| 
				   
				
				
				PHẦN TỔNG LUẬN 
				
				
				Diệu Pháp Liên Hoa là bộ kinh vô cùng quan trọng đối với Phật 
				giáo Đại thừa vì kinh ẩn chứa một triết lý rất thâm sâu huyền 
				diệu. Cấu trúc của kinh rất chặt chẻ, mạch lạc trải dài suốt 28 
				phẩm. 
				
				
				Nhưng cốt tủy của kinh vẫn là xác định rằng “Chư Phật chỉ do một 
				đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở thế gian”. Và bản hoài của chư 
				Phật là muốn cho chúng sinh “khai, 
				thị, ngộ, nhập Phật tri kiến”nghĩa 
				là đức Phật muốn khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ và thâm nhập 
				cái thấy biết của Phật và cũng chính là cái thấy 
				biết của Pháp Hoa vốn đã có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh. Đó 
				là trong tất cả mọi chúng sinh, ai ai cũng có đầy đủ tri kiến 
				Phật, là trí tuệ bổn lai đều giống như Phật. 
				
				
				Vậy Phật tri kiến mà đức Phật muốn nói ở đây chính là chơn tâm, 
				là Phật tánh thường có vĩnh hằng, nhưng vì bị vô minh che lấp 
				nên con người không thấy biết chơn tánh hằng giác của mình. Cái 
				bổn tánh này ví như mỏ vàng đang đợi khai phá, chưa được hiển 
				lộ. Vì thế đức Phật muốn chúng sinh khai mở tri kiến Phật của 
				mình để có sự thanh tịnh, an lạc ngay trong cõi đời có tan có 
				hợp này cũng giống y như Phật vậy. Cũng ví như vàng ròng còn 
				trộn lẩn với đất cát sỏi đá, Phật tánh và phiền não cũng vậy. 
				Phiền não còn, Phật tánh biến mất cho nên nếu chúng sinh hóa 
				giải được một phần phiền não thì có được một phần Bồ-đề. Mà có 
				Bồ-đề là có giác ngộ. Dựa theo tinh thần Pháp Hoa, nhân duyên 
				lớn nhất để đức Phật xuất hiện trên thế gian này là khai mở, chỉ 
				bày khiến cho chúng sinh mở toang tri kiến Phật của họ và giúp 
				cho chúng sinh thanh tịnh hóa tri kiến Phật đó. 
				
				
				Thế thì cấu trúc của kinh Pháp Hoa như thế nào? 
				
				
				Tuy kinh có tất cả 28 phẩm, nhưng phẩm Tựa chỉ nói lên tổng quát 
				toàn bộ của kinh cho nên phẩm này không nằm trong hệ thống 
				“Khai, thị, ngộ, nhập” Tri Kiến Phật. 
				
				
				Nội dung của kinh bắt đầu từ phẩm Phương Tiện đến phẩm Phổ Hiền 
				Bồ Tát bao gồm toàn bộ ý nghĩa của Pháp Hoa. Đó là “Khai, thị, 
				ngộ, nhập cái trí tuệ Phật nhiệm mầu này. 
				
				
				Trước hết phần Khai Tri Kiến Phật gồm các phẩm Phương 
				Tiện, Thí Dụ, Tín Giải, Dược Thảo Dụ, Thọ Ký, Hóa Thành Dụ, Ngũ 
				Bá Đệ Tử Thọ Ký, Thọ Học Vô Học Nhơn Ký và phẩm Pháp Sư. 
				
				
				Phần Thị Tri Kiến Phật chỉ có phẩm Hiện Bảo Tháp. 
				
				
				Phần Ngộ Tri Kiến Phật gồm có phẩm Đề Bà Đạt Đa, Trì, An 
				Lạc Hạnh, Tùng Địa Dõng Xuất, Như Lai Thọ Lượng, Phân Biệt Công 
				Đức, Tùy Hỷ Công Đức, Pháp Sư Công Đức, Thường Bất khinh Bồ Tát, 
				Như Lai Thần Lực và Chúc Lụy. 
				
				
				Sau cùng phần Nhập Tri Kiến Phật gồm có các phẩm Dược 
				Vương Bồ Tát Bổn Sự, Diệu Âm Bồ Tát Vãng Lai, Quán Thế Âm Bồ Tát 
				Phổ Môn, Đà-la-Ni, Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự và Phổ Hiền Bồ 
				Tát Khuyến Phát. 
				
				
				Trải suốt chiều dài của 22 phẩm đầu, kinh đã lần lượt giới thiệu 
				nhiều lần cái trí tuệ Phật đó để người đệ tử Phật thấy biết rõ 
				ràng tức là khai, thị, ngộ Tri Kiến Phật của mình. Nhưng 
				quan trọng nhất vẫn là phần thâm nhập tức là phần thực hành để 
				tự mình chứng nhập cái Tri Kiến Phật đó. 
				
				
				Vậy làm thế nào để thâm nhập cái trí tuệ Phật này? 
				
				
				Cốt lõi để thâm nhập Tri Kiến Phật hay khám phá cái trí tuệ Phật 
				ở trong Ta là trở về với trạng thái thanh thoát nhẹ nhàng, không 
				dính mắc, bám víu 
				hay chấp thủ cũng như dòng sông trí tuệ tuôn chảy bỗng nhiên bị 
				cái đê ngũ uẩn ngăn chận. Vì thế muốn dòng sông trí tuệ không 
				còn bị ngăn ngại thì phải phá cho hết cái đê ngũ uẩn. Sắc uẩn 
				cũng phá, thọ uẩn cũng phá, tưởng uẩn cũng phá, hành uẩn cũng 
				phá và sau cùng thức uẫn cũng phá. Kinh Pháp Hoa, lần đầu tiên 
				trong kho tàng kinh điển Đại thừa, vén bức màn bí mật để hiển lộ 
				bộ mặt thật của Phật tánh, chơn tâm hay Tri Kiến Phật. Vì Phật 
				tánh là bản thể chơn như nên từ trước đến nay không ai dám đá 
				động đến nó. Lục Tổ gọi nó là “Vô nhất vật” do vậy không ai dám 
				xâm phạm đến nó bởi vì đụng đến nó thì nó không còn vô nhất vật 
				nữa rồi. Bản thể chân như là một cái gì quá trừu tượng chằng 
				khác nào nắm bắt những làn hương nghĩa là thấy đó mà không bao 
				giờ nắm bắt nó được. Nhưng may mắn thay, kinh đã bật mí để chúng 
				ta có cái nhìn rõ ràng hơn cái “vô nhất vật” này. Đó là chỉ cần 
				phá tan ngũ uẩn thì bức màn che Phật tánh bắt đầu mở rộng và cái 
				“vô nhất vật” đó sẽ từ từ hiển lộ chớ không còn nằm trong trí 
				tưởng tưởng của con người nữa. 
				
				
				Trước hết, trong phẩm Dược Vương Bồ Tát, Bồ Tát Dược Vương đốt 
				thân và hai tay để cúng dường Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức thì 
				đây là phá sắc uẩn. 
				
				
				Sắc uẩn 
				
				là yếu tố vật chất bao gồm vật lý - sinh lý, có bốn yếu tố vật 
				chất căn bản là đất (Tóc, lông, móng răng, da, thịt, gân, xương, 
				tủy, thận, tim, gan, ruột, lá lách, phèo, phổi, bao tử, thực 
				phẩm chưa tiêu, phẩn), nước (Mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước 
				mắt, nước mỡ, nước miếng, nước mũi, nước khớp xương, nước tiểu), 
				gió (Gió hướng lên khiến ta nôn, gió hướng xuống giúp nước tiểu 
				và phẩn ra ngoài, gió trong ruột, gió ngoài ruột nhưng nằm trong 
				bụng, mọi tác động của cơ thể như đi, đứng, ngồi, co, duỗi v.v… 
				hơi thở ra vào), lửa (Thân nhiệt, sức nóng làm cho cơ thể tưởng 
				thành, già nua, nhiệt độ quá cao khiến chúng ta khó chịu và than 
				phiền là quá nóng, nhiệt độ cần thiết để tiêu hóa thức ăn). Các 
				yếu tố do bốn đại tạo ra thuộc về sinh lý như: mắt, tai, mũi, 
				lưỡi, thân; các đối tượng của giác quan như: hình sắc, âm thanh, 
				mùi vị, vật xúc chạm. Khi tứ đại kết hợp thì chúng ta có hình 
				dáng và nếu không nhìn bằng cặp mắt trí tuệ thì chúng ta sẽ thêm 
				vào cái hình dáng đó là Tôi, của Tôi, đàn ông, đàn bà… Do ý niệm 
				sai lầm này khiến sự dính mắc phát sinh trong tâm ta. Như vậy 
				yếu tố vật chất là thân thể hay ngoài thân thể, thuộc vật chất 
				hay năng lượng, thuộc thời gian hay không gian đều bao hàm trong 
				sắc uẩn. Thân thể là sắc uẩn, vì vậy chúng không phải là một 
				thực thể độc lập mà là một hợp thể vật chất biến động và mâu 
				thuẫn như mảng bọt trên mặt nước hay nếu nhìn kỹ ta sẽ thấy thân 
				tứ đại chỉ là những bọt vật chất tạm bợ. Thân thể muốn tồn tại 
				phải nương vào các duyên bên ngoài như ánh sáng mặt trời, thức 
				ăn thức uống, không khí, nhà cửa, xe cộ...vì thế thân tứ đại là 
				vô thường, vô ngã tức là Không. 
				
				
				Vì vậy bất cứ sự chấp thủ, tham ái thân thể (sắc uẩn), hoặc bất 
				cứ một đối tượng vật lý, sinh lý nào cũng đều tiềm ẩn nguy cơ 
				đau khổ cho nên đức Phật đã dạy rằng “Ai cho rằng sắc uẩn 
				là Ta, là của Ta, là tự ngã của Ta thì chắc chắn gặt hái đau 
				khổ, thất vọng, sầu muộn, vấp ngã và tai nạn”. 
				
				
				Kế đến phẩm Diệu Âm Bồ Tát Vãng Lai thì Bồ Tát Diệu Âm đã sử 
				dụng 10 muôn 
				thứ kỹ nhạc để cúng dường cho Phật Vân Lôi Âm Vương thì đây là 
				phá thọ uẩn. 
				
				
				Thọ uần: 
				Thọ là cảm giác, do sự tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng mà 
				sinh ra thọ. Đức Phật dạy có sáu thọ: mắt tiếp xúc với hình sắc 
				mà sinh thọ, tai với âm thanh, mũi với mùi, lưỡi với vị, thân 
				với vật cứng-mềm, ý với đối tượng tâm ý. Cảm giác theo Phật giáo 
				không dừng lại ở mức độ tiếp xúc đơn thuần mà là cảm xúc, một 
				biểu hiện sâu hơn của cảm giác; cảm giác có ba loại: một là cảm 
				giác khổ, hai là cảm giác vui sướng, ba là cảm giác không vui 
				không khổ. Tất cả những loại cảm thọ ấy tạo thành một dòng sông 
				cảm thọ tâm lý chi phối hệ thống tâm thức, chúng sinh khởi biến 
				hiện thay đổi vô chừng; chúng chuyển biến vô tận, vô thường, vô 
				ngã và hiện hữu có điều kiện. Chấp thủ vào cảm thọ bao giờ cũng 
				sai lầm và gặt hái khổ đau. 
				
				
				Đến phẩm này, Bồ Tát Quán Thế Âm phá tưởng uẩn để giúp chúng 
				sinh hết sợ. 
				
				
				Tưởng uẩn: 
				là nhóm tri giác có khả năng nhận biết đối tượng là cái gì, đây 
				là khả năng kinh nghiệm của sáu giác quan và sáu đối tượng của 
				giác quan. Sự nhận biết đối tượng có hai loại: một là nhận biết 
				đối tượng bên ngoài như mắt thấy sắc nhận biết đó là cái nhà, 
				chiếc xe, tai nghe âm thanh nhận ra tiếng chim hót, tiếng khen, 
				lời chửi mắng...; hai là khả năng nhận biết đối tượng bên trong, 
				tức là các đối tượng tâm lý như những khái niệm, hồi tưởng, ký 
				ức, kinh nghiệm... Như vậy, tưởng uẩn là cái thấy, cái biết của 
				mình về con người, hoặc sự việc hay sự kiện. Vì vậy, tri giác là 
				một trong những tác dụng của thức. 
				
				
				Sự có mặt của tri giác là sự có mặt của kinh nghiệm. Tri giác 
				tùy thuộc vào những kinh nghiệm đã qua cho nên khi thấy đóa hoa 
				thì biết đây là đóa hoa bởi vì cái tri giác về đóa hoa đã có sẵn 
				trong A lại da thức. Nhưng làm thế nào để biết đóa là đóa hoa? 
				Khi ý thức muốn so sánh thì Mạt na thức liền chuyển tư tưởng đó 
				vào A lạ da thức và sau khi so sánh các kinh nghiệm của các đóa 
				hoa đã có trong đó xong thì một lần nữa Mạt na thức liền chuyển 
				ý tưởng đó cho tưởng uẩn thành ra “tri giác” tức là “sự thấy” 
				hay là “sự nhận ra” vật đó là đóa hoa. Vì vậy tri giác dễ bị 
				đánh lừa bởi kinh nghiệm, do vì thực tại thì luôn sinh động. Vì 
				sao? Bởi vì  chúng ta chỉ thấy đóa hoa dựa theo quan niệm 
				của mình chớ không thấy thật tánh của đóa hoa tức là “tự 
				nó thật sự là”. Khi nhìn đóa hoa chúng ta cho rằng mình 
				đang nhìn đóa hoa, nhưng đóa hoa là tên do mình đặt cho nó chớ 
				tự nó “không phải là” đóa hoa “hay là” 
				đóa hoa. Mà thật chất của nó là sự tổng hợp của đất, nước, gió, 
				lửa qua trùng trùng duyên khởi kết thành hình tướng rồi chúng ta 
				đặt tên hình tướng đó là đóa hoa. Nói vậy thì trong đóa hoa có 
				nước, nhưng chúng ta có thấy trời mưa hoa rơi xuống đâu? Trong 
				hoa có ánh sáng mặt trời, nhưng ngoài trời đâu có rơi hoa? Trong 
				hoa có phân bón, nhưng trong các thùng phân bón làm gì có hoa? 
				Do đó thật tánh của hoa là không tánh vì hoa là do sự kết hợp 
				của trùng trùng duyên khởi chớ đóa hoa không tự nó có hay tồn 
				tại được. Vì vậy cái biết của tri giác là cái biết “không 
				thật” mà là cái biết của duyên khởi cho nên tri giác tồn tại 
				có điều kiện, vì vậy chúng vô thường, trống rỗng; và do duyên 
				sinh nên tri giác đầy hư vọng mà ta thường gọi là vọng tưởng. 
				
				
				Ngoài sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn thì ngũ uẩn còn có hành uẩn và 
				thức uẩn nữa. Phẩm Đà-la-ni kế tiếp là phá hành uẩn. 
				
				
				Hành uẩn: 
				Hành có nghĩa là các hiện tượng tâm lý mang tính chất tạo tác 
				nghiệp, có năng lực đưa đến quả báo của nghiệp, nói cách khác là 
				tạo động lực tái sinh. Hành uẩn là những hiện tượng tâm lý còn 
				được gọi là tâm sở. Duy thức học chia thành 51 tâm sở gồm cả 
				thọ, tưởng, tức là cảm giác và tri giác cũng gọi là hành. Nhưng 
				ở đây không xếp cảm giác và tri giác vào nhóm hành vì thọ và 
				tưởng không có khả năng tạo nghiệp và quả của nghiệp. Hành uẩn 
				tồn tại nhờ các điều kiện do duyên sinh nên chúng vô thường, 
				trống rỗng và biến động bất tận. Mỗi uẩn chỉ có thể làm công 
				việc của chính nó. Thọ uẩn chỉ kinh nghiệm lạc thọ, khổ thọ và 
				vô ký thọ. Tưởng uẩn đóng vai trò nhận ra đối tượng là cái gì. 
				Thức uẩn chỉ làm nhiệm vụ nhận biết đối tượng (chỉ biết thấy, 
				biết nghe, biết ngửi v.v...). Nhưng hành uẩn có đặc tính là phản 
				ứng hay tác động của tâm. Hành uẩn là nguyên nhân của đi, đứng, 
				nằm, ngồi, co, duỗi, di chuyển, cười, nói, nghĩ, thấy, 
				nghe... và tất cả những hoạt động khác. 
				
				
				Do sự kích thích của hành uẩn nên tất cả hành động về thân, 
				khẩu, ý xảy ra. Bởi vậy, thân, khẩu, ý là sự biểu hiện của hành 
				uẩn, nhưng khi hành uẩn biểu hiện qua thân, khẩu, ý người ta 
				hiểu lầm rằng:  Đó là linh hồn, tự ngã, tôi, ta. 
				
				
				Và sau cùng phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự là phá luôn thức 
				uẩn. 
				
				
				Thức uẩn: 
				Thức là có khả năng rõ biết, phản ánh thế giới hiện thực. Khi 
				giác quan tiếp xúc với đối tượng, thực nhận biết sự có mặt của 
				đối tượng, thức không nhận ra đối tượng ấy là gì, là cái gì, màu 
				gì... đó là chức năng của tri giác (tưởng); thức chỉ nhận biết 
				sự hiện diện của đối tượng giống như tấm gương phản chiếu tất cả 
				những hình ảnh đi ngang qua nó. Thức có tám loại nên gọi là bát 
				thức tâm vương: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân 
				thức, ý thức, mạt na thức và A lại da thức. Thức là nền tảng của 
				thọ, tưởng, hành. Thức là Tâm vương còn thọ, tưởng, hành là Tâm 
				sở. Duy thức triển khai bát thức tâm với mục đích  khai 
				thác các khía cạnh sâu kín của thức. Mạt na thức là ý căn, là 
				căn cứ của ý thức đồng thời nó cũng có tác dụng nhận thức sự tồn 
				tại của một thực thể, một bản ngã. A lại da thức là cái kho dung 
				chứa tất cả những chủng tử của kinh nghiệm, ký ức, kiến thức và 
				tất cả những chủng tử thiện ác hay vô ký. Mặt khác, A lại da 
				thức làm căn bản cho các hoạt động tâm lý trở về sau khi không 
				còn điều kiện hoạt động. Nhờ khả năng bảo tồn của A lại da thức 
				mà các hiện tượng tâm lý phát khởi trở lại khi hội đủ các yếu 
				tố. Có thể hiểu A lại da thức như là một cái kho chứa và Mạt na 
				thức là người giữ kho. Chính Mạt na thức vào trong cái kho để 
				chuyển các chủng tử ra hay vào mà Duy thức gọi là hiện hành hay 
				biến hành và từ đó tưởng uẩn mới biết được vật đó là gì.  
				
				
				Mặc dù thức uẩn là nền tảng của tâm lý nhưng nó không tồn tại 
				độc lập, không thể tự chủ bởi vì thức uẩn có tồn tại cũng bởi do 
				duyên sinh. Thí dụ nếu không có sắc, thọ, tưởng, hành thì không 
				thể nào có thức được cho nên mối quan hệ của ngũ uẩn là bất khả 
				phân ly vì vậy đạo Phật không chấp nhận có một thức nào đó độc 
				lập, tự chủ như khái niệm về một linh hồn bất tử chẳng hạn. Tuy 
				A lại da thức là một cái kho chứa nhóm, nhưng nó biến chuyển vận 
				hành liên tục không ngừng nghĩ, có lúc chuyển chủng tử mới vào 
				và có khi đưa chủng tử ra gọi là biến hành. Vì sự biến chuyển 
				này mà con người mới có thể tu thành Thánh nhân hay trở thành ác 
				quỷ. Còn linh hồn là cố định, bất biến cho nên đạo Phật phủ nhận 
				có một linh hồn sống giữ chết đem về. A-lại-da hàm chứa mọi nội 
				dung của thức. Nội dung này luôn luôn biến đổi theo hoàn cảnh 
				sống và theo hành động của chúng sanh mang nó. Chính đây là năng 
				lượng, là sức mạnh gọi là nghiệp lực mà khi một người chết đi, 
				nó đẩy A-lại-da hay Thức nương gá vào một thân thể mới vừa tượng 
				hình có hoàn cảnh phù hợp với nó. Đó là ý nghĩa của “linh hồn đi 
				đầu thai” mà Phật giáo gọi là Thức đi đầu thai. Thức được hiểu 
				như là dòng chảy liên tục của các ý niệm. Các ý niệm này tuỳ 
				thuộc nhiều yếu tố khác mà phát sinh, đức Phật gọi quá trình tuỳ 
				thuộc phát sinh nầy là “duyên khởi” (paticasamupàda). Thức chỉ 
				là một mắc xích trong 12 mắc xích duyên khởi  mà thôi. Do 
				đó, khái niệm “thức” của Phật giáo khác nhau với "linh hồn bất 
				tử" của các tôn giáo khác rất lớn. Chính sự tiếp nối của các ý 
				niệm tương tục  nầy mà thức đi tái sanh, lên xuống trong 3 cõi 6 
				đường, chứ không phải là một linh hồn bất tử, vĩnh hằng như cách 
				hiểu của các tôn giáo khác. 
				
				
				Dựa theo khoa học thì vật lý là sự vật chưa có cái biết, chưa có 
				sự sống. Sinh lý là sự vật có sự sống mà chưa có cái biết. Còn 
				tâm lý là có sự sống, có cái biết mà chưa có phân biệt đó là cảm 
				giác tức là thọ uẩn. Thế thì vật lý là trần, sinh lý là 
				căn và tâm lý là thức. Dựa theo Duy thức thì căn tiếp 
				xúc với trần sinh ra thức tức là sinh lý tiếp xúc với vật lý thì 
				tâm lý phát hiện. Và tâm lý đầu tiên là cảm giác tức là thọ uẩn. 
				Tuy nhiên mỗi uẩn đều nương tựa vào các uẩn kia mà tồn tại. Thí 
				dụ trong sắc uẩn có thọ uẩn và trong thọ uẩn có sắc uẩn rồi. Khi 
				chúng ta có một cảm giác đau khổ, khó chịu thì cái cảm giác này 
				gồm luôn cả thân thể và tri giác, tâm tư và thức. 
				
				
				Tuy con người là sự kết hợp của ngũ uẩn, nhưng mỗi uẩn là vô 
				thường, vô ngã nên toàn khối cũng là vô thường, vô ngã tức là 
				Không chẳng khác nào như cây chuối không có lõi, chỉ là sự kết 
				tập của các bẹ chuối. Khi thấu rõ bản chất thật của con người và 
				vũ trụ mà chúng ta đang sống thì chúng ta sẽ không còn bám víu 
				vào cái thân giả hợp, sẽ không còn thấy nó là Ta hay là của Ta 
				thì những phiền não khổ đau sẽ đoạn diệt. 
				
				
				Bát Nhã Tâm Kinh vỏn vẹn có 260 chữ, nhưng quan trọng nhất của 
				Tâm Kinh vẫn nằm ở câu đầu: "Quán tự tại Bồ-tát hành thâm 
				Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ 
				nhứt thế khổ ách". Đoạn kinh Bát Nhã này chú trọng đến vấn 
				đề thoát khổ. Con người sẽ thoát khổ, theo Bát-nhã, khi thực 
				hành trí tuệ Bát-nhã sâu xa, soi rọi rõ ngũ uẩn là Vô ngã 
				tức là Không. Thấy biết ngũ uẩn là Vô ngã là thấy biết 
				tất cả các pháp là Vô ngã nghĩa là khổ là Vô ngã và người cảm 
				thọ khổ cũng là Vô ngã, bởi cả hai đều là duyên sinh. Khi biết 
				mình là vô ngã, người cũng là vô ngã, thế gian vũ trụ đều là vô 
				ngã thì hẳn là không còn có một thứ khổ ách nào ràng buộc cả. 
				Quan trọng nhất là chúng sinh thấy rõ ngũ uẩn là Vô ngã thì 
				không còn chấp thủ ngũ uẩn là mình, là của mình, hay là tự ngã 
				của mình. Chấp thủ diệt thì ái diệt, khổ diệt. Đấy là đường vào 
				giải thoát. 
				
				
				Vì thế một khi hành giả phá tan ngũ uẩn không còn chấp ngã, chấp 
				pháp tâm trí rỗng rang thì trong họ sẽ phát sinh trí tuệ và trí 
				tuệ này chính là trí tuệ Phật tức là cái biết như thật về tánh 
				Vô Ngã và lý Duyên Khởi của các pháp. 
				
				
				Như vậy, một khi đã thực sự nhận biết rốt ráo rõ ràng rằng trong 
				ta không hề có “Cái Ta” hay “Cái của Ta” thì lúc 
				đó hành giả sẽ khám phá một chân lý tuyệt vời độc nhất vô nhị, 
				là tinh hoa cốt tủy của Phật giáo và cũng là Tri Kiến Phật của 
				kinh Pháp Hoa mà ngày xưa chính đức Phật đã chứng dưới cội Bồ Đề 
				là Chân lý Vô Ngã.  
				
				
				Tuy căn bản của phiền não là Kiến hoặc và Tư hoặc, nhưng cái gốc 
				để tạo ra những phiền não đó chính là chấp Ngã. Chấp Ngã đã phá 
				thì chấp pháp cũng theo đó mà diệt bởi vì trong thì Ngã Không và 
				ngoài thì Pháp Không, trong ngoài tự tại tức là có giải thoát. 
				Vì thế nếu diệt được chấp Ngã (Vô Ngã) thì tất cả những vô minh 
				phiền não cũng tan biến theo. 
				
				
				Con người có trở về với bổn tánh, chơn tâm hay Phật tánh chỉ khi 
				nào họ đạt được cái trí tuệ này thì lúc đó họ sẽ an trú trong sự 
				thấy biết tánh bình đẳng của tất cả mọi sự vật hiện tượng và tất 
				cả khái niệm hay ý niệm về những cặp phạm trù đối đãi phân biệt 
				sẽ biến mất. Vì lẽ đó mà kinh Pháp Hoa còn được biết đến như là 
				kinh Trí Tuệ. 
				
				
				Hãy lắng nghe đức Phật thuyết giảng về giáo lý Vô Ngã, là bài 
				pháp thứ hai cho nhóm ông Kiều Trần Như để chuyển bánh xe pháp: 
				
				
				-Này các tỳ kheo, hình tướng (thân xác) không 
				phải là cái Ngã (theo định nghĩa thông thường thì cái 'ngã' hay
				
				
				'atman' có 
				thể hiểu như là linh hồn). Nếu như hình tướng đúng 
				thật là cái Ngã, này các tỳ kheo, thì hình tướng đâu phải gánh 
				chịu bệnh tật, và đối với thân xác thì người ta có thể bảo rằng 
				: "Đối với tôi thì thân xác của tôi [chỉ có thể] như thế này mà 
				không thể như thế khác được". Trong khi đó, bởi vì thân xác 
				không phải là cái Ngã [cho nên] thân xác phải gánh chịu bệnh 
				tật (vô thường) và người ta sẽ không thể nào có thể bảo 
				rằng : "Đối với tôi thì thân xác của tôi [chỉ có thể] như thế 
				này mà không thể là như thế khác được". 
				
				
				-Này các tỳ kheo, giác cảm không phải là cái Ngã. Nếu 
				như giác cảm đúng là cái Ngã, này các tỳ kheo, thì giác cảm đâu 
				có phải gánh chịu bệnh tật , và [như thế] đối với 
				giác cảm người ta sẽ có thể bảo rằng:"Đối với tôi thì giác cảm 
				của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể như 
				là thế khác được". Trong khi đó, bởi vì giác cảm không phải là 
				cái Ngã [cho nên] giác cảm phải gánh chịu bệnh tật 
				và người ta sẽ không thể nào có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì 
				giác cảm của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể là 
				như thế khác được”. 
				
				
				-Này các tỳ kheo, sự nhận thức không phải là cái Ngã. 
				Nếu như sự nhận thức, này các tỳ kheo, đúng là cái Ngã thì sự 
				nhận thức đâu có phải gánh chịu bệnh tật (sự lầm lẫn), và [như 
				thế] đối với sự nhận thức người ta sẽ có thể bảo rằng : "Đối 
				với tôi thì sự nhận thức của tôi [chỉ có thể] như thế này mà 
				không thể như thế khác được". Trong khi đó, bởi vì sự 
				nhận thức không phải là cái Ngã [cho nên] sự nhận 
				thức phải gánh chịu bệnh tật và đối với sự nhận thức thì người 
				ta sẽ không thể nào có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì sự 
				nhận thức của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể 
				là như thế khác được". 
				
				
				-Này các tỳ kheo, thói quen thường nhật không phải là cái 
				Ngã. Nếu như thói quen thường nhật, này các tỳ 
				kheo, đúng là cái Ngã thì thói quen thường nhật đâu phải gánh 
				chịu mọi thứ bệnh tật , và [như thế] đối với thói 
				quen thường nhật người ta sẽ có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì 
				thói quen thường nhật của tôi [chỉ có thể] như thế 
				này mà không thể như thế khác được". Trong khi đó, bởi vì 
				thói quen thường nhật không phải là cái Ngã [cho nên] thói 
				quen thường nhật phải gánh chịu bệnh tật, và đối với thói quen 
				thường nhật thì người ta sẽ không thể nào 
				có thể bảo rằng : 
				"Đối với tôi thì thói quen thường nhật của tôi [chỉ có 
				thể] như thế này mà không thể là như thế khác được". 
				
				
				-Này các tỳ kheo, tri thức không phải là cái Ngã. Nếu 
				như tri thức đúng là cái Ngã, này các tỳ kheo, thì tri thức đâu 
				có phải gánh chịu bệnh tật (những sự diễn đạt sai lầm), 
				và [như thế] đối với tri thức người ta sẽ có thể bảo 
				rằng: "Đối với tôi thì tri thức của tôi [chỉ có 
				thể] như thế này mà không thể như thế khác được". Trong 
				khi đó, bởi vì tri thức không phải là cái Ngã [cho nên] tri 
				thức phải gánh chịu bệnh tật và đối với tri thức người ta sẽ 
				không thể nào có thể bảo rằng: "Đối với tôi thì tri thức của tôi [chỉ 
				có thể] như thế này mà không thể là như thế khác được". 
				
				
				- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Hình tướng trường tồn hay vô 
				thường? 
				
				
				- Bạch Thế tôn, hình tướng là vô thường. 
				
				
				- Nếu một sự vật là vô thường thì nó là những gì khổ đau hay 
				hạnh phúc? 
				
				
				- Bạch Thế tôn, là những gì khổ đau. 
				
				
				- Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ đau, phải gánh chịu 
				sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng: 
				"Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi" 
				hay không ? 
				
				
				- Bạch Thế Tôn, nhất định là không. 
				
				
				- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Giác cảm trường tồn hay vô 
				thường? 
				
				
				- Bạch Thế Tôn, giác cảm là vô thường. 
				
				
				- Nếu một sự vật là vô thường thì nó là những gì khổ đau hay 
				hạnh phúc? 
				
				
				- Bạch thế tôn, là những gì khổ đau. 
				
				
				- Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ đau, phải gánh chịu 
				sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng: 
				"Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi" 
				hay không ? 
				
				
				- Bạch Thế Tôn, nhất định là không. 
				
				
				- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Sự nhận thức trường tồn hay vô 
				thường? 
				
				
				- Bạch Thế Tôn, sự nhận thức là vô thường. 
				
				
				- Nếu một sự vật là vô thường thì đấy là khổ đau hay hạnh phúc? 
				
				
				- Bạch Thế Tôn, đấy là khổ đau. 
				
				
				- Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ đau, phải gánh chịu 
				sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng: 
				"Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi" 
				hay không ? 
				
				
				- Bạch Thế Tôn, nhất định là không. 
				
				
				- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Thói quen thường nhật trường 
				tồn hay vô thường? 
				
				
				- Bạch Thế Tôn, thói quen thường nhật là vô thường. 
				
				
				- Nếu một sự vật là vô thường thì đấy là khổ đau hay hạnh phúc ? 
				
				
				- Bạch Thế Tôn, đấy là khổ đau. 
				
				
				- Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ đau, phải gánh chịu sự 
				biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng: 
				"Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi" 
				hay không ? 
				
				
				- Bạch Thế Tôn, nhất định là không. 
				
				
				- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Tri thức trường tồn hay vô 
				thường? 
				
				
				- Bạch Thế Tôn, tri thức là vô thường. 
				
				
				- Nếu một sự vật là vô thường thì đấy là khổ đau hay hạnh phúc ? 
				
				
				- Bạch Thế Tôn, đấy là khổ đau. 
				
				
				- Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ đau, phải gánh chịu sự 
				biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng: 
				"Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi" 
				hay không ? 
				
				
				- Bạch Thế Tôn, nhất định là không. 
				
				
				 -Tóm lại, này các tỳ kheo, đối với bất cứ những gì là 
				thân xác, là giác cảm, là thói quen thường nhật, hay 
				thuộc vào sự nhận thức
				
				
				dù thuộc vào quá khứ, tương lai hay hiện tại, thuộc nội tâm hay 
				bên ngoài, thô thiển hay tinh tế, tầm thường hay tuyệt diệu, 
				cách xa hay bên cạnh, thì 
				phải nhìn chúng đúng như thế bằng cái trí tuệ không sai lầm để 
				tự nhủ rằng: "Đấy không phải là của tôi, tôi không phải là 
				các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi". 
				
				
				-Tóm lại, này các tỳ kheo, bất cứ những gì là tri thức, 
				dù thuộc vào quá khứ, tương lai hay hiện tại, nội tâm hay ngoại 
				cảnh, thô thiển hay tinh tế, tầm thường hay tuyệt diệu, cách xa 
				hay bên cạnh, thì phải nhìn chúng đúng như thế bằng cái trí tuệ 
				không sai lầm để tự nhủ rằng: "Đấy không phải là của tôi, tôi 
				không phải là các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi". 
				
				
				-Này các tỳ kheo, nếu biết nhìn mọi sự vật bằng cách như thế 
				thì một người đệ tử hiểu biết sẽ không còn bám víu vào thân 
				xác, không con bám víu vào giác cảm, không còn bám víu vào sự 
				nhận thức, không còn bám víu vào thói quen thường nhật, không 
				còn bám víu vào tri thức. Khi loại bỏ được chúng thì sẽ 
				không còn tham vọng nữa. Khi nào không còn bám víu nữa thì người 
				đệ tử ấy cũng sẽ tự giải thoát cho mình khỏi mọi dục vọng. Khi 
				đã tự giải thoát khỏi mọi dục vọng thì người đệ tử ấy cũng sẽ 
				chợt nhận ra rằng: "[Thế ra] sự giải thoát cũng 
				chính là như thế đấy!", và người đệ tử ấy cũng sẽ hiểu 
				được là: "Tất cả mọi sự tái sinh đã bị hủy diệt, chỉ có Con 
				đường Đạo hạnh tinh khiết là tồn tại, những gì phải chấm dứt đã 
				chấm dứt, không còn bất cứ gì lưu lại để chờ đợi được thực hiện, 
				không còn lại gì nữa để mà hình thành". 
				
				
				Tóm lại, đức Phật thị hiện giáo hóa chúng sinh, chuyển bánh xe 
				pháp cũng không ngoài mục đích muốn chúng sinh ngộ nhập Phật Tri 
				Kiến tức là thể nghiệm và sống được với chơn tâm của mình. Vì 
				thế Phật mới dạy rằng: ”Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật 
				tánh, giai kham tác Phật” nghĩa là trong tất cả chúng sinh, 
				ai ai cũng đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật. Nhưng nếu 
				chúng sinh đều có Phật tánh thì tại sao đến nay chúng ta vẫn 
				chưa thành Phật? Cũng chỉ vì tâm của chúng sinh chất đầy vọng 
				tưởng, chấp trước. Vậy chúng ta chấp cái gì? Chấp “cái Ta” 
				tức là bản ngã và cái “của Ta” tức là ngã sở hữu cho nên 
				không buông bỏ được những hưởng thụ vật chất trong thế gian. Con 
				người luôn níu kéo, nắm bắt mãi, càng có thì càng chấp trước 
				thêm và ham thích hưởng thụ nên chưa thể thành Phật. Cho nên đức 
				Phật mới dạy rằng: “Do vọng tưởng và chấp trước mà tất cả 
				chúng sinh không thể chứng đắc, không thể thành Phật” là 
				vậy. 
				
				
				Trong phần thâm nhập Tri Kiến Phật, kinh Pháp Hoa đã hé mở cho 
				hành giả thấy được ánh sáng của Tri Kiến Phật bằng cách phải phá 
				tan cái đê ngũ uẩn. Vì vậy cốt lõi của kinh Pháp Hoa và cũng là 
				cứu cánh của phần thâm nhập là phá cho hết ngũ uẩn. Sắc uẩn cũng 
				phá, thọ uẩn cũng phá, tưởng uẩn cũng phá, hành uẩn cũng phá và 
				sau cùng thức uẩn cũng phá luôn. Một khi hành giả đã phá sạch 
				ngũ uẩn nghĩa là không còn chấp: 
				
				
				-Thân thể này không phải là tôi, là của tôi. 
				
				
				-Những cảm thọ sướng khổ cũng chẳng liên quan gì đến cái tôi. 
				
				
				-Cái tâm đang quán sát cũng không phải là linh hồn của tôi. 
				
				
				-Và tất cả những đối tượng của tâm như ý thức và hành thức cũng 
				không phải là của tôi. 
				
				
				Phá ngũ uẩn là phá chấp Ngã và chấp pháp tức là chứng đắc chân 
				lý Vô Ngã mà chính đức Phật đã chứng dưới cội Bồ Đề. Thế thì cái 
				Tri Kiến Phật mà kinh Pháp Hoa nói ở đây chính là trí tuệ Phật 
				tức là cái biết như thật về tánh Vô Ngã và lý Duyên Khởi của các 
				pháp. Cái biết như thật trong trí tuệ chánh niệm tỉnh giác là sự 
				thấy biết rốt ráo rõ ràng từ kinh nghiệm khắp toàn thân, tâm. Mà 
				cái thực tại Vô Ngã (No-self) chỉ có thể thành tựu qua công phu 
				thiền định và lúc đó lòng chấp thủ về chủ thể lẫn đối tượng sẽ 
				không còn hiện hữu. Một khi hành giả thực sự chứng nghiệm ngũ 
				uẩn là Vô ngã thì không còn chấp thủ ngũ uẩn là mình, là của 
				mình, hay là tự ngã của minh thì họ sẽ đạt đến đỉnh cao trí tuệ 
				ngang hàng với trí tuệ Phật mà kinh Pháp Hoa gọi là Tri Kiến 
				Phật. Chấp thủ diệt thì ái diệt, khổ diệt. Đây là đường vào giải 
				thoát, an vui, tự tại, Niết bàn. 
				
				
				Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật 
				
				
				Lê Sỹ Minh Tùng 
				
				∆ TOP |