| 
		   
		
		Phẩm 
		TỰA 
		
		Tôi nghe như thế 
		này, một lúc nọ đức Phật trụ ở núi Kỳ-xà-quật, nơi thành Vương Xá, cùng 
		với số chúng tụ họp xung quanh Phật rất đông, gồm đủ các thành phần:
		 
		
		Tỳ-kheo đắc quả 
		A-la-hán 12.000 người. các vị đó đều là A la hán, các lậu đã hết, không 
		còn phiền não, việc lợi mình đã xong, dứt hết mọi sự ràng buột, tâm hằng 
		tự tại. Đó là các vị:A Nhã Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp, Ưu Lâu Tần Loa 
		Ca Diếp, Dà Gia Ca Diếp, Nan Đề Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, 
		Ma Ha Ca Chiên Diên, Kiếp Tân Na, Kiều Phạm Ba Đề…Bậc hữu-học và vô-học 
		2.000 người. Bà Tỳ kheo ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề cùng với quyến thuộc sáu 
		nghìn người câu hội. Mẹ của La Hầu La là bà Tỳ Kheo ni Gia Du Đà La cũng 
		cùng quyến thuộc câu hội. Tỳ-kheo-ni 6.000 người. Bồ-tát 80.000 
		người. Các vị Bồ Tát là Văn Thù Sư Lợi, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Thường 
		Tinh Tấn, Dược Vương… Trời Đế-thích và quyến thuộc 20.000 người. Tứ 
		Đại-Thiên-Vương và quyến thuộc 10.000 người. Trời Tự-Tại và Đại-tự-tại 
		cùng quyến thuộc 30.000 người. Phạm-Thiên-Vương và quyến thuộc 12.000 
		người. Tám vị Long-Vương và quyến thuộc; A-tu-la-vương và quyến thuộc; 
		Ca-lầu-la-vương và quyến thuộc nhiều trăm ngàn người. Có vua A-xà-thế, 
		con bà Di-đề-hi cùng quyến thuộc tùy tùng câu hội…  
		
		Trong hội Pháp 
		Hoa, kinh dùng con số 12.000 vị A la hán là ẩn dụ. Tại sao? 12.000 là 
		kinh muốn ám chỉ con số 12 bởi vì 12 là biểu trưng cho sáu căn và sáu 
		trần, không có sáu thức. Bình thường thập bát giới là sáu căn, sáu trần 
		và sáu thức là thế giới của chúng sinh còn sống trong điên đão khổ đau 
		bởi vì căn tiếp xúc với trần liền sinh thức để phân biệt rồi bám chặt 
		vào thức nên vọng tưởng phát sinh. Nhưng ở đây các vị A la hán đã dứt 
		hết lậu hoặc nên tuy căn có tiếp xúc với cảnh vì trần đồng nghĩa với 
		nhiễm ô, mà vẫn như như bất động tức là thức không sanh. Đó là mắt thấy 
		sắc mà không bị sắc mê hoặc, tai nghe âm thanh mà không bị tiếng thị phi 
		phải quấy chi phối…nghĩa là kiến sắc phi can sắc, văn thanh bất nhiễm 
		thanh…nên các ngài luôn tự tại, liễu liễu thường minh, như như bất động. 
		
		Đối với kinh 
		điển Phật giáo Đại thừa, một bộ kinh phải hội đủ sáu điều kiện để được 
		xem là chánh kinh, do Phật thuyết chớ không phải là ngụy kinh. Đó là 
		“Lục chủng thành tựu” hay “Lục Trùng Chứng tín”. Đầu kinh có câu “Tôi 
		nghe” ám chỉ tôn giả A Nan, người đã nghe những lời Phật thuyết, là văn 
		thành tựu. Câu: “như thế này” chỉ pháp thoại mà A Nan nghe Phật nó, là 
		tín thành tựu. Một thưở nọ…là thời thành tựu. Kinh được Phật nói tại núi 
		Kỳ Xà Quật là xứ thành tựu. Đức Phật, vị chủ tọa trong pháp hội là chủ 
		thành tựu. Và sau cùng đại chúng gồm có những ai…là chúng thành tựu. 
		Thật tình mà nói, nếu có người muốn chế ra ngụy kinh thì họ có thể bắt 
		chước phương pháp “Lục 
		chủng thành tựu” này đâu có khó khăn gì. Ngày nay thế 
		giới kinh điển không còn khó khăn để truy cập nguồn gốc xuất xứ như ngày 
		xưa, vì thế người tu Phật cần phải dùng trí tuệ để nghiên cứu thời điểm, 
		nội dung, tư tưởng và dĩ nhiên sẽ tìm ra xuất xứ của kinh. Thử nghĩ lại, 
		nếu con người biết sống thật, sống đúng với chân lý thì Phật ra đời để 
		làm gì? Vì thế Phật có Phật giả, kinh Phật cũng có kinh giả là chuyện 
		thường. Hãy suy nghiệm lời Phật dạy trong kinh Kalama rằng: 
		
		"Không được tin bất cứ gì Ta nói là đúng, chỉ vì đấy là do Ta nói. Trái 
		lại phải mang ra thử nghiệm những lời giáo huấn của Ta giống như một 
		người thợ kim hoàn thử vàng. Nếu sau khi quán xét các lời dạy của Ta mà 
		nghiệm thấy là đúng, thì lúc ấy mới nên mang ra thực hành. Dầu sao thì 
		nhất định cũng không phải là vì kính trọng ta mà mang ra thực hành". 
		Giác là thức tỉnh, là sáng suốt, là có chánh niệm. Mê là ai nói gì cũng 
		nghe, cũng tin, không dám bát bỏ, sợ tội. Do đó khi nghe bộ kinh nào 
		không phù hợp với chân lý, không đem lại sự lợi ích gì cho mình và cho 
		người, cho dù kinh có để tên ông Phật hay Bồ Tát nào thì cũng cần phải 
		xét lại mà không hề có tội lỗi gì hết. Tại sao? Bởi vì chính đức Phật 
		không viết kinh nào cả mà mãi đến gần 500 năm sau khi Ngài nhập diệt 
		kinh điển mới bắt đầu được ghi chép lại. Vì thế kinh điển Phật giáo được 
		truyền miệng gần 500 năm và hoàn toàn dựa vào trí nhớ của người đọc 
		kinh. Đó là chưa kể từ khi Phật giáo chuyển sang Phật giáo bộ phái thì 
		tinh thần Nguyên thủy biến đổi cho nên trong quá trình truyền miệng qua 
		nhiều thế hệ như vậy thì thế nào cũng có chuyện sai lạc ít nhiều, tam 
		sao thất bản là chuyện thường. Tôn chỉ của đạo Phật là “Duy tuệ thị 
		nghiệp” nghĩa là lấy trí tuệ làm sự nghiệp, làm nền tảng cho cuộc sống 
		để sống theo chân lý, sống đúng với chân lý và sống phù hợp với chân lý. 
		Đây là tinh thần khách quan bình đẳng, dân chủ nhân bản của nhà Phật, 
		khác hẳn với giáo điều chủ nghĩa của những tôn giáo khác nghĩa là thấy 
		sai mà không được phép cải lại. 
		
		Trước khi đức 
		Phật sắp nhập diệt, ngài A Nan thỉnh đức Phật bốn điều như sau: 
		
		1)
		Khi kết 
		tập kinh điển thì đầu kinh phải dùng câu gì để tín chúng tin rằng đây là 
		lời Phật nói chớ không phải A Nan tự ý nói ra. Phật dạy rằng:
		“Đầu kinh 
		bắt đầu bằng câu “Tôi nghe như thế này (như thị ngã văn) và sau đó trong 
		thính chúng gồm có những ai…” 
		
		2)
		Khi Phật 
		còn tại thế, Phật là thầy. Sau khi Phật nhập diệt rồi thì đại chúng sẽ 
		tôn ai lên làm thầy? Phải chăng ý của A Nan là sau khi Phật nhập diệt 
		thì ai sẽ thay thế đức Phật giữ vai trò lãnh đạo tăng đoàn? Phật trả lời 
		rất giản dị và thẳng thắn là phải lấy Giới (Ba La Đề Mộc Xoa) làm thầy. 
		Do đó, Giới chính là thầy của tất cả Tỳ kheo, Tỳ kheo ni và Phật tử tại 
		gia. Đây là điểm đặc thù của Phật giáo vì giáo lý của đức Phật luôn 
		chống sự bất công và bất bình đẳng trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ vì thế 
		đạo Phật là đạo giải thoát cho nên thành lập tăng đoàn thì được mà giáo 
		hội thì không bởi vì giáo hội là biểu tượng của đẳng cấp, bất bình đẳng 
		đưa tới sự tranh chấp giữa những giáo hội với nhau. Giới luật trong Phật 
		giáo có một giá trị tuyệt đối cho người hành đạo. Bởi vì người giữ giới 
		trong sạch, y theo giới luật tu hành thì tâm mới định và từ đó trí tuệ 
		sẽ phát sinh. Vì vậy có giữ Giới nghiêm minh mới giữ được Phật tâm. Đối 
		với Phật giáo, giới và hạnh không phải chỉ để giữ mà để tu bởi vì giới 
		là pháp môn tu học chớ không phải là tín điều bắt buộc tín đồ phải giữ. 
		Vì vậy tu giới là thực hành ly dục, ly ác pháp để tâm dần đến chỗ thanh 
		tịnh trong khi giữ giới chỉ có tác dụng tiêu cực cho nên ái dục không 
		giảm, không diệt mất. Thí dụ một người có thể giữ giới trường chay, 
		nhưng lòng vẫn còn tham ăn, tham mặc…thì ái dục khó dứt nên không có an 
		tịnh. Ngược lại, một người tu giới là họ luôn kiểm soát thân, khẩu, ý và 
		luôn sống trong tỉnh thức chánh niệm thì cái nguyên nhân gây ra phiền 
		não khổ đau không có cho nên họ sống trong an lạc, tự tại. 
		
		Ngày nay đạo 
		Phật chao đảo chông chênh là vì con người chạy theo hình tướng sinh 
		diệt, xao lãng giới luật hay biến chế giới luật mà lạc mất đường về, 
		đánh mất Phật tâm của chính mình. 
		
		3)
		Đối với 
		những Tỳ kheo ác tính thì phải đối xử với họ như thế nào? 
		
		Đối với những Tỳ 
		kheo ác tính, Phật dạy nên dùng Phạm đàn mà trị bởi vì Phạm đàn lẳng 
		lặng, không cần đánh chửi, cứ lẳng lặng đuổi cổ đi. Nói cách khác nên 
		tránh xa họ và lấy sự sự yên lặng đối đãi với họ. Từ sự lạnh nhạt đó 
		khiến lòng họ hổ thẹn, hồi tâm trở về với chánh đạo. 
		
		4)
		Sau khi 
		Phật nhập diệt, đệ tử đời sau nương theo pháp nào tu hành? 
		
		Phật dạy muốn 
		giải thoát thì nương theo pháp Tứ Niệm Xứ. Kinh Niệm Xứ (Satipatthana 
		Sutta) dạy rằng: 
		
		-Quán niệm thân 
		(Kayanupassana) trong thân, nhiệt tâm (atapi), hiểu biết rõ ràng 
		(sampajano), giữ chánh niệm(satima), dứt bỏ tham ái (abhijjha) và sầu 
		khổ (domanassa) trong thế gian (loke) này. 
		
		-Quán niệm thọ 
		(vedananupassana); 
		
		-Quán niệm tâm 
		(cittanupassana); 
		
		-Quán niệm pháp 
		(dhammanupassana). 
		
		Vì lẽ ấy Như 
		Lai tuyên ngôn: 
		
		“Có 
		con đường duy nhất để chúng sanh tự thanh lọc, để diệt trừ đau khổ, để 
		thành đạt trí tuệ, và để chứng ngộ Niết Bàn”. 
		
		Kinh viết rằng 
		một lúc nọ Phật đang ở tại núi Kỳ Xà Quật, tại thành Vương Xá…Ở đây, tuy 
		kinh không xác định chính xác thời gian nào Phật nói kinh Pháp Hoa, 
		nhưng dựa theo truyền thuyết thì đức Phật bắt đầu thuyết giảng kinh Pháp 
		Hoa chín năm cuối cùng trước khi Ngài nhập diệt. Núi Kỳ Xà Quật là một 
		tên gọi khác của núi Linh Thứu nằm phía Đông Bắc thành Vương Xá, kinh đô 
		nước Ma Kiệt Đà có vua là A Xà Thế mà kinh điển thường nhắc đến. 
		
		Đức Phật là bậc 
		toàn giác, hoàn toàn trong sạch. Vì thế chữ “Giác” có những ý nghĩa như 
		sau: 
		
		1)
		
		Bổn giác: 
		là sự giác ngộ Phật tánh vốn sẵn có trong mỗi chúng sinh mà không cần 
		trải qua sự tu hành. Bổn giác trong kinh Pháp Hoa chính là tri kiến 
		Phật. Sự giác ngộ Phật tánh không có nghĩa là thành Phật mà hành giả chỉ 
		trực nhận được Phật nhân của mình còn đến Phật quả thì dĩ nhiên cần phải 
		trải qua bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp tu nữa mới thành chớ không phải 
		ngộ nhập Phật tri kiến
		thì tức 
		thì thành Phật được. Tại sao? Bởi vì trong ta, tập khí ngã mạn, tham sân 
		si kết nhóm sâu dày nên không dễ gì một sớm một chiều mà nhỗ tận gốc 
		được. 
		
		2)
		
		Thỉ giác: 
		Một khi chúng sinh phát tâm tu học Phật Pháp, nghiên cứu kinh điển giáo 
		lý thì tâm chuyển dần từ mê đến ngộ. 
		
		3)
		
		Cứu cánh giác: 
		Tiến trình tu học Phật pháp là Văn, Tư, Tu. Văn là nghe, tư là suy nghĩ, 
		nghe ở tai rồi suy nghĩ ở tâm và tu trong sự làm thì trí tuệ vô lậu phát 
		sinh, thấy được chân lý. Nghe ở đây là nghe chánh pháp, nghe Phật pháp 
		và suy nghĩ đúng với chân lý thì sự thực hành mới có lợi lạc, mới phát 
		sinh trí tuệ sáng suốt. 
		
		Đức Phật mô tả 
		sự thành đạo của Ngài sau 49 ngày đêm thiền định dưới cội Bồ Đề như sau: 
		Trước hết Ngài đắc Tứ thiền và sau đó trong canh ba của đêm ấy Ngài 
		chứng Tam minh: Túc mạng minh giúp Ngài nhớ lại được các đời sống trong 
		quá khứ. Thiên nhãn minh cho Ngài thấy rõ được sự sống chết của chúng 
		sinh tùy theo nghiệp của họ. Sau cùng Lậu tận minh soi sáng cho Ngài 
		thấu biết được sự đoạn diệt các lậu hoặc. Vậy minh là gì? 
		
		Dựa theo Phật 
		giáo Nguyên thủy,
		
		Minh (vijjã)
		
		là sáng suốt, thấu đạt thực chất của đời sống, là tuệ Minh Sát, có Tri 
		Kiến của bậc Giác Ngộ, hay chứng ngộ Tứ Diệu Ðế. Minh cũng có nghĩa là 
		thông suốt Thập Nhị Nhân Duyên, tức những yếu tố phát sanh do những yếu 
		tố trước
		đó tạo 
		duyên và trở lại làm duyên cho những yếu tố khác phát sanh. Và cứ thế 
		mười hai yếu tố ảnh hưởng lẫn nhau trong một vòng lẩn quẩn của những 
		kiếp sống, sanh tử, tử sanh triền miên diễn tiến, gọi là vòng luân hồi. 
		Do sự phá tan những bí ẩn của kiếp nhân sinh bằng cách thấu hiểu trọn 
		vẹn và đầy đủ mối liên quan giữa mười hai yếu tố trên, bậc Thánh Nhân 
		cũng đập vỡ tung cái kính ảo kiến mà từ vô lượng kiếp xuyên qua đó ta 
		thấy giả ngỡ là thật, thấy vô thường
		là vĩnh 
		cửu trường
		tồn, xem 
		đau khổ là hạnh phúc và cái vô ngã là linh hồn trường
		cửu và 
		tin có một Thần Linh Tạo Hóa trong khi chỉ có sự phát sanh của những yếu 
		tố tùy thuộc và những yếu tố trước
		đó. 
		
		Phật giáo Nguyên 
		thủy nhìn đức Phật bằng một góc độ rất thực tế, dựa trên con người lịch 
		sử. Vì thế đức Phật đối với họ là vị A la hán đầu tiên của tất cả các vị 
		A la hán. Trong ngũ bộ kinh Nikayas, đức Phật đã nhiều lần xác nhận rằng 
		hằng trăm nếu không muốn nói hằng ngàn đệ tử thuộc hàng Thánh giả của 
		Ngài cũng chứng đắc các cấp độ tâm linh ngang bằng với đức Phật. Trong 
		kinh Bộ Tương Ưng, đức Phật tuyên bố chính Tôn giả Xá Lợi Phất 
		(Sariputa) đã chứng ngộ và thâm hiểu giáo lý Duyên Khởi 
		(Pratiyasamutpada) rất sâu thẳm như chính Thế Tôn vậy. Ngoài ra, còn có 
		những bậc Thánh giả khác như các Tôn giả Đại Ca Diếp (Mahkassapa), Mục 
		Kiền Liên(Maggallana), Phú Lâu Na… 
		cũng chứng đắc một số khả năng về 
		những lãnh vực như giảng giải thuyết pháp, xuất nhập các cấp độ thiền, 
		thi thố thần thông ngang bằng đức Phật. Vì thế chứng quả A la Hán là dứt 
		hết các lậu, chẳng còn phiền não, thân tâm hằng tự tại thanh tịnh Niết 
		bàn. 
		
		Đại chúng đều 
		đảnh lễ cúng dường tán thán Phật, rồi lui ngồi qua một phía. 
		 
		
		Bấy giờ đức 
		Thế-Tôn vì chư đại Bồ-tát nói kinh Đại-Thừa tên là:  
		
		Vô Lượng Nghĩa 
		Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm  
		
		Trước khi nói 
		kinh Pháp Hoa, Phật vì các hàng Bồ Tát nói kinh Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ 
		Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Kinh này được xem như là phần dẫn nhập cho 
		kinh Diệu Pháp Liên Hoa để khai thị cho chúng sinh thấu hiểu thật tướng 
		của vạn pháp là vô tướng. Kinh Vô Lượng Nghĩa không có nghĩa là kinh này 
		có rất nhiều nghĩa, vô số vô lượng không thể đếm hết được. Vô Lượng 
		Nghĩa ở đây được hiểu là không giải thích, cắt nghĩa được. Cho dù ngôn 
		từ, văn tự của con người có khéo léo thiện xảo đến đâu thì cũng không 
		bao giờ có thể diễn giải thấu đáo được cái chân lý của ý kinh Phật dạy 
		trừ phi người ấy tự mình thể nhập được chân lý nhiệm mầu đó. Vì thế kinh 
		điển không có mục đích giải thích chân lý mà chỉ có thể giúp hành giả 
		trực nhận được chân lý. Cũng như “Như nhơn ẩm thủy lãnh noãn tự tri” 
		nghĩa là mình uống nước thì chỉ có mình mới biết được vị nóng, lạnh, 
		ngon, dở của nước mà thôi. Giáo Bồ Tát Pháp là phương pháp giáo hóa các 
		vị trong hàng Bồ Tát tu để thành Phật chớ kinh này không nhắm vào hàng 
		phàm phu hay Thanh Văn, Duyên Giác. Thậm chí kinh này hàng phàm phu 
		không thể tiếp thu nổi. Phật Sở Hộ Niệm nghĩa là kinh này cũng chính chư 
		Phật hằng hộ niệm. 
		
		Cùng với nhiều 
		Bồ-tát Ma-ha-tát, Bồ-tát Đại Trang Nghiêm bạch Phật rằng: 
		“Chúng con mong được hỏi Ngài về giáo pháp của đức Phật. Chúng con thiết 
		tha hy vọng Ngài nghe chúng con”. 
		
		Đức Phật dạy: “Hay 
		lắm ! Hay lắm ! Các Ông hỏi Ta câu hỏi này thật đúng lúc. Chẳng bao lâu 
		nữa Ta sẽ nhập Niết-bàn. Ta e rằng sau khi Ta nhập diệt, mọi câu hỏi sẽ 
		bị bỏ lửng. Hãy cứ hỏi Ta những gì các ông muốn. Ta sẽ trả lời mọi câu 
		hỏi mà các Ông muốn hỏi”. 
		
		Ngay sau đó, 
		Bồ-tát Đại Trang Nghiêm cùng với nhiều Bồ-tát khác cùng nói:“Nếu 
		chư Bồ-tát Ma-ha-tát đã tu tập giáo lý Đại thừa mà muốn thành tựu Vô 
		thượng Chánh Đẳng Giác một cách nhanh chóng thì chư vị phải tu tập theo 
		pháp môn nào ?” 
		
		Đức Phật dạy: “Nay 
		có một pháp môn thánh diệu gọi là Vô Lượng Nghĩa. Nếu một vị Bồ-tát học 
		pháp môn này thì vị ấy sẽ thành tựu Vô thượng Chánh Đẳng Giác. Một vị 
		Bồ-tát muốn học pháp môn Vô Lượng Nghĩa thì phải nên quán sát rằng tất 
		cả các pháp, hay hiện tượng, có vẻ khác nhau và thay đổi không ngừng, 
		nhưng thực ra cái căn bản của chúng là một năng lực lớn lao không thay 
		đổi thể hiện theo nhiều cách khác nhau. Các Ông nên hiểu rằng tại căn 
		gốc của tất cả các pháp có một chân lý vượt khỏi sự phân biệt và vĩnh 
		viễn bất biến. Chúng sinh vì không biết chân lý này nên phân biệt một 
		cách ích kỷ “đấy có lợi” hay “đấy không có lợi”. Do đó, họ nuôi dưỡng 
		những tư tưởng xấu, khiến khởi sinh nhiều nghiệp xấu và luân hồi trong 
		sáu cõi”. 
		
		Sáu cảnh giới 
		địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, người, A tu la, và chư thiên này cứ liên 
		tục biến hiện trong tâm thức con người và chuyển từ cảnh giới này sang 
		cảnh giới khác. Trạng thái này của tâm gọi là “luân hồi trong sáu cõi”. 
		Vì thế con người không đợi đến lúc chết mới thực sự chuyển vào cảnh giới 
		tương xứng với nghiệp quả của mình mà thật ra một khi tâm thức chuyển 
		thì cảnh giới cũng chuyển theo. Do đó thiên đàng do ta mà địa ngục thì 
		cũng do ta. Biết làm chủ bản tâm, không chạy theo phiền não khách trần, 
		tâm hằng tự tại thì không bao giờ sa vào tam ác đạo được. 
		
		Đức Phật dạy 
		tiếp rằng: 
		
		-Này 
		Đại Trang Nghiêm! Bồ-tát muốn tu học pháp môn Vô Lượng Nghĩa thì phải 
		nên quan sát: Hết thảy các pháp, từ trước đến nay, tánh tướng thường 
		rỗng rang vắng lặng, thanh tịnh bản nhiên, không sanh, không diệt, không 
		nhơ, không sạch,  không thêm, không bớt, không đến, không đi, không một, 
		không khác, không thường, không đoạn,  không ra, không vào, không lùi, 
		không tiến… Ví như hư không, không có cái hai. Chỉ vì  tâm chúng sanh cố 
		chấp. Chấp lấy cái giả dối rồi cho là cái này, cái kia, là được, là mất… 
		khởi ra tâm niệm không lành, tạo mọi điều ác nghiệp; do vậy mà loanh 
		quanh trong sáu nẻo chịu mọi sự khổ đau vô lượng ức kiếp mà không tự 
		biết để tìm lấy cái lối ra! 
		
		Vạn pháp trong 
		thế gian tuy có sinh, nhưng không thật sự sinh và diệt, nhưng không thật 
		sự mất hẳn chỉ là huyễn diệt. Khi nhân duyên hòa hợp thì gọi là sinh và 
		khi nhân duyên tan rã thì gọi là diệt vậy thôi cho nên không có cái gì 
		vĩnh viễn tồn tại hay mất hẳn cả vì thế mới được gọi là bất sinh bất 
		diệt. Đây chẳng qua bản thể duyên sanh ra hiện tượng thì gọi là sinh và 
		khi nhân duyên ly tán, hiện tượng quy về với bản thể thì gọi là diệt chớ 
		không có cái gì thật sinh hay thật diệt cả. Vì thế các pháp từ xưa nay 
		thường vắng lặng là như thế đó. Cũng như vì có gió tạo ra những đợt sóng 
		lên xuống nhấp nhô. Hết gió, sóng lặng, nước yên vậy thôi. Vấn đề sinh 
		tử con người cũng thế, nhân duyên kết tụ, bản thể duyên sinh ra hiện 
		tượng thì sinh ra con người. Đến lúc hết duyên, hiện tượng quy về bản 
		thể thì chúng ta gọi là chết vậy thôi. Đây chỉ là một chu kỳ trong vô 
		vàn chu kỳ trong kiếp sống của con người vì thế sống chết là chuyện bình 
		thường, tử sanh là trò dâu bể nên chẳng có gì tham luyến hay sợ hãi cả. 
		Chân lý bất sinh, bất diệt tức là sanh mà không thật sanh, sanh để rồi 
		diệt và diệt mà không phải thật diệt, diệt để rồi lại sanh, sanh sanh 
		diệt diệt vô cùng vô tận. Nói cách 
		khác, trong thế gian nhân duyên trùng trùng 
		nương gá tác động hình thành thì gọi là sanh và khi nhân duyên trùng 
		trùng tan rã thì gọi là diệt. Vì thế sanh không thật sanh và diệt cũng 
		không thật diệt. Vì ngộ được chân lý bất sinh, bất diệt 
		nên chúng sinh 
		xem tấm thân thất đại này cũng như mây tụ tán hợp tan vậy thôi. Mà đã là 
		“Ngũ 
		uẩn phù hư không khứ lai” thì con người chẳng có gì phải 
		sợ khi tấm thân này còn và chẳng có gì đau khổ khi nó mất.  
		
		Đức Phật dạy các 
		Bồ-tát như sau: 
		
		-Này 
		các Bồ-tát Ma-ha-tát, khi các vị quán sát tất cả các chúng sanh đang 
		luân hồi trong sáu cõi, các vị sẽ khởi lên lòng thương xót và thể hiện 
		lòng đại từ bi để cứu vớt họ khỏi các cõi ấy. Trước tiên các vị phải 
		thâm nhập tất cả các pháp.  Nếu các vị thâm hiểu các pháp này rồi thì 
		các vị tự nhiên có thể hiểu được trong tương lai những gì sẽ khởi sinh 
		từ các pháp. Các vị cũng có thể hiểu rằng các pháp ổn định (trụ) không 
		biến đổi trong một thời gian. Các vị cũng có thể hiểu rằng các pháp biến 
		đổi (dị). Lại nữa, các vị có thể hiểu rằng các pháp cuối cùng sẽ tiêu 
		diệt (diệt). Do đó các vị có thể quán sát và biết được lý do sinh khởi 
		của các pháp thiện và các pháp bất thiện. Sau khi đã quán sát và biết 
		tất cả bốn tướng của các pháp từ lúc khởi đầu cho đến lúc chấm dứt, kế 
		đến, các vị cần phải quán sát rằng không có pháp nào được ổn định dù là 
		trong chốc lát mà sinh và diệt trở lại trong mọi lúc. Sau khi đã quán 
		sát như thế, các vị có thể biết khả năng, bản chất và những tham dục mà 
		mọi chúng sanh sở hữu giống như các vị đã đi vào trong từng tâm thức của 
		họ. 
		
		-Vì 
		các chúng sanh có vô lượng bản chất và tham dục, việc thuyết giảng của 
		các vị cho họ cũng vô lượng và vì việc thuyết giảng như thế là vô lượng 
		nên ý nghĩa của nó cũng vô lượng. Sở dĩ như thế là vì giáo pháp vô lượng 
		nghĩa sinh khởi từ một Pháp. Một Pháp này là gì ? Đó là một chân lý. 
		Chân lý đó là gì ? Nó vô tướng, vượt khỏi sự phân biệt về tất cả các sự 
		vật. Các sự vật thì giống nhau trong việc sở hữu Phật tính.  Sự việc này 
		là chân lý và là thực tướng của tất cả các sự vật (các pháp). Này các 
		bồ-tát Ma-ha-tát, lòng từ bi mà các vị biểu hiện một cách tự nhiên sau 
		khi đã hiểu cái thực tướng này thì có công đức chứ không phải vô ích. 
		Với lòng từ bi này, các vị diệu độ các chúng sanh khỏi khổ đau và hơn 
		nữa, còn khiến hết thảy chúng sanh đạt đến hỷ lạc. Do đó nếu tu tập toàn 
		hảo pháp môn Vô Lượng Nghĩa, chắc chắn một vị Bồ-tát chẳng bao lâu sẽ 
		thành tựu Vô thượng Chánh giác. 
		
		Thế rồi Bồ-tát 
		Đại Trang Nghiêm hỏi đức Phật một câu hỏi khác: “Dù 
		chúng con không nghi ngờ về các pháp do đức Phật giảng dạy, chúng con 
		vẫn cứ xin hỏi Ngài lại vì sợ rằng tất cả các chúng sanh sẽ bối rối và 
		không thể hiểu pháp. Ngài đã liên tục giảng cho các chúng sanh tất cả 
		các pháp, nhất là bốn pháp, suốt trong hơn bốn mươi năm kể từ khi đức 
		Như Lai chứng ngộ. Bốn pháp này là khổ, không, vô thường và vô ngã. Khổ 
		nghĩa là đời người thì đầy cả mọi thứ khổ đau. Không là bảo rằng tất cả 
		các sự vật có vẻ khác nhau nhưng chúng ta phải phân định cái khía cạnh 
		bình đẳng vượt ngoài những dị biệt. Vô thường diễn tả sự việc trong thế 
		giới này không có cái gì hiện hữu trong một hình tướng luôn luôn cố 
		định, mà tất cả các sự vật đang luôn luôn biến đổi. Vô ngã là biểu lộ 
		rằng không có cái gì trong vũ trụ này hiện hữu riêng biệt mà không liên 
		hệ với các sự vật khác và chúng ta không được để bị chấp trước vào cái 
		tự ngã của chúng ta. Lại nữa, bằng nhiều cách, Ngài đã dạy chúng con các 
		thực tướng của tất cả các sự vật. Những ai đã nghe các pháp này đều đã 
		đạt được nhiều công đức khác nhau, đã mong mỏi chứng ngộ và cuối cùng đã 
		đạt đến cấp độ cao nhất của Bồ-tát đạo. 
		
		“Như 
		thế, hình như đức Như Lai đã giảng cùng các pháp như thế trong suốt bốn 
		mươi năm ấy, nhưng chúng con biết rằng trong thời kỳ này, Ngài đã giảng 
		các pháp ấy càng lúc càng sâu xa. Tuy nhiên, chúng con sợ rằng tất cả 
		các chúng sanh có thể không phân biệt được những khác biệt giữa các giáo 
		pháp của Ngài trước kia và hiện giờ. Bạch Thế Tôn, xin Ngài giảng rõ cho 
		tất cả các chúng sinh”. 
		
		Bấy giờ đức Phật 
		nói với Bồ-tát Đại Trang Nghiêm: “Hay 
		lắm ! Hay lắm ! Này các Đại thiện nam tử; các vị đã khéo hỏi Như Lai về 
		điều này. Quả thực là do lòng đại từ bi mà các vị đã hỏi Ta về diệu 
		nghĩa của Đại thừa sâu xa và tối thượng do đức Phật thuyết giảng, không 
		phải vì sự chứng ngộ riêng của các vị mà vì tất cả chúng sanh. Này các 
		Thiện nam tử! Ta đã có thể thành tựu Vô thượng Chánh giác sau khi đoan 
		tọa dưới cội Bồ-đề. Bằng Phật nhãn, Ta thấy hết thảy các pháp có nhiều 
		tướng trạng không thể diễn tả hết được. Ta biết rằng các bản tính và 
		tham dục của hết thảy chúng sanh không đồng đều nhau. Vì thế, Ta đã 
		giảng Pháp bằng năng lực phương tiện trong hơn bốn mươi năm. Nhưng suốt 
		trong thời gian ấy, Ta chưa khai mở sự thật. Do năng lực hiểu pháp của 
		chúng sanh quá kém, thật quá khó khiến cho họ thành tựu được Phật quả 
		tối thượng một cách nhanh chóng. 
		
		-Này các Thiện 
		nam tử ! Pháp giống như nước rửa sạch bụi. Nhưng bản chất của một dòng 
		nước, một con sông, một cái giếng, một cái ao, một con lạch, một con 
		mương và một biển lớn thì khác nhau. Bản chất của Pháp cũng giống như 
		thế. Dù mỗi thứ đều rửa sạch được như nhau vì đều là nước, nhưng một cái 
		giếng không phải là một cái ao, một cái ao không phải là một dòng nước 
		hay một con sông, cũng không phải là một con lạch, một đường mương hay 
		biển. Pháp do Như Lai thuyết giảng cũng như thế. Dù sự thuyết giảng lúc 
		ban đầu, lúc giữa và lúc cuối đều rửa sạch mê lầm của chúng sanh như 
		nhau, nhưng lúc đầu không phải là lúc giữa và lúc giữa không phải là lúc 
		cuối. Sự thuyết giảng lúc đầu, lúc giữa và lúc cuối là giống nhau trong 
		lời diễn nhưng khác nhau trong ý nghĩa. 
		
		-Này các Thiện 
		nam tử ! Lúc mới đầu Ta chuyển Pháp luân về Tứ Thánh đế cho năm Tỳ-kheo 
		tại Vườn Nai ở Ba-la-nại, Ta giảng rằng các pháp thì bản nhiên rỗng 
		lặng, không ngừng biến đổi và liên tiếp sinh diệt. Ta cũng giảng như thế 
		khi Ta thuyết giải về Mười hai nhân duyên và Sáu Ba-la-mật cho tất cả 
		các Tỳ-kheo và Bồ-tát ở nhiều nơi trong giai đoạn giữa. Giờ đây khi 
		giảng kinh Vô Lượng Nghĩa, Đại thừa này, vào lúc này, Ta cũng thuyết 
		giải như thế. 
		
		-Này các Thiện 
		nam tử, do đó, việc thuyết giảng lúc đầu, lúc giữa và lúc cuối thì giống 
		nhau về ngôn từ diễn tả nhưng khác nhau về ý nghĩa. Vì ý nghĩa khác nhau 
		nên sự hiểu biết của các chúng sinh cũng khác nhau. Vì sự hiểu biết khác 
		nhau nên việc chứng Pháp, công đức và con đường cũng khác nhau. Điều này 
		được chứng tỏ rõ ràng bằng kết quả của sự việc ta giác ngộ những người 
		nghe Ta thuyết giảng trong mỗi thời kỳ - khi lúc đầu Ta thuyết giảng Tứ 
		Thánh đế ở Vườn Nai; khi lúc giữa Ta giảng giáo lý sâu xa về Mười hai 
		nhân duyên ở nhiều nơi; và kế đến, khi Ta thuyết giảng về mười hai loại 
		kinh của bộ Phương Đẳng và các kinh khác. 
		
		-Này các Thiện 
		nam tử ! Nói một cách khác, Ta đã thuyết giảng chỉ một chân lý ngay từ 
		lúc khởi đầu. Điều này không phải chỉ riêng phần Ta, hết thảy chư Phật 
		đều làm như thế. Vì chân lý căn bản chỉ là một, chư Phật đáp ứng rộng 
		khắp mọi âm thanh bằng chỉ một lời; dù chỉ có một thân, chư Phật thị 
		hiện vô lượng vô vàn thân, trong mỗi thân phô bày vô hạn vô số hình 
		tướng, và trong mỗi hình tướng lại thể hiện vô số vẻ dáng. 
		
		-Này các Thiện 
		nam tử ! Đây là cõi Phật không thể nghĩ bàn và thâm áo. Hàng Nhị thừa 
		không thể hiểu được, và ngay cả chư Bồ-tát đã đạt cấp độ cao nhất (Thập 
		Địa) cũng không thể lĩnh hội được. 
		
		-Chỉ 
		có Phật với Phật mới có thể thâm hiểu được. Do đó, các vị phải nỗ lực 
		đạt đến cấp độ như của đức Phật nhờ kinh Vô Lượng Nghĩa mà ta đang 
		thuyết giảng đây. Kinh mầu nhiệm, sâu xa, cao siêu này là hợp lẽ về mặt 
		luận lý, là vô thượng về mặt giá trị và được hết thảy chư Phật trong ba 
		đời hộ trì. Không có loại ma quỷ hay ngoại đạo nào thâm nhập vào được, 
		cũng không bị tà kiến hay sinh tử làm hư hoại. 
		
		-Do đó, chư 
		Bồ-tát Ma-ha-tát muốn thành tựu Phật quả tối thượng một cách nhanh chóng 
		thì cần phải học và quán triệt kinh Đại thừa Vô Lượng Nghĩa thâm sâu tối 
		thượng này. 
		
		Khi đức Phật 
		thuyết giảng xong, trời và đất lay động theo mọi cách và hiển bày nhiều 
		cảnh tượng đẹp đẽ phi thường; hoa, hương, áo, vòng hoa và báu vật vô giá 
		của trời từ trên trời mưa rải xuống và thiên nhạc được tấu lên để ca 
		ngợi đức Phật, tất cả chư Bồ-tát, Thanh văn và đại chúng. 
		
		Ngay sau đó, 
		nhiều Bồ-tát Ma-ha-tát trong hội chúng đắc định Vô Lượng Nghĩa và nhiều 
		Bồ-tát Ma-ha-tát khác đắc vô số vô hạn cảnh giới Đà-la-ni. Tất cả 
		Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và các vị khác trong hội chúng 
		nghe đức Như Lai thuyết giảng kinh này đều đạt ngộ tương ưng với cấp độ 
		tâm thức của từng vị. Hơn nữa, hết thảy đều mong ước đạt Phật quả như 
		đức Phật bằng cách theo đúng giáo lý của Ngài và nỗ lực phổ biến giáo lý 
		ấy. 
		
		Như thế kinh Vô 
		Lượng Nghĩa dạy chúng sinh cách tu học quán chiếu Thật Tướng các pháp để 
		nhận thức rốt ráo về cái tự tánh “Như Thị” thanh tịnh bản nhiên của tất 
		cả hiện tượng vạn pháp cho đến khi chính mình thể nhập được cái chân lý 
		“thật tướng vô tướng” đó. Vì thật tướng của vạn pháp là “Không” nên ngay 
		cả ý niệm về không cũng phải xóa bỏ thì mới hoàn toàn nghiệm được “Vô 
		Tướng Bất Tướng”. Hành giả tập nhìn vạn pháp bằng “Như Thị” mà không cần 
		phải giải thích, cắt nghĩa hay nói gì cả. Đã là Vô Lượng Nghĩa thì con 
		người không thể dùng bất cứ văn từ nào, bất cứ thí dụ nào để diễn tả 
		tánh “Như Thị” của vạn pháp cho đến chỗ cùng cực được. Hễ nói là sai Như 
		Thị. Bởi vì thật tướng là vô tướng cho nên vạn pháp “Tánh Tướng” đều là 
		“Như Thị”. Tóm lại, Vô Lượng Nghĩa không có nghĩa là nhiều nghĩa, nhiều 
		vô số vô lượng mà Vô Lượng Nghĩa là đạt đến chỗ thể nhập nên không còn 
		văn tự, ngữ ngôn nào có thể diễn tả được thật tánh, được chân lý cả. 
		
		Trong kinh Duy 
		Ma Cật,
		Bồ-tát Văn Thù hỏi ông Duy Ma Cật rằng: 
		
		- Thưa cư sĩ! 
		Chư Bồ-tát đã trình bày xong. Giờ đây, xin nhơn giả cho biết cao kiến 
		của ngài về phương pháp thể nhập Pháp môn không hai của một Bồ-tát? 
		
		Ông Duy Ma Cật 
		lúc bấy giờ điềm nhiên an tọa. Đại chúng cả hội trường như nín thở trông 
		chờ… 
		
		Ông Duy Ma Cật 
		vẫn im lặng và im lặng.. 
		
		Tại sao lại phải 
		im lặng? Vì cái mà ông thật biết thì không thể nói, không thể diễn tả 
		được. Làm sao có thể diễn tả được Thể Tánh Chân Như? Làm sao có thể dùng 
		ngôn ngữ hạn hẹp của thế giới hữu vi mà diễn tả cái vô vi thanh tịnh vô 
		cùng vô tận của thế giới vô vi? Vì chân lý vượt ra ngoài ngôn ngữ thì 
		làm sao dùng ngôn ngữ, văn tự để diễn tả chân lý cho được. Do đó không 
		nói tức là ông Duy Ma Cật đã đạt tới trình độ Vô Lượng Nghĩa của Đại 
		thừa vậy. Vì thế cổ nhân cũng có câu: “tri giả bất ngôn” nghĩa là người 
		biết thì không nói vì nói không được. 
		
		Nói cho cùng, 
		giáo lý vô thượng thậm thâm vi diệu đó là thứ chân lý mà chỉ có Phật với 
		Phật mới hiểu rõ cội nguồn căn nguyên gốc rễ của nó được. 
		
		Nói kinh xong, 
		đức Phật ngồi xếp bằng nhập chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân tâm không 
		lay động.  
		
		Thật ra Như Lai 
		lúc nào cũng thường trụ trong chánh định, chớ không phải Ngài nói xong 
		kinh Vô Lượng Nghĩa rồi mới nhập định tức là Ngài phải trụ vào định Vô 
		Lượng Nghĩa xứ để chuẩn bị nói kinh Pháp Hoa. Nhưng thâm ý của đoạn kinh 
		này là đức Phật nói kinh mà còn phải trụ vào trong định thì chúng sinh 
		phải chú tâm thiền định để nghe. Tại sao Như Lai lúc nào cũng thường trụ 
		chánh định? Bởi vì đức Phật có 18 pháp bất cộng (thập bát bất cộng pháp) 
		nghĩa là Như Lai lúc nào cũng có thân vô thất (lỗi lầm), khẩu vô thất và 
		ý vô thất. Lúc nào Như Lai cũng ở trong chánh định nên Ngài có vô nhị 
		tâm và trong tâm tưởng Như Lai không có một ý niệm nào sai chân lý nên 
		gọi là vô nhị tưởng. 
		
		Chư Thiên vui 
		mừng rải thiên hoa cúng dường Phật, hàng Nhân-Thiên tán thán chấp tay 
		một lòng chiêm ngưỡng đức Như Lai.  
		
		Lúc bấy giờ, từ 
		tướng lông trắng chặng giữa đôi mày Phật, phóng ra ánh hào quang chiếu 
		khắp một muôn tám ngàn thế giới ở phương Đông. Trên từ cõi sắc cứu cánh 
		dưới suốt ngục A-tỳ. Chúng sanh trong sáu đường đều thấy rõ lẫn nhau. 
		
		Tướng lông trắng 
		giữa đôi mày là một trong 32 tướng tốt của đức Phật. Còn Phật phóng ra 
		hào quang soi chiếu khắp mười tám ngàn thế giới ở phương Đông là một 
		cách diễn bày của kinh điển Đại thừa có tên là “mỹ từ pháp”.  Nó là một 
		ám dụ để diễn bày cái trí tuệ của đức Phật. Thành Phật tức là đã thành 
		tựu Nhất Thiết Chủng Trí cho nên lời dạy của Phật phát xuất từ ánh sáng 
		trí tuệ mà văn tự dùng chữ “hào quang” để ám chỉ cho cái trí tuệ huyền 
		diệu này. Thí dụ trong số bạn bè của chúng ta có một người rất hiền 
		lành, sống đúng với đạo đức nhân bản. Từ cái hiền lành đạo đức đó có thể 
		cảm hóa làm cho những người xung quanh cũng trở thành những con người 
		hiền lành đạo đức. Do đó có thể nói những người được cảm hóa những đức 
		hạnh tốt được xem như sống trong hào quang từ bi phát ra từ vị đó. Vì 
		thế danh từ hào quang thật ra là những gương mẫu đạo đức đến chỗ tuyệt 
		đỉnh tận cùng khiến cho người khác cảm mến noi theo. Ở đây cũng thế, 
		dưới ánh hào quang của chư Phật là lời dạy của Phật phát xuất từ trí tuệ 
		sáng suốt mà tất cả chúng sinh nghe theo, học theo và tu theo đều có lợi 
		lạc. Ngược lại nếu ở gần người hung ác, hiểm độc thì con người cảm nhận 
		những nỗi lo sợ, hung dữ, sát khí. Người đệ tử Phật nếu thấu hiểu đạo lý 
		này thì chính họ sẽ không sống trong ảo tưởng cho rằng đức Phật lúc nào 
		cũng chiếu hào quang sáng chói như những tia Laser. Trong kinh Thủ Lăng 
		Nghiêm tức là kinh
		
		Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ-Tát Vạn Hạnh
		
		thì “Đảnh”
		là điểm 
		cao nhất trên đầu và “Đảnh đầu Phật”có một u thịt màu hồng nhô lên, có thể phóng hào quang mà 
		không ai thấy được nên gọi là “vô kiến đảnh tướng”. Đó là một trong ba 
		mươi hai tướng tốt của Phật. Do đó Đại Phật Đảnh là điểm nổi lên cao 
		nhất trên đỉnh đầu của đức Phật. Trên thế gian thì nói một cục thịt lồi 
		lên, bộ não tăng trưởng nhưng trong
		kinh Pháp 
		Hoa thì đó là một ẩn dụ. Trên đầu cao nhất là tư duy đều nằm ở cái cục 
		thịt, qua thân tướng bình thường. Vậy 
		nghĩa là sao? Đó 
		là Hoa Sen ra 
		khỏi sình lầy, rồi dưới ánh nắng tỏa hương và sắc. Cái nhục kế cũng thế, 
		nó ở trên cùng tức nó ra khỏi nhục thân, tức là sình lầy, những cái ngu 
		si, những cái phiền não, nó ra khỏi những cái nầy. Thế thì nhục kế đó 
		chính là Hoa Sen. 
		
		Trước khi đức 
		Phật Thích Ca thuyết giảng kinh Lăng Nghiêm hay bất cứ bộ kinh Đại thừa 
		nào thì từ đỉnh đầu Ngài phóng ra hào quang soi chiếu khắp mười phương 
		thế giới tức là Ngài dùng trí tuệ siêu việt để xem xét khế cơ và khế lý 
		của tất cả chúng sinh có khế hợp với giáo lý của kinh không? Nói cách 
		khác đức Phật dùng trí tuệ siêu việt của mình để soi chiếu mà thấy rằng 
		nếu chúng sinh có đầy đủ tri kiến để lãnh hội giáo lý thì Ngài mới giảng 
		kinh. Vì thế Đại Phật Đảnh chính là trí tuệ, từ bi và giải thoát siêu 
		việt của tất cả chư Phật để soi chiếu mà cứu độ chúng sinh đưa họ từ bờ 
		mê sinh tử đến bến bờ giác ngộ thanh tịnh Niết Bàn.Thêm nữa, lông là 
		tượng trưng cho sự mềm mại nhu nhuyến, tức là không có cứng ngắc, trắng 
		là thanh tịnh, không có bị ô nhiễm, giữa chặng mày tức là giữa hai con 
		mắt, tức là không có đối đãi, không có cặp phạm trù đối đãi nhị nguyên. 
		Do đó nếu chúng sinh có được tâm thanh tịnh, hào quang của đức Phật sẽ 
		chiếu đến và tỏa sáng trong tâm của họ cũng như ánh trăng soi chiếu trên 
		mặt nước hồ thu yên tĩnh. Ngược lại, nếu tâm của chúng sinh còn ô nhiễm 
		cũng ví như một vũng nước bùn đục ngầu, không có thứ ánh sáng nào chiếu 
		soi qua được. 
		
		Thêm nữa, cái 
		hào quang này có thể soi trên từ cõi sắc cứu cánh dưới suốt ngục 
		A-tỳ. Đoạn kinh này được chia làm hai phần: 
		
		 1)
		Chúng 
		sanh trong sáu đường đều thấy rõ lẫn nhau. Hiện tượng thông đồng, không 
		gì ngăn cách nói lên giáo lý pháp giới là bất nhị tức là nhất chơn. Nhất 
		chơn pháp giới nghĩa là một là tất cả và tất cả là một cho nên tuy thế 
		giới có rộng nhưng kỳ thật chẳng có gì khác nhau, nói xa nhưng chẳng có 
		gì lạ lùng cả. Thí dụ chúng ta hiện đang ở tại Sài gòn hay Hà Nội thì 
		cảm nhận những nỗi
		ưu 
		bi khổ ách cũng giống như những người khác đang ở tại New York, Paris 
		hay ở Los Angeles vậy, thậm chí nếu có người ở những thế giới nào đó 
		trong vũ trụ này cũng cảm nhận y như vậy. Vì thế nếu tâm chúng sinh 
		không thanh tịnh thì trong thập phương thế giới không có chỗ nào là cõi 
		Phật thanh tịnh cả vì thế giới là nhất chân, bất nhị, không sai không 
		khác. Do đó trong kinh Duy Ma Cật, Phật dạy rằng: “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc 
		Phật độ tịnh” nghĩa là ở đâu mà có tâm tịnh, tâm trong sáng, tâm không 
		còn phiền não vô minh thì ngay nơi đó là cõi Phật thanh tịnh rồi. Cho 
		nên cũng trong cái thế giới Ta Bà này, nếu chúng sinh huân tu để có tâm 
		thanh tịnh, có khinh an giải thoát thì cõi Phật thanh tịnh sẽ dời đến 
		trước mặt họ. 
		
		2)
		Cái hào 
		quang này có thể soi trên từ cõi sắc cứu cánh dưới suốt ngục A-tỳ nghĩa 
		là ánh sáng trí tuệ chỉ có thể soi vào cảnh thực chớ không soi vào những 
		cõi vô sắc, cõi ảo tưởng hoang đường được. Ở đây kinh nói đến “tam giới” 
		tức là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. 
		
		-Dục 
		giới: nếu chúng sinh không cải tạo được thân, khẩu, ý 
		của mình để chạy theo sắc, tài, danh, lợi thì họ đang sống trong dục 
		giới tức là thế giới về tham dục. Tại sao? Bởi vì chúng sinh còn tham 
		tài, tham sắc, tham danh, tham lợi, tham thực, tham ăn, tham ngủ, tham 
		dâm…nhân, ngã, bỉ,  thử…tranh chấp trong ngoài. 
		
		-Sắc 
		giới: Đối với những ai đã biết được chân lý của cuộc đời 
		cho nên phú quý như bọt nước, tiền tài như phấn thổ, công danh như hạt 
		sương đậu trên đầu ngọn cỏ có đó rồi tan biến đó. Do đó nếu ai không còn 
		đeo đuổi, ôm ấp hay lưu luyến những thứ phù du giả tạm đó để khỏi phải 
		gieo những thứ tội lỗi cho thân, khẩu, ý thì tuy họ vẫn sống bình thường 
		trong thế gian này, nhưng chính họ có sự khinh an tự tại, bình yên thanh 
		thản như những vị trời thì họ đang sống trong sắc giới vậy. 
		
		-Vô 
		sắc giới: Nếu có những người tu thiền định để xuất hồn 
		đi vào những cảnh giới huyền ảo như gặp chư Phật, thánh thần…là họ đi 
		lạc vào cõi vô sắc giới tức là thế giới vô hình ảo tưởng. Những cảnh 
		giới ảo tưởng đó thật ra do tâm hóa hiện chớ không thật có trong thế 
		gian này. Ngay cả trong giấc chiêm bao cũng là ảo tưởng không thật. Dựa 
		theo duy thức luận thì khi ngủ không phải là đưa tâm thức vào chỗ vô 
		niệm. Bởi vì lúc chúng ta ngủ thì ngũ căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân gần 
		như không hoạt động, nhưng ý căn vẫn tác động với pháp trần khiến tâm 
		thức dấy động ngầm mà đôi khi con người gọi là mộng. Sự hoạt động của ý 
		thức trong trường hợp này gọi là độc đầu ý thức tác động. Ngược lại khi 
		thức giấc, nếu mắt nhìn thấy vật gì thì tâm biết là vật mà không biết đó 
		là vật gì cho nên nhãn thức phải có ý thức phân biệt cộng vào thì con 
		người mới thấy biết hiện tượng vật thể rõ ràng được. 
		
		Do đó con người 
		có giải thoát giác ngộ hay không do nơi cõi sắc, có sống an vui tự tại 
		do ở nơi cõi sắc và có cưu mang ưu bi phiền não cũng tại nơi cõi sắc. Vì 
		thế ngày xưa đức Phật sau khi chứng tứ thiền, Ngài qua ngã diệt tận định 
		mà chứng quả A la hán mà không qua ngã tứ không định tức là cảnh vô sắc 
		giới của ngoại đạo. 
		
		Lại thấy chư 
		Phật  ở các quốc-độ đang nói pháp và được nghe pháp của các Phật rõ 
		ràng. Cũng thấy các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ tu hành 
		đắc đạo. Thấy các Bồ-tát thực hành lục độ trong việc tự-lợi lợi-tha 
		tinh-tấn trên đường Bồ-đề. Lại thấy có đức Phật nhập Niết-bàn, có nơi 
		xây dựng tháp tôn thờ xá lợi...  
		
		Đại chúng trong 
		Pháp Hội thấy rõ việc làm của chư Phật trong sứ mạng giáo hóa, thuyết 
		pháp độ sanh. Họ thấy rõ hàng Thanh Văn tinh tấn thực hành giáo lý Tứ 
		Đế. Thấy rõ các vị Bồ Tát áp dụng rốt ráo lục độ ba la mật đúng theo tư 
		tưởng tự lợi, lợi tha của Bồ Tát. Thấy rõ chư Phật đang chuyển pháp 
		luân. Cũng thấy rõ có Phật đang nhập Niết bàn, có nơi đang trà tỳ và 
		đang xây tháp tôn thờ xá lợi Phật. Nói một cách tổng quát đoạn kinh này 
		mục đích giới thiệu việc làm của chư Phật cho đại chúng trong hội Pháp 
		Hoa biết rằng chư Phật trong quá khứ và Phật trong pháp hội này cũng đều 
		diễn biến như nhau. Đó là việc làm của chư Phật là việc làm phù hợp với 
		ba đời chư Phật, thích hợp với khế cơ, khế lý của chúng sinh cho nên lời 
		nói của một vị Phật tức là lời nói của hằng sa chư Phật trong mười 
		phương thế giới. Đoạn kinh trên khai thị thêm rằng cho dù là chư Phật hễ 
		thị sanh thì phải có thị diệt tức là có đản sinh thì phải có nhập Niết 
		bàn. Đó là chân lý vận hành của nhân sinh vũ trụ tức là “thành, trụ, 
		hoại, không” mà đức Phật Thích Ca đã nghiệm chứng khi Ngài vừa thành 
		đạo. Vì vậy giáo lý Phật đà luôn khuyến khích chúng sinh nên sống tùy 
		thuận theo chân lý thì chắc chắn cuộc sống sẽ có nhiều an vui tự tại 
		cũng như có người xuôi theo dòng nước thì nhẹ nhàng thanh thoát, ngược 
		lại lội ngược dòng thì phải gánh chịu bao nổi nhọc nhằng. 
		
		Bồ-tát Di-lặc và 
		đại chúng đều lấy làm lạ trước điềm lành này. Thay mặt cho tất cả 
		Bồ-tát, Ngài Di Lặc cầu xin Đại Trí Văn Thù là bậc xuất chúng, giải 
		thích cho đại chúng về những sự kiện trên.  
		
		Bồ-tát Di Lặc 
		tên là A Dật Đa (Ajita) và họ là Từ Thị. Trong vô lượng kiếp quá khứ, có 
		đức Phật hiệu là Đại Thống Trí Như Lai ra đời thì cả Đức Thích Ca (tiền 
		kiếp) và Bồ-tát Di Lặc (tiền kiếp) cùng phát tâm cầu Vô thượng Chánh 
		đẳng Chánh giác. Nhưng mãi đến khi đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh ra đời 
		thì Ngài Di Lặc mới phát tâm xuất gia. Tuy xuất gia nhưng ngài Di Lặc 
		không chú tâm tu hành mà muốn kết thân, cầu danh với những hàng danh gia 
		vọng tộc, quan quyền, giàu có nên Ngài sẽ thành Phật sau đức Phật Thích 
		Ca gần mười tiểu kiếp. 
		
		Về sau nhờ đức 
		Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh dạy cho pháp tu Duy Tâm Thức nên Ngài mới 
		chứng được “Tam 
		giới duy tâm, Vạn pháp duy thức”, nhưng mãi đến thời Phật 
		Nhiên Đăng xuất thế thì Ngài mới chứng được tam muội “thức tâm diệu 
		viên” và được Phật Thích Ca thọ ký đời sau sẽ thành Phật ở hội Long Hoa 
		tại thế giới Ta bà nầy. Hiện nay Bồ-tát Di Lặc đang tu ở cung trời Đâu 
		Xuất, chuyên giảng môn Duy Thức Học
		(Du Già 
		Hành tông). 
		
		Tuy tất cả các 
		pháp có rất nhiều, nhưng tóm lại có 100 pháp và được chia làm 5 loại : 
		
		1)
		Tâm pháp 
		hay còn gọi là Tâm Vương gồm có 8 món: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, 
		thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt-na-thức và A lại da thức. Tiếng gọi 
		thông thường là bát thức tâm vương. 
		
		2)
		Tâm sở 
		hữu pháp gồm có 51 món và được chia làm 6 loại: Biến hành (5 món), biệt 
		cảnh (5 món), thiện (11 món), căn bản phiền não (11 món), tùy phiền não 
		(20 món), bất định (4 món). Trong 51 món thì chỉ có 11 món là thiện. 
		
		3)
		Sắc pháp 
		có 11 món gồm có năm căn và sáu trần. 
		
		4)
		Tâm bất 
		tương ưng hành pháp có 24 món. 
		
		5)
		Vô vi 
		pháp có 6 món. 
		
		Phái Du Già của 
		ngài Vô Trước, Thế Thân giới thiệu
		A lại da 
		thức hay Tàng thức tức là đệ bát thức tâm vương. Thức là sự phân biệt. 
		Do đó tâm là bản thể và thức là diệu dụng. Dựa theo duy thức thì tất cả 
		sự vật trên thế gian như trời trăng, mây nước, chim bay, cá lặn, cỏ cây, 
		hoa lá thì gọi là sở tàng nghĩa là những vật mà do thức tâm con người 
		biến hiện. Và năng tàng là khả năng chứa đựng những sở tàng bên ngoài ở 
		trong tâm của con người. Vì thế con người có khái niệm tới đâu nghĩa là 
		sở tàng biến đổi thế nào thì năng tàng cũng bao trùm tới đó. Nói cách 
		khác cảnh thay đổi thế nào thì tâm cũng biến hiện tùy thuộc theo. Bồ-tát 
		Di Lặc tu tập theo pháp Duy Tâm Thức nên quan sát tất cả cảnh giới là 
		giả, tưởng là giả, chỉ do thức tâm biến hiện mới thành có tánh cách phân 
		biệt sai khác. Bây giờ nếu tu được định duy thức thì ngoài tâm không có 
		cảnh, ngoài cảnh không có tâm cho đến khi chứng được “Vô 
		thượng diệu viên thức tâm tam muội” thì nhận thấy tất cả 
		nhân sinh vũ trụ cho dù là loài vô tình, hữu tình, là tâm, là cảnh, là 
		phàm, là thánh đều do “tánh duy thức” biến hiện nên không có sai khác. 
		Nói cách khác khi Ngài Di Lặc chứng được “chơn 
		duy thực tánh” thì không còn thấy thật có tướng duy thức 
		vì tất cả mười phương Như Lai, quốc độ, sắc không đều không có món nào 
		ra ngoài “thức tánh” ấy mà tự có. Tại sao? Bởi vì thức tánh chính là Như 
		Lai Tạng bản thể mà duyên khởi phát sinh ra nhân sinh vũ trụ tức là bất 
		biến tùy duyên. Các pháp đã là thức tánh thì tất cả đều là tự tánh viên 
		mãn, thành tựu chân thật, không còn có thật ngã và ngã sở, xa lìa biến 
		kế sai lầm, chứng pháp vô sanh nhẫn. 
		
		Bồ-tát Di Lặc 
		chuyên tu theo Duy thức nên còn tâm phân biệt có pháp môn để tu, có Niết 
		bàn để chứng và có đạo quả Bồ-đề để thành. Vì thức là cái biết do sự 
		phân biệt nên cần phải chuyển thức thành trí thì mới có đầy đủ trí tuệ 
		sáng suốt. Do đó Bồ Tát Di Lặc tượng trưng cho Thức phân biệt. 
		
		Dựa theo Duy 
		Thức Luận thì khi chúng sinh có được giải thoát giác ngộ thì họ chuyển 
		tám thức thành bốn trí. Đó là : 
		
		1)
		Ý thức 
		hay thức thứ sáu có tác dụng phân biệt sẽ biến thành “Diệu 
		Quan Sát Trí” tức là trí có năng lực quan sát thâm diệu 
		có thể thấy được hằng sa thế giới và thấy được tất cả tâm niệm sở cầu 
		trong mỗi chúng sinh. Nhờ sự quan sát huyền diệu rốt ráo như thế mà tùy 
		theo nguyện vọng, tâm lý, sở cầu mà Bồ-tát làm lợi lạc cho chúng sinh. 
		
		2)
		Còn nhãn 
		thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức sẽ biến thành “Thành 
		Sở Tác Trí” tức là cái trí nầy có những công năng vô 
		cùng rộng lớn như thị hiện thần thông, biến hóa, hiện ra ba món hóa thân 
		để tùy theo căn cơ của chúng sinh mà hóa độ. 
		
		3)
		Mạt na 
		thức tức là thức chấp ngã sẽ biến thành “Bình 
		đẳng tánh trí” là trí có năng lực nhận thức tính bình 
		đẳng và vô ngã của vạn pháp. 
		
		4)
		A lại da 
		thức là thức thứ tám sẽ biến thành “Đại viên cảnh trí” 
		tức là trí sáng như tấm gương lớn và tròn đầy cũng như biển cả chơn như. 
		
		Bồ-tát Di Lặc 
		tượng trưng cho 
		Sai Biệt Trí, nhưng Pháp Tánh, Tri Kiến Phật, Căn Bản Trí
		thì không 
		còn có sự phân biệt mà phải lìa tất cả văn tự, ngôn ngữ nghĩa là
		không Hai 
		tức là Bất Nhị. Vì thế Bồ Tát Di Lặc không thể hiểu được những hình ảnh 
		biểu trưng Phật tánh, Tri kiến Phật. Trong khi đó Bồ Tát Văn Thù tượng 
		trưng cho Căn Bản Trí tức là Bản Giác vốn có sẵn trong mỗi chúng sinh. 
		
		Bồ-tát Văn Thù 
		Sư Lợi giải đáp rằng: theo chỗ tôi biết thì Thế-Tôn nói pháp lớn. Bồ-tát 
		Văn Thù nói tiếp: Tôi  từng ở trong vô lượng Phật quá-khứ đã thấy điềm 
		lành này. Chư Phật phóng hào quang như thế, sau đó liền nói “pháp 
		lớn”. Cho nên tôi  biết chắc rằng, hôm nay Phật vì muốn cho chúng sanh 
		được nghe biết “pháp nhiệm mầu” mà tất cả người đời  khó tin cho nên 
		hiện ra điềm lành ấy…  
		
		Bồ-tát  Văn Thù 
		kể tiếp: Cách vô lượng A-tăng-kỳ-kiếp về trước có đức Phật hiệu Nhật 
		Nguyệt  Đăng Minh đủ mười đức hiệu diễn nói chánh pháp, ban đầu, chặng 
		giữa và rốt sau đều lành, nghĩa lý sâu xa, trước sau không mâu thuẫn, 
		thuần nhất không tạp. Phật vì người Thanh-Văn thừa nói “Tứ-Đế” cầu ra 
		khỏi sanh, già, bệnh, chết được cứu cánh Niết-bàn. Vì hạng cầu quả 
		Duyên-giác nói pháp “Thập nhị nhân duyên”, vì hàng bồ-tát nói pháp 
		“Lục-ba-la-mật”
		khiến cho 
		chứng quả Vô thượng Bồ-đề thành tựu  Nhất-thiết chủng-trí.  Kế tiếp  có 
		20.000 đức Phật cùng một hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh và cùng một họ 
		Phả-loa-đoạ. Pháp của tất cả chư Phật nói ra ban đầu, chặng giữa và rốt 
		sau đều lành.  
		
		Giáo lý của kinh 
		Pháp Hoa là giáo lý Đại thừa cho nên người có chủng tánh Đại thừa mới dễ 
		hội nhập. Vì là giáo lý tối thượng thừa nên giáo pháp Phật thuyết trong 
		kinh Pháp Hoa là thứ giáo pháp mà người đời khó nghe, khó hiểu, khó tin 
		và khó hành. Mà người nào nghe được, hiểu được, tin được và hành được 
		mới là người cúng dường chư Phật đệ nhất. Để xác định mức độ khả tín của 
		kinh, ở phẩm tựa này, đức Phật đã khai thị cho Pháp Hoa Hải Hội biết về 
		nguyên tắc hoằng pháp của ba đời chư Phật. Đó là Phật Nhật Nguyệt đăng 
		Minh cách hằng hà sa số kiếp đã làm thế nào thì đức Phật Thích Ca hiện 
		nay cũng làm như thế ấy và dĩ nhiên Phật tương lai cũng thế. Vì thế lời 
		nói của Phật là lời chân chính, chắc thật, trước sau như một, tất cả đều 
		lành, không hề có ý lừa dối phỉnh gạt người nghe. 
		
		Vào thời Phật 
		Nhật Nguyệt Đăng Minh, Văn Thù Bồ Tát là Bồ Tát Diệu Quang nghĩa là ánh 
		sáng nhiệm mầu cũng có nghĩa là Căn Bản Trí có sẵn trong tất cả mọi 
		chúng sinh. Văn Thù thâm nhập rốt ráo kinh điển và từng đem kinh Pháp 
		Hoa ra dạy cho 800 đệ tử. Tám trăm đệ tử là kinh muốn ám chỉ con số 8 
		tức là bát thức tâm vương. Đó là lục thức, Mạt na thức và A lại da thức. 
		Vì ngài Di Lặc tượng trưng cho “Thức” cho nên cần Bồ Tát Văn Thù là đại 
		biểu cho Căn Bản Trí chuyển “Thức” thành “Trí” nghĩa là chuyển tám thức 
		thành ra bốn trí và A lại da thức thành ra Như Lai Tạng tức là Đại Viên 
		Cảnh Trí thì sẽ có giải thoát. Trong số 800 đệ tử đó thì Di Lặc thường 
		biến trể trên đường tu học nên có biệt hiệu là Cầu Danh. Vì Di Lặc tu 
		theo kiểu cầu danh nên tuy ngài thấy hào quang hiện ra của Phật mà không 
		hiểu, không thể cắt nghĩa được. Ngược lại Đại trí Văn Thù đã gieo trồng 
		chủng tử Pháp Hoa từ muôn đời cho nên vừa thấy điềm lành này thì biết 
		ngay là Phật sắp nói kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa giống như chư Phật 
		xưa kia đã làm. Đoạn kinh này muốn nhắn nhủ cho người đệ tử Phật rằng 
		nếu chúng sinh gieo hạt giống trí tuệ càng sâu thì sẽ thành quả đại trí 
		như Bồ tát Văn Thù. Ngược lại nếu chúng sinh gieo những hạt giống biến 
		trễ thì chỉ gặt hái kết quả “Từ thị” như Di Lặc. Di Lặc dịch là Từ thị 
		nghĩa là gieo căn lành, thiện mà thôi. 
		
		Tại sao trong 
		kinh điển Đại thừa phẩm đầu thường là Bồ tát Văn Thù thưa hỏi và kết 
		thúc bằng hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ tát? Bồ tát Văn Thù là tượng trưng 
		cho đại trí tuệ cho nên tuy đức Phật theo lời thưa thỉnh của Văn Thù nói 
		kinh, xiển dương trí tuệ cho chúng sinh, nhưng đây chỉ là phần lý 
		thuyết. Sau khi Phật nói xong, kinh liền giới thiệu Bồ tát Phổ Hiền với 
		mục đích nhắn nhủ mọi người nên tinh tấn tu tập dựa theo tiến tình 
		“Văn-Tư-Tu” để tự mình thể nghiệm mà phát sinh ra trí tuệ. Văn-Tư-Tu là 
		nghe rồi suy nghĩ (trong tâm) mà đem nó ra thực hành, ứng dụng trong 
		cuộc sống. Vì hạnh nguyện Phổ Hiền là thực hành rộng lớn những điều 
		lành, điều tốt để mang đến lợi ích 
		đích thực cho chính mình. 
		
		Giáo pháp không 
		hề có sai khác, nhưng căn cơ chúng sinh có sai khác nên Phật vì chúng 
		sinh nói pháp khác nhau. Đối với hàng Thanh Văn, Phật thuyết giáo lý Tứ 
		Đế giúp họ chứng đắc Niết bàn và lìa sinh tử. Hàng Duyên Giác, Phật dạy 
		cho họ về thuyết “Thập Nhị Nhân Duyên”. Sau cùng hàng Bồ tát, Phật dạy 
		họ tu “Lục độ Ba la mật” để thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí, Tự Nhiên 
		Trí, Vô Sư Trí của chính mình mà tiến thẳng đến quả vị Vô Thượng Bồ Đề 
		tức là thành Phật. 
		
		 Đối với hàng 
		Thanh Văn,
		họ dùng “Tích 
		không quán”  để quán rằng thế gian vô thường, tứ đại 
		khổ, không và ngũ uẩn vô ngã (ngũ uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức của 
		đại thừa và cũng chính là thân, thọ, tâm, pháp của tiểu thừa) nên thế 
		gian vạn pháp dưới ánh mắt của họ không có gì đáng quý, không có gì đáng 
		tham luyến, say mê, không có gì đáng giữ gìn, bảo thủ ngay cả tấm thân 
		tứ đại của họ. Do đó cái “không” của hàng Thanh văn là vạn pháp không 
		tồn tại, trường cửu, không bền không chắc của sự vô thường nên họ chứng 
		được ngã không. Nói cách khác đối với sự vật hiện tượng của thế giới hữu 
		vi như trời trăng mây nước, chim bay cá lặn thì không có vật gì thoát 
		khỏi luật vô thường nên tất cả vạn pháp trong thế gian dưới ánh mắt của 
		họ thì tât cả đều là không. Vì vậy “ngã 
		không” ở đây chính là nhất thiết pháp vô ngã. Vô ngã 
		nghĩa là vạn pháp ngay cả tấm thân của họ không có tự thể cố định, 
		trường tồn, vĩnh cửu bởi vì chữ “ngã” trong đạo Phật là tự tại, thường 
		nhất, bất biến mà vạn pháp trong thế gian nầy không có cái gì là bất 
		biến, thường nhất, cố định cả. Khi đạt được chân lý ngã không và “Nhất 
		thiết trí” thì các vị trở thành bậc A la hán. Dưới cái nhìn của Bồ tát 
		thì
		thế giới 
		vạn pháp là huyễn hóa, không thật, tuy có mà như không. Đó chính là “đương 
		thể tức không” nghĩa là vạn pháp tuy sờ sờ ra đó, nhưng 
		tâm Bồ tát không chấp cái có của nó nên tuy có mà vẫn như không.Vì thế 
		cái trí của Bồ tát là “Đạo chủng trí” cao hơn Nhất thiết trí và có thể 
		thấy một phần của vạn pháp giai không. Sau cùng trí tuệ của Phật là trở 
		về với Tự nhiên trí, Vô sư trí, Nhất thiết chủng trí. Thí dụ trong thế 
		gian, chúng ta học hỏi bất cứ vấn đề gì từ vị thầy thì cái trí đó là 
		Hửu Sư 
		trí tức là cái trí có được là do thầy dạy (hữu sư). Nhưng cho dù người 
		học trò đó có thông minh cách mấy, có giỏi cách mấy thì sự hiểu biết từ 
		vị thầy dạy dỗ đó cũng nằm trong một giới hạn nào chớ không bao giờ đến 
		chỗ cùng tận được. Thí dụ ngày nay có rất nhiều trung tâm nghiên cứu từ 
		y học đến khoa học và ngay cả các ngành tâm lý học. Các khoa học gia đó 
		phải tự mình nghiên cứu, tìm tòi và sau cùng phát minh ra những điều mới 
		lạ cho nhân loại. Cái hiểu biết này là vô sư trí vì chỉ có họ tự mình 
		khám phá ra chớ không có thầy chỉ bảo. Giáo lý Phật đà cũng thế, những 
		gì Phật dạy cho chúng sinh chỉ là phương tiện, là ngón tay để tự họ 
		chứng ngộ chân lý mà tự mình thấy được ánh sáng huyền diệu của mặt 
		trăng. Khi hành giả trực ngộ chân lý thì chính họ nghiệm chứng sự nhiệm 
		mầu mà ngay cả đức Phật không thể giải thích cho họ được. Tóm lại hữu sư 
		trí là cái trí hữu hạn, chưa phải đến chỗ cùng tận. Còn muốn nghiệm 
		chứng được chân lý của vũ trụ thì phải dựa vào trí hữu sư mà phát triển 
		lấy vô sư trí. Do đó kinh Pháp Hoa khẳng định rằng mọi chúng sinh đều có 
		thể phát triển vô sư trí của chính mình để trở thành Phật vì trong mọi 
		chúng sinh đã có sẵn cái tri kiến Phật đó rồi. Đạo Phật lấy lý trí làm 
		nền tảng nên không có vấn đề van xin cầu nguyện để được cái này, có cái 
		kia vì cầu xin là phỉ báng Phật đó. Mà đạo Phật là đạo thực hành để có 
		thực chứng mà thấy được chân lý. Đức Phật là người đầu tiên và duy nhất 
		trong lịch sử nhân loại chẳng những dạy mà còn khuyến khích học trò 
		chứng ngộ chân lý ngang hàng với Ngài. 
		
		Tại sao lại có 
		đến 20,000 vị Phật cùng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh và cùng  một họ 
		Phả-loa-đoạ? Nhật là mặt trời, Nguyệt là mặt trăng, Đăng là đèn, Minh là 
		sáng. Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh là vị Phật có trí tuệ sáng suốt như mặt 
		trời, mặt trăng và đèn. Cái trí tuệ này không bao giờ tắt cũng ví như 
		áng sáng của mặt trời, mặt trăng và của ánh đèn. Đó là cái trí tuệ viên 
		mãn, không khiếm khuyết. Vì vậy khi thành Phật thì bất cứ vị Phật nào 
		cũng có đầy đủ trí tuệ sáng suốt viên mãn như nhau cho nên một vị Phật, 
		trăm vị Phật, 20,000 vị Phật hay ngay cả 2 triệu vị Phật thì cũng thế, 
		cũng đồng một danh hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Cho nên Phật là hiện thân 
		chân lý muôn đời trong sáng cũng như sự soi sáng của vầng nhật nguyệt 
		vằng vặc muôn đời. Họ Phả-loa-đọa có nghĩa là rất chóng thành Phật, có 
		đại trí tuệ và người đó nói pháp đều viên mãn vô ngại.  
		
		Đức Phật rốt sau 
		vốn là một nhà vua, lúc chưa xuất gia có tám vị vương-tử tên là Hữu Ý, 
		Thiện Ý, Vô Lượng Ý, Bảo Ý, Tăng Ý, Trừ Nghi Ý, Hướng Ý và Pháp Ý. Nghe 
		vua cha xuất gia tu hành  thành đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác đều 
		bỏ ngôi xuất gia theo.  
		
		Thủa đó, đức 
		Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cũng như đức Phật Thích-Ca hiện nay, nói kinh 
		Đại thừa Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Nói xong bèn 
		nhập chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ thân tâm không động.  
		
		Hàng Chư-Thiên 
		hân hoan rải hoa cúng dường. Đại chúng vui mừng chấp tay nhìn Phật với 
		tất cả lòng kính mộ. Lúc bấy giờ từ tướng lông trắng, chặng giữa đôi mày 
		Như-Lai phóng ra ánh hào quang soi suốt 18.000 thế giới ở phương Đông, y 
		như điềm lành hiện nay mà đại chúng cùng đang thấy.  
		
		Đức Phật Nhật 
		Nguyệt Đăng Minh thứ 20,000 xuất thân từ một nhà vua cũng có Hoàng hậu 
		và tám người con. Chưa xuất gia muốn ám chỉ cho chúng sinh khi chưa tu. 
		Còn tám người con tượng trưng cho bát thức tâm vương (lục thức, mạt na 
		thức và A lại da thức). Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh là chỉ cho Phật tánh 
		hay Như Lai Tạng. Như Lai Tạng (Tathagata garbha) còn gọi là Như Lai 
		chủng tánh tức là pháp tánh, là chơn như, là Phật tánh… 
		Tạng là cái kho 
		để chứa tất cả những chủng tử (hạt giống) của vạn pháp và từ những chủng 
		tử này mới sinh khởi ra bốn khoa (ngũ uẩn, lục nhập, mười hai xứ và mười 
		tám giới). Tạng cũng là cái bọc chứa để giấu kín, che phủ phiền não mê 
		lầm và cũng giấu kín, che phủ Phật tánh là cái mầm giác ngộ vốn có sẵn 
		trong tất cả mọi chúng sinh. Vì Tạng là chất chứa cho nên Như Lai Tạng 
		là chất chứa mọi công đức quyền năng của Như Lai và cũng là thức thứ tám 
		tức là A lại da thức. Đứng về mặt ô nhiễm, Như Lai Tạng là tượng trưng 
		cho thế giới sinh diệt luân hồi. Còn dựa theo phía thanh tịnh, Như Lai 
		Tạng là biểu hiện cho Niết bàn giải thoát. Tuy chúng sinh có Phật tánh, 
		nhưng vì sống trong mê lầm nên Như Lai Tạng biến thành thức. Mà thức là 
		sự phân biệt nên tám vị vương tử đều có tên là “Ý”. 
		
		Khi nghe tin vua 
		cha xuất gia, tám vị vương tử liền xuất gia theo. Ý nghĩa đoạn kinh này 
		là Tạng thức chuyển thành Như Lai Tạng thì lúc đó tám thức sẽ chuyển 
		thành bốn trí. 
		Dựa theo Duy 
		Thức Luận thì khi chúng sinh có được giải thoát giác ngộ thì họ chuyển 
		tám thức thành bốn trí. Đó là : 
		
		1)
		Ý thức 
		hay thức thứ sáu có tác dụng phân biệt sẽ biến thành “Diệu 
		Quan Sát Trí” tức là trí có năng lực quan sát thâm diệu 
		có thể thấy được hằng sa thế giới và thấy được tất cả tâm niệm sở cầu 
		trong mỗi chúng sinh. Nhờ sự quan sát huyền diệu rốt ráo như thế mà tùy 
		theo nguyện vọng, tâm lý, sở cầu mà Bồ-tát làm lợi lạc cho chúng sinh. 
		
		2)
		Còn nhãn 
		thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức sẽ biến thành “Thành 
		Sở Tác Trí” tức là cái trí nầy có những công năng vô 
		cùng rộng lớn như thị hiện thần thông, biến hóa, hiện ra ba món hóa thân 
		để tùy theo căn cơ của chúng sinh mà hóa độ. 
		
		3)
		Mạt na 
		thức tức là thức chấp ngã sẽ biến thành “Bình 
		đẳng tánh trí” là trí có năng lực nhận thức tính bình 
		đẳng và vô ngã của vạn pháp. 
		
		4)
		A lại da 
		thức là thức thứ tám sẽ biến thành “Đại viên cảnh trí” 
		tức là trí sáng như tấm gương lớn và tròn đầy cũng như biển cả chơn như. 
		
		Tóm lại, khi mê 
		(chưa xuất gia) thì có tám thức phân biệt rồi tạo nghiệp và dĩ nhiên 
		trôi nổi trong sinh tử luân hồi. Đến khi giác ngộ (xuất gia) thì tám 
		thức quy về với tánh giác, phân biệt chấm dứt mà vẫn biết rõ ràng (liễu 
		liễu thường tri). Đó chính là Trí.  
		
		Ngày xưa đức 
		Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh sau khi nói xong kinh Vô Lượng Nghĩa liền 
		nhập chánh định Vô Lượng 
		Nghĩa Xứ thân tâm bất động. Tuy thời gian khác nhau, 
		nhưng ngày nay đức Phật Thích Ca cũng hành trì giống như chư Phật trong 
		quá khứ. Đoạn kinh này nói rằng Phật quá khứ hành trì thế nào thì Phật 
		hiện tại cũng làm giống như vậy và Phật tương lai cũng không sai khác. 
		Cái khác nhau là hội Pháp Hoa thửa xưa có ngài Bồ tát Diệu Quang, ngày 
		nay Diệu Quang trở thành Bồ tát Văn Thù, là biểu tượng của Căn Bản Trí 
		có sẵn trong mọi chúng sinh. 
		
		Câu
		“chặng 
		giữa đôi mày Như-Lai phóng ra ánh hào quang soi suốt 18.000 thế giới ở 
		phương Đông...” 
		
		Ở giữa chặng 
		mày, giữa hai con mắt tức là không có đối đãi, không có phải trái, không 
		có đúng sai, 
		phóng ra một 
		luồng hào quang, hào quang ấy là Trí Tuệ. Cái Trí Tuệ ở trong Tâm của 
		chúng sanh, mà trong Tâm ấy phóng ra một luồng hào quang, tức là Trí Tuệ 
		mà Trí Tuệ ấy lại nhu nhuyến, thanh tịnh và không có đối đãi, nó không 
		có phân biệt. Còn con số 18.000 kinh nói ở đây là ám chỉ cho con số 18 
		tức là thập bát giới nghĩa là sáu căn tiếp xúc với sáu trần phát sinh ra 
		sáu thức. Thập bát giới là thế giới của phiền não, khổ đau vì tâm con 
		người còn phân biệt, chấp trước. Đến khi tu chứng thành A la hán thì 
		thập bát giới chỉ còn lại 12. Mười hai nghĩa là sáu căn tuy có tiếp xúc 
		với thế giới bên ngoài, nhưng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp bây giờ 
		không còn là ô nhiễm, không còn là nguyên nhân đưa đến phiền não khổ đau 
		cho nên nó không còn là sáu trần mà là sáu cảnh giới. Vì thế người tu 
		chứng, tâm thanh tịnh thì mắt vẫn nhìn sắc, tai vẫn nghe âm thanh, lưỡi 
		vẫn nếm mùi vị, mũi vẫn ngữi đấy chứ, nhưng họ không bị sắc, âm thanh, 
		mùi vị nhận chìm, say đắm cho nên thấy thì mắt vẫn thấy, nghe thì tai 
		vẫn nghe nhưng tâm như như bất động, liễu liễu thường minh tức là kiến 
		sắc bất nhiễm sắc, văn thanh bất nhiễm thanh vậy. Tại sao thế giới lại ở 
		phương Đông? Hướng Đông là phía mặt trời mọc nghĩa là biểu trưng cho sự 
		phát hiện vì thế hào quang của Phật chiếu soi suốt vào 18.000 thế giới ở 
		phương Đông là muốn nói rằng chỉ có trí tuệ không có phân biệt, đối đãi 
		đó thì mới có thể soi chiếu để thấy biết rõ sự dính mắc, chấp thủ và 
		phát triển của thập bát giới đã nhận chìm con người vào biển khổ sông 
		mê. 
		
		Đức Nhật Nguyệt 
		Đăng Minh Như-Lai từ chánh định  dậy, vì Bồ-tát Diệu Quang và tám trăm 
		đệ tử mà nói kinh Đại Thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp 
		Phật Sở Hộ Niệm, trải 60 tiểu kiếp, chẳng rời chỗ ngồi.  
		
		Người nghe pháp 
		cũng ngồi một chổ đến 60 tiểu kiếp thân-tâm không động, không mỏi mệt và 
		xem thời gian  ấy  mau chừng như trong một bữa ăn. 
		
		Nếu nhìn từ góc 
		độ của “Sự Tướng” mà nói dựa thời gian hữu hạn của con người thì một 
		tiểu kiếp dài khoảng 16.8 triệu năm. Do đó 60 tiêu kiếp dài trên một tỷ 
		năm. Thuyết “Vụ Nổ Lớn” tức là “The Big Bang” cho rằng thế giới vũ trụ 
		chỉ được tạo thành khoảng 13.7 tỷ năm và cái trái đất chúng ta đang sống 
		ra đời khoảng 4.5 tỷ năm và sau cùng con người có mặt trên quả địa cầu 
		nầy không quá một triệu năm. Thế mà Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh nói kinh 
		Pháp Hoa suốt trong một tỷ năm thì lời kinh có lẽ phản khoa học quá? Đó 
		là chưa kể không một ai sống đến một tỷ năm. Tại sao thời gian dài trên 
		một tỷ năm mà tưởng chừng như một bửa ăn? 
		
		Thời gian, không 
		gian là dựa trên khái niệm của hiện tượng vật chất hữu hình trong thế 
		giới hữu vi mà đặt để. Tuy nhiên, khái niệm thời gian và không gian 
		trong thế giới tương đối không đồng nhất. Một ngày trên những hành tinh 
		khác rất dài hơn so với thời gian ở quả địa cầu. Không gian cũng thế, 
		cùng một thời điểm mà tại Úc Đại Lợi chịu cảnh nóng bức của mùa hè trong 
		khi ở Hoa Kỳ lại ôm cái lạnh giá của mùa đông. Vì thế nếu con người tùy 
		thuộc vào khái niệm tương đối của không gian và thời gian thì tâm sẽ 
		thay đổi, chuyển biến và bất tịnh. Ở đây Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh nói 
		kinh Diệu Pháp Liên Hoa là để khai thị cho mọi người thức tỉnh cái Tri 
		Kiến Phật vốn có sẵn trong họ. Mà Tri Kiến Phật là không hình, không 
		sắc, không tướng, không sanh, không diệt vượt ngoài không gian và thời 
		gian đối đãi. Do đó ngộ nhập Tri Kiến Phật thì thời gian, không gian là 
		vô nghĩa cho nên tâm bất động, thân không ăn uống, ngồi lâu mà chẳng mỏi 
		mệt là vậy. Vì Tri Kiến Phật là chân không, vốn không có hình tướng, 
		không sanh diệt thì dựa vào đâu để phân biệt thời gian mau chậm hay 
		không gian rộng hẹp? Đó là lý do tại sao kinh nói sáu mươi tiểu kiếp 
		tưởng chừng như một bửa ăn. 
		
		Nhưng nếu nhìn 
		theo “Lý tánh” thì con số tám trăm đệ tử mà kinh nói ở đây là ám chỉ cho 
		con số tám tức là bát thức tâm vương: lục thức, Mạt na thúc và A lại da 
		thức. Và còn số 60 tiểu kiếp là đại diện cho những căn bản phiền não, 
		tùy phiền não…Vì thế có diệt hết những căn bản phiền não đó thì bát thức 
		tâm vương mới thanh tịnh được. Từ đó chuyển A lại da thức thành ra Như 
		Lai Tạng hay Bạch Tịnh Thức tức là có giải thoát. 
		
		Sau 60 tiểu kiếp 
		nói kinh,  trước chúng hội; Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên-long, Ma Phạm, Nhơn 
		phi-nhơn, đức Nhật Nguyệt Đăng Minh tuyên bố: hôm nay vào nữa đêm, 
		Như-Lai sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn. Trước khi vào Niết-bàn, Phật thọ ký cho 
		Bồ-tát Đức Tạng, trước đại chúng rằng: Đức-Tạng Bồ-tát nầy sẽ thành 
		Phật hiệu là Tịnh Thân Như-Lai đủ mười đức hiệu thọ ký xong, đúng như 
		lời tuyên bố đức Phật nhập Vô Dư Niết Bàn vào lúc nửa đêm. 
		 
		
		Tại sao Phật 
		Nhật Nguyệt Đăng Minh sau khi nói kinh Pháp Hoa xong liền tuyên bố sẽ 
		nhập Niết bàn vào nữa đêm? 
		
		Lý do chư Phật 
		trong quá khứ và đức Phật Thích Ca thị hiện ở thế gian này là “Phật 
		vi nhất đại sự nhân duyên, xuất hiện ư thế” nghĩa là 
		Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời. Đại sự mà Phật muốn 
		nói ở đây là gì? Phải chăng đó là sự sinh tử của mỗi chúng sinh. Chính 
		trong phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa có dạy rằng : Chư Phật chỉ do 
		một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở thế gian. Đó là muốn cho chúng sinh 
		“khai thị ngộ nhập Phật tri kiến”.Khi 
		chúng sinh đã ngộ nhập Tri Kiến Phật thì bản hoài của chư Phật đã thành 
		tựu. Biết Tri Kiến Phật là Phật nhân, chúng sinh cần phải tu hành để dẹp 
		sạch vô minh vọng tưởng thì mới đạt đến Phật quả tức là sống với Tri 
		Kiến Phật thường trụ của mình. Tuy Phật pháp chỉ có một con đường, nhưng 
		căn tánh chúng sinh bất đồng nên Phật mới nói tam thừa. Hàng Thanh Văn 
		Phật nói Tứ Đế, Hàng Duyên Giác Phật nói Thập Nhị Nhân Duyên, Hàng Bồ 
		tát Phật nói Lục độ Ba la mật. Cuối cùng Phật quy ba thừa trở thành nhất 
		thừa Phật đạo. Đến đây bản nguyện của Phật đã viên mãn nên Ngài nhập 
		Niết bàn.  
		
		Tại sao Phật 
		Nhật Nguyệt Đăng Minh nói kinh Pháp Hoa với Diệu Quang Bồ tát mà lại thọ 
		ký cho Bồ tát Đức Tạng? 
		
		Bồ tát Diệu 
		Quang là đại diện cho Căn Bản Trí của mọi chúng sinh. Mà Căn Bản Trí là 
		Phật tánh, là chơn tâm sáng suốt thì đâu cần phải thọ ký. Trong khi đó 
		Bồ tát Đức Tạng là chỉ cho cái kho công đức, là biểu tượng cho Sai Biệt 
		Trí. Do đó Phật thọ ký cho Bồ tát Đức Tạng là sau khi hoằng hóa làm lợi 
		ích chúng sinh, vun bồi kho công đức và sau cùng chuyển Sai Biệt Trí 
		thành Căn Bản Trí thì ngài sẽ thành Phật. Trong vườn kinh điển Đại thừa, 
		chỉ có kinh Pháp Hoa mới có phần thọ ký. Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thọ 
		ký cho Bồ tát Đức Tạng trong đoạn này là để bắt đầu cho những phần thọ 
		ký ở những chương sau. 
		
		Sau Phật diệt 
		độ, Bồ-tát Diệu Quang thọ-trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa trải tám mươi tiểu 
		kiếp vì người diễn nói và dạy bảo cho tám vị vương tử ở vững trong 
		đường Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tất cả tám vị lần lượt đều thành 
		Phật và vị Phật chót hiệu là Nhiên Đăng.  
		
		Sau khi Phật 
		Nhật Nguyệt Đăng Minh nhập diệt, Bồ tát Diệu Quang vì chúng sinh mà diễn 
		nói kinh Pháp Hoa trong suốt tám mươi tiểu kiếp. Nhắc lại đoạn kinh 
		trước 60 tiểu kiếp chừng như một bửa ăn bởi vì Tri Kiến Phật vượt thời 
		gian và không gian nên người ngộ được Tri Kiến Phật thì thời gian như 
		dừng lại, vạn kiếp không lìa một niệm tâm. Trong số những người được Bồ 
		tát Diệu Quang giáo hóa, còn có 8 vị vương tử, con của Phật Nhật Nguyệt 
		Đăng Minh. Các vị đó vững tin đối với đạo Vô Thượng Bồ đề nên tất cả đều 
		thành Phật và vị Phật sau cùng đó là Phật Nhiên Đăng. Nhiên là đốt, Đăng 
		là đèn. Phật hiệu Nhiên Đăng là thắp đèn tỏa ra ánh sáng. Đây là ánh 
		sáng trí tuệ phát ra từ Căn Bản Trí để giúp chúng sinh giải trừ mọi vọng 
		tưởng chấp trước, phát triển trí tuệ trong sáng viên mãn tròn đầy tức là 
		thành Phật. 
		
		Trong tám trăm 
		đệ tử của Bồ-tát Diệu Quang có một người tên là Cầu Danh. Sở dĩ người 
		nầy có cái tên ấy là vì còn tham ưa danh lợi, tuy có đọc tụng kinh 
		điển nhiều mà không thuộc rành. Dù vậy, đó cũng là một “căn lành” đã 
		từng “gieo giống Phật” trong vô lượng ngàn muôn ức kiếp. 
		 
		
		Sau khi kể lại 
		câu chuyện trên, Bồ-tát Văn Thù kết luận: Bồ-tát Diệu Quang lúc đó đâu 
		phải người nào lạ, chính là ta đây, còn Cầu Danh Bồ-tát lúc đó, nay 
		chính là Di Lặc ngài đấy.  
		
		Hôm nay đức Phật 
		Thích Ca phóng quang hiện điềm giống hệt xưa kia, tôi nghĩ là đức Phật 
		cũng sẽ nói kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ 
		Niệm. 
		
		          Đọc 
		đoạn kinh này khiến chúng ta có những nghi vấn như thế này: 
		
		1)  
		Bồ tát Diệu Quang từ thời Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đã giáo hóa 
		cho biết bao Bồ tát thành Phật thế mà cho đến thời Phật Thích Ca, ngài 
		vẫn là Bồ tát Văn Thù, chưa thành Phật? 
		
		2)  
		Trong Hải Hội Pháp Hoa, Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thọ ký cho Bồ 
		tát Đức Tạng, thậm chí Bồ tát Cầu Danh là người cầu thân
		với những 
		hàng danh gia vọng tộc, quan quyền, giàu có, không tinh tấn tu hành nếu 
		không muốn nói là thuộc hạng bê bối mà vẫn được Phật thọ ký cho đời sau 
		thành Phật hiệu là Di Lặc. Trong khi đó Phật không hề thọ ký cho Bồ tát 
		Văn Thù? 
		
		Trong tất cả mọi 
		chúng sinh đều có sẵn chơn tâm, Phật tánh sáng suốt tràn đầy mà nhà Phật 
		gọi là Căn Bản Trí, là biểu tượng của Bồ tát Văn Thù. Tuy ai ai cũng đều 
		có Căn Bản Trí, nhưng chúng sinh bị vô minh che lấp nên sống trong điên 
		đảo, là biểu tượng của Bồ tát Cầu Danh. Vì thế khi Phật thọ ký chẳng qua 
		là lời khuyến khích, thối thúc chúng sinh nổ lực tinh tấn tu hành để phá 
		vô minh, dẹp vọng tưởng mà quay về với Căn Bản Trí vốn thường sáng tỏ 
		trong ta. Thọ ký không có nghĩa là Phật cho ta quả vị Phật mà Phật muốn 
		khẳng định trong ta đã có sẵn Phật tánh (chất Phật) rồi cho nên nếu 
		chúng sinh biết rữa sạch bợn nhơ của phiền não vô minh thì Phật tánh sẽ 
		hiện bày tức là thành Phật. Di Lặc chạy theo danh tướng nên bị vọng 
		tưởng chấp trước sai sử. Nay duyên lành gặp được Phật, biết rằng thức là 
		phân biệt, đối đãi và vọng tưởng không thật nên quyết tâm tu hành biến 
		vọng thức thành chân như, chuyển tám thức thành bốn trí rồi thành Phật. 
		Do đó Di Lặc mới cần Phật thọ ký. Còn Văn Thù tượng trưng cho Căn Bản 
		Trí mà Căn bản Trí là Phật tánh. Đã là Phật tánh thì còn thọ ký thành 
		Phật chi nữa. Bồ tát Diệu Quang là thầy của biết bao chư Phật, dạy các 
		Bồ tát tu thành Phật và trải qua biết bao đời đến nay trở thành Bồ tát 
		Văn Thù cho nên Căn Bản Trí tức là Phật (tánh) rồi chớ không cần phải tu 
		hành để trở về với Phật (tánh) nữa. 
		
		PHẦN TÓM LƯỢC 
		
		Thâm ý của phẩm 
		Tựa này là chuẩn bị tinh thần cho đại chúng trong hải hội Pháp Hoa biết 
		rằng mọi người sắp được nghe một diệu pháp rất thâm sâu huyền diệu mà 
		xưa nay chưa từng được nghe tới. Những người có duyên lớn như Bồ tát 
		Diệu Quang tức là Bồ Tát Văn Thù đã từng nghe và thuyết giảng lại kinh 
		Pháp Hoa. Tuy thế Bồ tát Di Lặc đã từng thực tập, học hỏi từ rất nhiều 
		vị Phật mà có lẽ vẫn chưa được nghe pháp vi diệu này lần nào. 
		
		Nét đặc thù của 
		phẩm này là giới thiệu tư tưởng Bổn Môn và Tích Môn để chúng ta quen 
		thuộc về sự liên hệ giữa những vị Phật quá khứ và Phật Thích Ca. Phật 
		Nhật Nguyệt Đăng Minh đã từng nói kinh Pháp Hoa vì thế chuyện Phật Thích 
		Ca nói kinh Pháp Hoa ngày nay chỉ là sự lặp lại chứ không có gì mới lạ. 
		Cái mới lạ ở đây là dựa vào góc độ thời gian trong giai đoạn nào đó 
		trong lịch sử đối với con người hôm nay. Nhưng đứng trên phương diện bản 
		thể tức là thế giới của chân không thì vượt thời gian và không gian là 
		chuyện bình thường không có gì mới lạ cả. Phải chăng Phật Nhật Nguyệt 
		Đăng Minh đã thuyết kinh Pháp Hoa ngày xưa có phải là Phật Thích Ca ngày 
		nay chăng? Sự thật là như vậy, hai vị Phật này tuy hai nhưng mà một. 
		Chẳng những thế, chương sau có vị Phật Đa Bảo ngày xưa cũng thuyết kinh 
		Pháp Hoa cho nên Phật Đa Bảo ngày xưa cũng chính là Phật Thích Ca ngày 
		nay. Do đó nếu đứng trên phương diện Tích môn mà nói thì Phật Thích Ca 
		hiện giờ đang thuyết giảng kinh Pháp Hoa ở  thế giới Ta Bà này. Nhưng 
		bây giờ nếu dựa theo Bổn Môn mà lý luận thì Phật Thích Ca chính là Phật 
		Nhật Nguyệt Đăng Minh, Phật Đa Bảo đã từng thuyết pháp ngày xưa và chưa 
		bao giờ ngừng thuyết pháp. Tóm lại, đứng về mặt Bổn Môn thì Phật Thích 
		Ca là Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, cũng là Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca 
		không có giây phút nào ngừng nói kinh Pháp Hoa. Nhưng đứng về mặt Tích 
		Môn thì Phật Thích Ca đã thuyết pháp ròng trong suốt 49 năm. Nói cách 
		khác, kinh giới thiệu cho chúng ta hai cái nhìn: Một là con người lịch 
		sử và cái khác là chân lý, vượt ra ngoài những phạm trù đối đãi của thời 
		gian và không gian. 
		
		
		∆ TOP 
		| NEXT
		
		  |