					A. Mở Ðề 
					 
					
					Trong 37 món trợ đạo, 
					Ngũ căn và Ngũ lực là những phương pháp quý báu, cũng quan 
					trọng như các pháp khác; có thể đưa người tu hành từ địa vị 
					phàm phu đến các Thánh quả trong ba thừa. Chúng là sự phục 
					sức trang nghiêm, là phương tiện công hiệu giúp người thẳng 
					tiến trên bước đường tu đạo, chứng quả. Vậy Phật tử chúng ta 
					không thể không biết để trì hành. 
					
					 
					 
					
					B. Chánh Ðề 
					 
					
					I. Ðịnh Nghĩa Ngũ Căn 
					 
					
					Ngũ căn là năm căn. Căn 
					đây tức là căn bản, là gốc rễ, là nguồn gốc để tất cả các 
					thiện pháp xuất phát.  
					 
					
					Luận Trí Ðộ, quyển thứ 
					mười, giải rằng: "Năm căn này là căn bản để phát sanh tất cả 
					thiện pháp, nên gọi là ngũ căn". Năm căn ấy là: Tín căn, Tấn 
					căn, Niệm căn, Ðịnh căn, Huệ căn. 
					
					 
					 
					
					II. Thành Phần Và 
					Nội Dung Ngũ Căn  
					 
					
					1. Tín căn: là 
					lòng tin mạnh mẽ vững chắc. Lòng tin này không giống như 
					lòng tin mù quáng, vô điều kiện, bất chấp lý trí của phần 
					nhiều ngoại đạo. Lòng tin ở đây là con đẻ của lý trí, là kết 
					quả của sự suy luận sáng suốt, của sự quan sát kỹ càng. Ðức 
					Phật không bao giờ bắt buộc Phật tử tin một điều gì mà không 
					suy luận được, không giải thích được. Vì lòng tin của người 
					Phật tử khởi từ trí xét đoán. Bởi thế nên nó vô cùng vững 
					chắc, mãnh liệt. Chính nó là căn bản phát sinh các hạnh 
					lành, Phật dạy: "Tin là mẹ vô lượng của công đức". Nhưng 
					Phật tử tin cái gì? Phật tử tin Tam Bảo: 
					 
					
					Tin Phật: Phật tử biết 
					rằng đức Phật là đấng hoàn toàn giác ngộ, giải thoát. Vì 
					thế, Phật tử suốt đời tin tưởng theo Phật, để hướng tiến đến 
					sự giác ngộ, giải thoát mà Phật đã thân chứng. 
					 
					
					Tin pháp: Pháp là chân 
					lý, là sự thật mà đức Phật đã khám phá ra và truyền lại cho 
					chúng ta. Hay nói một cách khác, pháp là giáo lý đúng như sự 
					thật mà đức Phật đã thuyết minh. Chúng ta tin tưởng những 
					giáo lý ấy, vì người nói ra là đức Phật, đã thân chứng được 
					và giác ngộ được nhờ giáo lý ấy. 
					 
					
					Tin Tăng: Tăng là người 
					thật hành các giáo lý của Phật để giác ngộ mình và người, là 
					kẻ thay Phật đưa cao ngọn đuốc chánh pháp sáng ngời, để soi 
					đường cho chúng sinh. Vì thế, Phật tử suốt đời quy hướng về 
					Tăng.   
					
					2. Tấn căn: Tấn 
					là tinh tấn. Tấn căn là sự dũng mãnh tinh tấn trên bước 
					đường tu tập không bao giờ thối lui. Nếu đã có lòng tin chắc 
					chắn mà không tinh tấn thực hiện, làm theo những điều mình 
					tin, thì lòng tin suông ấy trở thành vô dụng, không đưa 
					chúng ta đến đâu cả.  
					 
					
					Vậy cho nên người Phật 
					tử đã tin Tam Bảo, thì phải luôn luôn tinh tấn thực hành 
					giáo lý của Phật. Theo Luận Nhiếp Ðại Thừa, tinh tấn có ba 
					thứ:   
					
					Bị giáp tinh tấn: Nghĩa 
					là mang áo giáp tinh tấn. Người Phật tử trong cuộc chiến đấu 
					để diệt trừ đau khổ, tiến tới giải thoát, cần phải mang áo 
					giáp tinh tấn, để khi xông pha vào trận địa "phiền não", 
					khỏi bị ma quân hảm hại. Nhờ có áo giáp này, người Phật tử 
					tin tưởng ở năng lực của mình hùng dũng tiến tới, không sợ 
					gian nan nguy hiểm, không lùi bước trước một trở ngại hay 
					một địch thủ nào.   
					
					Gia hạnh tinh tấn: 
					Nghĩa là luôn luôn gắng sức không bao giờ dừng nghĩ trên 
					bước đường đi đến giải thoát. Với thứ tinh tấn này, người 
					Phật tử càng tiến càng hăng, càng thêm sức lực, càng phấn 
					chí không bao giờ biết mệt mỏi. 
					 
					
					Vô hỷ túc tinh tấn: Vô 
					hỷ túc tinh tấn nghĩa là không vui sướng tự mãn, cho là vừa 
					đủ khi mới thu được một ít thắng lợi trên đường tu hành. 
					Người Phật tử chưa chứng được Phật quả, thì còn gia công 
					gắng sức tu luyện mãi, chứ không chịu dừng nghỉ, vui thú với 
					một quả vị thấp thỏi, tạm bợ, như người bộ hành khi chưa đến 
					đích cuối cùng, thì còn hăng hái bước mãi, chứ không chịu 
					chấm dứt cuôĩc hành trình của mình, bằng cách an phận ở mãi 
					trong quán trọ bên đường. 
					 
					
					3. Niệm căn: 
					Niệm là ghi nhớ. Ghi nhớ những gì? 
					 
					
					a) Thứ nhất niệm thí: 
					nghĩa là nhớ tu bố thí. Người Phật tử thường ngày nhớ đem 
					tài sản bố thí cho người bần cùng; đem hùng lực cứu giúp 
					người sợ hãi; đem chánh pháp chỉ giáo cho người si mê, khiến 
					họ hết khổ được vui.  
					 
					
					b) Thứ hai niệm giới: 
					nghĩa là nhớ trì tịnh giới để đoạn trừ các phiền não nghiệp 
					chướng, tăng trưởng mọi hạnh lành. Giới có ba thứ: 
					 
					
					Nhiếp luật nghi giới: 
					Những giới để ngăn cấm các hạnh nghiệp thô xấu, đoạn diệt 
					các nghiệp chướng nơi thân tâm. 
					 
					
					Nhiếp thiện pháp giới: 
					Những quy điều đúng pháp và lợi ích, người thực hành theo 
					nó, có thể thành tựu tất cả pháp lành. 
					 
					
					Nhiêu ích hữu tình 
					giới: Những điều luật làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng 
					sinh.   
					
					c) Thứ ba niệm thiền: 
					Luận Nhiếp Ðại Thừa có nói: "Thiền niệm trụ là an trụ bón 
					món thiền định". Vậy niệm thiền là nhớ tu các niệm thiền 
					định, để gạn sạch tất cả phiền não, thể chứng chân như: 
					 
					
					4. Ðịnh căn: 
					Ðịnh hay tịnh lự do dịch nghĩa chữ Phạn là Dhyana (Thiền 
					na). Ðịnh là lắng tâm yên tịnh, chuyên chú vào chánh pháp, 
					để suy đạt thật nghĩa của nó. Theo Luận Nhiếp Ðại Thừa, định 
					có thể chia làm ba bậc:  
					 
					
					An trụ định: Ðể tâm an 
					trụ vào định cảnh, không cho tán động, do đó phiến não được 
					tiêu trừ.   
					
					Dẫn phát định: Do đoạn 
					sạch phiền não nên được phát sanh sáu món thần thông là các 
					công đức thù thắng.   
					
					Thành sở tác sự định: 
					Do đã phát khởi được các công đức, thần thông, nên thường 
					làm lợi ích cho tất cả chúng sanh; cứu độ chúng sanh giải 
					thoát sanh tử, chứng được Niết Bàn. 
					 
					
					5. Huệ căn: Huệ 
					là trí huệ sáng suốt, thâm nhập được chân tướng của vạn 
					pháp. Trí huệ ấy không có sự phân biệt, vì phân biệt là tác 
					dụng của vọng thức, là mê lầm. Cũng theo Luận Nhiếp Ðại 
					Thừa, trí huệ có ba thứ:  
					 
					
					Vô phân biệt gia hạnh 
					huệ: Quán trí nầy không còn thấy có phân biệt, nhưng còn có 
					gia hạnh, nghĩa là còn phải dụng công tu hành, để thành tựu 
					hoàn toàn vô phân biệt trí. Vì thế, nên gọi là " vô phân 
					biệt gia hạnh huệ".   
					
					Vô phân biệt huệ: 
					Trí huệ nầy không có sự phân biệt, mà không cần phải gia 
					hạnh vì đã thuần phục. Do không phân biệt nên không có mê 
					vọng. Nhờ trí huệ này, người tu hành được tự tại thể chứng 
					nhân như.   
					
					Vô phân biệt hậu đắc 
					huệ: Hay hậu 
					đắc trí, nghĩa là trí huệ có được sau khi đã chứng được chân 
					như. Trí huệ này hoàn toàn sáng suốt, tỏ ngộ được thật nghĩa 
					của các pháp. Chư Phật nhờ hậu đắc trí nầy mà thi tác vô 
					lượng công đức, để cứu độ chúng sanh. 
					 
					
					Nói một cách tổng quát 
					giản dị, huệ căn là trí huệ do thiền định đã làm lặng sạch. 
					Nó không đạt được sự thật của các pháp; nó là căn nguyên 
					phát sanh mọi việc vĩ đại để giải thoát chúng sinh. 
					
					 
					 
					
					II. Ðịnh Nghĩa Ngũ 
					Lực   
					
					Ngũ lực tức là năm năng 
					lực vĩ đại, năm thần lực của Ngũ căn. Nói một cách dễ hiểu: 
					Ngũ căn như năm cánh tay, còn ngũ lực như là sức mạnh của 
					năm cánh tay ấy. 
					
					 
					 
					
					IV. Thành Phần Và 
					Nội Dung Của Ngũ Lực  
					 
					
					1. Tín lực: tức 
					là thầnlực của đức tin, hay sức mạnh lớn lao, vi diệu do tín 
					căn phát sinh.   
					
					2. Tấn lực: tức 
					thần lực của đức tinh tấn, hay sức mạnh bất thối chuyển, 
					kiên cố, có thể sang bằng mọi trở lực, sức mạnh này do tấn 
					căn phát sinh.   
					
					3. Niệm lực: tức 
					là thần lực của sự ghi nhớ, hay sức mạnh lớn lao bền chắc 
					của niệm căn.   
					
					4. Ðịnh lực: tức 
					thần lực của sự tập trung tư tưởng hay sức mạnh vĩ đại của 
					định căn.   
					
					5. Huệ lực: tức 
					thần lực của trí huệ hay sức mạnh vô biên của huệ căn. 
					 
					
					Nói một cách tổng quát, 
					những sức mạnh nầy là kết quả thâu đạt được do sự kiên cố tu 
					luyện của Ngũ căn. Nó như là một ngọn lửa bật lên sau khi 
					người ta đã nỗ lực cọ sát hai cây củi vào nhau để lấy lửa. 
					
					 
					 
					
					C. Kết Luận 
					 
					
					Diệu Dụng Của Ngũ Căn 
					Và Ngũ Lực   
					
					Như chúng ta đã thấy ở 
					trên, Ngũ căn và Ngũ lực vừa làm hai căn bản, vừa là nghị 
					lực để phát sinh, tăng trưởng vô lượng công đức thù thắng. 
					 
					
					Bất luận người nào, hễ 
					đã lấy trí làm nền tảng, tinh tấn thật hành chánh pháp 
					(tấn), hằng ghi nhứ chánh pháp để tiến tu (niệm), tập trung 
					tư tưởng để trừ sạch vô minh phiền não, đem diệu huệ vô phân 
					biệt (huệ) để chứng chân như, thì người ấy thế nào cũng nắm 
					chắc trong tay quả vị vô thượng Bồ đề. Vì sao? Vì người ấy 
					đã có những thần lực vĩ đại (Ngũ lực) do Ngũ căn gây tạo. 
					Với ngũ lực nầy, hành giả như người bộ hành có đủ phương 
					tiện linh lợi, diệu dụng để băng rừng, vượt biển và đi đến 
					đích cuối cùng. Ðích cuối cùng của người tu hành theo chánh 
					pháp tức là thành Phật. Ðến đích này, người ấy là ánh sáng 
					của chúng sinh gieo mầm an lạc. Chính người mới có đủ thần 
					lực, diệu dụng làm cho chúng sinh trở thành những kẻ hoàn 
					toàn giải thoát, hoàn toàn giác ngộ. 
					 
					
					Kết qủa của Ngũ căn và 
					Ngũ lực lớn lao, quý báu như thế đó, chúng ta không thể 
					không tu theo hai pháp môn ấy. 
					
					 ▲
					Trở Lên  
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					Bài Thứ 9 
					(tt)   
					Thất Bồ 
					Ðề Phần 
					  
					
					
					A. Mở Ðề 
					 
					
					Thất Bồ đề phần cũng là 
					một pháp môn quan trọng không kém gì ngũ căn. Sở dĩ đức Phật 
					chế ra nhiều pháp môn như thế là để tùy căn cơ từng người, 
					ai hợp pháp môn nấy về tên gọi, về chi tiết thì có khác 
					nhau, nhưng về đại thể, về tinh thần thì có nhiều chỗ giống 
					nhau. Vì thế, chúng ta sẽ thấy trong pháp môn "Thất Bồ đề 
					phần" có nhiều điểm giống như trong "Tứ Như ý túc" hay "Ngũ 
					căn, Ngũ lực".  
					
					  
					
					B. Chánh Ðề 
					 
					
					I. Ðịnh Nghĩa Thất Bồ 
					Ðề Phần   
					
					Bồ đề do phiên âm chữ 
					Phạn Boddhi mà ra. Người Trung hoa dịch là Giác đạo, hay đạo 
					quả gíac ngộ. Phần là từng phần, từng loại. Thất Bồ đề phần 
					là bảy pháp tu tập tuần tự hướng đến đạo quả vô thường Bồ 
					đề, hay bảy pháp giúp người tu hành thành tựu đạo quả Ðại 
					giác.   
					
					Nó cũng có tên là Thất 
					giác chi. "Giác: tức là Bồ đề, còn "Chi" tức cũng như phần 
					vậy. Thất giác chi tức là bảy nhánh, bảy phương tiện đi đến 
					đích giác ngộ. 
					
					 
					 
					
					II. Thành Phần Và 
					Nội Dung Của Thất Bồ Ðề Phần 
					 
					
					Thất Bồ đề phàn gồm 
					có:   
					
					1. Trạch pháp: 
					Trạch là lựa chọn; Pháp là pháp môn, là phương pháp tu hành. 
					Trạch pháp là dùng trí huệ để lựa chọn pháp lành để tu, pháp 
					dữ để tránh. Trong sự tu tập, nếu ta không có trí phân biệt 
					chánh tà, tất phải lầm lạc. Như các bài trước đã nói, lòng 
					tin của người Phật tử phải dựa trên lý trí, nếu không là mê 
					tín. Ðức Phật có dạy: "Hãy dùng trí huệ suy nghiệm, giải 
					trạch các pháp, rồi sẽ tín thọ, thật hành theo". Nếu tu lầm, 
					tin chạ, điều có nguy hại gắp trăm nghìn lần người không tu 
					hành. Vì vậy, Phật tử chúng ta muốn thẳng tiến trên đường 
					giác ngộ, giải thoát, không phải nghe ai bảo gì tin nấy, 
					không phải tự bảo một cách bừa bãi: "đạo nào cũng tốt cả"; 
					không phải chung dung hòa Phật giáo với ngoại đạo; trái lại, 
					Phật tử cần sáng suốt để phòng sự đánh lộn sòng của các 
					ngoại đạo, sự xuyên tạc xảo quyệt để làm mất lòng tin sáng 
					suốt của chúng ta. Chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo phân 
					biệt chánh, tà, chân, ngụy; phải thường trí huệ mà giản 
					trạch cả những pháp ở ngoài và những ý tưởng chơn vọng của 
					tâm để tu, để đoạn.   
					
					2. Tinh tấn: 
					Nhưng một khi đã lựa chọn được pháp môn chân chính để tu 
					rồi, thì phải tinh tấn, nghĩa là luôn luôn dũng tiến trên 
					bước đường tu tập, không quản ngại gian lao khó nhọc, không 
					khiếp sợ; không thối chuyển, không tự mãn, tự cao mà bỏ dở 
					mục đích chưa đạt được (như đã nói ở bài ngũ căn). 
					 
					
					3. Hỷ: Nghĩa là 
					hoan hỷ. Nhờ tinh tấn tu hành, nên đoạn trừ được dần phiền 
					não thành tựu vô lượng công đức, do đó, sanh tâm hoan hỷ và 
					phấn chí tu hành.   
					
					4. Khinh an: 
					Khinh là nhẹ nhàng. An là an ổn. Nhờ sự tinh tiến tu tập nên 
					thân tâm được thanh tịnh; do đó người tu hành cảm thấy nhẹ 
					nhàng, khoan khoái, khinh an, như đã trút được gánh nặng dục 
					vọng, mê mờ.   
					
					5. Niệm: (Cũng 
					như chữ niệm trong mấy bài trước) nghĩa là thường ghi nhớ 
					chánh pháp để thực hành. Tâm niệm ta, nếu không thường nhớ 
					chánh pháp, tất nhiên tạp niệm phát sanh, phiền não tăng 
					trưởng. Cũng như một đám đất nếu không trồng hoa, thì cỏ 
					mọc. Vì thế người tu hành cần phải để tâm ghi nhớ chánh 
					pháp, đừng cho xao lãng buông lung nghĩ bậy. 
					
					6. Định: 
					Nghĩa là tâm chuyên chú, tập trung vào pháp mình đang tu
					 
					 
					
					7. 
					Xả: Nghĩa là bỏ ra ngoài không vướng bận. Xả tức là hành 
					xả tâm sở, một trong 11 món Thiện tâm sở. 
					 
					
					Hành xả nghĩa là thế 
					nào?   
					
					Người tu hành, nhờ trí 
					sáng suốt, nhận biết "thọ là khổ", nên không nắm giữ một thứ 
					nào hết, dù quý báu bao nhiêu. Ngay trong sự tu hành cũng 
					vậy, họ không trụ trước ở các pháp mình đã tu, đã chứng; 
					trái lại họ luôn luôn xả bỏ những gì mình đạt đến, để tiến 
					triển trên bước đường đi đến giải thoát. Nếu người tu hành 
					cứ mãi say đắm vào quả vị mình đã chứng, thì suốt đời sẽ bị 
					trầm một nơi đó, không bao giờ có thể tiến lên, để đạt thành 
					đạo quả vô thượng Bồ đề. Kinh Kim Cang sớ có nói: "Người tu 
					hành phải như người nương thuyền qua sông, khi thuyền đã cập 
					bến, nếu ta không bỏ nó để lên bờ, thì đừng hòng đến đâu và 
					biết gì được. Người muốn thành đấng siêu việt tự tại, cần 
					phải từ trước khước mọi đắm say". 
					 
					
					Pháp hành xả nầy giúp 
					chúng ta thành tựu sự siêu việt. 
					
					 
					 
					
					C. Kết Luận 
					 
					
					Tóm lại, người tu bảy 
					pháp Bồ đề phần nầy, chắc chắn sẽ được bốn kết quả quý báu 
					sau đây:   
					
					1. Tất cả pháp ác đều 
					được tiêu trừ.   
					
					2. Tất cả pháp lành 
					càng ngày càng tăng trưởng. 
					 
					
					3. Vì thường tu thiện, 
					đoạn ác, nên luôn luôn được an lạc, không bị đau khổ. 
					 
					
					4. Sẽ chứng thành Phật 
					quả.   
					
					
					▲ Trở Lên  
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					Bài Thứ 10 
					 
					Ðạo Ðế (Nirodha 
					Gamadukkha)   
					
					(Tiếp Theo)  
					
					  
					
					E. Bát Chánh Ðạo 
					  
					
					
					A. Mở Ðề 
					 
					
					Trong 37 món trợ đạo, 
					Bát Chánh đạo là một pháp môn chính, được nhắc nhở đến nhiều 
					nhất. Vì thế, mỗi khi nói đến Ðạo đế là người ta liên tưởng 
					đến Bát Chánh đạo. Thậm chí có người tưởng lầm rằng Ðạo đế 
					với Bát Chánh đạo là một. 
					 
					
					Sở dĩ Bát Chánh đạo 
					được xem là pháp môn chính của Ðạo đế, vì pháp môn nầy rất 
					đầy đủ có thể bao gồm được các pháp môn khác của Ðạo đế. Nó 
					rất phù hợp với mọi căn cơ, mọi thời đại, mọi phương sở; đối 
					với Tiểu Thừa cũng như Ðại Thừa, người Ðông phương cũng như 
					Tây phương ai ai cũng đều công nhận giá trị hoàn toàn cao cả 
					của Bát Chánh đạo, và đều áp dụng pháp môn nầy trong sự tu 
					hành của mình để đoạn trừ phiền não khổ đau, hầu bước lên 
					con đường giải thoát, an vui, tự tại. 
					
					 
					 
					
					B. Chánh Ðề 
					 
					
					I. Ðịnh Nghĩa Bát Chánh 
					Ðạo   
					
					Bát Chánh đạo là tám 
					con đường ngay thẳng hay tám phương tiện mầu nhiệm đưa chúng 
					sinh đến đời sống chí diệu. 
					 
					
					Người ta cũng có thể 
					dịch nghĩa "Bát Chánh đạo" là con đường chánh có tám ngánh, 
					để đưa chúnh sinh đến địa vị Thánh. 
					 
					
					Cũng có khi người ta 
					gọi Bát Chánh đạo là "Bát Thánh đạo" vì cái diệu dụng của nó 
					sau đây:   
					
					a) Những kẻ phàm phu 
					học đạo, noi theo pháp môn nầy mà tu, thì khỏi lầm lạc vào 
					nẻo nguy hiểm, lần hồi sẽ chứng được quả Hiền Thánh. 
					 
					
					b) Những bậc Hiền, 
					Thánh nương theo tám phương tiện nầy thì sẽ đi đến cảnh Niết 
					Bàn.   
					
					Bát Chánh đạo gồm có: 
					 
					
					1. Chánh kiến  
					 
					2. Chánh tư duy 
					 
					3. Chánh ngữ 
					 
					4. Chánh nghiệp 
					 
					5. Chánh mạng 
					 
					6. Chánh tinh 
					tấn   
					7. Chánh niệm 
					 
					8. Chánh 
					định 
					
					 
					 
					
					II. Nội Dung Và Giá 
					Trị Mỗi Thành Phần Của Bát Chánh Ðạo  
					 
					
					1. Chánh kiến: 
					Chánh là ngay thẳng, đúng đắn; Kiến là thấy, nhận biết. 
					Chánh kiến hay Chánh tri kiến là thấy, nghe, hay, biết một 
					cách ngay thẳng, công minh, đúng với sự thật khách quan. 
					Người có chánh kiến thấy như thế nào thì nhận đúng như thế 
					ấy, không lấy trắng làm đen, xấu làm tốt, dở làm hay, hay 
					trái lại. Sự nhận xét sự vật của người ấy không bị tập quán, 
					thành kiến, dục vọng ngăn che hay làm sai lạc. Người có 
					chánh kiến biết phân biệt cái nào giả, cái nào thật. Và khi 
					đã biết cảnh giả, vật dối, thì mắt không chăm, tâm không 
					chú; còn khi rõ biết cảnh vật thật, lời lẽ chân, thì chuyên 
					tâm vào sự lý chân thật làm cho đèn huệ sáng ngời, tiền trần 
					không phương che ám được. 
					 
					
					2. Chánh tư duy: 
					Tư duy là suy nghĩ, nghiệm xét; nó thuộc về ý thức. Chánh tư 
					duy là suy nghĩ, xét nghiệm chân chánh, tư tưởng đúng với lẽ 
					phải.   
					
					Người tu theo phép 
					Chánh tư duy, thường xét nghĩ đạo lý cao siêu, suy tìm thể 
					tánh nhiệm mầu, biết xét những hành vi lỗi lầm, những ý nghĩ 
					xấu xa để sám hối; biết suy nghĩ về ba món vô lậu học: Giới, 
					Ðịnh, Huệ, để tu giải thoát; biết suy xét vô minh và nguyên 
					nhân đau khổ, là nguồn gốc của tội ác, và tìm phương pháp 
					đúng đắn để tu hành hầu giải thoát cho mình và cho người. 
					 
					
					3. Chánh ngữ: 
					Ngữ là lời nói; Chánh ngữ là lời nói chân thật, công bình, 
					ngay thẳng và hợp lý.  
					 
					
					Người tu theo chánh 
					ngữ, không bao giờ nói sai, không thiên vị, thấy dở nói hay, 
					không xuyên tạc, nghe một đường nói một ngả. Người theo 
					chánh ngữ rất thận trọng lời nói; trước khi muốn nói gì phải 
					suy nghĩ coi có lợi ích và chân thật không. Xưa đức Khổng Tử 
					vào viếng chốn cổ miếu, thấy bức tranh họa một hình người 
					kẹp miệng ba lần, Ngài day lại dạy môn đệ phải cẩn thận lời 
					nói.   
					
					Ngày xưa, trước khi đức 
					Phật sắp nhập Niết Bàn, có Ðệ tử hỏi: 
					 
					
					Bạch đức Thế Tôn, khi 
					Phật nhập Niết Bàn rồi, người đời sau gặp nhièu sách vở 
					ngoại đạo không sao phân biệt với kinh Phật , như thế, biết 
					tin theo lời nào tu?  
					 
					
					Phật dạy: 
					 
					
					Chẳng luận là lời nói 
					của ai miễn là lời ấy đúng sự thật, hợp chân lý thì cứ tin 
					theo mà tu.   
					
					Vậy, phàm những lời nói 
					đúng lý, hợp lẽ, có lợi ích cho toàn thể chúng sinh là chánh 
					ngữ. Những lời nói ấy chúng ta phải tin theo và tập nói cho 
					đúng như thế.   
					
					4. Chánh nghiệp: 
					Nghiệp là do người Trung Hoa dịch chữ Phạn Karma mà ra. 
					Nghiệp hay Karma nghĩa là hành động tạo tác. 
					 
					
					Chánh nghiệp là hành 
					động, việc làm chân chính, đúng với lẽ phải, phù hợp với 
					chân lý, có lợi ích cho người lẫn vật. 
					 
					
					Người theo đúng "chánh 
					nghiệp" là người luôn luôn thận trọng , giữ gìn mọi hành 
					động của mình, để khỏi làm tổn hại đến quyền lợi, nghề 
					nghiệp, địa vị, danh giá, hạnh phúc, tánh mạng của người 
					khác. Hơn nưa người theo đúng chánh nghiệp bao giờ cũng tôn 
					trọng lương tâm nghề nghiệp của mình, luôn luôn hành động có 
					lợi ích cho mọi người, mọi vật; và nếu cần, có thể hy sinh 
					quyền lợi hay tánh mạng mình để giải thoát nỗi đau khổ cho 
					người khác.   
					
					Ngoài ra cũng gọi là 
					chánh nghiệp, khi dùng trí huệ để quán tưởng những pháp chân 
					chính, hoặc ngồi Thiền, niệm Phật , hoặc trì tụng kinh hành, 
					để giữ gìn thân, khẩu, ý ba nghiệp cho thanh tịnh. 
					 
					
					5. Chánh mạng: 
					Mạng là sự sống, đời sống. Chánh mạng là sanh sống một cách 
					chân chính bằng nghề nghiệp lương thiện, trong sạch của 
					mình. Người theo đúng Chánh mạng sống một cuộc đời ngay 
					thật, không gian tham, không làm giàu trên mồ hôi, nước mắt 
					của người khác, không làm cho người và vật phải đau khổ vì 
					nghề nghiệp của mình. Người theo đúng Chánh mạng sống một 
					cuộc đời có ý nghĩa lợi mình, lợi người, xứng với bát cơm 
					mình ăn, manh áo mình mặc chứ không ăn không ngồi rồi, sống 
					bám vào người khác.   
					
					Người theo Chánh mạng 
					sống đúng Chánh pháp, không mê tín dị đoan, và biết thân tứ 
					đại vốn vô thường, nên lấy tịnh giới làm thể, lấy trí huệ 
					làm mạng, bỏ niệm vọng cầu, an vui với chánh pháp. 
					 
					
					6. Chánh tinh tấn: 
					Chữ tinh tấn ở đây cũng cùng nghĩa như tinh tấn đã nói trong 
					bài trước, nghĩa là chuyên cần, siêng năng, thẳng tiến mục 
					đích đã vạch sẵn không vì một lý do gì mà lùi bước. Chánh 
					tinh tấn là chuyên cần, siêng năng làm việc chánh nghĩa, lợi 
					lạc cho mình cũng như cho người và vật. 
					 
					
					Người theo đúng Chánh 
					tinh tấn, trước tiên, bao giờ cũng hăng hái sửa mình, cương 
					quyết bài trừ những điều ác, quyết tâm phát triển mọi hạnh 
					lành (xem bài Tứ Chánh cần). Người theo đúng Chánh tinh tấn, 
					dũng mãnh tiến lên trên đường đi đến giải thoát, cho đến lúc 
					nào đạt được mục đích cao cả, cùng tột ấy mới thôi (xem đoạn 
					"Tấn căn" trong bài Ngũ căn). 
					 
					
					Nói tóm lại, người theo 
					đúng Chánh tinh tấn, quyết tạo nghiệp vô lậu xấ thế gian, 
					lấy chánh trí làm mãnh lực, lấy Niết Bàn làm chỗ quy hướng, 
					một lòng chẳng trễ, muôn kiếp không dời, quyết công phu, 
					định thành đạo quả để trước tự độ, sau hóa đôĩ chúng sanh. 
					 
					
					7. Chánh niệm: 
					Niệm là ghi nhớ (cũng như nghĩa chữ niệm ở các bài trước). 
					Chánh niệm là ghi nhớ đến những điều hay lẽ phải, những điều 
					lợi lạc cho mình cho người, những đạo lý chân chính quý 
					trọng cao siêu.   
					
					Chánh niệm có hai 
					phần:   
					
					a) Chánh ức niệm: là 
					nghĩ nhớ đến các điều lỗi lầm để thành tâm sám hối, và nghĩ 
					nhớ đến Tứ trọng ân: ân cha mẹ, ân tổ quốc, ân chúng sinh và 
					ân Tam Bảo để lo báo đền. 
					 
					
					b) Chánh quán niệm: là 
					dùng tâm từ bi xét nghĩ cuộc đời là khổ não, tật bệnh, mê mờ 
					mà chúng sinh đang mắc phải, để mở rộng lòng thương yêu và 
					quyết ra tay cứu độ.  
					 
					
					Người theo đúng Chánh 
					niệm, thường quán sat cảnh chân đế, năng tưởng niẹm các pháp 
					trợ đạo; bất luận ở đâu và làm gì, cũng nhớ nghĩ đến cái quả 
					vô lậu xuất thế gian, dù trải qua bao nhiêu số kiếp cũng 
					không thối tâm xao lãng.  
					 
					
					8. Chánh định: 
					Chữ "Ðịnh" ở đây cũng đồng nghĩa như chữ định trong các bài 
					trước, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì, để 
					thấy cho rõ ràng. Chánh định là tập trung tư tưởng vào một 
					vấn đề chính đáng, đúng với chân lý, có lợi ích cho mình và 
					người.   
					
					Người theo đúng Chánh 
					định, thường tập trung tư tưởng để quan sát những vấn đề 
					chính sau đây:   
					
					Quán thân bất tịnh: 
					(bất tịnh quán) túc là quán tưởng thân không thanh tịnh, để 
					trừ tham dục, sai ái (xem lại đoạn: "quán thân bất tịnh" 
					trong bài Tứ niệm xứ).  
					 
					
					Quán từ bi (từ bi quán) 
					là quán tưởng tất cả chúng sinh đều là một chân tâm, bình 
					đẳng không khác, để đoạn trừ thù hận, và mở rộng lòng thương 
					yêu để cứu độ chúng sinh. 
					 
					
					Quán nhân duyên: (nhân 
					duyên quán) là quán tưởng tất cả pháp hữu hình như muôn vật, 
					vô hình như tâm niệm đều là giả hợp, duyên nhau mà có, chứ 
					không có một cách chân thật, không trường tồn, để đoạn trừ 
					ngu si, pháp chấp.   
					
					Quán giới phân biệt: 
					(giới phân biệt quán) nghĩa là phân biệt và quán tưởng sự 
					giả hợp của 18 giới: 6 căn, 6 trần, 6 thức để thấy không 
					thật có "ngã, pháp" ngõ hầu diêt trừ ngã chấp, pháp chấp. 
					 
					
					Quán hơi thở: (sổ tức 
					quán) nghĩa là qúan tưởng bằng cách chuyên chú đếm hơi thở 
					ra vào, để đổi trị sự tán loạn của tâm thức. 
					
					 
					 
					
					C. Kết Luận: 
					 
					
					Như đã nói ở đoạn mở 
					đề, Bát Chánh đạo là pháp môn rất được thông dụng. Sự thông 
					dụng này sở dĩ có được là nhờ lợi ích thiết thực và quý báu 
					của nó đối với đời sống cá nhân của người tu hành, đối với 
					xã hội, và đối với đời sống tương lai. Có thể tóm tắt những 
					lợi ích, hay công năng của Bát Chánh đạo trong ba điểm sau 
					đây:   
					
					1) Cải thiện tự 
					thân: Nếu con người chuyên tu theo tám đường chánh này, 
					thì sửa đổi được tất cả mọi sự bất chính, mọi tội lỗi trong 
					đời sống hiện tại của mình, như ý niệm mê mờ, ngôn ngữ đảo 
					điên, hành vi sái quấy, đời sống vô luân. Khi những điều 
					trên nầy đã được cải thiện, thì tất cả cuộc đời riêng của 
					mỗi người sẽ chân chính, lợi lạc và thiện mỹ. 
					 
					
					2) Cải thiện hoàn 
					cảnh: Nếu trong xã hội ai ai cũng đều chuyên tu theo tám 
					đường chánh đạo nầy, không những có nhiều lợi lạc trong cuộc 
					đời hiện tại mà còn gây tạo cho mình một tương lai tươi 
					sáng, gieo trồng cho mình những hạt giống Bồ đề để ngày sau 
					gặt háu quả vô thượng Niết Bàn, đầy đủ bốn đức Thường, Lạc, 
					Ngã, Tịnh.   
					
					Vì những lợi ích quý 
					báu như thế, chúng tôi xin khuyên mọi Phật tử hày phát 
					nguyện cương quyết tu theo Bát Chánh đạo. 
					
					 
					 
					
					Tổng Kết Về Ðạo Ðế 
					 
					
					Chúng ta vừa biết qua 
					nội dung của Ðạo đế , hay 37 món trợ đạo là: Tứ niệm xứ, Tứ 
					chánh cấn, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ đề phần, 
					Bát Chánh đạo. Phần Ðạo đế đã chiếm hết bốn bài trong mười 
					bài nói về Tứ đế. Chỉ cái số lượng ấy cũng đủ nói lên sự 
					quan trọng mà đức Phật muốn dành cho phương pháp tu hành để 
					chứng nhập Niết Bàn. Nhưng chúng ta đừng nên thấy quá nhiều 
					pháp môn mà vội nản lòng, thối chí. Vì căn cơ chúng sinh 
					không đều, nên đức Phật cần chế ra nhiều pháp môn, để mỗi 
					người có thể tùy theo căn cơ mính mà lựa pháp môn thích hợp 
					để tu hành. Tất nhiên một người có thể tu nhiều pháp môn nếu 
					có đủ khả năng, trí tuệ, sức khỏe; những nếu không đủ điều 
					kiện, thì tu một pháp môn cũng được. Khi tu thành một pháp, 
					các pháp kia đều thành, vì nó là một nhiếp thuộc lẫn nhau. 
					 
					
					Vậy Phật tử không nên 
					ngã lòng thối chí. Với sự quyết tâm, với đức tinh tấn, chúng 
					ta tuần tự tiến dần vào Ðạo đế, không lo sợ, không nghi ngờ, 
					cũng không quá bồng bột, nóng nảy, rồi đây chậm hay nhanh, 
					thế nào cũng phải đến đích. 
					 
					
					Hỡi quí vị Phật tử ! 
					Mười phương các đức Như Lai, đầu tiên đều nhờ các pháp môn 
					nầy mà dần dần được viên thành Phật quả. Tất cả Thánh giả 
					trong ba thừa, đều nương vào đây để tu hành cho đến ngày đạt 
					đích. Chúng ta, đấng con Phật , những người đang canh cánh 
					ôm ấp bên lòng trí nguyện thành Phật , để cứu độ và cứu độ 
					chúng sinh, lẽ nào trong lúc đức Phật đã vì lòng từ bi mà 
					sửa soạn cho chúng ta mọi phương tiện , mọi hành lý để tiến 
					lên đường giải thoát, chúng ta lại do dự, chần chờ hay thối 
					thác !   
					
					Vậy chúng ta hãy mau 
					mau cất bước lên đường giải thoát. 
					
					 
					 
					
					
					HẾT KHÓA 3 
					
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
			 
			 | 
				
			
 |