| 
				 Chương Thứ 
				Ba 
				 
				Phẩm Đệ Tử 
				(The Disciples’ Reluctance to Visit Vimalakirti) 
				 
				Hàng Thanh Văn 
				 
				Tôn giả A Nan 
				  
				(Ananda):
				Nói về Như Lai Bệnh 
				 
				 
				A Nan là anh em cô cậu với Đức 
				Phật. Ông là con của Bạch Phạn Vương (Amitodana) là em của vua 
				Tịnh Phạn. Vì ngày ông sinh ra đem lại niềm hoan hỷ nên được đặt 
				tên là Khánh Hỷ (A Nan). Sau khi thành đạo, Đức Phật về lại cung 
				thành Ca Tỳ La Vệ thăm lại gia đình và cảm hóa và khuyến khích 
				những người trong dòng họ Thích Ca xuất gia tu đạo. Khi nhân 
				duyên đã đến, A Nan cùng anh ruột là Đề Bà Đạt Đa và năm vị 
				vương tử khác là A Na Luật, Kiếp Tân Na, Bà Sa, Bạt Đề, Nan Đề 
				đồng lén bỏ nhà mà xuất gia theo Phật và ông là người trẻ tuổi 
				nhất trong số những vị nầy. A Nan là người có tướng mạo trang 
				nghiêm và trí nhớ phi thường ngay cả Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát còn 
				phải khen ngợi ngài như sau: 
				 
				Tướng như trăng thu đầy 
				Mắt biết tợ sen xanh 
				Phật pháp rộng như bể 
				Đều rót vào tâm A Nan. 
				 
				Khi nói về A Nan thì không ai quên được câu chuyện nàng Ma Đăng 
				Già trong Kinh Lăng Nghiêm. Vì có tướng mạo thanh tú nên nàng Ma 
				Đăng Già đem lòng yêu thương mà dùng tà thuật mê hoặc. Đức Phật 
				biết được bèn sai Văn Thù Bồ-tát đem bài thần chú Thủ Lăng 
				Nghiêm đến giải nạn cho A Nan. Nội dung Kinh Lăng Nghiêm là Phật 
				chỉ dạy cho chúng sinh ngộ được Chơn tâm. Trước khi dạy về Chơn 
				tâm, Phật gạn hỏi A Nan bảy lần về nơi trụ của tâm. Vì tâm quá 
				khứ đã diệt, tâm tương lai chưa đến còn tâm hiện tại thì quay 
				cuồng thì làm sao tìm tâm cho được. Mà tâm quay cuồng tức là tâm 
				điên đảo, mê lầm, vọng thức tức là vọng tâm. Khi vọng tâm biến 
				mất thì chơn tâm mới hiện bày cũng như mây tan thì trời sáng vậy 
				thôi. Có chơn tâm thì tâm được thanh tịnh tức là Phật tánh, là 
				Bản Lai Diện Mục, là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm, là Tri Kiến 
				Phật vậy. 
				 
				A Nan thỉnh cầu Phật nhiều lần để cho phép phái nữ được xuất gia 
				vì thế dưỡng mẫu Ma Ha Ba Xà Ba, công chúa Da Du Đà La và nhiều 
				mệnh phụ phu nhân khác là những Ni cô đầu tiên trong tăng đoàn 
				của Đức Phật. 
				 
				Cả đời A Nan bị rắc rối cũng vì đàn bà con gái cho nên trước khi 
				nhập diệt Đức Phật có dặn rằng: “Nếu bắt buộc phải tiếp xúc với 
				nữ phái thì nên xem người già như mẹ, người lớn như chị và người 
				nhỏ như em thì ông sẽ giữ được chánh niệm’. 
				 
				Khi Phật được 55 tuổi, các đệ tử Tỳ Kheo thấy sức khỏe của Ngài 
				càng ngày càng yếu nên quyết định chọn một thị giả túc trực lo 
				cho Đức Phật. Mặc dù có rất nhiều người tình nguyện, nhưng Đức 
				Phật dành việc nầy cho A Nan. Vì có liên hệ họ hàng với Phật nên 
				ông muốn tránh sự dị nghị được Phật ưu đãi mà đối xử đặc biệt 
				với mình nên ông xin nhận trách nhiệm với tám điều thỉnh cầu: 
				 
				1) Đức Phật không ban cho ông những bộ y do thí chủ cúng cho 
				Phật. 
				2) Đức Phật không ban cho ông những đồ ăn do thí chủ cúng cho 
				Phật. 
				3) Đức Phật không cho phép ông cùng ở trong một tịnh thất. 
				4) Đức Phật không cho phép ông đến nơi nào mà thí chủ thỉnh 
				Phật. 
				5) Đức Phật sẽ hoan hỷ đến nơi nào mà thí chủ thỉnh ông. 
				6) Đức Phật cho phép ông tiến dẫn khách đến yết kiến Phật. 
				7) Đức Phật cho phép ông bạch hỏi mỗi khi có điều gì nghi ngại. 
				8) Đức Phật sẽ hoan hỷ giảng giải lại những bài Pháp mà Phật 
				giảng trong lúc ông không có mặt tại đó. 
				 
				Nhờ nhân duyên nầy mà A Nan trong suốt 25 năm làm thị giả đã 
				được học rộng nghe nhiều và là người duy nhất có thể nhớ lại 
				84,000 bài kinh mà trước đây Đức Phật đã thuyết giảng. Vì thế 
				trong hàng Thanh Văn ông nổi tiếng là đệ nhất đa văn. 
				 
				Mặc dù học rộng, nghe nhiều, nhớ dai nhưng A Nan chưa chứng 
				Thánh quả trong lúc Đức Phật còn sanh tiền. Mãi ba tháng sau khi 
				Đức Phật nhập diệt, trong lần kết tập kinh điển lần thứ nhất, 
				ông không được mời tham dự vì chưa chứng quả A La Hán. Ngay 
				chiều hôm ấy, A Nan nỗ lực tu tập, trầm tư mặc tưởng, buông bỏ 
				tận cùng và đến nửa đêm thì khai ngộ, chứng quả. Ông bay thẳng 
				vào đại hội và được đề cử đọc Kinh Tạng. Những kinh như Trường A 
				Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhứt A Hàm và Kinh Pháp Cú đều 
				do chính tôn giả tụng lại. Tôn giả nhập diệt lúc 120 tuổi. 
				 
				Đức Phật gọi ông A Nan và bảo: 
				-  Này A Nan! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma 
				Cật. 
				 
				Ông A Nan thưa: 
				 
				-  Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm 
				trưởng giả. Bởi vì trước đây, có lần Như Lai trong người hơi có 
				chút bệnh, phải cần dùng sửa. Con mang bình bát đến trước nhà 
				của một đại Bà La Môn để xin. 
				 
				Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có ba thân là Pháp thân, Báo thân và 
				Ứng thân. 
				 
				1) Pháp thân (Dharmakaya) là pháp giới thanh tịnh của các Đức 
				Như Lai lan tỏa trong khắp không gian làm sở y bình đẳng cho Báo 
				thân và Ứng thân. Pháp thân thì luôn thường trụ, bất sinh bất 
				diệt cũng được gọi là Pháp giới tánh, Như Lai Tạng… Phật lấy 
				Pháp Tánh Chân Như làm thân nên gọi là Pháp thân. Pháp thân là 
				chỗ sở y chứa tất cả công đức trong Pháp giới. Vì Pháp thân là 
				thường trụ nên Pháp thân ở khắp mọi nơi. Cho dù Phật nhập thế 
				cứu độ chúng sinh thì Pháp thân cũng không tăng hay Phật có xuất 
				thế thì nó cũng không giảm, lúc nào cũng vậy mà thôi. Cái Pháp 
				thân nầy Phật và chúng sinh đều có như nhau, nhưng ở Phật thì nó 
				sáng suốt chiếu soi rực rỡ còn ở chúng sinh thì nó bị vô minh 
				che mờ nên không hiễn lộ. Pháp thân chính là cái mà con người sẽ 
				trở về sau khi diệt hết vô minh phiền não để phát huy trí tuệ 
				sẳn có của mình. Vậy Pháp thân chính là cội nguồn, là Bản Thể 
				của tất cả muôn sinh vạn vật. Đây chính là Bản Lai Diện Mục, là 
				Phật tánh có sẳn trong tất cả mọi người. 
				 
				2) Báo thân (Sambhogakaya) là thân tốt đẹp do công phu tu hành 
				trãi qua bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp mà có. Vì thế mà Đức Phật 
				có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp rực rỡ là vậy. Báo thân còn được 
				gọi là tự thọ dụng thân. 
				 
				Nếu chúng sinh đoạn trừ mọi vô minh phiền não thì tâm được hoàn 
				toàn thanh tịnh. Cái thanh tịnh an lạc tự tại nầy chỉ có người 
				đó biết và hưởng được còn người khác không hề cảm nhận hay san 
				sẻ được thì cái quả thanh tịnh an nhàn nầy là tự thọ dụng thân. 
				Cũng như uống một tách trà thơm ngon thì chỉ người uống trà mới 
				biết được hương vị thơm ngon như thế nào mà thôi. Do đó nếu 
				chúng ta bớt được một phần vô minh phiền não thì có được một 
				phần thanh tịnh tức là có được một phần tự thọ dụng thân. 
				 
				Còn Báo thân của chúng sinh thì gọi là Karmakaya tức là thân nầy 
				là do quả nghiệp của tiền kiếp tạo thành. Muốn có thân thể khỏe 
				mạnh sống lâu thì đừng bao giờ sát sinh. Muốn có giọng nói thanh 
				tao trong trẻo thì đừng nên vọng ngữ. Muốn thân hình được đoan 
				trang, đẹp đẻ thì đừng nghĩ tới tà dâm. Muốn gia đình được ấm no 
				hạnh phúc thì đừng trộm cướp gian tham. 
				 
				3) Ứng thân hay biến hóa thân (Nirmanakaya) Chư Phật do trí 
				thành sở tác mà biến hóa ra thành vô lượng thân, ứng theo căn cơ 
				của chúng sinh mà hóa độ. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là ứng thân 
				của Phật trong cõi Ta bà nầy. Vì Ứng thân là thân thị hiện nên 
				phải ảnh hưởng bởi luật vô thường là sinh lão bệnh tử. Ứng thân 
				cũng được gọi là tha thọ dụng thân. 
				 
				Đối với Phật giáo thì báo thân hay tự thọ dụng thân có giá trị 
				tuyệt đối vì chỉ có người được thức tỉnh giác ngộ mới hưởng được 
				cái hương vị thanh tịnh an vui tự tại của giải thoát giác ngộ mà 
				không một người nào khác có thể biết được. Khi chư Phật hay 
				Bồ-tát thị hiện để hoằng dương đạo pháp thì chúng sinh có cơ hội 
				học hỏi, tu sửa và sống theo Chân lý để tự mình giải thoát giác 
				ngộ thì ứng thân để cứu độ chúng sinh ra khỏi bể khổ sông mê gọi 
				là tha thọ dụng thân. 
				 
				Tóm lại ba thân của Đức Phật là: Pháp thân là Thể, Báo thân là 
				Tướng và Ứng thân là Dụng. Tuy nói ba mà là một, tuy một mà ba 
				tức là một là tất cả và tất cả là một. 
				 
				Ngài Thiền sư Xuyên Lão cũng có bài kệ rằng: 
				 
				Ba Phật hình nghi chẳng phải chân 
				Con người trong mắt trước mặt xem 
				Nếu hay biết được trong nhà báu 
				Hoa núi chiêm kêu một dáng xuân 
				Ứng Phật, Hóa Phật đều không thật 
				Bóng hình muôn thử thảy là quyền 
				Cái gì có tướng đều hư vọng 
				Chân Phật không hình vốn tự nhiên. 
				 
				Bấy giờ, trưởng giả Duy Ma Cật đến nói với con rằng: 
				 
				- Thưa ngài A Nan! Ngài làm gì mang bình bát đến đứng đây sớm 
				thế? 
				 
				- Thưa cư sĩ! Như Lai trong người hơi có bệnh, cần phải dùng sữa 
				nên tôi đến đây hóa duyên xin sữa cho Như Lai. 
				 
				Ông Duy Ma Cật nói: 
				 
				-  Thôi! Thôi! A Nan! Ngài đừng nói như vậy. Thân Như Lai 
				là thân Kim Cương, các xấu ác đã hết, các cái thiện đã đầy đủ, 
				còn có bệnh gì, còn có não gì? 
				 
				Hãy im lặng và đi đi! Ngài nói như vậy là phỉ báng Như Lai đó. 
				Đừng để cho người ngoài họ nghe được những lời bất kính đó! Đừng 
				để cho các hàng chư Thiên đại oai đức và các Bồ-tát ở các cõi 
				Tịnh độ khác nghe được những lời ấy! 
				 
				Thưa ngài A Nan! Chuyển Luân Thánh Vương chỉ có chút ít phước 
				đức mà còn không bệnh, huống chi Như Lai là thân Kim Cương hội 
				tụ vô lượng phước đức! 
				 
				Hãy đi đi, ngài A Nan! Đừng để chúng tôi phải chịu sự xấu hổ đó! 
				Hàng ngoại đạo Phạm Chí họ nghe được những điều đó, họ sẽ nghĩ 
				gì về một bậc thầy của chúng ta! 
				 
				Bản thân một vị thầy có bệnh mà không thể tự cứu thì làm sao cứu 
				bệnh cho ai? Ngài hãy âm thầm đi nhanh đi. Đừng để lộ ra cho 
				người ngoài nghe biết! 
				 
				A Nan! Ngài nên biết rằng: Thân của Như Lai là pháp thân, không 
				phải thân do tư dục. Phật là bậc Thế Tôn vượt ngoài tam giới. 
				Thân Phật vô lậu, vì các lậu đã hết. Thân Phật vô vi, không mắc 
				vào các số lượng. Thân như thế thì còn có bệnh gì? 
				 
				Khi tôn giả A Nan nói thân Như Lai hơi có bệnh là ông muốn nói 
				về Ứng thân, tha thọ dụng thân hay biến hóa thân là thân có 32 
				tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Thân nầy là thân vô thường nên phải chịu 
				sinh lão bệnh tử như tất cả mọi chúng sinh. Còn trưởng giả Duy 
				Ma Cật lại nói về Pháp thân, là thân Kim Cương, bất sinh bất 
				diệt thì làm sao có bệnh được. Ứng thân là thân sinh diệt thuộc 
				về pháp hữu vi nên mới có bệnh. Còn Pháp thân là Chơn Không Diệu 
				Tánh, là pháp vô vi, là vô lậu thì làm sao có bệnh tật được. 
				 
				Con người sống trong thế gian gánh chịu trăm nổi phiền não khổ 
				đau vì thế Phật mới thị hiện để khai thị cho chúng sinh ngộ nhập 
				Phật Tri Kiến. Đức Phật đã dùng vô lượng phương tiện để trị vô 
				lượng bệnh phiền não của chúng sinh vì thế mà Ngài được tôn xưng 
				là Vô thượng Y Vương. Nhưng Vô thượng Y Vương là để trị tâm bệnh 
				còn thân bệnh thì phải trị bằng thuốc men. Ông A Nan nói Như Lai 
				có bệnh là ám chỉ Ứng thân. Mà Ứng thân thì do tứ đại hợp thành. 
				Khi tứ đại hòa hợp thì yên ổn an vui còn khi tứ đại bất hòa thì 
				sanh ra bệnh tật. Trong khi ông Duy Ma Cật nói thân của Đức Phật 
				là Pháp thân chớ không phải là thân tư dục tức là thân mà không 
				do tư tưởng ái dục duyên hợp mà thành. 
				 
				Thân Phật vô lậu vì Đức Phật luôn làm việc thiện, không còn tạo 
				nghiệp nên khỏi phải rơi rớt trong lục đạo luân hồi. Thân Phật 
				vô vi vì tâm Đức Phật thường trụ Niết bàn nên cho dù không làm, 
				không tạo tác mà vẫn an nhiên, tự tại bất sinh bất diệt. Thân 
				Phật không mắc vào số lượng tức là không bị hạn chế bởi không 
				gian và thời gian. Nếu là Ứng thân thì Đức Phật chỉ thọ có 80 
				tuổi và sống tại Ấn độ. Còn nói về Pháp thân thì thọ mạng bây 
				giờ là vô cùng vô hạn. Vì Pháp thân bao trùm khắp mọi nơi và bất 
				sanh bất diệt thì làm gì có tuổi mà nói. Không có thỉ mà cũng 
				chẳng có chung, vô cùng vô tận. Vì thế nếu chúng sinh cảm nhận 
				Pháp thân Phật thì ở đâu cũng có Phật và bất cứ lúc nào cũng có 
				Phật trong tâm của chúng ta. Đây chính là Pháp thân Tỳ Lô Giá 
				Na. Đức Phật A Di Đà có tuổi thọ dài vô lượng là ám chỉ Pháp 
				thân vậy. 
				 
				Nói về Sự Tướng tức là pháp hữu vi có sinh có diệt thì ông A Nan 
				nói đúng vì thân của Đức Phật là Ứng thân. Còn nói về Bản Thể, 
				là pháp vô vi bất sinh bất diệt, thanh tịnh bản nhiên thì ông 
				Duy Ma Cật nói đúng vì thân Đức Phật bây giờ không còn là Ứng 
				thân sinh diệt, có đau có bệnh mà là Pháp thân thanh tịnh bất 
				sinh bất diệt thì làm gì có đau có bệnh. 
				 
				Bạch Thế Tôn! Ông A Nan thưa. Lúc đó con rất là xấu hổ. Nghĩ 
				rằng con được hầu bên Phật há lại nghe lầm ư? Liền đó, con tự 
				nghe có tiếng trong không trung vọng đến: A Nan! Lời cư sĩ như 
				thế là đúng, nhưng vì Phật xuất hiện trong đời ngũ trược ác thế, 
				thị hiện ra việc làm như vậy nhằm giáo hóa độ chúng sinh. A Nan! 
				Ông hãy đi xin sữa, đừng có hổ thẹn! 
				 
				Sau bao năm làm thị giả A Nan rất hiểu ý Đức Phật vì thế khi 
				nghe Phật nói hơi có bệnh thì A Nan biết mình không nghe lầm. Vì 
				biết Phật có chút bệnh nên A Nan mới đi xin sữa mà sửa thì chưa 
				có nhưng chỉ nghe ông Duy Ma Cật đuổi về thì làm sao A Nan không 
				khỏi tủi thân, xấu hổ. Lúc A Nan còn đang phân vân là có nghe 
				lầm không thì ông tự nghe có tiếng trong không trung vọng đến. 
				Đây là lối diễn tả rất tinh xảo của Kinh Duy Ma Cật vì nếu không 
				hiểu rõ thì dễ dàng rơi vào mê tín dị đoan. Câu: “tự nghe có 
				tiếng trong không trung vọng đến” không thể hiểu là tiếng nói 
				của các vị Trời, các vị Bồ-tát hay ngay cả chư Phật mà hai chữ 
				“tự nghe” nói lên sự thức tỉnh, bừng sáng từ trong tâm thức của 
				ông A Nan. Vậy A Nan thức tỉnh cái gì? 
				 
				Đối với A Nan là vị thị giả của Phật mà chưa chứng quả A La Hán 
				thì chấp ngã, chấp pháp vẫn còn. Vì thế cái nhìn của A Nan đối 
				với  Đức Phật Thích Ca là thật, là Ứng thân thì phải có 
				bệnh. Khác với thế giới Hiện Tượng hữu hình, có sinh có diệt, có 
				bệnh tật, có đau khổ bất tịnh thì bây giờ ông Duy Ma Cật mới 
				giới thiệu cho A Nan một thế giới về Bản Thể vô vi thanh tịnh, 
				không sanh không diệt, vô cùng vô tận là thế giới của Pháp thân. 
				Cho nên chữ “tự nghe” ở đây chính là sự thức tỉnh, là ánh đuốc 
				chợt bừng sáng để soi chiếu tự tâm ông A Nan và cũng là chiếc 
				cầu nối giúp ông chuyển từ hệ thống giáo lý phương tiện Tiểu 
				thừa chật hẹp sang tư tưởng Liễu nghĩa thượng thừa rộng lớn. 
				Pháp thân mới chính là lý tưởng cứu cánh, là Bản Lai Diện Mục, 
				là con người thật của mình vậy. 
				 
				“Tiếng vọng trong không trung” cũng có thể hiểu là “tiếng lòng” 
				nói lên sự phản tỉnh của ông A Nan qua những giây phút tiếp nhận 
				những dòng tư tưởng ấm cúng của ánh lửa Đại thừa mà Ông Duy Ma 
				Cật chính là người đã khơi dậy ngọn lửa trong đống to tàn. Và 
				cũng chính “tiếng lòng” đã nhắc nhở ông A Nan sự khác biệt giữa 
				Ứng thân và Pháp thân. Pháp thân là Bản Thể thanh tịnh nên không 
				bệnh. Còn Ứng thân là nhục thân thị hiện nên vẫn còn bị ảnh 
				hưởng bởi sanh, lão, bệnh, tử như tất cả mọi chúng sinh. Tuy Ứng 
				thân Đức Phật có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, nhưng Ngài vẫn có 
				bệnh như mọi người. Vì thế khi thân có bệnh cần có sữa để chửa 
				trị thì cứ đi lấy, không e ngại chi cả. 
				 
				Bạch Thế Tôn! Ông A Nan thưa. Ông Duy Ma Cật có sức trí tuệ 
				biện tài vô ngại như thế, con không dám lãnh trách nhiệm đến 
				thăm bệnh. 
				 
				Ngoài mười vị đại đệ tử Thanh Văn nầy, còn có năm trăm vị nữa 
				ở trước Phật đến trình bày duyên cớ đã từng gặp ông Duy Ma cật 
				trước kia. 
				 
				Tất cả đồng xưng tán Trưởng giả Duy Ma Cật và đồng thưa lên Phật 
				rằng không dám đi thăm bệnh. 
				 
				Đây là một đoạn kinh rất hay vì đã phản ảnh rõ ràng sự thấy biết 
				khác nhau giữa hàng Thanh văn và Bồ-tát. Ông A Nan tuy là đệ 
				nhất đa văn nhưng vẫn còn nằm trong hàng Thanh văn nên cái thấy 
				biết của ông là Pháp nhãn có nghĩa là ông nhìn vạn pháp chỉ thấy 
				được Pháp Tướng tức là Hiện Tượng sinh diệt bên ngoài. Ngược lại 
				ông Duy Ma Cật là vị đại Bồ-tát có trí tuệ sáng suốt và biện tài 
				vô ngại nên cái thấy biết của ông chính là Pháp Tánh tức là Bản 
				Thể thanh tịnh bất sanh bất diệt bên trong. Thấy Pháp Tướng thì 
				nhìn Phật cũng chỉ thấy Phật Tướng. Do đó thấy Pháp Tướng thì rõ 
				ràng là Phật có bệnh nên cần phải đi xin sữa. Ông Duy Ma Cật 
				không nhìn Phật bằng Pháp Nhãn như ông A Nan mà nhìn bằng Tuệ 
				Nhãn cho nên thay vì thấy Phật Tướng sinh diệt vô thường thì ông 
				thấy Phật bằng Pháp Thân thanh tịnh bất sanh bất diệt. Cái hay 
				cái tuyệt của đoạn kinh nầy không những chỉ cho chúng sinh thấy 
				rõ sự khác nhau giữa Pháp Tướng và Pháp Tánh hay Hiện Tượng và 
				Bản Thể mà nó còn dung hòa mọi tư tưởng, quy ba thân làm một. 
				Khi đứng về Tướng và Dụng thì Ứng thân có bệnh. Còn đứng về Thể 
				và Tánh thì Pháp thân là Thật Tướng, bất sinh bất diệt, bất cấu 
				bất tịnh. Do đó tuy nói là có Tướng, Dụng, Thể, Tánh hay Tiểu 
				thừa, Đại thừa nhưng tất cả cùng quy về một mối là Nhất Thừa 
				Phật Đạo, Sự Lý nhất như. 
				 
				Khi đã thấy rõ sự khác nhau giữa Phật Tướng và Phật Tánh thì 
				chúng ta có thể áp dụng chân lý nầy ngay vào trong đời sống của 
				chính mình. 
				 
				Lúc mới vào đạo Phật thì chúng ta đến chùa quy y Tam Bảo và được 
				đặt cho một pháp danh thì đây là quy y thế gian trụ trì Tam Bảo. 
				Phật bây giờ là những hình tượng trên bàn thờ tức là Phật Tướng 
				để nhắc nhở chúng sinh những hình ảnh sống động lúc Phật còn tại 
				thế khiến con người có cảm tưởng như được đối diện với Đức Thế 
				Tôn. Pháp được hiểu là tam tạng kinh điển và Tăng là Tăng đoàn. 
				Quy y nầy chỉ là tạo duyên để học Phật mà thôi vì đây là Hiện 
				Tượng tức là pháp hữu vi sinh diệt bên ngoài vì tượng Phật, tam 
				tạng kinh điển ngay cả chư Tăng đều nằm trong luật vô thường 
				sinh diệt. 
				 
				Khi đã biết đạo rồi thì chúng sinh phải quay về với Nhất Thể Tam 
				Bảo vì đây mới là Bản Thể, là pháp vô vi bất sinh bất diệt, là 
				tính thanh tịnh bản nhiên có sẳn trong tất cả mọi người. Vì Bản 
				Thể là Chân Không, là Pháp Tánh, là Pháp thân thì không hình 
				không tướng, không kích thước nặng nhẹ, không sinh không diệt, 
				không dơ không sạch, vô ngôn vô thuyết thì đâu có ngôn ngữ nào 
				diễn tả cho được mà đặt pháp danh. 
				 
				Một hôm Lục Tổ ra giữa đại chúng mà hỏi: 
				 
				-  Ta có một vật không đầu, không đuôi, không tên, không 
				họ, không lưng, không mặt. Vậy các ông biết là vật gì chăng? 
				 
				Ngài Thần Hội lúc đó khoảng mười hai mười ba tuổi bèn lanh lẹ 
				bước ra nói: 
				 
				-  Dạ đó là bản nguyên của chư Phật, là Phật tánh của Thần 
				Hội. 
				 
				Tổ quở: 
				 
				-  Đã nói là không tên, không họ mà ông lại kêu là bản 
				nguyên, là Phật tánh thì cũng như lấy tranh che đầu mà thôi. 
				 
				Có nhiều người hiểu lầm cho rằng Kinh Bát Nhã nói cái gì cũng 
				không. Không Phật, không Niết Bàn vậy tu để làm gì? Kinh Kim 
				Cang có câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” tức là Phật dạy 
				chúng sinh dùng trí tuệ Bát nhã phá trừ tất cả là cốt cho chúng 
				ta không có chỗ bám. Vì nếu chúng sinh còn bám vào một giả danh 
				hay giả tướng nào là còn kẹt trong vòng sanh diệt đối đãi và sẽ 
				không thấy cái chơn thật nơi mình. 
				 
				Một hôm có quan Đại phu họ Mã đến hỏi ngài Triệu Châu, một cao 
				Tăng đời nhà Đường: 
				-  Hòa thượng gần đây có tu hành gì không? 
				 
				-  Nếu nói tu hành là họa. 
				 
				-  Nếu ngài nói tu hành là họa, tại sao ngài dạy đại chúng 
				tu? 
				 
				Ngài cười. 
				 
				Đây là đứng về mặt bất biến tức là Bản Thể mà nói. Vì Thể Tánh 
				vốn nhất như nên không còn tu bởi vì nếu khởi tu tức là động. Mà 
				động là còn sanh diệt tức là tai họa chớ là gì? Nhưng nếu đứng 
				về mặt tùy duyên tức là Sự Tướng thì còn phải tu vì có tu mới có 
				giải thoát. Phật pháp là tùy duyên cho nên nếu duyên phàm thì 
				thành phàm còn duyên Thánh thì trở thành Thánh vì thế mà nói có 
				tu, không tu là vậy. Do đó nếu không thông suốt sự khác biệt 
				giữa Bản Thể và Sự Tướng mà chỉ hiểu một chiều thì vô cùng tai 
				hại. 
				 
				Nhất Thể Tam Bảo gồm có Phật tánh, Pháp tánh và Tăng tánh. 
				 
				1) Phật tánh: Trong tất cả chúng ta không phân biệt là người 
				Việt, người Tàu, người Tây hay người Mỹ đều có sẳn cái Phật tánh 
				thanh tịnh bản nhiên. Cái Phật tánh nầy chính là Pháp thân mà ở 
				Phật cũng không tăng và ở chúng sinh cũng không giảm. Phật tánh 
				hay Pháp thân thì lúc nào cũng thanh tịnh, nhưng vô minh vọng 
				chấp che lấp Phật tánh khiến con người sống trong điên đảo, khổ 
				đau. Thí dụ như sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thì tự 
				nó luôn luôn thanh tịnh. Nhưng khi tiếp xúc với ngoại trần liền 
				bị đắm nhiễm. Cũng như con mắt thì tự nó thanh tịnh, không ô 
				nhiễm nhưng khi mắt nhìn thấy cái nhà đẹp, cành hoa xinh, chiếc 
				xe tốt thì tâm liền phân biệt tạo thành ý niệm ham muốn. Ham 
				muốn là tham tức là ô nhiễm. Ngay cả lục trần tức là sắc, thanh, 
				hương, vị, xúc, pháp tự nó cũng có bản nhiên thanh tịnh, không ô 
				nhiễm. Thí dụ như cành hoa đâu có mê hoặc ai đâu? Mê sắc là tại 
				người chớ đâu phải tại hoa. Ngay cả rượu có làm ai say đâu? Thế 
				mà con người chết lên chết xuống cũng vì rượu. Do đó nếu con 
				người biết lìa vọng chấp, sáu căn thường sáng tỏ, không dính mắc 
				nơi sáu trần thì tâm được thanh tịnh tức là thấy được Pháp thân 
				hay Phật tánh hiện bày. 
				 
				Ngày xưa ngài Huệ Tịch tới chỗ Thiền sư Trung Ấp thưa rằng: 
				 
				-   Bạch Hòa thượng! Thế nào là Phật tánh? 
				 
				Ngài Trung Ấp nói: 
				 
				-  Ta không nói thẳng được nhưng dùng thí dụ nầy cho ông 
				tạm hiểu: Như có con khỉ nhốt trong lồng có sáu cánh cửa. Bên 
				ngoài một con khỉ khác tới kêu “Chéo! Chéo” thì con khỉ trong 
				cũng đáp lại: “Chéo! Chéo” . Cứ như vậy con khỉ bên ngoài tới 
				cửa nào cũng kêu thì con khỉ bên trong đều đáp lại hết. 
				 
				Ngài Huệ Tịch liền hỏi lại: 
				 
				-  Bạch Hòa thượng! Nếu con khỉ bên trong ngủ thì sao? 
				 
				Thiền sư Trung Ấp từ trên tòa bước xuống nắm lấy vai Huệ Tịch mà 
				nói: 
				 
				-  Chúng ta thấy nhau rồi. 
				 
				Khi lục căn tiếp xúc với lúc trần thì sanh vọng thức mê lầm. Còn 
				lục căn yên lặng không bị lục trần quyến rủ thì có tâm thanh 
				tịnh. Tâm thanh tịnh là chơn tâm, là Phật tánh vậy. 
				 
				Trong Kinh A Di Đà, Phật dạy rằng: 
				 
				-  Hoặc một ngày cho đến bảy ngày niệm mà không niệm đến 
				chỗ nhất tâm bất loạn thì Phật hiện tiền. Cũng như đi, đứng, 
				nằm, ngồi mà tâm hằng thanh tịnh, không một chút vọng niệm khởi 
				thì Phật tánh hiện tiền. 
				 
				Phật tánh tức là tự tánh A Di Đà. Bởi vì Phật A Di Đà là Phật có 
				vô lượng thọ và vô lượng quang. Mà tuổi thọ vô lượng là chỉ cho 
				cái bất sinh bất diệt và vô lượng quang là ánh sáng trùm khắp vô 
				cùng vô tận mà Kinh Lăng Nghiêm gọi là Chơn Tâm, Kinh Pháp Hoa 
				gọi là Tri Kiến Phật, Kinh Niết Bàn gọi là Phật Tánh, Kinh Hoa 
				Nghiêm gọi là Trí Huệ Phật, Kinh Viên Giác gọi là Như Lai Viên 
				Giác Diệu Tâm. Đây chính là tự tánh thanh tịnh sẳn có nơi mỗi 
				chúng ta mà lâu nay con người cứ lầm lẫn cho nó ở ngoài mình nên 
				mãi rong ruỗi tìm cầu. Tu Thiền hay tu Tịnh độ thì cứu cánh 
				không khác chỉ vì chúng sinh mắc kẹt trên hình thức nên thấy có 
				sự sai khác. Ở Ấn Độ tuy cũng có nhiều tông phái khác nhau mà 
				các Luận sư tuy nói khác nhau nhưng bản ý là cùng nhau hướng về 
				giải thoát giác ngộ. Trong khi ở Trung Hoa, Việt Nam thì môn đồ 
				của hai tông bài xích nhau chẳng khác cừu thù. Học Phật, tu Phật 
				như thế không thể chứng ngộ vì con người còn mắc phải quá nhiều 
				bệnh cố chấp. 
				 
				Thật vậy con người có sự phân biệt tông nầy, phái nọ nhưng chân 
				lý Phật pháp vốn không sai biệt. Phải biết rằng một câu niệm 
				Phật hay câu trì chú chỉ là phương tiện chớ không phải là cứu 
				cánh. Người mới học Phật pháp lại phát sinh ra nhiều ý kiến, 
				phân chia tông nầy phái nọ, rồi khen mình chê người làm tổn hại 
				giá trị giáo hóa vi diệu của Phật pháp. 
				 
				Có người hỏi rằng Thiền chú trọng về tự lực trong khi tịnh độ 
				thì chú trọng vào tha lực. Mà tự lực và tha lực thì làm sao 
				giống nhau? 
				 
				Thật ra tâm Phật và tâm của chúng sinh không hề khác nhau. Tâm 
				Phật là Phật tánh thì từ vô thủy đến nay vốn không sinh diệt, 
				không hình tướng, không thuộc Có Không. Cái linh tri ấy có đủ 
				bốn đức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Bởi vì cái linh tri nầy không 
				sanh không diệt nên nói là Thường, lúc nào cũng an nhiên tự tại 
				nên gọi là Lạc, là chủ sinh ra muôn pháp nên gọi là Ngã và không 
				bị cấu nhiễm nên gọi là Tịnh. Chỉ vì chúng sinh cứ chấp vào 
				tướng nên đi tìm tâm ở bên ngoài nên Phật và chúng sinh mới xa 
				cách muôn trùng vì ta và tha nhân là hai thực thể khác nhau. 
				 
				Nên biết rằng Tịnh độ không những chú trọng đến tha lực mà đòi 
				hỏi cả công phu về tự lực nữa. Nguyên tắc căn bản của Tịnh độ là 
				phải biết nghiêm trì sáu căn: mắt, tai, mũi. lưỡi, thân, ý và ba 
				nghiệp tức là thân, khẩu, ý cho thật thanh tịnh để lúc niệm Phật 
				được nhất tâm. Đó là phần tự lực. Do đó khi niệm hồng danh chư 
				Phật thì tâm không hề có vọng tưởng thì con người sẽ cảm thông 
				được với chơn tâm hay Phật tánh của chư Phật trong mười phương 
				pháp giới. Thật ra tâm Phật và chúng sinh vốn nào có khác đều 
				cùng một Bản Thể nhưng vì chúng sinh bị vô minh che lấp nên chưa 
				ý thức được điều nầy vì thế mới có sự phân biệt, xa cách. Chúng 
				sinh từ vô thỉ đến nay đã gây ra biết bao tội nghiệp. Cho dù 
				công phu tu tập đến đâu cũng khó trong một đời mà giải trừ được 
				hết nghiệp chướng nên phải nương nhờ oai lực ở câu niệm Phật để 
				tiêu trừ bớt nghiệp ngỏ hầu giúp cho tín căn và tín lực gia tăng 
				mà được vãng sanh. Đó là phần tha lực. 
				 
				Tóm lại, Tịnh độ bao gồm cả tha lực và tự lực, tuy giản dị nhưng 
				công năng vô cùng huyền diệu. Chúng sinh phải nắm vững những quy 
				tắc căn bản của Tịnh độ vì nếu không ý thức việc nghiêm trì sáu 
				căn và ba nghiệp mà chỉ trông nhờ vào tha lực tiếp dẫn mà thôi 
				là một thiếu sót rất lớn. Thiếu tự lực thì không có nhất tâm mà 
				không nhất tâm thì làm sao thông cảm được với chơn tâm của chư 
				Phật. Có một số người niệm Phật để cầu phước hay để xin xỏ việc 
				nầy việc nọ thì cũng là đi ngược lại với tông chỉ của Tịnh độ. 
				Khi thiếu tâm thành mà chỉ mong cầu nầy nọ là tham lam mà đã là 
				tham lam thì làm sao có kết quả được. Đối với người tu Tịnh độ 
				thì không cần xin gì ngoài việc vãng sanh về cõi Tây phương với 
				Phật A Di Đà. 
				 
				Chúng ta bây giờ tự hỏi Tổ Bồ-đề Đạt Ma ngồi quay mặt vô tường 
				suốt chín năm để suy gẫm điều gì? 
				 
				Phải chăng ngài gẫm thấy tâm tức là Phật, Phật tức là chúng 
				sinh. Khi mê thì có chúng sinh, có Phật nhưng khi ngộ thì Phật 
				và chúng sinh vốn nào có khác. Phật tánh, chơn tâm thì không 
				nhơ, không sạch, không sinh không diệt. Ở chúng sinh nó không 
				tăng mà ở Phật nó cũng không giảm cho nên Ngài vượt thoát ra 
				khỏi mọi phiền não khổ đau, ra khỏi sinh tử luân hồi mà đạt đến 
				Niết bàn giải thoát. 
				 
				Có người lại thắc mắc rằng Tổ Bồ-đề không hề nói đến Phật A Di 
				Đà hay cõi Tây phương Cực lạc? 
				 
				Thật vậy. Nhưng nghĩ lại là nếu có người dân quê hiền lành chất 
				phác đến nghe pháp mà Tổ lại giảng về lý Không, pháp Tánh, pháp 
				Tướng hay nguyên lý Bất nhị thì những điều nầy đâu có ý nghĩa gì 
				đối với họ. Phải chăng đó là những danh từ trừu tượng trống 
				rỗng, không thể hiểu và không có lợi ích gì? Nhưng nếu giảng cho 
				họ về Đức Phật A Di Đà và những hạnh nguyện tiếp dẫn của Ngài để 
				được về cõi Tây phương Cực lạc thì họ sẽ hiểu, sẽ tin và phát 
				tâm muốn được sanh về cõi đó. Nếu suốt ngày họ trì niệm danh 
				hiệu Phật A Di Đà, biết chú tâm vào hồng danh nầy khi làm ruộng, 
				lúc nghĩ ngơi, khi gặt lúa cho đến lúc nhất tâm bất loạn thì cái 
				ảo ảnh nhị nguyên của vô minh, cái tâm phân biệt, có chúng sinh 
				có Phật sẽ chấm dứt và họ sẽ chứng ngộ được thực tại mầu nhiệm 
				ngay. Dù chúng ta gọi nó là tha lực tiếp dẫn của Đức A Di Đà, 
				gọi là thiền, gọi là mật, gọi là giáo thì đâu có khác biệt gì 
				đâu? Cái khả năng giải thoát mà con người cho rằng vốn ở bên 
				ngoài tức là tha lực thật ra vẫn ở bên trong tức là tự lực thì 
				lúc nào vẫn sẳn có trong ta. Đó chính là cái tự tánh thanh tịnh 
				bản nhiên vĩnh hằng trong tất cả mọi chúng sinh. Như thế khi 
				hiểu rõ những chân lý nầy thì tùy theo ý thích của mỗi người mà 
				bàn về thiền hay tịnh độ. Thiền cũng tốt mà Tịnh cũng hay. Người 
				học Phật nếu đọc qua cuốn “Tông Cảnh Lục” và “Muôn Thiện đồng 
				quy” của Tổ Vĩnh Minh hay trong “Bồ-tát Đại Thế Chí niệm Phật 
				viên thông” thì Tịnh độ cũng phát xuất từ tự tánh, xả bỏ vọng 
				tưởng, quay về nguồn chân nên chớ hướng ngoại tìm cầu. Nếu chúng 
				sinh niệm danh hiệu Phật A Di Đà để dẹp trừ vọng tưởng, chấp 
				trước thì mỗi câu niệm sẽ quét sạch vọng tưởng làm tâm thanh 
				tịnh. Vì thế kinh mới có câu: “Duy tâm tịnh độ, tự tánh Di Đà” 
				là vậy. Như thế thì cái mà Tổ Bồ-đề Đạt Ma chứng trong lúc ngồi 
				thiền và người nông phu chất phác chứng ngộ trong khi niệm hồng 
				danh Phật A Di Đà có khác gì nhau. Thiền gọi nó là Minh Tâm Kiến 
				Tánh trong khi Tịnh gọi là Nhất Tâm Bất Loạn thì cùng một ý 
				nghĩa tức là họ đã thấy được Phật tánh, chơn tâm hay tự tánh 
				thanh tịnh bản nhiên của mình vậy thôi. 
				 
				Phải biết rằng Thiền, Tịnh, Mật đều là những con đường khác 
				nhau, phương tiện khác nhau nhưng đều dẫn đến một mục đích là 
				giải thoát giác ngộ. Cũng như nếu nhìn từ đỉnh núi xuống thì có 
				vô số con đường dẫn lên núi nhưng nếu từ chân núi nhìn lên thì 
				chỉ có một đỉnh núi cao mà thôi. Tịnh độ tông hay niệm Phật A Di 
				Đà là phương pháp tập trung tư tưởng để trì niệm hồng danh chư 
				Phật cho đến chỗ nhất tâm bất loạn. Khi tâm không còn loạn động, 
				không còn phiền não và không còn điên đảo thì sẽ có trí tuệ sáng 
				suốt. Mật tông thì cũng thế, thay vì niệm hồng danh chư Phật thì 
				người tu trì thần chú, mật ngữ của chư Phật để đạt đến nhất tâm. 
				Khi biết phối hợp âm thanh (chú) với cử chỉ (ấn quyết) và tâm ý 
				(Tam Ma Địa) thì đạt được tam mật tương ưng tức Thân, Khẩu, Ý 
				được thanh tịnh. 
				 
				Khi không còn vọng niệm, đạt đến trạng thái như như bất động thì 
				làm gì còn phiền não. Sau cùng Thiền là phương pháp sử dụng trí 
				tuệ bằng cách nhìn thẳng vào thực tánh của vạn pháp. Vì vạn pháp 
				giai không duyên sanh như huyễn nên trên đời nầy đâu có cái gì 
				thật đâu mà phải quan tâm, bận lòng. Khi tâm không loạn động thì 
				sẽ có Định. Mà có Định thì phiền não không còn, khổ đau tan 
				biến. Tóm lại về mặt hình thức tuy có khác nhưng tựu trung ba 
				phương pháp cũng đều quay về để diệt trừ vọng niệm, dứt sạch mọi 
				phiền não để chấm dứt khổ đau và giải thoát ra khỏi sinh tử luân 
				hồi. Đây chính là một là tất cả và tất cả là một vậy. 
				 
				2) Pháp tánh: là cái nhận biết cho phù hợp với chân lý, đúng với 
				chân lý tức là có chánh tri chánh kiến để đưa con người đến chỗ 
				thanh tịnh, an vui và tự tại. 
				 
				3) Tăng tánh: Phật tánh là tánh thanh tịnh bản nhiên ở trong ta 
				và Pháp tánh là cái trí tuệ của ta như thế Tăng tánh là tánh hòa 
				hợp của tánh thanh tịnh bản nhiên và trí tuệ sáng tỏ trong ta để 
				tránh xa mọi ô nhiễm bên ngoài. 
				 
				Quy y Nhất Thể Tam Bảo mới chính thật là quay về để sống với con 
				người chân thật mà bấy lâu đã bị vô minh che lấp làm cho chúng 
				ta sống trong điên đảo khổ đau. Con người chân thật nầy không ai 
				khác hơn là Bản Lai Diện Mục, là Chơn tâm, là Như Lai Viên Giác 
				Diệu Tâm, là Phật tánh có sẳn trong tất cả mọi người. 
				 
				Phần Tóm lược Phẩm Đệ Tử 
				 
				Trong phẩm đệ tử nầy chúng ta có cơ hội học hỏi sự trao đổi kiến 
				thức của mười vị đại đệ tử của Phật với ông Duy Ma Cật, một vị 
				đại Bồ tát có trí tuệ vô song và biện tài vô ngại. Tuy hoàn cảnh 
				có khác, nhưng tựu trung cũng nhắm vào một đối tượng duy nhất là 
				viên thành Phật đạo. Mà con đường để đạt đến cứu cánh tột đỉnh 
				nầy là phải thấu suốt thật tướng của vạn pháp. Mà thật tướng 
				chính là Bản Thể, là Chơn Như, là Phật tánh, là tính thanh tịnh 
				bản nhiên có sẳn trong tất cả mọi người. Vì thế Kinh Kim Cang 
				mới có câu: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư 
				tướng phi tướng tức kiến Như Lai” nghĩa là tất cả những gì trong 
				thế gian vủ trụ nầy mà có hình tướng thì là giả huyễn, không 
				thật. Còn nếu thấy được thật tướng của vạn pháp thì thấy được 
				Chân Lý. 
				 
				Tuy mười vị đại đệ tử của Phật đã phá được chấp ngã nên họ lìa 
				xa được phiền não khổ đau, nhưng chấp pháp vẫn còn. Đó là họ 
				thấy con người là thật, thế gian vủ trụ là thật nên muốn xa lánh 
				cuộc đời để không còn bị ô nhiễm và tinh tấn tu hành để được an 
				vui tịch diệt Niết bàn. Trưởng giả Duy Ma Cật là người đại diện 
				cho Phật giới thiệu cho họ con đường Đại thừa rộng lớn để phá 
				luôn chấp tướng thì mới viên thành Phật quả. Khi nói “vạn pháp 
				giai Không” thì ông Duy Ma Cật đã đưa họ vào một thế giới vô 
				cùng vô tận. Thế giới của Chân Không Diệu Tánh, không hình không 
				tướng, không phiền não khổ đau, không cầu không đắc, hoàn toàn 
				thanh tịnh. Chính ông Duy Ma Cật đã nắm tay đưa họ từ thế giới 
				vật chất hữu hình hữu hoại sang một thế giới vô vi thanh tịnh. 
				Khi đã biết và sống trong thế giới của Thường, Lạc, Ngã, Tịnh 
				thì con người sẽ không còn lo sợ, mộng tưởng điên đảo mà lúc nào 
				cũng an vui tự tại. Tâm Kinh dạy rằng: “Sắc 
				tức thị Không, Không tức thị Sắc” thì con người sẽ không còn 
				phân biệt Tiểu thừa hay Đại thừa, hữu vi hay vô vi mà tất cả đều 
				quy về Nhất thừa Phật đạo, lìa bỏ hai bên để nhập vào pháp môn 
				Bất Nhị. Vì sự huyền diệu của kinh nên chúng ta cần phải phát 
				tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, diệt trừ lòng mê mờ chấp 
				ngã chấp pháp ngỏ hầu phát huy trí tuệ sẳn có trong chúng ta mà 
				trực nhận Chân lý để được tự giác rồi giác tha và đạt đến cứu 
				cánh giải thoát hoàn toàn. 
				
				
				 |  
				 |