| mmmm | 
			
			
				
					| 
					
					 BÀI THỨ 
					NHỨT  
					
					CHƯƠNG 
					THỨ NHỨT   
					PHẦN NHƠN DUYÊN 
					  
					Nguyên nhơn tạo luận.   
					Giải thích tên Luận Đại thừa Khởi Tín.   
					Nội dung của Luận này.   
					Ngài Mã minh Bồ Tát tạo luận:   
					1. Lý lịch và tên   
					2. Nguyên nhơn ngộ đạo.   
					Ngài Chơn Đế dịch luận.   
					Lời nguyện cầu   
					NGUYÊN NHÂN TẠO LUẬN NÀY   
					Trong khoảng 600 năm, sau khi Phật nhập diệt, tại Ấn độ, 
					phần thì phái Tiểu thừa nổi lên tranh chấp, không tin lý Đại 
					thừa, phần thì ngoại đạo lập các tà thuyết phá hoại chánh 
					pháp; tình trạng Phật giáo rất đen tối.   
					Ngài Mã Minh Bồ Tát, trông thấy tình trạng ấy rất đau 
					lòng, nên tạo ra luận này, để xô tà đỡ chánh: trừ những nghi 
					ngờ của Tiểu thừa, phá các tà thuyết của ngoại đạo, làm cho 
					người phát khởi lòng tin Đại thừa.   
					GIẢI THÍCH TÊN LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN 
					 
					_ Luận. Luận là luận bàn lẽ tà chánh, quyết đoán điều 
					nghi ngờ và lựa chọn những việc phải quấy.   
					_Đại thừa. Chữ "Đại" là lớn, chữ 
					"Thừa" là cởi. Đọc chữ "Thặng" nghĩa là cái xe. Theo đây 
					phải đọc là "Thặng" mới đúng, song vì theo thói quen nên đọc 
					là "Thừa".   
					Đại thừa có 5 nghĩa:   
					1. Vì đối với Tiểu nên gọi là Đại.   
					2. Quả Phật rộng lớn, thừa này sẽ đi đến quả Phật, nên 
					gọi là Đại Thừa.   
					3. Chư Phật là bực Đại nhơn, song chẳng rời thừa này, nên 
					gọi là Đại Thừa.   
					4. Các Bồ Tát là bực Đại sĩ, đều y theo thừa này mà tu 
					tập, nên gọi là Đại Thừa.   
					5. Vì thừa này rất rộng lớn, cứu độ chúng sanh đông nhiều 
					nên gọi là Đại Thừa.   
					LUẬN NÀY LẤY GÌ LÀM ĐẠI THỪA?   
					Luận này lấy tâm chúng sanh làm Đại thừa. Bởi tâm chúng 
					sanh: Thể nó lớn, Tướng nó to, Dụng nó đại, bao trùm tất cả 
					các pháp thế gian, và xuất thế gian, nên gọi là Đại Thừa. 
					 
					Trọng tâm của luận này là nói: Thể, Tướng và Dụng của tâm 
					chúng sanh. Vì tâm này là "Tổng tướng" (Tướng chung) của tất 
					cả thánh phàm, mê ngộ, nhơn quả ...cho nên trong luận này 
					cũng gọi là "Đại Tổng tướng pháp môn thể".   
					Tâm này có nghĩa "vận tải": Các Đức Phật đều nương tâm 
					này mà chứng Bồ Đề, Niết bàn. Bồ Tát nương tâm này mà rộng 
					tu muôn hạnh: trên cầu quả Phật, dưới hoá độ chúng sanh. 
					Chúng sanh cũng do tâm này mà trôi lặn trong dòng sanh tử 
					luân hồi. Vì thế nên gọi tâm này là Đại thừa.   
					Do ngộ lý này, nên cổ nhơn có làm bài kệ:   
					Dịch âm:   
					Tam điểm như tinh tượng   
					Hoành câu tợ nguyệt tà   
					Phi mao tùng thử đắc   
					Tổ Phật giả do tha.   
					Dịch nghĩa   
					Ba chấm như ngôi sao   
					Uốn cong tợ trăng tà   
					Chúng sanh từ đâu có   
					Chư Phật cũng do đây.   
					_Khởi tín. Luận này làm cho người phát khởi lòng tin Đại 
					thừa, nên gọi là "Đại thừa khởi tín". Đáng lẽ phải nói: 
					"Khởi Đại thừa tín"; nghĩa là khởi lòng tin Đại thừa; song 
					vì chúng sanh sau khi thấu rõ Đại thừa rồi, mới phát khởi 
					lòng khởi tin, nên gọi "Đại thừa khởi tín".   
					NỘI DUNG CỦA LUẬN NÀY   
					Ngài Mã Minh Bồ Tát căn cứ theo kinh 
					Lăng Già, kinh Tư Ích và các kinh Đại thừa mà tạo ra luận 
					này. Nội dung của luận này là Phát minh lý Duy tâm hay Duy 
					thức đem về nhứt tâm, vạch rõ nguồn gốc mê ngộ, chỉ bày 
					đường tắt tu hành, tóm các nghĩa lý sâu rộng của Phật nói, 
					làm cho người phát khởi lòng tin Đại thừa.   
					NGÀI MÃ MINH BỔ TÁT   
					LÝ LỊCH VÀ TÊN  
					 
					Ngài Mã Minh Bồ Tát, người xứ Ba la 
					nại, phía tây Thiên trúc (Ấn Độ). Ngài là Tổ thứ 12 ở Thiên 
					trúc, nối ngôi của Tổ thứ 11 là Phú Na Dạ Xa Tôn giả. 
					 
					Vì có 3 nguyên nhơn, nên gọi Ngài là Mã Minh: 
					 
					1. Khi Ngài vừa sanh ra, thì các con 
					ngựa trong xứ ấy đều buồn mà kêu to lên.   
					2. Ngài đờn rất hay, mỗi khi Ngài 
					đờn thì những con ngựa được nghe tiếng đờn đều buồn mà kêu 
					lên.   
					3. Khi thuyết pháp, các con ngựa 
					nghe đến tiếng Ngài, đều rơi nước mắt kêu to lên và không 
					ăn. Mặt dù người ta thử bỏ đói chúng vài ba ngày, rồi đến 
					lúc Ngài thuyết pháp mới bỏ cỏ cho ăn, nhưng chúng cũng 
					không ăn. Bởi thế nên gọi là Mã Minh (ngựa kêu). 
					 
					NGUYÊN NHƠN NGÀI NGỘ ĐẠO 
					 
					Khi gặp Tổ Phú Na Dạ Xa Tôn giả,    
					Ngài hỏi: Làm sao biết Phật?   
					Tổ đáp: Không biết là biết Phật.   
					Ngài hỏi: Không biết làm sao biết là Phật?   
					Tổ đáp: Không biết làm sao biết không phải là Phật. 
					 
					Ngài nói: Nghĩa của Tổ là nghĩa cưa.   
					Tổ nói: Nghĩa của ông là nghĩa cây.   
					Tổ hỏi tiếp: Thế nào, ông nói nghĩa của tôi là nghĩa cưa? 
					 
					Ngài đáp: Vì Tổ nói qua nói lại như cưa vậy.   
					Ngài hỏi tiếp: Thế nào Tổ nói nghĩa của tôi là nghĩa cây. 
					 
					Tổ đáp: Vì cây bị cưa vậy. Thế nghĩa của ông bị tôi phá 
					rồi. Ngài nghe rồi liền ngộ đạo.   
					Trong kinh Ma ha ma da, Phật có huyền ký (ghi trước) 
					rằng: "Sau khi Như Lai diệt độ 600 năm, các ngoại đạo tà 
					thuyết thạnh hành, huỷ diệt Phật pháp. Lúc bấy giờ có vị Bồ 
					Tát ra đời tên là Mã Minh, nói pháp rất hay, phá trừ tà 
					thuyết, hàng phục ngoại đạo".   
					Bởi thế nên biết Ngài Mã Minh, cũng là một vị Bồ Tát tái 
					lai. Chúng ta nên học luận này, phải lấy làm hy hữu, gia tâm 
					nghiên cứu, chớ nên xem thường.   
					NGÀI CHƠN ĐẾ 
					Luận này có hai nhà dịch: Ngài Chơn Đế và Ngài Thật Xoa 
					Nan Đà. Bản dịch này là của Ngài Chơn Đế. Nguyên tiếng Phạn 
					gọi là "Ba La Mạc Đà"; Tàu dịch là "Chơn đế". Ngài ở nước Ưu 
					thiền ni, phía Tây Ấn Độ.   
					Ngài qua Tàu nhằm đời vua Nguyên Đế nhà Lương, niên hiệu 
					Thừa Thánh, năm thứ ba (Mậu thìn). Ngài ở chùa Kiến Hưng, 
					đất Hoàng Châu, dịch bộ Luận này.     
					LỜI CẦU NGUYỆN 
					CHÁNH VĂN  
					Kính lạy Phật, Pháp và Tăng, vì muốn cho chúng sanh bỏ 
					chấp tà, trừ các nghi ngờ, khởi lòng tin Đại thừa, để cho 
					giống Phật chẳng mất, nên con tạo ra luận Đại thừa Khởi tín 
					này.   
					LƯỢC GIẢI  
					Các vị Bồ Tát khi làm việc gì, trước nhứt là để tâm qui 
					kính Tam bảo; cũng như con hướng về cha, trò hướng về thầy, 
					dân chúng hướng về vị lãnh tụ của nước; và nguyện cầu Tam 
					bảo gia hộ cho việc làm của mình hợp với chánh pháp và kết 
					quả viên mãn.   
					Đoạn này là Ngài Mã Minh Bồ Tát trước khi tạo luận, nói 
					bài kệ quy kính Tam bảo và nguyện cầu Tam bảo gia hộ. 
					 
					    
					
					
					
					CHƯƠNG THỨ NHỨT  
					 
					PHẦN NHƠN DUYÊN  
					CHÁNH VĂN  
					Vì tám nhân duyên sau đây nên tạo ra luận này: 
					 
					1. Vì muốn cho chúng sanh xa lìa các 
					khổ, đặng vui rốt ráo nên tạo luận này, không phải vì danh 
					lợi ở thế gian, hay cầu người cung kính.   
					2. Vì muốn cho chúng sanh hiểu biết chơn chánh, khỏi sự 
					lầm lạc, nên tạo luận này để giải thích nghĩa căn bản của 
					Như Lai.   
					3. Muốn cho những chúng sanh căn lành đã thuần thục (mãn 
					Thập tín), lòng tin chẳng thối lui và có thể lãnh thọ pháp 
					Đại thừa, nên tạo luận này.   
					4. Muốn cho những chúng sanh căn 
					lành mỏng ít (chưa mãn Thập tín) tu tập tín tâm. 
					 
					5. Vì bảo hộ đạo tâm của những chúng 
					sanh ác nghiệp sâu dày, nên chỉ bày phương tiện, để chúng 
					tiêu trừ nghiệp chướng xa lìa các phiền não si, mạn ...và ra 
					khỏi lưới tà.   
					6. Vì muốn đối trị tâm niệm sai lầm của phàm phu và Nhị 
					thừa, nên chỉ bày cho họ tu tập Chỉ Quán.   
					7. Vì những chúng sanh căn tánh kém 
					cỏi, nên chỉ bày phương tiện chuyên tâm niệm Phật, sanh về 
					cõi Phật, để cho tín tâm quyết định không thối chuyển. 
					 
					8. Chỉ bày lợi ích để khuyên người tu hành.   
					Tóm lại, vì tám nhân duyên trên, nên tạo ra luận này. 
					 
					LƯỢC GIẢI  
					Luận này chia ra làm 5 phần, đây là phần thứ nhứt, Ngài 
					Mã Minh Bồ Tát vì tám nhơn duyên sau đây nên tạo ra luận 
					này:   
					Nhơn duyên thứ nhứt: Chư Phật và Bồ Tát khi làm việc gì, 
					đều do lòng từ bi, muốn cho chúng sanh khỏi khổ được vui. 
					Tất cả chúng sanh vì mê bản tâm của mình mà thọ các khổ sanh 
					tử, không được vui Niết bàn. Trong luận này, Ngài Mã Minh Bồ 
					Tát chỉ rõ bản tâm, để cho chúng sanh tự tin mình có bản tâm 
					thanh tịnh (pháp Đại thừa) là cái khả năng để thành Phật. 
					Khi chúng sanh đã ngộ được bản tâm của mình rồi, thì sẽ hết 
					khổ sanh tử, được vui Niết bàn. Vì thế nên tạo ra luận này. 
					 
					Nhơn duyên thứ hai: Các đức Như Lai 
					đều y nơi "nhứt tâm" tu hành mà được thành đạo chứng quả. 
					Luận này nói về "nhứt tâm" là nghĩa căn bản của Như Lai, để 
					cho chúng sanh hiểu biết đường lối tu hành một cách chơn 
					chánh, khỏi bị lạc vào tà kiến (chấp tà).   
					Nhơn duyên thứ ba: Luận chủ muốn cho hàng Thập tín Bồ Tát 
					đối với pháp Đại thừa, lòng tin chắc chắn, không bị thối 
					lui, để tiến đến bậc Thập trụ.   
					Nhơn duyên thứ tư: Vì những vị Bồ Tát chưa viên mãn Thập 
					tín, muốn cho họ tu tập tín tâm được viên mãn.  
					 
					Nhơn duyên thứ năm: Vì những chúng 
					sanh nghiệp chướng nặng nề, bị lưới tà làm chướng ngại, nên 
					tạo ra luận này để chỉ bày phương tiện tu hành, như tụng 
					kinh, sám hối ...hầu diệt trừ các nghiệp chướng.   
					Nhơn duyên thứ sáu: Vì đối trị tâm lầm lỗi của phàm phu 
					và Nhị thừa, nên Luận chủ tạo luận này, dạy tu "Chỉ" để trừ 
					bịnh "Vọng tưởng tán loạn" của phàm phu; và dạy tu "Quán" để 
					đối trị bịnh "Trầm không thú tịch" (tham luyến cảnh thiên 
					không Niết bàn) của Nhị thừa.   
					(Quán nhơn duyên sanh, thấy các pháp 
					chẳng không: Thánh, Phàm đủ cả. Bởi có phàm phu nên phải tu 
					đức đại bi để cứu đời; vì có Thánh, nên phải phát trí huệ, 
					để cầu quả Phật).   
					Nhơn duyên thứ bảy: Vì những người lo sợ đời này tu hành 
					nếu không chứng quả, thì trở lại đời sau bị nghịch duyên làm 
					thối chuyển đạo tâm, hoặc không nhớ lại kiếp trước để tu 
					hành, nên tạo luận này dạy phương tiện niệm Phật, để họ cầu 
					sanh về cõi Phật, thường được nghe Phật thuyết pháp và Bồ 
					Tát khuyên tu, làm cho hành giả tín tâm chẳng thối chuyển. 
					 
					Nhơn duyên thứ tám: Vì những chúng sanh giải đãi, nên 
					Luận chủ nói sự lợi ích tu hành, để khuyên người tiến tu. 
					 
					CHÁNH VĂN  
					Hỏi: _ Pháp Đại thừa, trong các kinh đã nói nhiều, 
					cần gì phải lập trở lại?   
					Đáp: _ Khi Phật còn trụ thế, vì ba nghiệp của Ngài 
					đều thù thắng, nên một tiếng của Phật nói ra (nhứt âm diễn 
					xướng) tuỳ theo căn cơ của mỗi loài đều được hiểu cả, không 
					cần phải tạo luận. Song sau khi Phật diệt độ, các chúng sanh 
					trình độ không đồng đều, nhơn duyên lãnh thọ giáo pháp cũng 
					như sự lãnh hội của mỗi người có khác nhau: có chúng sanh 
					chỉ tự lực học hỏi rất nhiều kinh điển mới hiểu ngộ; có 
					chúng sanh cũng dùng tự lực học ít mà hiểu ngộ nhiều; có 
					chúng sanh không thể tự lực mà phải nhờ xem các bộ đại luận, 
					mới hiểu ngộ; có chúng sanh vì thấy các bộ đại luận rất 
					phiền phức, nên muốn tóm lại văn ít mà thâu nhiều nghĩa. Vì 
					thế nên Luận chủ tạo ra luận này, để tóm tắt giáo pháp quảng 
					đại thậm thâm và nghĩa lý vô biên của Đức Như Lai.   
					LƯỢC GIẢI  
					Đoạn này, Luận chủ lập lời vấn đáp, để giải đáp nghi vấn 
					của độc giả.   
					Đại ý lời hỏi: Pháp Đại thừa, trong các kinh luận đã nói 
					nhiều, nay cần gì phải tạo luận nói lập trở lại?   
					Đại ý lời đáp: Khi Phật còn tại thế do phước huệ song 
					toàn, ba nghiệp (thân, khẩu, ý) thù thắng; và trình độ của 
					chúng sanh thụ giáo cũng được ưu hạng, nên một lời của Phật 
					nói ra (viên âm), tất cả các loài tuỳ theo trình độ của 
					mình, đều hiểu được cả. Bởi thế nên không cần phải tạo luận. 
					Song sau khi Phật nhập diệt, người thay thế Phật truyền giáo 
					không được như Ngài, phần thì chúng sanh trình độ không 
					đồng, nhơn duyên ngộ đạo của mỗi người có khác: Có người nhờ 
					xem kinh mà ngộ đạo, có người nhờ xem luận mà ngộ đạo, có 
					người ưa nghiên cứu những bộ đại luận, có người chỉ muốn học 
					những quyển luận, văn ít mà bao hàm rất nhiều ý nghĩa. Vì 
					muốn tóm tắt các nghĩa lý sâu rộng vô biên của Phật, nên 
					Ngài Mã Minh Bồ Tát tạo ra luận này.   
					    
					    
					
					
					
					
					CHƯƠNG THỨ 
					HAI   
					PHẦN ĐỊNH DANH NGHĨA  
					 
					CHÁNH VĂN  
					Chương này có hai phần:   
					A. PHÁP ĐẠI THỪA (Thể Đại thừa) tức là tâm chúng sanh. 
					Tâm này tóm thâu hết thảy các pháp thế gian, xuất thế gian 
					và nói lên được nghĩa Đại thừa.   
					Tại sao vậy? _ Vì tâm này có hai tướng:   
					1. Tướng Chơn như tức là cái Thể của Đại thừa.   
					2. Tướng nhơn duyên sanh diệt tức là Thể, Tướng, Dụng của 
					Đại thừa.   
					B. NGHĨA ĐẠI THỪA: "Đại" là lớn, lớn cà 3 phương diện: 
					 
					1. Thể lớn: Chơn như bình đẳng, bất tăng bất giảm. Bản 
					thể của tất cả pháp.   
					2. Tướng lớn: Như Lai tạng chứa đầy vô lượng tánh công 
					đức.   
					3. Dụng lớn: Vì nó sanh tất cả nhơn quả lành của thế gian 
					và xuất thế gian.   
					"Thừa" là chiếc xe, tất cả chư Phật đều đi xe này (pháp 
					Đại thừa); tất cả các vị Bồ Tát cũng đều đi xe này mà đến 
					chỗ Phật.   
					LƯỢC GIẢI  
					Đoạn này nói về phần lập nghĩa, tức là xác định cái danh 
					nghĩa Đại thừa. Phần lập nghĩa này chia làm hai: Pháp Đại 
					thừa và Nghiã Đại thừa.   
					I. Pháp đại thừa: là tâm chúng sanh.   
					Tâm này có hai tướng:   
					1. Tướng Chơn như tức là chỉ riêng về phần thể tánh chơn 
					tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước.   
					2. Tướng nhơn duyên sanh diệt tức là chỉ chung cho Thể, 
					Tướng và Dụng của chơn vọng hoà hợp; dụ như tánh "trong 
					sạch" và "tướng nhơ đục" lẫn lộn của nước.   
					II. Nghĩa đại thừa: Đại thừa nghĩa là gì?  
					 
					"Đại" là lớn; "Thừa" (thặng) là 
					chiếc xe: chiếc xe lớn.   
					Tâm chúng sanh, Thể, Tướng và Dụng 
					đền lớn. Thể thì bao trùm tất cả pháp, Tướng thì chứa đựng 
					hằng sa công đức, còn Dụng thì xuất sanh tất cả pháp thế 
					gian và xuất thế gian.   
					Khế kinh chép: "Vô bất tùng thử pháp 
					giới lưu, mạc bất hoàn qui thử pháp giới, (không có một pháp 
					nào chẳng từ tâm này mà lưu xuất, và cũng không có một pháp 
					nào chẳng trở về tâm này).   
					Tâm này bao trùm tất cả các pháp thế gian và xuất thế 
					gian. Các Đức Phật đều nương tâm này mà được thành đạo. Các 
					vị Bồ tát cũng nương tâm này để đến chỗ Phật. Chúng sanh 
					cũng do tâm này mà luân hồi trong 6 đường. Tâm này cũng như 
					chiếc xe lớn chở tất cả người và vật. Bởi thế nên gọi tâm 
					này là pháp Đại thừa.   
					Tại sao không nói: "Tâm Phật" là pháp Đại thừa mà chỉ nói 
					"Tâm chúng sanh", là pháp đại thừa?_ Vì có hai lý: 
					 
					1. Nếu nói "Tâm Phật" thì chỉ tóm 
					thâu được pháp thanh tịnh vô lậu mà thôi; còn nói "Tâm chúng 
					sanh", lại tóm thâu được cả pháp hữu lậu, vô lậu, thế gian 
					và xuất thế gian.   
					2. Nói Tâm chúng sanh là đứng về 
					phần "nhơn" mà nói; vì chưa phải nhiễm hay tịnh, nên mới có 
					thể tuỳ nhiễm duyên khởi ra nhiễm pháp, tuỳ tịnh duyên khởi 
					ra tịnh pháp.   
					GIẢI DANH TỪ  
					Tướng chơn như: Chữ "Chơn" là chơn thật không hư dối; chữ 
					"Như" là bình đẳng như như, không sanh diệt, nghĩa là tướng 
					chơn thật bình đẳng như như không sanh diệt; tức là "Thật 
					tướng" hay "Chơn tâm" hay "Viên giác" đây là cái "Thể của 
					Đại thừa". Đoạn này gọi "Tướng chơn như" tức là ở đoạn văn 
					sau gọi " Môn chơn như".   
					Tướng nhơn duyên sanh diệt: Vì nhơn duyên sanh diệt, nên 
					đủ các tướng: nhiễm, tịnh, thánh, phàm v.v...Đoạn này gọi 
					"Tướng nhơn duyên sanh diệt" tức là ở đoạn văn sau gọi "Môn 
					sanh diệt".   
					Như Lai tạng, có 3 nghĩa:   
					1. Tánh Như Lai (tánh Phật) bị các phiền não phú tàng 
					(che đậy), tức là chỉ cho chơn như còn bị triền phược; như 
					vàng còn ở trong khoáng.   
					2. Tánh Như Lai bao trùm tất cả pháp 
					(nghĩa năng tàng)   
					3. Tánh Như Lai là chỗ xuất sanh ra vô lương công đức 
					(nghĩa sở tàng).   
					Tánh công đức: Công đức sẳn có trong Như Lai tàng. Công 
					đức này không phải do tu tập mà được; song phải nhờ sự tu 
					tập làm trợ duyên nó mới hiện. Chúng sanh vì thiếu sự tu tập 
					làm trợ duyên, nên tánh công đức này không phát hiện. 
					 
					Nhơn quả lành_ Tại sao luận này chỉ 
					nói "nhơn quả lành" mà không nói đến "nhơn quả ác"? 
					 
					_ Vì có ba nghĩa:   
					1. Nhơn quả ác là thứ nhiễm ô hư 
					vọng; vì tâm này chỉ bao trùm vô lượng hằng sa công đức, nên 
					không hiệp với thứ nhiễm ô hư vọng. Dụ như nước có cả chất 
					trong và đục; song "chất đục" không hợp với tánh nước, mà 
					"chất trong" mới hiệp với nước; vì khi lóng bỏ bùn rối thì 
					chỉ còn chất nứơc trong. Cũng thế, pháp nhiễm ô không hiệp 
					với tâm này, mà duy có nhơn quả lành mới hiệp với tâm này. 
					 
					2.Ngài Mã Minh chỉ nói về "Nhơn quả lành", là vì để chúng 
					sanh thấy tâm mình sanh ra các nhơn quả lành, nên sanh tâm 
					hâm mộ sự tu hành, mong cầu quả Phật.   
					3. Ngài Mã Minh Bồ Tát đã lên Thánh vị, nên trong A lại 
					da thức của Ngài chỉ toàn nhơn quả lành. Vì Ngài chỉ thấy 
					thuần thiện, nên Ngài chỉ nói "nhơn quả lành" mà không nói 
					đến "nhơn quả ác".   
					Nhơn quả lành thế gian: Nhơn quả thuộc về hữu lậu thiện, 
					còn quanh quẩn trong ba cõi thế gian là Dục giới, Sắc giới 
					và Vô sắc giới.   
					
					Nh ơn 
					quả lành xuất thế gian: Nhơn quả thuộc về vô lậu thanh tịnh, 
					ra ngoài tam giới.
					
					
					▲ Trở Lên 
					 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 BÀI THỨ 
					HAI 
					  
					1. Nói về Tâm 
					Chơn như, có 2 nghĩa:   
					Thật không (như thật không)   
					Thật có (như thật bất không)  
					
					  
					 
					A. NÓI RÕ NGHĨA 
					CHÁNH 
					 
					CHÁNH VĂN
					 
					Cái tâm này (chúng 
					sanh tâm) có hai phần: I. Tâm chơn như, II. Tâm sanh diệt. 
					Hai tâm này không rời nhau và đều bao trùm tất cả pháp. 
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Chương này giải 
					thích tâm chúng sanh là pháp Đại thừa. Pháp Đại thừa có hai 
					phần: Chơn như và Sanh diệt. Chơn như là "Thể" rộng lớn của 
					tâm; Sanh diệt là "Tướng" và "Dụng" rộng lớn của tâm. Phải 
					phân chia làm hai phương diện như vậy, mới rõ được Thể, 
					Tướng và Dụng của tâm.  
					 
					Nếu đứng về "Thể 
					chơn như", thì suy nghĩ không trúng, luận bàn chẳng nhầm, 
					lìa các văn tự, ly tất cả tướng; như thế làm sao có các pháp 
					sai biệt được. Bởi thế nên phải nói đến Tướng và Dụng là 
					"môn sanh diệt" mới rõ được hành tướng sai biệt của "Tâm 
					chúng sinh".   
					Chơn như là "Thể", 
					còn Sanh diệt là "Tướng" và "Dụng". Tướng và Dụng không rời 
					Thể, Thể không rời Tướng và Dụng; cũng như nước không rời 
					sóng, sóng không rời nước. Bởi Thể, Tướng và Dụng không rời 
					nhau, nên mỗi một phần đều bao hàm được tất cả pháp. 
					 
					Vì Thể và Dụng không 
					rời nhau, nên đứng về phần Chơn như mà luận, thì tuy "thanh 
					tịnh bất biến", mà vẫn tuỳ duyên sanh diệt; còn đứng về phần 
					Sanh diệt mà xem, thì tuy "tuỳ duyên sai biệt" mà vẫn nhưnhư 
					bất biến.    
					***
					 
					I. Tâm chơn như 
					 
					CHÁNH VĂN
					 
					Tâm Chơn như là cái 
					tâm tánh bất sanh bất diệt. Thể và Tướng nó to lớn bao trùm 
					tất cả các pháp (nhứt pháp giới đại tổng tướng pháp môn 
					thể).   
					Sở dĩ các pháp sai 
					khác là do vọng niệm; nếu rời vọng niệm thì không còn các 
					cảnh tướng sai khác. Bởi thế nên tất cả pháp từ hồi nào đến 
					giờ, không thể dùng danh tự để kêu gọi, không thể dùng lời 
					nói luận bàn, không thể dùng tâm suy nghĩ được, không có 
					biến đổi và cũng không phá hoại vì nó rốt ráo bình đẳng, chỉ 
					có một "Tâm Chơn như" mà thôi.
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Tâm Chơn như này, 
					tánh không sanh diệt và bao trùm tất cả nhơn quả, thánh 
					phàm, y báo chánh báo ...Bởi thế nên nguyên văn chữ Hán gọi 
					là "nhứt pháp giới đại tổng tướng pháp môn thể". 
					 
					Vì vọng niệm nên 
					thấy có tất cả các pháp sai khác; cũng như vì mắt nhặm nên 
					thấy có hoa đốm giữa hư không. Nếu như lìa vọng nirệm rồi, 
					thì không có tất cả cảnh giới sai khác, mà chỉ còn một "Tâm 
					Chơn như"; cũng như mắt hết nhặm thì chỉ còn hư không một 
					màu trong tịnh. Bởi tất cả pháp là "Tâm Chơn như", nên không 
					thể phá hoại, không thể dùng lời nói luận bàn, không thể 
					dùng danh tự để kêu gọi và cũng không thể dùng tâm suy nghĩ 
					được. Từ hồi nào đến giờ, nó rốt ráo bình đẳng, không có sai 
					khác. Bởi thế nên trong Khế kinh chép: 
					 
					"Thị pháp trụ pháp 
					vị   
					Thế gian tướng 
					thường trụ"   
					Nghỉa là: Pháp nào 
					vẫn an trụ địa vị của pháp nấy; tướng thế gian là tướng 
					thường trụ.   
					GIẢI DANH TỪ 
					 
					Tâm Chơn như: Vì tâm 
					này không hư ngụy, nên gọi là "Chơn", không bị thời gian 
					thay đổi, không gian chuyển dời, từ hồi nào đến giớ nó vẫn 
					như thế, nên gọi là "Như". Tâm Chơn như cũng gọi là "Chơn 
					tâm" hay "Viên giác".  
					 
					Nhứt pháp giới đại 
					tổng tướng pháp môn thể: Câu này nghĩa lý rất sâu rộng, xin 
					giải sơ lược: Tâm Chơn như là Thể chung của "Nhứt pháp 
					giới"._Chữ "Nhứt" là chỉ cho sự bình đẳng bất nhị, thuộc về 
					lời nói ngăn chấp, chớ không phải lời nói tiêu biểu. _Chữ 
					"Giới" là chỉ cho "tâm Chơn như" này, nó là "nhơn" là 
					"giống" là "bản năng" sanh ra tất cả các pháp, nên gọi là 
					"nhứt pháp giới". Nhứt pháp giới là toàn tánh của vũ trụ. Ở 
					nơi nhứt pháp giới này, có thể phân ra tổng tướng (thể) và 
					biệt tướng (muôn pháp sai khác). 
					 
					Tâm Chơn như là 
					"Tổng tướng" (tướng chung) của tất cả pháp; vì thể tánh nó 
					bình đẳng song cũng tóm thâu tất cả tướng, nên gọi là 
					"Đại".   
					Chữ "Pháp" nghĩa 
					là:"giữ gìn tự tánh và làm cho người hiểu biết". Chữ "môn" 
					là nghĩa ra vào thông suốt. Tất cả chúng sanh có thể do pháp 
					môn này tu hành, đến được mục đích cứu cánh; nếu rời "Đại 
					tổng tướng pháp môn" này, thì không thể đạt đến quả vị Phật. 
					Nói tóm lại:    
					Nhứt pháp giới là 
					"Thể" của tâm Chơn như.  
					 
					Đại tổng tướng là 
					"Tướng" của tâm Chơn như. 
					 
					Pháp môn là "Dụng" 
					của tâm Chơn như.   
					CHÁNH VĂN
					 
					Tất cả những lời 
					nói, đều do vọng niệm phân biệt mà sanh, chỉ do giả danh chớ 
					không thật thể . Cho đến danh từ Chơn như cũng không thực; 
					chẳng qua là một danh từ túng cùng của lời nói, dùng để trừ 
					bỏ các danh từ khác (vọng) mà thôi (nhơn ngôn khiển ngôn). 
					Song cái "Thể" của Chơn như không thể trừ bỏ và cũng không 
					thể dựng lập. Phải biết: Tất cả các pháp cũng không thể trừ 
					bỏ vì đều là "Chơn" vậy, và cũng không thể dựng lập, vì đều 
					là "Như" vậy. Bởi tất cả các pháp đều là Chơn như, nên không 
					thể nói bàn và suy nghĩ được.  
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Tất cả những lời nói 
					phô, đều do vọng niệm phân biệt; danh từ chỉ là hư giả, chớ 
					không có thật thể. Cho đến cái danh từ Chơn như cũng là hư 
					giả mà thôi. Danh từ Chơn như hay Phật là danh từ túng cùng 
					trong các danh từ tạm đặt ra như thế để trừ các danh từ vọng 
					nhiễm của thế gian. Cũng như ông thầy giáo, tạm dùng tiến gõ 
					bảng để trừ tiếng ồn của học sinh (dĩ ngôn diệt ngôn). Đến 
					khi tiếng ồn của học sinh hết, thì tiếng gõ bảng của thầy 
					giáo cũng không còn. Cũng như khi vọng mất, chúng sanh hết, 
					thì Chơn như hay Phật cũng chẳng còn. 
					 
					Song, chỉ bỏ cái 
					danh từ (Chơn như) hư giả, chớ thể tánh chơn như thì không 
					thể bỏ hay lấy. Cho đến các pháp cũng không thể bỏ và lấy 
					được. Vì các pháp đều là "Chơn", nên không thể bỏ, và "Như" 
					nên không thể lấy. Bởi các pháp đều chơn như, nên không thể 
					dùng lời nói luận bàn hay tâm suy nghĩ đền được. 
					 
					Tóm lại, vì vọng 
					niệm phân biệt, nên thấy có các pháp sai biệt. Nếu vọng niệm 
					phân biệt hết, thì tất cả các pháp không còn những tướng sai 
					biệt, mà đều là Chơn như. Bởi các pháp đều là chơn như, nên 
					nói năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhầm và cũng không thể 
					lấy hay bỏ được.   
					CHÁNH VĂN
					 
					Hỏi: _Nếu 
					"Chơn như", mà không thể dùng lời nói luận bàn hay tâm suy 
					nghĩ, thì chúng sanh làm sao tuỳ thuận và ngộ nhập được? 
					 
					Đáp:_ Nếu 
					người nào biết tất cả pháp, tuy có nói bàn, mà không có 
					"năng nói" và "sở nói"; tuy có suy nghĩ, mà không có "năng 
					suy nghĩ" và "sở suy nghĩ", thì người ấy được tuỳ thuận Chơn 
					như.   
					Còn người nào lìa 
					các niệm (vọng niệm) thì người đó được nhập Chơn như. 
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Đoạn này Luận chủ 
					lập lời vấn đáp, để giải thích sự nghi ngờ của độc giả. 
					 
					Hỏi: _ Nếu Chơn như 
					mà không thể dùng lời nói luận bàn và tâm suy nghĩ được thì, 
					chúng sanh làm sao tuỳ thuận và ngộ nhập Chơn như? 
					 
					Đáp:_ Nếu người nào 
					biết tất cả pháp, tuy có nói năng suy nghĩ, mà không chấp 
					nơi nói năng suy nghĩ, thì người đó được tuỳ thuận Chơn như. 
					Tiến lên một từng nữa, nếu người nào lìa các vọng niệm, thì 
					người ấy nhập được Chơn như. Nghĩa là "Vọng" hết, thì "Chơn" 
					hiện. Đoạn này đồng một ý nghĩa với bốn chữ "bất tuỳ phân 
					biệt" trong Kinh Lăng Nghiêm. 
					 
					CHÁNH VĂN
					 
					Lại nữa, nếu căn cứ 
					trên danh từ (ngôn thuyết) mà phân biệt, thì chữ Nhơn như có 
					2 nghĩa:   
					1.THẬT KHÔNG 
					(như thật không), tức là chỉ nói đến cái thể tánh rốt ráo 
					chơn thật của Chơn như. Nghĩa là: từ hồi nào đến giờ, Chơn 
					như không có các tâm niệm hư vọng, không có tất cả các tướng 
					sai biệt, nói chung là thật không có các pháp tạp nhiễm. 
					 
					Phải biết: Chơn như 
					phi tướng "có ", phi tướng "không"; phi tướng "chẳng phải 
					có", phi tướng "chẳng phải không"; phi tướng "cũng có và 
					cũng không"; phi tướng "một", phi tướng "khác"; phi tướng 
					"chẳng phải một, chẳng phải khác"; phi tướng "cũng một cũng 
					khác".   
					Nói tóm lại, vì chơn 
					như không có tất cả các vọng niệm phân biệt của chúng sanh, 
					nên gọi rằng "thật không". Nếu khi vọng tâm phân biệt hết 
					rồi thì cũng không còn cái gì gọi là "không" nữa. 
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Đứng về phương diện 
					lý tánh tuyệt đối, thì Chơn như không thể kêu gọi là gì được 
					(ly danh tự tướng), không thể dùng lời nói luận bàn (ly ngôn 
					thuyết tướng) và cũng không thể dùng tâm suy nghĩ được (ly 
					tâm duyên tướng). Song, nếu căn cứ trên văn tự lời nói mà 
					luận, thì Chơn như có hai nghĩa: 1. Thật không và 2. Thật 
					có.   
					Đoạn này nói về 
					nghĩa "thật không" (ly nhứt thế tướng), tức là chỉ cho cái 
					"thể Chơn như", từ hồi nào đến giờ, nó không có các vọng 
					niệm, không có các nhiễm pháp và không có các tướng sai 
					khác. Nó phi tất cả các tướng: Có, không, chẳng phải có, 
					chẳng phải không, cho đến phi tướng đồng, tướng dị và tướng 
					không đồng không dị...  
					 
					Nói tóm lại là nó 
					không có tất cả vọng niệm phân biệt của chúng sanh, và khi 
					rời các vọng niệm rồi, thì cái gọi là "không" đó cũng không 
					còn.   
					CHÁNH VĂN
					 
					2. THẬT CÓ 
					(như thật bất không), tự thể Chơn như, thật có đủ công đức 
					vô lậu (tức nhứt thế pháp). Bởi Chơn như không có các vọng, 
					nên tức là Chơn tâm. Cái Chơn tâm này thường còn không biến 
					đổi và đầy đủ các pháp thanh tịnh; nên nói "thật có"(bất 
					không).   
					Nhưng cái cảnh giới 
					"thật có" này, cũng không có hình tướng gì để nắm lấy được, 
					vì nó lìa các vọng niệm, nên chỉ có người tu chứng mới biết 
					được mà thôi.   
					LƯỢC GIẢI
					 
					Trong đoạn này nói: 
					Chơn như có hai nghĩa, tức là ý nói Chơn như có hai thứ. _ 
					Đoạn trên nói về phương diện "thể tánh" của Chơn như, thì 
					không có các vọng niệm, không có các pháp nhiễm ô, tức là 
					"ly nhứt thế tướng", nên nói "thật không". 
					 
					Đoạn này nói về 
					phương diện "tướng dụng" của Chơn như, thì đầy đủ vô lượng 
					hằng sa công đức, thế là "tức nhứt thế pháp", nên nói "thật 
					có". Nhưng cảnh giới "thật có" này, không có hình tướng gì 
					để chỉ bày ra được, vì đã lìa các vọng niệm phân biệt, nên 
					chỉ có người chứng ngộ mới biết được thôi. 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 BÀI THỨ BA 
					 
					CHƯƠNG THỨ 
					BA   
					PHẦN GIẢI 
					THÍCH 
					  
					II. Tâm Sanh 
					diệt (Thức A lại da)  
					
					CHÁNH VĂN
					 
					Do Như Lai tạng 
					(chơn) mà có "Tâm sanh diệt"; nghĩa là Chơn (không sanh 
					diệt) Vọng (sanh diệt) hoà hiệp, không phải "một" không phải 
					"khác" gọi là thức A lại da (tâm sanh diệt). Thức này tóm 
					thâu tất cả các pháp và xuất sanh tất cả các pháp. Thức này 
					có hai nghĩa "Giác" và "Bất giác" (mê). 
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Đoạn trước nói chỉ 
					có một tâm mà chia ra làm hai phương diện: Tâm Chơn như và 
					Tâm sanh diệt.   
					Đoạn này nói do Như 
					Lai tạng mà có "Tâm sanh diệt" tức là thức A lại da. Vì thức 
					A lại da là do chơn vọng hoà hiệp, không phải một không phải 
					khác, nên có hai nghĩa "Giác" và "Bất giác". Thức này có 
					công năng giữ gìn tất cả các pháp và sanh ra các pháp. 
					 
					Trên đây nói thức A 
					lại da có 2 nghĩa, không nên hiểu lầm thức A lại da có hai 
					thứ "Giác" và "Bất giác" khác nhau; mà nên hiểu rằng: thức 
					này có hai trạng thái, tuỳ nhiễm duyên thì trạng thái "Bất 
					giác" hiện, tuỳ tịnh duyên thì trạng thái "Giác" hiện. Cũng 
					như sáng với tối, chỉ là hiện tượng của thái hư mà thôi. 
					 
					Chúng ta cũng nên 
					phân biệt ba danh từ: Chơn như, Như Lai tạng và thức A lại 
					da là đồng hay khác, và liên quan với nhau như thế nào. 
					 
					_" Chơn như" là chỉ 
					cho cái "Tổng thể" của tâm; "Như Lai tạng" là chỉ cho cái 
					"Tổng tướng" của tâm, "thức A lại da" là chỉ cho cái "Thể, 
					Tướng và Dụng" về nhiễm và tịnh hoà hiệp của tâm. 
					 
					Chơn như, dụ như 
					"tánh" ướt của nước; Như Lai tạng, dụ như "nước" (hình tướng 
					của nước); A lại da, dụ như "sóng" (dụng của nước). Trong 
					sóng gồm có cả tánh ướt và nước. Thế là thức A lại da (Tâm 
					sanh diệt) gồm cả "Thể, Tướng và Dụng" về nhiễm và tịnh hoà 
					hiệp của tâm.   
					Tại sao không nói 
					"do Chơn như, có Tâm Sanh diệt" mà chỉ nói "do Như Lai tạng 
					có Tâm Sanh diệt"? _ Vì Chơn như là "Thể" của nhứt tâm; Như 
					Lai tạng là "Tướng" của nhứt tâm; Chơn như thì thanh tịnh 
					không động, còn Như Lai tạng tuy rằng cũng chơn tịnh, nhưng 
					còn bị phiền não che phủ, làm nhơn cho động, nên chỉ nói "do 
					Như Lai tạng có tâm sanh diệt là thức A lại da" mà không nói 
					"do Chơn như sanh ra thức A lại da" (Tâm Sanh diệt). 
					 
					Tâm Sanh diệt này có 
					hai phần:   
					1. Sanh diệt về phần 
					lưu chuyển sanh tử,   
					2. Sanh diệt về phần 
					hoàn tịnh (trở lại bản tánh Niết bàn). 
					 
					GIẢI DANH TỪ 
					 
					Như Lai tạng, có hai 
					nghĩa: 1. Như Lai tại triền, nghĩa là tánh Phật (Như Lai) 
					còn bị chứa trong vòng phiền não nhiễm ô. 2. Như Lai xuất 
					triền, nghĩa là tánh Phật (Như Lai) chứa đựng các pháp vô 
					lậu thanh tịnh, đã ra khỏi phiền não nhiễm ô. 
					 
					Song, trong kinh 
					luận nói đến Như Lai tạng, là phần nhiều dùng cái nghĩa "Như 
					Lai tại triền" (tánh Phật bị chứa trong phiền não). 
					 
					Câu "Chơn vọng hoà 
					hiệp, không phải một và không phải khác": 
					 
					"Chơn" là bản thể, 
					còn "Vọng" là hiện tượng; bản thể và hiện tượng không rời 
					nhau, nên nói "hoà hiệp". Vì bản thể không phải là hiện 
					tượng, nên nói "không phải một"; vì hiện tượng và bản thể 
					không rời nhau, nên nói "không phải khác". 
					 
					Trong đây nói chữ 
					"Hoà hiệp", không phải thật có hai vật riêng nhau, như sữa 
					với nước hoà hiệp lại, mà chính là bản thể với hiện tượng 
					không rời nhau, nên tạm gọi là "hoà hiệp". 
					 
					A lại da: Trong luận 
					này, chữ "thức A lại da", chúng ta phải hiểu tức là "thức A 
					đà na" mới khỏi ngại. Căn cứ theo luận Duy thức, khi đến quả 
					A la hán hay Bát địa, thì thức A lại da không còn (A la hán 
					vị xả); vì hai vị này đã trừ ngã chấp, nên thức này không 
					còn là A lại da, mà chỉ gọi là thức A đà na (thức trì 
					chủng).   
					Còn trong luận này, 
					thì nói: Từ phàm phu cho đến quả Phật, đều có thức A lại da, 
					vì nó duy trì cả thánh và phàm. Vì thế nên chữ "A lại da" ở 
					luận Khởi tín này, tức là thức "A đà na" trong luận Duy thức 
					vậy. Trong luận Duy thức chép: "Thức A đà na có công năng 
					duy trì chủng tử của các pháp nhiễm tịnh, thánh phàm ..." 
					 
					NÓI VỀ NGHĨA 
					"GIÁC" có 5 tên   
					CHÁNH VĂN
					 
					"Giác" là chỉ cho 
					bản thể chơn tâm lìa các vọng niệm, nó khắp giáp tất cả, 
					rộng lớn như hư không; cũng gọi là "Pháp thân bình đẳng của 
					Như Lai". Pháp thân này, tất cả chúng sanh sẳn có, nên gọi 
					là "Bản giác" (tánh Phật sẵn có). 
					 
					Vì đối với "Thỉ 
					giác" nên gọi là "Bản giác"; song Thỉ giác tức là Bản giác. 
					Nghĩa là từ Bản giác mà có Bất giác (mê); do Bất giác nên có 
					Thỉ giác (mới giác ngộ); giác ngộ chưa hoàn toàn thì gọi là 
					Phần giác (giác ngộ từng phần); giác ngộ được hoàn toàn thì 
					gọi là Cứu cánh giác.  
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Đoạn này nói về 
					nghĩa "Giác" (sáng suốt) tức là tánh Phật sẳn có ở chúng 
					sanh. Tánh Phật này ở nơi chúng sanh thì gọi là "Như Lai 
					tạng" (Như Lai bị phiền não che giấu); còn ở nơi Phật thì 
					gọi là "Pháp thân thanh tịnh". 
					 
					Tánh Phật tuy luân 
					chuyển trong sáu đường, mà không bao giờ mất, vẫn vắng lặng 
					thường còn và viên mãn. Chẳng qua chúng sanh vì bị mây vô 
					minh che phủ, nên trăng Phật tánh này chẳng hiện được. 
					 
					Tất cả chúng sanh từ 
					hồi nào đến giờ, vì không rời vọng niệm, nên tuy trọn ngày ở 
					trong tánh Phật mà chẳng tự biết; nếu khi rời vọng niệm rồi, 
					thì tánh Phật này sáng soi, rỗng suốt khắp giáp tất cả như 
					thái hư. Lúc bấy giờ chỉ còn tánh Phật thuần chơn, gọi là 
					"Pháp thân bình đẳng của Như Lai". 
					 
					Vì căn cứ theo tánh 
					Phật sẳn có của chúng sanh, nên gọi là "Bản giác". Bởi thế 
					nên Khế kinh nói:    
					"Tất cả chúng sanh 
					đã thành Phật từ lâu", và nói: 
					 
					"Ta thành ngôi Chánh 
					giác trong tâm của chúng sanh". 
					 
					Song "Giác" có nhiều 
					tên: Bản giác, Bất giác, Thỉ giác, Phần giác và Cứu cánh 
					giác. Vì theo mỗi khía cạnh mà chia ra làm 5 tên, chớ không 
					phải thật có 5 cái "Giác" khác nhau. 
					 
					GIẢI DANH TỪ 
					 
					Pháp thân bình 
					đẳng: Dùng pháp giới tánh làm thân, nên gọi là "Pháp 
					thân". Vì Pháp thân này, ở tại phàm không bớt, ở nơi thánh 
					không thêm, nên gọi là "Bình đẳng". 
					 
					Bản giác: Sản 
					có giác ngộ, tức là chỉ cho tánh Phật sẳn có của chúng 
					sanh.   
					Bất giác: 
					Không giác ngộ (mê). Chúng sanh tuy có sẳn tánh Phật, nhưng 
					không tự giác ngộ.   
					Thỉ giác: Mới 
					giác ngộ. Nhờ sự tu học, nên hành giả mới giác ngộ được tánh 
					Phật.   
					Phần giác: 
					Giác ngộ từng phần. Hành giả tu hành trải qua từng bực, được 
					sự giác ngộ từng phần.  
					 
					Cứu cánh giác:
					Giác ngộ rốt ráo (tức là Phật). 
					 
					THỂ GIÁC CÓ 4 
					LỚP, TỪ THÔ ĐẾN TẾ  
					 
					CHÁNH VĂN
					 
					Hỏi: _ Nghĩa 
					là thế nào?   
					Đáp: _ Có 4 
					lớp như sau:   
					a) Giác ngộ "niệm 
					DIỆT" 
					 
					Chúng 
					phàm phu (Tiều thừa thì hữu học, Đại thừa thì Thập tín) giác 
					ngộ vọng niệm trước đã khởi ác, nên ngăn dứt vọng niệm sau, 
					không cho sanh khởi ác nữa (niệm diệt). Vì chúng phàm phu in 
					như đã giác ngộ, nhưng thật ra chưa giác ngộ, nên gọi là 
					"Bất giác".   
					b) Giác ngộ "niệm 
					DỊ"(hoại). 
					 
					Hàng sơ phát tâm Bồ 
					Tát (Tam hiền) và Nhị thừa (vô học), dùng trí huệ quán sát, 
					giác ngộ được "niệm Dị" (dị tướng vô minh) và không còn 
					tướng "niệm Dị". Hai vị này vì đã xả được tướng phân biệt 
					chấp trước về phần thô trọng, nên gọi là "Tương tợ giác"( 
					tương tợ như đã giác ngộ). 
					 
					c) Giác ngộ "niệm 
					TRỤ". 
					 
					Hàng Thập địa Bồ Tát 
					(Bồ Tát đã chứng Pháp thân) giác ngộ được "niệm Trụ" (trụ 
					tướng vô minh) và không còn tướng "niệm Trụ". Vị này vì đã 
					lìa được tướng phân biệt về thô niệm, nên gọi là "Tuỳ phần 
					giác" (Giác ngộ từng phần). 
					 
					d) Giác ngộ "niệm 
					SANH" 
					 
					Hàng Đẳng giác Bồ 
					Tát (Địa tận Bồ Tát) do các phương tiện tu hành đã đầy đủ, 
					nhứt niệm hợp với chơn tâm, nên giác ngộ được tâm sơ khởi 
					(sanh tướng vô minh) và không còn tướng sơ khởi. Vì vị này 
					đã xa lìa vọng niệm vi tế (vi tế vô minh) ngộ nhập chơn tâm 
					thường trụ , nên gọi là "Cứu cánh giác" (Giác ngộ rốt ráo). 
					 
					Bởi thế nên trong 
					kinh chép: "Nếu chúng sanh nào quán "vô niệm" (không vọng 
					niệm) thì chúng sanh đó đã hướng về trí Phật". 
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Đoạn này Bồ Tát Mã 
					Minh dùng bốn danh từ: Niệm sanh, Niệm trụ, Niệm dị, Niệm 
					diệt để nói lên vô minh có thô tế, sâu cạn và chỉ rõ người 
					tu hành ở địa vị nào mới diệt được thứ vô minh nào. 
					 
					Trong đoạn này nói 
					"chúng phàm phu", thật ra không phải hoàn toàn là phàm phu, 
					mà chính là chỉ cho: bên Đại thừa thì hàng Thập tín, còn 
					Tiểu thừa thì ba quả trước, thuộc về hữu học. Vì các vị này 
					chưa được dự vào hạng Hiền (Tam hiền) và Thánh (Thập thánh) 
					nên bị gọi là Phàm phu.  
					 
					Chúng phàm phu này 
					giác ngộ được niệm diệt tức là phá trừ "Diệt tướng vô minh" 
					(vô minh thô sơ bên ngoài). Nếu so với Lục thô, thì "Niệm 
					diệt" này thuộc về hai món thô sau là: Khởi nghiệp tướng và 
					Nghiệp hệ khổ tướng (sẽ giải ở bài thứ năm). Vì sự phá trừ 
					vô minh này không thấm vào đâu, và đối với việc giác ngộ 
					chơn tâm còn xa xôi lắm, nên gọi họ là "Bất giác" (chưa giác 
					ngộ).   
					Hàng Nhị thừa và Bồ 
					Tát ở vị Tam hiền (Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng) 
					giác ngộ được "Niệm dị", tức là phá trừ "Dị tướng vô minh" 
					(vô minh thô). Nếu so với Lục thô thì "Niệm dị" này thuộc về 
					hai món thô bực trung là: Chấp thủ tướng và Kế danh tự tướng 
					(sẽ giải ở bài thứ năm). Vì các vị này tương tợ như giác ngộ 
					được chơn tâm và chứng được pháp thân thanh tịnh, nhưng chưa 
					phải thật ngộ và thật chứng, nên gọi họ là "Tương tợ giác". 
					 
					Hỏi: _ Thế 
					nào là giác ngộ "Niệm dị" và không còn tướng "Niệm dị"? 
					 
					Đáp: _ Bồ Tát 
					sơ phát tâm dùng trí huệ quán sát Ngã (thân tâm) và Pháp (vũ 
					trụ) đều do nhơn duyên sanh, nên đoạn trừ hai món vọng chấp 
					phân biệt thật ngã và thật pháp về phần thô, đó là "Giác ngộ 
					niệm dị". Đến khi Bồ Tát không còn thấy có tướng Ngã, tướng 
					Pháp, thế gọi là "không còn tướng niệm dị". 
					 
					Hỏi: _ Sao 
					gọi là "Phân biệt chấp trước về phần thô trọng"? 
					 
					Đáp: _ Ngã 
					chấp và Pháp chấp có chia ra làm hai phần: 1. Thô trọng, tức 
					là phân biệt Ngã chấp và Pháp chấp, phần này dễ trừ. 2. Vi 
					tế, tức là cu sanh Ngã chấp và Pháp chấp, phần này khó trừ.   
					 
					***
					 
					Hàng 
					Thập địa Bồ Tát vì đã chứng pháp thân thanh tịnh, nên cũng 
					gọi là "Pháp thân Bồ Tát". Các vị Bồ Tát này giác ngộ được 
					"Niệm trụ", tức là phá trừ "trụ tướng vô minh" (tế vô minh). 
					Nếu so với Lục thô ở bài sau, thì thuộc về hai món thô đầu 
					là: Trí tướng và Tương tục tướng. 
					 
					Bồ Tát phá một phần 
					vô minh thì chứng được một phần Pháp thân, gọi là lên Sơ 
					địa; phá hai phần vô minh thì chứng hai phần Pháp thân, gọi 
					là lên Nhị địa; cho đến phá mười phần vô minh, thì chứng 
					được mười phần Pháp thân, gọi là lên Thập địa Bồ Tát. Vì Bồ 
					Tát phá vô minh từng phần và giác ngộ từng phần, nên gọi là 
					"tuỳ phần giác".   
					Các vị Bồ Tát này, 
					vì tâm niệm còn trụ ở năng sở đối đãi, chưa dứt trừ được, 
					nên gọi là "Trụ tướng vô minh". Đến khi Bồ Tát nhập Chơn 
					như, quán, chỉ nhứt tâm chánh niệm Chơn như, không còn tướng 
					năng sở đối đãi, nên gọi "Không còn tướng niệm trụ". Như thế 
					là lìa được tướng phân biệt về thô niệm (vô minh thô). 
					 
					Sở dĩ gọi "Thô" là 
					vì không tế nhị bằng "Sanh tướng vô minh" (vô minh rất vi 
					tế); kỳ thật đây cũng là một thứ vô minh vi tế, rất khó 
					trừ.   
					Tóm lại, từ phàm phu 
					(Thập tín) cho đến địa vị Pháp thân Bồ Tát (Thập địa), về sự 
					phá trừ vô minh của mỗi bực có thô và tế khác nhau: 1. Chúng 
					phàm phu đối với cảnh, chấp có và thấy vọng niệm diệt rồi, 
					đè nén không cho sanh khởi. 2. Hàng Nhị thừa và Tam hiền Bồ 
					Tát, thì quán ngã pháp đều không, nhưng còn cái "Niệm 
					không". 3. Đến bực Thập địa Bồ Tát, thì cái "Tâm niệm chấp 
					không" cũng không còn; nghĩa là không còn cái "Năng Niệm". 
					 
					Nói rằng bực Đẳng 
					giác Bồ Tát, giác ngộ được "niệm sanh" tức là nói vị Bồ Tát 
					này phá trừ được "Sanh tướng vô minh" (vô minh rất vi tế). 
					Nghĩa là các vị Bồ Tát tu hành, đến lúc chơn cùng hoặc tận, 
					tột bực Thập địa, chứng lên vị Đẳng giác, khi ấy Bồ Tát dùng 
					trí Kim Cang đoạn trừ "sanh tướng vô minh" (giác ngộ được 
					niệm sanh) xa lìa các vọng hoặc rất vi tế, và nhứt niệm hiệp 
					với tâm thể Chơn như, nên không còn "tướng sơ khởi"; khi đó 
					Bồ Tát chúng lên quả Diệu giác (Phật) gọi là "Cứu cánh 
					giác".   
					***
					 
					Hỏi: _ Phải 
					chăng trong một niệm, có sanh, trụ, dị, diệt; chúng phàm phu 
					giác ngộ khi "Niệm diệt"; Nhị thừa giác ngộ khi "Niệm dị"; 
					Thập địa Bồ Tát giác ngộ khi "Niệm trụ"; Đẳng giác Bồ Tát 
					giác ngộ khi "Niệm sanh"? 
					 
					Đáp: _ Hiểu 
					như vậy không được đúng lắm; đây nói sanh, trụ, dị, diệt là 
					chỉ cho vọng niệm có phần thô và tế. Chúng phàm phu chỉ giác 
					ngộ vọng niệm về phần thô bên ngoài gọi là "Niệm diệt". Nhị 
					thừa giác ngộ vọng niệm về phần tế hơn gọi là "Niệm dị". 
					Thập địa Bồ Tát giác ngộ vọng niệm lại tế hơn nữa, gọi là 
					"Niệm trụ". Đến bực Đẳng giác Bồ Tát, giác ngộ vọng niệm lại 
					rất vi tế, gọi là "Niệm sanh". 
					 
					Thí như mặt nước 
					bằng phẳng là dụ tâm thể thanh tịnh vô niệm. Mặt nước vừa 
					dợn động, là dụ "Niệm sanh". Sóng nổi lăn tăn là dụ "Niệm 
					trụ". Sóng nhấp nhô, dụ "Niệm dị". Sóng nổi ba đào là dụ 
					"Niệm diệt".   
					Chúng tôi đem 4 niệm 
					trong bài này, phối hiệp với tam tế lục thô ở bài sau, để 
					quý vị dễ hiểu.   
					Niệm sanh  
					 
					1. Vô minh 
					nghiệp tướng   
					Niệm trụ  
					 
					2. Năng kiến 
					tướng Tam tế   
					3. Cảnh giới 
					tướng   
					1. Trí tướng 
					 
					2. Tương tục 
					tướng   
					Niệm dị  
					 
					3. Chấp thủ 
					tướng   
					4. Kế danh tự 
					tướng Lục thô   
					Niệm diệt  
					 
					5. Khởi nghiệp 
					tướng   
					6. Nghiệp hệ khổ 
					tướng     
					***
					 
					Hỏi: _ Làm 
					sao để được trí Phật?  
					 
					Đáp: _ Trí 
					Phật thanh tịnh không các vọng niệm, muốn được trí Phật, 
					hành giả phải "vô niệm". Trong kinh Lăng già quyển hai có 
					chép: "Nếu chúng sanh nào quán vô niệm, thì chúng sanh ấy sẽ 
					hướng về trí Phật".   
					Ngài Đức Thanh giải 
					rằng: "Vô niệm là con đường tắt để thành Phật..." và 
					"...không những Bồ Tát tu hành đoạn trừ phiền não, đến vô 
					niệm mà gọi là "Cứu cánh giác"; tức như chúng sanh nào, ngày 
					đêm quán vô niệm, thì chúng sanh ấy mỗi niệm đã hướng về trí 
					Phật".   
					Trong luận nầy nói 
					hai chữ "vô niệm" đồng với bốn chữ "bất tuỳ phân biệt" trong 
					kinh Lăng Nghiêm chữ "vô niệm" nghĩa là không khởi vọng 
					niệm. Nếu vọng niệm không khởi, thì tâm được định, do tâm 
					định nên mới phát sanh ra trí huệ thanh tịnh của Phật. 
					 
					Chữ "Bất tuỳ phân 
					biệt", nghĩa là không theo trần cảnh khởi phân biệt. Không 
					khởi phân biệt thì vọng niệm chẳng sanh; vọng niệm chẳng 
					sanh thì chơn tâm tự hiện ra. 
					 
					Bởi thế nên luận nầy 
					nói chữ "Vô niệm", Kinh Lăng Nghiêm nói "bất tuỳ phân biệt"; 
					hai danh từ tuy khác, song đồng một ý nghĩa và đồng một con 
					đường tắt, để đi đến quả Phật. 
					 
					VỌNG NIỆM HẾT (VÔ 
					NIỆM) THÌ CHƠN TÂM HIỆN 
					 
					CHÁNH VĂN 
					 
					Lại nữa, thật ra Tâm 
					không có tướng sơ khởi, mà nói rằng "biết được tướng sơ khởi 
					của tâm", đó tức là được "vô niệm". Tất cả chúng sanh từ hồi 
					nào đến giờ, vì chưa từng xa lìa vọng niệm tương tục (chưa 
					được vô niệm), nên không được gọi là "Giác", mà chỉ gọi là 
					"Vô thỉ vô minh". 
					Nếu người được vô 
					niệm (ngộ chơn tâm) thì các tướng sanh, trụ, dị, diệt của 
					tâm đều hết, chỉ còn một tâm thể vô niệm (chơn tâm). Bởi thế 
					nên Thỉ giác không khác với Bản giác. Vì vọng niệm nên bốn 
					tướng: Sanh, Trụ, Dị và Diệt đồng thời nương nhau mà có, và 
					đều không tự lập; khi vọng niệm hết, thời bốn tướng không 
					còn, chỉ một tánh giác (chơn tâm) xưa nay bình đẳng. 
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Tất cả chúng sanh từ 
					hồi nào đến giờ, do một niệm mê nên bốn tướng: sanh, trụ, 
					dị, diệt nhứt thời nương nhau khởi hiện, không có trước sau. 
					Vì vọng niệm tương tục mãi, làm cho chúng sanh không ngộ 
					được chơn tâm (vô niệm) của mình, nên gọi là "vô thỉ vô 
					minh". Bởi thế nên có chia ra Bản giác và Thỉ giác. 
					 
					Trái lại, bực Đẳng 
					giác Bồ Tát, đã diệt hết vọng niệm, ngộ được chơn tâm thường 
					trú của mình, nên bốn tướng không còn, mà chỉ còn một tánh 
					sáng suốt bình đẳng không vọng niệm, gọi là "Cứu cánh giác". 
					Bởi vậy nên "Thỉ giác" cũng tức là "Bản giác". 
					 
					GIẢI DANH TỪ 
					 
					"Tướng sơ khởi" 
					tức là chơn tâm, mà chơn tâm thì vô tướng và vô niệm. Người 
					được vô niệm tức là ngộ chơn tâm; phải ngộ được chơn tâm mới 
					gọi là "Cứu cánh giác". 
					"Bản giác" 
					tức là tâm tánh xưa nay vốn thanh tịnh sáng suốt, trái với 
					vô minh bất giác (mê).  
					"Thỉ giác" là 
					mới giác ngộ. Hành giả dùng quán trí trừ các vọng niệm, mới 
					vừa giác ngộ tâm thể không có bổn tướng, nên gọi là "Thỉ 
					giác".   
					Nên biết, những danh 
					từ trên đây đều giả lập: "Bản giác" là đối với "Thỉ giác" mà 
					lập, "Thỉ giác" nhơn "Bất giác" mà có, "Bất giác" lạinhơn 
					"Bản giác" mà sanh. Do đối đãi nhau nên giả lập ra có nhiều 
					tên, thật ra chỉ có tánh giác mà thôi. 
					 
					(Đoạn này nói về 
					"Thỉ giác", đoạn sau nói đến "Bản giác"). 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 BÀI THỨ 
					TƯ   
					CHƯƠNG THỨ BA 
					 
					
					PHẦN GIẢI THÍCH NÓI VỀ NGHĨA "GIÁC" 
					 
					(tiếp theo và 
					hết)  
					  
					
					Nói về nghĩa "Giác" 
					 
					Bản giác có 2 
					tướng:   
					1. Tướng Trí 
					tịnh   
					2. Tướng Nghiệp 
					dụng bất tư nghị   
					Bản giác có 4 
					tướng:   
					1. Như thật 
					không   
					2. Nhơn huân 
					tập   
					3. Pháp xuất ly 
					 
					4. Duyên huân 
					tập   
					CHÁNH VĂN
					 
					Bản giác có 2 tướng 
					 
					Lại nữa, do dứt các 
					nhiễm duyên phân biệt, nên bản giác thành ra hai tướng: 1. 
					Tướng trí tịnh. 2. Tướng nghiệp dụng bất tư nghị; hai tướng 
					này không rời bản giác.  
					 
					1. Tướng trí 
					tịnh: (Thể): Hành giả nhờ sức huân tập và như thật tu 
					hành, đến khi công phu tu hành đã viên mãn, phá trừ được 
					thức A lại da (chơn vọng hoà hiệp) và diệt các vọng tâm 
					tương tục, thì pháp thân thanh tịnh hiện ra, đặng cái trí 
					thuần tịnh, nên gọi là "Tướng trí tịnh". 
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Nhờ dứt trừ các pháp 
					nhiễm ô phân biệt, nên tánh giác hiện ra có 2 tướng: 1. Bản 
					thể sáng suốt trong sạch, gọi là "Tướng trí tịnh".2. Diệu 
					dụng không thể nghĩ bàn, gọi là "Tướng nghiệp dụng bất tư 
					nghị". Vì thể và dụng không rời tánh giác, nên gọi "hai 
					tướng không rời bản giác". 
					 
					Bực Tam hiền, bên 
					trong nhờ sức chơn như huân ra, bên ngoài lại nhờ chánh pháp 
					huân vào, nên làm cho hành giả tự phát khởi tín tâm tu 
					hành.   
					Đến hàng Thập địa Bồ 
					Tát, do nhờ sức tu tập, nên ngộ nhập được tâm chơn như, rồi 
					y như tâm chơn như này mà tu, nên gọi là "Như thật tu 
					hành".   
					Đến vị Đẳng giác Bồ 
					Tát, thì sự tu hành, công đã thành quả lại mãn; lúc bấy giờ 
					Bồ Tát phá trừ thức hoà hiệp và diệt tâm tương tục, nên pháp 
					thân thanh tịnh hiện ra, đặng trí thuần tịnh, gọi là "Tướng 
					trí tịnh".   
					GIẢI DANH TỪ 
					 
					"Thức hoà hiệp" 
					_ Đoạn trước nói "Sanh diệt và bất sanh diệt hoà hiệp", gọi 
					là A lại da", nay nói "phá thức hoà hiệp" tức là phá thức A 
					lại da. Song chỉ phá cái "tướng hư vọng tạp nhiễm" của thứcA 
					lại da; không phải phá cái "thể tánh" của thức này. 
					 
					"Tâm tương tục"_ 
					Tâm tương tục tức là 7 chuyển thức (từ nhãn thức đến Mạt ma 
					thức). Diệt tâm tương tục, tức là diệt "tướng" hư vọng tương 
					tục của 7 thức trước, không phải diệt cái "thể" của 7 chuyển 
					thức.   
					CHÁNH VĂN
					 
					Hỏi: _ Nghĩa 
					này thế nào?   
					Đáp: _ Tất cả 
					tâm thức đều là vô minh; song cái tướng vô minh (vọng) không 
					rời tánh giác (chơn). Bởi thế nên không thể phá hoại (vì 
					không rời tánh giác), và cũng không phải không phá hoại được 
					(vì là tướng vô minh).  
					 
					Thí như trước biển 
					cả (dụ tánh giác) vì gió (vô minh) nên nổi sóng (tâm thức); 
					sóng và gió đều động và không rời nhau; song tánh nước chẳng 
					động. Đến khi sóng đứng thì gió lặng; song tánh ướt của nước 
					không diệt.   
					Cũng thế, biển tâm 
					thanh tịnh của chúng sanh, bị gió vô minh thổi động, nên 
					sóng tâm thức nổi lên. Sóng tâm thức, gió vô minh đều động, 
					lại không hình tướng và chẳng rời nhau; song biển chơn tâm 
					chẳng hề chao động. Nếu gió vô minh dừng, thì sóng tâm thức 
					tương tục kia cũng lặng; song nước trí thuần tịnh (chơn) 
					không bao giờ diệt.   
					LƯỢC GIẢI
					 
					Vì vô minh sanh ra 
					các tâm thức hư vọng, nên các tâm thức không rời vô minh. 
					Song vô minh lại không thật thể, chỉ nương tánh giác mà có, 
					nên nó không rời tánh giác. Đến khi vô minh hết, thức tâm 
					diệt, thì tánh giác hiện bày. Cũng như, vì gió thổi nên tánh 
					sóng nổi lên; sóng và gió đều động và không rời nhau. Đến 
					khi gió đứng sóng lặng thì tánh nước thanh tịnh bằng phẳng 
					hiện ra.   
					CHÁNH VĂN
					 
					Tướng nghiệp dụng 
					bất tư nghị (Dụng). Do tướng trí tịnh đủ vô lượng công đức 
					và thường không đoạn tuyệt, nên có thể tuỳ thuận theo căn cơ 
					của chúng sanh, tự nhiên ứng hiện ra tất cả các cảnh giới 
					mầu nhiệm thù thắng, để làm lợi ích cho chúng sanh. 
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Từ chơn như thể 
					(tướng trí tịnh) khởi ra các diệu dụng (chơn như dụng) không 
					thể nghĩ bàn được (tướng nghiệp dụng bất tư nghị). Nhờ diệu 
					dụng này mới có thể hiện ra được các cảnh giới thù thắng, 
					tuỳ theo trình độ của mỗi loài, làm vô lượng công đức, để 
					lợi ích cho tất cả chúng sanh không thể nghĩ bàn. 
					 
					Ngài Đức Thanh giải: 
					Bản giác khi còn ở tại vỏ mê, thì chúng sanh nương nơi đó mà 
					tạo ra vô lượng vô biên các nghiệp, nên kinh chép: "Nghiệp 
					lực không thể nghĩ bàn". Nay Bản giác đã ra khỏi vỏ mê, được 
					thanh tịnh, thì có đủ tất cả thần thông diệu dụng, cũng 
					không thể nghĩ bàn được. Và Bản giác này nghĩ ra các cảnh 
					giới thắng diệu, làm vô lượng công đức, tuỳ theo căn cơ của 
					mỗi loài, ứng hiện đủ cách, để làm lợi ích cho các chúng 
					sanh; như Ngài Quán Thế Âm hiện ra 32 ứng thân, 14 món vô úy 
					...nên gọi là "Nghiệp dụng bất khả tư nghị" (Diệu dụng không 
					thể nghĩ bàn).   
					GIẢI DANH TỪ 
					 
					"Tự nhiên ứng 
					hiện" _ Nghĩa là ứng hiện một cách tự nhiên, không dụng 
					công và cố ý. Thí như mặt trăng chiếu xuống ao, hễ nước 
					trong thì trăng tự nhiên ứng hiện; trăng không có dụng công 
					và cố tâm.   
					CHÁNH VĂN
					 
					Bản giác có 4 nghĩa 
					 
					Lại nữa, Thể và 
					Tướng của tánh giác (chơn tâm) giống như cái gương sáng 
					sạch, và rộng lớn như hư không, bao trùm tất cả. Tánh giác 
					này có 4 nghĩa:   
					1. Như thật 
					không: Như cái gương lớn sáng sạch, không có hình ảnh 
					của cảnh vật (thật không). Tánh giác (chơn tâm) xa lìa các 
					tướng của vọng tâm và vọng cảnh (ly nhất thế tướng); không 
					có một pháp nào hiện ra cả; cũng như cái gương trống không. 
					Đây là nói về nghĩa "Tịch" (vắng lặng) của tánh giác, không 
					phải nói về nghĩa "chiếu". 
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Vì tánh giác viên 
					mãn thanh tịnh, nên dụ như cái gương sáng sạch; vì tánh giác 
					rộng rãi bao la, nên dụ như hư không rộng lớn. Nếu phân tách 
					từng khía cạnh, thì tánh giác có 4 nghĩa; đoạn này nói về 
					nghĩa thứ nhứt:   
					1. Thật không: Đây 
					là nói về nghĩa "tịch tịnh" của Chơn tâm. Vì Bản thể chơn 
					tâm (tánh giác) vốn thanh tịnh, rộng rãi bao la và ly tất cả 
					các tướng, không thể dùng tâm thức suy nghĩ hay lời nói luận 
					bàn được, (cũng như cái gương sáng sạch, không có lưu một 
					hình ảnh gì ở trong gương cả) tức là pháp thân thanh tịnh 
					sẳn có của chúng sanh, không phải do tu mới được. 
					 
					CHÁNH VĂN
					 
					2. Nhơn huân tập: 
					Như cái gương sáng lớn, hiện đủ các cảnh (thật có). Trong 
					tánh giác (chơn tâm) đủ các pháp (tức nhứt thế pháp); nghĩa 
					là tất cả cảnh giới thánh, phàm đều hiện trong chơn tâm 
					thường trú nầy. Nó không xuất không nhập, không mất không 
					hoại, vì tánh của các pháp là chơn tâm vậy. 
					 
					Lại nữa, vì tánh 
					giác không vọng động, nên các pháp nhiễm ô, không thể làm 
					nhiễm ô được; trái lại nó đủ tất cả các pháp vô lậu và làm 
					nhơn huân tập cho chúng sanh vậy. 
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Đoạn trước nói về 
					"thể" của chơn tâm, ly tất cả các tướng, cũng như cái gương 
					sáng, không có một vật gì ở trong gương (như thật không). 
					Đoạn này nói về Tướng và Dụng của chơn tâm đủ tất cả pháp. 
					Cũng như cái gương sáng, các cảnh vật đều hiện vào (như thật 
					bất không).   
					Tướng và Dụng của 
					chơn tâm có 2 nghĩa:  
					 
					1. Đủ tất cả pháp: 
					Tất cả chúng sanh đều sẳn có các pháp vô lậu thanh tịnh, 
					cũng gọi là "bản hữu Phật tánh" hay "chánh nhơn Phật tánh". 
					 
					2. Nhơn huân tập: 
					Tất cả chúng sanh đều sẳn có tánh Phật; tánh Phật đủ vô 
					lượng hằng sa công đức và thanh tịnh không động, nên các 
					pháp nhiễm ô không làm nhiễm ô được. Tánh Phật này làm chánh 
					nhơn (chánh nhơn Phật tánh) huận tập ở bên trong, khiến cho 
					chúng sanh giác ngộ, nhàm chán khổ sanh tử, phát tâm cầu đạo 
					giải thoát.   
					CHÁNH VĂN
					 
					3. Pháp xuất ly: 
					Như cái gương đã sáng sạch, không còn bụi nhơ. Tánh giác 
					(tánh Phật) đã sáng suốt thuần tịnh, ra khỏi hai chướng: 
					Phiền não chướng, Sở tri chướng và xa lìa thức A lại da 
					(Chơn, Vọng hoà hiệp).  
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					3. Pháp xuất ly: tức 
					là "Liễu nhơn Phật tánh", cũng gọi là "Chơn như xuất triền". 
					Hành giả nhờ công phu tu tập, đoạn trừ phiền não chướng, sở 
					tri chướng và phá thức hoà hiệp (A lại da), nên tánh Phật 
					(Chơn như) không còn bị triền phược và được sáng suốt thuần 
					tịnh.   
					CHÁNH VĂN
					 
					4. Duyên huân 
					tập: Như cái gương sáng, phản chiếu trở lại. Tánh giác 
					(Phật tánh) đã ra khỏi vỏ triền phược rồi, trở lại chiếu soi 
					khắp giáp tất cả, và tuỳ theo tâm niệm của mỗi loài mà hiện 
					thân hoá độ, làm trợ duyên huân tập trở lại vào tâm chúng 
					sanh, khiến cho chúng sanh tu tập căn lành. 
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					4. Duyên nhơn Phật 
					tánh: Do Chơn như đã xuất triền, nên có diệu dụng không thể 
					nghĩ bàn: Chiếu khắp tất cả và tuỳ theo tâm niệm của chúng 
					sanh mà thị hiện các thân hình để hoá độ, làm trợ duyên, 
					huân tập trở lại vào tâm chúng sanh, khiến cho chúng sanh 
					phát Bồ Đề tâm, tu theo chánh pháp. 
					 
					Công dụng cao cả và 
					rộng lớn của Chơn như (tánh giác), chỉ có thể thí dụ như hư 
					không. Thể tánh sáng suốt thuần tịnh của Chơn như (tánh 
					giác), chỉ có thể thí dụ như gương: dầu có bụi hay không, 
					song chất pha lê (gương) vẫn sáng suốt, thỉ chung như một. 
					 
					(đoạn này đã nói 
					nghĩa "Giác" rồi, tiếp theo sau đây sẽ nói đến nghĩa "Bất 
					giác" của thức A lại da) 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
			 
			 | 
			 
					
			 |