|   
				Phẩm
				
				
				THÍ DỤ 
				
				Phẩm 
				Phương tiện đã diễn giải rõ ràng bản hoài của chư Phật xuất hiện 
				ở thế gian này với một mục đích cao cả là khai thị cho tất cả 
				chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến của chính mình tức là mỗi 
				người tự nhận ra và sống với tánh giác của chính mình. Tuy chư 
				Phật ôm ấp hoài bảo to lớn như thế, nhưng căn cơ chúng sinh còn 
				thấp chưa kham thọ nhận cho nên đức Phật tạm thời trên hội A Hàm 
				chỉ nói về giáo nghĩa thập thiện giúp cho họ thấy con đường sáng 
				mà khỏi bị đọa vào tam ác đạo. Ngài nói các pháp Vô thường, Khổ, 
				Không, Vô Ngã, chân lý Tứ Diệu Đế và thuyết Thập Nhị Nhân duyên 
				để giúp chúng sinh tạm thời ra khỏi tam giới, xa lìa sinh tử và 
				chứng đắc Niết bàn. Nhưng Niết bàn mà họ chứng được chỉ là hóa 
				thành tức là tạm nghĩ chớ chưa phải là bảo sở tức là hoàn toàn, 
				chân thật và an định mãi mãi. Giáo pháp của Phật thì vô biên vô 
				lượng, nhưng tựu trung có thể chia làm hai phần: bình đẳng là 
				pháp “thật” 
				và pháp môn phương tiện là pháp “quyền”. 
				Pháp “thật’ 
				là chân thật và không bao giờ biến đổi. Còn pháp “quyền” 
				thì không thật, chỉ là phương tiện tạm thời, là những thí dụ cụ 
				thể dùng để xiễn dương chân lý. Đức Phật dạy rằng : “Như 
				Lai có một kho báu, hãy đến đây, Như Lai sẽ cho quý vị một viên 
				ngọc minh châu vô giá và các thứ trân châu khác…”.
				
				Vì chúng sinh còn nhiều tâm tham nên họ liền đến với Như Lai để 
				được món lợi, vì thế Như Lai mới có cơ hội giáo hóa họ được. Khi 
				đã thấu hiểu huyền nghĩa của giáo pháp Như Lai, chúng sinh sẽ 
				không còn quan trọng hay quan tâm đến viên ngọc minh châu vô giá 
				đó nữa vì chúng sinh vốn đã có viên ngọc đó trong họ rồi. Đó là 
				quyền, là phương tiện thiện xảo để cứu độ chúng sinh. 
				
				Vì Phật 
				khéo léo dùng những thí dụ, những phương tiện để phô bày những 
				gì ẩn dụ bên trong mà ngôn ngữ con người không thể nào diễn tả 
				được. Trong phẩm này, đức Phật đã dùng những thí dụ để làm sáng 
				tỏ thêm chỗ cứu cánh và đặc biệt để hiển bày những phương tiện 
				mà Ngài đã dạy chỉ là pháp quyền. Nhờ vậy mà chúng sinh có thể 
				nhận thấy được cứu cánh tối thượng tức là mục tiêu chính mà đức 
				Phật muốn chỉ bày.  
				
				Lúc bấy 
				giờ ông Xá-lợi-phất hớn hở vui mừng, đứng dậy  cung kính 
				chấp tay chiêm ngưỡng dung nhan Phật và bạch rằng: “Hôm nay con 
				được nghe những điều Phật dạy, lòng con hân hoan chưa từng có. 
				Bao nhiêu nghi ngờ của con đã hết. Trước kia con thường nghĩ 
				ngợi và tự hỏi: Phật cũng ở trong Pháp tánh như mình, cớ sao 
				Phật được là Phật, còn mình thì lại không? Cớ sao Như Lai lại 
				đem pháp “Tiểu Thừa” mà dạy cho? Cớ sao các Bồ tát được thọ ký 
				thành Phật, còn mình chẳng được dự vào việc đó? Con tự cảm 
				thương mình! Chẳng lẽ mình mất hết vô lượng Tri Kiến Phật, mất 
				hết khả năng thành Phật hay sao?” Nay nghe Phật dạy, con mới 
				hiều rằng, lỗi tại chúng con, vì mê mờ thiển cận, vừa được nghe 
				pháp phương tiện là đã vội ham, tư duy tu tập để cầu chứng 
				đắc. Nay con đã hiểu rõ, rằng giáo lý Tiểu thừa là “pháp phương 
				tiện” tùy nghi dẫn dụ của Như Lai. Dù “chứng đắc Niết Bàn” nhưng 
				chưa hoàn toàn diệt độ. Giờ đây con rất sung sướng tự biết mình 
				là con thật của Phật. Từ kim khẩu Phật sanh ra, từ pháp hóa của 
				Phật sanh ra, con được dự phần trong “Phật tánh và Pháp tánh” vô 
				thượng.  
				
				Ông 
				Xá-lợi-phất thưa tiếp:
				
				“Lúc mới nghe Phật “thọ ký” con sẽ thành Phật, con nghi ngờ tự 
				hỏi có phải ma giả Phật để não loạn lòng con. Nhưng sau nhờ 
				những tỷ dụ của Phật, con mới hết nghi và tin quả quyết rằng con 
				sẽ thành Phật”.  
				
				Tôn giả 
				Xá Lợi Phật chẳng những là đệ nhất trí tuệ trong số đệ tử của 
				Phật Đà, mà ngài còn là vị tuệ tánh Thanh Văn. Trong khi đó các 
				vị định tánh Thanh Văn đã rời pháp hội vì nghĩ rằng họ chẳng có 
				gì để lãnh hội từ đức Phật. Sau khi nghe Phật nói về Tri Kiến 
				Phật, ngài Xá Lợi Phất liền ngộ được Trí Huệ Phật tức là tin vào 
				khả năng thành Phật chính mình, nên vui mừng hớn hở trình lại sở 
				ngộ của mình. Trong Phật pháp có pháp phương tiện và pháp cứu 
				cánh. Trong bốn mươi mấy năm, đức Phật chỉ dùng pháp phương tiện 
				để dạy thính chúng. Ngài dạy giáo lý Tứ Đế cho hàng Thanh Văn, 
				thuyết Thập Nhị Nhân Duyên cho hàng Duyên Giác để họ chứng đắc 
				Niết bàn, giải thoát sinh tử. Nhưng cứu cánh của đạo Phật không 
				phải là trở thành A la hán, Bích Chi Phật hay Bồ tát mà phải 
				thành Phật. Tại sao? Bởi vì tất cả chúng sinh ai ai cũng đều có 
				Tri Kiến Phật giống y như Phật. Do đó nếu các vị A la hán, Bích 
				Chi Phật say mê ở những quả vị của mình thì tuy các vị đó có 
				chứng đắc Niết bàn, nhưng cái Niết bàn đó chưa phải là Vô thượng 
				Niết bàn, là Bảo sở Chân Như hoàn toàn thanh tịnh. Trong kinh 
				này hàng định tánh Thanh Văn gọi là hạng Tăng thượng mạng nghĩa 
				là những người chưa chứng được quả Vô thượng Bồ đề mà tưởng rằng 
				mình đã chứng được quả tột đỉnh rồi nên chẳng cần học hỏi tu 
				luyện thêm. Khi đã hiểu lời Phật dạy về Nhất thừa Phật đạo và 
				Tri Kiến Phật thì Tôn giả Xá Lợi Phất mới thức tỉnh biết con 
				đường đã đi là chưa hoàn mãn, say mê vào chứng đắc, chấp phương 
				tiện mà quên đi cứu cánh. Sở dĩ Phật nói pháp sai biệt giữa các 
				môn đồ là vì căn cơ mỗi người sai khác, với người trình độ thấp 
				thì Ngài dùng phương tiện hướng dẫn lên từ từ đến khi họ kham 
				lãnh được pháp lớn, thì Ngài bây giờ bình đẳng nói pháp Nhất 
				thừa. 
				
				Đến đây, 
				Tôn giả Xá lợi Phất tự xét lấy lỗi mình vì đã đánh mất vô lượng 
				Tri Kiến Phật nghĩa là tuy có sẵn Trí Tuệ Phật, nhưng vì căn cơ 
				thấp kém nên Phật bấy lâu nay chỉ nói pháp Nhị thừa mà không nói 
				pháp cứu cánh Nhất thừa. Tuy nhiên, Ngài chỉ tự cảm thương mình 
				chớ không hề trách cứ Phật bởi vì Tôn giả thấu hiểu hoài bảo của 
				Phật là giáo hóa chúng sinh để ngộ, nhập, tri, kiến Phật chớ 
				không phải các Ngài thị hiện để chỉ dạy Thanh Văn hay Duyên Giác 
				thừa. Mà muốn đạt được Trí Tuệ Phật này thì chỉ có một con đường 
				duy nhất là Phật thừa chớ không còn con đường nào khác. Tôn giả 
				bây giờ tự xác nhận mình là con Phật tức là “Tòng 
				Phật khẩu sinh, tòng Pháp hóa sinh, đắc Phật Pháp phần, cố danh 
				Phật tử” nghĩa là theo miệng Phật mà sinh ra, 
				theo Chánh Pháp mà hóa ra, được vài phần Phật Pháp nên được gọi 
				là Phật tử tức là con Phật. Nói rộng ra, từ kim khẩu của đức 
				Phật mà truyền bá, giáo hóa giúp chúng sinh học Chánh Pháp, hành 
				Chánh Pháp và sống trong Chánh Pháp để vun bồi đầy đủ phước đức 
				và trí tuệ. Ngay cả Vô thượng Bồ đề hay Vô thượng Niết bàn, 
				người đệ tử Phật cũng có thể đạt được. 
				
				Trong 
				tam huệ học, trí tuệ phát sinh như thế nào? 
				
				1) 
				
				Văn huệ: 
				là do tai nghe âm thanh, mắt đọc kinh điển của Phật để nhận hiểu 
				mà phát sinh trí tuệ. 
				
				Trong 
				suốt 49 năm hoằng dương giáo pháp của đức Phật, có rất nhiều 
				người đắc quả Thánh hay ngộ được chân lý khi nghe Ngài thuyết 
				Pháp. Không những thế, ngay cả hàng Thanh Văn tức là A la hán 
				cũng độ được rất nhiều người vào cõi Thánh 
				
				2) 
				
				Tư huệ(Cinta 
				maya panna): 
				là huệ do trí suy nghĩ, tìm tòi hay quán xét về những điều đã 
				được thu nhập được bằng văn huệ. 
				
				Những gì 
				mà chúng ta nghe, thấy và học hỏi được chỉ là kiến thức vay 
				mượn. Muốn chuyển hóa chúng để trở thành kiến thức của chính 
				mình thì phải tư duy, suy nghĩ tường tận qua nhiều giai đoạn suy 
				tư và phán đoán có nghĩa là chúng ta phải phân tích, tổng hợp để 
				tìm ra thật tướng của chân lý. Ngày nọ có vị Tỳ kheo ni tên là 
				Patacara đến rửa chân nơi một dòng suối. Đang khi bước lên bờ 
				thì bà thấy những giọt nước từ bàn chân của bà nhỏ xuống theo 
				dòng nước trôi đi và biến mất. Cứ như thế mà bà suy tư sự biến 
				đổi không ngừng của hiện tượng và bổng trực nhận được lý vô 
				thường của vũ trụ. Trong kinh điển cũng có ghi chép rất nhiều 
				trường hợp như có một hành giả có thể nghe một tiếng chim hót, 
				hoặc thấy một chiếc lá rơi, một ngọn đèn phựt tắt, hay nhìn 
				những bong bóng nước vỡ tan trên mặt hồ mà chứng ngộ được chân 
				lý. Có người cho rằng nếu nghe nhiều mà không suy luận để phân 
				biệt chân, hư và không thực hành theo chân lý thì trí tuệ không 
				bao giờ phát sinh! Đây là trường hợp của Tôn giả A Nan. Chính 
				Tôn giả A Nan đã làm thị giả cho đức Phật 27 năm và nhờ nhân 
				duyên nầy mà Ngài là người nghe nhiều học rộng nhất trong số đại 
				đệ tử của Phật. 
				
				Thế thì tại sao Ngài không đắc đạo trong lúc Đức Phật còn sinh 
				tiền? Sở dĩ Tôn giả A Nan không đắc đạo quả khi Phật 
				còn tại thế là vì chưa thực hành đúng theo những gì Ngài đã học 
				hỏi được. Đó là phải quay về với nội tâm của mình để thấy được 
				tánh giác thanh tịnh mà đã bị vọng trần và vô minh che lấp. 
				Nhưng chính nhờ kiến thức uyên bác đó, về sau giúp ngài chứng 
				ngộ con đường giải thoát và ngày nay hầu hết các kinh tạng mà 
				chúng ta có được đều do chính tôn giả tụng thuật lại. Như
				
				thế ngài đã đem đa văn của mình đóng góp vào việc duy trì và 
				phát huy nền văn học Phật giáo từ mấy ngàn năm nay và còn cho 
				bao ngàn năm nữa. 
				
				          
				Nhưng không phải mọi tư duy đều đem lại trí tuệ cho con người. 
				Vì thế đức Phật có dạy rằng: 
				
				-Có 
				hai loại tư duy. Trước hết là Chánh tư duy giúp tâm thanh tịnh 
				và sáng suốt và ngược lại Tà tư duy làm cho tâm ô nhiễm và lu 
				mờ”. 
				
				Vậy muốn 
				phát triển trí tuệ trước hết chúng ta phải tránh những tà tư duy 
				như suy nghĩ về dục lạc, suy nghĩ về oán thù và suy nghĩ về lợi 
				mình hại người. Trái lại chúng ta thường nên suy tư quán chiếu 
				về ý nghĩa sâu xa của vô ngã, vô thường, khổ não và bất tịnh của 
				tất cả các pháp hữu vi. 
				
				Trường 
				hợp của tôn giả Cùlapanthaka là một người ít học. Tuy Ngài cố 
				gắng nhưng cho đến một bài kệ ngắn chỉ có bốn câu mà trong bốn 
				tháng vẫn chưa thuộc. Vị sư huynh của Ngài thấy vậy khuyên Ngài 
				nên hoàn tục nhưng Ngài quá quyến luyến đời sống đạo hạnh nên 
				không nỡ từ bỏ. Đức Phật thấy đạo tâm của Ngài quá dõng mảnh nên 
				đến đưa cho Ngài một chiếc khăn tay màu trắng và dạy mỗi sáng 
				phải cầm khăn tay đưa ra trước mặt trời. Ngài làm y như lời dạy 
				của đức Phật nên chẳng bao lâu chiếc khăn bị bụi và mồ hôi bám 
				vào trở nên dơ bẩn và ố màu. Thấy sự kiện đó, ngài suy gẫm về 
				tánh vô thường của đời sống, trực nhận được chân lý và chứng quả 
				A la hán. 
				
				Vậy trí 
				tuệ phát sinh do suy xét chân tướng của vạn hữu thì được gọi là 
				Tư Huệ. 
				
				3) 
				
				Tu huệ
				
				(Bhavana 
				maya panna): 
				là do tu hành thể nghiệm và thể nhập chân lý để chứng được chân 
				lý mà giác ngộ. Tham thiền là phương pháp rèn luyện trí tuệ được 
				đức Phật khen ngợi và khích lệ hàng đệ tử ứng dụng để thấu triệt 
				chân lý và chứng ngộ Niết bàn. 
				
				Phương 
				pháp tu thiền định giúp con người dập tắt vô minh và ái dục. Vì 
				thế nó còn được gọi là Định năng sinh huệ. Ví như một ly nước 
				đục được giữ yên, khi bao nhiêu cặn bả đã lắng đọng thì nước sẽ 
				trở nên trong suốt. Con người thì cũng thế, nếu chúng ta giữ 
				được an trú trong thiền định thì tâm sẽ trở nên trong sạch, sáng 
				suốt và nhờ đó trí tuệ phát sinh. 
				
				Trong 
				kinh Pháp Cú,  đức Phật có dạy rằng: 
				
				-Dầu 
				thông suốt kinh luật mà không hành trì cũng chỉ như kẻ mục đồng 
				đếm bò cho kẻ khác. Người đó không hưởng được hương vị giải 
				thoát. Trái lại dù thuộc ít kinh luật nhưng cố gắng hành trì, từ 
				bỏ Tham-Sân-Si, hiểu biết chân chính, tâm tự tại, không vọng 
				chấp. Người ấy ắt hưởng được hương vị giải thoát. 
				
				Ngày xưa 
				có hai vị Tỳ kheo cùng xuất gia theo Phật. Một vị tuy học rộng 
				hiểu nhiều, làu thông kinh Pháp nhưng chưa đắc đạo. Còn vị kia 
				tuy học ít nhưng chuyên cần tu niệm nên không bao lâu chứng quả 
				A La Hán. Khi bàn luận Phật Pháp với Đức Phật, vị phàm tăng nêu 
				lên nhiều vấn nạn khúc mắc để phô trương tài bác học của mình. 
				Nhưng khi Đức Phật hỏi về sự thực chứng đạo giải thoát thì vị A 
				la hán trả lời thông suốt vì do kinh nghiệm bản thân của mình. 
				Trái lại vị phàm tăng không cách nào trả lời được vì tự mình 
				chưa chứng ngộ. 
				
				Cũng như 
				chúng ta thích một loại trà rất nổi tiếng và học cách pha trà 
				nầy. Nhưng chừng nào chúng ta chưa tự mình pha lấy và uống qua 
				một lần thì cũng không thưởng thức được hương vị của món trà quý 
				nầy. Vì thế người xưa có câu “Như nhân ẩm thủy lãnh noãn tự tri” 
				nghĩa là hương vị nóng lạnh, thơm ngon chỉ có người uống mới 
				biết được. 
				
				Nói tóm 
				lại 
				
				Văn, Tư, Tu rất tương quan mật thiết với nhau, 
				không thể bỏ qua một thứ nào mà thành tựu được cho nên đức Phật 
				dạy rằng: 
				
				-Văn 
				huệ, Tư huệ, Tu huệ ba môn khuyết một không được. Nếu nghe mà 
				không suy nghĩ thì như làm ruộng mà không gieo mạ. Nếu suy nghĩ 
				mà không tu thì như làm ruộng mà không tát nước, làm cỏ thì 
				không có lúa. Ba huệ được đầy đủ thì chứng quả Tam thừa. 
				
				Tóm lại, 
				trong tam huệ học, văn huệ tức là nghe lời Phật dạy mà khai 
				thông trí tuệ tức là từ miệng Phật sanh, tư huệ là do tư duy 
				pháp Phật dạy mà trí tuệ phát sinh tức là từ pháp hóa sinh và 
				sau cùng tu huệ là do tu thiền định, thực hành lời dạy của Phật 
				mà phát sanh trí tuệ tức là pháp phần của Phật. Do đó người đệ 
				tử Phật ít nhất phải có được một trong ba phần trí tuệ ở trên 
				thì mới không hổ thẹn với danh xưng Phật tử tức là con Phật. 
				
				Trong 
				Phật giáo có tất cả mười hai thể loại kinh được phân biệt theo 
				hình thức trình bày và nội dung giáo pháp: 
				
				1)
				
				Khế kinh: 
				Còn được gọi là Trường hàng tức là thể loại văn xuôi, trực tiếp 
				ghi chép giáo thuyết của Phật. 
				
				2)
				
				Trùng 
				tụng: 
				Tức phần kệ tụng giải thích lại giáo thuyết mà khế kinh đã nói. 
				
				3)
				
				Thọ ký: 
				Vốn là các đoạn văn giải thích về giáo nghĩa , đời sau đặc biệt 
				chỉ cho lời ấn chứng trước của Phật đối với việc làm ở vị lai 
				của các đệ tử. 
				
				4)
				
				Phúng 
				tụng hay Cô khởi: 
				Tức là phần kệ tụng độc lập, trực tiếp ghi chép giáo thuyết của 
				đức Phật mà không lập lại ý của văn trường hàng trước đó. 
				
				5)
				
				Tự 
				thuyết hay Vô vấn: 
				Đức Phật không đợi có người hỏi pháp mà tự khai thị giáo thuyết. 
				
				6)
				
				Nhân 
				duyên: 
				Ghi chép nhân duyên thuyết pháp giáo hóa của Phật, như phẩm Tựa 
				của kinh này. 
				
				7)
				
				Thí dụ: 
				Dùng thí dụ để giảng nói pháp nghĩa như phẩm này. 
				
				8)
				
				Bổn sự: 
				Các bản kinh nói về hành nghi ở đời quá khứ của Phật và đệ tử. 
				Những kinh mở đầu bằng câu: “Phật như thị thuyết” cũng thuộc 
				loại Bổn sự. 
				
				9)
				
				Bổn sanh: 
				Thể loại kinh nói về các hạnh đại bi mà đức Phật tu hành vào 
				thời quá khứ. 
				
				10)
				
				Phương quảng: 
				Các kinh giảng nói giáo nghĩa rộng lớn sâu xa. 
				
				11)
				
				Vị tằng 
				hữu: 
				Nói về những việc ít có của Phật và các đệ tử. 
				
				12)
				
				Luận 
				nghị: 
				Đức Phật luận nghị phân biệt thể tính các pháp, làm sáng tỏ các 
				pháp. 
				
				Trong 12 
				thể loại kinh được phân biệt ở trên thì chỉ có Đại thừa là có đủ 
				12 loại. Còn Tiểu thừa chỉ có 9 loại nghĩa là kinh điển Tiểu 
				thừa không có thể loại Thọ ký, Tự thuyết và Phương quảng. 
				
				-Thọ ký 
				chỉ có trong kinh Pháp Hoa bởi vì Phật dựa vào tư tưởng “mọi 
				chúng sinh đều có Phật tánh, tri kiến Phật” 
				nên Phật mới thọ ký vào vô lượng kiếp về sau sẽ thành Phật. 
				
				-Tự 
				thuyết là Phật tự ý nói chớ không phải do đệ tử hỏi. Đó là những 
				kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ… 
				
				-Phương 
				quảng hay còn gọi là phương đẳng là các kinh nói về nghĩa bình 
				đẳng, rộng lớn sâu xa. Đó là các bộ Bảo Tích và Đại Tập. Phương 
				đẳng chia làm hai phần là Phương đẳng Hiển thuyết và Phương đẳng 
				Mật chú. Hiển thuyết gồm có các kinh như Bảo Tích và Mật chú 
				kinh thì có kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu 
				Nghĩa Chư Bồ tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm và Mật chú Nghi quỹ 
				gồm các kinh Kim Cương Đảnh Nhất Thiết Như Lai Chân Thật Nhiếp 
				Đại Thừa Hiển Chứng Đại Giáo Vương. Hiển và Mật hợp chung được 
				735 bộ, 1749 quyển. 
				
				Ngay sau 
				khi đức Phật nhập diệt, vua A Xà Thế tổ chức lần kết tập kinh 
				điển lần thứ nhất tại thành Vương Xá, nước
				
				Ma-Kiệt-Đà. Trong hội Nghị nầy có 500 vị Tỳ Kheo tham dự, trong 
				đó có ngài trưởng lão Đại Ca Diếp, người được trọng vọng nhất và 
				hai nhân vật quan trọng chuyên về hai lãnh vực khác nhau là Pháp 
				và Luật là ngài A Nan và Ưu Ba Ly
				
				đều có mặt. Chỉ hai phần Pháp và Luật là được trùng tụng lại tại 
				Đại Hội lần thứ nhất. Trong Hội Nghị nầy, Pháp được chia làm hai 
				phần và mỗi phần được trao cho một vị trưởng lão cùng với đệ tử 
				của vị ấy ghi nhớ. Pháp được truyền khẩu từ thầy đến trò và được 
				tụng niệm hằng ngày bởi một nhóm Tỳ Kheo và thường được phối 
				kiểm lẫn nhau để bảo đảm không có sự thiếu sót cũng như không có 
				gì thêm vào.
				
				Mãi gần 500 năm sau ngày đức Phật nhập diệt, kinh điển mới được 
				thực hiện bằng chữ viết lần đầu tiên sau lần kết tập kinh điển 
				lần thứ tư khoảng năm 70 trước công nguyên. Như thế vào thời đức 
				Phật, những bài pháp do đức Thế Tôn thuyết giảng được nhớ lại 
				bằng thể văn xuôi gọi là Trường hàng và sau đó gom lại thành 
				những bài kệ gọi là Phúng tụng (Cô khởi) để cho đệ tử dễ truyền 
				cho nhau và cũng là cách duy nhất họ giữ gìn và duy trì cho đến 
				khi kinh điển được thật sự thực hiện bằng chữ viết. 
				
				Khi Tôn 
				giả Xá Lợi Phất mới nghe Phật nói những vị A la hán, Duyên Giác 
				tuy chứng Niết bàn, nhưng không phải thật, pháp Tứ Đế chỉ là 
				phương tiện không phải là pháp cứu cánh thì ngài tưởng như ma Ba 
				Tuần hóa ra Phật để nói cái tư tưởng tất cả chúng sinh đều có 
				thể thành Phật và chỉ có một thừa là Phật thừa. Nhưng sau khi 
				chiêm nghiệm kỹ càng thì ngài mới xác định đây chính thật là lời 
				Phật dạy bởi vì chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai khi ra đời 
				giáo hóa đều dùng phương tiện như nhau, đó là trước nói Thanh 
				Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ tát thừa rồi cuối cùng nói Phật 
				thừa. Đức Thế Tôn nói về đạo chân thật, đạo đó ma Ba Tuần không 
				làm sao nói được nên ngài tin chắc đó là lời Phật nói. Đoạn kinh 
				này phải chăng Tôn giả Xá Lợi Phất nói thay cho những người 
				thuộc truyền thống Phật giáo Nguyên thủy? Họ cho rằng Đại thừa 
				không phải là do Phật thuyết mà là do ma thuyết. Ngài Xá Lợi 
				Phất chiêm nghiệm thấy rằng ma làm sao nói được giọng êm diệu, 
				sâu xa nhiệm mầu thanh tịnh và ngài kết luận rằng những tư tưởng 
				cao siêu đó không phải là do ma nói mà đích thật là lời nói của 
				Thế Tôn. Khi kinh Pháp Hoa xuất hiện vào thế kỷ thứ hai sau công 
				nguyên thì Phật giáo nằm trong sự phân chia trầm trọng giữa các 
				bộ phái. Dĩ nhiên những người ở trong truyền thống Đại thừa 
				không có tâm trạng hoài nghi, nhưng những bộ phái khác không dễ 
				gì tin vào tư tưởng mới này. Thật vậy, cho đến ngày nay Phật 
				giáo Nguyên thủy vẫn tẩy chay kinh điển Đại thừa và họ cho rằng 
				đây là những tác phẩm tưởng tượng của triết gia Long Thọ, Vô 
				Trước, Thế Thân. Để xác tín, kinh Pháp Hoa giới thiệu ngài Xá 
				Lợi Phất, là bậc đệ nhất trí tuệ, khảo nghiệm kỹ càng và sau 
				cùng tin đây là lời Phật nói. Ngài có lòng tin bất thoái chuyển, 
				quyết sẽ tiến tới Phật quả vì thế sau này Phật thọ ký cho ngài 
				sẽ thành Phật. Đối với Phật giáo Đại thừa, niềm tin vào những 
				lời dạy của Phật để tiến thẳng về Phật quả là điều quan trọng, 
				nhưng giáo lý Nguyên thủy thì niềm tin không đóng vai trò quan 
				trọng mà trí tuệ mới là điều thiết yếu. Vì thế trong kinh Kalama 
				(Tăng Chi III.65) đức Phật dạy rằng: 
				
				-Này quý 
				vị Kalama, đương nhiên quý vị có những nghi ngờ, phân vân! Khi 
				có điều đáng nghi ngờ, đương nhiên phân vân khởi lên. 
				
				-Này quý 
				vị Kalama, đừng tin vì nghe truyền khẩu, đừng tin vì đó là 
				truyền thống, đừng tin vì nghe đồn đại, đừng tin vì được ghi 
				trong kinh điển, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì suy diễn, đừng 
				tin vì đã tư duy trên mọi lý lẽ, đừng tin vì dựa theo ý kiến đã 
				được cân nhắc, đừng tin vì vị ấy có vẻ có uy quyền, đừng tin vì 
				nghĩ rằng vị ấy là thầy của mình. 
				
				-Nhưng 
				này quý vị Kalama, khi nào quý vị tự mình biết rõ: “Các pháp này 
				là bất thiện; các pháp này là đáng chê; các pháp này bị người 
				trí chỉ trích; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận, sẽ 
				đưa đến bất hạnh khổ đau”, quý vị hãy từ bỏ chúng. 
				
				-Nhưng 
				này quý vị Kalama, khi nào quý vị tự mình biết rõ: “Các pháp này 
				là thiện; các pháp này là đáng khen; các pháp này được người trí 
				ca ngợi; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận, sẽ đưa 
				đến lợi lạc hạnh phúc”, quý vị hãy đạt đến và an trú. 
				
				Ban đầu, 
				ngài Xá Lợi Phất sa vào lưới nghi nên nghĩ rằng Phật nói pháp là 
				ma Ba Tuần nói. Bây giờ, nghe được diệu âm êm diệu của Phật, 
				xiễn nói diệu pháp thanh tịnh nên ngài rất vui mừng, không còn 
				nghi hoặc trong tâm và an trụ vào thật trí tuệ. Vời tấm lòng 
				vững tin trong đời vị lai ngài nhất định sẽ thành Phật, được 
				trời người thần rồng tôn kính, thay thế Thế Tôn chuyển đại pháp 
				luân vô thượng và giáo hóa tất cả muôn loài.  
				
				Đức Phật 
				lại bảo: 
				
				-Xá-Lợi-Phất! 
				Ta xưa đã từng giáo hóa ông, từng dẫn dắt ông trong thời gian 
				dài ở hai muôn đức Phật. Ta hướng dẫn ông đi trên con đường 
				thành Phật, nhưng ông lại quên mà tưởng là diệt độ trong khi 
				chưa đến đích. Nay ta muốn cho ông nhớ lại chí nguyện thành Phật 
				xưa kia mà vì hàng Thanh Văn nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên 
				Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm nầy. Như Lai cũng nói trước 
				cho ông biết, trong vị lai vô số kiếp, ông cúng dường vô số 
				Phật, phụng trì chánh pháp làm đủ đạo Bồ tát rồi ông sẽ thành 
				Phật hiệu Hoa Quang Như Lai đủ mười đức hiệu, nước tên Ly-Cấu, 
				kiếp tên Đại Bảo Trang Nghiêm. Số Bồ tát được ông giáo hóa nhiều 
				vô lượng.  
				
				
				-Xá-Lợi-Phất! Đức Hoa Quang Như Lai sau đó “thọ ký” cho Bồ tát 
				Kiên Mãn sẽ thành Phật hiệu là Hoa Túc An Hành Như Lai đủ mười 
				đức hiệu và cõi nước cũng trang nghiêm như vậy. 
				 
				
				Đức Phật 
				nhắc cho Tôn giả Xá Lợi Phất biết rằng trong những kiếp quá khứ 
				chính đức Phật Thích Ca đã từng giáo hóa cho tôn giả, đã từng 
				dạy cho ngài Xá Lợi Phất đạo Bồ tát, nhưng vì tôn giả quên nên 
				cứ tưởng mình hiện giờ đã đạt được cứu cánh tối thượng của sự tu 
				học là chứng đắc Niết bàn. Bây giờ, Phật Thích Ca mới nhắc lại 
				cho tôn giả biết rằng ngài đã có cơ hội học đạo Bồ tát và nhờ đó 
				chính tôn giả có khả năng trở thành một vị Phật toàn giác nhờ 
				vào nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa nhiệm mầu này. Đến đây, đức 
				Phật thọ ký cho ngài Xá Lợi Phất ở trong vô lượng kiếp vị lai, 
				cúng dường vô số chư Phật, phụng trì Chánh pháp, có đầy đủ lục 
				độ vạn hạnh sẽ được thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai và ngài 
				sẽ tạo nên một cõi tịnh độ gọi là thế giới Ly Cấu (Ly Cấu nghĩa 
				là không còn ô nhiễm nữa). Phải chăng đây là những điều kiện để 
				thành Phật? Bồ tát phải tu lục độ vạn hạnh, phải cúng dường vô 
				số chư Phật, phải phụng trì Chánh pháp vì đây là nhân để giúp Bồ 
				tát thành tựu cứu cánh sau cùng là thành Phật. Ở đây đức Phật 
				không chỉ thọ ký suông, nhưng Ngài còn thêm những điều kiện tối 
				yếu để một Bồ tát thực hành viên mãn trước khi vị đó thành Phật. 
				Đó là: 
				
				1)
				
				Bồ tát phải có đầy đủ lục độ vạn hạnh: Hành giả phải thực hành 
				rốt ráo Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí 
				tuệ theo đúng tinh thần Ba-la-mật để đối trị lại với Tham lam, 
				ác độc, sân hận, lười biếng, tạp loạn và ngu si. Bồ tát xả bỏ 
				vật chất của thế gian, gọi là Đàn ba-la-mật; thọ giới Bồ tát gọi 
				là Thi-la ba-la-mật; hộ trì giới pháp mà nhẫn chịu sự đánh đập 
				chửi mắng không báo thù, gọi là Sằn-đề ba-la-mật; giới đã được 
				thanh tịnh mà siêng năng tu hành các thiện đạo, gọi là Tì-lê-da 
				ba-la-mật, nhờ siêng năng tinh tấn mà điều phục được 5 căn, gọi 
				là Thiền-na ba-la-mật; 5 căn đã được điều phục, giác ngộ chân 
				như pháp giới  gọi là Bát Nhã ba-la-mật. 
				
				2)
				
				Cúng dường vô số chư Phật: Hằng ngày chúng sinh phải quay về để 
				xem lại cái tâm của mình có được bao nhiêu sự trong sáng thanh 
				tịnh, có bao nhiêu ý niệm hại nhân lợi kỷ tức là lợi mình hại 
				người. Nếu trong tâm không còn ý niệm bất thiện hại người lợi 
				mình thì nghiễm nhiên chúng ta đã phụng sự cúng dường vô số Phật 
				rồi đó. Nói cách khác cung dưỡng, bồi dưỡng một tâm niệm lành là 
				cúng dường một vị Phật, bồi dưỡng nhiều tâm niệm lành là cúng 
				dường cho vô số chư Phật. Đừng hiểu rằng cúng dường vô số chư 
				Phật là mua hương hoa quả đến cúng dường rất nhiều chùa. Đây chỉ 
				là tác động tiêu cực, nhưng muốn đạt đến trạng thái tích cực 
				viên mãn là sự tác động để thay đổi từ chính bản tâm của mình 
				bằng những việc làm thiện, có hữu ích cho nhân quần xã hội theo 
				tiêu chuẩn vô ngã vị tha thì đây mới là sự cúng dường cho chư 
				Phật hữu hiệu nhất. Phụng sự chư Phật cho đến lúc trong tâm 
				không còn bất cứ ý niệm vô minh phiền não tham sân si mạn nghi 
				thì lúc đó chính ta giữ được địa vị Phật của chúng ta. 
				
				3)
				
				Phụng trì Chánh pháp: Giữ gìn và đem Chánh Pháp ra hoằng hóa cứu 
				độ chúng sinh. 
				
				Tôn giả 
				Xá Lợi Phật là người đầu tiên được Phật thọ ký sẽ thành Phật 
				hiệu là Hoa Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh 
				Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng 
				Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn của nước Ly Cấu. Vậy thế nào 
				là thọ ký? Thọ ký có nghĩa là báo trước cho người đó biết trước 
				rằng người đó sẽ thành Phật bắng cách nhìn vào căn tánh, nơi khả 
				năng của người đó mà biết được trong thời điểm nào trong tương 
				lai căn tánh đó sẽ được hiển lộ hoàn toàn như hoa sen nỡ rộ vậy. 
				Chẳng những Phật thọ ký cho tôn giả Xá Lợi Phất ở chương này mà 
				ở những chương sau Phật thọ ký cho ngài Đại Ca Diếp rồi đến các 
				đệ tử vô học và hữu học. Cuối cùng Phật thọ ký cho tất cả mọi 
				người. Vậy Phật thọ ký không có nghĩa là Ngài ban bất cứ một ân 
				sủng đặc biệt nào cho ai cả mà tất cả chúng sinh đều có thể 
				thành Phật bởi vì ai ai cũng đều có sẵn Phật tánh thanh tịnh bản 
				nguyên hằng giác như Phật, nhưng muốn hiển lộ được cái Phật tánh 
				này, chúng sinh phải tu lục độ vạn hạnh, viên tròn Bồ tát đạo, 
				phải cúng dường vô số chư Phật, phải phụng trì Chánh pháp vì đây 
				là nhân còn thành Phật là quả. Nói cách khác, chúng sinh phải 
				tin rằng mình là một Diệu Pháp Liên Hoa, một thực thể vốn đã là 
				hoa sen Phật tánh và sau cùng phải có niềm tin rằng hoa sen Phật 
				tánh đó sẽ nỡ rộ cho nên cuộc đời này chúng sinh bắt đầu phát 
				triển Diệu Pháp Liên Hoa của mình bằng cách sống với đức hạnh 
				Phật tánh đó tức là biểu hiện tính từ, bi, hỉ, xả, lục độ 
				ba-la-mật viên thông, sống với lòng khoan dung 
				rộng 
				lượng vô ngã vị tha tức là cúng dường vô lượng chư Phật rồi vậy. 
				Cái huyền diệu ở đây là kinh khuyến khích mọi người sống đời 
				Diệu Pháp Liên Hoa để phối hợp cuộc đời thế phàm của mình với 
				Phật tánh và muôn hạnh công đức của nó. Chúng sinh nên tự mình 
				khai, thị để ngộ, nhập vào cái Phật tánh thiêng liêng huyền diệu 
				này. 
				
				Thí dụ 
				khi thấy một đứa bé tướng mạo khôi ngô thì chúng ta có thể thọ 
				ký cho đứa bé sau này sẽ thành bác sĩ, kỷ sư. Nhưng muốn thành 
				bác sĩ, kỷ sư thì chính đứa bé phải cố gắng nỗ lực tinh tấn học 
				hành chớ tự nhiên không thể thành bác sĩ được. Vậy lời thọ ký 
				chẳng qua là lời khuyên khích lệ để người đó đạt đến mục đích họ 
				muốn đến thế thôi. Tuyệt đối trong Phật giáo, không có vấn đề 
				cầu nguyện van xin Phật ban bố cho bất cứ vấn đề gì cả vì nó 
				trái với luật nhân quả thiên nhiên của nhân sinh vũ trụ. Nói 
				cách khác tôn giả muốn thành Phật thì chính ngài phải tự tu lấy, 
				diệt hết vô minh phiền não, tâm Bồ đề mở rộng tức thì thành 
				Phật. 
				
				Sau khi 
				thành Phật, Hoa Quang Như Lai dùng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát 
				giáo hóa chúng sinh, nhưng sau cùng cũng như Phật Thích Ca, đức 
				Hoa Quang cũng quy ba thừa trở thành Nhất thừa Phật đạo, giáo 
				hóa Bồ tát nhiều vô lượng như cát sông 
				Hằng. 
				
				Đến khi 
				đức Hoa Quang Như Lai thành đạo thì kiếp đó có tên là Đại Bảo 
				Trang Nghiêm bởi vì trong cõi nước đó, số Bồ tát nhiều vô kể, 
				không thể nghĩ bàn, cũng chẳng thể đếm được và đặc biệt trong 
				cõi Phật Ly Cấu nầy dùng Bồ tát làm đại bảo. Tuy số Bồ tát nhiều 
				vô hạn, nhưng tất cả đều đã trồng căn lành sâu thẳm, từng tu 
				phạm hạnh thanh tịnh và được chư Phật tán thán. Các đại Bồ tát 
				này không phải là những người mới tu hành mà các ngài đã hành 
				trì trí tuệ chân thật của Phật, tâm kiên cố bất thối chuyển 
				quyết hoàn thành Phật đạo. 
				
				Dựa theo 
				kinh điển Đại thừa, thọ mạng của con người bắt đầu từ 84,000 
				tuổi và mỗi một trăm năm (một thế kỷ) thì giảm xuống một tuổi. 
				Giảm cho đến khi thọ mạng con người chỉ còn 10 tuổi , đây gọi là 
				kiếp giảm, thì bắt đầu tăng trở lại cho đến 84,000 tuổi. Một 
				tăng một giảm như thế thì gọi là một tiểu kiếp, hai mươi tiểu 
				kiếp thành một trung kiếp và bốn trung kiếp trở thành một đại 
				kiếp. Đức Hoa Quang Như Lai trải qua 12 tiểu kiếp thì lúc đó thọ 
				ký cho Bồ tát Kiên Mãn sẽ thành Phật hiệu là Hoa Túc An Hành Như 
				Lai. Do đó một tiểu kiếp là tăng 8 triệu năm rồi giảm 8 triệu 
				năm, tổng cộng thành 16 triệu năm cho nên đức Hoa Quang Như Lai 
				trải qua 12 tiểu kiếp có nghĩa là trải qua gần 192 triệu năm mới 
				thọ ký cho Bồ tát Kiên Mãn. Nói theo tinh thần Tích môn thì 
				không có vị Phật nào sống đến 192 triệu năm được, nhưng dựa theo 
				tinh thần Bổn Môn của Diệu Pháp Liên Hoa thì Phật Hoa Quang 
				thường trụ vĩnh hằng trong khoảng thời gian dài gần như vô tận 
				đó. Thâm ý của đoạn kinh này là Phật hiện tại (Phật Thích Ca) 
				thọ ký cho Phật tương lai (Phật Hoa Quang) rồi Phật tương lai 
				cũng làm một việc y như Phật hiện tại đang làm là thọ ký cho 
				Phật tương lai cho nên Hoa Quang Như Lai được Phật Thích Ca tiên 
				đoán sẽ thọ ký cho Phật tương lai là Hoa Túc An Lành Như Lai. 
				Tóm lại, bộ môn thọ ký đức Phật Thích Ca cho biết rằng Phật quá 
				khứ đã dạy, đã làm như vậy, ngay cả Phật Thích Ca hiện tại cũng 
				đã dạy và đã làm như vậy và tương lai chư Phật cũng sẽ dạy và sẽ 
				làm như vậy, không sai khác. Nói cách thọ ký không phải do Phật 
				Thích Ca bày vẽ ra mà ba đời chư Phật đều theo truyền thống mà 
				thực hành như vậy. 
				
				Đại 
				chúng thấy Phật “thọ ký” ông Xá-Lợi-Phất được thành Phật, vui 
				mừng hớn hở, mỗi người cởi thượng y của mình dâng lên cúng Phật.
				 
				
				
				Xá-Lợi-Phất thưa: Bạch Thế Tôn! “Trước kia Phật thường dạy: Giáo 
				pháp của Như Lai có công năng xa lìa sanh, già, bệnh, chết và 
				được cứu cánh Niết Bàn”. Các hàng Thanh Văn đã nghe và hành 
				theo, ai cũng tưởng là mình được Niết Bàn rồi. Nay Phật lại đưa 
				ra thứ giáo pháp chưa ai từng nghe: Rằng “Niết Bàn ấy chưa 
				phải rốt ráo tịch diệt, mà rốt ráo phải thành Phật”. Con e sợ 
				hàng Thanh Văn còn chỗ nghi ngờ. Cúi xin Thế Tôn, vì bốn chúng 
				giải thích rõ ý thú của lời Phật.  
				
				Tôn giả 
				Xá Lợi Phất bạch với Phật sự thắc mắc của hàng Thanh Văn về cứu 
				cánh tối thượng của sự tu hành. Đây chính là khúc quanh đưa đến 
				sự khác biệt giữa Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Đại thừa. 
				Phật giáo Nguyên thủy cho rằng đức Phật chỉ là một người bình 
				thường như trăm vạn người khác trên quả địa cầu này, nhưng nhờ 
				dũng mãnh tu tập thiền định đoạn trừ tận gốc tham-sân-si, lậu 
				hoặc, tâm trí bừng sáng chứng được tam minh khiến Ngài đắc thành 
				chánh quả, có được giải thoát Niết bàn. Vì thế bất cứ ai cũng có 
				thể noi theo con đường đức Phật đã đi và đạt được những thành 
				quả như Phật. Bằng chứng là vào thời đức Phật đã có hàng vạn vị 
				A la hán chớ đâu chỉ có mình đức Phật chứng Thánh quả. Do đó 
				trong Phật giáo Nguyên thủy không hề có vấn đề thọ ký vì hiện 
				tại tất cả các vị A la hán là những vị Thánh giả, có đầy đủ giải 
				thoát giác ngộ như Phật rồi. Phật giáo Nguyên thủy nhìn đức Phật 
				bằng một góc độ rất thực tế, dựa trên con người lịch sử. Vì thế 
				đức Phật đối với họ là vị A la hán đầu tiên của tất cả các vị A 
				la hán. Trong ngũ bộ kinh Nikayas, đức Phật đã nhiều lần xác 
				nhận rằng hằng trăm nếu không muốn nói hằng ngàn đệ tử thuộc 
				hàng Thánh giả của Ngài cũng chứng đắc các cấp độ tâm linh ngang 
				bằng với đức Phật. Trong kinh Bộ Tương Ưng, đức Phật tuyên bố 
				chính Tôn giả Xá Lợi Phất (Sariputa) đã chứng ngộ và thâm hiểu 
				giáo lý Duyên Khởi (Pratiyasamutpada) rất sâu thẳm như chính Thế 
				Tôn vậy. Ngoài ra, còn có những bậc Thánh giả khác như các Tôn 
				giả Đại Ca Diếp (Mahkassapa), Mục Kiền Liên
				
				(Maggallana), Phú Lâu Na…
				
				cũng chứng đắc một số khả năng về những lãnh vực như giảng giải 
				thuyết pháp, xuất nhập các cấp độ thiền, thi thố thần thông 
				ngang bằng đức Phật. Đức Phật trong ngũ bộ kinh Nikayas không hề 
				phát biểu lời tuyên bố nào để phân biệt sự khác nhau giữa Ngài 
				và các vị A la hán ngoại trừ lời nói sau đây trong kinh Tương 
				Ưng: 
				
				-Này các 
				Tỳ kheo! Như Lai là vị A la hán, bậc chứng ngộ hoàn toàn. Như 
				Lai là người đã khiến cho con đường trước kia chưa sinh khởi nay 
				sinh khởi, đưa ra con đường trước kia chưa được đưa ra, làm hiển 
				lộ con đường trước kia chưa từng hiển lộ, là vị nhận biết con 
				đường, hiểu rõ con đường và là vị thiện xảo trong con đường. Và 
				giờ đây, này các Tỳ kheo, hàng đệ tử là người đi theo con đường 
				của Như Lai. Này các Tỳ kheo! Đó là nét đặc biệt, sự đặc thù để 
				phân biệt Như Lai, bậc A la hán, vị chứng ngộ hoàn toàn với các 
				Tỳ kheo đã giải thoát. 
				
				Vì vậy, 
				đức Phật không chỉ là vị A la hán với vài điểm đặc biệt, mà 
				chính những nét đặc biệt đó đã nâng Ngài lên tầm mức phi thường, 
				trở thành đấng vô thượng đạo sư của cả thế giới và dĩ nhiên đứng 
				trên tất cả các vị A la hán khác. 
				
				Như thế, 
				dựa theo Phật giáo Nguyên thủy thì A la hán là quả vị tối thượng 
				của người đi trên con đường giải thoát giác ngộ. Ngược lại, Đại 
				thừa chủ trương A la hán chỉ là sự chứng đắc nửa đường tức là 
				hóa thành mà cứu cánh tối thượng phải là đạt đến bảo sở tức là 
				chỗ trân quý mới thành Phật được.
				
				Mặc dù giáo lý Thập Địa xuất hiện đầu tiên trong kinh Thập Địa 
				Giải Thuyết Luận (Dasabhaùmivibhàsà Sàstra) của Long Thọ vào 
				khoảng thế kỷ thứ hai sau công nguyên, nhưng ý nghĩa của nó chưa 
				rõ ràng, chỉ có một vài yếu tố về Thập Địa được đưa ra. Khi kinh 
				Hoa Nghiêm được thành lập thì kinh mới có một phẩm riêng nói về 
				Thập Địa của một vị Bồ tát. Đó là phẩm Thập Địa. Nhưng mãi đến 
				thời đại của Vô Trước, Thế Thân vào thế kỷ thứ tư sau công 
				nguyên thì giáo lý Thập địa mới đạt đến trình độ cao nhất. Thập 
				địa là mười giai vị trong quá trình tu hành của người đệ tử Phật 
				trên con đường tiến đến quả vị Phật. Địa nghĩa là trụ xứ, sinh 
				thành. 
				
				Thập địa 
				(bhùmi) hiểu theo nghĩa đen là trái đất, vị trí hay nền 
				tảng…nhưng theo nghĩa bóng là trình độ, cấp độ, giai vị, tiến 
				trình. 
				
				Theo học 
				giả Har Dayal và N. Dutt, ở giai đoạn mới hình thành số lượng 
				của địa (blùmi) được xác định một cách chắc chắn trong các kinh 
				Lăng Già (Lankavatara) và bộ Bồ Tát địa (Bodhisattva- blùmi) chỉ 
				có bảy. Về sau, số lượng này phát triển thành mười bắt đầu từ 
				kinh Thập Địa (Dasablùmika-sùtra) rồi đến tập Mahàvastu. Tuy 
				nhiên các kinh trên không đưa ra bất cứ lời giải thích về sự 
				thêm ba địa mới. Học giả Har Dayal nói rằng nguyên nhân của sự 
				ra đời của bảy địa trong kinh điển Phật giáo Đại thừa có thể như 
				là một bước phát triển từ giáo lý Thượng tọa bộ (Nguyên Thủy) về 
				tứ thiền (four stages) và tam minh (Three vihàras). Nhưng tại 
				sao lại chuyển thành Thập địa? Vì tiến trình để đạt đến thánh 
				quả dựa theo Phật giáo Nguyên thủy là tứ thiền rồi qua tứ không 
				định. Sau đó đi vào Diệt Thọ Tưởng định rồi mới trở thành A la 
				hán (Phật) tức là giai đoạn thứ mười. Cũng vậy, Thập địa là mười 
				giai đoạn của Bồ Tát phải trải qua trước khi thành Phật. Tuy 
				nhiên có nhiều học giả cho rằng khái niệm về Thập địa có thể là 
				kết quả của sự đơn giản hóa, phổ thông hóa và cụ thể hóa từ giáo 
				lý chín cảnh giới thiền định như được giải thích trong kinh tạng 
				Nikàya. Vì từ chín cảnh giới thiền định này mà chính đức Phật 
				thành đạo và nhập Niết bàn, và hàng vạn vị A la hán khác cũng 
				chứng đắc và nhập Niết bàn y như vậy. Nói cách khác, sau khi 
				chứng đắc hoàn toàn chín cấp độ thiền định trên, Phật quả hay A 
				la hán như là địa vị thứ mười tức là cấp độ cuối cùng đạt đến 
				một cách tự nhiên mà không cần bất cứ nỗ lực tương ứng nào như 
				trong chín trường hợp trước. 
				
				Tư tưởng 
				Đại thừa lý luận rằng đức Phật lịch sử chỉ là ứng thân của chư 
				Phật trong thế giới này vì Ngài đã thành Phật từ vô thỉ. Nói 
				cách khác Pháp thân mới đúng là thân Phật, còn nhục thân thì 
				chưa đích thật là Phật thân. Khi Đại thừa biến đức Phật từ một 
				người bình thường thành một siêu nhân, một Superman của thế 
				giới, của vũ trụ thì tự nhiên giữa chúng sinh và Phật có sự xa 
				cách. Tại sao lại có sự xa cách? Bởi vì Ngài không phải là người 
				bình thường như muôn vạn chúng sinh trong thế giới này cho nên 
				những điều Phật làm, chỉ có Phật mới thực hiện được, còn phàm 
				nhân thì đành bó tay, đừng nên mơ ước viễn vong. Việc thần thánh 
				hóa đức Phật đã khiến cho người đệ tử Phật trở thành tiêu cực, 
				thay vì tinh tấn nỗ lực tu hành giống như các vị A la hán ngày 
				xưa để trở thành Thánh giả, đa số Phật giáo đồ trở thành người 
				cầu xin, van vái, lệ thuộc vào tha lực. 
				
				   
				Trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập Địa nói lên mười giai vị của Bồ 
				tát là: 
				
				1)
				
				Hoan hỷ 
				địa 
				(Sơ địa) (Pramudità): Khác với lý tưởng của Nguyên thủy là tìm 
				sự giải thoát Niết bàn cho riêng mình thì ở đây Đại thừa giới 
				thiệu một lý tưởng cao đẹp hơn nhằm giúp cho tất cả mọi chúng 
				sinh giải thoát mọi phiền não vô minh. Khi diệt được các pháp 
				tướng mê lầm, chỗ giác ngộ đã đến cùng tột, diệt trừ được phân 
				biệt ngã chấp, pháp chấp nên tâm bắt đầu có được pháp lạc nên 
				mới gọi là hoan hỷ địa tức là sơ địa. 
				
				2)
				
				Ly cấu 
				địa 
				(Uimada): là giác vị lìa bỏ tâm sai lầm, phá giới, phiền não 
				cấu. 
				
				3)
				
				Phát 
				quang địa 
				(Prabhàkari): đến đây Bồ-tát thấu biết tánh vô thường của tất cả 
				vạn vật trong thế gian vũ trụ nên nội tâm càng thanh tịnh thì 
				trí tuệ càng sáng suốt. 
				
				4)
				
				Diệm huệ 
				địa 
				(Arcismati): trong giai đoạn này, Bồ-tát bắt đầu thực hành sự an 
				nhiên tự tại và cắt dứt những thứ ô nhiễm, vô minh. Đến giai vị 
				này hành giả đã lìa bỏ kiến giải phân biệt, dùng lửa trí tuệ 
				thiêu đốt củi phiền não nhờ đó mà ngộ được bản thể trí tuệ. Lúc 
				ấy trí tuệ được sáng suốt tỏ tường và dĩ nhiên sự giác ngộ được 
				viên mãn. 
				
				5)
				
				Nan 
				thắng địa 
				(Sudurjayà): Đến đây, Bồ-tát bắt đầu phát huy tinh thần bình 
				đẳng đồng nhất và giác ngộ nhờ vào thiền định giúp Bồ-tát biết 
				thấu suốt tục đế và chân đế viên dung bất nhị.
				
				Giác vị này đã thành tựu trí xuất thế gian, nương vào năng lực 
				phương tiện tự tại mà cứu độ các chúng sinh khó cứu độ. 
				
				6)
				
				Hiện 
				tiền địa 
				(Abhimukhi): Khi vào được giai đoạn này, Bồ-tát sẽ trực diện với 
				thực tại và sẽ ý thức được sự đồng nhất của tất cả mọi hiện 
				tượng. Và bấy giờ Bồ-tát sẽ nhận biết rằng vô vi chân như hoàn 
				toàn không nhiễm, không tịnh, thường hằng hiện tiền tức là tự 
				tánh của chân như hiện rõ
				
				có được đại trí. 
				
				7)
				
				Viễn 
				hành địa 
				(Dùrangamà): Đến đây Bồ-tát có đủ dữ kiện để tiến vào giải thoát 
				Niết bàn, nhưng họ dừng lại vì còn trách nhiệm cứu giúp tất cả 
				chúng sinh cùng được giải thoát như mình. Họ biết rằng đến đây 
				tất cả đều là chân như, không có gì không phải là chân như, vô 
				cùng vô tận. 
				
				8)
				
				Bất động 
				địa (Acalà): 
				Đến đây Bồ-tát thấu biết rốt ráo sự bất sinh của tất cả hiện 
				tượng vạn hữu trong thế gian. Khi đã trải qua “vô sanh pháp 
				nhẫn” Bồ-tát thấu biết sự tiến hóa và thoái hóa của nhân sinh vũ 
				trụ. Vì vậy, tâm Bồ-tát thường trụ không thay đổi, tuyệt đối 
				không bị phiền não làm lay động. 
				
				9)
				
				Thiện 
				huệ địa 
				(Sàdhumti): Đến đây Bồ-tát có thể phát hiện ra vô số thân để hóa 
				độ chúng sinh với đấy đủ bốn trí vô ngại. Đó là Ý thức thành ra 
				Diệu Quan Sát Trí, tiền ngũ thức thành ra Thành Sở Tác Trí, Mạt 
				na thức trở thành Bình Đẳng Tánh Trí và A Lại da thức sẽ thành 
				Đại Viên Cảnh Trí.
				
				Bồ tát dùng năng lực vô ngại để thuyết pháp, hoàn thành hạnh lợi 
				tha và trí tuệ được tự tại. 
				
				10)
				
				Pháp vân 
				địa 
				(Dharmameghà): Khi Bồ-tát 
				công phu đầy đủ, công đức trí tuệ và từ bi viên mãn có thể che 
				chở cho vô lượng chúng sinh thì gọi là nhập vào Pháp vân địa tức 
				là Thập địa Bồ-tát vậy. Lúc ấy Bồ tát được đại pháp thân, có 
				năng lực tự tại. 
				
				Đến đây 
				Bồ-tát đã có đồng một giác tánh bình đẳng với Như Lai nên gọi là 
				Đẳng giác Bồ-tát. Sau cùng Bồ-tát chỉ cần giác ngộ sinh tướng vô 
				minh thì tức thì chứng được Nhân địa Như Lai tức là đạt được 
				Diệu giác. Bồ-tát chuyển Dị Thục thức thành ra Bạch Tịnh thức 
				rồi vào Kim Cương địa mà phát sinh Nhất thiết chủng trí, Nhất 
				thiết trí trí, tùy duyên hóa hiện, độ thoát chúng sinh mà không 
				rời tự tánh thanh tịnh Niết bàn cho đến tột đỉnh nhân quả đồng 
				thời là hoàn thành Phật đạo tức là thành Phật. 
				
				Đây là 
				lối biện chứng dựa theo tinh thần Mật tông của Vô Trước, Thế 
				Thân và Dược sư Long Thọ dựa theo hai bộ kinh Kim Cương và Đại 
				Nhật. Thế Thân là tác giả của  Duy thức Nhị thập tụng và 
				Duy thức Tam thập tụng (Vimsatikà và Trimsikà-vijnịapti-kàrikà), 
				cùng một quyển nhỏ khác, nói về ba tánh của hiện hữu, tức tam tự 
				tánh (Trisvabhàva-nirdesa), hay còn gọi là Tam vô tự tánh luận 
				(Trinisvabhàva-sàstra). Trong khi đó Vô Trước là tác giả của Bồ 
				tát địa (Bodhisattvabhùmi), A-tì-đạt-ma Tạp tập luận 
				(Abhidharmasamuccàya), và Du-già sư địa luận 
				(Yogàcàryà-bhùmi-sàstra), viết theo quan niệm Duy thức.   
				
				Ðại diện 
				trường phái Duy thức tại Ấn Ðộ có Sthiramàti (An Huệ, sống 
				khoảng thế kỷ VI), vốn là đại đệ tử của Gunamàti, Ðức Huệ, người 
				sáng lập trung tâm Valabhì, trong khi Dharmapàla, Pháp Hộ 
				(530-591), người có công xác lập vị trí của trung tâm Ðại học 
				Nàlandà với khuynh hướng xiển dương Duy thức, là hai trung tâm 
				học thuật Phật giáo nỗi tiếng đương thời. Pháp Hộ chủ trương Duy 
				thức tuyệt đối, trong khi An Huệ có ý muốn dung hòa quan điểm 
				"thực tướng" của Nagarjuna (Long Thọ) với quan niệm "nhất thiết 
				duy tâm tạo" của Duy thức. Ngoài ra còn có đệ tử Thế Thân là 
				Dignàga (Trần Na), và đệ tử Trần Na là Dharmakìrti (Pháp Xứng); 
				cả hai dựa trên quan điểm nội hàm luận lý học của Thế Thân về 
				tương liên giữa nhận thức về đối tượng để xiển dương Nhân minh 
				học (Hetuvidyà), một phương pháp tranh luận bằng lý luận, logic. 
				Khi ngài Huyền Trang qua Ấn Độ ở tại Nàlandà tu học với cao tăng 
				Giới Hiền gần sáu năm, đến khi về lại Trung Quốc liền soạn ra 
				Thành Duy Thức Luận
				
				(Vijnịapti-màtratà-siddhi), làm căn bản triết thuyết cho Pháp 
				Tướng tông Trung Hoa.      
				
				Bây giờ 
				Phật bảo: 
				
				-Trước 
				đây Như Lai há chẳng nói rằng, tất cả giáo pháp của Phật dạy đều 
				là phương tiện đưa đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đó sao? 
				Nhưng thôi, để cho người trí hiểu được Như Lai có cái thí dụ 
				này:  
				
				Trong 
				một xứ nọ, có ông trưởng giả  giàu to của cải vô lượng,
				
				nhưng tuổi đã già suy. Nhà của ông rộng lớn chứa rất nhiều 
				người, trong số có các con của ông, nhưng phải cái nguy là ngôi 
				nhà mục nát, cột kèo ngả đổ, vách phên xiêu xập, rắn rít rất 
				nhiều thêm nổi lửa cháy bốn bề mà lối ra thì chỉ có một cửa.
				 
				
				Ông 
				Trưởng Giả đứng ngoài lo sợ cho các con, nghĩ bụng rằng: Ta có 
				thể xong vào cứu chúng, nhưng nhớ đến cửa nhỏ hẹp, sợ các con 
				dùng dằng không đem ra được hết. Trong lúc nguy hại trước mắt 
				các con của ông cứ đùa giỡn vui chơi, không biết sợ sệt gì hết 
				và cũng không có ý muốn ra, vì không biết nhà cháy là gì, chết 
				cháy là gì, lửa là gì !  
				
				Ông 
				Trưởng Giả bèn lập kế, ông hô to: “Các con! Cha có những đồ chơi 
				đẹp lắm đây. Xe dê, xe hưu , xe trâu trắng, xe nào cũng đẹp đẽ 
				trang sức lộng lẫy, các con mau ra tự chọn lấy xe theo ý thích”.
				 
				
				Các con 
				ganh đua xô đẫy lẫn nhau kéo nhau chạy ra khỏi nhà cháy. Ông 
				Trưởng Giả rất mừng khi thấy các con được an ổn. Ở nơi ngã tư 
				đường không còn nguy hại.  
				
				Bây giờ 
				các con xúm lại đòi đồ chơi, với ước muốn riêng, xe dê, xe hưu 
				theo ý thích, nhưng ông Trưởng Giả chỉ ban cho các con đồng một 
				thứ xe lớn tốt đẹp vô cùng, đầy đủ tiện nghi trang hoàng lộng 
				lẫy. Vì sao, ông Trưởng Giả không cho ba thứ xe lớn nhỏ, tốt đẹp 
				khác nhau mà lại cho đồng một thứ xe tuyệt đẹp. Vì ông Trưởng 
				Giả quá giàu, kho tàng đầy ngập, của cải vô lượng! 
				
				          
				Trong quá trình hoằng pháp độ sanh suốt cả đời đức Phật, Như Lai 
				sử dụng vô số phương tiện, vô số pháp môn, nhưng cứu cánh vẫn là 
				Vô thượng Bồ đề và chỉ có một con đường là nhất thừa Phật đạo. 
				Sở dĩ trong quá khứ đức Phật chỉ nói tam thừa chỉ vì chúng sinh 
				còn say mê cuộc sống dục vọng, làm nộ lệ cho vật chất, chìm đắm 
				trong tam giới cho nên Phật không thể đem chân lý liễu nghĩa tối 
				thượng thừa ra dạy được. Vì có dạy chưa chắc chúng sinh đã hiểu, 
				đã tiếp thu. Do vậy, đức Phật mới dùng phương tiện, dùng pháp 
				tiệm tu, tiệm ngộ và tiệm chứng để đưa từng chúng sinh đến chỗ 
				chứng đắc tạm thời, từng phần. Bây giờ khi căn cơ họ đã thuần 
				thục, Như Lai mới đem thứ giáo pháp “đệ nhất nghĩa đế” ra mà 
				dạy. Ở đây để làm sáng tỏ thâm ý của Phật, Ngài dùng thí dụ để 
				giải thích đạo lý này khiến người có trí tuệ nhờ đó mà lãnh hội 
				được. Lúc trước đức Phật từng thuyết giảng rằng mọi người hãy tự 
				thắp đuốc lên mà đi, hãy lấy Pháp của Ta làm đuốc, hãy theo pháp 
				của Ta mà tu giải thoát đó sao? (kinh Pháp Cú). Thâm ý của Phật 
				ở câu kinh trên là mỗi chúng sinh phải tự mình bồi dưỡng và phát 
				triển lấy Phật tánh của chính mình cho đến khi thành Phật. Nói 
				thế có nghĩa là trong quá khứ đức Phật đã từng ngụ ý kinh Pháp 
				Hoa rồi chớ đâu phải đến bây giờ Phật mới khai thị kinh này, 
				nhưng các vị A la hán không để ý đến mà thôi. Diệu Pháp Liên Hoa 
				là phải thấy tất cả mọi người là hoa sen, ai cũng có đầy đủ tất 
				cả giới, định, tuệ, đầy đủ lục độ vạn hạnh, đầy đủ trí tuệ 
				ba-la-mật. Vì ta là hoa sen, mọi người cũng là hoa sen nên từ 
				cái tri kiến về hoa sen đó sẽ chuyển hóa toàn diện những mối 
				tương quan giữa mình với người và với thế giới để cùng nhau trân 
				trọng, thương yêu và kính mến lẫn nhau bởi vì đạo Phật có mặt 
				trên thế gian này không ngoài mục đích nhắn nhủ cho đời rằng ai 
				cũng là những đóa hoa sen, là những vị Phật sẽ thành. 
				
				          
				Bây giờ đức Phật đưa ra một thí dụ. Có ông Trưởng giả, chỉ cho 
				Phật, thấy các con mình, chỉ cho chúng sinh, đang vui chơi trong 
				căn nhà đang cháy, chỉ cho những cảnh thống khổ của sanh lão 
				bệnh tử, ưu bi khổ não trong tam giới. Vì thế có câu “Tam giới 
				bất an do như hỏa trạch” nghĩa là ba cõi không an ổn cũng giống 
				như căn nhà đang cháy.  Ba cõi là dục giới, sắc giới và vô 
				sắc giới có đầy dẫy những cạm bẫy của tham sân si, những quyến 
				rũ của dục vọng và những khát vọng của ái dục lúc nào cũng sẵn 
				sàng thiêu đốt tâm gan của chúng sinh nên không bao giờ có an ổn 
				được chẳng khác nào như một căn nhà đang bừng cháy. Nếu chúng 
				sinh có sự vui chơi tức là có hạnh phúc thì những hạnh phúc tạm 
				bợ này đến rất nhanh khi duyên kết mà cũng biến mất khi nhân 
				duyên tan rã đó là chưa kể những hạnh phúc tạm bợ đó lại là 
				nguyên nhân của những lo âu phiền muộn sau này. Nói chung chúng 
				sinh còn ở trong dục giới tức là còn tùy thuộc vào dâm dục, thực 
				dục và tham dục hay chúng sinh còn đam mê vào vật chất, tiện 
				nghi của thế giới sắc giới hoặc chúng sinh còn gởi gắm tâm hồn 
				vào những thế giới ảo tưởng hoang đường của cõi vô sắc giới thì 
				họ không bao giờ được an ổn tự tại. 
				
				          
				Nhà, chỉ cho tam giới và rộng là chỉ cho luân hồi không dứt. Một 
				cửa là ám chỉ nhất thừa Phật đạo. Ngôi nhà mục nát chỉ cho tam 
				giới vô thường, chúng sinh luân hồi trong tam giới không ngừng. 
				Cột kèo ngả đổ là chỉ cho mạng người chẳng lâu dài. Vách phên 
				xiêu xập là chỉ cho tứ đại (đất, nước, gió, lửa) không có chi là 
				bền chắc nên phải chịu sanh, lão, bệnh, tử, ưu bi sầu não đến cả 
				cuộc đời. Lửa cháy bốn bề là chỉ cho tam khổ (khổ khổ là cái khổ 
				này chồng lên cái khổ nọ; hoại khổ là có sinh tất có hoại, vô 
				thường bất định; hạnh khổ là nỗi khổ phát sinh khi lục căn tiếp 
				xúc với lục trần làm dục vọng phát khởi), bát khổ (sanh khổ, lão 
				khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, oán tắng 
				hội khổ, ngũ uẩn thiêu đốt) của chúng sinh. Vì có lửa phiền não 
				tùy thời tùy lúc nổi lên thiêu đốt mà sinh ra vô vàn thống khổ. 
				Tuy chúng sinh sống trong phiền não vô minh, nhưng họ không biết 
				tự mình mang lấy bao nỗi khổ nhọc nhằn nên cứ lấy khổ làm vui ví 
				như người chẳng biết chết cháy là gì cho nên thay vì chạy vào 
				trong nhà để cứu các con, ông Trưởng giả bây giờ chỉ đứng ở 
				ngoài mà dùng phương tiện, thí dụ để gọi các con của ông. Ông 
				Trưởng giả đem xe dê, xe hưu, xe trâu trắng với trang sức đẹp đẽ 
				lộng lẫy ra dụ các con của ông. Xe dê là chỉ cho Thanh Văn, xe 
				hưu là cho Duyên Giác, trung thừa, sức hưu mạnh hơn sức dê và xe 
				trâu trắng là cho Đại thừa, cũng như sức trâu mạnh có thể chở 
				được nhiều người. Các con ông tranh nhau ra khỏi nhà lửa là chỉ 
				cho chúng sinh đoạn khỏi tư hoặc, kiến hoặc, vô minh hoặc, chứng 
				thánh quả A la hán, Bích Chi Phật hay Bồ tát. Tuy các con của 
				ông đã ra khỏi nhà lửa nghĩa là nhờ tu theo Thanh Văn, Duyên 
				Giác và Đại thừa chúng sinh thoát khỏi phiền não vô minh chứng 
				đắc Niết bàn. Ở nơi ngã tư đường là ám chỉ cho Tứ Đế (Khổ, Tập, 
				Diệt, Đạo) và ngồi nơi đất trống là tuy chứng quả vị Niết bàn, 
				nhưng các vị A la hán không tiếp tục tu đạo cầu chứng quả vị Vô 
				thượng Bồ đề mà chỉ muốn an hưởng nơi hóa thành. Đây là muốn ám 
				chỉ hàng định tánh A la hán. Sau cùng ông Trưởng giả thay vì đem 
				những cổ xe dê, xe hưu, hay xe trâu để cho con mình thì bây giờ 
				ông mới đem một cổ xe lớn trang hoàng lộng lẫy uy nghi tặng 
				chúng. Cổ xe lớn nầy chính là nhất thừa Phật đạo. Và những gì 
				Phật nói trong kinh Pháp Hoa là thật trí diệu pháp chớ chẳng 
				phải là quyền pháp nữa. Vì thế Trí Khải Đại sư mới nói kinh Pháp 
				Hoa là “Thuần viên độc diệu” nghĩa là chỉ có kinh Pháp Hoa mới 
				là viên mãn diệu nhất. 
				
				          
				Mới nghe chúng ta có cảm tưởng câu chuyện giống như câu chuyện 
				của trẻ con, không thật, nhưng xét kỷ lại thì câu chuyện này nói 
				đúng với tâm trạng và hoàn cảnh của chúng ta. Sống trong tam 
				giới, con người đang say mê với những cuộc vui tạm bợ, chúng ta 
				cố gắng tranh công đoạt chức, kiến tạo vun bồi cho ngày được 
				giàu hơn. Vì sự tranh chấp con người đưa đến bao cuộc chiến 
				tranh thảm khóc, giết hại vô số dân lành vô tội. Ngày nay tranh 
				chấp kinh tế còn tệ hại hơn chiến tranh vũ khí. Con người bày ra 
				biết bao bẫy rập để mưu cầu danh lợi về cho phe mình bất chấp sự 
				đau thương của kẻ khác. Những nhà độc tài chuyên vơ vét tài sản 
				cho mình càng thêm giàu sụ mặc tình người dân sống dở chết dở. 
				Đấy, chúng ta đang sống trong căn nhà lửa mà có ai tin, ai biết 
				đâu. Vì thế Phật muốn nói cũng chẳng ai tin nên ban đầu Ngài chỉ 
				dùng phương tiện để đưa chúng sinh ra khỏi căn nhà lửa rồi sau 
				đó mới chỉ cho con đường để đạt đến cứu cánh tối thượng Bồ đề 
				tức là thành Phật. Tóm lại, Phật ra đời không phải dạy chúng 
				sinh tu thành A la hán, Bích chi Phật hay thành Bồ tát mà phải 
				tu thành Phật giống y như Phật vậy. Chính phẩm Phương Tiện xác 
				định
				
				rằng
				
				“Chư Phật chỉ do một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở thế gian”. 
				Đó là muốn cho chúng sinh “khai,
				
				thị,
				
				ngộ,
				
				nhập Phật tri kiến”
				
				nghĩa là đức Phật muốn 
				
				khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ và thâm nhập cái 
				thấy biết của Phật và cũng chính là cái thấy biết của Pháp Hoa 
				vốn đã có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh.
				
				Đó là trong tất cả mọi chúng sinh, ai ai cũng có đầy đủ tri kiến 
				Phật, là trí tuệ bổn lai đều giống như Phật. Từ chỗ khai mở, chỉ 
				bày, làm tỏ ngộ và thâm nhập cái tri kiến Phật này là nhận được 
				Phật nhân của mình và sau đó tu hành viên mãn để thành Phật là 
				thành Phật quả. 
				
				Đến đây, 
				đức Phật hỏi ông Xá-lợi-phất: 
				
				-Ông 
				Trưởng Giả trước hứa cho ba thứ xe, nay lại cho có một thứ, mà 
				là thứ lớn, đẹp nhất. Vậy ông Trưởng Giả có lỗi nói dối không?
				 
				
				Ông 
				Xá-lợi-phất đáp: “Dạ không. Giả như cho chiếc xe nhỏ và xấu 
				nhất, ông Trưởng Giả cũng không có lỗi nói dối, huống gì cho thứ 
				xe lớn và đẹp nhất.  Vì sao? Vì việc hứa cho xe chỉ là một 
				sách lược, một cách phương tiện, nhằm cứu các con ra khỏi nhà 
				lửa đang ngùn ngụt cháy.”  
				
				Phật 
				pháp nhiệm mầu sâu thẳm cho nên trong suốt 49 năm hoằng pháp độ 
				sanh, có lúc Phật nói thật, có lúc Ngài nói quyền. Cũng như 
				trong kinh Duy Ma Cật, ông Trưởng giả Duy Ma Cật giả bệnh tạo 
				phương tiện để thính chúng đến thăm mà giảng pháp. Vì thế Phật 
				dùng phương tiện để giúp chúng sinh tỏ ngộ chân lý vì chân lý 
				không thể diển bày bằng ngôn ngữ văn tự của con người. Ông 
				Trưởng giả biết các con ham chơi và ưa thích đồ chơi quý đẹp nên 
				thay vì nói thật, ông dùng phương tiện để dụ các ông chạy ra 
				khỏi căn nhà đang cháy. Nhưng cái mà đem ra dụ thì không phải là 
				thật tức là nói quyền. Phật nói thẳng chúng sinh không tin, 
				không nghe nên Ngài phải dẫn dụ bằng cách này hay cách khác. Ở 
				đây cứu cánh vẫn là thành Phật cho nên đức Phật tạm thời dùng 
				phương tiện thiện xão để đưa chúng sinh có được giải thoát từng 
				phần, nhưng sau cùng Ngài vẫn không quên đưa chúng sinh đạt đến 
				cứu cánh tối thượng là viên thành Phật đạo tức là thành Phật.  
				
				Phật 
				khen: 
				
				-Đúng 
				vậy, Xá-Lợi-Phất! Như Lai là cha của tất cả thế gian.  Tuy 
				đã ra khỏi thế gian vẫn vì sự lợi ích của thế gian mà trở vào 
				nhà lửa tam giới cũ mục nguy hiểm nầy để độ chúng sanh ra khỏi 
				nạn lửa sanh già, bệnh, chết, lo buồn, khổ não, tham lam, hung 
				bạo, si mê, tắm mình trong biển độc hại khổ đau. Sống trong cảnh 
				khổ nhà cháy như thế mà chúng sanh vẫn cứ vui chơi hỉ hả, chẳng 
				hay mình đang bị lửa đốt, không sợ, không nhàm, không có ý cầu 
				ra khỏi.  
				
				Trong 
				việc cứu độ chúng sanh, Như Lai đã từng suy nghĩ: Đem trí tuệ 
				thần thông, giảng nói các tri kiến, trí lực, vô sở úy… của Như 
				Lai không thể được. Vì chúng sanh đang dong duỗi nô đùa trong 
				rừng vô minh tam độc, bị thiêu 
				đốt trong nhà lửa sanh, già, bệnh, chết, khổ não, ưu bi thì làm 
				gì nghe hiểu mà tiếp thu. Do vậy, Như Lai phải dùng phương tiện, 
				quyền lập pháp tu: Một là Thanh Văn thừa (xe dê). Hai là Duyên 
				Giác thừa (xe hưu). Ba là Bồ Tát thừa (xe trâu trắng). Đó là Như 
				Lai vận dụng phương tiện đáp ứng căn cơ của mỗi hạng chúng sanh.
				 
				
				Ông 
				Trưởng Giả cho đều các con mỗi đứa một cỗ xe to đẹp, khi chúng 
				ra khỏi nhà lửa. Như Lai cũng vậy, khi chúng sanh ra khỏi sự khổ 
				não, ưu bi, sanh, già, bệnh, chết, bất luận là Thanh Văn, Duyên 
				Giác, hay Bồ Tát, Như Lai bèn cho cái vui tuyệt đỉnh là: Thiền 
				Định, Trí Tuệ và Tri Kiến Phật… là những cỗ xe đưa đến Vô Thượng 
				Chánh Đẳng Chánh Giác. Cũng như ông Trưởng Giả kia, đức Phật 
				không phạm tội nói dối.  
				
				
				Xá-Lợi-Phất! Vì nhân duyên đó, các Như Lai dùng sức phương tiện: 
				chỉ có một Phật thừa, phân biệt nói thành ba. 
				
				Đức Phật 
				là bậc trí tuệ viên mãn, có đủ trí lực, vô sở úy, thần thông, 
				nhưng vì thương tất cả chúng sinh còn đang say mê chìm đắm ngũ 
				dục trong nhà lửa tam giới nên Ngài vì chúng sinh mà vào căn nhà 
				lửa để độ cho tất cả thoát khỏi ngọn lửa sanh, già, bệnh, chết, 
				ưu bi sầu não đang âm ỉ thiêu đốt con người. Con người càng đuổi 
				theo dục lạc thì càng bị lửa tham dục, lửa sân hận, lửa si mê 
				đốt cháy đau đớn vô cùng. Cũng như ông Trưởng giả thấy đàn con 
				đang say mê đùa giởn trong nhà 
				lửa nên ông phải dùng phương tiện dụ dỗ cho các đồ chơi quý báu 
				như xe dê, xe hưu, xe trâu trắng trang hoàng rực rở đẹp tuyệt 
				vời. Những người con nghe nói thế mới chạy ra và xin ông cho đồ 
				chơi tuyệt đẹp đó. Cái đạo lý ở đây là tuy các con ông ra khỏi 
				nhà lửa là đã thoát nạn mà không biết mình đã thoát nạn, vẫn còn 
				mang lòng tham, mong cầu đồ chơi quý đẹp. Con người chúng ta 
				cũng thế, tu hành mà cứ mong chứng đắc quả vị này, quả vị khác 
				hay phải vãng sanh vào thế giới cực lạc này hay cảnh thanh tịnh 
				khác tức là tu mà lòng tham càng tăng, không giảm. Họ đâu có 
				biết rằng khi con người xả ly mọi cố chấp, mọi loạn tưởng thì 
				tâm sẽ được an vui tự tại ngay tức là có Niết bàn rồi cần gì 
				phải cầu ở đâu nữa. Đó là “tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh” 
				rồi. 
				
				Cốt yếu 
				của phẩm Thí dụ là đức Phật chỉ cho tất cả hàng đệ tử tuy tu 
				theo Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa  hay Bồ tát thừa biết 
				rằng đây chỉ là phương tiện lúc ban sơ để giúp họ ra khỏi căn 
				nhà lửa tức là tạm thời giải thoát ra khỏi sinh tử trầm luân. 
				Nhưng cứu cánh mà Phật muốn chỉ ở đây vẫn là nhất thừa Phật đạo 
				để đưa người tu thẳng đến Phật quả tức là thành Phật. 
				
				Các vị A 
				la hán, các vị Bích chi Phật hay các vị Bồ tát tu đến chỗ không 
				còn bị lửa vô thường, lửa tham sân si đốt cháy, nhưng đây chưa 
				phải là chỗ cứu cánh tột cùng. Bởi vì họ còn phải tiếp tục tu 
				đến chỗ thấy biết cái chân thật không hình tướng, không sanh 
				diệt, luôn thanh tịnh nhiệm mầu và nó vượt ra khỏi tầm hiểu biết 
				suy lường của con người. Đó chính là sự hiển lộ của chơn tánh 
				thanh tịnh hay Phật tánh của chính mình. Nhắc lại Phật dạy trong 
				kinh Pháp Hoa là mọi người đều có “Tri Kiến Phật tức là Phật 
				tánh giống y như Phật tức là nhận ra Phật nhân của mình, nhưng 
				tu đến chỗ Phật tánh hiển bày thì lúc đó mới thành Phật quả 
				được. 
				
				Giáo lý 
				Đại thừa nói rằng tu hành đến chỗ viên mãn thì không còn chấp 
				ngã, chấp pháp nghĩa là không còn thấy thân tâm này là ngã và dĩ 
				nhiên không còn có pháp để tu chứng tức là pháp không. Đến lúc 
				không còn có ngã, có pháp là được an trụ Niết bàn tịch diệt. Đến 
				đây có người thắc mắc rằng nếu không còn ngã nghĩa là không còn 
				mình, vậy ai an trụ Niết bàn? Không còn pháp tức là không có 
				Niết bàn, vậy tu đến chỗ tịch diệt thì chỗ tịch diệt đó có phải 
				là hư không chăng bởi vì vô ngã, vô pháp tức là không người, 
				không vật? Vô ngã, vô pháp không có nghĩa là không có mình, 
				không có thế gian vạn hữu. Nếu tu để trở thành hư không, vô tri 
				thì tu để làm gì, phí cả cuộc đời. Đạo Phật dạy chúng sinh giáo 
				lý vô ngã, vô pháp là để chúng sinh “đừng chấp thật” mà dính mắc 
				lao đầu vào căn nhà lửa. Do đó, vô ngã, vô pháp là tuy mình có 
				đó, vạn pháp vẫn sờ sờ ra đó, nhưng vẫn xem nó là không nên lòng 
				thênh thang nhẹ nhàng thanh thoát, không làm nô lệ cho cái ta 
				giả tạm, không sống chết cho tài sản vô thường, không bị lửa 
				tham sân si đốt cháy. Vì không còn lửa tham sân si đốt cháy nên 
				tâm trở thành thanh tịnh, nhẹ nhàng tự tại tức là có Niết bàn. 
				Một khi diệt được tất cả ý niệm sinh diệt thì Tịch Diệt hiện 
				tiền nghĩa là tự tánh Bồ đề hiển hiện tức là có được Thường Chân 
				Thật vậy. Thể tánh, chơn như
				
				là vô hình, vô tướng
				
				nên làm sao đặt tên cho nó được vì thế mà trong kinh Lăng 
				Nghiêm, đức Phật tạm gọi nó là chơn tâm. Kinh Pháp Hoa thì gọi 
				là tri kiến Phật, Phật tánh trong kinh Đại Niết Bàn, Trí huệ 
				Phật trong kinh Hoa Nghiêm…
				
				thiền tông gọi nó là “Bản lai diện mục”, Lục Tổ gọi nó là “Vô 
				nhất vật”. Vì “không một vật” nên cái Phật tánh này không hề bị 
				khách trần phiền não làm ô nhiễm. Con người vị chạy theo trần 
				cảnh, sáu căn luôn dính mắc sáu trần nên quên đi cái tánh giác, 
				Phật tánh sáng suốt của mình. Nhưng tuy bị lãng quên tánh giác 
				vẫn luôn sáng soi chiếu rọi qua sáu căn mà con người không bao 
				giờ để ý đến. Vì thế nếu chúng sinh quay về hồi quang phản 
				chiếu, soi sáng tự tánh để sống với chơn tánh hằng sáng của mình 
				thì vô minh tan biến, phiền não tiêu trừ. 
				
				Giáo lý 
				Đức Phật là đơn giản, không phức tạp, dễ áp dụng, nhưng thực 
				hành để thành tựu trí tuệ Bồ-đề thì không dễ, 
				đòi hỏi hành giả phải có một ý chí sắc đá để viễn ly. Viễn ly 
				những thói hư tật xấu, viễn ly những tham đắm dục tình, viễn ly 
				những tham vọng đê hèn, viễn ly những ý nghĩ bất thiện…
				
				Càng viễn ly thì con người càng gần với an lạc thanh tịnh Niết 
				bàn. Do đó toàn bộ giáo lý Đức Phật chỉ là phương tiện mà thực 
				chứng chân lý mới là cứu cánh. Đức Phật dạy chúng sinh đời là bể 
				khổ vì Ngài thấy biết như thế, nếu Đức Phật là đấng thần linh 
				thì Ngài chì cần niệm “Úm ba di bát nhị hồng” rồi phảy cái phất 
				trần thì thế gian làm gì còn đau
				
				khổ. Biết đời là bể khổ, con người lặn hụp trong biển trầm luân, 
				nhưng chính Ngài không thể hóa giải nỗi khổ của chúng sinh mà 
				mỗi người phải tự mình giải thoát ra khỏi mọi gông cùm của phiền 
				não khổ đau mà giáo lý Đức Phật chính là tấm hải đồ giúp chúng 
				sinh đến được bờ an lạc. 
				
				 ∆ 
				TOP |
				NEXT 
				 |