| 
				   
				Tiểu Sử 
				Pháp Sư Cưu Ma La Thập 
				 
				 
				Pháp sư Cưu Ma La Thập tiếng 
				Phạn là KUMARATRA gốc người Ấn Độ sinh ra trong thời Diêu Tần 
				tức khoảng 400 năm sau Tây lịch và gần 1000 năm sau khi Đức Phật 
				nhập diệt. Ngài là người trí tuệ vô song, làu thông tam tạng 
				kinh điển nên được gọi là Tam Tạng Pháp Sư. 
				 
				Khi còn ở Ấn Độ, dòng họ của Ngài là một gia đình nối truyền 
				nhau làm quan Tướng quốc (chức Thủ tướng ngày nay) đến khi thân 
				phụ ngài là Cưu Ma La Viêm (Kumarayàna) thì ông nầy bỏ ngôi 
				Tướng quốc, xuất gia tu Phật và xuất ngoại vào nước Cưu Ty, miền 
				Tây vực nay thuộc tỉnh Tân Cương, Trung Hoa. Quốc vương nước nầy 
				rất kính mến nên phong ông làm Quốc sư. Nhà vua có người em gái 
				tên là Kỳ-Bà (Jivà) mới hai mươi tuổi mà tư chất thông minh xuất 
				chúng nên muốn đem ép gả cho Cưu Ma La Viêm. Sau đó sinh ra ngài 
				Cưu Ma La Thập. Tuy tuổi rất trẻ nhưng ngài đã biểu hiện nhiều 
				thiên tài thần diệu. Lúc lên bảy tuổi ngài theo mẹ vào chùa để 
				xuất gia, thấy một cái bình bát làm bằng thiết thì ngài liền lấy 
				đội lên đầu. Lúc ấy trong tâm ngài phát sinh ý niệm cái bình bát 
				nầy rất nặng thì bổng nhiên cái bình bát nặng lên mấy trăm lần. 
				Nhưng điều thần diệu là tự nhiên trong ngài sinh lực cũng tăng 
				lên mấy trăm lần tương xứng với sức nặng của bình bát để giúp 
				ngài đủ sức đội. Từ đó mà ngài thấu được câu: “Vạn Pháp Duy Tâm” 
				có nghĩa là tất cả mọi việc trong thế gian nầy đều do tâm mình 
				tạo. Khi tâm mình nghĩ thiện thì có cảnh thần tiên, ngược lại 
				nếu tâm mình nghĩ ác thì thấy cảnh địa ngục, A-tỳ. 
				 
				Sau khi xuất gia không lâu, ngài học hiểu, thông suốt tất cả tam 
				tạng kinh điển và phát sinh đại trí tuệ. Ngài có biện tài vô 
				ngại nên nhà vua rất quý trọng bèn sai đúc một cái pháp tọa bằng 
				con sư tử vàng để ngài ngồi lên mà thuyết pháp. 
				 
				Bấy giờ ở bên Trung Hoa vào đời nhà Đông Tấn có vua Tần Phù Kiên 
				của nước Tần vì nghe đại danh của ngài Cưu Ma La Thập nên sai 
				đại tướng Lữ Giang cử bảy vạn binh đánh vào Tây vực buộc vua 
				nước Cưu Ty phải giao Pháp sư cho họ. Vua nước Cưu Ty khước từ 
				nhưng cuối cùng bị thất trận đành phải giao Pháp sư cho vua Tần. 
				Khi vừa đến đất Lương Châu thì nghe tin vua Tần Phù Kiên bị ông 
				Dao Trành giết chết, Lữ Giang tự chiếm đất Lương Châu và tự 
				phong mình làm vua là Tam Hà Vương, lập ra nhà Hậu Lương. 
				 
				Vua Dao Trành lập ra triều đại Hậu Tần mà kinh điển thường gọi 
				là Dao Tần hay Diêu Tần. Vua Dao Trành qua đời con là Dao Hưng 
				lên nối ngôi mới cất binh qua đánh vua Lữ Giang, nhưng Lữ Giang 
				vừa qua đời con là Lữ Long lên thay chịu đầu hàng. Nhà vua liền 
				rước Pháp sư về Tràng An, tôn làm Quốc sư và ngự tại Tiêu Diêu 
				Viên và Tây Minh Các để kiểm duyệt lại tất cả kinh điển. 
				 
				Pháp sư Cưu Ma La Thập xem xét lại kinh điển thì thấy phần lớn 
				đều sai lệch chẳng đúng với phạm-bản liền cho mời các vị danh 
				tăng như Tăng Triệu, Tăng Duệ, Tăng Lãnh, Đạo Sanh, Đạo Dung, 
				Đạo Hằng, Huệ Quang, Huệ Nghiêm, Đạo Thường, Đạo Phiêu mà được 
				người đời gọi là : “Thập môn, Thập triết” tức là mười nhà, mười 
				vị bác học cùng với các vị Đại đức khác tổng cộng trên 108 người 
				cùng nhau dịch ra các bản kinh luật mới, trước sau hơn 390 
				quyển. 
				 
				Trước khi lâm chung, ngài Cưu Ma La Thập cho mời tăng chúng đến 
				dặn rằng: 
				 
				- Sau khi ta mệnh chung, hãy đem nhục thể của ta hỏa thiêu. Nếu 
				quả thực các kinh điển do ta phiên dịch không có điều gì sai lầm 
				thì lưỡi của ta không bị hoại. Còn như nếu là sai với tâm ý của 
				Phật thì lưỡi của ta tất bị thiêu hóa. 
				 
				Sau khi lửa tàn, thi thể cháy hết mà lưỡi của Pháp sư vẫn giữ 
				màu hồng tươi như khi còn sống. Xem như vậy mới biết rằng tất cả 
				các kinh do ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch hoàn toàn không sai 
				lạc, thật đúng với tâm ý của Phật. 
				 
				
				 |  
				 |