| 
				 Phẩm 
				NHƯ LAI THỌ LƯỢNG 
				Đức Phật nói phẩm Như Lai Thọ Lượng là để trả 
				lời cho Bồ Tát Di Lặc rằng tại sao số Bồ Tát xuất hiện từ dưới 
				đất đông như thế mà những vị đó có uy đức, trí tuệ phải là những 
				người đã tu tập đến đệ tam A tăng kỳ tức là gần thành Phật. Thế 
				thì trải qua quá trình tu tập dài lâu như vậy thì ai là thầy 
				giáo hóa cho họ? Khi đức Phật Thích Ca trả lời chính Ngài đã 
				giáo hóa họ thì đại chúng và Bồ Tát Di Lặc không khỏi hồ nghi. 
				Bởi vì dựa theo sự nhận xét qua hình tướng thì đức Phật mới 
				thành đạo trên bốn mươi năm thì làm sao Ngài có thể giáo hóa cho 
				vô số Bồ Tát trong suốt thời gian gần như vô tận được? Nói thế 
				chẳng khác nào người già tóc bạc mà gọi chàng thanh niên ngoài 
				hai mươi là cha của mình? 
				Lượng là số lượng và thọ là tuổi thọ. Vì vậy 
				Như Lai Thọ Lượng là đức Phật dạy cho chúng sinh biết về tuổi 
				thọ của Như Lai. Tuổi thọ của đức Phật Thích Ca là 80 tuổi thế 
				thì tuổi thọ của Như Lai là bao nhiêu? 
				Phật giáo Đại thừa được chia làm hai trường 
				phái triết học chính là phái Trung Luận của triết gia Long Thọ 
				và phái Du già của sư Vô Trước. Ở Ấn Độ trường phái Du Già được 
				gọi là Du Già hành tông, nhưng tại Trung Hoa và Việt Nam thì 
				thường gọi là Duy thức tông hay Duy thức học. Nói chung cả hai 
				trường phái Trung quán tông của Long Thọ và Du Già hành tông của 
				Vô Trước, Thế Thân đều cùng chung một ý niệm rằng tất cả vạn hữu 
				trên thế gian này được tạo thành đều không có tự tánh cho nên 
				không có vật gì trường tồn bất biến cả. Tư tưởng Du Già đã bắt 
				đầu hình thành vào thời Long Thọ, nhưng mãi đến mấy thế kỷ sau 
				triết lý này mới được phát huy đến mức tận cùng bởi Vô Trước và 
				người em là sư Thế Thân. Phái Du Già tin vào chủ nghĩa “duy 
				tâm siêu hình” mà theo đó tâm thức sáng tạo ra đối 
				tượng của nó nhờ vào những năng lực tiềm ẩn nội tại. Thế Thân lý 
				luận rằng tất cả vạn hữu trong thế giới hữu vi này mà con người 
				biết được, trong thực tế đều chỉ là cấu trúc của tâm thức bởi vì 
				những vật thể đó cũng chỉ là sự thông giải do tâm trí của con 
				người đặt ra. Dưới mắt các học giả Tây phương, Du Già là một 
				triết học mang tính duy tâm chủ nghĩa (idealism) vì nó lấy sự 
				thông giải tâm thần các kinh nghiệm của con người làm điểm phát 
				xuất. Nói cách khác, tâm thức tự nó hiện hữu mà không cần có bất 
				cứ đối tượng nào. Sự giải thoát chỉ có thể thực hiện được 
				khi nào con người có thể tạo ra được một nhận thức thuần túy 
				nghĩa là chỉ thuần có tâm thức và không lệ thuộc vào phạm trù 
				đối đãi của nhị nguyên. Chẳng những Vô Trước là nhà biện 
				luận xuất sắc, sư có người em là Thế Thân tài trí cũng không 
				kém. Công trình chính của Thế Thân là hệ thống hóa tư tưởng Du 
				Già hành tông của sư huynh Vô Trước thành Duy thức tông và là 
				tác giả cuốn Duy Thức tam thập tụng mà một trong những công dụng 
				là giải thích những khúc ẩn trong bát thức tâm vương, đặc biệt 
				là Mạt-na thức và A-lại-da thức. 
				Phái Trung Quán được thành lập bởi ngài Long 
				Thọ vào những năm 150 sau dương lịch. Ngài được xem là một trong 
				những kỳ tài vào thời đại đó của xứ Ấn Độ. Chính tư tưởng Trung 
				Quán là xương sống cho Phật giáo Đại thừa khi truyền sang Trung 
				Hoa và cũng là yếu chỉ cho Phật giáo Mật tông Tây Tạng và Mông 
				Cổ. Triết lý Trung Quán Luận là một học thuyết biện luận đưa đến 
				sự hoài nghi tất cả mọi hiện sinh và cho rằng tất cả mọi sự vật 
				đều là giả tạo vì chúng không có tự tánh, không có chủ thể nên 
				chúng là vô ngã tức là Không. Vì thế con đường giải thoát là 
				phải buông bỏ hết cho đến khi chỉ còn lại cái tánh không tuyệt 
				đối thì lúc ấy giải thoát sẽ được đạt đến. Long Thọ giới thiệu 
				tư tưởng Bát Nhã và được diễn tả khá rõ ràng trong Luận Đại Trí 
				Độ. Ngài khai triển về tánh Không và dựa theo khuynh hướng Bát 
				Nhã của Đại Trí Văn Thù là Căn Bản Trí trong khi Du Già hành 
				tông của Vô Trước thì chú trọng về Thức mà Bồ Tát Di Lặc tức là 
				biểu tượng. Nhưng tiến trình viên thành Phật đạo thì Bồ Tát  
				phải chuyển tám thức thành bốn trí. 
				Sở dĩ tư tưởng Như Lai tạng được thành lập là 
				vì Đại thừa muốn thuyết minh cái “khả năng tánh” thành Phật tức 
				là cái “bản giác” đã có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh. Đặc 
				biệt tư tưởng A lại da thức được ra đời với chủ đích thuyết minh 
				cái khuynh hướng trở về cảnh “ngộ” mà những kinh Lăng Già và 
				kinh Mật Nghiêm lấy nó làm trung tâm điểm. Mặc dù tư tưởng Như 
				Lai tạng và A lại da thức được ra đời sau Long Thọ, nhưng những 
				tư tưởng đó đã manh nha ngay từ trong những tư tưởng của Thượng 
				tọa bộ và Đại Chúng bộ. Tư tưởng Như Lai tạng phát xuất từ 
				thuyết “Tâm tính bản tịnh” của Đại chúng bộ và A lại da thức có 
				rất nhiều điểm tương quan với thuyết “Sinh cơ - Sinh mệnh” của 
				Thượng tọa bộ. 
				Sau thời đại của Long Thọ, trong những kinh 
				Giải Thâm Mật, kinh A-Tỳ-Đạt-Ma Đại thừa có khuynh hướng giới 
				thiệu tư tưởng Như Lai Tạng và A lại da thức, nhưng trên thực tế 
				về ý nghĩa các kinh đó vẫn chưa đạt chỗ triệt để. Mãi đến khi sự 
				xuất hiện và thông giải của Vô Trước và Thế Thân thì ý nghĩa của 
				nó mới được thấu hiểu tột cùng. 
				Dựa theo triết lý Trung Quán, Long Thọ đã 
				giới thiệu lý tưởng “PHÁP THÂN” và sau đó Vô 
				Trước của phái Du Già đề ra khái niệm về “BÁO THÂN”. 
				Long Thọ phủ nhận quan niệm của Phật giáo Nguyên thủy về đức 
				Phật lịch sử cho rằng đức Phật cũng bắt đầu bằng thân phận bình 
				thường của một con người, cũng chia sẻ tất cả mọi hệ lụy của 
				kiếp người. Ngài cũng phải đương đầu với sanh, lão, bệnh, tử như 
				tất cả mọi chúng sinh khác. Sau cùng, Ngài tìm kiếm một con 
				đường giải thoát và đạt đến hạnh phúc Niết bàn, chứng đắc trí 
				tuệ viên mãn và thoát ly sinh tử luân hồi. Ngài chỉ rõ cứu cánh 
				này cho mọi người biết và những ai đi theo con đường này cũng sẽ 
				đạt đến cứu cánh tối thượng giống như Ngài. Chân lý mà đức Phật 
				chứng nghiệm dưới cội Bồ Đề là Tứ Đế. Ngài dạy chúng sinh đời là 
				biển khổ, nhưng không vì thế mà sống trong tiêu cực yếm thế. Đức 
				Phật dạy chúng sinh diệt khổ để có an lạc trong cái thế giới có 
				sinh có diệt này chớ Ngài không dạy chúng sinh trốn khổ vào 
				những cõi cực lạc mà không lo tiêu trừ lậu hoặc. Dựa theo Phật 
				giáo Nguyên thủy thì đức Phật là vị A la hán đầu tiên của tất cả 
				các vị A la hán bởi vì sau khi thuyết giảng Chân lý Tứ Đế cho 
				năm anh em ngài Kiều Trần Như thì Ngài tự xưng là Như Lai. Vì 
				thế Như Lai có nghĩa là “Người đã trở thành như thế” tức là 
				người đã tỉnh thức và giác ngộ. 
				Nhưng ở đây, Long Thọ cho rằng đức Phật lịch 
				sử chỉ là ứng thân của Phật vào trong thế giới 
				Ta Bà để cứu độ chúng sinh. Vì vậy dựa theo Long Thọ, đức Phật 
				không phải là một nhân vật lịch sử, mà đức Phật chân chính là 
				một thực thể siêu việt, vượt hiện thế, vĩnh hằng và vô hạn tức 
				là “Pháp thân”. Cho nên đức Phật lịch sử chỉ là 
				nhân vật được “đức Phật chân chính” gởi đến với 
				thế gian để tạo thành một nhân vật có hình thể là một con người, 
				có một đời sống sinh hoạt giống hệt như một con người thường tục 
				để thuyết giảng Chánh Pháp cho nhân thế. Do đó đức Phật đã thành 
				Phật từ vô lượng kiếp trước chớ không phải mới thành Phật tại 
				thế giới này nhờ công phu tu thiền định. Đây chính là ý nghĩa 
				của “Như Lai” dựa theo tinh thần Phật giáo Đại thừa. 
				Dựa theo Phật giáo Nguyên thủy thì không thể 
				có 2 đức Phật cùng xuất hiện nên chủ trương thuyết “Nhất Phật”, 
				đó là chỉ có duy nhất Phật Thích Ca trong thế giới này mà không 
				hề có Phật A Di Đà, Phật Dược Sư hay bất cứ vị Phật nào khác. 
				Nhưng Phật giáo Đại thừa thì cho rằng có nhiều vị Phật xuất hiện 
				cùng lúc, phía Tây có Phật A Di Đà, phía Đông có Phật A Súc và 
				vô số Phật tồn tại mà kinh điển gọi là “Thập phương hằng sa chư 
				Phật”. Từ đó Phật giáo Đại thừa giới thiệu thuyết “Tam thân” là 
				Pháp thân, Báo thân và Ứng thân cho mỗi vị Phật. 
				Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có ba thân là Pháp 
				thân, Báo thân và Ứng thân. 
				1) Pháp thân 
				(Dharmakaya) là pháp giới thanh tịnh 
				của các Đức Như Lai lan tỏa trong khắp không gian làm sở y bình 
				đẳng cho Báo thân và Ứng thân. Pháp thân thì luôn thường trụ, 
				bất sinh bất diệt cũng được gọi là Pháp giới tánh, Như Lai 
				Tạng…Phật lấy Pháp Tánh Chân Như làm thân nên gọi là Pháp thân. 
				Pháp thân là chỗ sở y chứa tất cả công đức trong Pháp giới. Vì 
				Pháp thân là thường trụ nên Pháp thân ở khắp mọi nơi. Cho dù 
				Phật nhập thế cứu độ chúng sinh thì Pháp thân cũng không tăng 
				hay Phật có xuất thế thì nó cũng không giảm, lúc nào cũng vậy mà 
				thôi. Cái Pháp thân nầy Phật và chúng sinh đều có như nhau, 
				nhưng ở Phật thì nó sáng suốt chiếu soi rực rỡ còn ở chúng sinh 
				thì nó bị vô minh che mờ nên không hiển lộ. Pháp thân chính là 
				cái mà con người sẽ trở về sau khi diệt hết vô minh phiền não để 
				phát huy trí tuệ sẳn có của mình. Vậy Pháp thân chính là cội 
				nguồn, là Bản Thể của tất cả muôn sinh vạn vật. Đây chính là Bản 
				Lai Diện Mục, là Phật tánh, là Như Lai Tạng có sẵn trong mỗi 
				chúng sinh. 
				2) Báo thân 
				(Sambhogakaya) là thân tốt đẹp do công 
				phu tu hành trãi qua bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp mà có. Vì thế 
				mà Đức Phật có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp rực rỡ là vậy. Báo thân 
				còn được gọi là tự thọ dụng thân. 
				Nếu chúng sinh đoạn trừ mọi vô minh phiền não 
				thì tâm được hoàn toàn thanh tịnh. Cái thanh tịnh an lạc tự tại 
				nầy chỉ có người đó biết và hưởng được còn người khác không hề 
				cảm nhận hay san sẻ được thì cái quả thanh tịnh an nhàn nầy là 
				tự thọ dụng thân. Cũng như uống một tách trà thơm ngon thì chỉ 
				người uống trà mới biết được hương vị thơm ngon như thế nào mà 
				thôi. Do đó nếu chúng ta bớt được một phần vô minh phiền não thì 
				có được một phần thanh tịnh tức là có được một phần tự thọ dụng 
				thân. 
				Còn Báo thân của chúng sinh thì gọi là 
				Karmakaya tức là thân nầy là do quả nghiệp của tiền kiếp 
				tạo thành. Muốn có thân thể khỏe mạnh sống lâu thì đừng bao giờ 
				sát sinh. Muốn có giọng nói thanh tao trong trẻo thì đừng nên 
				vọng ngữ. Muốn thân hình được đoan trang, đẹp đẻ thì đừng nghĩ 
				tới tà dâm. Muốn gia đình được ấm no hạnh phúc thì đừng trộm 
				cướp gian tham. 
				3) Ứng thân hay biến hóa thân 
				(Nirmanakaya) Chư Phật do trí 
				thành sở tác mà biến hóa ra thành vô lượng thân, ứng theo căn cơ 
				của chúng sinh mà hóa độ. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là ứng thân 
				của Phật trong cõi Ta bà nầy. Vì Ứng thân là thân thị hiện nên 
				phải ảnh hưởng bởi luật vô thường là sinh lão bệnh tử. Ứng thân 
				cũng được gọi là tha thọ dụng thân. 
				Đối với Phật giáo Đại thừa thì báo thân hay 
				tự thọ dụng thân có giá trị tuyệt đối vì chỉ có người được thức 
				tỉnh giác ngộ mới hưởng được cái hương vị thanh tịnh an vui tự 
				tại của giải thoát giác ngộ mà không một người nào khác có thể 
				biết được. Khi chư Phật hay Bồ-tát thị hiện để hoằng dương đạo 
				pháp thì chúng sinh có cơ hội học hỏi, tu sửa và sống theo Chân 
				lý để tự mình giải thoát giác ngộ thì ứng thân để cứu độ chúng 
				sinh ra khỏi bể khổ sông mê gọi là tha thọ dụng thân. 
				Tóm lại ba thân của Đức Phật là: Pháp thân là 
				Thể, Báo thân là Tướng và Ứng thân là Dụng. Tuy nói ba mà là 
				một, tuy một mà ba tức là một là tất cả và tất cả là một. 
				Ngài Thiền sư Xuyên Lão cũng có bài kệ rằng: 
				v 
				Ứng Phật, Hóa Phật đều 
				không thật 
				v 
				Bóng hình muôn thứ thảy là 
				quyền 
				v 
				Cái gì có tướng đều hư vọng 
				v 
				Chân Phật không hình vốn tự 
				nhiên. 
				Trong kinh Kim Cang có câu “Như Lai 
				giả vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai” 
				nghĩa là Như Lai đi không chỗ từ, đến không chỗ tới thì mới thật 
				là Như Lai. Thế thì Như Lai là bản thể chân như của hiện tượng 
				vạn pháp cho nên Phật Đa Bảo là biểu tượng cho Pháp thân thường 
				trụ của Như Lai. Do đó Như là bất biến và Lai là hiện tượng tùy 
				duyên của vạn pháp. Vì thế Như Lai hiện hữu từ vô thỉ đến vô 
				chung, không có điểm bắt đầu và dĩ nhiên không có ngày cùng tận. 
				Từ cái bản thể vô thỉ vô chung lúc nào cũng tồn tại và hiện hữu 
				(Như) để duyên khởi sanh ra vạn pháp (Lai). Đó là bất biến (Như) 
				rồi tùy duyên (Lai). Kinh Kim Cang lại dạy thêm rằng: 
				v 
				Nhược dĩ sắc kiến ngã 
				v 
				Dĩ âm thanh cầu ngã 
				v 
				Thị nhơn hành tà đạo 
				v 
				Bất năng kiến Như Lai. 
				Dịch là: 
				o  
				Nếu thấy Ta bằng sắc tướng 
				o  
				Nghe Ta bằng âm thanh 
				o  
				Người nầy đi đường tà 
				o  
				Không thấy được Như Lai. 
				Một lần nữa chính đức Phật dạy chúng sinh 
				phải phá trừ Vô minh vọng chấp để đạt được trí tuệ Bát Nhã thì 
				mới thật thấy và thật nghe được Phật. Trái lại, nếu còn vô minh 
				vọng chấp có nghĩa là chấp có sắc tướng hay âm thanh của Phật 
				thì không bao giờ thấy được Phật. Bởi thế nên Phật mới quở là 
				“Người nầy đi đường tà” tức là vọng thì sẽ không bao giờ thấy 
				được Như Lai. Như thế nếu từ cửa Bát Nhã là cửa “Không” chúng ta 
				bước vào trong nhà thì bây giờ mới thấy được tâm Phật của mình. 
				Nếu sống với tâm Phật nầy là mở rộng cánh cửa giải thoát để 
				chứng ngộ Niết bàn. Đây là một thứ Niết 
				bàn tự tánh thường vắng lặng mà thường sáng suốt. Nó vẫn thường 
				bộc lộ sáng suốt nơi chư Phật mà vẫn thường sẵn có nơi mọi loài 
				chúng sinh. Mà kinh gọi là Phật tánh, là Chơn tâm, là Như Lai 
				tạng. Chính tự tánh Niết bàn nầy có đầy đủ bốn đức là Thường, 
				Lạc, Ngã, Tịnh. “Thường” nghĩa là không bị chi 
				phối bởi tánh vô thường, khi nào cũng như khi nào, không lên 
				bổng xuống trầm, không còn già trẻ, sống chết đổi thay.“Lạc” 
				là không còn khổ não lo buồn, an vui tự tại. “Ngã” 
				là được hoàn toàn tự chủ và không bị nội tâm hay ngoại cảnh chi 
				phối. “Tịnh” là không còn ô nhiễm, luôn luôn 
				thanh tịnh, trong sáng. 
				Vì vậy đức Phật Thích Ca là Ứng thân của Như 
				Lai nên có tuổi thọ là 80 tuổi trong khi Pháp thân của Như Lai 
				có tuổi thọ vô lượng từ vô thỉ đến vô chung. Nếu đứng về mặt 
				hiện tượng thì Như Lai cũng đi, đứng, nằm, ngồi, khất thực, ăn 
				uống, tham thiền, tư duy như tất cả những vị Tỳ kheo khác, nhưng 
				bên trong Như Lai có một trí tuệ Vô thượng, có Niết bàn Vô 
				thượng mà người khác không thể nào nhìn thấy. Chỉ duy nhất Như 
				Lai biết được cái trí tuệ Bồ Đề nó sâu rộng đến đâu và chỉ có 
				Như Lai mới hưởng được Vô thượng Niết bàn mà người khác không hề 
				biết Như Lai thọ hưởng sự an lạc đó như thế nào. Đó chính là Báo 
				thân của Như Lai. Còn nếu đứng về mặt bản thể thì Như Lai thường 
				trụ vĩnh hằng về mặt thời gian. Từ đó có vô lượng phân thân tức 
				là Hóa thân Phật Thích Ca khắp hàng hà sa cõi nước mười phương 
				là biểu tượng về Pháp thân của Như Lai về mặc không gian vậy. 
				Bấy giờ đức Phật Thích Ca bảo các Bồ-tát 
				và đại chúng: 
				-Các ngươi hãy tin lời chân thật của 
				Như Lai ! Nói xong, Phật lập lại hai lần câu nói đó. 
				Tại sao Phật bảo tới ba lần là hãy tin lời 
				chân thật của Như Lai? Bởi vì tuy đức Phật nói chân lý, nhưng 
				cái chân lý này vượt ra ngoài tầm hiểu biết của con người cho 
				nên đức Phật phải lập đi lập lại đến ba lần để mọi người chú ý 
				lắng nghe. 
				Đứng đầu các Bồ-tát đã ba phen cầu thỉnh, 
				đức Phật nói: 
				-Hãy nghe đúng như sự thật, sức mạnh 
				thần thông bí mật của Như Lai. Tất cả thế gian, trời, người cùng 
				A-tu-la đều nói rằng Phật Thích Ca, rời cung họ Thích, đến thành 
				Già-da cách đó không xa, ngồi nơi đạo tràng, chứng quả Vô Thượng 
				Chánh Đẳng Chánh Giác. Nhưng nầy các thiện nam tử, ta từ thành 
				Phật đến nay, vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp 
				đã trôi qua. Giả sử có người đem năm trăm ngàn muôn ức na-do-tha 
				a-tăng-kỳ tam-thiên đại-thiên thế-giới, tán nhỏ thành bụi, rồi 
				đem hạt bụi ấy đặt nơi hướng Đông, sau khi vượt qua năm trăm 
				ngàn vạn ức na-do-tha a-tăng-kỳ nước. Đặt xong, trở lại lấy một 
				hạt khác và cũng đem đặt ở hướng Đông y như trước, cho đến khi 
				nào số bụi nói trên bị dời đi hết. Này các thiện nam tử, ý các 
				ngươi thế nào? Có thể tưởng tượng, đếm, tính số thế giới trên đó 
				các hạt bụi được đặt lên không? 
				Dựa theo Phật giáo Nguyên thủy thì Thái tử 
				Tất Đạt Đa rời cung vua Tịnh Phạn xuất gia tu hành và thành Phật 
				dưới cội Bồ Đề. Bây giờ Phật giáo Đại thừa lý luận rằng trong 
				tất cả mọi chúng sinh đều có sẵn Tri Kiến Phật tức là Căn bản 
				trí hay Vô sư trí cho nên khi họ phá sạch vô minh phiền não thì 
				Căn bản trí hiển hiện tức là thành Phật. Vì thế nếu dụa trên sự 
				tướng thì Thái tử Tất Đạt Đa nhờ công phu thiền định mà thành 
				đạo dưới cội Bồ Đề, nhưng dựa trên bản thể chân như thì đức Phật 
				cũng như tất cả mọi chúng sinh đều đã thành Phật. Thông thường 
				khi nghe nói chúng sinh “sẽ thành Phật” thì mọi 
				người chấp nhận và cố gắng tu hành để thành Phật, nhưng nếu nói 
				chúng sinh “đã thành Phật” thì chẳng ai dám 
				tin. Lý do rất đơn giản và thực tế là vì ai cũng nghĩ rằng mình 
				là bạc địa phàm phu, tham sân si dẫy đầy mà nói đã thành Phật 
				thì làm sao tin được. Thật vậy, Căn bản trí hay Tri Kiến Phật 
				thì lúc nào cũng có sẵn trong mỗi chúng sinh ví cũng như ánh 
				sáng mặt trời lúc nào cũng chiếu sáng. Nhưng con người không 
				thấy ánh sáng mặt trời là vì bị màn mây đen che lấp chớ ánh sáng 
				mặt trời đâu có mất. Cũng như tuy chúng sinh còn tập khí ngã 
				mạn, còn tham sân si ví như màn mây đen, nhưng trong tâm họ lúc 
				nào cũng có Phật tánh ví như ánh sáng mặt trời lúc nào cũng 
				chiếu sáng. Do vậy khi lau sạch bụi vô minh, đánh tan giặc phiền 
				não thì chân tánh hiển lộ, Phật tánh hiển bày tức là thành Phật 
				cũng ví như mây đen tan thì ánh sáng mặt trời chiếu rọi thế 
				thôi. Nếu không có ánh sáng mặt trời thì dù cho mây đen tan biến 
				thì bầu trời vẫn tối đen chớ đâu có sáng. Thế thì Như Lai trụ 
				trong thế giới Ta Bà này giáo hóa chúng sinh từ vô lượng hằng sa 
				kiếp và không có lúc nào Như Lai vắng bóng. Vì thế Phật ở đâu và 
				ở bất cứ lúc nào cũng có trùm khắp trong không gian và thời 
				gian. Khi mê con người sống với vô minh phiền não đến khi thức 
				tỉnh mới biết rằng mình có Phật tánh chớ Phật tánh lúc nào cũng 
				có, đâu có mất. 
				Con người thường có bệnh chấp nên nói rằng tu 
				hành để diệt vô minh, phá trừ pháp chấp. Nhưng thực ra mê giác 
				là một, không ngoài tham-sân-si thì không có giới-định-tuệ, 
				không có Phật tánh nào khác. 
				Khi nói mê là mê đối với ngộ, cũng như ngộ là 
				ngộ nơi mê. Nói cách khác do bỏ quên cái ngộ thì mê, nhưng bây 
				giờ rõ mê thì được ngộ. Nhưng mê ngộ không có thật thể cho nên 
				người có chánh kiến biết rõ tâm là rỗng không tức là vượt khỏi 
				mê ngộ. Bình thường, chúng sinh còn thấy có niệm mê, niệm ngộ 
				nghĩa là mình chưa khỏi mê. Cho dù chính mình thấy ngộ được cái 
				mê, nhưng vẫn còn thấy có cái mê để ngộ thì cũng chưa hết mê tức 
				là bởi chưa hết mê nên mới còn thấy cái mê để cho mình ngộ vì 
				thế khi nào còn ý niệm mê ngộ là chưa sạch cái mê. Cũng như hễ 
				có sáng thì không có tối, còn có tối thì không có sáng chớ không 
				phải dùng cái sáng mà soi cái tối được. Thí dụ nếu nói tu hành 
				để có Bồ-đề, Niết bàn nghĩa là còn thấy cái mê để ngộ thì vẫn 
				còn mê vì thật ra Bồ-đề, Niết bàn là tự tánh sẵn có, đâu cần 
				phải tu mới có vì thế người biết đạo thì chỉ cần sống thật với 
				tự tánh thì không tìm ngộ mà cũng chẳng cần bỏ mê thì niệm mê 
				ngộ tan biến, thanh tâm mới hiện bày.  
				Vì thế nếu chúng sinh đem tâm cầu pháp ấy là 
				mê, còn chẳng đem tâm cầu pháp là ngộ. Chúng sinh chẳng kẹt vào 
				văn tự gọi là giải thoát vì Phật tánh là bản thể chân như thì 
				làm sao nói được. Chúng sinh chẳng khởi vọng tưởng thì có Niết 
				bàn vì phiền não và Niết bàn là một, bất tức bất ly. Khi mê thì 
				còn thấy có bờ bên này là khổ đau, bờ bên kia là giải thoát đến 
				khi ngộ thì hai bờ biến mất vì tâm chẳng trụ bên này bên kia. 
				Cũng như khi mê thì thấy có thế gian cần thoát ra để về cõi cực 
				lạc, khi ngộ thì thế gian là cực lạc. 
				Khi không vọng tưởng một tâm là một cõi Phật. 
				Ngược lại khi có vọng tưởng thì một tâm là một địa ngục. Chúng 
				sinh vì xây dựng vọng tưởng tức là đem tâm sanh tâm nên lúc nào 
				cũng ở trong địa ngục. Bây giờ thức tỉnh, sống trong tỉnh thức 
				chánh niệm tức là không đem tâm sanh tâm thì tâm quay về Không, 
				niệm niệm trở về tịnh nên vào cõi Phật. Nếu một thoáng tâm dấy 
				lên, có thiện có ác nên có thiên đường có địa ngục. Bây giờ tâm 
				không khởi niệm, không thiện không ác thì  thiên đường và 
				địa ngục biến mất chỉ còn lại cõi Phật thanh tịnh. 
				Tổ Đạt Ma dạy rằng : “Khi mê thì có Phật có 
				Pháp, khi ngộ thì không có Phật Pháp”. Như thế khi ngộ thì Phật 
				Pháp bỏ ở đâu mà không có? Chúng sinh vì còn mê mới thấy có 
				Phật, có Pháp ở ngoài tâm nên mới dong ruỗi mong cầu đến khi 
				thức tỉnh giác ngộ thì mới biết rằng tâm mình là Phật, tâm mình 
				là Pháp nên nói không có Phật Pháp là vậy. 
				Bồ-tát Di Lặc và tất cả đều bạch: 
				 
				-Thế Tôn các thế giới ấy vô lượng vô 
				biên, làm sao đếm tính cho được, cũng không thể dùng sức tâm mà 
				tưởng tượng được. Tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác đến bậc “ vô 
				lậu” A-la-hán còn không thể suy tưởng được con số thế giới ấy, 
				huống chi chúng con mới là “ a-bệ-bạt-trí” thì làm sao biết 
				được. 
				Bồ Tát Di Lặc tu theo Duy thức và hàng Thanh 
				Văn, Duyên giác còn vào chấp sự tướng nên thấy có thời gian lâu 
				mau, nhanh chậm. Ở đây Pháp thân Phật thuộc về thế giới bản thể 
				chân như mà trong đó không còn khái niệm về thời gian và không 
				gian cho nên Bồ Tát Di Lặc cùng các vị A la hán  muốn hiểu 
				được thế giới Chơn không diệu tánh thì các ngài phải chuyển tám 
				thức thành bốn trí. 
				Như Lai còn gọi là Như Lai Tạng (Tathagata 
				garbha) hay là Như Lai chủng tánh tức là pháp tánh, là chơn như, 
				là Phật tánh…Tạng là cái kho để chứa tất cả những chủng tử (hạt 
				giống) của vạn pháp và từ những chủng tử này mới sinh khởi ra 
				bốn khoa (ngũ uẩn, lục nhập, mười hai xứ và mười tám giới) và 
				cũng là cái bọc chứa để giấu kín, che phủ phiền não mê lầm và 
				cũng giấu kín, che phủ Phật tánh là cái mầm giác ngộ vốn có sẵn 
				trong tất cả mọi chúng sinh. Tạng cũng là chất chứa cho nên Như 
				Lai Tạng là chất chứa mọi công đức quyền năng của Như Lai, là 
				tất cả pháp do Phật giảng giải kết hợp lại thành Như Lai Tạng. 
				Vì thế mà Như Lai Tạng cũng là thức thứ tám tức là A lại da 
				thức. 
				Đứng về mặt ô nhiễm, Như Lai Tạng là tượng 
				trưng cho thế giới luân hồi sinh diệt. Còn dựa theo phía thanh 
				tịnh, Như Lai Tạng là biểu hiện cho Niết bàn giải thoát. Trong 
				Khởi Tín Luận, Như Lai Tạng được gọi là “pháp giới đại tổng 
				tướng” nghĩa là nhiếp thâu các pháp của toàn bộ pháp giới gồm có 
				nhiễm và tịnh. Tịnh là chơn như, nhiễm là vô minh, nhưng chân 
				như và vô minh kết thành một khối bất khả phân ly trong tâm của 
				chúng sinh. Do đó, nếu chúng sinh biết tháo gỡ tất cả những sở 
				tri chướng và phiền não chướng thì sẽ có Niết bàn an lạc, ngược 
				lại nếu chúng sinh chạy theo tham đắm dục tình thì dĩ nhiên phải 
				chịu sinh tử trầm luân. Thêm nữa, đứng về mặt tuyệt đối, Như Lai 
				Tạng là chơn như, là cái tâm bất sinh bất diệt, tâm ấy là tâm 
				nhất thể và nhiếp thâu tất cả pháp thế gian cũng như xuất thế 
				gian. Còn về mặt tương đối, Như Lai Tạng gồm có: Tự thể là tương 
				đồng với bản thể: Tự tướng là cái tướng của tự thể và Tự dụng là 
				công năng sinh ra nhân quả lành thế gian và xuất thế gian. 
				Khi nói tâm động thì đây chúng ta muốn nói 
				đến tướng động tức là Như Lai Tạng động, nhưng tự thể của tâm 
				thì không động. Thí dụ, vì có gió (phiền não, vô minh) làm cho 
				nước biển (tánh giác) nổi sóng (tâm thức). Thế thì sóng và gió 
				đều động và không rời nhau, nhưng tánh nước không động khi gió 
				hết sóng lặn. Do đó nếu tướng của nước động nên mới có sóng lớn 
				sóng nhỏ nhấp nhô, còn tướng của tâm tức là Như Lai Tạng thì 
				cũng thế. Nếu tướng của tâm động thì sóng thức dấy khởi, đợt này 
				tan đợt khác đến liên tiếp mãi không ngừng nên có tâm sinh diệt 
				(tàng thức). Chính cái tàng thức (A lại da) thức này sinh ra 
				sinh diệt tâm và cũng từ A lại da thức này hiển lộ Chân như tâm 
				(Như Lai Tạng). 
				Tất cả hiện tượng vạn pháp đều phát nguyên từ 
				bản thể chơn như mầu nhiệm, nhưng con người phải lìa văn tự, ly 
				ngữ ngôn, hồi quang phản chiếu để thấy được bản tâm thanh tịnh 
				thì Bồ-đề, Niết bàn mới hiển lộ. Tuy nhiên, người đệ tử Phật khi 
				tu hành để muốn được chứng đắc nên dùng tâm muốn lấy, muốn kiến, 
				muốn đắc thì họ lại lọt vào vọng rồi. Thí dụ, tham thiền để muốn 
				được kiến tánh tức là kiến tánh thành Phật hay niệm Phật để muốn 
				được nhất tâm thì tâm này là vọng tâm. Tại sao? Bởi vì Phật của 
				mình đã thành sẵn rồi chớ không phải khi kiến tánh mới đắc được, 
				do vậy mà chư Tổ đã dạy rằng :  "Vô sở 
				cầu, vô sở đắc, vô sở sợ” là vậy. Nếu còn hy vọng chứng đắc là 
				vọng. Người đệ tử Phật phải tin rằng mình đã sẵn có diệu tâm 
				sáng tỏ, không phải do tu mới thành, do chứng mới đắc. Tất cả 
				kinh điển của Phật chỉ là phương tiện dùng để phá tư tưởng chấp 
				thật của mình. Vì thế, khi thức tỉnh thì mới biết mình có tất 
				cả. Tự tánh Bồ-đề, tự tánh Niết bàn thì lúc nào cũng sẵn có 
				trong tất cả mọi chúng sinh cũng như mây tan thì trời sáng hay 
				đào ao có nước thì ánh trăng sẽ hiện mà không cần phải trông chờ 
				mong đợi gì hết.  
				Đức Phật nói: 
				-Này các thiện nam tử, ta sẽ nói rạch 
				ròi cho các ngươi nghe. Cứ kể mỗi hạt bụi là một kiếp, thì từ ta 
				thành Phật đến nay, số kiếp trôi qua còn nhiều hơn số trăm ngàn 
				muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ hạt bụi ấy. Từ ấy tới nay, ta luôn ở 
				tại thế giới Ta-bà thuyết pháp, giáo hóa, lại cũng ở nơi khác 
				tại trăm ngàn muôn ức na-do-tha nước, dắt dẫn chúng sanh một 
				cách ích lợi. Này thiện nam tử, trong khoảng thời gian đó, ta có 
				nói Phật Nhiên Đăng… và cũng nói có chư Phật nhập Niết Bàn, 
				nhưng tất cả đều là phương tiện mà phân biệt nói có thành Phật, 
				có nhập Niết Bàn. Này các thiện nam tử, nếu có chúng sanh nào 
				đến chỗ ta ở, ta lấy Phật nhãn xem coi các căn của chúng sanh ấy 
				nhụt bén thế nào, rồi theo đó mà độ.  Mỗi nơi, ta tự 
				xưng với những danh hiệu bất đồng và cho biết tuổi tác lớn nhỏ 
				cũng khác, lại nói sẽ nhập Niết Bàn và còn dùng nhiều phương 
				tiện khác để nói bày pháp vi diệu, hầu làm cho chúng sanh phát 
				tâm hoan hỷ. Này các thiện nam tử, vì thấy chúng sanh thích nơi 
				“ tiểu pháp”, đức mỏng, phiền não dày cho nên Như Lai phải vì 
				hạng ấy mà nói rằng ta lúc trẻ xuất gia, rồi đặng Vô Thượng 
				Chánh Đẳng Chánh Giác. Thật ra từ ta thành Phật đến nay, lâu hơn 
				thời gian ấy nhiều. Đây chẳng qua là phương tiện mà nói như vậy 
				thôi, để giáo hoá chúng sanh và khiến họ nhập Phật đạo.  
				Trong phẩm Hiện Bảo Tháp diễn tả rõ ràng đức 
				Phật Thích Ca có muôn triệu hóa thân đang thuyết pháp, đang 
				hoằng dương Phật pháp trong mười phương thế giới nghĩa là đức 
				Phật đã và đang có mặt ở khắp không gian vô biên vô tận. Vì thế 
				đến phẩm này, chúng ta thấy đức Phật không những chỉ có mặt 
				giảng pháp trong thời gian trên 40 năm tại xứ Ấn Độ, mà thật ra 
				Ngài đã có mặt trong vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp. Tuy tựa 
				của phẩm là Như Lai thọ lượng là nói về tuổi thọ của Phật tức là 
				đứng về mặt thời gian, nhưng trên thực tế nội dung của nó diển 
				bày rất rõ ràng đức Phật hiện diện ở trong thời gian vô tận và 
				trong không gian vô cùng. Khi Phật thuyết thì Ngài nói về thế 
				giới hiện tượng nên mới có Phật Nhiên Đăng ở chặng giữa và có 
				chư Phật nhập Niết bàn. Đó là Ngài dựa trên hình tướng của thân 
				tứ đại nên mới nói có gần có xa khác nhau. Phật dùng phương tiện 
				để dẫn dắt những người căn cơ thấp nên mới nói rằng Ngài lúc trẻ 
				xuất gia, ngồi thiền định suốt 49 ngày đêm dưới cội Bồ Đề rồi 
				thành Phật. Phật nói pháp phương tiện, chúng sinh lại tin là 
				pháp cứu cánh. Phật dạy pháp bất liễu nghĩa, chúng sinh lại chấp 
				cho là pháp tối thượng thừa. 
				Ngày xưa tông Thiên Thai có ngài Trí Giả Đại 
				sư chuyên trì kinh Pháp Hoa. Ngài tụng liên tiếp trong 21 ngày 
				đến khi tụng đến phẩm Dược Vương Bồ Tát thì ngài nhập Pháp Hoa 
				tam muội. Trong định ngài thấy Phật đang thuyết pháp cho hội 
				chúng ở hội Linh Sơn trên núi Linh Thứu. Nhập Pháp Hoa tam muội 
				nghĩa là mình đang thức tỉnh có chánh niệm để biết rằng mình có 
				Phật tánh và mình sẽ thành Phật. Vì thế khi hành giả không nhất 
				thiết ngồi thiền, mà họ sống trong mọi sinh hoạt của đời sống 
				hằng ngày mà tâm mình phát sáng và biết rõ ràng mình đang sống 
				với Tri Kiến Phật, với Phật tánh nhiệm mầu trong ta thì lúc đó 
				mình đang nhập vào Pháp Hoa tam muội. 
				Trong cuộc sống hằng ngày nếu mình biết thấu 
				suốt được tánh vô thường của vạn pháp thì mình đang có Vô thường 
				tam muội soi sáng. Nhìn vạn pháp biết rõ ràng các pháp không có 
				tự thể nghĩa là các pháp tuy có mà tự tánh là Không thì lúc ấy 
				tuệ giác về Vô ngã tam muội đang phát chiếu rực rỡ trong tâm của 
				ta rồi. 
				Vì vậy người vào trong đại định, sống với tuệ 
				giác hằng sáng của mình thì thấy Phật là Phật tánh vĩnh hằng bất 
				sanh bất diệt. Ngược lại phàm nhân tuy có qua tận Ấn Độ thì chỉ 
				thấy được Phật tướng sinh diệt, đản sinh và nhập diệt ở Ấn Độ 
				cách nay trên 2500 năm về trước mà thôi. 
				Phật dạy tiếp: 
				-Này các thiện nam tử, kinh  
				điển của Như Lai nói ra đều nhằm chổ độ thoát chúng sanh. Khi 
				thì nói về thân mình, khi thì nói về thân người khác, hoặc chỉ 
				thân mình, hoặc chỉ thân người khác, hoặc chỉ việc mình, hoặc 
				chỉ việc người khác, nhưng dầu trong trường hợp nào, tất cả lời 
				của Như Lai đều chân thực, chẳng dối. Tại sao vậy? Vì đúng như 
				thật, Như Lai thấy tướng của ba cõi không có sanh tử, không lui 
				không xuất, không ở đời mà cũng không diệt độ, chẳng phải thật, 
				chẳng phải hư, chẳng phải như, chẳng phải khác, chẳng phải ba 
				cõi mà thấy có ba cõi. Các việc như thế, Như Lai thấy rõ, không 
				bao giờ có sự sai lầm. Nhưng vì chúng sanh  tâm tánh khác 
				nhau, cho nên phải dùng nhân duyên, thí dụ, lời nói khác nhau để 
				thuyết pháp khiến họ sanh căn lành. Những việc Phật làm (Phật 
				sự) chưa từng dừng bỏ. Như vậy, từ ta thành Phật đến nay, thật 
				rất lâu xa, còn thọ mạng thì dài vô lượng a-tăng-kỳ kiếp và luôn 
				luôn thường trú bất diệt. Này các thiện nam tử, những việc làm 
				theo Bồ-tát đạo của ta, đến nay chưa phải là hết, vì vậy, thọ 
				mạng  của ta còn dài gấp mấy lần con số nói trên. Tuy nhiên 
				dầu chưa thực diệt độ, ta vẫn nói là sẽ diệt độ, để làm phương 
				tiện giáo hoá chúng sanh. Tại sao vậy? Vì nếu Phật ở lâu tại thế 
				thì hạng đức mỏng không chịu trồng căn lành, cứ giữ mãi  
				thói bần cùng, hạ-tiện, tham đắm năm món dục lạc (tiền của, sắc 
				đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghĩ). Đã mắc vào lưới  nhớ 
				tưởng vọng kiến mà nếu thấy Như Lai ở đây mãi mãi không diệt độ, 
				thì làm sao không sanh kiêu mạn, phóng tâm, giải đãi, và như vậy 
				thì không tưởng đến và cũng không sanh lòng cung kính Phật như 
				một bậc khó gặp.  
				Ở đây đức Phật muốn chúng sinh có cái nhìn 
				thật rõ ràng về Sự tướng và Bản thể. Nếu nhìn theo Sự tướng thì 
				thế giới bây giờ trở thành sinh diệt bởi vì hữu sinh tất phải 
				hữu diệt. Bất cứ sự vật gì có hình sắc thì phải chịu sự biến 
				hoại của luật vô thường. Nhưng tại sao Như Lai thấy tướng của ba 
				cõi không sinh tử? Chúng sinh nhìn tướng của vạn pháp nghĩa là 
				nhìn hình sắc sinh diệt của nó cho nên hình sắc đó hễ có sinh ắt 
				có diệt. Nhưng Như Lai không nhìn vạn pháp bằng hình tướng sinh 
				diệt biến đổi bên ngoài, mà Ngài nhìn suốt vào thật tướng của nó 
				mà thật tướng là vô tướng, bất sinh bất diệt cho nên Như Lai 
				thấy tướng của ba cõi là không hoại diệt. 
				Phật là vị Pháp Vương nên Ngài tùy theo 
				phương tiện, nhân duyên mà thuyết. Đức Phật dùng “quyền hiển 
				thật” , dùng phương tiện để xiễn dương cứu cánh cho nên Ngài nói 
				đản sanh và nhập diệt. Nhưng Như Lai sống vô lượng vô biên A 
				Tăng kỳ kiếp nghĩa là Như Lai từ trước tới giờ đâu có từng sanh 
				và đâu có từng diệt. Nhưng Như Lai nói “Ta sắp nhập Niết bàn” để 
				nhắc nhở chúng sinh cố gắng tinh tấn tu hành. Còn đối với những 
				chúng sinh có tâm khinh lờn, giải đãi thì Ngài nói “Khó gặp được 
				Phật” để họ khởi tâm tôn quý Phật pháp và cố gắng nương theo 
				kinh điển mà nỗ lực tu hành. Chớ Phật có diệt độ bao giờ!!! 
				-Này các Tỳ-kheo, nên biết chư Phật 
				xuất thế là điều khó gặp. Vì sao? Những người đức mỏng trải qua 
				vô lượng trăm ngàn ức kiếp, có khi gặp Phật mà có khi cũng không 
				gặp. Vì vậy cho nên ta nói Như Lai khó thấy. Nghe lời nói này, 
				chúng sanh tất nghĩ đến lẽ ngàn năm một thuở mà sanh lòng luyến 
				mộ khao khát mà trồng căn lành. Bởi đó, tuy không thật diệt độ,  
				mà vẫn nói là diệt độ. Lại nữa, này thiện nam tử, Pháp của chư 
				Phật Như Lai cũng vậy, đều chân thực, không hư dối và chỉ có một 
				mục đích là đưa dắt chúng sanh. Thí dụ có một ông thầy thuốc 
				giỏi, trí tuệ sáng suốt, phương dược khéo luyện, bệnh nào cũng 
				trị hết, nhà con cái rất đông. Gặp lúc ông có việc phải đi ra 
				nước ngoài, các con ở nhà uống phải thuốc độc, cơn điên nổi lên, 
				té nằm xuống đất. Ngay lúc đó, ông cha về đến nhà. Các con của 
				ông, có đứa mất tâm, có đứa còn tâm. Nhưng khi thấy cha về, tất 
				cả đều vui mừng, quỳ lạy chào hỏi và thưa : “rằng vì ngu si nên 
				uống phải độc dược , xin cha cứu tử”. Cha thấy con khổ não như 
				vậy, bèn theo các phương đã kinh nghiệm mà chế thuốc, màu sắc 
				hương vị đều tốt đẹp và bảo các con uống: “Đây là lương dược, 
				mùi ngon sắc đẹp, các con hãy uống đi  thì sẽ mau trừ khổ 
				não và bao nhiêu khổ hoạn sẽ không tái phục”. Những đứa không 
				mất tâm nghe xong liền uống và được hết bệnh. Còn những đứa mất 
				tâm, tuy thấy cha cũng vui mừng, cầu xin chữa bệnh, nhưng thuốc 
				thì không chịu uống. Vì sao? Vì bị độc thấm sâu, 
				đã mất tâm trí rồi, cho nên thuốc ngon sắc đẹp lại cho là không 
				ngon không đẹp. Ông cha thấy vậy mới suy nghĩ: Những đứa con này 
				mới đáng thương, thấy cha vui mừng cầu cứu, nhưng khi cho thuốc 
				lại không chịu uống. Ấy cũng vì bị chất độc cho nên tâm trí đều 
				điên đảo. Vậy phải dùng chước mới được. Nghĩ xong ông mới nói 
				rằng: “ Cha nay già yếu, sắp chết nay mai, có mấy món thuốc hay 
				để lại, các con nên giữ mà dùng, khỏi sợ lầm thuốc dở. Nói rồi 
				ông bỏ nhà ra đi  qua nước khác và cho người về báo tin ông 
				đã chết. Hay tin dữ, các con mất tâm của ông mới nghĩ, cha lành 
				đã chết thì nay còn ai đâu mà cứu hộ cho mình! Vì thường nhớ 
				thương như thế, tâm bèn tỉnh ngộ, biết thuốc của cha để lại là 
				hay, liền lấy ra dùng, bao nhiêu độc bệnh đều lành hết. Nghe tin 
				này, ông cha trở về xứ cho con cái thấy mặt. 
				 
				-Này thiện nam tử, các ngươi nghĩ thế 
				nào? Nói dối như ông lương y kia, có phải là một tội không?
				 
				“ Bạch Thế Tôn, không” 
				Để làm sáng tỏ vấn đề, bây giờ Phật bèn đưa 
				ra một thí dụ. Có một ông lương y rất giỏi, bệnh gì cũng chửa 
				khỏi. Vì có việc đi xa, ở nhà những đưa con của ông uống nhầm 
				độc dược nên phát bệnh điên. Thấy ông trở về, các con bèn cầu 
				xin cha chế thuốc cho chúng uống để giải độc. Ông tùy theo căn 
				bệnh mà chế ra thuốc để cứu các con của ông. Có những đứa bị 
				bệnh nhẹ thì uống thuốc liền khỏi ngay. Còn những đứa con bị 
				nhiễm độc nặng lại từ chối không chịu uống. Vì thương con, ông 
				lương y dùng phương tiện nói dối với chúng rằng ông phải đi xa. 
				Và khi đã đi xa rồi ông liền nhắn tin về nhà cho các con của ông 
				biết là ông đã chết. Nhưng trước khi ra đi, ông đã chế ra thuốc 
				để lại ở nhà và nói các con ông cứ lấy thuốc ra mà uống. Vì nghe 
				tin cha đã chết nên những đứa con không còn ỷ lại nên lấy thuốc 
				ra uống và được lành bệnh.  
				Vị lương y, người cha đó chính là đức Phật. 
				Những đứa con bị nhiễm độc nhẹ ám chỉ cho những bậc thượng trí 
				như các ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na…là những 
				người biết mình bị phiền não vô minh sai sử nên khi được Phật 
				giáo hóa liền tin nhận tu hành mà có được giải thoát Niết bàn tự 
				tại. Còn những chúng sinh hạ căn thì tuy có nghe Phật nói giáo 
				pháp mà không có lòng tin tu tập nên vẫn còn nằm trong vòng sai 
				sử của phiền não vô minh, sống trong ưu bi đau khổ. Đến khi Phật 
				nhập Niết bàn mới quay về nương tựa nơi kinh điển, tinh tấn nỗ 
				lục tu hành để diệt hết vô minh phiền não. Mê biến thì giác hiển 
				bày nghĩa là tâm thanh tịnh thì Phật tánh hiển lộ. 
				Người học Phật đừng nên chấp phương tiện mà 
				hãy nhìn cứu cánh. Chúng sinh vì căn tánh bất đồng nên Phật phải 
				dùng vô số phương tiện, tùy theo căn nghiệp và khả năng thu nhận 
				Phật pháp của họ mà nói pháp. Vì thế có khi Phật nói cao, có khi 
				Phật nói thấp. Có lúc Phật nói quyền (thí dụ), nhưng cũng có lúc 
				Phật nói thật. Con đường lên núi có hàng vạn cách, nhưng chỉ có 
				một đỉnh núi là giải thoát giác ngộ vì thế Phật chỉ đường nào 
				lên núi cũng đúng nếu hành giả thực hành rốt ráo để đạt được cứu 
				cánh tối thượng là thành Phật. 
				Đức Phật nói:  
				Ta cũng thế. Từ 
				thành Phật đến nay, vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức na-do-tha 
				a-tăng-kỳ kiếp, nhưng vì muốn cứu độ chúng sanh, cho nên phương 
				tiên mà nói là sẽ diệt độ. Như vậy đối với sự thật, cũng không 
				thể nói rằng ta đã phạm tội nói sai, nói dối. 
				Sau cùng, đức Phật khẳng định rằng Ngài đã thành Phật từ vô 
				lượng vô biên A tăng kỳ kiếp, nhưng vì muốn cứu độ chúng sinh 
				nên Phật mới phương tiện nói rằng Như Lai sẽ diệt độ để chúng 
				sinh thức tỉnh mà nỗ lực tinh tấn tu hành. Chớ thật ra Như Lai 
				đâu có diệt độ.Trong ba phẩm Hiện bảo tháp, Tùng địa dũng 
				xuất và Như Lai thọ lượng đưa hành giả vào thế giới Bổn 
				môn. Đó là thế giới bất sanh bất diệt, vượt ra khỏi bất cứ khái 
				niệm nào của không gian và thời gian. Tuy con người không sờ mó, 
				nếm ngữi được cái thế giới này, nhưng họ có thể chuyển tâm thức 
				từ cái thế giới sinh diệt, lo lắng, buồn phiền, ưu bi, khổ não 
				vào trong thế giới hoàn toàn vắng lặng, thanh tịnh mà nơi đó con 
				người không còn lo lắng về chuyện thành bại, không còn chạy đua 
				với cuộc sống vật chất, không còn tranh chấp về những khía cạnh 
				của cuộc đời. 
				Chúng sinh nếu biết sống trong tỉnh thức, 
				biết thực hành chánh niệm trong từng hơi thở để thấy biết rốt 
				ráo những biến hành của tâm thì chính họ đang chuyển dần sang 
				thế giới bất sinh bất diệt, nhẹ nhàng thanh thoát, an vui tự tại 
				của thế giới Bổn môn đó. Vì thế giới Bổn Môn có hiện ra rõ ràng 
				hay mù mờ tùy theo trình độ chánh niệm của con người. Nếu chúng 
				sinh chỉ có chánh niệm trong một khoảnh khắc ngắn ngủi thì sự an 
				lạc có đến rồi đi rất nhanh. Còn nếu họ có khả năng giữ vững 
				chánh niệm, luôn sống trong tỉnh thức, tâm trí bừng sáng tức là 
				họ đang sống trong chánh định thì thế giới Bổn môn sẽ từ từ hiện 
				rõ.  
				Như thế tuy đức Phật Thích Ca có nói vị Phật 
				này, vị Phật kia, ở thế giới này thế giới nọ chỉ là cách nói, 
				nhưng tất cả cũng đều ở trong lòng của Phật Thích Ca bởi vì tất 
				cả tất cả chư Phật đều cùng bản thể chân như, không sai không 
				khác. 
				Trên con đường giải thoát giác ngộ, Ngộ tức 
				là không mê đã là khó. Mà “giải ngộ” là một 
				bước tiến khó hơn. Nếu chúng sinh có một quá trình tư duy quán 
				chiếu thật sâu sắc thì đây là “thâm ngộ”. Cho 
				đến khi nào khai tâm mở tánh hoàn toàn thì mới gọi là “chứng 
				ngộ”. 
				
				
				∆ TOP
				|
				
				NEXT 
				 
				 |