| 
				 Chương Thứ Ba 
				Phẩm Đệ Tử 
				(The Disciples’ Reluctance to Visit Vimalakirti) 
				Hàng 
				Thanh Văn 
				 
				Tôn giả Đại Ca Diếp  
				  
				(Mahakàsyapa): Vấn Đề Khất 
				Thực. 
				Tôn giả Đại Ca Diếp xuất thân là con nhà 
				giàu có, phú hộ, nhưng khi xuất gia theo Phật lại kham nhẫn tu 
				theo khổ hạnh đầu đà. Trên hội Linh Sơn, khi Phật cầm cành hoa 
				sen đưa lên mà tất cả đại chúng đều ngơ ngác không biết ý nghĩa 
				là gì, duy chỉ có tôn giả đắc ý nên cười chúm chím. Vì thế mới 
				có câu: “Niêm hoa vi tiếu”. Tâm ông cảm thông với tâm Phật nên 
				được Đức Thế Tôn phó chúc làm sơ tổ thiền tông của Phật giáo. Về 
				sau đem y, bát của Phật Thích Ca vào núi Kê Túc mà nhập định và 
				chờ đến khi Phật Di Lặc ra đời sẽ trao lại. Tôn giả là đại đệ tử 
				có đức hạnh cao và chỉ đi khất thực nhà nghèo chớ không khất 
				thực nhà giàu vì ông nghĩ rằng người nghèo là tại vì họ thiếu 
				phước đức nên tôn giả đến khất thực là để tạo duyên cho họ có 
				dịp bố thí mà tạo phước điền thì sau nầy sẽ được giàu sang sung 
				sướng. 
				Khất thực là một hạnh trong mười hai hạnh 
				đầu đà. Tôn giả mặc áo phấn tảo tức là chiếc áo được kết bằng 
				những tấm giẻ rách lượm ở nghĩa địa và không được ngủ dưới gốc 
				cây quá ba đêm vì sẽ sanh tâm tham. Ngài không giữ tiền, không 
				có của cải mà tài sản duy nhất chỉ có tam y nhất bát mà thôi. 
				 
				Có phải khất thực, đi xin ăn là làm biếng, là ăn bám xã hội 
				chăng? Nếu như thế thì tại sao chính Đức Phật lại thực hành? 
				Theo Phật giáo muốn giải thoát tâm mình ra 
				khỏi mọi hệ lụy của phiền não khổ đau thì người tu hành phải 
				chấp nhận buông xả. Có thì phải lo phải giữ. Nhà càng lớn thì lo 
				càng nhiều. Ngay cả chùa càng to thì phiền não cũng to theo. Vì 
				thế đối với họ của cải vật chất thế gian là sợi giây vô hình cột 
				chặt con người vào vòng sinh tử. Do đó sau khi thành Phật, chính 
				Đức Thế Tôn cũng noi theo chư Phật đời trước mà đi khất thực. 
				Tại sao? Bởi vì chư Tăng không giữ tiền bạc nên không mua bán, 
				không nấu ăn. Hằng ngày họ đến từng nhà khất thực để mọi người 
				có cơ hội bố thí mà tạo phước đức và nhân dịp đó chư Tăng nói 
				pháp khuyên người nên tu tâm dưỡng tánh, làm lành lánh dữ… Khi 
				đi khất thực họ không phân biệt thức ăn chay hay mặn, thí chủ 
				cúng món gì thì họ thọ dụng món nấy. Nếu vị Tăng chỉ biết ăn 
				chay mà thí chủ không biết cúng đồ mặn thì họ lấy tay che bình 
				bát lại. Sau khi nhận thực phẩm họ luôn chú nguyện cho thí chủ 
				phước huệ được tăng trưởng, thân tâm an lạc rồi tùy duyên mà nói 
				pháp. Vì ngày xưa Đức Phật và chư đệ tử chỉ thọ trai mỗi ngày 
				một lần nên cái bình bát tương đối hơi lớn cho nên họ phải đi 
				nhiều nhà thì bình bát mới đầy. Khi thấy đủ thức ăn thì họ về 
				tịnh xá hay nơi có gốc cây thanh tịnh, trộn chung các thức ăn 
				với nhau để không còn phân biệt món nầy món khác, món ngon món 
				dở, không phân biệt mùi vị rồi mới ăn. Đối với họ ăn để sống chớ 
				không phải chạy theo mùi vị thơm ngon. Có được như thế thì mới 
				phá nổi cái chấp. Tâm không còn dính mắc thì mới tu thanh tịnh 
				được. Khất thực cũng là một phương pháp phá trừ ngã chấp, đánh 
				tan tập khí ngã mạn. Không nấu nướng thì khỏi cần tiền mua bán 
				cho nên chư Tăng dành nhiều thì giờ cho việc tu học và thiền 
				định. Còn thí chủ thì có cơ hội bố thí tạo phước điền và được 
				nghe những lời dạy bảo mà tu hành mở mang trí tuệ. Như vậy khất 
				thực rõ ràng là vì lòng từ bi, vì lợi ích cho chúng sinh, vì 
				phương tiện tu hành, vì tự độ và độ tha và hai bên cùng lợi lạc 
				nên khất thực không phải là lười biếng hay ăn bám xã hội. Sau 
				khi thọ trai xong, chư tăng còn cả buổi chiều để nghe pháp, tu 
				thiền hay niệm Phật… 
				Ngày nay những nước tu theo Phật giáo Tiểu 
				thừa như Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Cam Pô Chia… thì 
				chư Tăng vẫn còn khất thực. Họ quấn y và đi chân đất như thời 
				Phật còn tại thế. Còn những nước theo Phật giáo Đại thừa như 
				Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc… thì chỉ còn một số rất 
				ít chư Tăng đi khất thực. Trong chùa có vị trụ trì chăm lo vấn 
				đề tứ sự. Chư tăng không còn quấn y như Đức Phật mà mặc áo thụng 
				như người Trung quốc. Như thế là tiến bộ hay thoái hóa? Tùy hảo 
				ý của quý vị. 
				 
				Bây giờ Đức Phật mới gọi tôn giả Đại Ca Diếp đến và bảo: 
				 
				- Này Đại Ca Diếp! Ông hãy đến thăm bệnh trưởng giả Duy Ma 
				Cật vì ông ấy đang có bệnh. 
				 
				Tôn giả thưa: 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh ông 
				Duy Ma Cật. Vì con nhớ trước đây, một hôm nọ con đi khất thực 
				trong một xóm nghèo, ông Duy Ma Cật gặp và nói cho con một thời 
				pháp dài rằng: 
				- Thưa ngài Đại Ca Diếp! Ngài có tâm từ 
				mà không phổ biến, chẳng bình đẳng đối với chúng sinh. Ngài chừa 
				nhà giàu, tìm nhà nghèo mà khất thực. Thưa ngài Đại Ca Diếp! Hãy 
				nên trụ ở pháp bình đẳng, khất thực theo thứ tự của xóm làng. 
				Không phải vì ăn mà khất thực thì mới nên đi khất thực. Nhằm 
				hoại diệt cái thân tướng hòa hiệp này mà bốc cơm ăn. Phải sử 
				dụng cái ý tưởng không thọ nhận, mới thọ nhận thức ăn. Vào xóm 
				làng, phải tưởng như đến chỗ không người. Thấy sắc mà như đui. 
				Nghe thanh như nghe vang. Ngưởi hương như hít gió. Nếm vị nhưng 
				không phân biệt. Thọ xúc như trí chứng. Biết tướng của các pháp 
				như huyễn, xưa vốn không sanh cho nên nay không có diệt. 
				 
				Trong bất cứ xã hội nào ngay cả tại Hoa kỳ thì người nghèo vẫn 
				chiếm đa phần, nhưng chuyện giàu nghèo là chuyện của nhân quần 
				xã hội, là chuyện của chúng sinh vì con người chính là cái quả 
				mà họ thọ nhận từ những cái nhân tác tạo từ bao đời trước. Nhưng 
				nghèo không phải nhất thiết là khổ vì nếu biết sống “tri túc 
				thiểu dục” thì cũng có an vui hạnh phúc như thường. Do đó cổ 
				nhân có câu: “Thanh bần thường lạc” là có. Còn giàu chưa chắc là 
				sung sướng. Nếu con người làm giàu bằng cách bất chánh, bất 
				lương, bất nhân, bất nghĩa thì tuy bên ngoài là giàu có nhưng 
				bên trong lúc nào cũng lo âu, sợ sệt và đau khổ triền miên. Vì 
				thế cổ nhân cũng đối lại là “Trọc phú đa ưu” là vậy. 
				 
				Như thế thì quan niệm giàu là người có đầy đủ phước đức và được 
				hưởng nhiều hạnh phúc là sai và nói rằng nghèo là kẻ đáng thương 
				nên cần sự giúp đở để cho họ hưởng được phần nào hạnh phúc cũng 
				là sai. Đo đó đối với chư Tăng nên nhìn bằng tuệ nhãn chớ không 
				đánh giá khổ vui qua hình thức tiền của giàu nghèo. Tâm bình 
				đẳng là tâm không còn phân biệt và đây là do đạo đức và quả 
				chứng của người tu mà được. Khi thấy có nghèo và giàu là còn kẹt 
				trong vòng phân biệt nhị nguyên, còn so sánh đối đãi, còn chấp 
				tướng, còn sống với vọng chứ chưa phải Chân. Nếu đi khất thực 
				theo thứ tự ở xóm làng để tùy duyên hóa độ làm phước điền cho 
				chúng sinh mà tâm không phân biệt giàu nghèo, sang khó thì tâm 
				mới được an nhiên tự tại mà xóa bỏ biên giới nhị nguyên để quay 
				về với tự tánh thanh tịnh bình đẳng nhất như. 
				
				Không phải vì ăn mà khất thực thì mới nên đi khất thực. 
				 
				Thông thường có đói mới đi kiếm ăn vì thế nếu không ăn thì cần 
				gì phải đi khất thực? Nhưng ở đây không phải vì ăn có ý nghĩa 
				sâu xa là không quan tâm, chú ý đến miếng ăn. Ăn chẳng cần ngon 
				dở, không chạy theo mùi vị thì tâm không dính mắc, thanh thoảng 
				và tự tại. Ăn là để nuôi thân mà tu đạo chớ không phải ăn để tạo 
				thêm phiền não hay bồi dưỡng, cung phụng thân thái quá mà gây ra 
				nghiệp để chịu quả khổ về sau. Không phải vì ăn cũng có nghĩa là 
				tâm không mong cầu miếng ăn mà mục đích khất thực là để phá trừ 
				ngã chấp, phát triển tâm bình đẳng và làm phước điền cho tất cả 
				chúng sinh. Nếu nói về Sự Tướng thì có khất thực, có người, có 
				ta, có thức ăn, có cúng dường bố thí, nhưng nếu nói về Thể Tánh 
				thì ta cũng không mà chúng sinh cũng không thì làm gì có chuyện 
				cúng dường, bố thí hay đi khất thực. Chuyển Tâm thành Tánh thì 
				làm cũng như không làm, khất thực cũng như không khất thực chính 
				là việc làm của Bồ-tát. Vì Bồ-tát không còn chấp ngã chấp pháp 
				và tâm bình đẳng nên họ rất an nhiên tự tại. 
				 
				Nhằm hoại diệt cái thân tướng hòa hiệp này mà bốc cơm ăn. 
				 
				Khi ăn con người thường đem món nầy chấm với món nọ để tăng thêm 
				khẩu vị. Chẳng hạn như đem đậu hủ chấm với tương thì mặn mà hơn. 
				Cái mà chúng ta nghĩ là mặn mà, ngon miệng hơn chính là sự phát 
				triển của Thiệt Thức Giới tức là cái biết phân biệt của lưởi. 
				Còn phân biệt là còn chạy theo vọng trần tức là tăng trưởng tính 
				tham ăn. Mà còn tham là còn khổ, còn sinh tử luân hồi. Cho nên 
				trước khi ăn, chư Tăng trộn chung tất cả thức ăn với nhau để 
				không còn phân biệt ngon dở, không còn phân biệt mùi vị tức là 
				phá tướng hòa hiệp rồi mới bốc ăn. Vì người Ấn Độ ăn bốc chớ 
				không cầm đủa như người Việt Nam hay muổn nỉa như người Tây 
				phương. 
				 
				Phải sử dụng cái ý tưởng không thọ nhận, mới thọ nhận thức 
				ăn. 
				 
				Không thọ nhận có nghĩa là không lãnh thọ nhửng cảm xúc do trần 
				cảnh bên ngoài tạo ra, tránh xa những cám dỗ của thế gian có 
				nghĩa là không thấy thức ăn ngon thì vui, thức ăn dở thì buồn 
				mà phải giữ tâm bình đẳng thanh tịnh tức là thí chủ cúng gì cũng 
				vui vẻ mà nhận. Thật ra thì thọ nhận bất cứ sự cúng dường nào 
				của thí chủ từ thức ăn, quần áo, thuốc men…thì chư Tăng phải coi 
				như là nợ của thí chủ. Nếu không dụng tâm tu hành chân chánh và 
				đem pháp thí đền bù lại thì làm sao trả nổi món nợ nầy. Có thấu 
				hiểu như vậy mới dám thọ nhận thức ăn. 
				 
				Như vậy nếu đứng về Sự Tướng thì thấy có người cúng dường và kẻ 
				thọ nhận thức ăn. Nhưng dựa theo Lý Tánh thì không có người cho 
				mà cũng chẳng có kẻ nhận. Do đó Lý Tánh là bên trong nên không 
				thấy có nhận mà Sự Tướng bề ngoài thì có nhận thức ăn để làm 
				phước điền cho chúng sinh. 
				 
				Vào xóm làng, phải tưởng như đến chỗ không người. 
				 
				Vào xóm làng là chỗ náo nhiệt đông người mà như đến chỗ không 
				người, đồng trống có nghĩa là đừng nên chấp có ta và có người. 
				Ta cũng không mà người cũng không thì tâm mới thanh tịnh. Nếu 
				còn thấy có người thì còn phải đối đầu trong thì có nội ma và 
				ngoài thì có ngoại chướng. Những cám dổ Tham-Sân-Si ái dục phiền 
				não lúc nào cũng là những chướng ngại để phá hoại công phu tu 
				hành. Vì thế vào xóm làng là đi vào đời để độ đời chớ đừng để 
				đời lôi cuốn nhận chìm. Nên nhớ cuộc đời thì vô thường, trước có 
				sau không, nay còn mai mất mà con người cứ cố gắng vơ vét, tích 
				lũy, làm nô lệ cho lòng tham và gây khổ cho nhiều người. Nhưng 
				họ quên rằng càng vơ vét, càng có nhiều của cũng giống như kẻ 
				mang đá mà nhảy xuống sông, làm sao bơi nổi. 
				 
				Thấy sắc mà như đui. Nghe thanh như nghe vang. Ngửi hương như 
				hít gió. Nếm vị nhưng không phân biệt. 
				Khi lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) tiếp xúc với lục 
				trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) thì tâm phát sinh trí 
				phân biệt. Chẳng hạn như khi mắt thấy cái nhà thì tâm liền phân 
				biệt là nhà nầy thì lớn hay nhỏ, đẹp hay xấu… Tai mỗi khi nghe 
				tiếng khen thì thích nghe tiếng chê thì buồn. Lưỡi nếm mùi vị 
				thơm ngon thì khoái ăn, muốn ăn cho nhiều còn nếu nếm mùi vị 
				đắng, tanh hôi thì khạc nhổ, bực mình khó chịu. Vì thế nếu mắt 
				thấy sắc mà như đui, tai nghe âm thanh mà như điếc…thì tâm không 
				còn phân biệt đẹp xấu, ngon dở…, không còn chấp trước, không 
				luyến theo trần cảnh, không ưa, không ghét, không tham, không 
				đắm và đây chính là sống với pháp bình đẳng vậy. Cho nên trong 
				kinh Kim Cang cũng có câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” tức 
				là đừng để tâm mình dính mắc là vậy. Lục căn tiếp xúc lục trần 
				sinh ra lục thức mà căn, trần và thức đều là duyên giả hợp nên 
				tất cả là vô thường vô ngã. Nhưng nếu không có sự phân biệt đẹp 
				xấu hay ngon dở thì cuộc sống còn ý nghĩa chăng? Khi lưỡi chúng 
				ta nếm một món ăn nào thì dĩ nhiên lưỡi biết thức ăn đó là ngon 
				hay dở vì phản ứng của trực giác nhưng không phân biệt theo Phật 
				giáo có nghĩa là tuy lưỡi nếm vị ngon biết ngon vị dở biết dở 
				nhưng đừng để tâm phát khởi ý niệm để luyến theo cái ngon và 
				chán ghét cái dở thì đây cũng như nếm mà không biết mùi vị là 
				vậy. Cũng như khi mắt thấy một chiếc xe thì dĩ nhiên chúng ta 
				biết chiếc xe đó đẹp hay xấu nhưng tâm không dấy niệm tham luyến 
				muốn chiếm lấy cái xe đẹp thì thấy mà như đui là thế. 
				 
				Thọ xúc như trí chứng. Biết tướng của các pháp như huyễn, xưa 
				vốn không sanh cho nên nay không có diệt. 
				 
				Như trí chứng là trí thật, là chân lý. Khi có sự xúc chạm thì 
				phát sinh ra cảm giác. Mà cảm giác là có vui, có buồn, có thích, 
				có chán và đây chính là hệ quả của tình cảm mông lung của con 
				người đưa đến phiền não khổ đau. Bây giờ con người cũng cảm thọ 
				những cảm xúc đó mà không chạy theo tình cảm mà quay về với cái 
				trí chứng như thật. Bởi vì tất cả cái xúc chạm chúng ta đều thấy 
				nó như là huyễn hóa, không có thật cho nên tâm sẽ không còn ô 
				nhiễm. Vì các pháp là huyễn, không thật, không tự tánh tức là 
				Không. Mà đã là Không thì làm gì có thỉ có chung. 
				 
				Còn nữa, thưa ngài Đại Ca Diếp! Có thể không cần rời bỏ bát 
				tà mà được bát giải thoát. Ngay nơi tà pháp mà thế nhập chánh 
				pháp. Một chút thức ăn có thể đem bố thí cho tất cả, có thể cúng 
				dường chư Phật và các hiền thánh, sau đó mới đáng ăn. 
				 
				Bát tà là đối ngược lại với Bát Chánh Đạo vì thế Bát tà gồm có: 
				Tà kiến, Tà tư duy, Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng, Tà tinh tấn, Tà 
				niệm và Tà định. Còn Bát giải thoát cũng được gọi là Bát Bội Xả 
				là tám pháp thiền định có công năng xa lìa tất cả phiền não và 
				thoát khỏi những phiền trược trong ba cõi. 
				 
				Nếu đứng về pháp tướng tương đối mà nói thì có chánh có tà, có 
				thiện có ác, có tốt có xấu và dĩ nhiên còn thấy đau khổ bất 
				tịnh. Chân lý mà ông Duy Ma Cật giới thiệu ở đây là Lý Tánh 
				tuyệt đối có nghĩa là trong Bản Thể Chân Như không hề có biên 
				giới của nhị nguyên để không còn phân biệt chánh với tà, thiện 
				với ác hay tốt với xấu…vì chánh tà, thiện ác, tốt xấu vốn không 
				hai tức là một.Vì thế môt khi chúng sinh sống với nguyên lý nhất 
				như thì từ nơi phiền não mà họ sẽ tìm thấy Bồ-đề, ngay trong 
				cuộc sống sinh tử khổ đau nầy mà họ vẫn tìm thấy Niết bàn và ở 
				trong tất cả mọi chúng sinh mà họ vẫn tìm thấy Phật tính thanh 
				tịnh. Cũng như khi cát bụi lắng xuống thì thấy nước trong ở 
				trong lu nước đục và thấy hoa sen hương thơm tinh khiết ở trong 
				ao bùn lầy tanh hôi dơ dáy. Nguyên lý bất nhị tức là tinh thần 
				bình đẳng của nhà Phật bởi vì đến đây chúng sinh sẽ không còn 
				thấy bên kia tà, bên nầy chánh. Bên kia pháp trói buộc và bên 
				nầy là pháp giải thoát. Khi không còn kẹt bên nầy, bên kia thì 
				từ một thức ăn mà có thể đem bố thí cho tất cả đó chính là chỉ 
				cho sự bình đẳng không sai khác có nghĩa là tất cả là một và một 
				là tất cả. 
				 
				Ông Duy Ma Cật nói tiếp: 
				 
				Ăn bằng cách như vậy, sẽ không có phiền não cũng không rời phiền 
				não. Không dụng ý nhập định cũng không dụng ý xả định. Không trụ 
				thế gian cũng không trụ Niết bàn. 
				 
				Người thí chủ không có phước lớn cũng không có phước nhỏ, 
				không thêm công đức cũng chẳng mất công đức. Đây là con đường 
				vào Phật đạo thừa chân chánh, không chờn vờn khập khiểng ở cỗ xe 
				bé bỏng của Thanh văn. 
				 
				Các câu nầy đều tiến về cái nhất tướng bình đẳng để không còn có 
				phiền não hay thoát ly phiền não. Cũng không có nhập định và 
				xuất định và dĩ nhiên cũng không có trụ thế gian và trụ Niết 
				bàn. Khi đã tới chỗ bình đẳng thì tất cả tuy hai nhưng mà một. 
				Ngay cả cái nhìn đối với người thí chủ bây giờ cũng rất bình 
				đẳng cho nên họ cũng chẳng có phước lớn hay phước nhỏ và công 
				đức cũng chẳng thêm mà cũng chẳng mất vì lớn nhỏ, mất còn vốn 
				bất nhị tức là một. Tâm bình đẳng là tâm Bồ-tát để giúp chúng 
				sinh sớm viên thành Phật đạo mà không còn kẹt trong vòng phân 
				biệt đối đãi như các vị A La Hán trong hàng Thanh văn. 
				 
				Thưa ngài Đại Ca Diếp! Nếu được như thế mà ăn thì mới không 
				luống uổng thức ăn của người thí chủ cúng dường. 
				 
				Tôn giả Đại Ca Diếp vì thương người nghèo mà đến khất thực để 
				giúp họ tạo phước điền tức là còn tâm phân biệt đối đãi giàu 
				nghèo. Đôi khi các vị A La Hán trong hàng Thanh văn hay các vị 
				Bích Chi Phật trong hàng Duyên giác thấy đời đầy phiền não khổ 
				đau và chúng sinh nghiệp chướng sâu dày nên họ sợ ô nhiễm, không 
				dám vào đời cứu độ mà rút tận vào chốn rừng sâu để riêng hưởng 
				Niết bàn và đưa Phật giáo vào chỗ bế tắc. Lúc Đức Phật còn tại 
				thế đã quở những hành động nầy là mầm thối nát không mang lại 
				lợi ích cho thế gian. Do đó sau khi thấu hiểu tư tưởng đại thừa 
				và công hạnh vị tha của chư Bồ-tát thì tôn giả Đại Ca Diếp phát 
				tâm cung kính từ nay sẽ tu theo Bồ-tát đạo và nguyện thực hành 
				các hạnh lành để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Ngày xưa mỗi 
				khi đi khất thực ông thường đem hạnh Thanh văn, Bích Chi Phật 
				khuyên dạy người, nay biết rằng tư tưởng Tiểu thừa chưa phải rốt 
				ráo nên nguyện chỉ đem thuyết đại thừa để giúp chúng sinh phát 
				Bồ-đề tâm, tu theo Bồ-tát đạo và sớm được viên thành Phật đạo. 
				Vậy sự khác biệt của hai tư tưởng Tiểu thừa và Đại thừa về khất 
				thực như thế nào? 
				 
				Đối với chư Bồ-tát thì quan điểm về khất thực phải có những ý 
				nghĩa sau đây: 
				 
				1) Người khất thực phải coi miếng ăn là phụ mà giáo hóa chúng 
				sinh mới là chính. 
				 
				2) Phải xem việc tạo phước cho chúng sinh là phụ mà dạy cho 
				chúng sinh phát Bồ-đề tâm đi vào Phật đạo mới quan trọng bởi vì 
				pháp liễu nghĩa thượng thừa không chủ trương cúng dường để được 
				phước đức mà pháp nầy cũng không chủ trương chú nguyện ban phước 
				đức cho người cúng dường. 
				 
				3) Thuyết pháp cho chúng sinh là phụ mà đoạn trừ phiền não vô 
				minh cho chính mình mới là tối quan trọng vì có tự giác mới giác 
				tha được. 
				 
				4) Dạy cho chúng sinh thành Phật là phụ mà tăng tiến bồi dưỡng 
				trí tuệ Phật cho mình mới là chính. 
				 
				Tư tưởng Duy Ma Cật đã phân tích rõ ràng những tiến trình của 
				người bố thí và kẻ nhận dựa vào pháp Nhất Thừa Phật Đạo để khai 
				thị cho tôn giả Đại Ca Diếp thấy sự rốt ráo mà đạt đến cứu cánh 
				cho cả người bố thí và kẻ nhận là cùng viên thành Phật đạo. 
				 
				Bạch Thế Tôn! Ông Đại Ca Diếp thưa. Lúc con nghe bài pháp ấy 
				rồi, con được cái chưa từng có. Ngay lúc đó con sanh tâm cung 
				kính chư Bồ-tát một cách thân thiết chân thành. Vì con nghĩ 
				rằng, ngoài địa vị Bồ-tát, không ai có trí tuệ biện tài thâm 
				diệu như thế. Thảo nào người nghe ai mà chẳng phát tâm vô thượng 
				Chánh đẳng Chánh giác. Từ đó về sau con không khuyên dạy ai học 
				tu theo pháp của Thanh văn, Bích chi Phật nữa. Vì lẽ đó con 
				không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật. 
				Tôn giả Đại Ca Diếp nhận thức được sự thua kém của mình mà không 
				lấy đó làm điều xấu hổ. Chẳng những thế ông còn chú nguyện phát 
				tâm đại thừa, từ bỏ con đường ích kỷ nhỏ hẹp mà tiến về đại lộ 
				bao dung rộng lớn để cùng mang lại lợi ích cho mình và cho tất 
				cả chúng sinh. Có phá được chấp ngã, chấp pháp thì mới đạt được 
				tâm bình đẳng của Bồ-tát. Nhưng tại sao tôn giả không dám đi 
				thăm bệnh? 
				 
				Muốn đại diện cho Đức Phật đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật tức là 
				vị sứ giả của Phật thì người đó phải có trí tuệ sáng suốt tột 
				cùng, có biện tài vô ngại để làm rạng danh cho Đức Thế Tôn. 
				Những điều đó các vị A La Hán không thể có được. Vì thế mà ông 
				từ chối không dám lãnh trách nhiệm nầy mà dành vai trò danh dự 
				cho vị nào có đủ tài đủ đức mà thôi. Một lần nữa đoạn kinh nầy 
				đã chứng minh sự giác ngộ từng phần của hàng Thanh văn không thể 
				nào so sánh với trí tuệ viên mãn của chư Bồ-tát được. 
				 
				Đối với tư tưởng Tiểu thừa thì người bố thí có được phước còn 
				người nhận của bố thí là người mang nợ. Do đó kẻ cho thì cầu 
				mong được nhiều phước đức còn kẻ nhận thì phải cố gắng tu hành 
				để trả nợ đàn na thí chủ. Vì thế hai bên đều bị ràng buộc không 
				tự tại được. Bây giờ tư tưởng Đại thừa mở rộng cho chúng sinh 
				một lối nhìn mới, không còn bị hạn chế ràng buộc để chúng ta có 
				thể đi thong dong trên con đường Bồ-tát đạo. Kinh Kim Cang dạy 
				rằng: “Bố thí vô tướng và độ sanh vô ngã” và “Ưng vô sở trụ nhi 
				sanh kỳ tâm” tức là khi bố thí và giúp người thì đừng có chấp 
				ngã chấp tướng và cũng đừng để tâm dính mắc nơi sáu trần thì làm 
				bất cứ việc gì trên thế gian nầy cũng rất an vui tự tại. Tư 
				tưởng Đại thừa là bố thí mà không thấy mình có bố thí nên không 
				còn mong cầu phước đức và trông đợi đền ơn. Cho mà không biết 
				mình cho và nhận mà không thấy mình nhận thì mới cho và nhận 
				chân thật tức là không còn dính mắc. Người cho bây giờ không còn 
				mong cầu phước đức mà là phương cách tu hành để thanh lọc nội 
				tâm, tẩy trừ tham-sân-si, ngã, mạn mà tiến thẳng về giải thoát 
				giác ngộ. Thế thì người cho kẻ nhận đều có lợi vì cả hai đều có 
				thể đạt được quả vị Bồ-đề. Đây mới là chân bố thí của Đại thừa 
				vì con người không còn lệ thuộc tình cảm của thế gian mà sống 
				với lý trí sáng suốt triệt để của mình. 
				 
				Kinh Bát nhã cũng nói thêm: “Tất cả các pháp lành đều nhiếp vào 
				Bát nhã Ba-la-mật-đa sâu thẳm” nghĩa là nếu con người sống được 
				với trí tuệ Bát nhã thì coi tất cả chúng sinh như nhau. Ai khổ 
				thì giúp, ai mê thì gọi cho thức tỉnh mà tâm không mong cầu đền 
				đáp nên việc làm được viên mãn. Còn nếu chưa sống được với trí 
				tuệ Bát nhã, tuy có làm Phật sự trên hình tướng nhưng làm một 
				lúc không sao tránh khỏi sự thiên chấp thân, sơ, thương, 
				ghét…nên việc làm không viên mãn.
				
				 |  
				 |