|  
				 Phẩm 
				THỌ HỌC VÔ HỌC NHÂN KÝ 
				Đến đây đức Phật bắt đầu thọ ký cho những 
				người hữu học và vô học sẽ thành Phật. Hữu học có nghĩa là đang 
				còn phải học hỏi và tu chứng. Đó là các vị tu chứng các quả như 
				Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm và A Na Hàm. Còn những người vô học là 
				những bậc đã chứng thánh quả A la hán. 
				Lúc bấy giờ A-nan và La-hầu-la nghĩ 
				thầm:“Nếu mỗi chúng ta đều được thọ ký thì sung sướng biết bao”.  
				Hai vị liền đến trước Phật làm lễ, bạch rằng: “Chúng con nghĩ 
				cũng có phần được thọ ký, vì bao giờ cũng quy hướng về Như 
				Lai. Lại chúng con là người quen biết  của tất cả trời, 
				người và A-tu-la trong thế gian. A-nan là người hầu và hộ trì 
				tạng pháp, còn La-hầu-la là con của Phật, nếu hai chúng con được 
				thọ ký thì nguyện của chúng con sẽ mãn mà chỗ trông mong của 
				chúng con cũng được đầy đủ”.  
				Hai ngàn đệ tử Thanh Văn, bậc hữu học và 
				vô học cũng đứng dậy lễ Phật, chấp tay  chiêm ngưỡng dung 
				nhan Thế Tôn, tỏ ý cùng một sở niệm với A-nan và La-hầu-la.
				 
				Tôn giả A Nan và La Hầu La là hai người rất 
				thân thích của đức Phật và là những vị Tỳ kheo rất trẻ so với 
				các vị trưởng lão Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên…Trong khi ngài A 
				Nan xao lãng việc tu hành thì Tôn giả La Hầu La vừa mới ngoài 
				hai muơi đã chứng Thánh quả, trở thành đệ nhất mật hạnh trong số 
				10 đại đệ tử của Phật Đà. Mật hạnh là giới hạnh, là đạo đức sâu 
				kín bên trong chớ không biểu lộ ra ngoài. Một người bên ngoài 
				thì nhìn rất bình thường, thậm chí đôi khi còn tầm thường nữa là 
				khác, nhưng bên trong thì có đầy đủ đức hạnh từ bi hỷ xả, dứt 
				trừ phiền não vô minh, tâm hồn trong sáng tự tại thì mới là mật 
				hạnh. Ngược lại trong thế gian nầy có rất nhiều người bên trong 
				thì dẫy đầy Tham-Sân-Si, mạn, nghi, tật đố, hỷ nộ ái dục nhưng 
				bên ngoài thì làm ra vẽ trang nghiêm điềm đạm, nói năng đạo đức 
				quân tử. Thời nay thì những người giả nhân giả nghĩa hay ngụy 
				quân tử nầy rất nhiều nên nhà Phật mới có câu: 
				“Giả trang thiền tướng, 
				  Cầu bỉ cung kính” 
				là vậy. 
				Vì thế đạo Phật khuyên chúng sinh nên phát 
				triển mật hạnh của chính mình vì đây chính là chất xúc tác để mở 
				con mắt tâm mà thấy được Chân Lý. 
				Thấy hai vị đứng dậy mong được Phật thọ ký 
				thì trong pháp hội có 2.000 đệ tử vừa hữu học vừa vô học đồng 
				hưởng ứng cùng mong được Phật thọ ký. 
				Phật bảo A-nan: 
				-Đời sau, ngươi sẽ được làm Phật hiệu 
				là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai… Ngươi sẽ cúng dường 
				62 ức Phật, hộ trì tạng pháp, rồi sau được Vô Thượng Chánh Đẳng 
				Chánh Giác giáo hóa 20 ngàn muôn ức hằng hà sa Bồ tát…khiến 
				những Bồ tát ấy thành tựu đạo Bồ đề.  
				Nước của Phật Sơn Hải Huệ tên là 
				Thường Lập Thắng Phan, thanh tịnh đất bằng lưu ly. Kiếp của Phật 
				tên Diệu Âm Biến Mãn, thọ mạng của Phật vô lượng và mười phương 
				Như Lai đồng ca ngợi công đức của Phật”.  
				Trước hết Phật thọ ký cho Tôn giả A Nan sau 
				khi cúng dường 62 ức Phật, hộ trí Chánh Pháp rồi sẽ thành Phật 
				hiệu là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai tại thế giới 
				Thường Lập Thắng Phan và kiếp của Phật là Diệu Âm Biến Mãn có 
				thọ mạng vô lượng. 
				Tôn giả A Nan tuy chưa thành A La hán, nhưng 
				ngài nổi danh là đệ nhất đa văn nghĩa là sự hiểu biết của ngài 
				rộng lớn, cao như núi, rộng như biển cho nên khi thành Phật thì 
				Phật hiệu của ngài cũng tương xứng như vậy nghĩa là trí tuệ của 
				ngài rộng lớn bao la sâu thẩm như biển rộng, cao siêu như núi 
				lớn, thông suốt tự tại, bất tư nghì tức là Sơn Hải Tuệ.  
				Nhưng làm thế nào có thể  cúng dường 62 ức Phật được? Tìm 
				đâu cho ra 62 ức Phật để cúng dường? Phật mà kinh nói ở đây 
				không phải là ứng thân Phật như đức Phật Thích Ca trong thế giới 
				Ta Bà này mà chính là Pháp thân Phật, là Như Lai Viên Giác Diệu 
				Tâm, là cái tâm Phật vốn sẵn có trong mỗi chúng sinh. Vì thế khi 
				làm một việc thiện, nói lời lành, ý nghĩ trong sáng thì ngay 
				thời điểm đó chính ta đã cúng dường cho Phật tâm, Phật tánh của 
				chúng ta rồi. Mỗi ngày trong tâm của chúng ta có biết bao tâm 
				niệm, miệng ta nói biết bao nhiêu lời và thân ta làm biết bao 
				hành động. Bây giờ nếu con người sống trong tĩnh thức chánh niệm 
				thì mỗi ngày họ nên chuyển tất cả những ý niệm thành ra ý niệm 
				lành, chỉ nói lời nói thiện và dĩ nhiên làm những việc tốt thì 
				chính họ đã cúng dường vô lượng vô biên chư Phật trong tâm của 
				họ rồi. Vì thế nếu chúng sinh biết giữ tâm ý khiến cho thân khẩu 
				ý được thanh tịnh thì chính họ đã cúng dường cho vô lượng hằng 
				sa Phật. Có được như vậy thì tâm mới Định và từ đó trí tuệ sẽ 
				phát sinh để chứng nghiệm chân lý tức là thành Phật. 
				Có vài tư tưởng để trao dồi thân tâm, giữ 
				vững chánh niệm: 
				- Sở dĩ con người đau khổ chính vì họ mãi đeo 
				đuổi những thứ sai lầm. 
				- Nếu ta không muốn rước phiền não vào mình, 
				thì người khác cũng không cách nào gây phiền não cho mình được. 
				Vì chính tâm ta không buông xuống nỗi. 
				- Chính ta phải luôn mở lòng khoan dung lượng 
				thứ cho chúng sanh, cho dù họ xấu bao nhiêu, thậm chí họ đã làm 
				tổn thương ta, ta phải buông bỏ, mới có được niềm vui đích thực. 
				-Sự chấp trước của ngày hôm nay sẽ là niềm 
				hối hận cho ngày mai. 
				-Nói năng đừng có tánh châm chọc, đừng gây 
				thương tổn, đừng khoe tài cán của mình, đừng phô điều xấu của 
				người, tự nhiên sẽ hóa thù thành bạn. 
				- Thế giới vốn không thuộc về mình, vì thế ta 
				không cần vứt bỏ nó, cái cần vứt bỏ chính là những tánh cố chấp. 
				Vạn vật đều cung ứng cho ta, nhưng không thuộc về ta. 
				- Nếu một người chưa từng cảm nhận sự đau khổ 
				khó khăn thì rất khó cảm thông cho người khác. Bạn muốn học tinh 
				thần cứu khổ cứu nạn, thì trước hết phải chịu đựng được khổ nạn. 
				-Chúng ta không thể thay đổi được thế giới 
				xung quanh, nhưng chúng ta có thể sửa đổi chính mình, đối diện 
				với tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ. 
				-Khi ta vui, phải biết rằng niềm vui này 
				không phải là vĩnh hằng. Khi ta đau khổ thì hãy nghĩ rằng nỗi 
				đau này cũng không trường tồn. 
				Tại sao thọ mạng của Phật Sơn Hải Tuệ là vô 
				lượng? Không lẽ Phật sống đời không chết? Nếu nói về ứng thân 
				Phật như Phật Thích Ca thì phải chịu sinh, lão, bệnh, tử của 
				luật vô thường của tạo hóa. Nhưng Phật mà kinh nói ở đây chính 
				là Pháp thân Phật. Trong thế giới bản thể Chơn Không thì không 
				có khái niệm về không gian và thời gian nên tuổi thọ của Phật là 
				vô lượng. 
				Cõi nước của ngài là Thường Lập Thắng Phan 
				nghĩa là thường dựng cây cờ chiến thắng bởi vì với trí tuệ sâu 
				thẳm như biển cả, núi cao thì không có tà thuyết ngoại đạo nào 
				có thể địch nổi. Kiếp tên Diệu Âm Biến Mãn tức là kiếp đó có 
				tiếng nhiệm mầu khắp cả. 
				Nói xong, Thế Tôn đọc một bài kệ lập lại 
				nghĩa trên.  
				Lúc bấy giờ, 8.000 Bồ tát mới phát tâm, 
				đều nghĩ:“Chúng ta chưa nghe các vị Bồ tát lớn được thọ ký như 
				thế, cớ sao mà các Thanh Văn lại được như vậy”.  
				Đức Phật biết tâm niệm ấy, bèn bảo rằng: 
				-Nầy các thiện nam tử, ấy vì ở nơi 
				Phật Không Vương, ta và A-nan đã đồng thời phát tâm cầu sự giác 
				ngộ vô thượng. A-nan thường ưa học rộng, còn ta thì siêng cần 
				tinh tấn, cho nên ta đã được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, 
				còn A-nan thì theo bản nguyện, hộ trì pháp ta và trong tương 
				lai, tiếp tục hộ trì pháp tạng của Chư Phật, để giáo hóa thành 
				tựu chư Bồ tát. Bổn nguyện của ông như thế nên đặng thọ ký dường 
				ấy.  
				Trong Phật giáo Đại thừa thì danh từ Bồ Tát 
				được dùng cho tất cả mọi người phát tâm tu theo con đường đại 
				hạnh vì người cứu độ chúng sinh. Trong khi đó, Phật giáo Nguyên 
				thủy thì danh từ Bồ Tát chỉ dành để gọi cho Thái tử Tất Đạt Đa 
				trước khi tu thành Phật. Con số 8.000 Bồ Tát mới phát tâm là ẩn 
				dụ của kinh bởi vì kinh lấy số 8 để ám chỉ cho bát thức tâm 
				vương: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý 
				thức, Mạt na thức và A lại da thức. Mới phát tâm nghĩa là còn 
				phải tu đến khi chuyển A lại da thức thành Như Lai Tạng, Bạch 
				Tịnh Thức tức là Đại Viên Cảnh Trí thì công thành quả mãn. 
				Nhắc lại trong kinh Lăng Nghiêm, có 52 giai 
				vị mà một Bồ Tát phải trải qua: 
				► Thập Tín
				có công năng giúp cho hành giả 
				thành tựu tín hạnh. 
				v 
				Tín tâm: Nhất tâm quyết định, mong 
				muốn thành tựu Phật quả. 
				v 
				Niệm tâm: Thường tu niệm Phật, 
				Pháp, Tăng, giới, thí, thiên. 
				v 
				Tinh tấn tâm: Nghe Bồ tát tạng, 
				siêng năng tu tập thiện nghiệp không gián đoạn. 
				v 
				Định tâm: Tâm an trụ vào sự vào 
				nghĩa, xa lìa cả hư ngụy, phù phiếm và nhớ tưởng phân biệt. 
				v 
				Huệ tâm: Nghe Bồ tát tạng, tư duy 
				quán sát, rõ biết các pháp vô ngã vô nhân, tự tánh không tịch. 
				v 
				Giới tâm: Thọ trì giới luật của Bồ 
				tát khiến cho thân, khẩu, ý thanh tịnh, không phạm các lỗi, nếu 
				nó phạm thì sám hối trừ hết. 
				v 
				Hồi hướng tâm: Hồi hướng các thiện 
				căn cho tất cả chúng sinh. 
				v 
				Hộ pháp tâm: Phòng hộ tâm mình, 
				không khởi phiền não. 
				v 
				Xả tâm: Buông xả tất cả. 
				v 
				10)Nguyện tâm: Lúc nào cũng nguyện 
				tu tập các điều thanh tịnh. 
				► Mười Thánh vị sau là Thập Trụ: 
				v 
				Sơ Phát Tâm Trụ: Khi đã phát được 
				tín tâm ở trên thì bây giờ Bồ Tát phát triển thêm trí tuệ, khế 
				hợp với chân lý Và tin vào tự tâm của mình là Phật, phát tâm 
				rộng lớn và tu hành viên mãn để hoàn thành Phật đạo. 
				v 
				Trì Địa 
				Trụ: Nương theo tâm tánh chân thật để trừ sạch những thói quen, 
				những tập khí mê lầm. 
				v 
				Tu Hành Trụ: Tâm tánh hiện tiền, 
				mọi việc sáng tỏ, dạo khắp mười phương  làm Phật sự mà 
				không chướng ngại. 
				v 
				Sinh Quý Trụ: Nhờ diệu hạnh ở 
				trước khế hợp với diệu lý nên sinh vào nhà Phật làm Pháp vương 
				tử. 
				v 
				Phương Tiện Cụ Túc Trụ: Tu tập vô 
				lượng thiện căn, tự lợi, lợi tha, phương tiện đầy đủ. 
				v 
				Chính tâm trụ: Tâm tướng đồng như 
				Phật, từ bi hóa độ chúng sinh cũng đồng như Phật. 
				v 
				Bất thoái trụ: Phát triển cả từ bi 
				lẫn trí tuệ để cho ngày một thêm tiến mãi đến chỗ diệu viên. 
				v 
				Đồng Chân Trụ: Có đầy đủ mười thân 
				của Như Lai là Bồ Đề thân, Nguyện thân, Hóa Thân, Lực thân, 
				Trang nghiêm thân, Uy thế thân, Ý sanh thân, Phúc thân, Pháp 
				thân và Trí thân. Tuy chưa được Nhất thiết Chủng trí, nhưng hành 
				giả có đầy đủ trí thể nghĩa là tâm ấy là Phật. 
				v 
				Pháp Vương Tử Trụ: Ra khỏi thánh 
				thai, chính mình làm Phật tử. 
				v 
				Quán Đảnh Trụ: Bồ Tát đã là Phật 
				tử, làm được Phật sự cho nên Phật dùng nước trí  Quán Đảnh 
				cho vị ấy. 
				► Mười Thánh vị sau là Thập Hạnh: 
				v 
				Hoan hỉ hạnh: Hành giả dựa theo 
				phương tiện đầy đủ tu hành, lìa bỏ được ý riêng mà tùy theo căn 
				cơ dục vọng của chúng sinh mà hóa độ họ. 
				v 
				Nhiêu ích hạnh: Khi tiêu trừ hết 
				các phiền não khổ đau thì có cái an lạc Bồ Đề để làm những việc 
				lợi ích cho tất cả chúng sinh. 
				v 
				Vô sân hận hạnh: Phật giáo Đại 
				thừa chủ trương tự giác cốt để giác tha nghĩa là tùy duyên, tùy 
				thời hóa độ, không trái với căn cơ của chúng sinh. 
				v 
				Vô tận hạnh: Tùy thuận các loài mà 
				hiện thân hóa độ, phát Bồ Đề nguyện rộng lớn không cùng. 
				v 
				Ly si loạn hạnh: Thấu hiểu thật 
				tướng của vạn pháp là vô tướng tức là Không tướng nên tùy theo 
				căn cơ mà dạy bảo tất cả pháp môn, không có sai lầm. 
				v 
				Thiện hiện hạnh: Biết không có 
				pháp thì thân khẩu ý vắng lặng, không còn trói buộc, không đắm 
				trước mà không bỏ việc giáo hóa chúng sinh. 
				v 
				Vô trước hạnh: Trải qua các cõi 
				nhiều như số hạt bụi cho nên cúng Phật cầu pháp mà tâm không 
				nhàm chán. Vì vắng lặng quan sát các pháp nên không đắm trước 
				đối với tất cả. 
				v 
				Tôn trọng hạnh: Tôn quý tu tập các 
				pháp như thiện căn, trí tuệ…nên tất cả đều thành tựu, nhờ đó 
				càng tiến tu hạnh tự lợi và lợi tha. 
				v 
				Thiện pháp hạnh: Thành tựu các 
				pháp như Tứ vô ngại…thành tựu các thiện pháp giáo hóa, giữ gìn 
				chánh pháp, không là tuyệt hạt giống Phật. 
				v 
				Chân thật hạnh: Thành tựu Đệ Nhất 
				Nghĩa Đế như lời nói mà thực hành, thực hành như lời nói tức là 
				lời nói đi đôi với hành động. Tất cả các hạnh đều không rời thật 
				tướng, không có sinh, không có ngăn trở, tất cả đều là tự tánh 
				thanh tịnh bản nhiên. 
				Tóm lại, tu Thập Hạnh hành giả có 4 mục đích: 
				v 
				Nhàm chán thế giới hữu vi. 
				v 
				Cầu Bồ Đề, đầy đủ Phật đức. 
				v 
				Muốn cứu độ chúng sinh trong đời 
				hiện tại và vị lai. 
				v 
				Cầu Thật tế, chứng Pháp Như. 
				► Mười Thánh Vị sau đó là Thập Hồi 
				Hướng: 
				v 
				Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh Ly 
				Chúng Sinh Tướng Hồi Hướng: Hành giả tu hành, trí tuệ mở mang, 
				phương tiện đầy đủ, trong Nhất Nhân Pháp Giới làm các Phật sự, 
				đồng thời xa lìa những vọng tưởng còn lại. Trong khi hóa độ 
				chúng sinh diệt cho hết các ý niệm tướng năng độ, sở độ mà xoay 
				tâm vô vi hướng về tự tánh Niết bàn. 
				v 
				Bất Hoại Hồi Hướng: Diệt trừ những 
				cái có thể diệt trừ và xa rời tất cả các sự xa rời. 
				v 
				Đẳng Nhất Thiết Phật Hồi Hướng: 
				Đồng với sự hồi hướng của chư Phật 3 đời nghĩa là tu hành không 
				đắm sinh tử`, không lìa Bồ Đề. 
				v 
				Chí Nhất Thiết Xứ Hồi Hướng: Hồi 
				hướng thiện căn tu được đến khắp mọi nơi, từ Tam Bảo đến chúng 
				sinh để cúng dường làm lợi ích. 
				v 
				Vô Tận Công Đức Tạng Hồi Hướng: 
				Tùy hỉ tất cả vô tận thiện căn, hồi hướng làm Phật sự để được vô 
				tận công đức thiện căn. 
				v 
				Tùy Thuận Bình Đẳng Thiện Căn Hồi 
				Hướng: Trong chỗ lý trí viên dung, đồng như Phật địa, phát huy 
				những nhân hạnh thanh tịnh, hồi hướng đạo Bồ Đề. 
				v 
				Tùy Thuận Đẳng Quán Nhất Thiết 
				Chúng Sinh Hồi Hướng: Tăng trưởng tất cả thiện căn, hồi hướng 
				làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Hồi hướng thuận theo bản lai 
				tự tánh, quán tất cả chúng sinh, tất cả chư Phật đều bình đẳng 
				không sai không khác. 
				v 
				Như Tướng Hồi Hướng: Thuận theo 
				tướng Chân Như mà hồi hướng thiện căn đã thành tựu. 
				v 
				Vô Phược Giải Thoát Hồi Hướng: Đối 
				với tất cả các pháp không dính mắc, chấp trước, được tâm giải 
				thoát. Hồi hướng thiện pháp, thực hành hạnh Phổ Hiền, đầy đủ các 
				công đức. 
				v 
				Pháp Giới Vô Lượng Hồi Hướng: Tu 
				tập tất cả vô tận thiện căn rồi hồi hướng các thiện căn này, 
				nguyện cầu vô lượng công đức trong  Nhất chân pháp giới vì 
				trong đó tất cả sự vật đều bình đẳng như hư không. 
				Tóm lại, hồi hướng nghĩa là dùng tâm đại bi 
				cứu độ tất cả chúng sinh. 
				► Sau cùng, trong kinh Hoa Nghiêm, 
				phẩm Thập Địa nói lên mười giai vị của Bồ tát là: 
				v 
				Hoan hỷ địa 
				(Sơ địa) (Pramudità): Khác với lý tưởng của Nguyên thủy là tìm 
				sự giải thoát Niết bàn cho riêng mình thì ở đây Đại thừa giới 
				thiệu một lý tưởng cao đẹp hơn nhằm giúp cho tất cả mọi chúng 
				sinh giải thoát mọi phiền não vô minh. Khi diệt được các pháp 
				tướng mê lầm, chỗ giác ngộ đã đến cùng tột, diệt trừ được phân 
				biệt ngã chấp, pháp chấp nên tâm bắt đầu có được pháp lạc nên 
				mới gọi là hoan hỷ địa tức là sơ địa. 
				v 
				Ly cấu địa 
				(Uimada): là giác vị lìa bỏ tâm sai lầm, phá giới, phiền não 
				cấu. 
				v 
				Phát quang địa 
				(Prabhàkari): đến đây Bồ-tát thấu biết tánh vô thường của tất cả 
				vạn vật trong thế gian vũ trụ nên nội tâm càng thanh tịnh thì 
				trí tuệ càng sáng suốt. 
				v 
				Diệm huệ địa 
				(Arcismati): trong giai đoạn này, Bồ-tát bắt đầu thực hành sự an 
				nhiên tự tại và cắt dứt những thứ ô nhiễm, vô minh. Đến giai vị 
				này hành giả đã lìa bỏ kiến giải phân biệt, dùng lửa trí tuệ 
				thiêu đốt củi phiền não nhờ đó mà ngộ được bản thể trí tuệ. Lúc 
				ấy trí tuệ được sáng suốt tỏ tường và dĩ nhiên sự giác ngộ được 
				viên mãn. 
				v 
				Nan thắng địa 
				(Sudurjayà): Đến đây, Bồ-tát bắt đầu phát huy tinh thần bình 
				đẳng đồng nhất và giác ngộ nhờ vào thiền định giúp Bồ-tát biết 
				thấu suốt tục đế và chân đế viên dung bất nhị. Giác vị này đã 
				thành tựu trí xuất thế gian, nương vào năng lực phương tiện tự 
				tại mà cứu độ các chúng sinh khó cứu độ. 
				v 
				Hiện tiền địa 
				(Abhimukhi): Khi vào được giai đoạn này, Bồ-tát sẽ trực diện với 
				thực tại và sẽ ý thức được sự đồng nhất của tất cả mọi hiện 
				tượng. Và bấy giờ Bồ-tát sẽ nhận biết rằng vô vi chân như hoàn 
				toàn không nhiễm, không tịnh, thường hằng hiện tiền tức là tự 
				tánh của chân như hiện rõ có được đại trí. 
				v 
				Viễn hành địa 
				(Dùrangamà): Đến đây Bồ-tát có đủ dữ kiện để tiến vào giải thoát 
				Niết bàn, nhưng họ dừng lại vì còn trách nhiệm cứu giúp tất cả 
				chúng sinh cùng được giải thoát như mình. Họ biết rằng đến đây 
				tất cả đều là chân như, không có gì không phải là chân như, vô 
				cùng vô tận. 
				v 
				Bất động địa 
				(Acalà): 
				Đến đây Bồ-tát thấu biết rốt ráo sự bất sinh của tất cả hiện 
				tượng vạn hữu trong thế gian. Khi đã trải qua “vô sanh pháp 
				nhẫn” Bồ-tát thấu biết sự tiến hóa và thoái hóa của nhân sinh vũ 
				trụ. Vì vậy, tâm Bồ-tát thường trụ không thay đổi, tuyệt đối 
				không bị phiền não làm lay động. 
				v 
				Thiện huệ địa 
				(Sàdhumti): Đến đây Bồ-tát có thể phát hiện ra vô số thân để hóa 
				độ chúng sinh với đấy đủ bốn trí vô ngại. Đó là Ý thức thành ra 
				Diệu Quan Sát Trí, tiền ngũ thức thành ra Thành Sở Tác Trí, Mạt 
				na thức trở thành Bình Đẳng Tánh Trí và A Lại da thức sẽ thành 
				Đại Viên Cảnh Trí. Bồ tát dùng năng lực vô ngại để thuyết pháp, 
				hoàn thành hạnh lợi tha và trí tuệ được tự tại. 
				v 
				Pháp vân địa 
				(Dharmameghà): Khi Bô-tát công phu đầy đủ, công đức trí tuệ và 
				từ bi viên mãn có thể che chở cho vô lượng chúng sinh thì gọi là 
				nhập vào Pháp vân địa tức là Thập địa Bồ-tát vậy. Lúc ấy Bồ tát 
				được đại pháp thân, có năng lực tự tại. 
				Đến đây Bồ-tát đã có đồng một giác tánh bình 
				đẳng với Như Lai nên gọi là Đẳng giác Bồ-tát. Sau cùng Bồ-tát 
				chỉ cần giác ngộ sinh tướng vô minh thì tức thì chứng được Nhân 
				địa Như Lai tức là đạt được Diệu giác. 
				Bồ-tát chuyển Dị Thục thức thành ra Bạch 
				Tịnh thức rồi vào Kim Cương địa mà phát sinh Nhất thiết chủng 
				trí, Nhất thiết trí trí, tùy duyên hóa hiện, độ thoát chúng sinh 
				mà không rời tự tánh thanh tịnh Niết bàn 
				cho đến tột đỉnh nhân quả đồng thời là hoàn thành Phật đạo tức 
				là thành Phật. 
				Dựa theo Phật giáo Đại thừa thì sự chứng đắc 
				của các vị Bồ Tát từ Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh và Thập Hồi 
				Hướng còn thấp hơn các vị A la hán trong hàng Thanh Văn. Các vị 
				Bồ Tát từ Sơ Địa đến Thất Địa thì gọi là 
				Bồ Tát Đăng Địa trong đệ nhi A Tăng Kỳ. Và sau cùng Bồ Tát từ 
				Bát Động Địa đến Pháp Vân Địa thì gọi là Bồ Tát đệ tam A Tăng Kỳ 
				tức là Đại Bồ Tát hay Ma Ha Bồ Tát. Những vị Bồ Tát này trí tuệ 
				cao hơn các vị A la hán. 
				Vì thế đoạn kinh trên nói rằng vào thời Phật 
				Không Vương, Tôn giả A Nan cùng với Phật Thích Ca đồng phát tâm 
				Vô thượng Bồ Đề. Nhưng A Nan chỉ thích học rộng nghe nhiều nên 
				chưa thành Phật. Phật Thích Ca tinh tấn nỗ lực tu hành nên ngày 
				nay Ngài đã thành Phật. Còn A Nan thì còn hộ trì pháp Phật, giáo 
				hóa các vị Bồ Tát . Do vậy các vị A la hán có thể giáo hóa cho 
				Bồ Tát cho đến các vị Bồ Tát Đăng Địa. 
				Đạo Phật là đạo thực hành cho nên trước hết 
				đức Phật giảng giải cho biết giáo lý Ngài muốn nói cho đến khi 
				đệ tử thấu hiểu rõ ràng. Lần thứ hai hiểu rồi thì phải cố gắng 
				tu. Lần thứ ba tu rốt ráo thì sẽ chứng đắc, tự mình nghiệm chứng 
				được chân lý. Do đó nếu người tu Phật dậm chân tại chỗ ở giai 
				đoạn thứ nhất tức là chỉ học cho biết thì không bao giờ hưởng 
				được hương vị giải thoát cũng như nói ăn mà không ăn thì không 
				bao giờ no được. Tiến trình được gọi là Văn, Tư, Tu. Ngược lại, 
				nếu người tu mà thiếu phần học thì cũng như người mù đi trong sa 
				mạc dễ sa hầm sụp hố, chính mình không lợi ích mà cũng chẳng 
				giúp được cho người.  
				Lòng rất vui mừng, A-nan tức thời nhớ lại 
				tạng pháp của vô lượng ngàn muôn ức Phật thuở quá khứ, luôn cả 
				lời nguyện của mình.  
				Ở trước Phật, ông A Nan thay lời đại chúng, 
				xin được nói lên một bài kệ tán dương Đức Phật, cùng phát nguyện 
				và trình lên những điều tâm đắc của tận đáy lòng : 
				Diệu trạm tổng trì bất động Tôn 
				Thủ Lăng Nghiêm vương thế hy hữu 
				Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng 
				Bất lịch tăng kỳ hoạch Pháp thân. 
				Nguyện kim đắc quả thành bảo vương. 
				Hoàn độ sa thị hằng sa chúng. 
				Tương thử thâm tâm phụng trần sát. 
				Thị tắc danh vi báo Phật ân. 
				Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh 
				Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập 
				Như nhất chúng sinh vị thành Phật. 
				Chung bất ư thử thủ Nê Hoàn. 
				Đại hùng đại lực đại từ bi 
				Hi cánh thẩm trừ vi tế hoặc 
				Linh ngã tảo đăng vô thượng giác 
				Ư thập phương giới tọa đạo tràng. 
				Thuấn-nhã-đa tánh khả tiêu vong 
				Thước-ca-la tâm vô động chuyển. 
				Dịch là : 
				 Cao quý hay! Thủ Lăng Nghiêm Vương ít 
				có 
				Là pháp diệu trạm, bất động tổng trì 
				Đây là những lời tán thán Pháp thân thanh 
				tịnh nhiệm mầu, vắng lặng ứng hiện đến khắp tất cả nên gọi là 
				Diệu trạm. Tuy nói Pháp thân mà vẫn trọn vẹn ba thân. Vì Pháp 
				thân là thể của các pháp và có đầy đủ ba đức nên gọi là Tổng 
				trì. Thân Phật biến khắp pháp giới, ứng hiện đến với tất cả quần 
				sanh và tùy duyên cảm ứng khắp mọi nơi mà luôn an trú ở cội 
				Bồ-đề nên gọi là bất động. Trọn câu này là muốn chỉ cho Đức Phật 
				Thích Ca Mâu Ni. 
				Ông A Nan vì thấy Phật có 32 tướng tốt và 80 
				vẻ đẹp nên sanh tâm yêu thích mới phát tâm xuất gia nên Đức Phật 
				mới chỉ cho ông thấy tuy thân Phật rực rỡ huy hoàng, nhưng cũng 
				chỉ là ứng thân sinh diệt cho nên sự phát tâm xuất gia như vậy 
				là hư vọng, không chính đáng. Nay nhờ ơn Phật khai thị nên diệu 
				ngộ được tâm mình mà thấy được Pháp thân Phật. Ban đầu, A Nan 
				thỉnh Phật khai thị con đường tu tập thiền định thì Phật dạy 
				rằng :‟Có pháp tam-ma-đề gọi là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm 
				Vương” sẽ giúp ông phá vọng hiển chơn để thấu tột nguồn nhất 
				chân mà chứng nhập chân lý. Vì đã ngộ được thể của định nên ông 
				khen ngợi pháp này là hiếm có. 
				Trừ hết tướng điên đảo ức kiếp của con 
				Không trải A Tăng Kỳ mà được pháp thân 
				Xưa ông A Nan chấp vọng tưởng điên đảo mà cho 
				là chân thật,  nay nhờ liễu ngộ nên phiền não biến mất, 
				điên đảo tiêu trừ. Xưa chỉ biết thân tâm huyển vọng, nay cũng 
				thân ngũ uẩn mà ngộ được pháp thân mà không cần trải qua A Tăng 
				Kỳ kiếp. 
				Tôi nguyện từ nay cho đến khi thành 
				Phật 
				Độ chúng sinh như số cát sông Hằng 
				Đem thân tâm phụng sự vi trần quốc 
				Thế mới đủ đáp đền thâm ân Phật. 
				Phật giáo Đại Thừa luôn khuyến khích người đệ 
				tử Phật vì chúng sinh hoằng pháp độ sinh. Tâm niệm rằng : 
				‟Thượng cầu thành Phật, hạ hóa chúng sinh” là cách đền ơn Phật 
				thực tiễn nhất. 
				Cúi xin Thế Tôn chứng minh cho : 
				Đời ác trược tôi thề vào trước 
				Còn một chúng sinh chưa thành Phật 
				Thì tôi không nhận hưởng Niết Bàn 
				Đời ngũ trược ác thế 
				mà tôn giả A Nan nguyện vào để cứu chúng sinh còn trầm luân 
				trong chốn bụi trần, thống khổ chớ không lo an lạc thanh tịnh 
				Niết bàn cho riêng mình. Ngài nguyện độ tất cả chúng sinh rồi 
				mới thành Phật. Đây là lời thề nguyện rộng lớn mà có lẽ chưa có 
				vị A la hán nào trong hàng Thanh Văn phát nguyện như vậy. Ngài 
				Địa Tạng Bồ-tát cũng phát nguyện rằng : ‟Khi nào còn chúng sinh 
				trong chốn u minh thì Ngài nguyện sẽ không thành Phật”. 
				Bạch đấng Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi 
				Tôi hy vọng xét trừ vi tế hoặc 
				Để sớm lên Vô Thượng Bồ-đề 
				Tôi sẽ làm Phật sự khắp mười phương 
				Tôn giả A Nan tuy ngộ được Pháp thân, nhưng 
				đây mới chỉ là kiến đạo chớ chưa phải là chứng đạo. Vì thế trong 
				A Nan vẫn còn vô minh vi tế ẩn núp thâm sâu rất khó tiêu trừ cần 
				phải dùng oai lực dũng mãnh của thiền định mới có thể phá được. 
				Một khi những kiến hoặc đã tiêu tan thì con đường để viên thành 
				Phật quả sẽ không còn xa. Khi thành Phật thì Ngài sẽ độ chúng 
				sinh mười phương thế giới bao la vô cùng vô tận. 
				Hư không dù hết, nguyện tôi không 
				cùng. 
				Thuấn-nhã-đa là hư không. Thước-ca-la là kiên 
				cố. Đây là lời thệ nguyện để nói lên tâm bất thối kiên cố. Tuy 
				hư không, vô hình vô tướng, bao la vô cùng vô tận mà còn có thể 
				tiêu tan, còn tâm kiên cố và nguyện lực của Ngài A Nan không bao 
				giờ lay chuyển. 
				Bấy giờ Phật bảo La-hầu-la: 
				 
				-Đời sau ngươi sẽ đặng làm Phật hiệu 
				là Đạo Thất Bảo Hoa Như Lai.  Ngươi sẽ cúng dường chư Phật 
				Như Lai đông như vi trần trong mười thế giới và thường vì các 
				đức Phật mà làm trưởng tử như hiện nay. 
				Đức Phật Đạo Thất Bảo Hoa đó, cõi 
				nước trang nghiêm, kiếp số thọ mạng, giáo hóa đệ tử, chánh pháp 
				và tượng pháp cũng đồng như Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như 
				Lai không khác. Ngươi sẽ làm trưởng tử cho Phật Sơn Hải Huệ, rồi 
				về sau sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. 
				 
				Thế Tôn lập lại nghĩa trên bằng một bài 
				kệ…  
				Sau đó Phật liền thọ ký cho Tôn giả La Hầu La 
				sẽ cúng dường các đức Phật nhiều như số hạt bụi của mười thế 
				giới. Vì Ngài trong đời quá khứ đã phát nguyện làm trưởng tử cho 
				mỗi vị Phật ra đời cho nên trước khi thành Phật, ngài sẽ là 
				trưởng tử cho Phật Sơn Hải Huệ. Khi tu mật hạnh viên mãn, Ngài 
				sẽ thành Phật Ngài hiệu là Ðạo Thất Bảo Hoa Như Lai nghĩa là vị 
				Phật bước đi trên hoa bảy báu. Đời này A Nan với La hầu La liên 
				hệ tình chú cháu, nhưng vô lượng về sau thì La Hầu La sẽ làm con 
				của A Nan trước khi La Hầu La thành Phật. 
				Thấy các bậc hữu học, vô học 2.000 người 
				ý căn nhu nhuyễn, tịch nhiên thanh tịnh, một lòng nhìn Phật, 
				Phật bèn nói với A-nan: 
				-Tất cả những người ấy sẽ cúng dường 
				chư Phật Như Lai đông như  vi trần trong 50 thế giới, cung 
				kính hộ trì pháp tạng, rốt sau đồng thời, ở các nước trong mười 
				phương, mỗi mỗi đều được thành Phật, đồng một hiệu là Bảo Tướng 
				Như Lai, sống lâu một kiếp, cõi nước trang nghiêm số đệ tử Thanh 
				Văn, Bồ Tát và thời gian chánh pháp, tượng pháp thảy đều đồng 
				nhau.  
				Lúc đó, các hàng hữu học, vô học nghe 
				đức Phật thọ ký, vui mừng hớn hở như được rưới nước cam lộ. 
				Sau cùng đức Phật thọ ký cho tất cả 2.000 
				người hữu học và vô học cúng dường chư Phật hằng sa số trong 50 
				thế giới và cung kính hộ trì pháp tạng sẽ thành Phật và có chung 
				Phật hiệu là Bảo Tướng Như Lai. Trí tuệ quang minh của Phật như 
				đèn sáng chiếu khắp. Con số 50 thế giới là kinh muốn dùng con số 
				năm để ám chỉ cho ngũ uẩn mà kinh Lăng Nghiêm có nói 50 ngũ uẩn 
				ma là không thật như hư đóm trong hư  không. Tại sao? Bởi 
				vì một người khi đã chứng đắc quả A la hán thì tất cả các chủng 
				tử hữu lậu đã tan biến và trong họ chỉ còn chủng tử vô lậu nghĩa 
				là tất cả phiền não khổ đau và những nguyên nhân đưa đến phiền 
				não khổ đâu cũng không còn. Đó là các ngài đã chứng chân lý Vô 
				Ngã nghĩa là trong họ không hề có “Cái Ta” hay “Cái của Ta”. 
				Trong thì Ngã không, ngoài thì Pháp không, trong ngoài tự tại 
				thì hết chấp. Trong khi đó, phàm nhân thì tin chắc rằng thân ngũ 
				uẩn của mình là thật, là Ta, là của Ta và là sở hữu của Ta, sống 
				giữ chết mang theo cho nên có sống chết, tranh đấu để bảo vệ Ta 
				và cái của Ta vì thế mới có phiền não, khổ đau. Vì thế kinh nói 
				họ phải cúng dường chư Phật nhiều như vi trần trong 50 thế giới 
				là họ phải tính tấn nỗ lực tu hành thì mới có giải thoát được. 
				Cứ mỗi việc lành họ thực hành là cúng dường cho một vị Phật, một 
				tư tưởng thiện là cúng dường cho một vị Phật và cứ thế mà làm. 
				Mỗi ngày chúng ta phát sinh biết bao tư tưởng, nếu bây giờ 
				chuyển hết hàng ngàn hàng vạn tư tưởng đó thành ra ý niệm lành 
				thì chúng ta đã cúng dường cho vô số chư Phật rồi. Lời nói và 
				hành động cũng thế. 
				Hai ngàn vị Thanh Văn được Phật thọ ký, lòng 
				dâng lên bao nổi vui mừng cũng như thọ hưởng nước cam lộ mát dịu 
				từ đức Thế Tôn. Con người cũng vì có ý niệm chấp ngã nên đại đa 
				số ai cũng muốn sống lâu, sống thọ để hưởng những lạc thú trên 
				thế gian. Phản ứng tự nhiên khi nghe đến chết là họ nghĩ ngay 
				đến sự chia lìa những gì mình quý mến thương yêu nhất. Chết là 
				bỏ lại tài sản mà mình vun bồi, xây dựng bao nhiêu năm, xa cách 
				cha mẹ, vợ chồng, con cái, lo sợ cuộc hành trình đơn độc này sẽ 
				như thế nào và dĩ nhiên không biết tương lai mình sẽ đi về đâu? 
				Nhưng xét cho cùng thì thế gian là vô thường, do duyên giả hợp 
				chớ có cái gì bền chắc muôn đời hay cái gì thật sự là của Ta 
				đâu? Khi sanh ra Ta thì Ta đâu có vợ chồng con cái, nhà cao cửa 
				rộng vì thế tất cả là của thế gian chớ đâu phải của riêng Ta cho 
				nên khi duyên tan rã thì của thế gian trả lại hết cho thế gian 
				ngay cả tấm thân mà Ta gọi là của Ta cũng phải trả lại cho đời. 
				Đức Phật dạy rằng bóng cây hướng nào thì cây sẽ ngã theo hướng 
				đó cho nên nếu đời này ta kiến tạo rất nhiều thiện phước thì 
				kiếp sau sẽ được thọ báo vào chỗ an lành để hưởng lấy phước lợi. 
				Ngược lại nếu ta tạo nhiều ác nghiệp thì đời sau phải chịu sinh 
				vào chốn trầm luân, thọ khổ nhiều hơn vui. Do đó nếu không còn 
				chấp ngã nghĩa là không còn tham luyến cái Ta và những gì thuộc 
				về Ta thì sự sống chết là chuyện thường, xem chuyện tử sanh là 
				trò dâu bể tức là Có trở thành Không và Không biến thành Có. Đó 
				là vạn pháp sanh mà không thật sanh và diệt mà không bao giờ mất 
				hẳn vì thế hãy sống nhẹ nhàng thanh thoát, an vui tự tại ngay 
				giây phút này chớ đứng quá quan tâm chết sẽ đi về đâu tức là tự 
				mình tạo ra cho mình thêm nỗi khổ. Vì vậy nếu chúng sinh diệt 
				được ý niệm sinh diệt trong tâm thì chính họ sẽ có niềm vui tịch 
				diệt tức là đạt đến cứu cánh Như Như bất động. 
				Tóm lại về phần thọ ký thì kinh Pháp Hoa có 
				ba phẩm: 
				1)Trong phẩm Thí Dụ, đức Phật thọ ký cho Tôn 
				giả Xá lợi Phất sẽ thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai rồi đến 
				phẩm Thọ Ký, đức Phật bắt đầu thọ ký cho các đại đệ tử như Xá 
				Lợi Phất, Đại Ca Diếp, Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên, Mục Kiền Liên. 
				2)Phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Ký thọ ký thì Phật 
				thọ ký Tôn giả Phú Lâu Na rồi đến 500 vị A la hán khác.  
				3)Đến phẩm này, đức Phật lại thọ ký cho ngài 
				A Nan và La Hầu La là hai vị Tỳ kheo trẻ nhất trong số những vị 
				Tỳ kheo xuất sắc trong Tăng đoàn. Rồi sau đó Phật mới thọ ký cho 
				tất cả mọi người. 
				Đức Phật thọ ký cho tất cả mọi người là vì 
				trong mỗi chúng sinh đã có sẵn tri kiến Phật tức là chất Phật 
				nên đức Phật mới thọ ký được chớ đừng hiểu rằng đức Phật là một 
				đấng quyền uy tối thượng muốn ban ơn cho ai thì ban hoặc muốn 
				giáng họa cho ai thì giáng. Đức Phật là đấng đại từ đại bi thì 
				việc giáng họa cho người dĩ  nhiên không bao giờ có, nhưng 
				còn thương người nào thì ban ơn, chúc 
				phúc cho họ thì cũng không có. Bằng chứng là Tôn giả A Nan cả 
				đời theo chân làm thị giả cho đức Phật mà vẫn không chứng đắc 
				Thánh quả vì A Nan không chịu tu mà chỉ muốn học rộng nghe 
				nhiều. Tuy mang tiếng là đệ nhất đa văn, nhưng ông không tu 
				thiền na, không có đại định nên không thể tiêu diệt những vẫn 
				đục của thập triền, thập sử mà cứ dậm chân tại chỗ ở quả nhập 
				lưu là Tu Đà Hoàn. Vì thế không thể hiểu Phật như là một đấng 
				thần linh, một đấng siêu nhiên thì con đường học Phật mới tiến 
				bộ được.        
				1)Thập triền: là mười món 
				phiền não nương vào tham, sân, si mà khởi, tương ưng với tâm 
				nhiễm ô, tạo các ác hạnh để trói buộc chúng sinh trong sinh tử. 
				ü 
				-Vô tàm: Không biết hổ thẹn. 
				ü 
				-Vô quý: Không biết hổ thẹn đối 
				với những tội lỗi do mình tạo ra khi bị người khác thấy biết. 
				ü 
				-Tật: Tâm đố kỵ đối với những việc 
				hưng thịnh của người khác. 
				ü 
				-San: Bỏn sẻn, keo kiệt. 
				ü 
				-Hối: Hối hận vì những lỗi xấu của 
				mình đã làm, khiến tâm bất an. 
				ü 
				-Miên: Mê ngủ khiến tâm mờ tối, 
				không có năng lực tỉnh xét. 
				ü 
				-Điệu cử: Thân dao động khiến tâm 
				không yên, không thể nào thành tựu các thiền quán. 
				ü 
				-Hôn trầm: Thần thức u mê, thân 
				tâm không có năng lực an trụ trong thiện pháp. 
				ü 
				-Phẫn: Đối với cảnh trái ý mình 
				thì sinh tâm tức giận, đánh mất chánh niệm. 
				ü 
				-Phú: Che đậy tội lỗi của mình. 
				Nếu hằng ngày chúng sinh không giữ vững chánh 
				niệm, sống trong tĩnh thức thì mười món này sẽ trói buộc (triền) 
				con người không có lối thoát. 
				2)Thập sử: Căn bản phiền não 
				có sáu món là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Phần ác kiến 
				lại chia làm năm phần: Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến thủ, 
				Giới cấm thủ. Thập sử là tên gọi dựa theo Duy Thức Học còn tên 
				thông thường là Tư Hoặc và Kiến Hoặc trong phần Tập Đế. Do đó 
				con đường duy nhất để có giải thoát ra khỏi sinh tử luân hồi là 
				phải phá cho được Tư Hoặc và Kiến Hoặc chứng đắc thánh quả A la 
				hán. Năm món tham, sân, si, mạn, nghi gọi là năm món “độn 
				sử” bởi vì nó ngấm ngầm sai sử con người cũng như than 
				đỏ trong tro làm chướng ngại ba món vô lậu Giới Định Tuệ. Ví dụ, 
				cũng vì muốn thỏa mãn lòng tham mà có người dám làm những chuyện 
				tày trời, phạm luân thường đạo lý, không kể hậu quả sau này sẽ 
				vào tù ra khám. Khi cơn giận nổi lên thì bất chấp phải trái ngay 
				cả giết người họ cũng làm. Hoặc một khi lòng si mê tham đắm dục 
				tình bùng cháy trong tâm, người đàn bà có thể giết chồng, bỏ con 
				để chạy theo tiếng gọi của con tim. Nói chung hằng ngày tham, 
				sân, si, mạn, nghi sai sử chúng ta trên mọi phương diện, từng 
				giây từng phút, từng sát na. Vì thế chỉ có chánh niệm tỉnh thức 
				mới đánh thức con người để quay về sống đúng với chơn tánh của 
				mình tức là chính mình đã chặt đứt những  sợi dây vô hình 
				cột chân cột tay chúng ta vào con đường bất thiện. 
				Tóm lại, học Phật là để nhận thức Chân lý, để 
				chuyển hóa tất cả những vọng thức phân biệt đối đãi (vọng tâm 
				điên đảo) để có cuộc sống an vui, tự tại và cuối cùng đạt đến 
				cứu cánh tối thượng là giải thoát giác ngộ tức là giải thoát 
				hoàn toàn ra khỏi mọi hệ lụy của phiền não khổ đau và tâm trí 
				bừng sáng để thấy biết rốt ráo tận cùng, trực nhận Chân lý.  
				
				∆ TOP |
				
				
				NEXT 
				  
				 |