|   | 
			
			
				
					| 
					
					 NHƠN 
					MINH LUẬN CƯƠNG YẾU  
					NHƠN 
					MINH LUẬN TỪ ĐÂU MÀ CÓ? 
					 
					Trước thời Phật 
					Thích Ca giáng sanh (chưa rõ xác thật là bao nhiêu năm), ở 
					Ấn độ có nhiều phái ngoại đạo, tranh chấp nhau bằng lý 
					thuyết. Ông Túc Mục Tiên nhơn là một trong các vị 
					 
					Tổ của các phái, 
					lập ra pháp luận lý này, để bác các đạo. Phương pháp này 
					được tín dụng và  
					đắc lực trong thời kỳ 
					ấy.   
					Đến khi Phật ra đời, 
					thấy Nhơn minh là một môn luận lý có qui tắc, vừa đúng lý và 
					vừa hợp thời, được công chúng thừa nhận, nên Phật cũng dùng 
					lối lý luận này để bác các ngoại đạo tà giáo đem về chánh 
					lý.   
					Sau khi Phật nhập 
					diệt, độ khoảng 600 năm, có Ngài Mã Minh và Long thọ, hai vị 
					Bồ Tát ra   
					đời ở Ấn độ, sưu 
					tập lại, phân làm năm phần: Tôn, Nhơn, Dụ, Hiệp, Kết. 
					 
					Về sau Ngài Trần Na 
					Bồ tát, cải cách lại, thành lập Nhơn minh luận có 3 phần: 
					Tôn, Nhơn,   
					Dị và viết ra bộ 
					"Nhơn minh nhập chánh lý luận". Từ ngài Trần Na về trước, 
					 
					người ta gọi là: 
					"Cổ Nhơn minh"; từ Ngài Trần Na về sau là: "Tân Nhơn minh". 
					 
					Đến đời Đường, Ngài 
					Huyền Trang Pháp sư (người Trung hoa) sang Ấn dộ học Phật 
					pháp,   
					rất tinh thông 
					về môn học này. Ngài đã nhiều lần lên luận đàm, dùng lối lý 
					luận Nhơn minh   
					này mà biện 
					luận, làm cho cả Ấn độ 18 nước đều kính phục. 
					 
					Sau khi trở về nước, 
					Ngài dịch lại và truyền bá trong nước Trung hoa. 
					 
					Vì sự đòi hỏi của 
					tín đồ, nên tôi (Sa môn Thích Thiện Hoa) phỏng dịch và chú 
					giải bằng chữ Việt.   
					SAO GỌI LÀ "NHƠN MINH NHẬP CHÁNH 
					LÝ LUẬN?" 
					 
					Nhơn minh luận là 
					một luận lý tối cổ ở Á đông, vừa đúng lý, vững chắc và vừa 
					có qui tắc.   
					Điều cốt yếu là 
					phải rành rõ "nguyên nhân" hay "lý do vì sao", thì lối luận 
					lý mới chơn chánh   
					và đúng đắn, nên 
					gọi là "Nhơn minh nhập chánh lý luận". 
					 
					Vì nhờ "Nhơn" mới rõ 
					được Tôn, nhờ "Nhơn" mới lập được Dụ. Bởi "Nhơn" rất trọng 
					yếu   
					như vậy, nên gọi 
					là "Nhơn minh", mà không gọi là "Tôn minh hay Dụ minh. Nhơn 
					minh là một trong ngũ minh 
					 
					NỘI DUNG CỦA NHƠN 
					MINH   
					Nội dung của Nhơn 
					minh luận chia làm 3 phần: Tôn, Nhơn, Dụ. Theo Cổ Nhơn minh 
					có thêm   
					2 phần: Hiệp và 
					Kết là 5 phần:   
					Cổ Nhơn minh 
					:   
					1. Tôn: Nhơn 
					loại đền phải chết.   
					2. Nhơn: Vì có 
					sanh vậy.   
					3. Dụ: Như loài 
					vật   
					4. Hiệp: Phàm có 
					sanh phải có chết   
					5. Kết: Loài vật 
					có sanh, nên loài vật phải có chết; nhơn loại có sanh, nên 
					nhơn loại phải có chết.   
					Tân Nhơn minh 
					 
					1. Tôn: Nhơn 
					loại đều phải chết.   
					2. Nhơn: Vì có 
					sanh vậy.   
					3. Dụ: Phàm có 
					sanh phải có chết, như loài vật. 
					
					
					▲ Trở Lên
					 
					 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 A.TÔN 
					  
					Phàm nói ra một câu 
					gì, hày trình bày một lập thuyết gì, cái lập thuyết ấy gọi 
					là Tôn. Như nói: "Tôi ăn cơm." 
					 
					Tôn có nhiều tên, 
					như:   
					1. Tiền trần (danh 
					từ trước) cũng gọi: Hữu pháp, Tự tướng, Sở biệt. 
					 
					2. Hậu trần (danh từ 
					sau) cũng gọi: Pháp, Sai biệt, Năng biệt. 
					 
					Thí dụ như nói: Tôi 
					ăn cơm   
					Tôi Tiền trần (danh 
					từ trước), Hữu pháp, Tự tướng, Sở biệt. 
					 
					Ăn cơm Hậu trần 
					(danh từ sau), Pháp, Sai biệt, Năng biệt. 
					 
					TÔN CÓ TÔN Y VÀ 
					TÔN THỂ   
					I.Tôn y gồm có 2 
					phần   
					1. Tiền trần: 
					Hữu pháp, Sở biệt và Tự tướng 
					 
					2. Hậu trần: 
					Pháp, Năng biệt và Sai biệt.  
					Tôn thể._Cổ Nhơn 
					minh (từ Ngài Trần Na về trước) lấy Tiền trần làm Tôn y, Hậu 
					trần làm   
					Tôn thể. 
					 
					Tân Nhơn minh (từ 
					Ngài Trần Na về sau) cho Tiền trần và Hậu trần là vật kiện 
					để lập Tôn,   
					nên đều là Tôn 
					y. Hai vật kiện ấy hợp chung lại thì gọi là Tôn thể. 
					 
					CHÍN LỖI VỀ TỢ TÔN 
					 
					Phàm lập Tôn phải 
					tránh chín lỗi sau đây, thì cái Tôn ấy mới đúng đắn, mới đủ 
					tư cách để   
					thành lập luận 
					thuyết của mình, hoặc bác thuyết của người khác. Chín lỗi 
					gồm có:   
					1. Hiện lượng 
					tương vi._Lập cái tôn, trái với cảm giác hiện tiền. Như 
					hiện tiền ai cũng hiểu   
					biết rằng: Mũi 
					ngửi mùi, tai nghe tiếng v.v...Nay lại lập cái Tôn rằng: 
					 
					Tôn 
					 
					1. Tai tôi nghe 
					mùi thơm   
					2. Mắt tôi thấy 
					tiếng nói v.v ...   
					Vì nói như vậy là 
					trái với sự hiểu biết hiện tại; vừa nói ra, người ta thấy 
					mình nói sai rồi.   
					Tôn đã sai thì 
					làm sao lập được "Nhơn" và "Dụ". 
					 
					2. Tỷ lượng tương 
					vi._ Lập cái Tôn trái với sự "so sánh phân biệt". Theo 
					sự so sánh hiểu biết của người: Phàm là người, ai cũng phải 
					chết, như các vị tiền nhân đã chết. Và phàm vật gì có hình 
					phải có hoại, cũng nhu bao nhiêu vật đã hoại trước. Nay lại 
					lập Tôn rằng:   
					Tôn 
					 
					1. Tôi sống hoài 
					không chết.   
					2. Cái nhà tôi 
					không bao giờ hư.   
					Lập Tôn như vậy là 
					trái với sự "so sánh phân biệt" của người, nên có lỗi. 
					 
					3. Tự giáo tương 
					vi._ Lập cái Tôn, trái với giáo lý của mình tôn thờ. Nói 
					rộng ra là trái với chủ nghĩa, đảng phái, gia đình, quốc gia 
					hay một lý thuyết mà mình đương tôn trọng. 
					 
					Như trong Đạo Phật 
					nói "Chúng sanh có quả báo luân hồi". Và nói "Có thế giới 
					cực lạc ở   
					phương Tây 
					v.v...". chúng ta là Phật tử lại lập cái Tôn rằng: 
					 
					Tôn 
					 
					1. Chúng sanh 
					không có luân hồi quả báo   
					2. Không có nước 
					cực lạc.   
					Ngoại nhơn hỏi lại: 
					"Ông nói như vầy, thì mâu thuẩn với Tôn giáo của ông. Vậy 
					ông nói   
					đúng lý, hay Tôn 
					giáo của ông đúng lý? Nếu Tôn giáo ông dạy đúng lý, thì lời 
					nói ông sai,   
					còn lời nói của 
					ông đúng lý thì Tôn giáo của ông sai. Vậy ông nhìn nhận cái 
					nào đúng?"   
					Họ không cần bác 
					mà mình cũng bị thua.  
					 
					4. Thế gian tương 
					vi._ Lập cái Tôn, trái với phong tục, tập quán và sự 
					hiểu biết của thế gian.   
					Thế gian có 2 
					hạng người: Có học thức và không học thức. 
					 
					Nếu đối với người có 
					học thức mà chúng ta lập cái Tôn như vầy: 
					 
					Tôn 
					 
					1. Ông Thiên lôi 
					đánh anh Xoài chết   
					2. Bịnh ho lao 
					không phải do vi trùng gây nên. 
					 
					Lập cái Tôn như thế, 
					bị lỗi trái với thế gian, với những người có hoc thức (Khoa 
					học).   
					Vì khoa học 
					(người có học thức) nói "bịnh ho lao do vi trùng gây nên", 
					và không công nhận   
					có ông Thiên 
					lôi. Chúng ta nói như thế, sẽ bị họ chê là người không có 
					học thức.   
					Trái lại, nếu đối 
					với thế gian người vô học, mà chúng ta lập cái Tôn như vầy, 
					cũng bị lỗi   
					thế gian tương 
					vi.   
					Tôn 
					 
					1. Không có ông 
					Thần ban phuớc giáng hoạ.   
					2. Bịnh ho lao 
					phát sinh do vi trùng.  
					 
					Bởi thế người thế 
					gian vô học, họ tin có ông Thần ban phước giáng hoạ và họ 
					không biết vi trùng.   
					Mặt dù chúng ta 
					nói phải, nhưng thiếu những lời lẽ khôn khéo ngăn đón, nên 
					họ không công nhận. Bởi họ không công nhận, nên lời nói sau 
					của mình không giá trị, vì thế nên mới bị lỗi 
					 
					"Thế gian tương 
					vi".   
					5. Tự ngữ tương 
					vi._ Lập cái Tôn mà lời nói sau của mình, tự mâu thuẩn 
					với lời nói trước   
					của mình. Như 
					lập:   
					Tôn 
					 
					1. Vật này bao 
					nhiêu mà rẽ vậy?   
					2. Ông này mù mà 
					cái chi cũng thấy hết.  
					 
					Đã không biết giá là 
					bao nhêu, tại sao biết rẽ? Đã là mù thì tại sao cái chi cũng 
					thấy.   
					Lời nói của mình 
					tự mâu thuẫn với lời nói của mình. Chính mình cũng thấy sai, 
					thì ai   
					công nhận là 
					phải.   
					6. Năng biệt bất 
					cực thành._ Lập cái Tôn mà "danh từ sau" bên đối phương 
					không công nhận. Như đối với Phật học hay khoa học mà lập 
					cái Tôn như vầy:   
					Tôn 
					 
					1. Thế giới này 
					(danh từ trước) do Thần Tạo vật (danh từ sau) sanh. 
					 
					2. Anh Ồi (danh 
					từ trước) bị Thiên lôi (danh từ sau) đánh. 
					 
					Phật học và khoa học 
					đồng nhận Thế giới và anh Ồi; nhưng không bao giờ nhận có 
					 
					"Thần Tạo vật" 
					và "Thiên lôi". Bởi đối phương không công nhận nên bị lỗi 
					"bất thành".   
					7. Sở biệt bất 
					cưc thành._ Lập cái Tôn mà "danh từ trước" bên đối 
					phương không công nhận. Như đối với Phật học và khoa học, 
					lập như vầy:   
					Tôn 
					 
					1. Thần Tạo vật 
					(danh từ trước) sanh ra loài người. 
					 
					2. Thái cực 
					(danh từ trước) sanh ra vạn vật. 
					 
					Loài người và vạn 
					vật là hai danh từ sau, thì cả Phật học và khoa học đều nhận 
					có: còn   
					Thần Tạo vật và 
					Thái cực là hai danh từ trước, thì Phật học cũng như khọc 
					học đều không công nhận, nên bị lỗi "bất thành". 
					 
					8. Câu bất cực 
					thành._ Lập cái Tôn mà "danh từ trước" và "danh từ sau", 
					bên đối phương   
					đều không nhìn 
					nhận. Như đối với khoa học mà lập như vầy: 
					 
					Tôn 
					 
					1. Cốc thần, 
					Thái cực tức là chơn như   
					2. Thần Tạo vật 
					chính là Thái cực.   
					Bên khoa học không 
					nhìn nhận danh từ trước là "Cốc thần, Thái cực hay Thần Tạo 
					vật" và cũng không nhìn nhận danh từ sau là "Chơn như hay 
					Thái cực". Phàm lập luận mà bên đối phương không hiểu, hoặc 
					hiểu mà không nhìn nhận, thì không thể lý luận được nữa. Nên 
					bị lỗi "bất thành".   
					Tóm lại, ba lỗi bất 
					thành này (Năng biệt, Sở biệt và Câu bất thành) bên đối 
					phương không hiểu, hoặc hiểu mà không công nhận. Bởi hai 
					nguyên nhơn:   
					1. Lập không đúng. 
					 
					2. Lập đúng mà 
					thiếu lời khôn khéo giản biệt, nên bị lỗi ấy. 
					 
					9. Tương phù cực 
					thành._ Lập cái Tôn mà trùng ý kiến với bên đối phương. 
					Như lập:   
					Tôn 
					 
					1. Cơm ăn no 
					bụng.   
					2. Nước uống đã 
					khác.   
					Phàm cãi nhau là vì 
					hai bêb ý kiến không đồng. Nếu bên khách đã nhìn nhận như 
					mình, mà mình còn lập thêm cái tôn ra nữa thì vô ích, nên bị 
					lỗi "tương phù" (trùng điệp). 
					 
					Trong 9 lỗi về Tôn, 
					tứ 1 đến 5 là thuộc về lỗi "tương vi"; từ 6 đến 8 là thuộc 
					vể lỗi "Bất thành".   
					Lỗi thứ 9 vì lập 
					trùng điệp, nên không có hiệu quả. 9 lỗi về tợ Tôn, giải 
					thích đã rồi, bây giờ sẽ nói 14 lỗi về tợ Nhơn. 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					
					
						PHỤ BÀI HỌC 
						ÔN   
						(ÔN LẠI 9 
						LỖI VỀ TỢ TÔN)  
						Quý vị nên xét 
						kỹ, những câu sau này, đối với 9 lỗi trong tợ Tôn, thuộc 
						về lỗi gì?   
						1. Mẹ tôi không 
						có chồng.   
						2. Không có Trời 
						Đất Quỷ Thần.   
						3. Không Nhơn 
						quả, Luân hồi.   
						4. Không Thiên 
						đường và Địa ngục.  
						 
						5. Trời sanh 
						muôn loại.   
						6. Trời không 
						luân hồi.   
						7. Minh sơ sanh 
						Thần ngã.   
						8. Vò vò bắt sâu 
						làm con của nó.   
						9. Tai nghe mùi 
						thơm.   
						10. Tai nghe 
						tiếng, mũi ngửi mùi.  
						 
						11. Tôi trường 
						sanh bất tử.   
						12. Vật này bao 
						nhiêu mà rẻ vậy.  
						 
						13. Ông mù này, 
						cái chi cũng thấy.  
						 
						14. Ngựa đua 
						dưới nước, tàu chạy trên bờ.   
					 
					  | 
				 
				
					| 
					
					 NHƠN 
					  
					Nhơn là nguyên nhơn hay lý do. Phàm 
					một sự vật hay câu nói gì, cũng đều có nguyên nhơn 
					 
					hay lý do cả.   
					Như nói   
					Tôn : Tôi muốn ăn cơm.   
					Nhơn: Vì tôi đói bụng vậy (lý do).   
					Phàm cái "Nhơn" nào đủ cả ba tánh 
					chất sau đây, mới đúng đắn. Trái lại, nếu thiếu một, 
					 
					thiếu hai, hoặc thiếu ba, thì cái Nhơn ấy có lỗi. 14 lỗi về 
					Nhơn sau này, cũng bởi thiếu một, hai hoặc ba tánh chất sau 
					đây. Vậy quý vị nên nhớ kỹ ba tánh chất của Nhơn. 
					 
					1. Biến thị Tôn pháp tánh. _ 
					Nghĩa là: Cái Nhơn phải bao trùm cả Tôn (tánh chất thứ 
					nhứt).   
					Biểu Như Tôn : Tôi muốn ăn cơm. 
					 
					Lập Nhơn:Vì tôi đói bụng vậy. 
					 
   
					Cái Nhơn "Vì tôi đói bụng" này, nó 
					trùm được danh từ trước của Tôn là "Tôi muốn";   
					và cũng trùm được danh từ sau của Tôn là "Ăn cơm". 
					 
					   
					Nhơn trùm cả Tôn   
					Nghĩa là: Vì tôi đói bụng, nên "tôi muốn"; và vì tôi đói 
					bụng, nên "tôi ăn cơm".   
					2. Đồng phẩm định hữu tánh._ 
					Nghĩa là cái Nhơn quyết định phải hoàn toàn hoặc ít nhứt là 
					phải có một phần liên quan với Đồng dụ. Nó phải là đồng một 
					tánh chất như Đồng dụ (tánh chất thứ hai của Nhơn). 
					 
					BIỂU Tôn: Tôi muốn ăn cơm 
					 
					Như Nhơn: Vì đói bụng vậy 
					 
					lập Đồng dụ: Như anh A (đói bụng và 
					muốn ăn cơm)   
					"Như anh A " là đồng dụ. Nghĩa là anh A cũng "vì đói bụng" 
					(Nhơn) nên "muốn ăn cơm" (Tôn).  Nhơn trùm cả Tôn và 
					liên quan   
					Với Đồng dụ   
					Cái Nhơn "vì đói bụng" này, hoàn 
					toàn liên quan với Tôn và Đồng dụ (thí dụ thuận). 
					 
					3. Dị phẩm biến vô tánh._ cái 
					"Nhơn" này đối với Dị dụ (thí dụ về bề trái) phải hoàn toàn 
					 
					không liên quan; nghĩa là tánh chất của Nhơn, phải hoàn toàn 
					không có trong Dị dụ mới được (tánh chất thứ ba của Nhơn). 
					 
					BIỂU   
					Tôn: Tôi muốn ăn cơm   
  Như Nhơn: Vì đói bụng vậy   
					lập Đồng dụ: Như anh A (đói bụng, muốn ăn)   
					Di dụ: Như anh B (no bụng   
					không muốn ăn) 
					Cái Nhơn "vì đói bụng" này, đối với 
					Dị dụ hoàn toàn không có liên quan; nghĩa là:   
					anh B (Dị dụ) đã no bụng (trái với Nhơn: đói bụng), nên 
					không muốn ăn (trái với Tôn: muốn ăn).   
					Nhơn này trùm cả Tôn và   
					Đồng dụ, còn Dị dụ thì không liên quan đến Tôn và Nhơn. 
					 
					14 LỖI VỀ NHƠN   
					phàm lập cái "Nhơn", phải tránh 14 
					lỗi sau này, thì cái "Nhơn" ấy mới hoàn toàn đúng đắn, 
					 
					chia làm 3 loại: 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 I. BỐN 
					LỖI BẤT THÀNH: 
					1. Lưỡng câu bất 
					thành._ Lập cái Nhơn mà cả chủ và khách đều không nhìn 
					nhận.   
					Như lập Tôn: con rắn 
					Hổ mây chạy mau   
					Nhơn: Vì nó có chân 
					vậy (nguyên nhơn)   
					Cả chủ và khách đều 
					không nhìn nhận "rắn hổ có chân". Nay lại lập cái Nhơn "vì 
					có chân", nên cái Nhơn này chẳng thành. 
					 
					2. Tuỳ nhứt bất 
					thành._ Phàm lập cái Nhơn, phải chủ và khách hai bên đều 
					công nhận, ít nhứt là một bên khách phải có công nhận, thì 
					cái nhơn ấy mới thành. Nay cái Nhơn này bên khách không công 
					nhận nên bị lỗi "Tuỳ nhứt bất thành". Như đối với nhà Khoa 
					học mà lập như vầy:   
					Như lập Tôn: Vò vò 
					không sanh con (trứng)  
					 
					Nhơn: Vì nó bắt sâu 
					làm con vậy.   
					Theo Khoa học nói 
					con Vò vò đẻ trứng trong tổ, rồi bắt sâu nhét vào làm mồi, 
					để cho   
					con nó khi nở ra 
					có mồi ăn. Nay lập cái Nhơn "bắt sâu làm con" thì bên khách 
					(Khoa học)   
					không công nhận, 
					nên bị lỗi.   
					3. Dự dự bất 
					thành._ cái Nhơn dụ dự chẳng nhứt định, nên không thành. 
					Như ở xa thấy mù mù, không rõ đó là sương mù hay khói mù, 
					lại lập như vầy:   
					Như lập Tôn: Chỗ kia 
					có lữa   
					Nhơn: Vì có mù (mây 
					mù)   
					Bởi cái Nhơn này có 
					thể lập được cả hai Tôn, vừa "có lữa" và vừa "không có 
					lữa",   
					dụ dự không nhứt 
					định, nên bị lỗi "bất thành". 
					 
					4. Sở y bất 
					thành._ Chỗ y cứ của mình, bên khách không công nhận. 
					Như tín đồ Nhứt   
					thần giáo đối 
					với khoa học hoặc Phật giáo mà lập như vầy: 
					 
					Như lập Tôn: Thần 
					sanh ra mọi vật   
					Nhơn: Vì trong kinh 
					của Đạo tôi nói vậy.  
					 
					Phải là tín đồ của 
					Tôn giáo họ, mới nhìn nhận kinh của Đạo họ là đúng. Còn đối 
					 
					với khoa học hay 
					Phật giáo, không nhìn nhận kinh sách của họ, mà y cứ nơi 
					kinh sách   
					đó để lập luận 
					với người ngoài Đạo mình, nên bị lỗi "sở y ất thành". 
					 
					Một tỷ dụ thứ hai: 
					Theo trong Nhơn minh có lập cái lượng như vầy: 
					 
					Như lập Tôn: Hư 
					không thật có   
					Nhơn: Vì muôn vật 
					đều y hư không vậy.   
					Phái "vô không 
					luận", họ chẳng công nhận "thật có hư không". Nếu với phái 
					này, mà lập cái   
					Nhơn như vậy thì 
					bị lỗi "sở y bất thành".  
					 
					Bốn lỗi "bất thành" 
					đã nói rồi, bây giờ sẽ nói đến sáu lỗi "bất định"  
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 II. SÁU 
					LỖI BẤT ĐỊNH: 
					 
					 
					1. Cọng bất định._ 
					cái Nhơn này liên quan cả Đồng dụ và Di dụ, nên bị lỗi 
					"không nhứt định"   
					BIỂU 
					 
					Tôn: Anh A đau 
					 
					Nhơn: Vì ăn xoài 
					sống   
					Như Đồng dụ: Như anh 
					B   
					Lập (ăn xoài sống và 
					đau)  
					Dị dụ: Như anh D 
					 
					(ăn xoài sống, không 
					đau)    
					Nếu nói anh A "vì ăn 
					xoài sống" mà đau như anh B, thì tại sao anh D cũng "ăn xoài 
					sống"   
					mà lại không 
					đau? Bởi thế nên người ta có thể lập cái Tôn ngược lại 
					rằng:   
					Tôn: Anh D không 
					đau   
					Nhơn: vì ăn xoài 
					sống   
					Như lập Đồng dụ: Như 
					anh D (ăn xoài sống và không đau) 
					 
					Dị dụ: Như anh A (ăn 
					xoài sống, đau)   
					người ta có thể nói 
					rằng: Vậy thì "vì ăn xoài sống" mà bị đau như anh A, hay "vì 
					ăn xoài sống" mà không đau như anh D? 
					 
					Bởi lập cái Nhơn bất 
					định như vậy nên có lỗi.  
					 
					2. Bất cọng bất 
					định._ Cái nhơn này không có liên quan với Đồng dụ. 
					 
					BIỂU 
					 
					Tôn: Tiếng là thường 
					còn   
					Nhơn: vì tai 
					nghe vậy   
					Như Đồng dụ: Như hư 
					không   
					Lập (tai không 
					nghe)   
					Dị dụ: Như cỏ cây 
					(tai không nghe).  
					Cái Nhơn "vì tai 
					nghe" này, đối với "Đồng dụ" và Dị dụ đều không có liên quan 
					chút nào cả,   
					nên cũng bị lỗi 
					"bất định". Bởi cái nhơn này người ta có thể lập ngược lại 
					như vầy:   
					Tôn : Tiếng là 
					vô thường   
					Như Nhơn : Vì tai 
					nghe vậy   
					lập Đồng dụ: Như cỏ 
					cây (vô thường)   
					Dị dụ : Như hư không 
					(thường còn)   
					Vậy, "vì tai nghe" 
					mà tiếng nói thường còn như hư không? Hay "vì tai nghe" mà 
					tiếng nói   
					vô thường như cỏ 
					cây? Bởi thế nên cái Nhơn này bị lỗi "bất định". 
					 
					3. Đồng phẩm nhứt 
					phần chuyển, Dị phẩm biến chuyển bất định: 
					 
					BIỂU 
					 
					Tôn : Chỗ kia có 
					khói Nhơn: Vì có lửa vậy   
					Như Như lửa rượu 
					alcool   
					Đồng dụ: (có lửa, 
					không khói)  
					Lập Như lửa ở 
					nhà bếp   
					(có lửa, có 
					khói)   
					Dị dụ: Như lửa ở nhà 
					bếp   
					(có lửa, có 
					khói).  
					Nếu cái Nhơn "vì 
					có lửa", dụ như lửa ở nhà bếp, thì Tôn này có "khói"; còn 
					"vì có lửa",   
					dụ như lửa rượu, 
					thì cái Tôn này "không khói". Vì cái Nhơn này, đối với Tôn 
					"có khói" hay   
					"không khói" đều 
					không nhứt định, nên cái Nhơn này có lỗi bất định. Bởi người 
					ta có thể   
					lập ngược lại 
					như vầy:   
					Tôn : Chỗ kia 
					không khói   
					Như Nhơn : Vì có lửa 
					vậy   
					lập Đồng dụ: Như lửa 
					Alcool (có lửa, không khói) 
					 
					Dị dụ : Như lửa ở 
					nhà bếp (có lửa, có khói) 
					 
					4. Dị phẩm nhứt 
					phần chuyển, Đồng phẩm biến chuyển bất định: cái Nhơn 
					này đối với Dị dụ, có dính líu một phần, còn đối với Đồng dụ 
					thì phải hoàn toàn dính líu, nên cái Nhơn này cũng bị lỗi 
					"bất định".   
					BIỂU Tôn : Con khỉ 
					leo cây giỏi   
					Nhơn: Vì có hai 
					tay.   
					Như Đồng dụ: Như 
					con   
					Dị dụ _ Như con bò 
					(không tay, không biết leo) 
					 
					Như con rắn (không 
					tay, leo cây giỏi).   
					Phàm Đồng dụ thì 
					phải hoàn toàn liên quan cả Tôn và Nhơn; còn Dị dụ thì hoàn 
					toàn không   
					dính líu gì đến 
					Tôn và Nhơn, như thế mới đúng. 
					 
					Nay cái Nhơn này, 
					đối với Dị dụ bị dính líu hết mốt phần. Bởi thế cái tánh 
					chất thứ ba của   
					Nhơn là "Dị phẩm 
					biến vô tánh", nên bị lỗi; vì khách có thể hỏi lại rằng: "Vì 
					không tay,   
					nên leo cây giỏi 
					như con rắn"; hay vì không tay, nên "chẳng biết leo cây như 
					con bò?".   
					Bởi thế nên cái 
					Nhơn này bị lỗi "bất định". 
					 
					5. Câu phẩm nhứt 
					phần chuyển bất định: 
					 
					Cái Nhơn này, đối 
					với Đồng dụ và Dị dụ đều chỉ có dính líu một phần, nên cũng 
					bị lỗi "bất định".   
					BIỂU 
					 
					Tôn: Tiếng vô 
					thường   
					Nhơn: Vì mắt không 
					thấy   
					Như tánh giận, buồn 
					v.v... (mắt không thấy và vô thường) 
					 
					Như Đồng dụ Như 
					ruộng, nhà v.v...(mắt thấy lập Và cũng vô thường) 
					 
					Như Hư không 
					 
					(thường, mắt trông 
					thấy)   
					Dị dụ Như Giác tánh 
					(thường, mắt không thấy)  
					 
					Cái thí dụ thứ hai: 
					 
					Tôn: Người ta ai 
					cũng phải chết   
					Nhơn: Vì vật hữu 
					tình vậy   
					Đồng Như cầm thú 
					(hữu hình dụ có chết)  
					 
					dụ Như nước biển 
					(hữu hình, không chết)  
					 
					Như lập 
					 
					Dị dụ Như hư không 
					(vô hình không chết)  
					 
					Như tượng gỗ (hữu 
					hình không chết)   
					Nếu cái Nhơn "vì hữu 
					hình" này, mà dụ như cần thú, thì cái Tôn này có chết", còn 
					cái Nhơn   
					"vì hữu hình" mà 
					thí dụ như nước, thì cái Tôn này "không chết". 
					 
					Phàm Dị dụ là dụ bề 
					trái của Tôn và Nhơn, nên phải dùng những vật "không chết". 
					 
					(trái với Tôn) 
					và "vô hình" (trái với Nhơn) để làm thí dụ._ Nay cái Dị dụ 
					này chỉ trái   
					với Nhơn được 
					phân nữa. Vì ngoại nhơn có thể hỏi lại rằng: vậy "hư không, 
					không chết"   
					vì vô hình vậy? 
					Hay "tượng gỗ không chết "vì hữu hình vậy? Bởi hữu hình 
					(tượng gỗ)   
					vô hình (hư 
					không) đều không chết, nên cái Nhơn này bị lỗi "bất định". 
					 
					6. Tương vi quyết định bất định: 
					 
					Chủ và khách lập 
					lượng trái nhau; song cả hai đều không có lỗi, và đều quyết 
					định thành lập được.   
					Nhưng không bên 
					nào phá dược bên nào.  
					 
					Tôn : Sóng thường 
					còn   
					Nhơn: Vì sóng tức là 
					nước   
					Khách lập Đồng dụ : 
					Như điện.   
					Tôn : Sóng là vô 
					thường   
					Chủ phá Nhơn : Vì 
					chuyển động dược   
					Đồng dụ : Như gió. 
					 
					Hai cái lượng này 
					rất mâu thuẩn nhau, song đều quyết định thành lập được. Bên 
					khách vẫn   
					công nhận "sóng 
					có chuyển động", bên chủ cũng nhận "sóng tức là nước". Nhưng 
					không bên   
					nào phá được bên 
					nào, nên Nhơn này bị lỗi "bất định". Đây cũng là vì thiếu 
					lời lẽ khôn khéo, để làm cho "người ta phục mình. Thuở xưa 
					có người nói: Ai lập trước thì hơn". 
					 
					Phải lập Tôn : Sóng 
					không thường còn   
					Nhơn : Vì nó là nước 
					bị gió động   
					như vầy Đồng dụ: 
					Cũng như gió.   
					6 lỗi "Bất định" đã 
					giải thích rồi, bây giờ sẽ nói đến 4 lỗi tương vi. 
					
					
					▲ Trở Lên  
					 | 
				 
				
					| 
					
					 III. BỐN 
					LỖI TƯƠNG VI 
					 
					1. Pháp tự tướng 
					tương vi._ Cái Nhơn trái (mâu thuẩn) với tự tướng (lời 
					nói trắng)   
					của danh từ sau 
					 
					Tôn: Gió thường còn 
					 
					Như lập Nhơn : Vì có 
					động vậy   
					Đồng dụ : Như hư 
					không   
					Dị dụ : Như sóng. 
					 
					Đã có động thì làm 
					sao lại thường còn; nên cái Nhơn "có động" này, rất trái với 
					tiếng   
					"thường còn" là 
					lời nói trắng về danh từ sau của Tôn. 
					 
					2. Pháp sai biệt 
					tương vi Nhơn._ Cái Nhơn trái (mâu thuẩn) với ý hứa (ẩn 
					ý) của danh từ sau   
					Tôn: Loài người 
					quyết định có tạo ra  
					 
					Như lập (ý hứa là 
					một vị thần).   
					Nhơn : Vì có trí 
					khôn và mắt, tai v.v...  
					 
					Đồng dụ : Như con do 
					cha mẹ sanh ra   
					Trong 
					cái Tôn này, về chữ "quyết định có người tạo ra" là do người 
					lập Tôn, ẩn ý của họ   
					muốn nói: Người 
					tạo ấy là một vị Thần. Và ẩn ý của họ cho vị Thần ấy có ba 
					đức tánh sau này:   
					1. Toàn trí toàn 
					năng, 2. Thường còn, 3. Độc tôn. 
					 
					Nhưng cái Nhơn 
					này nó lại trái ngược (mâu thuẩn) với ẩn ý của họ: 
					 
					1. Nếu vị thần ấy 
					tạo ra loài người có trí khôn và mắt tai v.v...như cha mẹ 
					sanh con; vậy cha mẹ "không toàn trí toàn năng", vì sanh ra 
					có những đứa con ngỗ nghịch với cha mẹ, thì vị thần ấy 
					cũng "không toàn trí toàn năng" vì tạo ra loài người mà có 
					những kẻ oán trách lại vị Thần ấy, và giữa loài người, không 
					biết bao nhiêu những điều bất bình đẳng. 
					 
					2. Cha mẹ sanh ra 
					con, đến khi già phải chết "không phải thường còn"; vậy vị 
					Thần ấy đã   
					sanh ra loài 
					người, thì vị thần ấy cũng phải chết, "không thường còn". 
					 
					3. Cha mẹ sanh ra 
					con, tất nhiên phải có ông, bà sanh lại cha mẹ, nên cha mẹ 
					không phải   
					"độc tôn". Vậy 
					thì vị Thần ấy đã tạo ra loài người, thì vị thần ấy cũng 
					phải có một vị thần   
					lớn hơn sanh ra, 
					nên vị thần ấy cũng không "độc tôn". Bởi thế nên cái Nhơn 
					này bị lỗi mâu thuẩn với ý hứa (ẩn ý) của danh từ sau là 
					"người tạo ra".   
					3. Hữu pháp tự 
					tưởng tương vi Nhơn._ cái Nhơn mâu thuẩn với lời nói 
					trắng (tự tướng)   
					về danh từ trước 
					của Tôn   
					Tôn : Phải có một 
					ông Vô hình, tạo ra Vũ trụ 
					 
					Như lập Nhơn :Vĩ Vũ 
					trụ có trật tự ấy   
					Đồng dụ: Như ông 
					Kiến trúc sư làm nhà.  
					 
					Cái Nhơn "Vì vũ trụ 
					có trật tự" này, rất trái ngược với danh từ trước của Tôn 
					là "Ông Vô hình". Đã Vô hình thì làm sao tạo ra Vũ trụ là 
					vật hữu hình và có trật tự được? Phải vật hữu hình mới tạo 
					ra vật hữu hình. Như ông kiến trúc sư, vì hữu hình mới tạo 
					ra cái nhà hữu hình được. 
					 
					4. Hữu pháp sai 
					biệt tương vi nhơn._ Cái Nhơn trái ngược với ý hứa (ẩn 
					ý) về danh từ   
					trước của Tôn. 
					 
					Tôn : Phải có một 
					đấng sanh ra vũ trụ   
					Như lập Nhơn : Vì vũ 
					trụ có thứ tự vậy.   
					Đồng dụ: Như ông thợ 
					làm nhà.   
					Người lập lượng này, 
					nếu nói trắng ra "Có một ông thần", thì sợ bên đối phương 
					không   
					công nhận, mà 
					phải bị lỗi "Sở biệt bất thành", nên họ chỉ nói một cách hồn 
					hàm là "Có một Đấng". Song ẩn ý của họ muốn nói "Đấng ấy là 
					một vị thần"; và họ cho vị Thần này có 3 đức tánh: 1. Thường 
					còn, 2. Cao cả, 3. Sanh vạn vật. 
					 
					Nhưng Đấng ấy đã 
					sanh ra được van vật, thì Đấng ấy tất nhiên cũng phải bị 
					người khác   
					lớn hơn sanh ra 
					và chết; không phải cao cả và thường còn. Cũng như ông thợ 
					làm nhà.   
					Vì cái Nhơn này, 
					trái ngược với ần ý của danh từ trước, nên bị lỗi "tương 
					vị".   
					Ngoại nhơn có 
					thể lập lượng bác lại rằng: 
					 
					Tôn: Đấng ấy phải bị 
					người khác sanh ra và phải chết. 
					 
					Như lập Nhơn : Vì 
					Đấng ấy sanh ra vũ trụ vậy. 
					 
					Đồng dụ: Như ông thợ 
					làm nhà.   
					14 lỗi về Tợ Nhơn, 
					chúng tôi đã giải thích rồi, sau đây sẽ nói 10 lỗi về Tợ dụ. 
					
					
					▲ Trở Lên  
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 
					PHỤ BÀI ÔN HỌC   
					(ÔN LẠI 14 
					LỖI VỀ TỢ NHƠN) 
					Tợ Dụ có 10 lỗi, 
					phân làm 2 phần:  
					 
					  
					  
					
					Quí vị nên xét kỹ 
					các lượng sau này, rồi chỉ ra: lỗi của Tôn, lỗi của Nhơn, và 
					nói rõ tại sao   
					Lượng thứ I 
					 
					Tôn: Nhơn loại 
					quyết định có người tạo   
					Nhơn : Vì có trí 
					khôn và đủ cả mắt, tai v.v... 
					 
					Đồng dụ : Như 
					con, phài có cha mẹ sanh ra. 
					 
					Lượng thứ II 
					 
					Tôn: Gió thường 
					còn   
					 Nhơn : Vì có 
					động vậy   
					Đồng dụ : Như hư 
					không   
					Dị dụ: Như sóng 
					 
					Lượng thứ III 
					 
					Tôn: Phải có một 
					Đấng sanh ra vũ trụ   
					Nhơn : Vì vũ trụ 
					có trật tự vậy   
					Đồng dụ : Như 
					ông Kiến trúc sư làm nhà  
					 
					Lượng thứ IV 
					 
					Tôn: Phải có một 
					ông vô hình tạo ra vũ trụ   
					Nhơn : Vì vũ trụ 
					có trật tự vậy   
					Đồng dụ : Như 
					ông thọ làm nhà.   
					*** 
					 
					C. DỤ
					 
					Phàm lấy một vật gì 
					mà bên đối phương đã biết và đã công nhận, để so sánh chúng 
					minh   
					với một vật khác 
					mà bên đối phương kia chưa biết, hoặc chưa công nhận thì gọi 
					là "Dụ".   
					Thí dụ khi lập cái 
					"Tôn thường còn", thì phải lấy tất cả những vật "thường 
					còn", làm Đồng dụ; trái lại, phải lấy tất cả những vật "vô 
					thường" làm Dị dụ.   
					I. TỢ ĐỔNG DỤ 
					CÓ 5:   
					1. Năng lập pháp 
					bất thành._ Phàm cái nhơn là để thành lập cái Tôn, nên 
					cái Nhơn là   
					"năng lập pháp" 
					còn cái Tôn là "Sở lập pháp". Cái Dụ này trái ngược Nhơn, 
					nên bị lỗi "bất thành"  
					 
					Như lập 
					 
					Tôn: Con ngựa 
					hay chạy   
					 Nhơn : Vì có 
					bốn vó   
					Đồng dụ : Như 
					con rắn hổ ngựa   
					Cái Dụ này hiệp với 
					Tôn (chạy hay), trái với Nhơn (thiếu chân) 
					 
					2. Sở lập pháp 
					bất thành._ Nhơn là Năng lập mà Tôn là Sở lập (bị lập). 
					Cái dụ này trái ngược với Tôn, nên cũng bị lỗi "bất thành". 
					 
					Như lập 
					 
					Tôn: Người ta 
					không bay được.   
					 Nhơn : Vì thiếu 
					hai cánh   
					Đồng dụ : Như 
					mây (không cánh, bay dược) 
					 
					Cái Dụ này hiệp với 
					Nhơn (thiếu cánh) và trái ngược với Tôn và Nhơn. Bởi lấy Dị 
					dụ làm   
					Đồng dụ, nên bị 
					lỗi "bất thành".   
					Như lập 
					 
					Tôn : Tiếng 
					thường còn   
					 Nhơn : Vì tai 
					nghe vậy   
					Đồng dụ : Như 
					bàn, ghế.   
					Bàn, ghế "vô thường" 
					nên trái với Tôn, và "tai không nghe được", nên trái với 
					Nhơn.   
					4. Vô hiệp._ 
					Cái Dụ này không có lời phối hiệp để kết thúc lại cho dễ 
					hiểu.   
					Như lập 
					 
					Tôn : Người ta 
					phải chết   
					 Nhơn : Vì có 
					sanh vậy   
					Đồng dụ : Như 
					chim v.v...   
					Đáng lẽ phải nói lời 
					phối hiệp để kết thúc lài như vầy: "Người ta có sanh (Nhơn) 
					phải có chết   
					(Tôn). Phàm vật 
					gì có sanh (Nhơn) phải có chết (Tôn), như chim v.v..."thời 
					người ta mới   
					dễ hiểu. Cái này 
					chỉ nói tắt rằng "như chim"; làm cho người ta không hiểu: 
					Như chim có   
					hai cánh, hay là 
					như chim có mỏ? Nên bị lỗi "vô hiệp". 
					 
					5. Đảo hiệp._ 
					Lời thí dụ, kết thúc phối hiệp lại trái ngược. Phàm kết thúc 
					phối hiệp thì phải   
					nói cái nhơn 
					trước rồi nói cái Tôn sau. 
					 
					Như lập 
					 
					Tôn : Người ta 
					phải chết   
					Nhơn : Vì có 
					sanh vậy   
					Đồng dụ : Phàm 
					vật gì có sanh (Nhơn) thì phải có chết (Tôn)như chim v.v 
					...   
					Nay kết thúc lại 
					trái ngược, nghĩa là: Phối hiệp Tôn trước rồi nhơn sau. 
					 
					Như lập 
					 
					Tôn : Người ta 
					phải chết   
					Nhơn : Vì có 
					sanh vậy   
					Đồng dụ : Phàm 
					có chết (Tôn) phải có sanh (Nhơn) như chim v.v ... 
					 
					Bởi vì nói "có sanh 
					phải có chết" thì ai cũng thấy; còn nói "có chết phải có 
					sanh", người ta   
					khó nhận. 
					 
					II. TỢ DỊ DỤ 
					CÓ 5:   
					Phàm Dị dụ là dụ bề 
					trái của Tôn và Nhơn, nên phải hoàn toàn trái ngược với Tôn 
					và Nhơn.   
					1. Sở lập pháp 
					bất khiển._ Cái Dị dụ này không trái với Tôn 
					 
					Như lập 
					 
					Tôn : Tiếng nói 
					thường còn   
					Nhơn : Vì vô 
					hình vậy   
					Đồng dụ : Như hư 
					không   
					Dị dụ: như vi 
					trần (vi trần hữu hình và thường còn) vi trần có hình chất 
					mà lại thường còn. Nếu lấy vi trần làm Dị dụ, thì chỉ trái 
					với Nhơn (vô hình) mà không trái với Tôn (thường) nên bị 
					lỗi.   
					2. Năng lập pháp 
					bất khiển._ cái Dị dụ này không trái với Nhơn 
					 
					Như lập 
					 
					Tôn : Tiếng nói 
					thường còn   
					Nhơn : Vì vô 
					hình vậy   
					Đồng dụ : Như hư 
					không   
					Dị dụ: như điện 
					chớp (vô hình, không thường). 
					 
					Lấy điện chớp làm Dị 
					dụ, thì chỉ trái với "Tôn thường còn", mà không trái với 
					 
					"Nhơn vô hình", 
					nên bị lỗi.   
					3. Câu bất khiển._ 
					cái Dị dụ không trái với Tôn và Nhơn. Lỗi này vì lấy Đồng dụ 
					làm Dị dụ.   
					Như lập 
					 
					Tôn : Người phải 
					chết   
					Nhơn: Vì có sanh 
					vậy   
					Đồng dụ : Như cỏ 
					cây   
					Dị dụ: như loài 
					vật   
					Phàm Dị dụ là phải 
					trái với Tôn và Nhơn. Nay dùng cái Dị dụ này không trái với 
					Tôn và   
					Nhơn nên bị 
					lỗi.   
					4. Bất ly._ 
					Dị dụ không có lời kết thúc để ly biệt Tôn và Nhơn 
					 
					Như lập 
					 
					Tôn : Tiếng nói 
					thường còn   
					Nhơn : Vì không 
					hình chất   
					Đồng dụ : Những 
					gì vô hình đều thường còn, như hư không 
					 
					Dị dụ: như bàn 
					ghế   
					Về Dị dụ, đáng lẽ 
					cũng phải có lời phối hiệp kết thúc để ly biệt Tôn và Nhơn 
					như vậy:   
					"Phàm những gì vô 
					thường, thì đều có hình chất, như bàn ghế". Nay chỉ nói tắt 
					rằng:   
					"Như bàn ghế" 
					Làm cho người ta không hiểu: Như bàn ghế có bốn chân? Hay 
					như bàn ghế có mặt?   
					Phải lưu ý: Về Đồng 
					dụ, nếu thiếu lời phối hiệp để kết thúc, thì gọi là "Vô 
					hiệp"; còn bên Dị dụ, nếu thiếu lời phối hiệp để kết thúc, 
					thì gọi là "bất ly".  
					 
					5. Đảo ly._ 
					Lời kết thúc của Dị dụ, để ly biệt Tôn và Nhơn, lại phối 
					hiệp mốt cách trái ngược. 
					 
					Như lập 
					 
					Tôn : Tiếng 
					thường còn   
					Nhơn : Vì vô 
					chất ngại   
					Đồng dụ : Như hư 
					không   
					Dị dụ: những gì có 
					chất ngại (Nhơn) đều vô thường (tôn) như bình, bàn v.v... 
					 
					Phàm lời phối hiệp 
					để kết thúc của Dị dụ là phải nói Tôn trước rồi Nhơn sau, 
					mới thuận.   
					Như nói: "Những 
					gì vô thường (Tôn) thì đều có chất ngại (Nhơn) như bình, bàn 
					v.v...   
					"Nay phối hiệp 
					ngược lại Nhơn trước Tôn sau, nên bị lỗi "Đảo ly". 
					 
					Lưu ý:_ 
					về Đồng dụ, khi kết thúc, phải nói Nhơn trước rồi nói Tôn 
					sau. Nếu trái lại thì bị lỗi 
					 
					"Đảo hiệp". Về 
					Dị dụ, khi kết thúc, phải nói Tôn trước rồi nói Nhơn sau. 
					Nếu trái lại thì bị lỗi   
					"Đảo ly". 10 lỗi 
					về Tợ Dụ đã giải thích rồi. 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 PHỤ BÀI 
					HỌC ÔN 
					  
					Quý vị nên xét kỹ 
					các lượng sau này: Tôn thuộc về lỗi gì? Nhơn thuộc về lỗi 
					gì? Và Dụ thuộc về  lỗi gì? 
					 
					Lượng thứ I 
					 
					Tôn : Người ta phài 
					chết   
					Nhơn : Vì có sanh 
					vậy   
					Đồng dụ : Phàm có 
					chết phải có sanh, như chim 
					 
					Dị dụ: Phàm không 
					sanh thì không chết, như hư không 
					 
					Lượng thứ II 
					 
					Tôn : Tiếng nói 
					thường còn   
					Nhơn : Vì vô hình 
					vậy   
					Đồng dụ : Như hư 
					không   
					Dị dụ: như vi trần 
					 
					Lượng thứ III 
					 
					Tôn : Tiếng nói 
					thường còn   
					Nhơn : Vì tai nghe 
					vậy   
					Đồng dụ : Như hư 
					không   
					Dị dụ: như điện 
					chớp   
					Lượng thứ IV 
					 
					Tôn : Người ta phải 
					chết   
					Nhơn : Vì có sanh 
					vậy   
					Đồng dụ : Như cỏ 
					cây   
					Dị dụ: như loài vật. 
					Hoặc lập nhiều lượng khác 
					 
					LỢI ÍCH HỌC NHƠN 
					MINH LUẬN  
					Trong các Kinh điển 
					Đại thừa, phần nhiếu Phật dạy các đệ tử phải biết Ngũ minh  
					(1. Nội minh, 2. Nhơn minh, v.v...)  thời việc hoá đạo 
					mới được nhiều lợi ích. Trong Ngũ minh, Nhơn minh là một. 
					 
					Nhờ biết Nhơn minh 
					nên lời nói ít lỗi, luận lý vững vàng, có thể thuyết phục 
					được các tà thuyết  đem về chánh đạo. 
					 
					Nhờ biết Nhơn minh, 
					mới học nổi được các bộ luận trong Phật giáo. Vì trong các 
					bộ luận ấy  phần nhiều dùng nhơn minh  để lập 
					Chánh lý và phá các tà thuyết. 
					 
					Tóm lại, Nhơn minh 
					là một môn Luận lý học, vừa lợi ích cho mình và lợi ích cho 
					người.   
					Sa môn THÍCH THIỆN 
					HOA   
					Sửa lại và viết 
					xong mùa thu năm Mậu tuất (1958) 
					 
					Chùa PHẬT QUANG 
					(Trà Ôn) 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 
					 | 
				 
			 
			 | 
			 
			
			 |