| 
				   Phẩm
				DƯỢC THẢO DỤ 
				Dược là thuốc trị bệnh, thảo là thảo mộc (cỏ 
				khô) cũng ví như chúng sinh thế tục. Ở đây, đức Phật lại đưa ra 
				một thí dụ nữa lấy dược thảo là những cây thuốc làm ví dụ để 
				chửa bệnh thân và tâm của chúng sinh. Ngày xưa không có thuốc 
				chế bằng chất hóa học như thuốc Tây ngày nay, mà bằng những rễ 
				cây khô đủ loại thường được hiểu là thuốc Nam hay thuốc Bắc. 
				Trong phẩm Tín Giải, các Tôn giả Đại Ca Diếp, 
				Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề và Ca Chiên Diên trình bày sự kính mộ về 
				lòng đại từ bi và năng lực thiện xảo của đức Phật qua ẩn dụ về 
				anh chàng Cùng khổ. Các ngài thấu hiểu đức Phật dùng phương tiện 
				để dẫn dắt chúng sinh tùy theo khả năng và trình độ thể chứng 
				của họ, nhưng cứu cánh vẫn là Nhất thừa Phật đạo. 
				Bấy giờ đức Thế Tôn bảo ông Ca-diếp và 
				các đại đệ tử:   
				-Tốt 
				lắm, Ca-diếp ! Ông khéo nói được công đức chơn thật của Như 
				Lai. Đúng như lời các ông, Như Lai còn có vô lượng vô số công 
				đức khác, dù các ông có nói suốt ức kiếp đi nữa cũng không hết 
				được.  
				-Ca-diếp, 
				nên biết ! Như Lai là vua của các pháp, nói ra lời gì đều không  
				sai không dối.  Đối với tất cả các pháp Phật dùng sức trí 
				tuệ và phương tiện mà diễn nói.  Pháp Phật nói phát xuất từ 
				“Nhất thiết chủng trí”. Như Lai biết chỗ quy thú của tất cả 
				pháp; rõ biết tâm hành của chúng sanh và thường đem trí tuệ mà 
				chỉ bày cho.  
				Trong mười đại đệ tử Phật, Tôn giả Phú Lâu Na 
				là vị giảng sư rất nổi tiếng. Mỗi khi đức Phật thuyết ngắn gọn 
				hoặc khó hiểu thì tôn giả giảng giải rộng nghĩa cho tất cả mọi 
				người. Vì thế ngài rất nổi tiếng là người nói pháp rất giỏi và 
				rất dài nên được đức Phật công nhận là đệ nhất thuyết pháp. Tôn 
				giả thuyết pháp siêu tuyệt như thế không phải là do ngài có khoa 
				ăn nói, cũng không phải là ngài phải có kiến thức thâm sâu về 
				Phật pháp mà Tôn giả có khả năng quán căn cơ của mình. Quán căn 
				cơ ở đây là thấy biết được căn cơ, chủng tánh của đối tượng 
				nghĩa là khả năng và kiến thức của đối tượng tới mức nào thì 
				ngài chỉ thuyết đến mức đó, không thiếu không thừa. Đối tượng có 
				kiến thức thấp thì không nói cao làm họ chới với, đối tượng cao 
				thì không nói thấp khiến họ chán nản. 
				Sự phát triển trí tuệ dựa theo Phật giáo Đại 
				thừa là tùy theo khả năng nhận biết chân tướng của nhân sinh vũ 
				trụ. 
				1)Đối với phàm nhân 
				thì họ nhìn cuộc đời, thế gian vũ trụ bằng nhục 
				nhãn tức là bằng đôi mắt thịt nghĩa là cái gì có hình sắc, kích 
				thước, âm thanh, mùi vị…thì họ cho là thật. Họ tin thân mình là 
				thật nên còn chấp ngã, tin thế gian vũ trụ là thật nên còn chấp 
				pháp. Vì còn chấp ngã, chấp pháp nên tham-sân-si, mạn nghi, tà 
				kiến phát tác mà tạo ra nghiệp để phải chịu quả khổ đời đời. 
				2)Nhất Thiết Trí: 
				Các vị Thanh văn không nhìn đời bằng nhục nhãn như phàm nhân mà 
				họ nhìn thế gian bằng Pháp nhãn. Họ thấy thân mình là không 
				thật, là tạm bợ, là dơ dáy, là cội nguồn của những nỗi khổ nên 
				họ cố tu để chứng đắc giải thoát Niết bàn. Chẳng những nhìn thân 
				mình không thật mà họ còn nhìn cả thế gian vũ trụ cũng không 
				thật nên chán ngán cuộc đời và tránh xa bụi trần ô nhiễm. Vì thế 
				hàng Thanh văn  không còn chấp Ngã tức là có Ngã Không, 
				nhưng vì còn thấy có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng, có 
				đạo quả Bồ-đề để đắc nên họ vẫn còn chấp Pháp tức là Pháp có. 
				Cho nên cái trí tuệ của họ không phải là trí tuệ giải thoát tự 
				tại mà vẫn còn dính mắc của Pháp nên trí tuệ nầy là Nhất Thiết 
				Trí. 
				3)Đạo Chủng Trí: 
				Đối với các vị Bồ-tát thì họ nhìn thế gian vũ trụ bằng Tuệ nhãn 
				tức là họ hành thâm bát nhã ba-la-mật để thấy rằng ngũ uẩn là 
				không. Dưới mắt của họ thì thế gian vũ trụ là do duyên khởi tạo 
				thành nên tất cả đều là giả huyễn, là không thật, là Không. Vì 
				ta là giả, là không thật nên họ có ngã không. Ta không thật thì 
				người và thế gian vạn vật cũng không thật nên họ có pháp không. 
				Vì thế dưới mắt của Bồ-tát thì thế gian vũ trụ là Không. Mặc dù 
				biết thế gian là Không, nhưng Bồ-tát vẫn còn chấp cái Không nên 
				tâm không được hoàn toàn tự tại và trí tuệ chưa hoàn toàn sáng 
				suốt triệt để nên cái trí tuệ nầy gọi là Đạo Chủng Trí. 
				4)Nhất Thiết Chủng Trí: 
				Hàng Thanh văn thì chấp “Pháp Có” và các vị Bồ-tát thì vẫn còn 
				chấp “Không”. Nếu bây giờ bỏ được chấp Pháp có và chấp Không tức 
				là không còn chấp có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng, có 
				quả vị Bồ-đề để thành và không còn chấp thế gian vũ trụ là Không 
				thì có được trí tuệ viên mãn, dung thông tự tại mà nhà Phật gọi 
				là Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết Chủng Trí thì thấy vạn pháp 
				là Có nhưng không phải là Có thật, còn Không nhưng không phải là 
				không của cái trống không. Vì vạn pháp do nhân duyên hòa hợp nên 
				vạn pháp sanh và khi nhân duyên tan rã chia ly thì vạn pháp 
				diệt. Thế thì vạn pháp do nhân duyên hòa hợp nên sanh sanh diệt 
				diệt, diệt diệt sanh sanh mà người được Nhất Thiết Chủng Trí thì 
				luôn luôn tự tại trước sự sanh diệt, diệt sanh của hiện tượng 
				vạn pháp nên không cần phải tiêu cực như hàng Thanh văn và cũng 
				không cần phủ nhận tất cả như các vị Bồ-tát mà phải thấy vạn 
				pháp nầy có mà không phải có thật. Mặc dầu không phải có thật mà 
				hiện giờ nó vẫn có vì thế nên người có Nhất Thiết Chủng Trí làm 
				bất cứ cái gì cần làm để giúp đở cho tất cả chúng sinh mặc dù 
				chúng sinh là không có thật. Đây chính con đường trung đạo dung 
				thông giữa cái Có và cái Không và chỉ có Phật mới đạt được cái 
				trí tuệ nầy. 
				Đức Phật xác định với Tôn giả Đại Ca Diếp 
				rằng Ngài là vua của các Pháp. Lời nói của Như Lai là chân thật, 
				không bao giờ hư dối nghĩa là nói có là thật, nói không cũng là 
				thật, nói Tiểu thừa là thật mà nói Đại thừa cũng là thật. Đối 
				với tất cả các pháp, đức Phật luôn dùng trí tuệ, dùng phương 
				tiện thiện xảo mà diễn bày chánh pháp, nhưng tựu trung vẫn nhắm 
				thẳng vào một mục đích tối hậu là đưa người tu đạt được nhất 
				thiết chủng trí. Đức Phật là bậc toàn 
				giác nên Ngài biết nguyên nhân nào dẫn dắt chúng sinh đi trong 
				vòng sinh tử luân hồi, nhân nào đưa chúng sinh đến chỗ giải 
				thoát Niết bàn. Ngài quán thấy tận cùng cội nguồn của các pháp 
				hữu vi sinh diệt và pháp vô vi thanh tịnh bất sanh bất diệt xuất 
				thế gian. Từ đó Ngài thấy biết rất rốt ráo rõ ràng tâm sở hành 
				của chúng sinh tức là nguyện vọng sở cầu của chúng sinh cho nên 
				việc độ sinh không bị chướng ngại. Vì thế Ngài mới là vua của 
				các pháp, là bậc y Vương, là bậc đáng được thế gian tôn kính. 
				-Ca-diếp! 
				Ví như trong cõi tam thiên đại thiên đất đai sông núi sanh ra 
				cây cối lùm rừng và các thứ cỏ thuốc, chủng loại, tên gọi, màu 
				sắc đều khác. Một vầng mây đen, bủa giăng trùm khắp và mưa xuống 
				khắp nơi nhuần thắm. Cây cối, lùm rừng, các thứ cỏ thuốc, cây 
				lớn,  cây vừa, cây nhỏ, thứ nên thuốc, thứ không nên thuốc, 
				tùy hạng thượng, trung, hạ mà hấp thụ nước khác nhau.  Một 
				vầng mây tuôn mưa, tùy giống loại mà sanh trưởng, đơm bông kết 
				trái. Dù một cõi đất sanh, một trận mưa thấm mà cây cỏ đều sai 
				khác.  
				Thế giới chúng ta đang sống nằm trong Thái 
				Dương Hệ chỉ có một mặt trời, một mặt trăng, một núi Tu Di, bốn 
				châu thiên hạ. Một ngàn thế giới như thế là một tiểu thiên thế 
				giới. Một ngàn tiểu thiên thế giới trở thành trung thiên thế 
				giới và sau cùng một ngàn trung thiên thế giới mới thành một đại 
				thiên thế giới. Thế mà kinh nói trong cõi tam thiên đại thiên 
				thế giới nghĩa là có đến ba ngàn tỷ thế giới chúng ta đang sống. 
				Ở trong sơn, hà, đại địa, mặt đất sinh ra đủ 
				loại cây cối, hoa, cỏ màu sắc, tên gọi khác nhau. Tinh thần Pháp 
				Hoa là tinh thần bình đẳng cho nên Phật ví dụ ở đây cũng thế. 
				Cho dù thế giới có rộng biết bao, bầu trời che phủ khắp ba ngàn 
				tỷ thế giới vẫn như nhau, mưa xuống cũng đều như nhau. Tất cả 
				cây cối từ nhỏ đến lớn, bé nhất là những loài cỏ và to lớn như 
				những cây đại thụ cũng từ đất sinh ra và cũng nhận nước của trận 
				mưa rưới đều. Cây lớn có thân lớn rễ lớn thì hấp thụ nước nhiều 
				hơn, cây nhỏ có thân nhỏ rễ nhỏ thì dĩ nhiên hấp thụ nước ít 
				hơn. Tuy hấp thụ lượng nước ít nhiều khác nhau, nhưng tất cả cây 
				cỏ đều phát triển hay đơm hoa kết quả như nhau. Ở đây, kinh ví 
				dụ ba loại cây cỏ dược thảo khác nhau. Loại cây cỏ lớn ví như 
				tâm hồn, tư tưởng của các bậc Bồ tát, những cây cỏ bậc trung ví 
				cho tư tưởng của hàng Duyên Giác và sau cùng những cây cỏ, loại 
				dược thảo nhỏ bé ám chỉ cho tư tưởng của hàng Thanh Văn. Cho dù 
				có ba loại cây cỏ, loại dược thảo khác nhau từ lớn đến bé, nhưng 
				tất cả cũng đều hưởng những giọt nước mưa như nhau mặc dầu ba 
				loại cây cỏ đó hấp thụ nước mưa trưởng dưỡng khác nhau bởi vì 
				căn tánh khác nhau, chủng tánh khác nhau. Thậm chí ngoài ba loại 
				cây cỏ từ bé xíu đến to lớn ở trên còn có những loài cỏ cây 
				không phải là dược thảo mà là những loài cỏ dại, lùm rừng ví như 
				hạng bạc địa phàm phu cũng vẫn tiếp nhận được những giọt mưa như 
				những loài cây khác mà không mang lại sự lợi ích gì cho thế gian 
				nghĩa là họ cũng nghe chân lý từ đức Phật, nhưng suốt đời vẫn 
				chìm đắm trong lục dục thất tình, lấy khổ làm vui nên lăn lộn 
				trong sinh tử luân hồi. 
				Đức Phật ví dụ căn cơ của chúng sinh có cao 
				có thấp cũng như cây cỏ có giống nhỏ giống lớn. Nhưng tất cả cây 
				cỏ cũng từ đất sinh ra cũng như chúng sinh tuy có căn tánh bất 
				đồng, nhưng ai ai cũng đều có Tri Kiến Phật giống y như Phật. 
				Mưa là ám chỉ cho giáo pháp đức Phật dạy chung cho tất cả chúng 
				sinh. Chúng sinh vì căn cơ không đồng, kẻ cao người thấp nên sự 
				nhận biết sâu hay cạn chớ Phật pháp bình đẳng không cao không 
				thấp. Do đó, căn cơ chúng sinh sai biệt nên pháp trở thành sai 
				biệt. Thí dụ trong một pháp hội, vị pháp sư thuyết giảng nhưng 
				có người nghe rất thích thú say mê còn có người buồn chán buồn 
				ngủ. Vị pháp sư chỉ giảng một âm thanh, một đề tài tức là Phật 
				pháp bình đẳng, nhưng sự lãnh thọ khác nhau nên kết quả không 
				giống nhau, kẻ thích người không. 
				Đến đây chúng ta thấy rằng Phật quở rầy Thanh 
				Văn, Duyên Giác mà tại sao trước đây Phật lại dạy thành Thanh 
				Văn, Duyên Giác? Tại sao chính Phật lại tự mâu thuẩn chính mình? 
				Đoạn kinh này giải thích rõ ràng rằng trước đây vì căn cơ chủng 
				tánh của họ còn thấp, chưa thể hấp thụ tư tưởng Đại thừa nên 
				Phật dùng phương tiện chỉ dạy họ thành Thanh Văn, Duyên Giác. Lý 
				do Phật quở là vì khi các vị thành Thanh Văn, Duyên Giác thì 
				tưởng mình đã thành tựu quả vị cứu cánh tối thượng nên không 
				muốn tiến tu nữa. Nhưng đối với đức Phật, bản hoài và nhân duyên 
				Ngài xuất hiện trên thế gian này là đưa chúng sinh tiến thẳng về 
				Đại thừa để hoàn thành Phật đạo chớ không dừng lại ở Thanh Văn, 
				Duyên Giác.  
				Lịch sử truyền pháp của đức Phật cũng thế, 
				Phật pháp vốn bình đẳng không sai khác, nhưng căn tánh chúng 
				sinh không giống nhau nên Phật mới nói pháp Thanh Văn, Duyên 
				Giác. Nhưng cho dù là ở cung vua phủ chúa hay mái tranh nghèo 
				của người nông phu, cũng như 
				cây đại thọ trong rừng già hay cộng cỏ bé xíu bên lề đường thì 
				cũng hấp thụ cơn mưa giống nhau. Cây lớn, cộng cỏ cũng từ đất 
				cũng như chúng sinh vốn đã có sẵn tri kiến Phật cho nên cây lớn 
				hấp thụ nhiều nước mưa hơn cộng cỏ, nhưng cả hai đều nhờ nước 
				mưa mới phát triển được nghĩa là nếu không có tri kiến Phật thì 
				không bao giờ có thể tu thành Phật. Cho dù hấp thụ nhiều nước 
				hay ít nước vì cây lớn hay cộng cỏ cũng như  Tiểu thừa hay 
				Đại thừa, nhưng cứu cánh vẫn như nhau là tiến thẳng về Nhất thừa 
				Phật đạo để thành Phật. Trong đạo Phật, chỉ có một vị là vị giải 
				thoát cũng như nước mưa có một công năng là nuôi dưỡng các loài 
				thảo mộc, làm cho mọi loài được sinh trưởng. Pháp Phật cũng thế, 
				tuy Phật có nói tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng sinh diệt, 
				nhưng cứu cánh rốt ráo vẫn là đưa chúng sinh thành tựu nhất 
				thiết chủng trí tức là thành Phật. 
				Dựa theo tinh thần Phật giáo Đại thừa, chúng 
				sinh phải tin vào Phật tánh, vào Tri Kiến Phật, vào Chơn tâm 
				thường trú của chính mình cho nên nếu tu hành theo lời Phật dạy 
				là trở về với Chơn tâm, Phật tánh của mình toàn vẹn chớ Phật 
				không cho ai cái gì hết. Vì thế đạo Phật mới gọi là đạo tự giác 
				cho nên chúng sinh không cần phải cầu nguyện, van xin, cầu lạy 
				ai hết bởi vì bớt được một phần phiền não có được một phần an 
				lạc Niết bàn, hóa giải được một phần vô mình thì có được một 
				phần trí tuệ thế thôi. Bằng chứng là trong kinh Lăng Nghiêm, khi 
				Phật thọ trai mà các tỳ kheo không no nghĩa là Phật ăn chỉ có 
				Phật no, còn tỳ kheo nếu muốn no thì phải tự mình đi khất thực 
				chớ Phật không làm phép cho họ được. Cũng như cả đời Tôn giả A 
				Nan tuy làm thị giả cho đức Phật mà không chịu tu Thiền na mà 
				chỉ lo học rộng hiểu nhiều cho đến lúc đức Phật nhập diệt vẫn 
				chưa chứng được Thánh quả A la hán. Do đó học Phật không thành 
				Phật được mà học Phật để rồi thực hành mới tu chứng thành Phật 
				được. 
				-Ca-diếp, 
				nên biết ! Như Lai hiện ra đời ví như vầng mây lớn nổi lên ấy.  
				Giữa trời, người, A-tu-la… trong ba ngàn thế giới, 
				Phật đường hoàng tuyên bố:  
				          
				-Ta là đấng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành 
				Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng 
				Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Người chưa được độ thì làm 
				cho được độ. Người chưa tỏ ngộ thì làm cho ngộ. Người chưa an 
				thì làm cho an. Người chưa có Niết Bàn thì làm cho chứng. Đời 
				nầy và đời sau Phật đều biết đúng như thật. Ta là bậc nhất thiết 
				trí, bậc nhất thiết kiến, là bậc tri đạo, bậc khai đạo, bậc 
				thuyết đạo. Hàng trời, người, A-tu-la đều nên đến để nghe và học 
				pháp. 
				          
				Bấy giờ có vô số chúng sanh đến với Phật để nghe pháp. Như Lai 
				xét căn tánh thông minh hay ám độn, tinh tấn hay giải đãi, tùy 
				cơ, vừa sức mà nói pháp, khiến các chủng lọai đều được sự lợi 
				lành.  Hiện đời được an ổn, lần lần  tiến lên đường 
				đạo, đời sau được sanh vào quốc độ thánh thiện an vui. 
				 
				          
				Đến đây chúng ta thấy hình như đức Phật vẫn còn cái “Ta” tức là 
				tự khen mình, nhưng kỳ thật không phải như vậy chỉ vì đức Phật 
				muốn chỉ cho chúng sinh những công đức rộng lớn của đấng Như 
				Lai. Ngài đã làm lợi ích cho chúng sinh trong vô số kiếp mới 
				thành Phật. Đức Phật Thích Ca cũng phải tu hành trải qua ba A 
				tăng kỳ kiếp nghĩa là chính Ngài cũng phải thực hành Bồ-tát Vạn 
				hạnh rốt ráo để cứu độ chúng sinh trải qua hằng hà vô số kiếp 
				thì mới thành Phật. Vì thế Phật dạy rằng : ”Trong cõi 
				tam thiên đại thiên thế giới này, không có nơi nào mà không có 
				dấu chân ta và cũng không có chỗ nào mà không có xương ta để lại”. 
				Đây mới chính thật là cuộc hành trình vô cùng vô tận với tâm 
				nguyện cứu độ tất cả chúng sinh còn lặn hụp trong biển đời sinh 
				tử trầm luân của chư Bồ-tát từ lúc mới phát tâm đến khi đạt được 
				đạo quả viên tròn. Do đó muốn thành tựu đạo quả Bồ-đề, chư 
				Bồ-tát phải trải thân ra cứu độ chúng sinh trong hằng hà vô 
				lượng kiếp thì mới thực hành Lục độ Vạn hạnh được viên mãn. 
				          
				Thế nào là Như Lai? Tiếng Phạn là Thatãgata có thể chia làm hai 
				phần: Thứ nhất nghĩa là nương theo đạo Chân như để đến Phật quả 
				Niết bàn. Nghĩa thứ hai là từ Chân lý mà đến (như thật mà đến) 
				và thành Chánh giác. Vì đức Phật theo Chân lý mà đến và từ Chân 
				như mà hiện thân nên tôn xưng đức Phật là Như Lai. 
				          
				-Ứng Cúng: Đáng được hưởng sự cúng dường của trời và người. 
				          
				-Chánh Biến Tri: Biết vạn pháp duy tâm là chánh tri, biết tâm 
				sinh vạn pháp là biến tri. 
				          
				-Minh Hạnh Túc: Có trí tuệ quang minh, tu hành công hạnh trọn 
				vẹn tròn đầy. 
				          
				-Thiện Thệ: Đã đi đến nơi tốt lành. 
				         
				 -Thế Gian Giải: Thông hiểu mọi kiến giải của thế gian một cách 
				tự tại. 
				          
				-Vô Thượng Sĩ: Bậc không ai sánh bằng. 
				          
				-Điệu Ngự Trượng Phu: Bậc đại trượng phu điều phục và chế ngự 
				được tất cả chúng sinh. 
				          
				-Thiên Nhân Sư: Thầy của chư thiên và loài người. 
				          
				-Phật: Đấng hoàn toàn giác ngộ. 
				          
				-Thế Tôn: Là bậc tôn kính ở thế gian và xuất thế gian. 
				          
				Đức Phật có những đức hạnh và năng lực toàn hảo như thế khiến 
				cho chúng sinh chưa đạt được trạng thái tâm thức tự tại khi phải 
				đối đầu với những đổi thay của cuộc sống đạt được trạng thái tâm 
				thức tự tại. Khiến cho người chưa được Niết bàn có được Thường, 
				Lạc, Ngã, Tịnh tức là có được cái vui “Tịch diệt”. Đức Phật biết 
				hiện tại, quá khứ và cảnh giới vị lai đúng như sự thật. Ngài 
				biết mọi sự vật một cách hoàn hảo, hiểu rõ thực trạng của mọi sự 
				vật, thấy được con đường tu đạo để khai ngộ, giảng kinh thuyết 
				pháp, khai diễn mọi pháp môn tu hành. Những ai chưa đạt được 
				chứng ngộ sẽ đạt được chứng ngộ ấy. Đừng nên hiểu câu kinh “Người 
				chưa được độ thì làm cho được độ. Người chưa tỏ ngộ thì làm cho 
				ngộ. Người chưa an thì làm cho an. Người chưa có Niết Bàn thì 
				làm cho chứng” theo tinh thần tiêu cực là “Phật độ, 
				Phật cho, Phật thưởng” mà nên thấu hiểu trên phương diện tích 
				cực nghĩa là Phật giúp chúng sinh phương tiện, Phật nói giáo 
				pháp, Phật chỉ cách tu hành để chúng sinh đạt thành cứu cánh còn 
				thực hành hay không là tùy ở chúng sinh. Do đó, nếu chúng sinh 
				không y giáo phụng hành, không có ngộ, không có chứng, không có 
				Niết bàn thì họ phải chịu khổ thế thôi chớ Như Lai không hề đau 
				khổ. Đó là có đi mới có đến, có ăn mới no chớ người khác không 
				ăn cho mình no được. Vì thế Như Lai thương tất cả chúng sinh mà 
				như không thương ai hết, coi như không thương ai hết mà thương 
				tất cả. Có như thế thì tâm Ngài mới thường trụ Vô thượng Niết 
				bàn được chứ. Bằng không, thấy người khổ mình cũng khổ theo thì 
				làm gì còn Niết bàn. Cũng như ánh sáng mặt trời chiếu xuống thế 
				gian, ánh sáng chiếu rọi cùng khắp mà như không chiếu cho riêng 
				ai, không hề chiếu rọi cho ai mà chiếu soi cho tất cả. 
				          
				Sau khi đức Phật nhập diệt, các đại đệ tử của Ngài ghi nhớ và 
				500 năm sau đó ghi chép lại thành tam tạng kinh điển truyền lại 
				cho đời sau.  Nhờ đó tuy ngày nay, chúng ta không có duyên 
				đối diện với đức Thế Tôn, nhưng chúng sinh cũng được gặp Phật 
				pháp. Tuy chúng ta không tỏ ngộ như người xưa, không được Niết 
				bàn an vui vĩnh viễn như người xưa, nhưng người đệ tử Phật ngày 
				nay cũng có những giờ phút an lạc, cũng biết buông xả vật chất 
				giả tạm phù du mà không luống tiếc, cũng biết mở rộng tâm Bồ đề 
				để cứu giúp chúng sinh, cũng biết hướng dẫn mọi người cùng tới 
				chỗ an lạc tự tại. Khi tâm được tự tại thì chắc chắn thể chất 
				cuộc sống của con người tự nhiên sẽ thay đổi tốt hơn. 
				          
				Phật nói Ngài là bậc Nhất Thiết Trí tức là trí tuệ Phật biết 
				cùng khắp tất cả. Ngài là bậc Nhất Thiết Kiến là thấy được tất 
				cả. Ngài là bậc Tri Đạo nghĩa là người hướng đạo để dẫn chúng 
				sinh đến nơi an lạc Niết bàn. Ngài là bậc Khai Đạo nghĩa là 
				người mở đường cho chúng sinh nương theo đó mà đi. Ngài là bậc 
				Thuyết Đạo tức là người nói con đường cho chúng sinh biết để đi. 
				Vì thế chúng sinh hãy đến để nghe, nghe rồi để biết, biết rồi để 
				tu hành mà thành tựu trí tuệ Bồ đề. Đức Thế Tôn thấu biết ai là 
				người độn căn, giải đãi, ai là bậc thượng trí lợi căn nên Ngài 
				tùy theo căn cơ chủng tánh của họ mà giảng nói để mọi người cùng 
				có lợi ích. Ngài không bỏ sót một ai, người thông minh Phật độ, 
				kẻ dại khờ Phật cũng độ, người siêng năng Phật độ, kẻ lười biếng 
				Phật cũng độ. Cho nên bất ai đến với Phật đều có lợi lành, thân 
				tâm được an ổn, cuộc sống thanh thoát nhẹ nhàng và dĩ nhiên 
				tương lai sẽ vô cùng tươi sáng ví cũng như đám mưa rưới khắp tất 
				cả cỏ cây, không phân biệt lớn nhỏ, tùy theo giống của mỗi loại 
				mà hấp thụ và từ đó phát triển đơm hoa kết quả. 
				Như Lai thuyết pháp chỉ có một tướng, 
				một vị, nghĩa là tướng giải thoát, tướng viễn ly, tướng Niết Bàn 
				tịch diệt, quy về tướng KHÔNG, rốt ráo đến  bậc “ Nhất 
				thiết chủng trí”, vì Như Lai biết chủng tánh, thể tướng của 
				chúng sanh nhớ gì, nghĩ gì, tu gì, nhớ thế nào, nghĩ thế nào, tu 
				thế nào, Như Lai đều thấy biết đúng như thật, còn cây cối lùm 
				rừng cỏ thuốc không tự biết tánh thượng, trung, hạ của nó. Phật 
				biết như vậy, rồi xem xét tâm ưa muốn của từng đối tượng mà dắt 
				dẫn, cho nên không dạy liền cho chúng sanh về “Nhất thiết chủng 
				trí”.  
				Pháp Phật chỉ có một tướng, một vị là tướng 
				giải thoát, vị giải thoát. Con người có khổ, có biết bao phiền 
				não, có lặn hụp trong biển sinh tử cũng bởi vì không thể viễn 
				ly. Mà viễn ly cái gì? 
				Giáo lý đức Phật là đơn giản, không phức tạp, 
				dễ áp dụng, nhưng thực hành để thành tựu trí tuệ Bồ-đề thì không 
				dễ đòi hỏi hành giả phải có một ý chí sắc đá để viễn ly. Viễn ly 
				những thói hư tật xấu, viễn ly những tham đắm dục tình, viễn ly 
				những tham vọng đê hèn, viễn ly những ý nghĩ bất thiện…Càng viễn 
				ly thì con người càng gần với an lạc thanh tịnh Niết bàn. Khi đã 
				biết nó là những nguyên nhân của đau khổ, là những sợi dây trói 
				buộc thì con người chỉ cần buông xả, cắt bỏ thì đau khổ chấm 
				dứt, phiền não tiêu trừ. Nên quán rằng thật tướng của vạn pháp 
				là vô tướng tức là tướng Không nên lòng không dính mắc bởi vì 
				thế gian là phù du giả tạm, có đó rồi mất đó, duyên kết là có 
				duyên tan là mất không có chi là bền chắc cả. Vì thế tướng giải 
				thoát là tướng lìa xa tham sân si, phiền não, chấp trước, lìa xa 
				sắc, tài, danh, lợi. Tướng diệt là diệt sạch hết mọi vọng niệm 
				để tâm được thanh tịnh tự tại mà hướng đến bậc Nhất Thiết Chủng 
				Trí tức là trí tuệ viên mãn tròn đầy của đức Phật. Nhờ trí tuệ 
				này, Ngài biết tất cả nguyên nhân, nguồn gốc của vạn pháp, của 
				các loài từ hữu tình đến vô tình chúng sinh. Vì thế giáo lý Nhân 
				Duyên là Chân lý của đạo Phật. Trên thế gian này không có cái gì 
				tự nhiên mà có mà tất cả đều do nhân duyên kết hợp, tác tạo mà 
				thành. Đó là cái này cái kia tác động, duyên khởi sinh ra cái 
				nọ. Cứ như thế mà trùng trùng duyên khởi kiến tạo cái thế giới 
				hữu hình này. Trong Phật giáo, nhân quả là nói về thời gian 
				nghĩa là có nhân thì một ngày nào đó sẽ thành quả. Còn nhân 
				duyên là nói về không gian, có nhân duyên kết tụ thì sẽ có kết 
				quả hình thành. Khi cộng nhân quả và nhân duyên lại với nhau thì 
				có vũ trụ tức là bao trùm gồm cả không gian vô cùng vô tận và 
				thời gian vô thỉ vô chung. 
				Phật biết căn cơ chủng tánh chúng sinh, từ 
				độn căn đến thượng trí, nên Ngài chỉ dẫn dắt từng phần chớ chưa 
				thể đem trí tuệ của Phật ra dạy được. Một lần nữa, Phật xác định 
				có giáo lý tam thừa chỉ là phương tiện của Như Lai, nhưng có một 
				điều quan trọng là trong khi Như Lai dạy giáo lý tam thừa thì 
				vẫn có mầm của giáo lý Đại thừa trong đó chỉ vì chúng sinh không 
				hề để ý đến đó thôi. 
				Những gì đức Phật dạy phát xuất từ đời sống 
				kinh nghiệm và chứng đắc của bản thân vì thế Ngài dạy chúng sinh 
				những ý chí sắc đá, trí tuệ cao siêu, đức sống vị tha, sự thoát 
				ly và đặc biệt là sống đời gương mẫu làm lợi ích cho mình, cho 
				người. Con người vĩ đại đó, tấm lòng đại từ đại bi đại trí tuệ 
				đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã làm cho 
				thế giới kính phục Ngài như một đạo sư siêu việt nhất trong lịch 
				sử nhân loại. Đạo Phật là đạo thực hành nên đức Phật không dạy 
				chúng sinh những giáo lý ảo tưởng, hoang đường mà Ngài dạy những 
				phương trình, những công thức rất thực dụng để chúng sinh tùy 
				theo căn cơ, sở nguyện của mỗi người mà áp dụng để có thực 
				chứng. Càng loại bỏ các lậu hoặc, các tập khí con người càng an 
				lạc mà không cần phải cầu nguyện, cúng tế chi cả. Đức Phật khi 
				còn tại thế đã cực lực chống đối lối cúng tế nghi lễ phức tạp 
				của Bà la môn và tôn thờ thần thánh một cách mù quáng. Đó là một 
				trong những nguyên nhân đạo Phật ra đời để thổi một luồng sinh 
				khí mới vào trong xã hội phong kiến, đẳng cấp, kỳ thị của Ấn độ 
				lúc bấy giờ. Ngài xiễn dương tình thần khách quan bình đẳng qua 
				tư tưởng Pháp Hoa vì ai cũng đều có máu đỏ và nước mắt cùng mặn, 
				vì ai cũng có Tri Kiến Phật giống y như Phật cho nên thay vì kỳ 
				thị, xua đuổi thì con người nên gần lại 
				với nhau, cùng nhau xoa dịu những mãnh đời bất hạnh. 
				-Ca-diếp! Sự nhận thức của các ông hi 
				hữu. Các ông đã biết rõ Như Lai tùy cơ nghi nói pháp khó tin, 
				khó hiểu, nay mà các ông đã tin tốt và tiếp nhận tốt. 
				 
				Đến đây, đức Phật tán thán các Tôn giả Đại Ca 
				Diếp, Ca Chiên Diên, Mục Kiền Liên và Tu Bồ Đề về sự hiểu biết 
				thâm ý của Như Lai. Đó là chỗ Phật tùy cơ nghi nói pháp cho nên 
				mới có tam thừa, nhưng cứu cánh vẩn là Phật thừa để đưa tất cả 
				chúng sinh cùng hướng về Phật quả. 
				Đức tin mà Phật nói ở đây là tin vào giáo lý 
				Phật Đà, tin vào lời dạy chân thật của đức Phật vì Ngài là người 
				đã chứng đạo thấy cứu cánh giải thoát giác ngộ, là vị thầy cao 
				cả và sau cùng tin rằng mình đi theo đúng con đường Phật vạch ra 
				thì sẽ có được giải thoát giác ngộ như Phật. Vì thế giáo lý đạo 
				Phật rất khó nghe, khó hiểu, khó tin, khó hành, nhưng nếu chúng 
				sinh nghe được, hiểu được, tin được và hành được thì đây chính 
				là sự cúng dường Phật, Pháp cao thượng nhất. 
				Bấy giờ đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên 
				bằng một bài kệ: 
				Ca-diếp ! Ông 
				nên biết  
				Ta dùng các 
				nhân duyên  
				Và nói nhiều 
				thí dụ  
				Để chỉ bày 
				đạo Phật  
				Đó là phương 
				tiện của ta  
				Các đức Phật 
				cũng thế  
				Nay ta vì các 
				ông  
				Nói việc chân 
				thật nầy  
				Quả chứng của 
				Thanh Văn  
				Chưa phải 
				thật diệt độ  
				Đạo sở hành 
				của các ông  
				Phải là Bồ 
				tát đạo  
				Học tu tiến 
				lên dần  
				Tất cả sẽ 
				thành Phật. 
				Tóm lại, bản hoài của Phật là muốn tất cả 
				chúng sinh viên thành Phật đạo tức là thành Phật chớ không phải 
				tu theo Thanh Văn, Duyên Giác. Mà muốn đạt thành bổn nguyện đó, 
				chúng sinh phải trải thân hành Bồ Tát đạo, tu Lục độ Vạn hạnh 
				viên mãn, chuyển bánh xe Đại thừa.    
				
				 ∆ 
				TOP |
				
				NEXT 
				 |