| 
				    
				 
				 Phẩm
				 
				 
				 PHƯƠNG TIỆN 
				 
				 Phương 
				 là phương pháp và tiện là tiện dụng. Theo tiếng Phạn, phương 
				 tiện là Upaya, có nghĩa là những phương pháp đem ra ứng dụng 
				 tùy theo căn cơ, hoàn cảnh xã hội và trình độ của mọi chúng 
				 sinh để thiết lập và giải quyết tạm thời mà đưa chúng sinh vào 
				 con đường giải thoát giác ngộ tức là nghiệm chứng Chân lý. Mà 
				 Chân lý chỉ có thể thực chứng chớ không thể diễn bày bằng ngôn 
				 ngữ hay kinh điển, 
				 vì thế giáo lý nhà Phật không có mục đích trình bày Chân lý mà 
				 chỉ muốn dùng phương tiện để hướng dẫn người tu hành sáng suốt 
				 để tự mình đạt đến cứu cánh tối thượng là chứng được Chân lý. 
				 Một phương tiện cho dù thiện xảo tới đâu cũng không thể nào áp 
				 dụng cho tất cả mọi trường hợp và cho tất cả mọi người vì thế 
				 mà Đức Thế Tôn mới chế ra 84 ngàn pháp môn tức là 84 ngàn 
				 phương tiện và cũng là 84 ngàn cánh cửa để đi vào căn nhà giác 
				 ngộ. Chúng ta tham thiền, niệm Phật, trì chú, tu theo Tứ Diệu 
				 đế, Thập nhị Nhân Duyên hay Lục độ ba-la-mật, tu nhà, tu chợ, 
				 tu chùa …tất cả đều là phương tiện. Vì thế tất cả những phương 
				 pháp tu trên thế gian nầy chỉ là phương tiện, những liều thuốc 
				 nhiệm mầu giúp chúng sinh phá tan màng vô minh hắc ám mà thấy 
				 được ánh sáng Chân Lý. Nhưng phương tiện không phải là cứu 
				 cánh. Phương tiện là nhân mà cứu cánh mới là quả. Phương tiện 
				 là giả mà cứu cánh là thật. Cái vô minh lớn nhất của con người 
				 là chấp phương tiện với cứu cánh. Vì thế người tu Phật chỉ 
				 nương theo phương tiện để đạt cứu cánh, nương theo ngón tay để 
				 thấy mặt trăng. Nhưng đừng lầm phương tiện là cứu cánh, đừng 
				 nhìn ngón tay mà quên đi mặt trăng và đừng chấp kinh điển là 
				 Chân lý. Đừng nhìn vào ngón tay chỉ mặt trăng mà quên đi luồng 
				 ánh sáng tuyệt vời phát xuất từ mặt trăng. Do đó khi đạt được 
				 cứu cánh thì phải bỏ phương tiện, hết bệnh thì bỏ thuốc, tới bờ 
				 thì phải bỏ chiếc bè để lên bờ giác ngộ chớ đừng vác bè lên vai 
				 mà thêm nặng nhọc khổ đau. 
				 
				 Phẩm 
				 Tựa đã trình bày nhân duyên của bộ kinh này. Sau phần nhân 
				 duyên, kinh giới thiệu phẩm Phương tiện, là phẩm cương lĩnh nói 
				 lên điều quan trọng, thiết yếu của kinh. Và sau đó, từ phẩm thứ 
				 hai đến phẩm thứ chín sẽ bổ túc làm cho phẩm Phương tiện được 
				 thấu hiểu nhiều hơn. 
				 
				 Bấy giờ 
				 đức Thế Tôn xuất định bảo Xá-Lợi-Phất:  
				 
				 -Trí 
				 tuệ của chư Phật sâu sa vô lượng, hàng Thanh Văn, Duyên Giác, 
				 Bích-Chi-Phật không thể biết được. Bởi vì trí tuệ đó là kết quả 
				 của quá trình gần gũi vô số chư Phật, tu hành vô lượng đạo pháp 
				 viên mãn, dũng mãnh tinh tấn. Trí tuệ và sự hiểu biết sâu xa 
				 chưa từng có của Phật, giáo hóa theo thời, tùy cơ nói pháp ý 
				 nghĩa khó lường.  
				 
				 Trong 
				 phẩm Tựa, đức Phật phóng hào quang, hiện điềm lành rồi nhập 
				 chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ. Đến phẩm này, đức Phật nhận biết 
				 căn cơ của thính chúng đã thuần thục nên Ngài mới xuất định để 
				 nói thời pháp tối quan trọng mà Ngài đã ấp ủ suốt 40 năm. Vậy 
				 nỗi niềm của Phật là gì? Sau khi Ngài thành đạo, Phật bắt đầu 
				 nói tam tạng kinh điển theo thứ lớp nào là Thanh Văn, Duyên 
				 Giác, Bồ tát thừa. Nhưng đấy chỉ là quyền, là phương tiện chớ 
				 chưa phải là cứu cánh. Thế mà hàng Thanh Văn sau khi công phu 
				 khổ hạnh, chứng đắc thánh quả A la hán thì cho rằng đã đạt đến 
				 cứu cánh viên mãn nên trên chẳng cần cầu Phật đạo và dưới cũng 
				 chẳng quan tâm đến độ chúng sinh nghĩa là lối tu hành như vậy 
				 chỉ lợi mình mà chẳng lợi người. Cao hơn nữa, hàng Duyên Giác 
				 tu theo giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên trở thành Bích Chi Phật 
				 cũng thế. Các ngài cho rằng mục đích tối hậu để có giải thoát 
				 Niết bàn đã thành tựu nên không có gì để học nữa. Đến thời điểm 
				 này, Phật bắt đầu khai thị một tư tưởng hoàn toàn mới lạ đối 
				 với họ chẳng khác nào như một tiếng sét đánh ngang tai làm mọi 
				 người choáng váng. Sở dĩ đức Phật có trí tuệ siêu việt là vì 
				 Ngài gần gũi với vô số chư Phật trong khắp mười phương thế giới 
				 nên có cơ hội tu vô lượng pháp. Do đó đức Phật giáo hóa chúng 
				 sinh tùy thời, tùy cơ nên không có chúng sinh nào mà không được 
				 độ. 
				 
				 
				 Xá-Lợi-Phất ! Sau khi thành Phật Như Lai vận dụng nói nhiều thí 
				 dụ, phân tích các thứ nhân duyên, diễn bày nhiều ngôn giáo, 
				 linh họat trong vô số phương tiện dẫn dắt chúng sanh khiến cho 
				 xa lìa lòng chấp. Như Lai là bậc đầy đủ tri kiến và các 
				 Ba-la-mật. Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa. Tứ vô-ngại 
				 trí, thập trí-lực, tứ vô sở úy, thiền định, giải thoát tam-muội 
				 sâu thẩm và mênh mông không ngằn mé.  
				 
				 Như Lai 
				 tùy thời phân biệt khéo nói pháp, lời lẽ đẹp, đáp ứng sở 
				 thích của nhiều hạng căn cơ.  
				 
				 Tri 
				 kiến của Như Lai rộng có nghĩa là vô biên, lớn có nghĩa là vô 
				 thượng, sâu có nghĩa là khôn lường và xa có nghĩa là thời gian 
				 dài vô cùng vô tận trong đời tương lai. 
				 
				 Tứ Vô 
				 Ngại Trí: 
				 Dựa theo kinh Tăng Nhất A Hàm 21, kinh Đại Bát Niết bàn 15, 
				 Luận Đại Trí Độ 25, Luận Thành Thật 16, Luận Du Già Sư Địa 45 
				 và kinh Pháp Hoa Huyền Tán 3 thì Như Lai có tứ vô ngại trí 
				 nghĩa là có pháp vô ngại, nghĩa vô ngại, từ vô ngại và lạc 
				 thuyết vô ngại. 
				 
				 1)
				 
				 Pháp vô 
				 ngại: 
				 Khi đã thành tựu trí tuệ thì nhìn vạn pháp thấy cái gì cũng 
				 đúng với chân lý nên khi thuyết pháp biến tất cả các pháp trở 
				 thành Phật pháp. Thí dụ như khi thấy lá rụng, tuyết rơi thì 
				 nghĩ ngay đến sự tạm bợ, vô thường. Vì thế Lục Tổ nói rằng: 
				 “Phật 
				 pháp tại thế gian bất ly thế gian giác” là như vậy. 
				 
				 2)
				 
				 Nghĩa 
				 vô ngại: 
				 là biết đúng nên nói đúng, nói chánh ngữ, đúng nghĩa, không sai 
				 chân lý. 
				 
				 3)
				 
				 Từ vô 
				 ngại: 
				 là lời nói trôi chảy, không ngăn ngại. 
				 
				 4)
				 
				 Lạc 
				 thuyết vô ngại:
				 
				  là 
				 càng nói càng thêm phấn khởi, dồi dào phong phú chớ không bao 
				 giờ bị bế tắc. 
				 
				 Đứng về 
				 phương diện ý thức, tư tưởng thì tứ vô ngại được gọi là tứ vô 
				 ngại trí tức là do trí tuệ mà phát sinh ra bốn thứ vô ngại. Còn 
				 dựa trên ngôn từ diễn đạt mà nói thì gọi là tứ vô ngại biện tức 
				 là tứ vô ngại biện tài. Ngày xưa Lục Tổ Huệ Năng không biết chữ 
				 mà bất cứ kinh điển nào cũng có thể giảng giải được vì Ngài có 
				 tứ vô ngại giải, nghĩa là đọc kinh, nghe kinh thì biết ngay ý 
				 nghĩa mà khỏi cần nghiên cứu. 
				 
				 Thập 
				 Trí Lực: 
				 Dựa theo kinh Tạp A Hàm 26, kinh Hoa Nghiêm 17 phẩm Kiến Lập, 
				 kinh Bồ tát Địa trì 10, Luận Câu Xá 27 và Luận Đại Tì-bà-xa 30 
				 thì 
				 
				 Thập Trí Lực là đại uy lực, có công năng diệt 
				 trừ oán địch, làm lợi ích cho loài hữu tình và rốt ráo chiến 
				 thắng hàng phục được mọi ma oán. Mười trí lực của Như Lai, đó 
				 là: 
				 
				 1)
				 
				 Xứ phi 
				 xứ trí lực: 
				 Xứ nghĩa là đạo lý. Trí lực nầy giúp Như Lai biết một cách chắc 
				 thật đối với tất cả nhân duyên quả báo do đó nếu tạo thiện 
				 nghiệp thì biết nhất định sẽ được quả báo lành, thọ lãnh cái 
				 vui. Đó là tri thị xứ. 
				 
				 2)
				 
				 Tự nghiệp trí lực:
				 
				 hay còn 
				 gọi là
				 
				 Nghiệp 
				 dị thục trí lực. 
				 Như Lai biết rõ nghiệp duyên, quả báo sinh xứ trong ba đời quá 
				 khứ, hiện tại và vị lai của tất cả chúng sinh. 
				 
				 3)
				 
				 Tĩnh lự 
				 giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực: 
				 Như Lai tự tại, vô ngại đối với các thiền định, biết khắp và 
				 đúng như thật theo thứ tự từ cạn đến sâu. 
				 
				 4)
				 
				 Căn 
				 thắng liệt trí lực: 
				 Như Lai biết đúng như thật các căn tánh thắng liệt. Đối với bậc 
				 Trung thì gọi là Thắng còn đối với bậc Thượng thì gọi là Liệt. 
				 Ngay cả những quả vị từ thấp đến cao, Như Lai cũng biết rõ. 
				 
				 5)
				 
				 Chủng 
				 chủng thắng giải trí lực: 
				 Như Lai biết đúng như thật các thứ dục lạc, thiện ác khác nhau 
				 của chúng sinh. 
				 
				 6)
				 
				 Chủng 
				 chủng giới trí lực: 
				 Như Lai biết khắp và đúng như thật về các giới phần khác nhau 
				 của chúng sinh ở thế gian. 
				 
				 7)
				 
				 Biến 
				 thú hành trí lực: 
				 Như lai biết khắp và đúng như thật về nơi đến của hạnh hữu lậu 
				 là lục đạo, nơi đến của hạnh vô lậu là Niết bàn. 
				 
				 8)
				 
				 Túc trụ 
				 tùy niệm trí lực: 
				 Như Lai biết khắp và đúng như thật đối với các túc mạng, một 
				 đời cho đến trăm nghìn muôn kiếp, chết đây sinh kia, chết kia 
				 sinh đây, khổ vui thọ mạng. 
				 
				 9)
				 
				 Sinh tử 
				 trí lực: 
				 Như Lai dùng thiên nhãn biết đúng như thật về thời gian sinh tử 
				 của chúng sinh và cõi thiện cõi ác ở đời vị lai, cho đến các 
				 nghiệp duyên thiện ác như đẹp xấu, giàu nghèo. 
				 
				 10)
				 
				 Lậu tận 
				 trí lực: 
				 Như Lai đã đoạn hẳn các tập khí tàn dư vĩnh viễn chẳng còn sinh 
				 khởi. Như Lai biết khắp và đúng như thật.  
				 
				 Tứ Vô 
				 Sở Úy: 
				 Dựa theo Luận Đại Trí Độ, Luận Thành Thật. Tạp A tì đàm Tâm 
				 luận, Luận Du-Già Sư Địa, Đại Thừa Nghĩa Chương 19 và Thuyết Vô 
				 Cấu Xứng Kinh Sớ thì 
				 
				 Tứ vô sở úy là bốn sự tự tin , không sợ hãi, 
				 dũng mãnh và an ổn của Phật khi thuyết pháp. Dựa theo kinh Tăng 
				 Nhất A hàm 19, 42 thì 
				 
				 Tứ Vô Úy của Phật gồm có: 
				 
				 1)
				 
				 Chư 
				 pháp hiện đẳng giác vô úy: 
				 Đối với các pháp đều giác biết, trụ trong chánh kiến, không khuất 
				 phục điều gì và có sự tự tin không sợ hãi. 
				 
				 2)
				 
				 Nhất 
				 thiết lậu tận trí vô úy: 
				 Đoạn hết tất cả phiền não nên không có sự sợ hãi từ các chướng 
				 nạn bên ngoài. 
				 
				 3)
				 
				 Chướng 
				 pháp bất hư quyết định thọ ký vô úy: 
				 Nói rộng về pháp tu hành chướng ngại, đồng thời không sợ hãi 
				 đối với bất cứ một sự bắt bẻ nào. 
				 
				 4)
				 
				 Vị 
				 chứng nhất thiết cụ túc xuất đạo như tánh vô úy: 
				 Giảng nói đạo xuất thế không hề sợ hãi điều gì. 
				 
				 Thí dụ 
				 kinh dạy rằng: “Thế tôn tự xưng là đấng Chánh đẳng chánh giác”. 
				 Thế mà khi có vị Tỳ kheo từ phương xa đến thì Phật thường hỏi 
				 thăm rằng: “Trụ có an lạc không?  Hay là Khất thực có được 
				 không?”. Trong đám Tỳ kheo có người liền đặt câu vấn nạn rằng: 
				 “ Nếu Phật là bậc Chánh đẳng Chánh giác thì việc gì chẳng biết, 
				 thế mà nay lại hỏi người khác, sao lại có chuyện trái ngược như 
				 vậy?”. Phật mới trả lời rằng: “Sở dĩ ta hỏi là vì để chinh phục 
				 kẻ đến khiến họ phát tâm thắng trội, nghe Phật thăm hỏi sẽ phát 
				 Bồ-đề tâm. Làm thế để mọi người thấy rằng Phật biết mà còn hỏi, 
				 huống hồ những người khác chẳng biết”. Do đó đối với Phật thấy 
				 người đến phát tâm thì dẫn nhiếp, thăm hỏi chớ chẳng phải là 
				 Phật chẳng biết. Vì thế Như Lai đối với những lời vấn nạn này 
				 vì có chánh kiến nên không nao núng, được an lạc trụ. Dù gặp 
				 vấn nạn, đối phó với những kẻ dị tâm mà Như Lai vẫn thanh thản, 
				 tự tại và không hề hoảng sợ, thật xứng đáng với vô sở úy. 
				 
				 Một thí 
				 dụ khác là Tỳ kheo Thiên Thụ thường làm các việc ác nên bị Phật 
				 mắng mỏ. Ngược lại Chấp Nhật thường làm những điều tốt nên được 
				 Phật tán thán ngợi khen, nói lời yêm dịu. Thấy thế có kẻ vấn 
				 nạn rằng Phật tự xưng phiền não đã dứt, các lậu đã tận thế mà 
				 lại mắng mỏ nặng lời với Thiên Thụ và dịu dàng với Chấp Nhật 
				 tức là tham sân chưa dứt thì làm sao các lậu tận được? Đối với 
				 Phật, Thiên Thụ ví như con ngựa ác, phải đánh đau mới điều phục 
				 được. Nếu chẳng quát mắng thì y lại nói là “sợ ta”. Còn Chấp 
				 Nhật cũng như con voi tinh khôn biết chiều theo lòng người nên 
				 chỉ nói ngọt là thuần phục được ngay. Thế thì Phật chẳng phải 
				 là còn có tham sân và lậu chẳng hết. 
				 
				 Thiền 
				 định
				 
				 trong 
				 Phật giáo là tỉnh lự, là suy tư, là Xam-ma-tha để chặn đứng tất 
				 cả vọng niệm không cần thiết. Còn những chân lý trong cuộc đời 
				 đòi hỏi sự tư duy thẩm chiếu để thấu biết tận cùng rốt ráo vì 
				 thế Phật giáo mới dạy tư duy tu để giúp hành giả tư duy tỉnh lự 
				 mà tự mình tìm ra ánh sáng chân lý của sự vật hiện tượng. Ngày 
				 xưa Đức Phật thiền định dưới cội Bồ-đề liên tiếp trong suốt 49 
				 ngày đêm thì Ngài mới hoát nhiên đại ngộ. Có suy tư, thẩm lự 
				 mới thấy được ánh sáng nhiệm mầu. Từ nhận thức được chân lý đó 
				 giúp con người sống theo chân lý, sống đúng với chân lý và sống 
				 phù hợp với chân lý. 
				 
				 Thiền 
				 có tứ thiền
				 
				 là: 
				 
				 1)  
				 
				 Sơ 
				 thiền 
				 tức là ly sanh hỷ lạc.  
				 
				 Nếu 
				 chúng sinh biết lìa xa những tham vọng, những đòi hỏi quá đáng 
				 trong cuộc đời thì tâm họ bắt đầu thư giản, nhẹ nhàng mà thiền 
				 gia gọi là có niềm vui. Vì thế hành giả tu theo sơ thiền sẽ làm 
				 cho tâm dần dần biết viễn ly, xa lìa những
				 
				 trói buộc của
				 
				 ngã và ngã
				 
				 sở khiến cho những căn bản phiền não tham sân si cũng dần dần 
				 tan biến. Càng viễn ly thì cường độ tham sân si càng giảm khiến 
				 cho thân tâm nhẹ nhàng thanh thoát khinh an tự tại. Do đó nếu 
				 muốn có sự an lạc thì phải chấp nhận viễn ly. Viễn ly càng 
				 nhiều sự trói buộc thì tâm càng nhẹ nhàng thanh thoát đến khi 
				 viễn ly tất cả, tâm không còn dính mắc, không còn gì trói buộc 
				 thì chứng được sơ thiền
				 
				 và thời điểm đó
				 
				 hành giả có được sự
				 
				 hỷ lạc. 
				 
				 2)  
				 
				 Nhị 
				 thiền 
				 tức là định sinh hỷ lạc. 
				 
				 Hành 
				 giả sau khi vượt qua viễn ly tức là đến đây thì họ đã bỏ hết 
				 tất cả những ngoại duyên, nên họ có thể chú tâm để quán về một 
				 đối tượng sở quán nào đó. Thí dụ hành giả bây giờ xoay về quán 
				 vô thường để thấy biết rằng thân là vô thường, cảnh cũng vô 
				 thường và tất cả vật thể hữu vi đều là vô thường. Từ quán vô 
				 thường rốt ráo đó đưa hành giả trở về viễn ly, xa lìa không 
				 dính mắc tức là trở về lại với sơ thiền. Đến đây hành giả thấy 
				 thấu suốt được chân lý vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh của thế 
				 gian. Nói cách 
				 khác 
				 hành giả dùng những đối tượng vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh 
				 để quán và sau cùng thấy biết được bằng chính tri kiến của mình 
				 do sức công phu thiền định, quán chiếu thì thời điểm này hành 
				 giả chứng nhập những chân lý đó mà không phải cần qua sách vở 
				 nữa. Do đó nhị thiền là do sức công phu tu tập định tâm mà sinh 
				 ra hỷ lạc. 
				 
				 3)  
				 
				 Tam 
				 thiền: 
				 tức là ly hỷ diệu lạc.  
				 
				 Tại 
				 sao? Mặc dù hành giả vượt qua sơ thiền tức là đã viễn ly thập 
				 triền, thập sử và nhờ vào định quán chiếu của nhị thiền để thấu 
				 biết chân lý rốt ráo mà có hỷ lạc. Nhưng nếu hành giả còn dính 
				 mắc vào sự hỷ lạc tức là tâm vẫn còn đam mê thì có thể bị sai 
				 lầm. Do đó sau khi rời sơ thiền, nhị thiền để có hỷ lạc, nhưng 
				 cũng đừng đam mê cái hỷ lạc đó mà tâm tham phát khởi trở lại 
				 làm xóa sạch những viễn ly, tu định mà hành giả đã trì công tu 
				 tập lúc ban đầu. Hành giả phải sáng suốt thức tỉnh để biết rằng 
				 Hỷ lạc là kết quả của những viễn ly tham đắm dục tình mà có chớ 
				 không có gì đặc biệt. Thí dụ như có ly nước đục, nếu để yên thì 
				 ly nước sẽ trong tức là những vẫn đục lắng xuống, đó là bình 
				 thường chớ không có chi mừng cả. 
				 
				 Do đó 
				 nếu hiểu rằng hỷ lạc là kết quả của những viễn ly tham đắm dục 
				 tình và khả năng vào định mà có, tuy có hỷ lạc nhưng đừng đam 
				 mê vào nó vì nó đến rồi tự nó lại đi thì đạt được tam thiền. 
				 Khi bỏ được cái vui mừng này thì hành giả chợt cảm nhận một nỗi 
				 vui mầu nhiệm khác. Đó là sự diệu lạc thanh thoát khó diễn tả 
				 được vì thế tam thiền mới được gọi là “ly hỷ diệu lạc” là vậy. 
				 Hành giả thường có cảm giác tam thiền là vui hơn hết (diệu lạc) 
				 vì ở các cõi dưới thì chỉ biết những cái vui thô động, còn ở 
				 các cõi trên thì chỉ còn là tịch tịnh, không còn vui nữa. 
				 
				 4)  
				 
				 Tứ 
				 thiền:
				 
				 tức là 
				 xả niệm thanh tịnh địa.  
				 
				 Ở ba 
				 cấp thiền ở dưới, hành giả có hỷ lạc nhưng tâm đừng chấp thủ để 
				 bắt đầu thực hành xả bỏ. Hành giả vào được tầng thiền này thì 
				 tâm hồn nhẹ nhàng thanh thoát vì đã xả bỏ hết tất cả những ý 
				 niệm làm khởi tâm bất tịnh. Đây chính là lúc thực hành chánh 
				 niệm rốt ráo vì chỉ còn giữ lại trong tâm niệm thanh tịnh trong 
				 sáng hoàn toàn còn tất cả những ý niệm khác xả bỏ hết. Đến đây 
				 hành giả không còn chấp thị phi phải quấy, không còn quan trọng 
				 giàu nghèo, địa vị quan tước, không tranh giành đố kỵ vì chả có 
				 gì để chấp thủ, để quan tâm, để lụy phiền cho nên không buồn, 
				 không giận, không say đắm và dĩ nhiên không còn lo lắng. Tóm 
				 lại, khi còn ở tam thiền hành giả tuy đã dứt hết cái vui thô 
				 động của sơ thiền và Nhị thiền, nhưng vẫn còn cái vui mầu nhiệm 
				 (diệu lạc). Nhưng hễ còn niệm vui thì tâm chưa hoàn toàn thanh 
				 tịnh. Bây giờ hành giả phải xả hết cái niệm vui thì thời điểm 
				 đó tâm trở thành hoàn toàn thanh tịnh. 
				 
				 Ngày 
				 xưa trước khi thành đạo, đức Phật có thọ giáo với hai vị thầy 
				 là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Ngài đã thực tập rất thành 
				 công pháp tu định gọi là Tứ Vô Sắc Định gồm có Không vô biên 
				 xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng 
				 xứ. Mặc dù chứng đạt đến chỗ tột cùng của bốn tầng định trên, 
				 nhưng đức Phật xác định rằng những định này không đưa đến sự 
				 giải thoát và giác ngộ cho nên đức Phật từ bỏ và tự tìm cho 
				 mình con đường giải thoát khác. Điều này đã được xác định rất 
				 rõ ràng trong nhiều kinh điển. Sau khi chứng được tứ thiền, 
				 hành giả có thể (nếu muốn vì không cần thiết) đi vào Tứ không 
				 định, có nghĩa là khi vào bốn cái yên tịnh nầy thì hành giả 
				 sẽ không còn thấy có cảnh hay tâm thức nữa. 
				 
				 Tứ 
				 không định
				 
				 gồm có: 
				 
				 -Không 
				 vô biên xứ: 
				 Hành giả quán tưởng trống không, tức là từ trống không nhỏ tới 
				 trống không lớn và dần dần đến vô cùng vô tận. 
				 
				 -Thức 
				 vô biên xứ: 
				 Bây giờ hành giả bỏ cái không đó mà quay lại quán thức phân 
				 biệt của mình. Biết thức phân biệt không có tướng mạo, từ phân 
				 biệt thân đến phân biệt tâm và dần dần ra khắp hết vô cùng vô 
				 tận. 
				 
				 -Vô sở 
				 hữu xứ: 
				 sau đó tưởng thân tâm không có gì hết, rỗng tếch không chỗ nơi 
				 thì chứng được. 
				 
				 -Phi 
				 tưởng phi phi tưởng: 
				 Dù hành giả tưởng thân tâm là rỗng tếch, nhưng đây vẫn là 
				 tưởng. Sau cùng tiến lên đến chỗ không có tưởng mà không phải 
				 không tưởng. 
				 
				 Đến đây 
				 không còn tưởng thô, tưởng không, tưởng thức mà chỉ có tưởng vi 
				 tế, tức là tưởng rỗng tếch. Còn cái tưởng đó cũng phải bỏ mới 
				 qua Diệt Tận Định. Diệt Tận Định là ở trong định mà hành giả 
				 không có cảm thọ và không có tri giác nữa tức là không có sự 
				 hiện diện của thọ và tưởng. 
				 
				 Khi 
				 hành giả dùng Chỉ (xam-ma-tha) (định) và Quán (trí tuệ) để 
				 chứng được tứ
				 
				 thiền thì họ có thể đi thẳng vào Diệt Tận Định (Diệt Thọ Tưởng 
				 Định) mà chứng được thanh tịnh Niết bàn và trở thành bậc A la 
				 hán. Ở trong Diệt Tận Định, hành giả bắt đầu tịnh khẩu, tịnh 
				 thân, tịnh ý và sau cùng là tịnh hơi thở. Người vào trong định 
				 này thì hơi thở không còn, nhưng sức nóng trong người vẫn còn 
				 và dĩ nhiên tất cả các căn vẫn trong sáng. Khi xuất Diệt Tận 
				 Định thì ý hành phát khởi trước nhất, rồi đến thân hành và sau 
				 cùng khẩu hành mới tác động. Cái khác nhau giữa người đi vào 
				 Diệt Tận Định và người chết là người đi vào định này cũng chấm 
				 dứt hơi thở, thân thể bất động, miệng không còn nói, nhưng hơi 
				 ấm vẫn còn nên không chết. 
				 
				 Trong 
				 Đại Trí Độ Luận có nói năm loại âm thanh từ miệng Phật nói ra 
				 là: 
				 
				 -Một là 
				 rất sâu như tiếng sấm. 
				 
				 -Hai là 
				 trong trẻo vang xa, ai nghe cũng ưa thích. 
				 
				 -Ba là 
				 nhập tâm, kính ái. 
				 
				 -Bốn là 
				 rạch ròi dễ hiểu. 
				 
				 
				 -Năm 
				 là người nghe không chán, phân biệt được các nghĩa hữu lậu, vô 
				 lậu... 
				 
				 Đức 
				 Phật dùng đủ thứ trí, đủ thứ phương tiện, nói rộng nói hẹp, nói 
				 quyền nói thật, nói lời lẽ êm diệu không ngoài mục đích đem đến 
				 sự lợi ích cho quần sanh khắp cả. Nhắc lại một lần nọ, Lục Tổ 
				 thấy hai vị tăng đang tranh chấp về gió thổi là phướng động. 
				 Một ông cho là gió động. Ông kia lại cho là là phướng động. Lúc 
				 đó Huệ Năng mới giải thích rằng chẳng phải gió động, cũng chẳng 
				 phải là phướng động mà chính là tâm của hai ông  động. Khi 
				 tâm mình định thì thế giới bên ngoài an định. Ngược lại tâm 
				 mình không định thì nhìn thế giới bên ngoài chao đảo chông 
				 chênh. Tại sao? Bởi vì tâm định thì mình làm chủ tâm mình, 
				 không chạy theo vọng trần sinh diệt bên ngoài. Ngược lại, tâm 
				 không định thì mình mời khách trần phiền não bên ngoài vào cho 
				 nên thế giới thay đổi, biến chuyển thì tâm mình cũng thay đổi 
				 theo tức thì. 
				 
				 Tất cả 
				 giáo lý Như Lai giảng dạy bao nhiêu năm đưa hàng Thanh Văn vào 
				 vòng Thánh giả, chứng đắc quả vị A la hán, hàng Duyên Giác trở 
				 thành Bích Chi Phật có giải thoát Niết bàn thế mà trong hải hội 
				 Pháp Hoa, đức Phật phủ nhận, phủi bỏ hết. Ở đây, đức Phật chỉ 
				 phủi bỏ danh ngôn, cái chấp có chứng đắc, nhưng Ngài không phủ 
				 nhận cái chứng đắc từng phần của các vị Thanh Văn, Duyên Giác. 
				 Vì thế, để phá những chấp trước mê lầm này, đức Phật khẳng định 
				 rằng không có cái gì gọi là chứng đắc; không có Khổ, Tập, Diệt, 
				 Đạo; không có Vô minh cũng không có cái hết Vô minh; không có 
				 trí tuệ cũng không có chứng đắc…Tóm lại, những gì Như lai dạy 
				 từ trước đến giờ chỉ là giáo lý phương tiện chớ không phải là 
				 chân lý. Vậy chân lý mà Phật muốn nói ở đây là gì? Đó là cứu 
				 cánh tối thượng của người tu là thành Phật chớ không phải thành 
				 Thanh Văn, Duyên Giác hay thành Bồ tát. Vì thế Phật nói  kinh 
				 Pháp Hoa này là do một đại sự nhân duyên lớn mà Như Lai thị 
				 hiện ở thế gian để khai thị cho chúng sinh biết rằng ai ai cũng 
				 có thể trở thành Phật vì trong họ đã có sẵn Phật tánh rồi. Có 
				 thể nói kinh Pháp Hoa nâng cao nhân phẩm của con người lên tới 
				 chỗ tột đỉnh vì tất cả mọi người cùng chung bản thể, cùng có 
				 Phật tánh như nhau. Đây là tư tưởng đặc thù của Pháp Hoa. Bởi 
				 vì hàng Thanh Văn chấp mình chứng đắc A la hán, hàng Duyên Giác 
				 chấp mình chứng đắc Bích Chi Phật, nhưng dựa theo tinh thần 
				 Pháp Hoa thì sự chứng đắc chẳng qua là giả danh để chỉ cho hành 
				 giả đang đi trên con đường Vô Thượng Bồ đề biết là con đường 
				 đến Phật quả còn bao xa. Thí dụ A la hán là Hóa thành tức là họ 
				 đi được 50%, Bích Chi Phật thì xa hơn một chút khoảng 60-70% 
				 cho đến khi thành Phật thì được 100% tức là Bảo sở vậy. Mới 
				 nghe qua, tư tưởng Pháp Hoa xóa bỏ hết những ước mơ chứng đắc 
				 của tất cả mọi người, nhưng kỳ thật không có xóa bỏ gì hết. 
				 Chẳng những không xóa bỏ mà còn giúp hành giả phá cái cố chấp 
				 cho rằng chứng đắc là thật có. Ở đây, không có gì là chứng đắc 
				 cả. Ngay cả khi thành Phật là trở về với Căn Bản Trí đã có sẵn 
				 trong ta chớ không phải khi thành Phật mới có. Cái thành tựu 
				 duy nhất là hành giả phá tan màn vô minh thì lúc ấy Nhất Thiết 
				 Trí, Vô Sư Trí, Căn Bản Trí hiện bày thế thôi. 
				 
				 Phật 
				 lại dạy tiếp: 
				 
				 Nhưng, 
				 thôi đi! Xá-Lợi-Phất! Không cần nói nữa!  
				 
				 Bởi vì 
				 pháp ít có và khó hiểu bậc nhất mà Phật có, pháp đó chỉ có Phật 
				 với Phật mới hiểu biết thấu tột “Thật tướng”. Rằng: 
				  
				 
				 Các 
				 pháp có  
				 
				 ·        
				 
				 Tướng 
				 của nó như vậy.  
				 
				 ·        
				 
				 Tánh 
				 của nó như vậy.  
				 
				 ·        
				 
				 Thể của 
				 nó như vậy.  
				 
				 ·        
				 
				 Lực của 
				 nó như vậy.  
				 
				 ·        
				 
				 Tác của 
				 nó như vậy.  
				 
				 ·        
				 
				 Nhơn 
				 của nó như vậy.  
				 
				 ·        
				 
				 Duyên 
				 của nó như vậy.  
				 
				 ·        
				 
				 Quả của 
				 nó như vậy.  
				 
				 ·        
				 
				 Báo của 
				 nó như vậy.  
				 
				 ·        
				 
				 Và từ 
				 đầu chí cuối của nó như vậy.  
				 
				           
				 Đệ tử Phật có hai hàng Pháp khí: Chân là các Tôn giả Xá Lợi 
				 Phất…và Giả là ám chỉ hạng Tăng tượng mạn. Đối với hạng Chân 
				 Pháp khí, tâm thánh đã đầy đủ, thích nghe diệu pháp nên tuy 
				 nghe Phật nói “Thôi 
				 đi! Không cần nói nữa” khiến họ nài xin vì họ 
				 nghĩ rằng Phật không cần nói nữa là Phật không muốn nói những 
				 pháp nào? Ngược lại, đối với hạng Giả pháp khí thì họ tự cho 
				 mình là tâm thánh đã đầy đủ, nhưng vẫn ngồi đó 
				 cho 
				 đến khi nghe Phật bảo “Thôi 
				 đi! Không cần nói nữa” khiến họ đứng lên bỏ đi. 
				 Tại sao họ lại bỏ đi? Bởi vì họ nghĩ rằng tất cả các pháp giải 
				 thoát họ đều chứng được cả rồi cho nên chẳng còn pháp gì quan 
				 trọng để nghe Phật nói cả. 
				 
				 Tại sao 
				 Phật chẳng muốn nói nữa? Bởi vì kinh Pháp Hoa rất thâm sâu 
				 huyền diệu, không phải ai nghe cũng tin, cũng hiểu được. Chẳng 
				 những không hiểu, chúng sinh còn sinh tâm nghi ngờ phỉ báng mà 
				 tạo nghiệp. Cho nên đức Phật im lặng, chẳng nói pháp ít có khó 
				 tin vì chỉ có Phật với Phật mới thấu triệt thật tướng của các 
				 pháp là vô tướng. Trước hết, đức Phật giới thiệu một giáo lý 
				 hoàn toàn mới lạ để đưa các vị Thanh Văn, Duyên Giác có một cái 
				 nhìn, một nhận định chính xác về tánh “Như Thị”  tức là 
				 “Như Vậy” của vạn pháp. Thập Như Thị là tinh hoa, là giáo lý 
				 rất thâm sâu của kinh Pháp Hoa bởi vì chỉ có Phật với Phật mới 
				 có khả năng thấy biết cùng tận thật tướng của các pháp. Đó là 
				 các pháp đều có như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như 
				 thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, 
				 như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh đẳng nghĩa là thật tướng 
				 của tất cả các pháp có đầy đủ 10 như thị. Thí dụ Như thị tướng 
				 (Tướng như vậy) nghĩa là hình tướng của vạn pháp như thế nào 
				 chúng ta chỉ nên thấy biết như thế ấy, đừng thêm, đừng bớt, 
				 đừng cộng ngã kiến vào thì chúng ta nhìn đúng “Như Thị Tướng”. 
				 Do đó khi nhìn đóa hoa thì biết là đóa hoa, đừng cho là hoa 
				 đẹp, hoa xấu, hoa tươi hay hoa héo… 
				 
				           
				 Tóm lại, trong Thập Như Thị là: 
				 
				           
				 1)Như thị tướng: Tất cả các vật thể trên thế gian này đều phải 
				 có sắc tướng. 
				 
				           
				 2)Như thị tánh: Đã có sắc tướng thì phải có bản tánh. 
				 
				           
				 3)Như thị thể: Có bản tánh thì phải có chất thể. 
				 
				           
				 4)Như thị lực: Một khi vật chất có chất thể thì chắc chắn nó sẽ 
				 có năng lực. 
				 
				           
				 5)Như thị tác: Có năng lực rồi thì nó sẽ tạo ra nhiều chức năng 
				 khác nhau. 
				 
				           
				 6)Như thị nhân: Không có một hiện tượng vật chất hay tinh thần 
				 nào trên thế gian này có thể hiện hữu trên thế gian này một 
				 cách tự nhiên được. Vì thế cái gì cũng phải có nguyên nhân để 
				 phát sinh ra. 
				 
				           
				 7)Như thị duyên: Một hạt cải nếu không có những trợ duyên như 
				 nước, phân bón, ánh sáng mặt trời…thì vĩnh viễn nó không bao 
				 giờ thành cây cải được. 
				 
				           
				 8)Như thị quả: Nhân gặp duyên thì sẽ thành quả. 
				 
				           
				 9)Như thị báo: Một kết quả không những chỉ tạo ra một hiện 
				 tượng mà nó còn lưu lại một tồn dư nào đó. Thấy một bà già qua 
				 đường (duyên), chúng ta đến để dìu bà ta (nhân). Nhờ đó mà bà 
				 già đi qua được an toàn (quả). Nhưng sau đó chúng ta cảm thấy 
				 lòng được hân hoan vì vừa làm mọt việc thiện thế thì cái cảm 
				 giác tốt chính là báo từ quả mà có. 
				 
				           
				 10)Như thị bản mạt cứu cánh đẳng: Tất cả vạn pháp trong thế 
				 gian này lúc nào liên hệ, tương tục với nhau, làm nhân làm 
				 duyên làm quả cho nhau nên rất khó mà khẳng định cái nào là 
				 nhân, cái nào là quả. Tuy thế, chúng luôn vận hành dựa theo quy 
				 luật “Thập như thị” đó là từ đầu cho đến cuối đều hướng về một 
				 thật tướng và cứu cánh bình đẳng. 
				 
				           
				 Con người vì không nhìn vạn pháp bằng “Như Thị” mà nhìn bằng 
				 những phạm trù đối đãi phân biệt cho nên mới sinh ra phải quấy, 
				 thương ghét, tốt xấu, thân sơ, vui mừng buồn giận…Nếu nhìn vạn 
				 pháp bằng tánh “Như Thị” thì đó là lối nhìn theo Tri Kiến Vô 
				 Kiến. Ngược lại nếu con người dựa theo thiển kiến chủ quan của 
				 mình mà nhìn vạn pháp thì chắc chắn họ sẽ đánh mất tánh “Như 
				 Thị” cho nên lối nhìn này chính là Tri Kiến Lập Tri có thể đưa 
				 con người đến những nhận định không chính xác, sai lầm, thiếu 
				 hoàn hảo. 
				 
				           
				 Vì thế kinh Lăng Nghiêm có dạy rằng: 
				 
				 
				           
				 Nghĩa là nếu con người lấy sự thấy biết bên ngoài đem vào tâm 
				 làm tâm phát khởi sự phân biệt khiến tham-sân-si dấy khởi thì 
				 đây là căn nguyên của vô minh. Còn thấy biết thì cái gì cũng 
				 thấy biết, nhưng không đem vào tâm thì thấy biết mà cũng như 
				 không thấy biết gì hết nên tâm hằng thanh tịnh thì đây chính là 
				 Niết bàn vậy. 
				 
				 Bấy giờ 
				 có một số Thanh Văn, Duyên Giác, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Cận Sự 
				 Nam, Cận Sự Nữ, những người phát tâm tiểu thừa đều có cùng ý 
				 nghĩa rằng: Lạ thật! Cớ chi hôm nay đức Phật tán thán pháp của 
				 Phật chứng đắc cao sâu, khó nghe, khó hiểu...nào là Như Lai 
				 phương tiện nói pháp khéo léo, hàng Thanh Văn, Duyên Giác không 
				 thể hiểu được...!  
				 
				 Tại sao 
				 Như Lai nói thế! Từ lâu đức Phật dạy chúng ta pháp tu giải 
				 thoát, chúng ta đã chứng đắc Niết Bàn rồi. Cớ chi hôm nay đức 
				 Phật như có ý chê trách những điều tu học và chứng đắc của hàng 
				 Thanh Văn, Duyên Giác bấy lâu nay!  
				 
				 Từ khi 
				 đức Phật thành đạo đến nay, Phật dạy giáo lý Tứ Diệu Đế cho 
				 hàng Thanh Văn, thuyết 12 Nhân Duyên cho hàng Duyên Giác tinh 
				 tấn tu hành có được giải thoát chứng đắc Niết bàn trở thành 
				 thánh giả A la hán và Bích Chi Phật. Thế mà hôm nay Phật lại 
				 tán thán pháp của Phật mới cao siêu, tuyệt diệu, không thể dùng 
				 trí tuệ của hàng Thanh Văn hay Duyên Giác suy lường mà hiểu 
				 được. Tại sao Phật lại nói các pháp đó chẳng phải là cứu cánh, 
				 chẳng triệt để, tột cùng chẳng qua là quyền pháp chớ 
				 chẳng phải là thật pháp, chỉ là quyền trí chớ chẳng phải 
				 là thật trí? Lẽ nào pháp của Phật nói trước kia là sai hay sao? 
				 Pháp mà Phật nói bây giờ mới đúng chăng? Nếu là sai thì tại sao 
				 đại chúng lại tu chứng và đắc quả? Nếu pháp Phật nói nước kia 
				 không đúng như thế thì quả vị tu chứng lẽ nào cũng đều là giả 
				 chăng? 
				 
				 Ông 
				 Xá-Lợi-Phất cảm thông ý của đại chúng cũng như nỗi lòng hoang 
				 mang của chính mình, bèn thưa hỏi Phật:  
				 
				 -Bạch 
				 Thế Tôn!  Nhân duyên gì hôm nay Thế Tôn ngợi khen pháp 
				 phương tiện nhiệm mầu sâu xa khó hiểu của chư Phật? Hiện giờ 
				 bổn chúng có lòng nghi, xin Như Lai dạy rõ cho về duyên cớ ấy!
				  
				 
				 Tất cả 
				 đại chúng đều hoang mang vì câu nói của Phật. Bởi vì hàng Thanh 
				 Văn và Duyên Giác đã thực hành rốt ráo những gì cần thiết để có 
				 giải thoát và chứng đắc Thánh quả cho nên đối với họ đây là 
				 những giáo lý tối thượng mà đức Phật đã giảng dạy và chính họ 
				 đã thành tựu viên mãn. Vì thế, Tôn giả Xá Lợi Phất là bậc trí 
				 tuệ bậc nhất biết đại chúng nghi ngờ nên thưa hỏi Phật lý do gì 
				 Phật lại tán thán những phương tiện sâu xa nhiệm mầu khó hiểu 
				 như vậy. Việc đó như thế nào? Xin Phật hãy giải bày. 
				 
				 Phật 
				 bảo: 
				 
				 -Xá-Lợi-Phất! 
				 Thôi! Thôi đi! Đừng hỏi việc đó. Nói việc đó ra thì tất cả 
				 người, trời, A-tu-la ở trong đời đều sẽ kinh sợ và nghi ngờ, 
				 không tốt.  
				 
				 Bạch 
				 Thế Tôn! Ông Xá-Lợi-Phất thưa, xin Thế Tôn nói cho. Trong hải 
				 hội này có người lãnh hội được lời dạy của Phật và có thể đủ 
				 sức kính tin.  
				 
				 Ở đây, 
				 pháp mà Phật muốn nói thì không thể nói, rất khó nói. Tại sao 
				 pháp Phật nói ra sẽ làm cho người, trời, A tu la khắp đều kinh 
				 sợ, nghi ngờ? Giáo lý Phật Đà thì gọi là Khế kinh nghĩa là trên 
				 thì khế (phù hợp) với lý của chư Phật và dưới thì hợp với căn 
				 cơ của chúng sinh. Thí dụ Phật dạy chư ác mạc tác, chúng 
				 thiện phụng hành là khế cơ nghĩa là nên làm lành lánh ác thì sẽ 
				 có phước thiện. Nhưng trong kinh Pháp Hoa này ở chương sau có 
				 phẩm Đề Bà Đạt Đa là người phạm tội ngũ nghịch mà vẫn được Phật 
				 thọ ký và sẽ thành Phật. Nghe qua thì không phù hợp với đạo lý 
				 làm người (không hợp với khế cơ), nhưng đứng về mặt chân lý thì 
				 bất cứ ai cũng đều có Phật tánh cho dù kẻ đó là người đại ác. 
				 Vì có Phật tánh nên trước sau có ngày họ cũng sẽ thành Phật. 
				 Đây là khế lý vậy. Do đó khế lý thường đối nghịch với khế cơ vì 
				 thế Phật không muốn nói là ở chỗ nầy. 
				 
				 Tuy 
				 Phật không muốn nói, nhưng ngài Xá lợi Phất nài nỉ khẩn cầu đức 
				 Phật nhất định phải nói. Đây là thỉnh pháp vì có thỉnh Phật mới 
				 diễn nói diệu pháp. Hy vọng đức Thế Tôn hãy vì chúng sinh nói 
				 pháp huyền diệu này chớ đừng do dự. 
				 
				 Đức 
				 Phật lại khuyên ngăn: 
				 
				 -Rằng 
				 nếu nói việc đó thì người, trời, a-tu-la đều kinh nghi, Tỳ 
				 kheo, tăng-thượng-mạn sẽ sa vào hầm tội lỗi. 
				 
				 Tỳ kheo 
				 tăng thượng mạn là những người cho rằng pháp gì họ cũng đều 
				 hiểu biết hết nên dễ sinh tâm kiêu mạn. Tăng thượng mạn cũng có 
				 nghĩa là chưa thực chứng quả vị Vô thượng Bồ đề mà nghĩ rằng 
				 mình đã chứng rồi. Dựa theo tư tưởng Đại thừa thì quả A la hán 
				 chưa phải là cứu cánh, chỉ là hóa thành chứ chưa phải là đã 
				 thành tựu bảo sở tức là đạt đến Phật quả viên mãn. Vì là những 
				 người tăng thượng mạn như thế cho dù là pháp thâm sâu vi diệu 
				 khó lường của Phật thì họ cũng chẳng cung kính tin nhận. 
				 
				 Ông 
				 Xá-Lợi-Phất lại ân cần cầu thỉnh xin Phật rủ lòng thương...
				  
				 
				 Sau ba 
				 lần cầu thỉnh thiết tha của ông Xá-lợi-phất, đức Phật vừa hứa 
				 khả, tức thì trong hải hội có các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, 
				 cận-sự-nam, cận-sự-nữ, cả thảy năm ngàn người đứng dậy bái Phật 
				 xin được rút lui. 
				 
				  Sau ba 
				 lần tha thiết thỉnh cầu Phật thuyết giảng pháp vi diệu thậm 
				 thâm cuả Tôn giả Xá Lợi Phất, đức Phật chấp nhận nói kinh Pháp 
				 Hoa. Khi nghe Phật đồng ý nói kinh thì trong pháp hội có năm 
				 ngàn Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ bèn từ chỗ ngồi 
				 đứng dậy, lễ Phật mà lui đi. Cả đời đức Phật ôm ấp một hoài bảo 
				 là muốn đem một giáo lý cao siêu vi diệu để truyền lại cho đệ 
				 tử mình, nhưng không vì thế mà ai ai cũng nhiệt tình đón nhận. 
				 Đây là một bài học rất đáng giá vì cho dù đạo Phật đưa con 
				 người đến chỗ giải thoát giác ngộ, nhưng không phải ai cũng 
				 nghe, cũng tin, cũng thực hành được. Vì thế người học Phật là 
				 người phải có chủng tử Phật pháp đã gieo trồng nhiều đời nhiều 
				 kiếp vậy. Không biết chúng ta ngày nay có phải là những người 
				 trong số năm ngàn người ngày xưa đã rời bỏ pháp hội hay không 
				 mà mãi trên 2500 năm sau mới được nghe kinh Pháp Hoa? 
				 
				 Tóm 
				 lại, khi Phật nói kinh Pháp Hoa có năm ngàn trong số 12.000 đệ 
				 tử bỏ đi. 
				 
				 Đây là 
				 nhìn từ góc độ “Sự Tướng” mà nói rằng trong hàng đệ tử Phật có 
				 hai hàng Pháp khí: Một là Chân gồm các vị tưởng lão như Xá Lợi 
				 Phất, Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na…Hai là hàng Tăng thượng mạn 
				 nghĩa là hạng người tự cho rằng đã chứng ngộ đầy đủ nên không 
				 cần học hỏi thêm. Nhưng bây giờ nếu nhìn theo “Lý Tánh” thì 
				 không có năm ngàn, bốn ngàn hay bất cứ vị Tỳ kheo nào bỏ đi 
				 hết. Mà thâm ý của kinh khi đưa ra con số 5.000 là kinh muốn 
				 dùng con số năm để ám chỉ cho ngũ uẩn. Tại sao? Bởi vì một 
				 người khi đã chứng đắc quả A la hán thì tất cả các chủng tử hữu 
				 lậu đã tan biến và trong họ chỉ còn chủng tử vô lậu nghĩa là 
				 tất cả phiền não khổ đau và những nguyên nhân đưa đến phiền não 
				 khổ đau 
				 cũng không còn. Đó là các ngài đã chứng chân lý Vô Ngã nghĩa là 
				 trong họ không hề có “Cái 
				 Ta” hay “Cái 
				 của Ta”. Trong thì Ngã không, ngoài thì Pháp 
				 không, trong ngoài tự tại thì làm gì còn chấp? Con người vì tin 
				 chắc rằng thân mình là thật, là Ta, là của Ta và là sở hữu của 
				 Ta, sống giữ chết mang theo cho nên có sống chết, tranh đấu để 
				 bảo vệ Ta và cái của Ta vì thế mới có phiền não, khổ đau. Do 
				 vậy hạng tăng thượng mạn là những người còn chấp Ngã, ngũ uẩn 
				 che lấp chấp ngã nên thấy mình là thật và thế gian vũ trụ là 
				 thật nên bám víu, 
				 chấp thủ và dĩ nhiên làm nô lệ cho phiền não vô minh. Vì vậy 
				 hạng tăng thượng mạn là những người còn chấp Ngã tức là còn 
				 sống trong vô minh bất giác, chơn tánh bị che mờ nên không thấy 
				 được Phật. Phật mà kinh nói ở đây không phải là Phật Thích Ca 
				 Mâu Ni mà chính là chơn tâm, Phật tánh, là Tri Kiến Phật hằng 
				 sáng của mình. 
				 
				 Nhưng 
				 Tâm Kinh dạy rằng “ngũ uẩn giai không” nghĩa là trong ngũ uẩn 
				 chỉ là sự vay mượn, kết hợp bởi “Duyên Khởi” cho nên mỗi uẩn là 
				 vô ngã và dĩ nhiên ngũ uẩn phải là vô ngã. Mà đã là vô ngã, tạm 
				 bợ, nay có mai không thì cái gì là Ta hay của Ta? 
				 
				 Trong 
				 phần phẩm Tựa có câu “Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán 12.000 
				 người, các vị đó đều là A la hán, các lậu đã hết, không còn 
				 phiền não”. Như vậy kinh đã xác định các vị A la 
				 hán đều diệt hết các lậu hoặc và phiền não nên làm gì còn chấp 
				 Ngã hay tăng thượng mạn. Thêm nữa kinh dùng con số 12.000 vị A 
				 la hán cũng là ẩn dụ. Tại sao? 12.000 là kinh muốn ám chỉ con 
				 số 12 bởi vì 12 là biểu trưng cho sáu căn và sáu trần, không có 
				 sáu thức. Bình thường thập bát giới là sáu căn, sáu trần và sáu 
				 thức là thế giới của chúng sinh còn sống trong điên đão khổ đau 
				 bởi vì căn tiếp xúc với trần liền sinh thức để phân biệt rồi 
				 bám chặt vào thức nên vọng tưởng phát sinh. Nhưng ở đây các vị 
				 A la hán đã dứt hết lậu hoặc nên tuy căn có tiếp xúc với cảnh 
				 (trần) mà vẫn như như bất động tức là thức không sanh. Đó là 
				 mắt thấy sắc mà không bị sắc mê hoặc, tai nghe âm thanh mà 
				 không bị tiếng thị phi phải quấy chi phối…nghĩa là kiến sắc phi 
				 can sắc, văn thanh bất nhiễm thanh… 
				 
				 Đức Thế 
				 Tôn an nhiên, không ngăn cản và bảo ông Xá-Lợi-Phất: 
				 
				 -Rằng 
				 trong đại chúng  giờ đây không còn những trái đèo hạt lép 
				 mà chỉ còn toàn trái tốt và hạt chắc. 
				  
				 
				 
				 -Xá-Lợi-Phất! Những hạng người tăng thượng mạn như vậy, lui đi 
				 vẫn tốt.  Vậy ông lắng ý mà nghe, Như Lai sẽ nói về sự 
				 nhiệm mầu khó nghe, khó hiểu. Và Như Lai cũng nói cho ông biết 
				 lý do của sự có mặt của Như Lai trong cõi đời này. 
				  
				 
				 -Này! 
				 Xá-Lợi-Phất! Pháp mầu sâu thẩm của chư Phật, đúng thời mới đem 
				 ra nói.  Như hoa Linh Thoại đến thời tiết mới trổ một lần.
				  
				 
				 
				 -Xá-Lợi-Phất! Chư Phật thuyết pháp phải đúng thời, tùy đối 
				 tượng, hợp căn cơ cho nên mỗi người, mỗi lúc khác nhau.  
				 Vì vậy, pháp của chư Phật nói khó nghe, khó hiểu, vì ý thú rất 
				 nhiệm mầu, Chư Như Lai vận dụng vô số phương tiện, giảng nhiều 
				 cách, dẫn nhiều tỉ dụ, thay đổi ngôn từ, lời lẽ khéo đẹp, đáp 
				 ứng cho mọi hạng người. Vì vậy mà pháp Phật nói không thể suy 
				 lường phân biệt hời hợt thông thường mà có thể hiểu được. Chỉ 
				 có Phật và Phật mới thấu hiểu hết ý của nhau. 
				  
				 
				 Tuy năm 
				 ngàn người rời pháp hội, nhưng đức Phật không hề khuyên họ ở 
				 lại mà Ngài im lặng để họ ra đi. Đạo Phật là đạo tùy duyên cho 
				 nên năm ngàn người rời pháp hội là những người không có duyên 
				 được nghe kinh Pháp Hoa. Còn những người còn lại đều là những 
				 hạt giống tốt, những chủng tử lành sẵn sàng đón nhận những giọt 
				 mưa thậm thâm vi diệu từ đức Phật để sinh chồi nẩy nhánh và sau 
				 cùng kết hoa tươi thắm. Mặc dù giáo pháp Phật sắp nói ra mầu 
				 nhiệm vô cùng, nhưng chính đức Phật cũng phải đợi đến đúng 
				 thời, đúng lúc thì Ngài mới đem ra chia xẻ với chúng sinh được. 
				 Cũng như hoa Linh Thoại đến lúc nở thì nó mới nở chớ không thể 
				 nở sớm hơn được và nó chỉ nở trong thời gian rất ngắn thì tàn 
				 cho nên loại hoa này rất trân quý hiếm có. Giáo pháp quá vi 
				 diệu Phật phải đợi gần 40 năm từ khi thành đạo mới có cơ hội 
				 đem ra thuyết giảng cho đại chúng. Pháp này không thể dùng tâm 
				 thức để phân biệt suy lường mà thấu hiểu được mà chỉ có Phật 
				 với Phật mới biết được pháp này. 
				 
				 
				 -Xá-Lợi-Phất ơi! Ông làm sao hiểu được cái lý do cực kỳ quan 
				 trọng mà các đức Phật xuất hiện ở đời!  
				 
				 -Nầy! 
				 Xá-Lợi-Phất! Như Lai xuất hiện ở đời nhằm:  
				 
				 Mở bài 
				 và giới thiệu “ Tri Kiến Phật ” của chúng sanh 
				  
				 
				 Vận 
				 dụng ngôn từ, tỷ dụ, khéo léo để “chỉ” Tri Kiến Phật của chúng 
				 sanh cho chúng sanh biết.  
				 
				 Hướng 
				 dẫn cho chúng sanh “Hiểu Kỹ ” về  Tri Kiến Phật của mình.
				  
				 
				 Khuyến 
				 cáo, khích lệ cho chúng sanh sống bằng Tri Kiến Phật mà mình 
				 vốn có.  
				 
				 Đó là 
				 cái lý do cực kỳ quan trọng mà chư Phật Như Lai xuất hiện ở cõi 
				 đời. Mục đích của chư Phật ra đời chỉ vì một việc: Đem Tri Kiến 
				 Phật chỉ dạy cho chúng sanh tỏ ngộ đấy mà thôi! 
				  
				 
				  “Tri” 
				 là chỉ có ý thức, còn chữ “kiến” là chỉ cho nhãn thức. Tuy Phật 
				 nói Tri Kiến tức là thấy biết, nhưng thật ra nó đã bao gồm toàn 
				 bộ: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý 
				 thức. Tuy chúng sinh có tướng trạng khác nhau, tánh nết khác 
				 nhau, nghiệp báo nặng nhẹ khác nhau, nhưng tất cả đều có cái 
				 thấy, cái nghe, cái nếm, cái ngửi, cái xúc, cái biết giống y 
				 như Phật. Cái tri kiến của chúng sinh và của Phật Thích Ca 
				 hay của mười phương chư Phật vốn thanh tịnh đều giống hệt như 
				 nhau nên mới gọi là tri kiến Phật. Thế mà từ vô thỉ đến nay 
				 chúng sinh không hề hay biết chính mình cũng có tri kiến Phật 
				 nên không sống đúng với cái tri kiến thanh tịnh này mà sống 
				 bằng tri kiến điên đảo của phàm nhân. Cái tri kiến của chúng 
				 sinh cũng sử dụng cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái 
				 xúc, cái biết nhưng lại nương vào mừng, giận, thương, sợ, yêu, 
				 ghét, muốn, tham, sân, si, mạn, nghi, phẩn, hận, phú, não, tật, 
				 san…nên cuộc sống thiếu thăng bằng, làm nô lệ cho phiền não vô 
				 minh. Do đó hằng ngày thay vì sử dụng tri kiến Phật thanh tịnh 
				 của mình thì con người sử dụng tri kiến lập tri. Mà tri kiến 
				 lập tri tức vô minh bổn nghĩa là nếu con người lấy sự thấy biết 
				 bên ngoài đem vào tâm làm tâm phát khởi sự phân biệt khiến 
				 tham-sân-si dấy khởi thì đây là căn nguyên của vô minh. Còn 
				 sống với tri kiến Phật tức là tri kiến vô kiến mà tri kiến vô 
				 kiến tư tức Niết bàn nghĩa là thấy biết thì cái gì cũng thấy 
				 biết, nhưng không đem vào tâm thì tuy thấy biết tất cả mà cũng 
				 như không thấy biết gì hết nên tâm hằng thanh tịnh thì đây 
				 chính là Niết bàn vậy.
				  
				 
				 Nói 
				 cách khác tất cả những căn bản và tùy phiền não cũng phát xuất 
				 từ tri kiến lập tri. Trong khi đó chư Phật cũng có tri kiến như 
				 tất cả chúng sinh, nhưng tri kiến của Phật là tri kiến vô kiến 
				 tư tức Niết bàn nghĩa là tri kiến mà không cộng thêm phân biệt, 
				 chấp ngã tướng, chấp nhơn tướng, chấp chúng sinh tướng, chấp 
				 thọ giả tướng. Nói tóm lại, những quan niệm về chấp ngã, chấp 
				 pháp đã được đức Phật dẹp bỏ hết. 
				 
				 Thế thì 
				 đại sự nhân duyên lớn mà đức Phật xuất hiện ở đời là muốn chỉ 
				 cho chúng sinh biết chính họ cũng có cái tri kiến Phật giống y 
				 như Ngài vậy. Đến đây, đức Phật chính thức công bố cho đại 
				 chúng biết lý do tại sao Ngài thị hiện trên thế gian này. Đó 
				 là: “Phật 
				 vi nhất đại sự nhân duyên, xuất hiện ư thế” 
				 nghĩa là Phật chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời. 
				 Nhưng Phật muốn nói nhân duyên gì? Đó là “Khai 
				 thị chúng sinh ngộ nhập Phật Tri Kiến”. Khai có 
				 nghĩa là mở ra cho nên Khai Phật tri kiến là mở kho tàng tri 
				 kiến của Phật ra. Thị tức là chỉ cho thấy cho nên Thị Phật tri 
				 kiến tức là chỉ cho chúng sinh thấy cái kho tri kiến của Phật. 
				 Ngộ tức là bừng tỉnh mà thấy được một sự thật (chân lý) nào 
				 đó. Sau cùng Nhập là đi vào, là chứng nghiệm chớ không phải chỉ 
				 đứng bên ngoài mà nhìn vào mà phải chính mình nghiệm chứng sự 
				 thật đó. Do đó câu “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến” 
				 có nghĩa là Phật muốn đem cái thấy biết của mình mà chỉ cho tất 
				 cả chúng sinh thấy để họ cũng có thể tỏ ngộ được như Phật. 
				 
				 Đức 
				 Phật thị hiện giáo hóa chúng sinh, chuyển bánh xe pháp cũng 
				 không ngoài mục đích muốn chúng sinh ngộ nhập Phật Tri Kiến tức 
				 là thể nghiệm và sống được với chơn tâm của mình. Vì thế Phật 
				 mới dạy rằng: “Nhất 
				 thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật” 
				 nghĩa là trong tất cả chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh, 
				 đều có thể thành Phật. Nhưng nếu chúng sinh đều có Phật tánh 
				 thì tại sao đến nay chúng ta vẫn chưa thành Phật? Cũng chỉ vì 
				 tâm của chúng sinh chất đầy vọng tưởng, chấp trước. Vậy chúng 
				 ta chấp cái gì? Chấp “cái 
				 ta” tức là bản ngã và cái “của 
				 ta” tức là ngã sở hữu cho nên không buông bỏ 
				 được những hưởng thụ vật chất trong thế gian. Con người luôn 
				 níu kéo, nắm bắt mãi, càng có thì càng chấp trước thêm và ham 
				 thích hưởng thụ nên chưa thể thành Phật. Cho nên đức Phật mới 
				 dạy rằng: “Do 
				 vọng tưởng và chấp trước mà tất cả chúng sinh không thể chứng 
				 đắc, không thể thành Phật” là vậy. 
				 
				 Thế nào 
				 là sống bằng tri kiến Phật vốn sẵn có của mình? 
				 
				 Tri 
				 kiến Phật trong kinh Pháp Hoa này tức là chơn tâm thường trú 
				 của kinh Lăng Nghiêm. Hằng ngày chúng sinh không sử dụng cái 
				 chơn tâm thường trú của mình mà họ chỉ sử dụng vọng tâm sinh 
				 diệt chẳng khác nào mình chỉ biết “khách” mà không biết “chủ”. 
				 Khách thì có đến rồi đi, chỉ có chủ mới ở lại. Chơn tâm, Phật 
				 tánh hay tri kiến Phật lúc nào cũng ở với chúng ta tức là chủ 
				 mà con người lại bỏ quên nó. Trong khi vọng tâm sinh diệt là 
				 khách trần mà con người lại chú ý đến nên biến cuộc sống thanh 
				 tịnh thành điên đão khổ đau. Khi những hiện tượng như mừng, 
				 giận, yêu, ghét, thân, sơ, muốn, bỏ, hơn, thua, phải, quấy, 
				 tốt, xấu… 
				 xuất 
				 hiện thì cái tâm ấy không phải là chơn tâm mà chỉ là những 
				 khách trần phiền não. Khi không còn sự phân biệt đối đãi trong 
				 tâm thức tức là những phạm trù đối đãi nhị nguyên biến mất thì 
				 con người sẽ sống với thực tại, với tánh giác hằng sáng của 
				 mình thì đây mới chính là bản tâm của ta tức là sống với ông 
				 chủ vậy. 
				 
				 Tâm 
				 thanh tịnh không có nghĩa là tâm đứng lặng, không nghĩ ngợi, 
				 không làm gì hết. Tâm thanh tịnh là trạng thái tự tại được biểu 
				 hiện qua thân, khẩu, ý đúng như Chánh pháp. 
				 
				 1)
				 
				 Thân: Chánh niệm cho ta biết những việc làm nào đi ngược với 
				 chơn tánh, trái với đạo lý thì không làm. Ngược lại nên làm 
				 việc gì có lợi cho mình, lợi cho người. 
				 
				 2)
				 
				 Khẩu: Chánh niệm cho ta biết lời nói nào là nói dối, nói lưỡi 
				 hai chiều, nói lời độc ác…
				 
				 thì đừng nên nói. Ngược lại nên nói đúng, nói ái ngữ, nói điều 
				 thiện, nói lời lợi mình lợi người. 
				 
				 3)
				 
				 Ý: Tâm thanh tịnh không có nghĩa là vô niệm, không có nghĩ gì 
				 hết. Mà vô niệm ở đây là Chánh niệm tức là con người còn sống 
				 là còn tư duy nhưng chỉ nghĩ về thiện, suy tư về việc lợi mình, 
				 lợi người, lợi cho tất cả. 
				 
				 Tóm 
				 lại, nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện tức là thân khẩu ý đều 
				 làm thiện cho nên tuy thân khẩu ý vẫn hoạt động, vẫn nói năng, 
				 vẫn tư duy mà vẫn là thanh tịnh. Ngày xưa đức Phật Thích Ca vẫn 
				 đi, đứng, nằm, ngồi vẫn nói năng bình thường, nhưng thân khẩu ý 
				 là biểu hiện từ trí tuệ trong sáng của Ngài nên tất cả đều là 
				 thiện, là tốt đấy chứ. 
				 
				 Đức 
				 Phật vì có nhất thiết trí, công đức vô lượng, đại bi, trí tuệ 
				 được tự tại, trong định được tự tại, biến hóa tự tại. Nói chung 
				 đức Phật có mười tám pháp gọi là Thập Bát Bất Cộng Pháp nên 
				 thân, khẩu, ý của Ngài lúc nào cũng tự tại, Ngài làm tất cả 
				 nhưng không có lỗi lầm. 
				 
				 Dựa 
				 theo kinh Đại Phẩm Bát Nhã 5, phẩm Quảng Thừa thì 
				 
				 Thập Bát Bất Cộng Pháp của đức Phật gồm có: 
				 
				 1)
				 
				 Thân vô 
				 thất: 
				 Đức Phật từ vô lượng kiếp đến nay luôn giữ giới thanh tịnh, 
				 công đức đầy đủ, tất cả phiền não đều dứt cho nên thân không 
				 lỗi (làm điều sai quấy). 
				 
				 2)
				 
				 Khẩu vô 
				 thất: 
				 Phật có vô lượng trí tuệ biện tài cho nên pháp do Ngài nói ra 
				 tùy theo căn cơ của chúng sinh khiến cho họ đều được chứng ngộ. 
				 
				 3)
				 
				 Niệm vô 
				 thất: 
				 Phật tu các thiền định sâu xa, tâm không tán loạn, tâm không 
				 đắm nhiễm các pháp, được sự an ổn đệ nhất nghĩa. 
				 
				 4)
				 
				 Vô dị 
				 tưởng: 
				 Phật bình đẳng hóa độ tất cả chúng sinh, tâm không chọn lựa. 
				 
				 5)
				 
				 Vô bất 
				 định tâm: 
				 Mọi hành động đi, đứng, nằm, ngồi của Phật thường không lìa 
				 thắng định sâu xa, nhiếp trụ trong thiện pháp, không thoái thất 
				 thật tướng các pháp. 
				 
				 6)
				 
				 Vô bất 
				 tri dĩ xả tâm: 
				 Đối với các thọ như khổ, vui…trí tuệ Phật biết rằng tướng sinh, 
				 trụ, dị, diệt trong từng niệm và trụ trong sự vắng lặng bình 
				 đẳng. 
				 
				 7)
				 
				 Dục vô 
				 giảm: 
				 Phật có đầy đủ thiện hạnh nên luôn muốn hóa độ tất cả chúng 
				 sinh không bao giờ chán bỏ. 
				 
				 8)
				 
				 Tinh 
				 tấn vô giảm: 
				 Thân tâm của Phật đều tinh tấn, và độ chúng sinh nên thường làm 
				 các phương tiện, không dừng nghĩ. 
				 
				 9)
				 
				 Niệm vô 
				 giảm: 
				 Pháp và tất cả trí tuệ của chư Phật ba đời đều tương ưng, không 
				 thoái chuyển. 
				 
				 10)
				 
				 Huệ vô 
				 giảm: 
				 Phật có tất cả trí tuệ và trí tuệ này vô ngại đối với ba đời 
				 cho nên không bao giờ khuyết giảm. 
				 
				 11)
				 
				 Giải 
				 thoát vô giảm: 
				 Phật xa lìa tất cả chấp trước, có đủ hữu vi giải thoát và vô vi 
				 giải thoát. Tất cả tập khí phiền não thảy đều dứt sạch cho nên 
				 đối với giải thoát không khuyết giảm. 
				 
				 12)
				 
				 Giải 
				 thoát tri kiến vô giảm: 
				 Phật thấy biết rõ ràng các tướng giải thoát, không bị che 
				 chướng. 
				 
				 13)
				 
				 Tất cả 
				 
				 thân nghiệp tùy trí tuệ mà thực hành. 
				 
				 14)
				 
				 Tất cả 
				 
				 khẩu nghiệp tùy trí tuệ mà nói năng. 
				 
				 15)
				 
				 Tất cả 
				 
				 ý nghiệp tùy trí tuệ mà tư duy. 
				 
				 Ba pháp 
				 này là ứng dụng khi Phật khởi 3 nghiệp thân, khẩu, ý. Trước hết 
				 Phật suy nghĩ đúng, rồi nói và hành động theo trí tuệ cho nên 
				 Phật 
				 không có lỗi lầm bởi vì tất cả việc làm của Phật đều làm lợi 
				 ích cho chúng sinh. 
				 
				 16)
				 
				 Trí tuệ 
				 
				 thấy 
				 
				 biết quá khứ vô ngại, vô chướng. 
				 
				 17)
				 
				 Trí tuệ 
				 
				 thấy 
				 
				 biết vị lai vô ngại vô chướng. 
				 
				 18)
				 
				 Trí tuệ 
				 
				 thấy 
				 
				 biết hiện tại vô ngại vô chướng. 
				 
				 Thế thì 
				 đức Phật Thích Ca vẫn cứ đi, đứng, nằm, ngồi vẫn nói vẫn tư duy 
				 bình thường chỉ có điều là thân vô thất, khẩu vô thất và ý vô 
				 thất nghĩa là thân không hề có lỗi, ý không hề có lỗi và khẩu 
				 không hề có lỗi và dĩ nhiên thân nghiệp tùy theo trí tuệ mà 
				 thực hành, khẩu nghiệp tùy theo trí tuệ mà nói năng và ý nghiệp 
				 cũng tùy theo trí tuệ mà tư duy. Nói cách khác thân khẩu ý đều 
				 là động cơ phát xuất từ trí tuệ cho nên đức Phật thân vẫn hoạt 
				 động, miệng cứ nói và ý cứ tư duy mà lúc nào Ngài cũng an nhiên 
				 tự tại đấy chứ. Vậy thập bát bất cộng pháp là tiêu chuẩn của 
				 đấng Vô Thượng Bồ đề cho nên hằng ngày đức Phật vẫn nói vẫn làm 
				 vẫn suy nghĩ chớ không phải là khi thành Phật thì không làm, 
				 không nói năng, không suy nghĩ tức là biến thành vô niệm vô 
				 sanh tức là trở thành gổ đá hay sao? 
				 
				 Con 
				 người có mặt trên thế gian này được xem là một sinh vật tối 
				 linh với đầy đủ lục căn mắt, tai, mũi,
				 
				 lưởi,
				 
				 thân và ý để tiếp nhận và giao cảm với thế giới bên ngoài là 
				 sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp để phát hiện tất cả những ý 
				 tưởng 
				 của 
				 cuộc đời. Bây giờ nếu chúng ta ngồi thiền, niệm Phật để biến 
				 con người thành vô tri, vô giác không còn ý niệm (vô niệm) thì 
				 con người bây giờ có khác gì những người máy, tượng gổ hay cục 
				 đá. Nhưng người máy, cục đá thì bao giờ thành Phật? 
				 
				 Thiền 
				 định trong Phật giáo là tỉnh lự, là suy tư, là Xam-ma-tha để 
				 chặn đứng tất cả vọng niệm không cần thiết. Còn những chân lý 
				 trong cuộc đời đòi hỏi sự tư duy thẩm chiếu để thấu biết tận 
				 cùng rốt ráo vì thế Phật giáo mới dạy tư duy tu để giúp hành 
				 giả tư duy tỉnh lự mà tự mình tìm ra ánh sáng chân lý của sự 
				 vật hiện tượng. Ngày xưa đức Phật thiền định dưới cội Bồ-đề 
				 liên tiếp trong suốt 49 ngày thì Ngài mới hoát nhiên đại ngộ. 
				 Có suy tư, thẩm lự mới thấy được ánh sáng nhiệm mầu. Từ nhận 
				 thức được chân lý đó giúp con người sống theo chân lý, sống 
				 đúng với chân lý và sống phù hợp với chân lý. Thật vậy, từ đức 
				 Thế Tôn đến các vị A la hán,
				 
				 các Ngài hằng ngày vẫn có niệm, có sinh hoạt chớ đâu có vô 
				 niệm, vô sanh.
				 
				 Các Ngài vẫn đi, đứng, nằm, ngồi mà vẫn là Như Lai vô thượng 
				 Bồ-đề, vẫn là A la hán đó chứ. Nếu đức Phật tịnh khẩu thì làm 
				 sao chúng sinh có được giáo pháp như ngày nay
				 
				 và nếu Ngài tịnh thân thì làm sao Phật giáo được xiễn dương 
				 khắp nọi nơi ở Ấn Độ? 
				 
				 Trong 
				 kinh Niệm Xứ (Satipatthnasutta) Đức Phật dạy rằng: 
				 
				 -Này 
				 các Tỳ kheo! Đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho 
				 chúng sinh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh 
				 tri, chứng ngộ Niết bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ. 
				 
				 Nhưng 
				 thế nào là Tứ Niệm Xứ? Đức Phật dạy tiếp rằng: 
				 
				 -Này 
				 các Tỳ kheo! Ở đây Tỳ kheo sống “quán 
				 thân”
				 
				 trên 
				 thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở 
				 đời; sống “quán 
				 thọ”
				 
				 trên 
				 các thọ, nhiệt tâm tỉnh giác; chánh niệm để chế ngự tham ưu ở 
				 đời; sống “quán 
				 tâm”
				 
				 trên 
				 tâm, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; 
				 sống “quán 
				 pháp”
				 
				 trên 
				 các pháp, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở 
				 đời. 
				 
				 Nói 
				 chung trong phần này Phật dạy chánh niệm để đối trị với những 
				 tâm hành sinh diệt, nhưng cốt tủy vẫn đưa chúng sinh đến một 
				 cứu cánh tột đỉnh là thức tỉnh tức là “BIẾT”. 
				 Vậy biết cái gì? Khi tâm tham phát khởi là biết có tham, không 
				 tham thì cũng biết trong tâm không có tham. Sân và si cũng vậy. 
				 Nói cách khác khi lục căn tiếp xúc với sắc thanh hương vị xúc 
				 pháp thì vọng tâm dấy khởi. Ở đây đức Phật dạy chúng sinh thực 
				 hành chánh niệm để biết rốt ráo tận cùng những biến đổi của tâm 
				 mà không cần phải tiêu diệt chúng. Thí dụ thấy tiền nhiều tâm 
				 tham liền nổi dậy, nhưng nếu có chánh niệm thì biết ngay sự 
				 hiện hữu hình thành trạng thái tham của tâm cho nên tâm tham 
				 bây giờ không còn tác động hoành hành được nữa. Nói cách khác, 
				 bất cứ một ý niệm vừa khởi lên, chánh niệm cho ta “biết” đó là 
				 vọng tưởng. Khi đã biết bộ mặt thật của ý thức thì con người 
				 chỉ cần không theo vọng thì vọng tự mất mà không cần phải tiêu 
				 diệt chúng. Nói cách khác, không theo vọng, vọng tự tiêu tan 
				 tức là mê biến thì thời điểm đó giác tự hiển bày. 
				 
				 Tóm 
				 lại, Phật ra đời dạy chúng sinh sống với tri kiến Phật của mình 
				 để chuyển khổ đắc lạc và liễu sinh thoát tử. Nếu con người 
				 không chạy theo vô minh bất giác làm nô lệ cho vật chất giả tạm 
				 mà sống theo chơn tánh hằng sáng thanh tịnh của mình thì đời 
				 này làm gì còn khổ, thế gian này sẽ trở thành cực lạc thanh 
				 tịnh Niết bàn. Giáo lý đức Phật rất thực tế và sự nhiệm mầu ở 
				 đây không phải là cầu nguyện van xin để Phật cho cái này thưởng 
				 cái kia vì có van xin cầu nguyện cách mấy Phật cũng chẳng có 
				 cái gì để cho. Sự huyền diệu là ở cách thực hành, sự hiểu biết 
				 rốt ráo để ứng dụng nó vào trong cuộc đời mà lìa khổ đắc lạc. 
				 Cái lạc tối thiểu là có hạnh phúc cho chính bản thân và cho gia 
				 đình mình và cái lạc tối đa là sống đúng với “Tri Kiến Phật” để 
				 có được Vô thượng Bồ đề Niết bàn giống như chư Phật vậy. 
				 
				 Phật 
				 dạy tiếp rằng: 
				 
				 -Chư 
				 Phật Như Lai nói pháp cho chúng sanh chỉ vì dạy cho họ một “ 
				 Phật thừa” chớ không có hai thừa, ba thừa nào khác.  
				 
				 Pháp 
				 của chư Phật trong mười phương cũng đều như vậy. Chư Phật trong 
				 quá khứ, chư Phật hiện tại cũng như chư Phật vị lai vận dụng vô 
				 số phương tiện, triển khai nhiều cách, ngôn từ khéo léo, thí dụ 
				 dồi dào, nhưng tất cả nhằm dạy cho chúng sanh  “một Phật 
				 thừa” khiến cho những chúng sanh tu hành đều đạt thành “Nhất 
				 thiết chủng trí ”.  
				 
				 Dựa 
				 theo tinh thần Pháp Hoa, tu là để thành Phật cho đến mười 
				 phương chư Phật chỉ có một thừa duy nhất là Phật thừa chớ không 
				 còn Thanh văn thừa, Duyên Giác thừa hay Bồ tát thừa nữa. Thanh 
				 Văn thừa, Duyên Giác thừa hay Bồ tát thừa chỉ là phương tiện, 
				 là những bước trên con đường hướng về giải thoát giác ngộ. 
				 Nhưng sau cùng cứu cánh đức Phật muốn nói ở đây vẫn là Phật 
				 thừa để hướng dẫn chúng sinh sớm viên thành Phật đạo tức là 
				 thành Phật. 
				 
				 Trong 
				 Phật giáo sự phát triển của trí tuệ tùy theo khả năng nhận biết 
				 chân tướng của nhân sinh vũ trụ. Do đó: 
				 
				 1)
				 
				 Đối với phàm nhân thì họ nhìn cuộc đời, thế gian vũ trụ bằng 
				 nhục nhãn tức là bằng đôi mắt thịt nghĩa là cái gì có hình sắc, 
				 kích thước, âm thanh, mùi vị…thì họ cho là thật. Họ tin thân 
				 mình là thật nên còn chấp ngã, tin thế gian vũ trụ là thật nên 
				 còn chấp pháp. Vì còn chấp ngã, chấp pháp nên tham-sân-si, mạn 
				 nghi, tà kiến phát tác mà tạo ra nghiệp để phải chịu quả khổ 
				 đời đời. 
				 
				 2)
				 
				 Nhất Thiết Trí: Các vị Thanh văn không nhìn đời bằng nhục nhãn 
				 như phàm nhân mà họ nhìn thế gian bằng Pháp nhãn. Họ thấy thân 
				 mình là không thật, là tạm bợ, là dơ dáy, là cội nguồn của 
				 những nỗi khổ nên họ cố tu để chứng đắc sự an lạc của Niết bàn 
				 và tìm sự giải thoát quả vị Bồ-đề. Chẳng những nhìn thân mình 
				 không thật mà họ còn nhìn cả thế gian vũ trụ cũng không thật 
				 nên chán ngán cuộc đời và tránh xa bụi trần ô nhiễm. Vì thế đối 
				 với hàng Thanh văn thì chấp ngã không còn tức là họ đã đạt được 
				 Ngã Không, nhưng vì còn thấy có pháp môn để tu, có Niết bàn để 
				 chứng, có đạo quả Bồ-đề để đắc nên họ vẫn còn chấp Pháp tức là 
				 Pháp có. Cho nên cái trí tuệ của họ không phải là trí tuệ giải 
				 thoát tự tại mà vẫn còn dính mắc của Pháp nên trí tuệ nầy là 
				 Nhất Thiết Trí. 
				 
				 3)
				 
				 Đạo Chủng Trí: Đối với các vị Bồ-tát thì họ nhìn thế gian vũ 
				 trụ bằng Tuệ nhãn tức là họ hành thâm bát nhã ba-la-mật để thấy 
				 rằng ngũ uẩn giai không. Dưới mắt của họ thì thế gian vũ trụ là 
				 do duyên khởi tạo thành nên tất cả đều là giả huyễn, là không 
				 thật, là Không. Vì ta là giả, là không thật nên họ có ngã 
				 không. Ta không thật thì người và thế gian vạn vật cũng không 
				 thật nên họ có pháp không. Nói một cách tổng quát dưới mắt của 
				 Bồ-tát thì thế gian vũ trụ là Không. Mặc dù biết thế gian là 
				 Không, nhưng Bồ-tát vẫn còn chấp cái Không nên tâm không được 
				 hoàn toàn tự tại và trí tuệ chưa hoàn toàn sáng suốt triệt để 
				 nên cái trí tuệ nầy gọi là Đạo Chủng Trí. 
				 
				 4)
				 
				 Nhất Thiết Chủng Trí: Hàng Thanh văn thì chấp Pháp có và các vị 
				 Bồ-tát thì vẫn còn chấp Không. Nếu bây giờ bỏ được chấp Pháp có 
				 và chấp Không tức là không còn chấp có pháp môn để tu, có Niết 
				 bàn để chứng, có quả vị Bồ-đề để thành và không còn chấp thế 
				 gian vũ trụ là Không thì có được trí tuệ viên mãn, dung thông 
				 tự tại mà nhà Phật gọi là Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết 
				 Chủng Trí thì thấy vạn pháp là Có nhưng không phải là Có thật, 
				 còn Không nhưng không phải là không của cái trống không. Vì vạn 
				 pháp do nhân duyên hòa hợp nên vạn pháp sanh và khi nhân duyên 
				 tan rã chia ly thì vạn pháp diệt. Thế thì vạn pháp do nhân 
				 duyên hòa hợp nên sanh sanh diệt diệt, diệt diệt sanh sanh mà 
				 người được Nhất Thiết Chủng Trí thì luôn luôn tự tại trước sự 
				 sanh diệt, diệt sanh của hiện tượng vạn pháp nên không cần phải 
				 tiêu cực như hàng Thanh văn và cũng không cần phủ nhận tất cả 
				 như các vị Bồ-tát mà phải thấy vạn pháp nầy có mà không phải có 
				 thật. Mặc dầu không phải có thật mà hiện giờ nó vẫn có vì thế 
				 nên người có Nhất Thiết Chủng Trí làm bất cứ cái gì cần làm để 
				 giúp đở cho tất cả chúng sinh mặc dù chúng sinh là không có 
				 thật. Đây chính con đường trung đạo dung thông giữa cái Có và 
				 cái Không và chỉ có Phật mới đạt được cái trí tuệ nầy. 
				 
				 
				 -Xá-Lợi-Phất! Chư Phật giáo hóa Bồ tát vì muốn đem Tri Kiến 
				 Phật “chỉ” cho chúng sanh, muốn cho chúng sanh tỏ ngộ, hiểu kỹ 
				 về Tri Kiến Phật và thể nhập, sống trong Tri Kiến Phật của 
				 chính mình. Tất cả cõi nước trong mười phương không có hai thừa 
				 làm gì có đến ba! Tại vì chúng sanh sống trong đời đầy năm 
				 trược ác mà chư Phật dùng sức phương tiện ở một Phật thừa phân 
				 biệt tạm nói có ba.  
				 
				 
				 -Xá-Lợi-Phất! Các ông nên một lòng tin hiểu, thọ trì lời dạy 
				 của Phật. Lời của chư Phật không hề có hư vọng. Rằng không có 
				 thừa nào khác, mà chỉ có một  “Phật 
				 thừa” thôi!  
				 
				 Con 
				 người trong thế gian này không phải là nguyên do của tội lỗi 
				 xấu xa bởi vì trong tất cả mọi chúng sinh ai ai cũng đều có tri 
				 kiến Phật (kinh Pháp Hoa), Phật tánh (kinh Đại Niết bàn), Như 
				 Lai viên giác diệu tâm (kinh Viên Giác), chơn tâm thường trú và 
				 thể tánh tịnh minh (kinh Lăng Nghiêm). Vì thế Phật mới dạy rằng 
				 : ”Nhất 
				 thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật” 
				 nghĩa là trong tất cả chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh, 
				 đều có khả năng thành Phật. Cũng ví như ly nước vốn tinh khiết 
				 trong sạch, nhưng vì bị bụi bặm làm nước vẫn đục. Ngũ trược nơi 
				 tự tâm cũng vậy. Tánh giác diệu minh vốn thanh tịnh, thường 
				 trụ, không thay đổi. Ngược lại, vọng tưởng bản chất là giả dối, 
				 sinh diệt, thay đổi. Nhưng chúng sinh vì không giác ngộ được 
				 bản tâm của chính mình mà chạy theo vọng tưởng để cho vọng 
				 tưởng chiếm mất tâm mình nên mới sinh ra ngũ trược mà làm nhơ, 
				 vẩn đục tâm tánh của con người.  
				 
				 Vậy năm 
				 thứ vẩn đục đó ảnh hưởng con người như thế nào? 
				 
				          
				 
				 1) Kiếp 
				 trược: 
				 
				 Kiếp 
				 tức là thời gian. Bổn lai của thời gian chẳng tồn tại, nhưng do 
				 tâm con người phân biệt nên mới có quá khứ, hiện tại và vị lai 
				 cho nên gọi là kiếp. Trược là dơ bẫn, là bất tịnh. Vì con người 
				 chạy theo vọng niệm điên đão nên phải xoay vần trong sinh tử. 
				 Nói cách khác tâm thể của chúng sinh tức là tánh giác diệu minh 
				 vốn trong sáng và hòa nhập vào hư không mười phương thế giới. 
				 Nhưng trong cái diệu minh đó lại phát sinh ra sự phân biệt để 
				 nhận biết tất cả các tướng ở bên ngoài hư không tức là năng 
				 minh. Sự thâu nhập các cảnh giới bên ngoài thì gọi là sở minh. 
				 Nói cách khác, khi con người lầm lẫn chạy theo những vọng niệm 
				 bên ngoài tức là sở minh để chuyển năng minh bên trong của mình 
				 mà có sự phân biệt để tạo nghiệp và tự trói mình trong sinh tử 
				 khổ đau. Một khi tâm thể khởi sự phân biệt thì nó không còn 
				 thanh tịnh, diệu minh như lúc ban đầu vì thế vọng khởi tâm phân 
				 biệt chính là kiếp trược. 
				 
				           
				 
				 2) Kiến trược: 
				 
				 Kiến 
				 trược tức là năm lợi sử: Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ kiến, 
				 Giới cấm thủ kiến và tà kiến. Kiến đại thì bao la trùm khắp 
				 pháp giới, nơi nào cũng có thể thấy được. Nếu kiến đại tác động 
				 vào mắt thì có tánh thấy, vào tai thì có tánh nghe, vào mũi thì 
				 có tánh ngửi, vào lưỡi thì có tánh nếm, vào thân thì có tánh 
				 cảm xúc. Xét cho cùng kiến đại là bao la vô cùng vô tận, nhưng 
				 khi nó tác động vào thân tứ đại của con người liền bị hạn chế, 
				 không còn thấy vô cùng vô tận được nữa. Vì thế tánh thấy lẽ ra 
				 phải thanh tịnh bản nhiên trùm khắp mười phương thế giới, nhưng 
				 khi nó tác động vào thân tứ đại liền bị chia sẻ làm giới hạn 
				 tánh thấy thì đây gọi là “kiến trược”. Do đó tánh thấy của con 
				 người rất bị hạn chế trong kiến, 
				 tri tức là thấy, biết mà cảm thấy hiểu biết. Vì thế khi chúng 
				 sinh đạt được tâm thanh tịnh để quay trở về sống với tự tánh 
				 thanh tịnh bản nhiên thì tánh thấy bây giờ sẽ trở thành vô cùng 
				 vô tận, không còn bị tướng ngũ uẩn ngăn ngại. 
				 
				          
				 
				 3) Phiền não trược:  
				 
				 Phiền 
				 não trược tức là năm thứ độn sử: Tham, sân, si, mạn, nghi. Đây 
				 là gốc rễ của mọi phiền não. 
				 
				 Tri 
				 kiến của chúng sinh là tánh thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh 
				 nếm, tánh xúc và tánh biết được biểu hiện qua lục trần tức là 
				 sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Thí dụ tự thể của con mắt đâu 
				 có tội lỗi xấu xa gì, nhưng khi mắt thấy nhà đẹp, xe sang, tiền 
				 nhiều thì tâm phát sinh lòng tham dục muốn chiếm lấy. Năm căn 
				 còn lại thì cũng thế. Tai nghe lời ngọt dịu thì mê, nghe ai 
				 chửi thì buồn, thì giận. Mũi ngửi hương thơm thì thích, say đắm 
				 còn ngửi mùi hôi thúi thì buồn phiền, chửi rủa. Lưỡi nếm mùi vị 
				 ngon thì tham đắm muốn ăn thêm còn nếm mùi cay đắng thì đâm ra 
				 chán ghét. Nói chung con người khi tiếp xúc với lục trần thì hễ 
				 cái gì bằng lòng thì an vui, tham đắm. Còn cái không bằng lòng, 
				 bất toại ý thì đâm ra bất mãn. Do đó tri giác (sáu căn) và lục 
				 trần tác dụng vào nhau mà phát sinh ra “phiền não trược”. Đây 
				 là nói trên phương diện tục đế sinh diệt của thế gian, nhưng 
				 đối với các bậc thánh như các vị A la hán và Đức Phật thì mắt, 
				 tai, mủi, lưỡi, thân và ý của các Ngài vẫn còn đó như tất cả 
				 chúng sinh. Nhưng tri giác của các Ngài không còn tác động vào 
				 sáu trần nên phiền não không còn quấy phá được vì thế các Ngài 
				 mới có thanh tịnh Niết bàn, thần thông tự tại là vậy. Nói cách 
				 khác khi chúng sinh đã trở về sống với chơn tâm thường trú, thể 
				 tánh tịnh minh, tri kiến Phật hay Như Lai viên giác diệu tâm 
				 của chính mình rồi thì sáu căn, sáu trần không còn là nguyên 
				 nhân để gây ra phiền não khổ đau. 
				 
				          
				 
				 4) Chúng sinh trược: 
				 
				 Chúng 
				 sinh có đủ thứ nhân duyên thiện ác xen tạp cho nên mỗi chúng 
				 sinh đều có nghiệp ác đặc biệt riêng của họ. Vì phải mang theo 
				 ác nghiệp nên chúng sinh cũng ô trược. Con người vì phải chịu 
				 theo sự tiến hóa của thế gian nên thân tâm lúc nào cũng thay 
				 đổi. Thân thì ảnh hưởng bởi luật vô thường: sinh, trụ, dị, diệt 
				 tức là sinh, lão, bệnh, tử. Còn tâm thì chuyển biến theo lý vô 
				 ngã. Vì thế mà thân tâm con người luôn sinh diệt từng giây từng 
				 phút. Nhưng con người lại không đồng ý như vậy mà tri kiến của 
				 họ lúc nào cũng muốn sống lâu, sống thọ. Tuy con người gắn bó 
				 với cái thân tứ đại sinh diệt, với cái ý thức hay biết của mình 
				 và trong mong sống mãi như thế, nhưng con người hễ có sinh tất 
				 phải có diệt nên họ phải nương theo quả báo mà thọ sinh vào 
				 những đời sau. Sống thì phải chết, nhưng con người chết mà vẫn 
				 luyến tiếc mãi cái sống nên hết thân này lại tái sinh thân khác 
				 theo nghiệp báo mà xoay vần mãi mãi trong lục đạo luân hồi. Nói 
				 cách khác khi tâm chúng sinh đã khởi sự phân biệt thì nó liền 
				 đắm say cảnh sắc bên ngoài nên tâm muốn gồm thâu cả thế giới 
				 này về cho nó. Từ đó lòng tham-sân-si phát khởi và dĩ nhiên 
				 những hạnh nghiệp cũng vì thế mà tác tạo. Lòng tham càng to thì 
				 tội nghiệp càng lớn và càng bị ràng buột trong sinh tử triền 
				 miên. 
				 
				          
				 
				 5) Mạng trược : 
				 
				 Mạng là 
				 mạng sống tức là một đoạn thời gian của báo thân chúng sinh. 
				 Trược cũng giống như bùn ở dưới nước, ô nhiễm, bất tịnh. 
				 
				 Một khi 
				 tâm phân biệt đã xuất hiện thì nó sẽ bị những trần cấu bên 
				 ngoài chi phối. Thấy đẹp thì yêu, thấy xấu thì ghét nên muốn 
				 cái đẹp, ghét cái xấu, cứ như thế mà yêu ghét nổi dậy cả ngày. 
				 Trong một thoáng, một chớp mắt đã sinh ra những mê lầm nên cái 
				 thấy không còn đúng nữa. Vì thế mà con người thích nghe lời nói 
				 hay, âm thanh ngọt dịu và chán ghét khi nghe tiếng chỉ trích, 
				 chửi mắng. Mắt thích nhà cao, xe tốt, áo lụa, quần là. Mũi 
				 thích ngửi hương vị thơm tho và buồn phiền khi ngửi mùi hôi 
				 tanh, ô uế. Lưỡi thích nếm đồ ăn ngon, miệng thích ăn cao lương 
				 mỹ vị và khổ đau khi ăn cơm hẩm cá thiu. Nói chung sắc, thanh, 
				 hương, vị, xúc, pháp đã chi phối tâm tánh của con người làm cho 
				 họ quên đi bản tánh thanh tịnh diệu minh đã có sẳn trong họ. 
				 Một khi mắt, tai, mủi, lưỡi, thân và ý vốn thanh tịnh nhưng bị 
				 sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp quyến rũ làm hạn chế sự thấy, 
				 nghe, hay, biết của nó mà bỏ đi tâm tánh Bồ-đề vốn thường thanh 
				 tịnh và trong sáng. Những vẫn đục làm lu mờ tâm tánh con người 
				 này, 
				 Đức Phật gọi là Mạng trược. 
				 
				 Thế 
				 giới mà con người đang sống mà kinh điển Phật giáo thường gọi 
				 là thời kỳ ngũ trược ác thế nghĩa là đời có năm thứ ác làm cho 
				 tâm hồn không còn trong sáng, bị vẫn đục do phiền não vô minh 
				 làm cho kiếp sống chúng sinh không được an vui, hạnh phúc. Bây 
				 giờ nếu chúng sinh biết hồi đầu thị ngạn, quay về với bản lai 
				 diện mục, với chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh của 
				 chính mình bằng cách tư duy, thiền định thì những vẫn đục kia 
				 sẽ được lắng xuống làm cho cuộc sống trở thành thanh tịnh, an 
				 lạc và tự tại. Và sau cùng Niết bàn, Bồ-đề sẽ hiển hiện. Cũng 
				 ví như tất cả những cặn bả trong ly nước lắng xuống thì nước 
				 bây giờ trở thành tinh khiết, thơm ngon. Ly nước mặc dầu đã 
				 được lắng trong, nhưng những hạt bụi cực nhỏ vẫn còn mà mắt 
				 thường không thấy biết được. Các vị A la hán và Bồ-tát thì cũng 
				 thế. Tuy các Ngài đã loại hết kiến hoặc, tư hoặc, nhưng những 
				 vi tế vô minh vẫn còn cho đến khi đạt đến Vô thượng Bồ-đề như 
				 Phật thì tất cả vô minh, phiền não tan biến hết ngay cả những 
				 vi tế cũng không còn. Vì thế Đức Phật Thích Ca cho dù có ở đâu, 
				 ngồi đâu thì tâm Ngài vẫn an trụ Niết bàn. Cái Niết bàn này 
				 chính là vô trụ xứ Niết bàn vậy. 
				 
				 Vậy cứu 
				 cách của người tu Phật không phải là để thành A la hán, Bích 
				 Chi Phật hay thành Bồ Tát mà phải thẳng đến Phật quả tức là 
				 thành Phật. Mà muốn thành Phật thì chỉ có một con đường đó là 
				 Phật thừa vậy. 
				 
				 Thừa là 
				 con đường cho nên Phật thừa là con đường để thành Phật. Không 
				 riêng gì kinh Pháp Hoa của Phật giáo Đại thừa đưa chúng sinh 
				 đến cứu cánh tối thượng là thành Phật. Kinh Niệm Xứ của Phật 
				 giáo Nguyên Thủy cũng nói rằng có một con đường duy nhất để 
				 thành tựu đạo nghiệp, đưa tới giải thoát, đó là nương theo pháp 
				 Tứ Niệm Xứ. Kinh Niệm Xứ (Satipatthana Sutta) dạy rằng: 
				 
				 -Quán niệm thân 
				 (Kayanupassana) trong thân, nhiệt tâm (atapi), hiểu biết rõ 
				 ràng (sampajano), giữ chánh niệm(satima), dứt bỏ tham ái 
				 (abhijjha) và sầu khổ (domanassa) trong thế gian (loke) này. 
				 
				 -Quán niệm thọ 
				 (vedananupassana); 
				 
				 -Quán niệm tâm 
				 (cittanupassana); 
				 
				 -Quán niệm pháp 
				 (dhammanupassana). 
				 
				 (Xem 
				 chi tiết ở phần đầu của chương thứ nhất trong phần Phẩm Tựa). 
				 
				 Kinh 
				 Niệm Xứ của Nguyên Thủy khi chuyển sang Đại Chủng Bộ thì được 
				 gọi là kinh Nhất Nhập Đạo nghĩa là kinh nói về một con đường 
				 duy nhất để đi vào đạo. Như thế thì ý niệm về Nhất thừa đã có 
				 mặt ngay từ lúc ban đầu rồi trong đạo Phật Nguyên Thủy cho nên 
				 danh từ Nhất thừa trong kinh Pháp Hoa này không có gì mới lạ 
				 cả. 
				 
				           
				 Dựa theo Phật giáo Đại thừa thì Phật bắt đầu nói kinh Pháp Hoa 
				 sau 40 năm từ khi Ngài thành đạo. Lúc ấy Phật giáo đã có ba 
				 thừa: một con đường cho Thanh Văn, một con đường cho Duyên Giác 
				 và một con đường cho Bồ tát. Đến khi kinh Pháp Hoa ra đời đã 
				 xóa tan ý niệm ba thừa vì ba con đường kia chẳng qua chỉ là 
				 phương tiện tạm dùng thuở ban đầu để đưa hành giả đến từng phần 
				 trên con đường Phật quả. Nhưng cứu cánh tối thượng để thành tựu 
				 quả vị Bồ đề là chỉ có một con đường chung cho mọi người, gọi 
				 là Nhất thừa hay Phật thừa. Ở đây Nhất thừa không có nghĩa là 
				 Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa hay Bồ tát thừa mà là Phật 
				 thừa. Nói cách khác bây giờ Phật quy tam thừa trở thành Nhất 
				 thừa Phật đạo để đưa người tu đạt đến quả vị tối thượng là 
				 thành Phật. Ý Phật trong đoạn kinh này là tất cả chúng sinh đều 
				 là vàng cả tức là mọi người đều có “Tri Kiến Phật” hay “Phật 
				 tánh” giống y như Phật. Nhưng vàng của chúng sinh hiện nay còn 
				 trộn chung với sỏi cát tức là vô minh phiền não nên chính họ 
				 không thấy biết chất vàng đó. Nếu không có chất vàng cho dù có 
				 rữa sạch hết cả ngọn núi kia thì cũng không bao giờ tìm đâu ra 
				 một tí vàng được nghĩa là nếu không có sẵn Phật tánh trong ta 
				 thì không bao giờ thành Phật cho dù chúng ta tu đến bao nhiêu 
				 đời bao nhiêu kiếp. 
				 
				 Bấy giờ 
				 đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên rằng một bài kệ: 
				  
				 
				 ...
				 
				 
				 Xá-lợi-phất ! Nên biết  
				 
				 Ta vốn 
				 lập thệ nguyện  
				 
				 Muốn 
				 tất cả chúng sanh  
				 
				 Bằng 
				 như ta không khác  
				 
				 Như ta 
				 xưa đã nguyện  
				 
				 Nay đã 
				 viên mãn rồi  
				 
				 Độ tất 
				 cả chúng sanh  
				 
				 Đều 
				 khiến vào Phật đạo  
				 
				             
				 ... Xá-lợi-phất ! Nên nhớ  
				 
				             
				 Ta vì bày phương tiện  
				 
				             
				 Nói các đạo diệt khổ  
				 
				             
				 Chỉ cho họ Niết Bàn  
				 
				             
				 Ta dù nói Niết Bàn  
				 
				             
				 Mà không thật diệt độ  
				 
				             
				 Các pháp từ xưa nay  
				 
				             
				 Tướng nó thường vắng lặng  
				 
				             
				 Phật tử hành đạo rồi  
				 
				             
				 Sau đó được thành Phật  
				 
				 ... Nếu 
				 có hạng chúng sanh  
				 
				 Nghe 
				 pháp Phật tu hành  
				 
				 Những 
				 người như thế đó  
				 
				 Đều đã 
				 thành Phật đạo  
				 
				             
				 ... Các Phật diệt độ rồi  
				 
				             
				 Người cúng dường Xá lợi  
				 
				             
				 Nhóm đất làm tháp Phật  
				 
				             
				 Những hạng người như thế  
				 
				             
				 Đều đã thành Phật đạo  
				 
				 ... Các 
				 đồng tử vui chơi  
				 
				 Nhóm 
				 cát thành miếu Phật  
				 
				 Những 
				 trẻ con như thế  
				 
				 Đều đã 
				 thành Phật đạo  
				 
				             
				 ... Nếu có người mến Phật  
				 
				             
				 Chạm trổ các hình tướng  
				 
				             
				 Nắng vẽ hình tượng Phật  
				 
				             
				 Những người như thế đó  
				 
				             
				 Đều đã thành Phật đạo  
				 
				 ... Có 
				 người trước tháp miếu  
				 
				 Dùng 
				 hoa, hương, phan lọng  
				 
				 Thành 
				 kính mà cúng dường  
				 
				 Ca ngâm 
				 khen ngợi Phật  
				 
				 Nhẫn 
				 đến tiếng thì thầm  
				 
				 Đều đã 
				 thành Phật đạo  
				 
				             
				 … Hoặc người tâm tán loạn  
				 
				             
				 Vào trong tháp miếu Phật  
				 
				             
				 Một xưng nam mô Phật  
				 
				             
				 Đều đã thành Phật đạo  
				 
				 … Với 
				 chư Phật quá khứ  
				 
				 Tại thế 
				 hoặc diệt độ  
				 
				 Nghe 
				 tin chư Phật ấy  
				 
				 Đều đã 
				 thành Phật đạo  
				 
				             
				 … Nếu có  người nghe pháp  
				 
				             
				 Không ai chẳng thành Phật  
				 
				             
				 Các Phật vốn thệ nguyện  
				 
				             
				 Tu hành thành Phật đạo  
				 
				 … Phật 
				 là thầy trong đời  
				 
				 Thường 
				 phương tiện tùy nghi  
				 
				 Diệt bỏ 
				 tâm nghi hối  
				 
				 Tự biết 
				 sẽ thành Phật. 
				 
				 Từ khi 
				 thành Phật, Ngài đã đem giáo lý Tứ Diệu Đế tức là giáo lý nói 
				 về khổ để dạy cho hàng Thanh Văn để họ thoát khổ có được giải 
				 thoát và chứng đắc Niết bàn. Nhưng Niết bàn này chưa phải là vô 
				 Thượng Niết bàn của chư Phật vì thế Phật mới nói thời Pháp Hoa 
				 trước khi Ngài nhập diệt để hoàn thành Phật đạo. Nên nhớ “Chư 
				 pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng” 
				 nghĩa là các pháp từ xưa nay tướng nó thường vắng lặng nghĩa là 
				 cái tự tánh, cái bản chất của các pháp đã là Niết bàn rồi thành 
				 ra không thể đi tìm Niết bàn ở ngoài các pháp được. Nhưng thế 
				 nào là các pháp? 
				 
				 Pháp 
				 tánh là tánh thanh tịnh bản nhiên của vạn pháp. Nếu nói về loài 
				 vô tình chúng sinh như núi sông, đất liền, trời trăng, mây 
				 nước, cây cỏ thì gọi là Pháp tánh. Còn đối với loài hữu tình 
				 chúng sinh như con người thì tánh thanh tịnh vốn có đó bây giờ 
				 gọi là Phật tánh. Vậy Phật tánh hay Pháp tánh cũng được gọi 
				 chung ở đây là “Chư Pháp”. Vì thế câu “Chư 
				 pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng” 
				 nghĩa là cái tướng của Phật tánh hay Pháp tánh từ xưa nay đều 
				 là thanh tịnh bản nhiên, không hề có nào sinh ra tội lỗi xấu xa 
				 hết. Do đó “Tri Kiến Phật” ở đây là vận dụng và sống với cái 
				 tánh vốn thanh tịnh bản nhiên sẵn có đó trong mọi chúng sinh. 
				 Sự sinh hoạt của con người phản ảnh qua lục căn (mắt, tai, mũi, 
				 lưỡi, thân và ý) tiếp xúc với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, 
				 xúc, pháp). Nói thế không có nghĩa thấy là tội lỗi, nghe là tội 
				 lỗi hay ăn món nào cũng là tội lỗi…
				 
				 Lục căn tự nó là thanh tịnh bản nhiên không có chi là tội lỗi 
				 và dĩ nhiên lục trần cũng thế tự nó là thanh tịnh bản nhiên 
				 không có gì là tội lỗi xấu xa cả. Đó là ý nghĩa câu “Chư 
				 pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng” 
				 tức là các pháp xưa nay cái tướng thường tự tịch diệt. Vì thế 
				 nếu chúng sinh thực hành Tri Kiến Phật rốt ráo nghĩa là tri 
				 kiến này là tri kiến vô kiến thì chúng sinh sẽ thành Phật. 
				 Ngược lại nếu chúng sinh sống với tri kiến lập tri tức là sống 
				 với chấp trước mê lầm thì vĩnh viễn vẫn là chúng sinh. Nói cách 
				 khác thấy mà tâm không mê đắm chạy theo hình sắc, tai nghe mà 
				 không dính mắc theo âm thanh, lưởi có nếm mà không chạy theo 
				 mùi vị…
				 
				 tức là không mời khách trần phiền não vào tâm thì chắc chắn 
				 cuộc sống sẽ vô cùng nhẹ nhàng thanh thoát, tự tại. Ngược lại 
				 mắt thấy tâm liền si mê đắm nhiễm, tai nghe liền chấp trước 
				 chạy theo vọng tưởng phân biệt, lưởi nếm liền tham đắm món ngon 
				 vật lạ… thì chắc chắn cuộc sống sẽ trở thành điên đảo khổ đau. 
				 
				 Chúng 
				 sinh biết hành trì thì chính họ đã thành Phật rồi, nhưng Phật ở 
				 đây phải được hiểu là từng giai đoạn để cuối cùng đến được quả 
				 vị tối thượng là thực sự thành Phật. 
				 
				 1)  
				 
				 Lý tức 
				 Phật: 
				 Trong kinh Pháp Hoa, Phật dạy rằng:”Nhất 
				 thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật” 
				 nghĩa là trong tất cả chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh, 
				 đều có thể thành Phật.
				 
				 Hiểu rõ được lý ấy tức là Phật. 
				 
				 2)  
				 
				 Danh tự 
				 tức Phật: 
				 Danh tự là lời Phật dạy trong kinh điển vì tất cả các pháp đều 
				 là Phật pháp. Do đó nếu lãnh hội được lý tánh của vũ trụ, vạn 
				 hữu qua kinh điển, văn tự tức là Phật. 
				 
				 3)  
				 
				 Quán 
				 hạnh tức Phật: 
				 Quán là quán tưởng, hạnh là tu hành nghĩa là thực hành đúng 
				 theo lời Phật dạy tức là Phật. 
				 
				 4)  
				 
				 Tương 
				 tợ tức Phật: 
				 Trong khi tu hành, tuy chưa thực chứng được lý tánh, nhưng tâm 
				 thể được yên lặng gần như đã thực chứng nên gọi là tương tợ tức 
				 Phật. 
				 
				 5)  
				 
				 Phần 
				 chứng tức Phật: 
				 Theo phái Thiên Thai thì vô minh như là một tấm màn dày đặc gồm 
				 có 41 lớp. Nhờ công phu tu tập, nếu hành giả phá được một lớp 
				 là chứng được một phần trung đạo tức là phần chứng tức Phật. 
				 Hành giả đến đây là đã vượt qua các bậc Thập Trụ, Thập Hạnh, 
				 Thập Hồi Hướng, Thập Địa và Đẳng giác. 
				 
				 6)  
				 
				 Cứu 
				 cánh tức Phật: 
				 Đây là chứng được chỗ mầu nhiệm tột cùng của đạo Phật. Đó là 
				 bậc Diệu giác, Chủng trí đều viên mãn tức là thành Phật. 
				 
				           
				 Tóm lại, trong mỗi chúng sinh vốn đã có sẵn “Tri Kiến Phật” tức 
				 là Phật tánh nhiệm mầu vì thế Như Lai trong kinh Pháp Hoa mới 
				 vén màn bí mật để chỉ thẳng cho họ biết và tự tin vào tự tánh 
				 thanh tịnh bản nhiên của mình mà hành trì đúng theo chánh đạo 
				 để tiến thẳng về nhất thừa Phật đạo mà thành Phật. Trước khi 
				 Phật nhập Niết bàn, Ngài muốn chia sẽ một hoài bảo to lớn mà 
				 chính Ngài đã luôn ôm ấp từ ngày thành đạo. Một lý tưởng vĩ đại 
				 xiễn dương tinh thần khách quan bình đẳng của Phật giáo vì tất 
				 cả mọi chúng sinh cũng đều có Phật tánh như nhau, giống y như 
				 Phật. Mà muốn phát huy cái Phật tánh thiêng liêng huyền diệu 
				 này để trở thành Phật thì chỉ có một con đường duy nhất là Phật 
				 thừa chớ không phải Thanh Văn thừa, Duyên giác thừa hay Bồ tát 
				 thừa. Phương tiện Phật chỉ bày ngày xưa là tạm thời mà bây giờ 
				 Phật mới đưa ra cứu cánh tối thượng, là con đường duy nhất để 
				 viên mãn đạo quả Bồ đề, đó là Nhất thừa Phật đạo để thành Phật. 
				 Căn nghiệp của chúng sinh khác nhau cho nên đức Phật nhận thấy 
				 chúng sinh là những hoa sen trong đầm với đầy đủ màu xanh, đỏ, 
				 trắng lẫn lộn. Có hoa sen còn nằm trong bùn, có hoa sen đã vươn 
				 lên trong nước, có hoa đã vươn gần mặt nước và có hoa đã vượt 
				 khỏi mặt nước. Vì thế tinh thần Pháp Hoa là thấy tất cả mọi 
				 người là hoa sen, dù còn nằm trong bùn hay đã nở rộ, nhưng tất 
				 cả đều cùng chung Phật tánh như nhau. Huyền nghĩa Pháp Hoa là 
				 khai, thị, ngộ, nhập cái hoa sen Phật tánh ấy nơi mình. Nhưng 
				 quan trọng nhất là sống với cái hoa sen ấy nơi mình khiến cho 
				 nó càng ngày càng nở lớn hơn, tỏa hương cùng khắp và hỗ trợ làm 
				 nở hoa sen nơi người khác.  
				 
				 ∆ TOP 
				 | 
				 NEXT 
				  |