|  
				 Phẩm 
				DIỆU TRANG NGHIÊM VƯƠNG BỔN SỰ 
				Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự là thuật lại 
				những công hạnh tu hành cách đây vô lượng vô biên A-tăng-kỳ hằng 
				sa kiếp của vua Diệu Trang Nghiêm ở vào thời Phật Vân  Lôi 
				Âm. 
				Chủ đích của phẩm này là phá thức uẩn, là uẩn 
				cuối cùng của ngũ uẩn. Chủ yếu của phẩm Đà-la-ni là phá cho được 
				hành uẩn nên Bồ Tát qua được Thất địa và Bát địa. Đến phẩm này 
				tiếp tục phá thức uẩn là qua được Cửu địa và Thập địa Bồ Tát. 
				Sau đó lên Đẳng giác Diệu giác rồi thành Phật. 
				Lúc bấy giờ, Phật bảo đại chúng: 
				-Thuở xưa, cách đây vô lượng vô biên 
				kiếp, có đức Phật hiệu Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, tại nước 
				Quang Minh Trang Nghiêm, kiếp tên là Hỉ Kiến. 
				 
				Tại Pháp hội của đức Phật đó, có một 
				nhà vua tên là Diệu Trang Nghiêm, phu nhân tên là Tịnh Đức và 
				hai con tên là Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn.  
				Hai người con có sức thần thông lớn, 
				có phước đức và trí tuệ, từ lâu tu tập 10 pháp ba-la-mật, rành 
				cả 37 phẩm trợ đạo, lại các môn tam muội của Bồ-tát như: 
				Nhật-tinh-tú, Tịnh-quang, Tịnh-sắc, Tịnh-chiếu, 
				Trường-trang-ngiêm, Đại-oai-đức.  
				Lúc đó, vì muốn dẫn đường cho vua 
				Diệu Trang Nghiêm và cũng vì lòng thương chúng sanh, Phật Vân 
				Lôi Âm nói kinh Pháp Hoa này.  
				Hai vị Hoàng tử có sức thần thông lớn, nhưng 
				thế nào là thần thông? Thần có nghĩa bất tư nghì, việc làm mà 
				người thường không thể làm được. Thông có nghĩa là vô ngại, 
				thông suốt tức là không còn ngăn ngại. Khi tai nghe những âm 
				thanh, tiếng nói không hài lòng khiến tâm bực bội, khó chịu. 
				Ngược lại nghe những lời bùi tai thì say đắm. Thí dụ như vợ 
				chồng, con cái bất ổn, thường hay cải vã, lời qua tiếng lại cũng 
				vì tư tưởng khác đồng chuyển qua lời nói làm cho người nghe chịu 
				không nổi, đâm ra bực tức, rồi sinh ra chửi bới, đánh đấm…cuối 
				cùng dẫn nhau ra tòa ly dị…hoặc vào tù ra khám. Đó cũng tại vì 
				chấp lời nói kia là thật nên bị ngăn ngại. Bây giờ nếu hiểu Phật 
				pháp thì không chấp vào lời nói thị phi của người khác. Tại sao? 
				Bởi vì trên thế gian này chỉ có ta mới thật sự hiểu rõ ta mà 
				thôi, không một người nào khác có thể biết ta bằng ta được. Thí 
				dụ một người chê ta là người xấu hoặc khen ta là người tốt thì 
				họ chỉ dựa theo kiến giải và kinh nghiệm bản thân của họ mà so 
				sánh, đánh giá người khác chớ làm sao họ biết ta bằng chính ta. 
				Mình tốt bao nhiêu mình biết, mình xấu bao nhiêu thì cũng chính 
				mình biết. Vì thế nếu mình là người xấu mà có người khen tặng 
				mình mà mình nhận chẳng khác nào chính mình tự lừa dồi mình, 
				sống trong ảo tưởng. Ngược lại nếu mình là người tốt, luôn nghĩ 
				thiện, nói lời lành và làm việc thiện mà có ai chê ta thế này 
				thế kia thì ta cứ mặc họ thì cuộc sống nhẹ nhàng, thánh thoát, 
				an vui, tự tại thì chính ta đã có rồi đâu cần người đời trao 
				tặng nữa. Nên nhớ những tiếng thị phi, những lời khen chê thì ở 
				đâu và bất cứ lúc nào cũng có chẳng khác nào thời tiết nóng lạnh 
				bất thường. Do đó người biết tự chủ tâm mình là người không chạy 
				theo khách trần phiền não cho nên nghe thì nghe tất cả mà như 
				không nghe gì hết, trong ngoài tự tại, không còn ngăn ngại thì 
				chính ta đã chứng được Thiên nhĩ thông rồi. Vì thế chúng sinh 
				hằng ngày nên bồi dưỡng trí tuệ của mình bằng cách sống trong 
				tỉnh thức, chánh niệm để chứng từng món thông mà biến cuộc đời 
				từ phiền não ưu bi trở thành thanh tịnh, thánh thoát, an vui, tự 
				tại. Thí dụ hằng ngày mắt vẫn thấy sắc như nhà to, xe đẹp, áo 
				lụa, quần là…Nếu là người thường thì dễ bị nó lôi cuốn, nhận 
				chìm, mê hoặc vào đó, nhưng đối với người có tư duy chánh niệm 
				thì nhận thức được hiện tượng của vạn pháp là vô thường nên tâm 
				họ không hề bị dính mắc. Họ quán rằng vạn pháp là không nghĩa là 
				tất cả mọi vật thể trong thế gian này dù to lớn như mặt trời, 
				mặt trăng hay nhỏ như hạt cát như vi trần đều do duyên khởi tác 
				tạo mà thành chớ không vật nào tự nó sinh khởi hay tồn tại được 
				cho nên vật thể là vô ngã, không có tự thể nên tuy là có, là 
				thấy sờ sờ ở đó nhưng một ngày nào đó nó sẽ bị biến hóa, tiêu 
				hoại nên gọi là không. Do đó, cái không của Phật giáo là không 
				tham đắm, si mê, không chấp thủ chạy theo hình sắc sinh diệt chớ 
				không phải dùng thần thông hay quán làm biến đi tất cả. Người có 
				tư duy, chánh niệm khi thấy đóa hoa đẹp thì họ vẫn biết cái đẹp 
				của hoa đấy chứ, nhưng họ quán rằng đóa hoa là do trùng trùng 
				duyên khởi mà thành vì vậy đến tuần sau đóa hoa bắt đầu héo úa, 
				tàn phai rồi trở thành phân bón cho nên nhìn đóa hoa thì họ cũng 
				nhìn, cũng biết nó đẹp, nhưng không đắm nhiễm say mê, lúc nào 
				cũng tự tại với sắc đẹp. Lấy đóa hoa làm tiêu chuẩn để nhìn tất 
				cả những hình sắc khác trên thế gian này cho nên tuy mắt có nhìn 
				các loại trân châu bảo ngọc quý báu, đẹp đẽ đến đâu thì nó cũng 
				là loại vô thường hoại diệt. Ngược lại nếu nhìn theo con mắt của 
				phàm nhân thì tham đắm, say mê rồi chấp thủ đem về làm của riêng 
				cho mình đưa đến tranh chấp, chiến tranh giết hại lẫn nhau. Nói 
				tóm lại, người biết đạo thấy đẹp thì cũng biết là đẹp, nhưng họ 
				biết vật chất đó từ “Không” mà “Có” vì thế một ngày nào đó từ 
				“Có” sẽ trở thành “Không” cho nên thấy tất cả vật chất nhưng 
				không bị chúng lôi cuốn nhận chìm nên họ mới có an nhiên tự tại 
				được. Đó chính là “Kiến sắc phi can sắc” vậy. Người học Phật 
				không những thấy biết rõ ràng sự hoại diệt, vô thường của thế 
				gian mà còn thấy rốt ráo sự trường tồn vĩnh cửu tức là tánh vô 
				sanh vô diệt của vạn pháp nữa. Bởi vì lúc đóa hoa tàn úa thì từ 
				cái diệt này bắt đầu cho sự sanh khác để tạo thành đóa hoa 
				mới.Đó là hiện tượng quy về bản thể và bản thể duyên khởi thành 
				ra hiện tượng cho nên không có cái gì là thật sinh hay cái gì là 
				thật diệt nghĩa là sinh để rồi diệt, diệt rồi lại sinh, sinh 
				sinh diệt diệt vô cùng vô tận nên sinh diệt, sống chết là chuyện 
				thường, chẳng có gì quan trọng nên không còn lo sợ, buồn phiền. 
				Chúng sinh khi thấy mình già yếu, bệnh tật thì đau khổ, lo âu, 
				sợ sệt. Ngược lại, đối với người biết đạo thì sống chết là 
				chuyện bình thường, tử sanh là trò dâu biển nằm trong chu kỳ bất 
				biến tùy duyên rồi tùy duyên bất biến thế thôi. Vì vậy với Phật 
				nhãn của chư Phật thì nhìn vạn pháp sanh mà không thật sanh và 
				diệt nhưng không phải là mất hẳn nghĩa là sinh để rồi diệt và 
				diệt rồi để lại sanh, sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận.Tóm 
				lại,thần thông được hiểu là bất tư nghì, vô ngại tự tại. Vô ngại 
				tự tại đối với những việc khó tự tại để vượt qua những thử thách 
				mà người thường không thể nào tự tại được. Vì vậy người có thần 
				thông là người mà lục căn được sức tự tại vô ngại một cách bất 
				tư nghì (không thể nói được) mà đối với một người thường không 
				nghĩ đến được, không thực hành được, không thể chiến thắng được 
				những dục vọng làm ô nhiễm tâm ý của mình. Đó là mắt đối với 
				sắc, tai đối âm thanh, lưỡi đối với mùi vị, mũi đối với hương 
				vị, thân đối với cảm xúc và ý đối với pháp trần mà vẫn được tự 
				tại vô ngại một cách bất tư nghì thì người đó chứng được lục 
				thông. 
				Ngày nay với đà phát triển của văn minh khoa 
				học, con người có thể trực tiếp nói chuyện với người thân tận 
				bên kia quả địa cầu. Xa hơn nữa, con người có thể lên cung trăng 
				thăm chị Hằng, chú Cuội. Có những chiếc tàu ngầm chạy bằng 
				nguyên tử lực có thể lặn sâu ở dưới lòng đại dương cả năm trời. 
				Thế thì thần thông không nhất thiết phải là thấy xa, nghe rộng 
				hay là bay cao nhảy xa giống như ảo thuật mà phải được hiểu là 
				khả năng đoạn trừ mọi tham đắm, si mê, không bị lôi cuốn nhận 
				chìm trong ái dục và dĩ nhiên lúc nào cũng sống trong tỉnh thức 
				chánh niệm tức là luôn làm chủ tâm mình. Đây mới chính là những 
				thứ tự tại vô ngại, bất khả tư nghì mà người thường không thể 
				làm được. 
				Dựa theo Phật giáo Nguyên thủy, 10 pháp 
				Ba-la- mật gồm có: 
				v 
				Bố thí: 
				Tôi nguyện khoan dung quảng đại và phục vụ bất cầu lợi. 
				v 
				Trì giới: 
				Tôi nguyện khép mình vào nếp sống kỷ cương và tác phong thanh 
				nhã. 
				o  
				-Tôi nguyện luôn luôn tinh khiết 
				và trong sạch. 
				o  
				-Tôi nguyện giữ thân, khẩu, ý 
				thanh tịnh, và phẩm hạnh thanh cao. 
				v 
				Tâm dứt bỏ/ xuất gia: 
				Tôi nguyện không ích kỷ, không khát khao quyền tư hữu, không 
				luyến ái mà vị tha và có tâm dứt bỏ. 
				o  
				-Tôi nguyện hy sinh hạnh phúc 
				riêng tư để mưu cầu lợi ích cho kẻ khác. 
				v 
				Trí tuệ: 
				Tôi nguyện thành đạt trí tuệ và chứng ngộ chân tướng của vạn 
				pháp. 
				o  
				-Tôi nguyện chứng ngộ Ánh Sáng 
				Chân Lý để dẫn dắt kẻ khác từ chỗ mê lầm đến nơi giác ngộ. 
				o  
				-Tôi nguyện tự giác để giác tha. 
				o  
				-Ước mong tôi có thể chia sớt tri 
				kiến của tôi cho tất cả mọi người cùng hưởng. 
				v 
				Tinh tấn: 
				Tôi nguyện cương nghị, tinh tấn và kiên trì. 
				o  
				-Tôi nguyện chuyên cần tinh tấn 
				cho đến khi thành tựu mục tiêu cứu cánh! 
				o  
				-Tôi nguyện bình tĩnh đương đầu 
				với mọi hiểm nguy và can đảm vượt khỏi mọi chướng ngại! 
				o  
				-Ước mong tôi có thể tận lực phục 
				vụ kẻ khác. 
				v 
				Nhẫn nại: 
				Tôi nguyện luôn luôn kiên tâm bền chí! 
				o  
				Ước mong tôi có thể gánh vác và 
				chịu đựng những lỗi lầm của người khác! 
				o  
				Tôi nguyện rộng lượng khoan hồng 
				và luôn luôn thấy cái tốt, cái đẹp nơi tất cả mọi người. 
				v 
				Chân thật: 
				Tôi nguyện giữ mình luôn luôn cương trực và liêm khiết! 
				o  
				-Tôi nguyện không che giấu sự thật 
				để giữ lễ độ. 
				o  
				-Tôi nguyện không tách rời con 
				đường Chân Lý. 
				o  
				-Tôi nguyện nói sao làm vậy và làm 
				sao nói vậy. 
				v 
				Quyết định: 
				Tôi nguyện cương quyết, vững chắc và có ý chí sắt đá. 
				o  
				-Ước mong tôi được dịu dàng như 
				một tai hoa và cứng rắn như một tảng đá. 
				o  
				-Tôi nguyện vững tâm khép mình vào 
				những quy tắc cao thượng. 
				v 
				Tâm từ: 
				Tôi nguyện luôn luôn từ ái, bi mẫn và thành thật ước mong cho 
				tất cả chúng sanh đều được an vui hạnh phúc. 
				o  
				-Tôi nguyện xem tất cả chúng sanh 
				là anh chị em và chan hòa đồng nhứt với tất cả. 
				v 
				Tâm xả: 
				Tôi nguyện luôn luôn được an tịnh, vắng lặng, thản nhiên và tự 
				tại. 
				o  
				-Tôi nguyện thành thật và tâm quân 
				bình. 
				o  
				-Tôi nguyện giữ tâm hoàn toàn 
				thanh thản. 
				Nhưng dựa theo Phật giáo Đại thừa, Lục độ 
				Ba-la-mật là pháp tu của hàng Bồ tát, được hiểu một cách khái 
				quát là sáu phương tiện đưa người qua bờ bên kia, tức từ bờ mê 
				qua bờ giác. Tuy nhiên ý nghĩa “qua bờ kia” chưa diễn đạt hết 
				tinh tuý của từ Ba-la-mật, vì Bồ tát không chỉ an vị tại bờ 
				giác, mà mục đích tu hành của Bồ tát thừa là một mặt tự hoàn 
				thiện mình, một mặt cứu độ chúng sanh. Các ngài làm tất cả các 
				Phật sự nhưng không có tâm mong cầu kết quả, không chấp trước 
				vào người làm, vào phương tiện làm và vào chúng sinh là đối 
				tượng của việc làm. Đây là đạo đức vô hành, là tam luân không 
				tịch, là vô sở cầu vô sở đắc. Ba-la-mật cũng là mật hạnh, đại 
				hạnh của Bồ tát. Nếu dùng bố thí độ xan tham, trì giới độ phá 
				giới.... thì còn hạn chế trong việc đối trị; ở đây, lục độ với 
				tinh thần Ba-la-mật có sự hài hòa giữa trí tuệ, từ bi và hùng 
				lực. Bằng trí tuệ, Bồ tát thấy tất cả chúng sinh đều có Phật 
				tánh, nhưng do mê muội không nhận ra, nên mãi tạo nghiệp và trầm 
				luân trong sanh tử. Vì thế, Bồ tát phát khởi lòng từ bi, nguyện 
				độ tận chúng sinh trong ba cỏi sáu đường. Có từ bi, các ngài sẽ 
				có đủ hùng lực, thi thiết mọi phương tiện quyền xảo tùy căn cơ 
				giáo hóa chúng sinh, dù bao nghịch cảnh vẫn không thối chí. 
				Ba-la-mật còn có nghĩa là cứu cánh, rốt ráo. Mục đích cuối cùng 
				của đời tu, cũng như bản hoài của chư Phật đối với tất cả chúng 
				sanh, là nhận ra và hằng sống với bản tâm thanh tịnh thường 
				nhiên của chính mình. Đó là Phật tánh, chân tâm, bản lai diện 
				mục... Nhận ra tánh giác là chánh nhân thành Phật, hằng sống 
				trọn vẹn với tánh giác là viên mãn Phật quả. 
				Như vậy, Lục độ Ba-la-mật của Phật giáo Đại 
				thừa gồm 6 phương tiện: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, 
				Thiền định và Trí tuệ. 
				Vậy thế nào là thức uẩn? 
				Những nhân vật trong đoạn kinh trên là biểu 
				tượng của thức uẩn. Vua Diệu Trang Nghiêm là nhân vật quan trọng 
				nhất nên tượng trưng cho Tàng thức (A lại da thức). Phu nhân 
				Tịnh Đức là người thân cận nhất của nhà vua tức là Mạt-na-thức 
				(thức thứ bảy). Tịnh Tạng là ý thức và Tịnh Nhãn là biểu trưng 
				cho Tiền ngũ thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và 
				thân thức). 
				v 
				Nhãn thức: 
				Cái biết của con mắt. Vì thức này nương theo sụ thấy biết của 
				mắt mới khởi ra tác dụng sự phân biệt nên gọi là nhãn thức. 
				v 
				Nhĩ thức: 
				Cái biết của lỗ tai. Vì thức này nương theo âm thanh mà tai nghe 
				được mới khởi ra tác dụng phân biệt nên gọi là nhĩ thức. 
				v 
				Tỷ thức: 
				Cái biết của mũi. Vì thức này dựa theo cái biết của hương vị do 
				mũi tiếp nhận để khởi ra tác dụng sự phân biệt. 
				v 
				Thiệt thức: 
				Cái biết của lưỡi. Vì thức này tùy thuộc vào mùi vị do lưỡi nếm 
				được để khởi ra tác dụng sự phân biệt. 
				v 
				Thân thức: 
				Cái biết của thân. Khi thân cảm thấy nóng lạnh hay tiếp xúc với 
				cứng mềm để khởi ra tác dụng phân biệt nên gọi là thân thức. 
				o  
				Vì năm thức ở trên là nằm ở bên 
				ngoài và trước nên gọi là “Tiền ngũ thức”. 
				v 
				Ý thức: 
				Thức này nương tựa ý căn mới khởi tác dụng phân biệt Pháp trần 
				nên gọi là “Ý thức”. Trong tám thức chỉ có thức thứ sáu này rất 
				lạnh lẹ và khôn ngoan hơn hết. Bởi vì chúng sinh có suy nghĩ làm 
				việc lành, việc tốt thì thức này đứng đầu. Còn nếu chúng sinh 
				tính toán tạo tác việc ác thì nó cũng hơn cả. Vì thế mà trong 
				Duy thức có câu : “Công vi thủ, tội vi khôi” nghĩa là nói về 
				công thì thức này hơn hết, còn luận về tội thì nó cũng đứng đầu. 
				v 
				Mạt na thức: 
				Thức này có công năng truyền các pháp hiện hành vào A lại da 
				thức (Tàng thức) và tổng đưa các pháp chủng tử khởi ra hiện 
				hành. 
				v 
				A lại da thức: 
				A lại da là âm của tiếng Phạn Alaya có nghĩa là cái kho mà danh 
				từ Hán-Việt gọi là tàng. Tất cả mọi chủng tử không phân biệt 
				thiện ác, tốt xấu, sanh tử và niết bàn, mê ngộ và khổ vui, ngay 
				cả vô ký đều được chứa đựng trong tàng thức này. A lại da thức 
				có khả năng tiếp nhận, duy trì và làm các hạt giống chủng tử 
				tăng trưởng, chuyển biến cho đến khi đầy đủ nhân duyên thuần 
				thục chín mùi thì mới được đi tái sanh vào những thế giới thích 
				hợp với căn nghiệp của mình. Vì các sự huân tập và chuyển biến 
				trong A lại da thức thật tiềm ẩn và vi tế nên người chưa đắc đạo 
				không thể biết được mình sẽ thọ thân làm loài gì và ở trong quốc 
				độ nào. 
				A lại da thức ví như cái kho dung chứa tất cả 
				những ký ức, kinh nghiệm, kiến thức và những chủng tử thiện ác 
				hay vô ký. Còn Mạt na thức là người giữ kho nên có thể đem những 
				chủng tử mới vào và chuyển chủng tử củ ra tức là hiện hành và 
				biến hành. Mà ý thức là người xúi dục, thúc đẩy Mạt na thức ra 
				vào kho A Lại da. Sau đó tư tưởng chuyển qua Tưởng uẩn để cho Ta 
				biết vật đó là gì, hình dáng ra sao…Rồi cuối cùng bộ óc hành xử 
				ý niệm đó bằng cách điều động chân tay, mắt, tai, mũi… tức là 
				thân, khẩu, ý hoạt động mà tạo nghiệp. 
				Tuy nhiên thức thứ tám này cũng còn được gọi 
				là A-đà-na thức và có ba công năng: 
				1) Giữ gìn (chấp trì) chủng tử của 
				các pháp : Các pháp nói ở đây là chỉ cho tất cả các 
				pháp hữu vi. Đó là “hữu lậu hữu vi” tức là các pháp tạp nhiễm 
				thuộc về chúng sinh và “vô lậu hữu vi” tức là các pháp thanh 
				tịnh thuộc về Thánh hiền. Tuy nhiên “chủng tử” chỉ có công năng 
				tiềm tàng (ẩn núp) mà không khởi hiện. Nếu không có một cái gì 
				để chứa giữ thì chủng tử của các pháp phải bị tản mất. Nếu chủng 
				tử các pháp bị tản mất thì các pháp hiện hành ở thế gian và xuất 
				thế gian cũng chẳng còn. Do đó phải có thức A-đà-na, tánh vô phú 
				vô ký, nhất loại sinh diệt tương tục mới có thể duy trì chứa giữ 
				chủng tử của các pháp. 
				2) Giữ chịu(chấp 
				thọ)
				sắc căn và thế giới 
				: Đây là muốn chỉ cho cái công năng giữ gìn báo thân của chúng 
				sinh hữu tình được tương tục tồn tại trong một thời kỳ không tan 
				hoại. 
				3) Giữ lấy(chấp 
				thủ) 
				việc kết nối đời sau: 
				tức là “kiết sanh tương tục” là do ba pháp  phiền não, 
				nghiệp và sanh. Con người vì sống trong vô minh phiền não nên 
				tạo ra nghiệp mà phải kết nối đời sau để thọ khổ. Chữ “kiết 
				sanh” có nghĩa là thọ sanh tức là bắt đầu từ khi kết thai 
				cho đến lúc sanh ra vậy. Tiến trình kết mối đời sau bắt đầu từ 
				thân đang sống đến thân đang chết. Rồi từ thân đang chết đến 
				thân trung ấm (thân mới chết chưa đầu thai). Và sau cùng từ thân 
				trung ấm đến thân đời sau. Nếu các thân được tương tục không 
				gián đoạn như thế ắt phải có một cái gì thường lưu hành và giữ 
				gìn (chấp thủ). Cái đó chính là thức A-đà-na. Thật vậy, nếu 
				không có thức thứ tám này để nắm giữ việc “kết nối đời sau” thì 
				khi một người chết rồi phải mất luôn, không còn tái sanh được 
				nữa. Như thế thành ra bị rơi vào thuyết Đoạn diệt của ngoại đạo 
				rồi. Thêm nữa tất cả những chủng tử tốt xấu đều được gieo vào 
				mảnh đất A lại da trong trạng thái tiềm ẩn. Các chủng tử này 
				được huân tập, chuyển biến, tương sanh, tương duyên, tương diệt 
				liên tục. Tất cả những sự chuyển biến này xảy ra liên tục và tức 
				thời, chớp nhoáng và liên tiếp. Cái này diệt thì cái kia sinh, 
				tương tức tương tục liên miên bất tận nên được gọi là Sát Na 
				Sinh Diệt. Sát Na Sinh Diệt có thể được ví như những khối nước 
				liên tục chuyển động chảy trong dòng thác lũ. Khối nước trước đổ 
				qua thì có khối nước khác đổ tới, tiếp nối liên tục không ngừng 
				nghĩ và dĩ nhiên dòng nước cũ không thể chẩy trở lại nơi mà nó 
				đã chảy qua. Sự sinh diệt triền miên đó cũng có thể ví như những 
				đợt sóng dạt dào trên biển cả. Đợt sống này đẩy đợt sóng kia, 
				đợt sóng mới đẩy đợt sóng cũ. Bởi có gió vọng tưởng thổi sóng 
				dạt dào trên biển cả làm các ngọn sóng liên tiếp nhồi lên lặn 
				xuống không ngừng nghĩ cho nên ngọn sóng này diệt thì ngọn sóng 
				mới khởi sanh. Do đó, A đà na thức luôn thay đổi, biến hành nên 
				không phải là linh hồn vì linh hồn thì cố định, không biến đổi. 
				Vì vậy, Phật giáo phủ nhận linh hồn vì A đà na thức luôn biến 
				đổi, sinh diệt cho nên khi thức đầu tiên vào trong hài nhi gọi 
				là thức tái sinh. 
				Khi chúng sinh biết tu tập làm cho tâm được 
				thanh tịnh thì các chủng tử vô lậu được huân tập, tăng trưởng và 
				phát sinh ra hiện hành. Các hiện hành này được huân tập trở vào 
				thức A lại da thành các chủng tử vô lậu mới. Tùy theo tánh chất 
				của các chủng tử vô lậu mới này mà chủng tử hữu lậu tiềm ẩn sẵn 
				có trong tàng thức bị suy thoái và tiêu diệt hoặc các chủng tử 
				vô lậu sẵn có ở trong đó được tăng trưởng và phát sinh thêm. Nếu 
				chúng sinh trì công tu tập có nghĩa là tiếp tục huân tập các 
				chủng tử vô lậu thanh tịnh đến khi tất cả các chủng tử và hiện 
				hành hữu lậu hoàn toàn bị tiêu diệt thì lúc đó họ sẽ chứng đắc 
				được quả vị A la hán, hay là bát địa Bồ-tát của Đại thừa. Đến 
				đây thì tàng thức chỉ chứa toàn các chủng tử vô lậu. Các hạt 
				giống hữu lậu của phiền não, nghiệp báo luân hồi sinh tử không 
				còn nữa và A lại da thức bây giờ chuyển thành “Vô cấu thức”. Vô 
				cấu thức cũng còn cái tên khác là Yêm-ma-la thức, Bạch tịnh 
				thức, Thanh tịnh thức, Chân như thức, Như Lai tạng thức hay thức 
				thứ chín. Tuy có rất nhiều tên như thế nhưng chúng quy cũng chỉ 
				có một ý nghĩa “thanh tịnh”. 
				Đối với Phật giáo Nguyên thủy, khi hành giả 
				chứng Tứ thiền, đắc Tam minh, tâm chỉ còn lại các chủng tử vô 
				lậu thì họ trở thành A la hán. Quả A la hán là quả vị tối cao 
				trong Phật giáo tức là quả vị Phật vì đức Phật cũng là vị A la 
				hán. Lý do các vị A la hán không được gọi là Phật vì đức Phật là 
				người khai sáng ra đạo Phật và Ngài là vị thầy của tất cả các vị 
				A la hán cho nên danh vị Phật chỉ dành riêng cho đức bổn sư. Câu 
				chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên, đệ nhất thần thông, vì tiền kiếp 
				làm nghề đánh cá, sát hại quá nhiều chúng sinh nên tuy kiếp này 
				mặc dầu tu đã thành thánh mà vẫn còn phải trả nợ sinh mạng nên 
				mới bị bọn lõa thể ngoại đạo chặn đường ném đá cho đến chết. Câu 
				chuyện này không đúng sự thật bởi vì một khi trở thành A la hán 
				thì các hạt giống hữu lậu của phiền não, nghiệp báo luân hồi 
				sinh tử không còn nữa và A lại da thức bây giờ chuyển thành “Vô 
				cấu thức” thì còn lấy cái gì để trả? 
				Tuy nhiên, Phật giáo Đại thừa lý luận rằng 
				khi hành giả đạt đến quả vị A la hán ngang hàng với Bát địa 
				Bồ-tát thì các chủng tử hữu lậu làm chướng ngại chân tâm sẽ bị 
				hủy diệt, nhưng thật ra vẫn còn những chủng tử hữu lậu vi tế nằm 
				tiềm ẩn trong thức thứ tám này. Chỉ khi nào các vị A la hán hay 
				bát địa Bồ-tát tiếp tục tiến tu pháp tối thắng vô phân biệt trí, 
				được gọi là Thắng Pháp Không Quán, để vượt qua khỏi bậc Bồ-tát 
				Thập địa mà đến bậc Đẳng Giác và khởi Kim Cang Dụ Định mà đạt 
				tới Phật quả thì thức thứ tám này mới xóa tan hoàn toàn tất cả 
				các vô lậu thậm thâm vi tế và chuyển thành Đại Viên Cảnh 
				Trí. Khi đó các chủng tử vô lậu, cấu nhiễm đã hết, thức này 
				chuyển thành trí thanh tịnh chiếu khắp mười phương các cõi nhiều 
				như vi trần nên gọi là Đại Viên Cảnh Trí. Đây chính là cái thể 
				thanh tịnh của Chơn Tâm cũng như mặt gương sáng chiếu soi tất cả 
				vạn pháp một cách chân thật mà nhà Phật gọi là “như thị bất khả 
				tư nghì”. 
				Thế thì làm sao phá được thức uẩn dựa 
				theo đoạn kinh này? 
				Mỗi khi lục căn tiếp xúc với lục trần thì lục 
				thức phát sinh, nhưng sự thấy biết của tiền ngũ thức là “hiện 
				lượng” tức là thấy sao biết vậy chưa có sự phân biệt cũng giống 
				như cái máy quay phim, cảnh giới âm thanh bên ngoài thế nào thì 
				nó ghi lại như vậy, không thêm bớt. Nhưng khi có mặt của ý thức 
				thì hiện lượng không còn mà thay vào đó bằng “tỷ lượng” tức là 
				có sự phân biệt của cao thấp, hơn thua, đẹp xấu…trong đó rồi. Từ 
				đó vọng tưởng phát sinh và đưa con người chìm đắm vào trong sông 
				mê biển ái mà chịu cảnh khổ. Những chủng tử của vọng thức được 
				chuyển vào trong A lại da thức từ đó trong tâm chứa đầy vọng 
				kiến tình thức rồi sinh ra biết bao vọng tưởng để sai khiến con 
				người chạy theo thập triền, thập sử cho nên họ không bao giờ có 
				giây phút an vui, tự tại. 
				Vì thế muốn chuyển tâm, chuyển nghiệp thì 
				trước hết phải làm chủ thân, tâm, kiểm soát sáu thức. Nếu con 
				người luôn sống trong tỉnh thức chánh niệm thì ý thức không tác 
				tạo hoành hành được. Nhờ công phu tu tập các chủng tử trong A 
				lại da thức dần dần chuyển thành vô lậu nghĩa là biến A lại da 
				thức thành ra Đại Viên Cảnh Trí. Nói chung tiến trình chuyển 
				thức dựa theo Duy thức của Bồ Tát Di Lặc, thành ra trí dựa theo 
				Căn Bản Trí của Bồ Tát Văn Thù. 
				v 
				1)Thành sở tác trí: 
				Do công phu tu hành chuyển năm thức: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt và 
				thân thành thanh tịnh trí. 
				v 
				2)Diệu quan sát trí: 
				Chuyển ý thức là thức bén nhạy nhất thành trí quan sát diệu 
				dụng. 
				v 
				3)Bình đẳng tánh trí: 
				Chuyển thức thứ bảy (Mạt na thức) tức là thức chấp ngã thành lý 
				vô ngã, không còn nhiễm chấp. 
				v 
				4)Đại viên cảnh trí: 
				Do công năng tu tập, chuyển A lại da thức tức là tàng thức của 
				phàm phu thành ra Nhất thiết chủng trí tức là tổng thể Như Lai 
				công đức. Trí này ví như gương lớn sáng chiếu soi tất cả sắc 
				tướng trang nghiêm, duyên cảnh thanh tịnh, gồm thâu chiếu soi 
				“sự lý pháp giới” viên dung nên gọi là Đại viên cảnh trí. 
				Tóm lại, Đại viên cảnh trí tức là Tánh thanh 
				tịnh của mình, Bình đẳng tánh trí là tâm không bệnh tức là tâm 
				không duyên theo bên này bên kia, Diệu quan sát trí là làm tất 
				cả mà không chấp ngã, không chấp công, cũng không chấp những 
				việc mình làm nhiều hay ít, Thành sở tác trí là tánh thanh tịnh 
				của mình. 
				Vì vậy khi tiền ngũ thức và ý thức được thanh 
				tịnh thì Mạt na thức sẽ thanh tịnh và từ đó mới có thể chuyển A 
				lai da thức thành ra Như Lai tạng tức là “Vô Cấu thức” hay Bạch 
				Tịnh thức rồi thành Đại Viên Cảnh Trí tức là thành Phật. 
				Thế thì Hoàng tử Tịnh Tạng biểu tượng cho ý 
				thức và Tịnh Nhãn biểu trưng cho tiền ngũ thức, đã xuất gia tu 
				chứng nghĩa là tiền ngũ thức và ý thức bây giờ thanh tịnh nên 
				mới khuyên vua Diệu Trang Vương và phu nhân Tịnh Đức hướng về tu 
				theo đạo Vô thượng Bồ Đề nghĩa là một khi lục thức đã thanh tịnh 
				thì Mạt na thức (Hoàng hậu Tịnh Đức) sẽ thanh tịnh theo và sau 
				cùng A lai da thức (vua Diệu Trang Vương) sẽ chuyển thành Như 
				Lai tạng bản thể. 
				Bấy giờ, Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn đến 
				chỗ mẹ ở, chấp tay thưa: 
				-Xin mẹ đến chỗ Phật Vân Lôi Âm ngự, 
				chúng con cũng sẽ theo hầu để gần gũi và cúng dường Phật. Vì 
				sao? Vì Phật đang vì Trời, người nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa, 
				nên phải nghe và tin nhận.  
				Phu nhân bảo hai con: 
				 
				-Cha chúng con tin theo ngọai đạo, 
				nhiễm sâu pháp Bà-la-môn, các con nên qua thưa với cha chúng con 
				để cùng nhau đồng đi.  
				Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn thưa: 
				 
				-Chúng con là con của Vua Pháp, sao 
				lại sanh vào nhà tà kiến?  
				Phu nhân dạy:  
				-Các con nên thương tưởng cha các con 
				mà hiển phép thần thông biến hoá, thấy được phép ấy, ắt lòng cha 
				con thanh tịnh, hoặc nghe lời chúng ta mà qua đến chỗ Phật.
				 
				Lúc bấy giớ Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí 
				đang thuyết kinh Pháp Hoa cho tứ chúng nghe cho nên hai anh em 
				Hoàng tử Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn bèn mời Hoàng hậu Tịnh Đức đến 
				cúng dường và nghe Phật thuyết pháp. Theo thứ tự thì sau khi 
				Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn đã tu hành thanh tịnh thì hai anh em liền 
				mời mẹ đi cúng dường và nghe Phật thuyết pháp nghĩa là lục thức 
				sau khi đã thanh tịnh liền chuyển Mạt na thức thanh tịnh theo 
				mình. Nếu A lại da thức như là cái kho thì Mạt na thức là người 
				giữ kho cho nên hai bên quan hệ rất mật thiết với nhau cho nên 
				khi Mạt na thức chuyển biến thì A lai da thức phản kháng ngay. 
				Vì thế Hoàng hậu Tịnh Đức mới nói cho hai con rằng nên qua mời 
				nhà vua cùng đi, nhưng chưa chắc ông sẽ đi vì ông ta còn tin vào 
				ngoại đạo, theo tà kiến. Ý đoạn kinh này là tuy Mạt na thức muốn 
				chuyển A lại da thức thành Như Lai tạng bản thể, nhưng trong A 
				lại da chứa quá nhiều chủng tử thiện ác đủ thứ cho nên không dễ 
				gì một sớm một chiều mà chuyển hết được. Hoàng hậu khuyên hai 
				con nên dùng thần thông diệu dụng để làm cho cha mình khâm phục 
				mà đến cúng dường Phật nghĩa là muốn hóa giải hết những chủng tử 
				xấu, chủng tử hữu lậu thì phải biết tu tập thiền định khiến cho 
				tâm được thanh tịnh thì các chủng tử vô lậu được huân tập, tăng 
				trưởng và phát sinh ra hiện hành. Các hiện hành này được huân 
				tập trở vào thức A lại da thành các chủng tử vô lậu mới. Tùy 
				theo tánh chất của các chủng tử vô lậu mới này mà chủng tử hữu 
				lậu tiềm ẩn sẵn có trong tàng thức bị suy thoái và tiêu diệt 
				hoặc các chủng tử vô lậu sẵn có ở trong đó được tăng trưởng và 
				phát sinh thêm. Nếu chúng sinh trì công tu tập có nghĩa là tiếp 
				tục huân tập các chủng tử vô lậu thanh tịnh đến khi tất cả các 
				chủng tử và hiện hành hữu lậu hoàn toàn bị tiêu diệt thì lúc đó 
				họ sẽ chứng đắc được quả vị A la hán, hay là bát địa Bồ-tát của 
				Đại thừa. 
				Ngay lúc đó, hai người con, vì tưởng 
				nhớ đến cha, bay vọt lên hư không cao bằng bảy cây đa-la, hiện 
				các món thần thông như: đi , đứng, ngồi, nằm trong hư không, 
				trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, dưới thân ra nước, trên 
				thân ra lửa, hoặc hiện thân lớn đến choán hết hư không rồi hiện 
				lại nhỏ, nhỏ lại hiện ra lớn, ẩn mất trong hư không rồi bổng 
				nhiên hiện ra trên đất, vào đất như vào nước, đi trên nước như 
				đi trên đất.  
				Thấy thần lực của con như vậy, vua 
				cha lòng rất vui mừng, như được vật chưa từng có, bèn chắp tay 
				hướng về phía con mà nói rằng: Thầy của các con là ai? Các con 
				là đệ tử của ai?  
				Hai con thưa: Đức Phật Lôi Âm Tú 
				Vương Hoa Trí hiện đang ngồi trên pháp toà dước cây bồ-đề bằng 
				bảy báu, trong đám trời, người trên thế gian, rộng nói kinh Pháp 
				Hoa, là thầy của chúng con đó; chúng con là đệ tử của Ngài.
				 
				Vua cha nói: “Ta nay cũng muốn ra mắt 
				thầy các con, vậy chúng ta cùng đi”.  
				Khi đó hai người con, từ hư không 
				xuống, đến chỗ mẹ ở chắp tay thưa: Phụ vương nay đã tin hiểu, có 
				thể kham phát tâm Vô Thượng Giác. Chúng con đã vì cha mà làm 
				xong Phật sự rồi, vậy mong mẹ bằng lòng cho chúng con xuất gia 
				tu hành ở chỗ đức Phật Lôi Âm.  Nói xong, hai người lại đọc 
				bài kệ:  
				Xin mẹ cho các con
				 
				Xuất gia làm 
				Sa-môn  
				Các Phật rất khó 
				gặp  
				Cho con theo Phật 
				học  
				Gặp hoa Ưu-đàm khó
				 
				Gặp Phật còn khó 
				hơn  
				Khỏi các nạn cũng 
				khó  
				Nên cho con xuất 
				gia.  
				Mẹ liền bảo: “ Cho các con xuất gia, 
				vì Phật rất khó gặp”.  
				Theo Phân tâm học, tâm của con người chia làm 
				hai là ý thức và vô thức, nhưng Duy thức học chia tâm thành tám 
				gọi là bát thức tâm vương và ý thức là một thành phần trong đó. 
				Ý thức có thể hướng ra ngoài để tìm hiểu về thế giới nó đang 
				tiếp xúc và xoay vào trong để tìm hiểu nội tâm. Ý thức có khả 
				năng tưởng tượng, liên tưởng, trừu tượng hóa vấn đề, phân tích, 
				tổng hợp, suy luận và kết luận. Ngoài ra, ý thức còn có thể điều 
				khiển rất nhiều hoạt động của thân vì thế ý thức là thành phần 
				lanh lợi, nhạy bén và đa năng nhất của tâm. Theo Duy thức học 
				thì ý thức sai khiến, xúi bảo Mạt na thức ra vào A lai da thức 
				để so sánh, phân tích tạo nên ý niệm, tư tưởng rồi sai khiến 
				thân, khẩu, ý thực hành. Vì thế con nguời có làm lành tích đức 
				thì do ý thức mà làm dữ tạo nghiệp thì cũng do ý thức.  
				Vì vậy muốn thanh tịnh hóa tâm thì phải tu từ 
				ý thức. Rồi sau đó từ từ chuyển hóa ý thức trở thành thanh tịnh 
				tức là Diệu quan sát trí. Do ý thức thanh tịnh thì những chủng 
				tử trong A lại da thức dần dần chuyển theo và biến các chủng tử 
				hữu lậu thành ra vô lậu. Nói chung lục thức tiếp xúc với thế 
				giới bên ngoài và bắt đầu huân tập những cái hay cái tốt mới có 
				công năng chuyển A lại da thức trở thành thanh tịnh. Do vậy mà 
				kinh nói hai vị Hoàng tử hiện thần thông khiến cho nhà vua (A 
				lại da thức) tin để rồi đưa nhà vua đến yết kiến đức Phật (trở 
				thành thanh tịnh). 
				Khi hai vị Hoàng tử hướng dẫn vua cha đến yết 
				kiến Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, hai vị xin được xuất gia 
				vì họ nghĩ rằng mình đã làm xong bổn phận là đưa cha (A lại da 
				thức) trở về với Chánh pháp. Hoàng hậu (Mạt na thức) đồng ý vì 
				ngàn năm Phật mới ra đời nên gặp Phật rất khó. Một lần nữa chúng 
				ta thấy rằng một khi ý thức và tiền ngũ thức đã được thanh tịnh 
				thì Mạt na thức (Hoàng hậu) bị chuyển theo và sau cùng A lại da 
				thức (nhà vua) cũng chuyển sang Đại viên cảnh trí, thanh tịnh 
				Niết bàn (gặp Phật). 
				Hai con liền thưa: Thưa cha mẹ, như 
				thế thì hay lắm! Chúng con xin qua chỗ Phật Vân Lôi Âm để gần 
				gũi cúng dường. Khó cho người gặp hoa Linh Thoại, khó cho rùa 
				một mắt gặp bông cây nổi, gặp được Phật cũng khó như thế. Chúng 
				ta phước đức đời trước sâu dày nên mới sanh đời này gặp Phật 
				pháp, bởi vậy xin cha mẹ nghe chúng con mà xuất gia. Các đức 
				Phật khó gặp, thời kỳ gặp Phật cũng khó có.  
				Thật là phước duyên quá lớn cho những ai sanh 
				vào thời Phật giáng sinh hay sống cùng thời với đức Phật, nhưng 
				phước duyên lớn nhất là được xuất gia, được nghe trực tiếp lời 
				dạy của Phật rồi nghiêm túc thực hành để có giải thoát giác ngộ. 
				Vì thế hai vị Hoàng tử nguyện đi theo con đường của Phật để có 
				giải thoát, giải thoát tri kiến. Do vậy, khi Phật Thích Ca Mâu 
				Ni xuất hiện ở Ấn Độ trên 2500 năm về trước đã có hàng ngàn hàng 
				vạn vị đệ tử xuất gia và đã trở thành A la hán, có giải thoát 
				Niết bàn. 
				Nhưng tại sao Phật lại rất khó gặp? 
				Phật ở đây không phải là Phật Thích Ca mà là 
				Phật tâm, Phật tánh cho nên trong cuộc sống thường nhật, con 
				người không có giây phút tĩnh tâm để hướng về giải thoát giác 
				ngộ thì không bao giờ họ thấy Phật được. Nếu biết buông xả, giảm 
				bớt cường độ tham dục thì chúng ta sẽ có nhiều cơ hội để quay về 
				sống thật với chơn tánh, xa hơn nữa nếu lúc nào cũng biết sống 
				trong tỉnh thức chánh niệm, làm chủ thân, tâm thì Phật hiễn bày 
				cho nên gặp Phật đâu có khó gì. 
				Lúc đó, nơi hậu cung vua Diệu Trang 
				Nghiêm có 84.000 người đều có thể thọ trì được kinh Pháp Hoa 
				này. Còn Bồ-tát Tịnh Nhãn và Bồ-tát Tịnh Tạng, vì muốn làm cho 
				tất cả chúng sanh xa lìa các đường dữ, nên Tịnh Nhãn đã từ lâu 
				thông đạt “Pháp Hoa Tam Muội”, và Tịnh Tạng từ vô lượng kiếp đã 
				thông đạt môn “Ly chư ác thú tam muội”.  
				Phu nhân của vua được môn “Chư Phật 
				Tập tam muội” năng biết tạng bí mật của chư Phật. 
				 
				Nhờ hai con dùng sức phương tiện khéo 
				hóa độ như thế, lòng vua tin hiểu, ưa mến 
				Phật pháp.  
				Vua Diệu Trang Nghiêm 
				là biểu trưng cho A Lại da thức và ngài có 84.000 người hầu đi 
				theo đều có thể thọ trì kinh Pháp Hoa nghĩa là A lại da thức là 
				cái kho chứa nên khả năng dung chứa rất lớn nếu không muốn nói 
				là vô cùng vô tận. Vì thế thâm ý của kinh khi nói 84.000 người 
				hầu đi theo có thể thọ trì kinh Pháp Hoa có nghĩa là một khi A 
				lại da chuyển thì tất cả chủng tử nằm trong đó liền theo đó 
				chuyển hết. 
				Hoàng tử Tịnh Nhãn được Pháp Hoa tam muội có 
				nghĩa là Pháp Hoa Chánh định tức là nhận chân được Tri Kiến Phật 
				của chính mình. Mà Tri Kiến Phật là chơn tánh tức là tánh giác 
				hằng sáng hiện hữu nơi mắt, tai, mũi, lưỡi và thân cho nên mắt, 
				tai, mũi, lưỡi, thân của Tịnh Nhãn lúc nào cũng thanh tịnh. 
				Trong khi đó Hoàng tử Tịnh Tạng là biểu trưng 
				cho ý thức cho nên được “Ly chư ác thú tam muội” có nghĩa là một 
				khi ý thức đã chuyển, trở thành thanh tịnh nên không còn tạo 
				nghiệp ác. Trong bát thức tâm vương thì ý thức là tư tưởng, nó 
				mượn sự hoạt động của bộ óc để phát hiện tức là phân biệt tốt 
				xấu, phải quấy, thịnh suy, vinh nhục, ngon dở, thân sơ…Ý thức là 
				quan trọng và nguy hiểm nhất vì nó sai sử con người vào chỗ đọa 
				lạc. Vì thế nếu người tu diệt được ý thức là thoát ly sinh tử 
				tức là được liễu sanh thoát tử ngay. Ý thức tức là tư tưởng đề 
				nghị thì Mạt na thức tính toán đắn đo rồi lựa chọn những gì có 
				lợi cho Ta và cái của Ta nằm trong A lại da thức và sau cùng ý 
				thức quyết định sai thân, khẩu, ý hành động và dĩ nhiên tác tạo 
				ra nghiệp. Tuy thức thứ bảy có tính toán quyết định gì chăng nữa 
				thì cũng do thức thứ sáu là ý thức thúc đẩy, xúi giục cho nên ý 
				thức mới là thức nguy hiểm nhất. Thức thứ bảy này là thức ngu si 
				nhất và thức thứ sáu là thức khôn ngoan nhất và cũng là tội lỗi 
				nhất trong bát thức tâm vương. A lại da thức có thể hiểu như là 
				cái kho và Mạt na thức như là người giữ kho có chìa khóa để ra 
				vào và ý thức là người sai bảo người giữ kho mở cửa. Vì thế động 
				lực dẫn con người đi vào đường ác là ý thức và được thanh tịnh 
				là cũng do nơi ý thức. 
				Nghiệp được phát xuất từ thân khẩu ý, vậy nó 
				ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tại và tương lai của chúng ta như 
				thế nào? 
				Tuy thân, khẩu, ý phát sinh ra nghiệp, nhưng 
				trên thực tế tất cả các nghiệp mà con người tạo ra đều bắt nguồn 
				từ ý tưởng của họ trước nhất. Do đó, miệng chúng ta có nói tốt 
				nói xấu hay thân có làm lành hay dữ thì cũng từ trong ý thức mà 
				ra. Nói chung, tất cả những phân biệt thương ghét, giận hờn, hơn 
				thua, phải quấy đều cấu tạo từ những ý nghĩ của chính mình. Thật 
				vậy, Thân Nghiệp và Khẩu Nghiệp là nguyên nhân tạo nên Quả Báo 
				khổ vui về sau cho chúng ta mà Ý Nghiệp chính là nguyên nhân của 
				Thân Khẩu Nghiệp. Bởi vì Tâm có nghĩ thì
				Miệng mới nói và Tay mới làm 
				cho nên Thân Nghiệp và Khẩu Nghiệp có tác dụng trực tiếp với mọi 
				người vì những việc làm hay lời nói tốt xấu, thiện ác đối với kẻ 
				khác sẽ tạo thành những quả báo khổ vui về sau. Nói thế thì mặc 
				dầu hiện tại đang sống trong đời nầy, nhưng chính tự tay chúng 
				ta đã kiến tạo cho mình dần dần một cuộc sống ở đời sau. Cứ mỗi 
				nghiệp mà chúng ta tạo tác chính là một vết mực để vẽ cho bức 
				tranh của đời sau, vì vậy không phải sau khi chúng ta chết thì 
				thần thức mới đi lang thang trong cõi Thân Trung Ấm để tìm kiếm 
				cha mẹ mới của mình mà thật ra tất cả những Nghiệp Quả cộng với 
				nhân duyên đã kiến tạo và hoàn tất cho đời sau của chúng ta 
				trước khi chúng ta mạng chung nghĩa là chúng ta sẽ sinh vào gia 
				đình nào, làm con cái của ai và cuộc sống sẽ như thế nào đã được 
				an bài trước khi chúng ta nhắm mắt. 
				Trong kinh A-hàm, đức Phật có giảng như thế 
				này : 
				“Khi tâm thức được kiểm soát, nó sẽ giống 
				như một khối đá nằm phơi ra bốn hướng: khối đá nằm giữa sân, dù 
				mưa có rơi cũng không làm cho nó tan ra được, dù mặt trời nung 
				nóng cũng không làm cho nó chảy ra được, dù gió có thổi cũng 
				không nhấc bổng nó lên được. 
				Một tâm thức được kiểm soát sẽ giống như 
				khối đá ấy” 
				Hoàng hậu Tịnh Đức được “Chư Phật tập tam 
				muội” có nghĩa là chư Phật ở trong định thuyết pháp khiến bà 
				cũng thấu hiểu được bảo tàng diệu pháp của chư Phật nói. 
				Tóm lại, ý thức là động lực chính khiến con 
				người tạo nghiệp và chuyển nghiệp vì thế trọng tâm của đoạn kinh 
				này là công phu tu hành để chuyển nghiệp tức là chuyển “Thức” 
				thành “Trí” nghĩa là chuyển Ý thức thành ra Diệu quan sát trí, 
				tiền ngũ thức thành ra Thành sở tác trí, Mạt na thức thành ra 
				Bình đẳng tánh trí và A lại da thức thành ra Đại viên cảnh trí. 
				Đó là chuyển tám thức thành ra bốn trí thì phiền não biến mất, 
				khổ đau tiêu tan và có thanh tịnh an lạc Niết bàn. 
				Bấy giờ, nhà vua với quần thần quyến 
				thuộc, Tịnh Đức phu nhân với thế nữ nơi hậu cung, hai vương tử 
				với 42.000 người đồng một lúc đi qua chỗ Phật Lôi Âm ở. Đến nơi 
				rồi, tất cả đều làm lễ rồi đứng qua một bên. Phật vì vua nói 
				Pháp, chỉ dạy điều lợi ích, vui mừng, nhà vua lấy làm vui đẹp.
				 
				Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm cùng 
				phu nhân mở chuỗi trân châu giá trị trăm ngàn đang đeo ở cổ, 
				tung rải trên đức Phật. Trong hư không, chuỗi ấy hóa thành đài 
				báu bốn trụ, trên đài có giường báu lớn, trăm ngàn muôn thiên y 
				phủ lên, trên đó có Phật ngồi kiết già, phóng hào quang sáng 
				lớn.  
				Chuỗi anh lạc trên tay vua Diệu Trang 
				Nghiêm tung rải trên hư không biến thành bốn trụ 
				cột của một bảo đài nghĩa là của cải vật chất thế gian tuy có 
				trân báu đến đâu thì cũng thuộc loại hữu vi sinh diệt, nếu biết 
				buông xả, thanh tịnh hóa thân, tâm thì Phật tánh hiển bày. Khi 
				sống với chơn tâm, Phật tánh tức là đang sống trong thế giới của 
				bản thể chân như thì không hề có đau khổ, không hề có ô nhiễm, 
				bất tịnh mà tất cả chỉ là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh và đây chính là 
				bốn cột trụ vững chắc để bảo vệ tòa Pháp bảo đài. Thường là 
				không bị chi phối bởi tánh vô thường, khi nào cũng vậy, không 
				lên bổng xuống trầm, không còn già trẻ, sống chết đổi thay. Lạc 
				là không còn khổ não, lo buồn, lúc nào cũng an vui tự tại. Ngã 
				là được hoàn toàn tự chủ và không bị nội tâm hay ngoại cảnh chi 
				phối. Tịnh là không còn ô nhiễm, luôn luôn thanh tịnh trong 
				sáng. Nói về Sự Tướng thì chấp có tu, có pháp môn để tu và có 
				chứng đắc. Nhưng đứng về Thể Tánh thì chẳng có khổ vui, không 
				còn chấp ngã, chấp pháp nên chẳng có pháp môn để tu. Ta cũng 
				không mà người cũng không nên không có gì ngăn ngại và có trí 
				tuệ sáng suốt cũng như bốn mặt đều đẹp đẻ trang nghiêm và trong 
				suốt không chướng ngại nhau. 
				Muốn tâm không trụ, kinh Kim Cang khuyên con 
				người nên lìa bốn chấp tướng. Đó là: 
				v 
				Ngã tướng: 
				là ỷ mình có danh vị, quyền thế, giàu có và tài năng nên thích 
				cầu thân cùng bậc cao sang mà khinh bỉ những người hèn dốt. Nói 
				một cách khác là làm việc vì lợi ích riêng cho mình tức là chỉ 
				nhìn vào bên trong làm tăng trưởng tánh tham mà tạo nghiệp. 
				v 
				Nhơn tướng: 
				là chấp lòng năng sở và tri giải tức là chưa chứng ngộ mà nói 
				chứng ngộ, ỷ mình giữ giới mà khinh kẻ 
				phá giới. Hiểu như thế là chấp theo bề ngoài vì còn tâm phân 
				biệt có người và ta nên tâm sân phát khởi để tạo ra nghiệp. 
				v 
				Chúng sinh tướng: 
				là có cái lòng hy vọng hoặc nói chánh làm tà, miệng lành lòng dữ 
				và đây chính là tâm si đang bừng cháy trong ta vì thế mà nghiệp 
				dữ được tác tạo. 
				v 
				Thọ giả tướng: 
				là trông mong cho được sống lâu và mong cầu sự phước lợi. Đây 
				chính là ái và cũng là cội nguồn để tạo nghiệp. 
				Như vậy, nhà vua và Hoàng hậu vừa 
				khởi tâm cúng dường Phật thì Phật hiện tiền nghĩa là nếu chúng 
				ta luôn sống trong tỉnh thức chánh niệm xoay về với tánh giác 
				hằng sáng của mình thì Phật tâm, Phật tánh hiển hiện tức thì mà 
				không cần phải lặn lội lên non xuống bể để tìm Phật. 
				Nhà vua mới nghĩ rằng: Thân Phật ít 
				có, đoan trang, nghiêm chỉnh hết sức đặc thù, là một sắc thân vi 
				diệu bậc nhất.  
				Bấy giờ Phật Lôi Âm bảo bốn chúng:
				 
				-Các ngươi thấy vua Diệu Trang Nghiêm 
				chắp tay đứng trước ta đó chăng? Nhà vua ở trong pháp ta, làm 
				Tỳ-kheo siêng năng tu tập các pháp trợ Phật đạo, rồi đây sẽ được 
				làm Phật, hiệu là Ta La Thọ Vương, nước tên Đại Quang, kiếp tên 
				Đại Cao Vương, Phật Ta La Thọ Vương có vô lượng Bồ-tát và vô 
				lượng Thanh Văn, nơi đó bình chánh công đức như vậy. 
				 
				Đoạn kinh này xác định rằng tuy hai vị Hoàng 
				tử Tịnh Nhãn, Tịnh Tạng và Hoàng hậu Tịnh Đức phát tâm tu trước 
				mà không được Phật thọ ký, trong khi vua Diệu Trang Nghiêm vừa 
				mới phát tâm cúng dường liền được Phật thọ ký. Vì sao vậy? Bởi 
				vì lục thức và Mạt na thức là phương tiện, là nhân để hoán 
				chuyển, nhưng sự chuyển biến tất cả những hiện hành hay biến 
				hành (chủng tử hữu vi ra vào) chỉ có thể thực hiện trong A lại 
				da thức mà thôi tức là kết quả. Thế thì một khi A lại da thức đã 
				hoán chuyển hết tất cả những chúng tử hữu lậu thành ra vô lậu 
				tức là chuyển từ ô nhiễm thành ra thanh tịnh tức là A lai da 
				thức biến thành Như Lai tạng bản thể, Vô cấu thức, Bạch tịnh 
				thức. Vì vậy A lai da thức (vua Diệu Trang Nghiêm) chính là nhân 
				tu để thành Phật trong khi lục thức và Mạt na thức chỉ là trợ 
				duyên chớ không phải là nhân tố chính, nhưng không có nó thì A 
				lại da thức vĩnh viễn không bao giờ thành Bạch tịnh thức được. 
				Vua Diệu Trang Nghiêm tức thì giao 
				nước cho em, rồi cùng phu nhân, hai người con và các quyến 
				thuộc, ở trong Phật pháp xuất gia tu hành.  
				Xuất gia rồi, trong 84.000 năm, 
				thường tinh tấn tu hành theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa; sau đó 
				được tam muội “Nhất thiết 
				Tịnh Công đức Trang Nghiêm”. Được tam muội rồi, liền bay lên hư 
				không, cao bảy cây đa-la mà bạch Phật: 
				Thế Tôn! Hai người con của con đây đã làm Phật sự, dùng thần 
				thông biến hóa xoay tâm tà của con, khiến 
				con an trụ trong Phật pháp mà được thấy Thế Tôn. Hai người con 
				ấy là thiện tri thức của con, vì muốn phát khởi căn lành đời 
				trước, làm lợi ích cho con, nên đến sanh vào nhà con. 
				 
				Phật Vân Lôi Âm bảo nhà vua: 
				 
				-Đúng 
				thế! Đúng thế! Quả như lời ông nói, nếu có thiện nam tử, thiện 
				nữ nhân nào trồng cội lành, thì đời đời được gặp hàng thiện tri 
				thức hay làm Phật sự, chỉ dạy cho sự lợi ích vui mừng, khiến vào 
				đường Vô Thượng Giác.  
				Đại Vương nên biết! Nhân duyên lớn 
				nào mà giáo hoá, dìu dắt làm cho được thấy Phật, phát tâm Vô 
				Thượng Giác thì đó là thiện tri thức.  
				Đại Vương! Đại Vương thấy hai người 
				con này chăng? Hai người ấy đã từng cúng dường 65 trăm 
				ngàn muôn ức hằng hà sa đức Phật, thân cận cung 
				kính chư Phật, nơi chỗ chư Phật ở, thọ trì kinh Pháp Hoa thương 
				tưởng những chúng sanh tà kiến mà khiến cho họ trụ trong chánh 
				kiến.  
				Vua Diệu Trang Nghiêm, từ trên hư 
				không xuống, tán thán công đức Như Lai xong, liền bạch Phật:
				 
				-Thế Tôn! Thật là chưa từng có, pháp 
				của Như Lai đầy đủ những công đức vi diệu làm nên Phật sự không 
				thể nghĩ bàn, dạy răn việc làm, khiến được an ổn rất hay. Từ 
				nay, con nguyện không còn theo “tâm hành” của mình nữa, chẳng 
				sanh lòng tà kiến, ngạo nghễ, giận hờn.  
				Thưa xong, vua làm lễ rồi lui ra.
				 
				Vua Diệu Trang Nghiêm phát tâm tu hành liền 
				giao triều đình, đất nước lại cho người em rồi cùng với Hoàng 
				hậu, hai người con và quyến thuộc xuất gia quy y theo Phật. Tại 
				sao kinh điển thường dùng những hình ảnh như vua chúa, hoàng tử, 
				hoàng hậu hay vương tôn công tử đi xuất gia để làm thí dụ cho 
				đại chúng? Thế thì không lẽ người dân thường không xứng đáng 
				xuất gia hay sao? Thật ra trong Phật giáo không hề có phân biệt 
				phải là vua chúa hay những người quyền quý mới được xuất gia vì 
				đạo Phật là đạo bình đẳng và ai cũng đều có Phật tánh như nhau. 
				Nhưng lý do chính là vì ông hoàng bà chúa thường thì bản ngã và 
				ngã sở hữu của họ quá to lớn hơn người thường nên việc buông 
				xuống, bỏ tất cả sẽ không phải là việc dễ thực hành. Thử nghĩ 
				chúng ta chỉ có một căn nhà nhỏ, một vài cái chén đôi đủa mà còn 
				buông xuống không được huống chi một ông vua nắm trong tay cả 
				một giang san, quyền thế tối thượng, tiền bạc vô kể và biết bao 
				những danh vọng khác thì bỏ hết xuống trở thành một Khất sĩ, đi 
				xin cơm hằng ngày là một thử thách vĩ đại, một hành vi quá cao 
				thượng, không phải ai cũng có thể làm được. Vì vậy người nào 
				muốn có được giải thoát giác ngộ thì người đó phải có một ý chí, 
				nghị lực vô cùng vĩ đại. Một người có cuộc sống giàu sang phú 
				quý đệ nhất thế gian mà chấp nhận bỏ hết để trở thành “Nhất 
				bát thiên gia phạn, cô thân vạn lý du” là một hành động cực 
				kỳ hiếm có. Nhưng đây chính là chất liệu vạn năng giúp người đó 
				hoàn thành bổn nguyện tức là có giải thoát giác ngộ và chứng đắc 
				chân lý Vô Ngã. Đây là bài pháp thứ nhì đức Phật đã giảng cho 
				nhóm ông Kiều Trần Như sau bài kinh thứ nhất Tứ Diệu Đế để 
				chuyển bánh xe pháp. 
				Cứu cánh của đạo Phật là giải thoát mà muốn 
				có giải thoát thì phải chứng chân lý Vô Ngã để thực sự nhận biết 
				rốt ráo rõ ràng rằng trong ta không hề có “Cái Ta” 
				hay “Cái của Ta”. Khi ấy trí tuệ bừng sáng mà 
				nhận chân rằng: 
				-Thân thể này không phải là tôi, là của tôi. 
				-Những cảm thọ sướng khổ cũng chẳng liên quan 
				gì đến cái tôi. 
				-Cái tâm đang quán sát cũng không phải là 
				linh hồn của tôi. 
				-Và tất cả những đối tượng của tâm như ý thức 
				và hành thức cũng không phải là của tôi. 
				Ngày xưa sau khi thành đạo, đức Phật về lại 
				thăm gia đình và thuyết giảng về đạo lý cứu khổ, giải thoát, dì 
				mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-Đề, công chúa 
				Da-du-đà-la và biết bao nhiêu mệnh phụ phu nhân khác từ bỏ hết 
				áo quần cao sang, vứt bỏ hết nữ trang và thay vào đó bằng những 
				chiếc áo cà sa. Đó là chưa kể biết bao công tôn vương tử khác 
				cũng đi theo bước chân của Phật. Vì vậy có buông xuống mới biết 
				thế nào là vô ngã. Tâm vô ngã, thân vô ngã và thế gian vũ trụ 
				cũng là vô ngã, không có gì thuộc về Ta hay thực sự là của Ta 
				cả. 
				Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái 
				tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen 
				nâng gót. Đến bước cuối cùng, tay chỉ trời, tay chỉ đất, Ngài 
				dõng dạc cất cao tiếng sư tử hống rồi nói bài kệ: 
				Thiên thượng 
				thiên hạ 
				Duy ngã độc tôn 
				Vô lượng sanh tử 
				Ư kim tận hỷ. 
				Dịch là: 
				Trên trời dưới 
				trời 
				Ta là người duy 
				nhất 
				Kiếp này là kiếp 
				cuối cùng của ta  
				Vì không còn sinh 
				tử nữa.  
				“Ngã” đây phải được hiểu là chấp ngã, là dính 
				mắc, là bị ràng buộc đủ mọi thứ. Chấp ngã có gốc rễ từ tham, 
				sân, si. Tùy theo cường độ tham sân si nhiều hay ít, nặng hay 
				nhẹ mà thọ sanh nơi các cõi trời (thiên thượng) hay đọa ở các 
				cõi địa ngục (thiên hạ). Các cõi trời được xem như ở trên, các 
				cõi địa ngục được xem như ở dưới; mặc dù không hẳn là vậy, nhưng 
				chúng sanh đã hiểu vậy, Phật tùy theo đó để khai thị. Từ đó, câu 
				“Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” có thể hiểu rằng : Ta 
				từ vô lượng kiếp đến nay, nhiều khi sanh lên các cõi trời, lắm 
				lần đọa vào các địa ngục, đầu dây mối nhợ không do đâu khác hơn 
				là tham sân si đẩy đưa đến ngã chấp mà không thấy rõ bản chất vô 
				ngã, duyên sanh từ thân tâm đến hoàn cảnh chung quanh. Ðó là lời 
				khai thị và cũng là lời cảnh cáo ngay từ buổi bình minh của đời 
				Ngài. 
				Hãy lắng nghe đức Phật diễn tả lại cuộc hành 
				trình đó trong kinh Pháp Cú câu 154: 
				 “Ta đi lang thang trong vòng luân hồi 
				qua bao kiếp sống, tìm mãi mà chưa gặp kẻ làm nhà. Nay ta đã gặp 
				ngươi rồi, ngươi đừng hòng cất nhà thêm được nữa, những đòn tay, 
				những cột kèo, những rui mè... của ngươi đã bị mục rã cả rồi...” 
				Kẻ làm nhà đây là tham lam ái dục, độc đầu 
				tiên trong tam độc. Nhà là chiếc thân do ngũ uẩn chung hợp. Cột 
				kèo... là những phiền não nhiễm ô. Mục rã rồi tức đức Phật đã 
				chinh phục, đã vượt lên trên, đã đứng ngoài sự chi phối của 
				chúng. Nói rõ hơn là đã thành tựu tuệ giác siêu việt. Không còn 
				bị nghiệp lực đẩy đưa đây đó mà chỉ có nguyện lực độ sanh. Do 
				vậy Ngài tuyên bố:  
				“Vô lượng sanh tử, ư kim tận hỷ”. Vì chưa tìm 
				ra nguyên nhân, nên trải qua vô số kiếp ta phải chịu sanh tử 
				luân hồi. Nay đã thấy rõ nguyên nhân và nhất là đã có phương 
				pháp diệt trừ thì sanh tử luân hồi không còn chi phối ta được 
				nữa. Vì vậy không thật chứng chân lý Vô Ngã là còn sinh tử. 
				Nhờ tinh tấn tu hành dụa theo kinh Pháp Hoa, 
				vua Diệu Trang Nghiêm chứng được “Nhất thiết tịnh công đức trang 
				nghiêm tam muội” tức là chánh định mà trong đó tất cả công đức 
				đều được thanh tịnh trang nghiêm. Việc tu hành của nhà vua được 
				thành tựu như hôm nay là do hai người con làm Thiện tri thức tạo 
				duyên lành giúp nhà vua phát khởi căn lành.  Nếu không có 
				hai đứa con khuyên hóa thì nhà vua vẫn còn chìm đắm trong bể khổ 
				sông mê, không tìm ra lối thoát. Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa 
				Trí cũng xác nhận là đúng như vậy bởi vì nếu chúng sinh biết 
				gieo trồng căn lành thì trong nhiều đời sẽ gặp các bậc Thiện tri 
				thức. 
				Người đệ tử Phật phải nhận thức rằng gặp gỡ 
				thiện tri thức, làm tăng thượng duyên dắt dẫn cho nhau đi trên 
				đường giải thoát giác ngộ, đó không phải là việc ngẫu nhiên. 
				Nhưng người Phật tử cũng không được tin đó là định mệnh an bày 
				hay sự ân sủng của một thế lực siêu nhiên. Mà đó chính là kết 
				quả do ta đã gieo hạt tốt, trồng cây lành ở đời này hay đời 
				khác. Một lần nữa, đoạn kinh này nhắn nhủ rằng không có hiện 
				tượng tinh thần hay vật chất nào ra ngoài nhân quả cả. 
				Nếu dựa theo Sự tướng mà nói thì vai trò của 
				bậc Thiện tri thức rất quan trọng cho những ai tha thiết đi trên 
				con đường giải thoát giác ngộ. Họ là những bậc thầy đạo hạnh, 
				những người bạn đạo chân thành biết chia sẽ những kinh nghiệm 
				từng trải trong cuộc hành trình hướng về thanh tịnh hóa thân, 
				tâm. 
				Còn dựa theo Lý tánh thì A lại da thức có 
				được thanh tịnh sáng suốt, chuyển thành Như Lai Tạng bản thể là 
				nhờ ý thức và tiền ngũ thức hướng dẫn và chuyển. Vì vậy, A lại 
				da thức có chuyển được sang Đại Viên Cảnh Trí là nhờ nương theo 
				sự huân chuyển của ý thức thành ra Diệu quan sát trí và tiền ngũ 
				thức thành ra Thành sở tác trí. A lại da thức ở đây được biểu 
				trưng qua hình ảnh của vua Diệu Trang Vương tán thán hai người 
				con Tịnh Nhãn, Tịnh Tạng, là hai vị Thiện tri thức của mình. 
				Thêm nữa, tuy người thiện tri thức làm 
				tăng-thượng-duyên ấy, với bản thân họ, cũng không phải chuyện 
				ngẫu nhiên. Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí nói với vua Diệu 
				Trang Nghiêm rằng: “ Hai người con này của Đại Vương đã đồng 
				cúng dường 65.000 muôn ức na-do-tha hằng hà sa các đức Phật, gần 
				gũi, cúng dường, và thọ trì kinh Pháp Hoa, thường thương tưởng 
				những chúng sanh tà-kiến mà làm người thiện tri thức để khiến 
				cho họ được chánh kiến. 
				Thiện tri thức có ba hạng: 
				-Giáo thọ Thiện tri thức là những bậc thầy 
				hướng dẫn, giảng giải kinh điển. 
				-Đây là trường hợp của Tịnh Nhãn và Tịnh Tạng 
				đã tu trước làm cho vua Diệu Trang Vương thấy được sự hiệu quả 
				của việc tu hành biểu trưng qua sự an lạc thanh tịnh Niết bàn 
				khiến nhà vua thán phục. Vì vậy Tịnh Nhãn và Tịnh Tạng là Thiện 
				tri thức của vua Diệu Trang Vương. 
				-Đồng hạnh Thiện tri thức: là những người 
				cùng tu với nhau, cùng chung một lý tưởng tu hành. 
				Đạo Phật không chấp nhận bất cứ việc gì tự 
				nhiên hay ngẫu nhiên mà có mà phải có nguyên nhân. Phật Vân Lôi 
				Âm Tú Vương Hoa Trí nói với vua Diệu Trang Nghiêm rằng: “ Hai 
				người con này của Đại Vương đã đồng cúng dường 65 trăm 
				ngàn muôn ức na-do-tha hằng hà sa các đức Phật, 
				gần gũi, cúng dường, và thọ trì kinh Pháp Hoa, thường thương 
				tưởng những chúng sanh tà-kiến mà làm người thiện tri thức để 
				khiến cho họ được chánh kiến”. Nhưng làm thế nào để thân cận 
				cúng dường đến mấy tỷ tỷ chư Phật cho được? Và phải tìm Phật ở 
				đâu? 
				Nếu nói theo “Sự Tướng” thì có đến mấy tỷ tỷ 
				vị Phật khắp mười phương pháp giới, nhưng trên thực tế thì điều 
				này không bao giờ thực hiện được. Không lẽ kinh nói sai? Phật mà 
				kinh diễn tả ở đây không phải là Ứng thân Phật như đức Thích Ca 
				Mâu Ni mà là Pháp thân thanh tịnh đã có sẵn trong mỗi chúng 
				sinh. Mỗi khi ta có ý niệm lành là ta đã cúng dường cho một vị 
				Phật. Một lời nói đẹp là ta cúng dường cho một vị Phật nữa. Một 
				cử chỉ thân ái là ta cũng cúng dường cho một vị Phật đó. Do đó 
				hằng ngày trong ta có muôn vàn ý niệm, lời nói và hành động, nếu 
				biết chuyển thân, khẩu, ý cho thanh tịnh thì chúng ta đã cúng 
				dường cho vô vàn vị Phật rồi đó. Tóm lại, nếu chúng ta có chánh 
				niệm, chánh tư duy thì mỗi ngày chúng ta cúng cho hằng hà sa số 
				Phật. Ngược lại nếu chạy theo vô minh phiền não thì cũng ngày 
				đó, chúng ta biến hóa ra muôn vàn cảnh địa ngục, ngạ quỷ, súc 
				sanh. Phải hiểu rằng chư Phật mà kinh nói là “Nhất niệm 
				tương ưng nhất niệm sanh. Niệm niệm tương ưng niệm niệm sanh” 
				nghĩa là một niệm tương ứng với tâm thanh tịnh thì niệm đó là 
				niệm Phật, niệm trong sáng để vãng sanh sang cõi cực lạc. Còn 
				nếu có thể làm liên tục những niệm trong sáng thì chính mình 
				đang ở trong thế giới cực lạc rồi. 
				Bây giờ nói theo “Lý tánh” thì hai vị Hoàng 
				tử cúng dường tỷ tỷ chư Phật là muốn nói rằng ý thức và tiền ngũ 
				thức rất quan trọng. Bởi vì Tri Kiến Phật ở trong ý thức và tiền 
				ngũ thức cho nên nếu biết huân tu để nhận ra Tri Kiến Phật thì 
				từ đó ý thức và tiền ngũ thức sẽ chuyển dần dần Tri Kiến Phật 
				đến với A lại da thức. Sau cùng A lai da thức sẽ chuyển hóa 
				thành ra Bạch Tịnh thức hay Như Lai Tạng. 
				Sau cùng nhà vua nói “Từ nay, con 
				nguyện không còn theo ‘ tâm hành’ của mình nữa, chẳng sanh lòng 
				tà kiến, ngạo nghễ, giận hờn”. 
				Tâm hành là ám chỉ cho những chủng tử do ý 
				thức và tiền ngũ thức huân tập rồi được Mạt na thức chuyển vào 
				trong A lại da thức. Có thể hiểu A lại da thức như là cái kho và 
				Mạt na thức là người giữ kho. Khi chủng tử đã ở trong A lại da 
				thức thì nó bắt đầu khởi ra hiện hành. Nếu chủng tử tốt thì khởi 
				hiện hành tốt và chủng tử xấu thì khởi hiện hành xấu. Chủng tử 
				khởi hiện hành rồi hiện hành huân thành chủng tử, chu kỳ này cứ 
				tiếp diễn vô cùng vô tận. Do đó không còn theo tâm hành nghĩa là 
				không còn theo những chủng tử nên sẽ không còn sanh lòng tà 
				kiến, nghạo nghễ, giận hờn nên tâm được thanh tịnh, có an vui tự 
				tại. 
				Phật bảo đại chúng: 
				 
				-Ý các ngươi nghĩ sao? Vua Diệu Trang 
				Nghiêm đâu phải người nào lạ, chính nay là Bồ-tát Hoa Đức hiện ở 
				trước Phật đó. Tịnh Đức phu nhân nay chính là Quang Chiếu Trang 
				Nghiêm Tướng Bồ Tát hiện đang ở trước Phật. Hai người con là 
				Bồ-tát Dược Vương và Dược Thượng vậy. Hai Bồ-tát này đã thành 
				tựu các công đức lớn như thế, ai mà biết danh tự của hai Bồ-tát 
				đó, thì đáng cho nhân dân lễ lạy.  
				Lúc Phật nói phẩm “ Diệu Trang Nghiêm 
				Vương Bổn Sự” này, có 84.000 người xa trần lụy, rời cấu nhiễm, ở 
				trong các pháp, được các pháp “nhãn tịnh”.  
				Đến đây đức Phật đã kể xong câu chuyện vua 
				Diệu Trang Nghiêm và gia đình về những 
				công hạnh tu hành cách đây vô lượng vô biên A-tăng-kỳ hằng sa 
				kiếp ở vào thời Phật Vân Lôi Âm. Gieo nhân lành thì ắt nhận quả 
				tốt cho nên vua Diệu Trang Vương ngày xưa chính là Bồ Tát Hoa 
				Đức đang ở trước đức Phật Thích Ca hiện tại. Hai vị Hoàng tử 
				Tịnh Nhãn và Tịnh Tạng nay là Dược Vương và Duợc Thượng Bồ Tát. 
				Dược Vương bây giờ là vua thầy thuốc và Dược Thượng là thầy 
				thuốc bậc trên để giúp chúng sinh trị hết những tâm bệnh như 
				tham lam, si mê, giận hờn, mạn nghi, bỏn xẻn…phát xuất từ ý thức 
				và tiền ngũ thức. 
				Tuy cơ quan phát ra và tạo thành nghiệp gồm 
				có: thân, khẩu, ý, nhưng trong 3 thứ nầy, quan trọng nhứt là 
				“Ý”. Ý nghiệp, là những suy tính, so đo phân biệt, Duy Thức Học 
				gọi nó là “liễu biệt cảnh thức”. Ý là chủ động tạo nghiệp. Khi ý 
				nghĩ điều lành, thì nó thúc đẩy cái miệng nói ra điều lành và 
				cái thân làm điều lành. Ngược lại, khi ý nghĩ điều xấu ác, thì 
				nó xúi giục cái miệng nói điều xấu ác hung dữ và thân hành động 
				tàn bạo độc ác. Chính ba nghiệp nầy là động cơ tạo thành thiên 
				đường hay địa ngục ở thế gian. Tất cả mọi khổ vui của con người, 
				từ cá nhân, đến đoàn thể, nói rộng ra là tất cả nhân quần xã hội 
				khắp năm châu bốn biển, đều do thân, khẩu, ý tạo ra cả. Cho nên, 
				trong nhà Phật rất chú ý đến 3 nghiệp quan trọng nầy. Sự tu hành 
				của người Phật tử, Phật dạy không cần tu đâu xa, chỉ cần tu 
				chuyển đổi ở nơi 3 nghiệp nầy. Chuyển đổi 3 nghiệp ác thành 3 
				nghiệp lành. Như trước kia, chúng ta hay nghĩ xấu ác rồi nói 
				năng hành động xấu ác, như miệng chửi rủa, mắng nhiếc, thân hành 
				động tà hạnh, cướp của, giết người v.v… nay biết tu hành, chúng 
				ta nên chuyển đổi lại quyết định không gây tạo những điều xấu ác 
				đó nữa. Đó là chúng ta khéo biết tu và khéo chuyển 3 nghiệp. 
				Vì vậy, khi chúng sinh biết chuyển ý thức và 
				tiền ngũ thức tức là chuyển thân, khẩu, ý thành ra thanh tịnh 
				thì tất cả tâm bệnh đều bị tiêu trừ. Đó là công hạnh của hai vị 
				Bồ Tát Dược Vương và Dược Thượng nghĩa là chuyển cái xấu, bất 
				thiện, cái tà thành ra cái hay, cái tốt, cái chính cho nên công 
				đức của họ rất lớn, quá thù thắng khiến cho trời người cùng lễ 
				lạy. 
				Nhưng trọng tâm của phẩm này là phá Thức uẩn, 
				là một thành phần trong thân thể ngũ uẩn của con người. Trong 
				kinh Lăng Nghiêm cũng có đoạn gọi là ngũ uẩn ma. Chính ngũ uần 
				tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn che lấp 
				Tri Kiến Phật có sẵn nơi mọi người, khiến cho con người sống 
				trong điên đão khổ đau. 
				Tuy Bát Nhã Tâm Kinh vỏn vẹn có 260 chữ, 
				nhưng quan trọng nhất của Tâm Kinh vẫn nằm ở câu đầu: "Quán tự 
				tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ 
				uẩn giai không, độ nhứt thế khổ ách". Đoạn kinh Bát Nhã này chú 
				trọng đến vấn đề thoát khổ. Con người sẽ thoát khổ, theo 
				Bát-nhã, khi thực hành trí tuệ Bát-nhã sâu xa,  soi rọi rõ 
				ngũ uẩn là Vô ngã tức là Không. Thấy biết ngũ uẩn là Vô ngã là 
				thấy biết tất cả các pháp là Vô ngã nghĩa là khổ là Vô ngã và 
				người cảm thọ khổ cũng là Vô ngã, bởi cả hai đều là duyên sinh. 
				Như thế rõ ràng, không thực có khổ, cũng không thực có cái gọi 
				là con người thọ khổ, thì hẳn là không còn có một thứ khổ ách 
				nào ràng buộc cả. Quan trọng nhất là chúng sinh thấy rõ ngũ uẩn 
				là Vô ngã thì không còn chấp thủ ngũ uẩn là mình, là của mình, 
				hay là tự ngã của mình. Chấp thủ diệt thì ái diệt, khổ diệt. Đấy 
				là đường vào giải thoát. 
				Phá tan ngũ uẩn thì lúc đó Tri Kiến Phật hiển 
				hiện tức là sống với chân lý hằng sáng cũng như mây tan thì trời 
				sáng hay đào ao có nước thì ánh trăng hiện xuống mà không cần 
				mong chờ trông đợi gì hết. Ngày xưa chính đức Phật đã chứng chân 
				lý Vô Ngã dưới cội Bồ Đề mà có giải thoát giác ngộ. Từ đó Ngài 
				nhận biết rốt ráo rõ ràng rằng trong ta không hề có “Cái Ta” hay 
				“Cái của Ta”. Khi ấy trí tuệ bừng sáng mà nhận chân rằng: 
				-Thân thể này không phải là tôi, là của tôi. 
				-Những cảm thọ sướng khổ cũng chẳng liên quan 
				gì đến cái tôi. 
				-Cái tâm đang quán sát cũng không phải là 
				linh hồn của tôi. 
				-Và tất cả những đối tượng của tâm như ý thức 
				và hành thức cũng không phải là của tôi. 
				Ngũ uẩn đã phá thì con người sẽ sống vô cùng 
				an vui tự tại thanh tịnh Niết bàn và dĩ nhiên con đường đi đến 
				đến Phật quả không còn khó khăn nữa. 
				Đến đây là chấm dứt xong phần “Nhập” Tri Kiến 
				Phật.  
				
				∆ TOP 
				|
				
				NEXT 
				 |