| 
				 Chương Thứ 
				Ba 
				Phẩm Đệ Tử 
				(The Disciples’ Reluctance to Visit Vimalakirti) 
				 
				Hàng Thanh Văn 
				 
				Tôn giả Ưu Bà Ly 
				
				
				(Upali):Giảng Luật. 
				 
				 
				Ông Ưu Bà Ly xuất thân là dòng 
				hạ tiện Thủ Đà La và về sau trở thành thợ hớt tóc cho các vương 
				tôn công tử trong cung thành Ca Tỳ La Vệ. Vì có tâm tánh thuần 
				lương trung hậu nên mọi người đều thích anh chàng thợ cạo nầy. 
				Sau khi thành đạo, Đức Phật về lại cung thành thăm phụ vương và 
				gia đình thì Ưu Bà Ly được vinh dự cạo tóc cho Đức Thế Tôn. Về 
				sau, khi bảy vị vương tử Bạt Đề, A Nan, A Na Luật, Kiếp Tân Na, 
				Bà Sa, Nan Đề và Đề Bà Đạt Đa xuất gia theo Phật thì họ đem Ưu 
				Bà Ly theo để cắt râu cạo tóc. Những vương tôn nầy khi quy y thì 
				cởi bỏ y phục gấm vóc và đồ trang sức châu báu tặng cho Ưu Bà 
				Ly. Ông nghĩ rằng các vương tử mà còn bỏ vinh hoa phú quý của 
				thế gian để đi xuất gia, còn mình là kẻ hạ tiện thì có cái gì 
				trên cuộc đời nầy để mà lưu luyến. Lòng đã quyết, ông bèn gói 
				trân châu bảo vật treo lên một nhánh cây và đi về rừng Ni Câu Đà 
				để tìm Đức Phật. Vì đã biết ông nên Đức Thế Tôn hoan hỷ nhận ông 
				làm đệ tử. Bảy ngày sau, Đức phật cho gọi bảy vị vương tử ra mắt 
				đại chúng và khi thấy Tỳ Kheo Ưu Bà Ly mọi người kinh ngạc không 
				vái chào. Đức Phật dạy bảy vị phải tới chào vì trong tăng đoàn 
				chỉ quan trọng đến đức hạnh tu chứng chớ không kể địa vị chức 
				tức trong xã hội. Ông tu hành rất tinh tấn nên chưa đầy một năm 
				đã chứng đắc quả A La Hán, trở thành bậc thượng thủ trong tăng 
				đoàn và được Đức Phật khen ngợi là đệ nhất giới luật. Ba tháng 
				sau khi Đức Phật nhập diệt ở rừng Câu Thi Na, năm trăm vị đại A 
				La Hán kết tập kinh điển lần đầu tiên và tôn giả Ưu Bà Ly được 
				đề cử đọc lại những giới luật mà về sau được gom lại thành Luật 
				Tạng. Việc Ưu Bà Ly xuất gia khiến cho pháp chế của Đức Phật dần 
				dần được thực hiện. Chính Đức Phật là người đã san bằng những sự 
				bất công trong xã hội và khuyến khích mọi người cùng có cơ hội 
				để hướng thiện và hướng thượng bằng cách phát huy tinh tấn trí 
				tuệ của mình. 
				 
				Theo Đức Phật thì giới luật có giá trị tuyệt đối để quyết định 
				sự thành công hay thất bại trong việc tu đạo. Vì thế trước khi 
				nhập diệt Đức Phật đã dạy rằng: 
				 
				-  Gặp thời không có Phật, hãy lấy giới luật làm thầy. 
				 
				Thật vậy, giới luật là kim chỉ Nam để giúp chúng sinh khỏi bị 
				lầm đường lạc lối. Một người phạm giới không có nghĩa là đã xúc 
				phạm Trời, Thần, Phật và sẽ bị Trời hành hay Phật đọa gì cả mà 
				chính họ đã tự tạo cho mình một nhân bất thiện để phải chịu quả 
				báo về sau. Theo đạo Phật phạm giới thì tâm bất an. Mà tâm không 
				an thì sẽ không có định. Nếu không đi sâu vào định thì vĩnh viễn 
				sẽ không có trí tuệ tức là con mắt tâm không mở để được kiến 
				tánh mà thấy được Chân lý. 
				 
				Đối với Phật tử tại gia thì có ngũ giới. Đó là không được sát 
				sinh, không được trộm cắp, không được tà dâm, không được vọng 
				ngữ và không được uống rượu. Phật tử muốn thọ Bồ-tát giới thì 
				phải giữ 48 điều giáo luật. 
				 
				Còn hàng Tăng sĩ: 
				 
				Nếu một người từ 14 tới 18 tuổi muốn xuất gia thì gọi là Sa di. 
				Chú Sa di nầy phải giữ đúng 10 luật. Đến khi được 20 tuổi thì 
				mới được thọ giới Tỳ Kheo. Khi đã trở thành Tỳ Kheo thì phải giữ 
				250 giới. Còn phía nữ giới thì gọi là Sa di ni. Mấy tiểu ni cô 
				Sa di ni nầy phải thọ thêm giới “Thức xoa ma ni” và hai năm sau 
				đó mà được thọ giới Tỳ Theo ni. Một khi đã trở thành Tỳ Kheo ni 
				thì họ phải giữ 348 điều giáo luật. 
				 
				Đức Phật gọi ông Ưu Bà Ly bảo: 
				 
				-  Ưu Bà Ly! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật. 
				 
				Ông Ưu Bà Ly thưa: 
				 
				-                     
				Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh ông 
				Duy Ma Cật. Con nhớ có một lần nọ có hai vị Tỳ Kheo lỡ phạm luật 
				hạnh, họ lấy làm xấu hổ không dám đem việc ấy ra thưa với Phật 
				mà đến hỏi con rằng: 
				 
				-  Thưa ngài Ưu Bà Ly! Hai chúng tôi đã lỡ phạm luật hạnh, 
				chúng tôi lấy làm xấu hổ, không dám đến thưa với Phật. Vậy xin 
				ngài hãy chỉ giáo cho chúng tôi phải làm gì để xóa hết được cái 
				lỗi ấy. 
				 
				Bạch Thế Tôn! Ông Ưu Bà Ly thưa. Con liền như luật mà giải đáp 
				rằng: Tứ khí thì tẩn xuất. Tội tăng tàn thì bất cộng trú… 
				 
				Bấy giờ ông Duy Ma Cật đến bảo con rằng: 
				- Thưa ngài Ưu Bà Ly! Ngài đừng làm tăng tội cho hai vị Tỳ Kheo 
				kia. Hãy dừng ngay cách phân xử luật nghi của ngài đi. Thưa ngài 
				Ưu Bà Ly! Tánh của tội không ở trong, không ở ngoài, không ở 
				chặng giữa. Đức Phật đã từng dạy: 
				“Tâm cấu cho nên chúng sinh cấu. Tâm tịnh thì chúng sinh tịnh. 
				Tâm cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa. Tâm 
				vốn đã NHƯ, tội cấu cũng NHƯ và các pháp cũng NHƯ. Tất cả không 
				vượt ngoài tánh NHƯ. 
				 
				Nếu đứng về giới Tướng mà nói một khi chúng sinh phạm tội gì thì 
				tội ấy là thật tức là thấy có người phạm giới, có giới luật bị 
				phạm và có người bị trừng phạt. Thí dụ như có người phạm giới tà 
				dâm hay uống rượu thì dựa theo giới luật họ phải bị trừng phạt. 
				Ở đây ông Duy Ma Cật dựa vào Thể Tánh tuyệt đối mà nói thì ông 
				Ưu Bà Ly không nên dùng giáo luật của thế gian mà kết thêm 
				tội làm cho lòng họ thêm rối loạn. Họ phạm tội thì tự lòng đã 
				hối hận tức là chịu đau khổ rồi, trừng phạt chỉ làm cho họ khổ 
				đau thêm chẳng khác nào tăng thêm án cho người đã có tội. Tư 
				tưởng Duy Ma Cật là tất cả đều từ tâm. Con người có nghĩ thiện, 
				nghĩ ác cũng từ tâm. Có làm việc tốt, việc xấu cũng phát xuất từ 
				tâm. Vì thế Kinh Hoa Nghiêm mới có câu: “Vạn pháp duy tâm tạo” 
				là vậy. Tâm thanh tịnh tức là Chơn tâm thì có cảnh thiên đường, 
				cực lạc. Còn sống với vọng tâm thì thấy có địa ngục, a tỳ. Mà 
				tâm là không thật, không thể tìm thấy thì tội có thật không? 
				Trong bài kệ sám hối có câu: 
				 
				Tội tánh bổn không, do tâm tạo, 
				Tâm nhược diệt thời, tội diệt vong. 
				Tội vong tâm diệt, lưỡng câu không, 
				Thị tắc danh vi chơn sám hối. 
				 
				Tội tánh bổn không, do tâm tạo. Tội thì tự nó không có mà do tâm 
				lành tâm dữ biến hiện mới tạo thành tội. Do đó con người nghĩ 
				rằng tâm là thật mà tội từ tâm sanh nên thật và dĩ nhiên nghiệp 
				báo chắc chắn là thật. Cho nên tội từ tâm tạo thì sám hối phải 
				từ tâm mà sám. Vì thế muốn sám hối hết tội thì phải tìm xem tâm 
				thật hay không? Mà tâm là không thật vì nó là vọng tâm sinh 
				diệt. Còn chơn tâm là Phật tính mới là thật thì thường hằng vắng 
				lặng, thanh tịnh nên không gây ra tội. Do đó tâm không thật thì 
				tội đâu có thật và dĩ nhiên quả báo làm sao thật được. 
				 
				Tâm nhược diệt thời, tội diệt vong có nghĩa là tâm nếu diệt rồi 
				thì tội theo đó cũng mất. Thí dụ như khi chúng ta oán hận ai và 
				muốn tìm cách hảm hại kẻ đó. Ghét người là do tâm và muốn hảm 
				hại người là cũng do tâm. Tâm là ý nghiệp, rồi mới chuyển sang 
				khẩu nghiệp và sau cùng thân nghiệp mới tác tạo. Vậy tâm hay ý 
				nghiệp là nhân mà thân khẩu nghiệp là quả. Có nhân mới có quả. 
				Nếu nhân là Không thì quả cũng Không tức là Tâm không thật thì 
				quả làm sao thật được. Bây giờ nếu biết thức tỉnh và loại bỏ 
				những tư tưởng hắc ám, cuồng loạn đó đi thì tâm ác không còn và 
				theo đó tội nghiệp cũng tan biến. Tóm lại tâm diệt thì tội 
				nghiệp theo đó mà diệt. 
				 
				Chừng nào thấy Tội vong tâm diệt, lưỡng câu không có nghĩa là 
				không thấy tội là thật, tâm là thật và cả hai đều Không thì mới 
				là Thị tắc danh vi chơn sám hối tức là đây mới chính thật là sám 
				hối vậy. 
				 
				Tánh của tội thì không ở trong, không ở ngoài và chẳng ở giữa vì 
				tánh của tội là không tướng tức là không thật. Con người sống 
				trong thế gian nầy nếu tâm nghĩ xấu có nghĩa là ý nghiệp xấu thì 
				quả báo là nhân cách xấu tức là thành người xấu. Ngược lại nếu 
				có người tâm luôn nghĩ thiện thì quả báo dĩ nhiên được làm người 
				tốt. Do đó muốn trở thành người tốt hay xấu thì gốc vẫn từ tâm. 
				Tốt, xấu vốn từ tâm. Vậy tâm ở đâu? Vì tâm không thật nên nó 
				không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa cho dù có tìm 
				kiếm cũng không bao giờ thấy nó được. Nếu tâm là không thật Có 
				có nghĩa tâm là giả huyễn tức là Không. Mà Không là lặng lẽ, là 
				Như hay Như Như, là Chơn Như. Tâm đã là Không tức là Như thì các 
				tội cũng Không tức là Như và dĩ nhiên chúng sinh cũng Không tức 
				là Như. 
				 
				Ông Duy Ma Cật nói tiếp: 
				 
				Cũng như ngài trong khi ngài sử dụng cái tướng của tâm giải 
				thoát, vậy lúc đó tâm ngài có cấu không? 
				 
				-  Không. Bạch Thế Tôn! Con đáp như thế. 
				 
				Ông Duy Ma cật giảng tiếp: 
				 
				-  Tâm của tất cả chúng sinh cũng giống như vậy, vốn không 
				có tướng cấu. Vọng tưởng là cấu, không vọng tưởng là tịnh. Điên 
				đảo là cấu, không điên đảo là tịnh. Chấp ngã là cấu, không chấp 
				ngã là tịnh. 
				 
				Tội lỗi cũng như tất cả vạn pháp trong thế gian nầy đều do tâm 
				biến hiện rồi cũng do tâm diệt đi. Đó là “Tội tòng tâm khởi tòng 
				tâm diệt”. Nếu thấy có tâm có tội thì còn chấp ngã chấp pháp. 
				Vạn pháp là do duyên hợp nên chúng là giả huyễn, không thật tức 
				là Không. Vạn pháp là Không thì tâm cũng là Không. Con người vì 
				sống trong vọng thức mê lầm như người đang nằm mộng thì thấy tâm 
				là thật, tội là thật và quả báo cũng là thật. Bây giờ thức tỉnh, 
				thức giấc mộng, vọng thức biến đi, Chơn tâm bừng sáng thì chẳng 
				còn thấy tội lỗi gì cả. Vì “Tội tánh bổn không” có nghĩa là tội 
				lỗi thì không thật có. Tại sao? Bởi vì trong Lý Không thì ta 
				cũng Không có nghĩa là không có cái Ta tức là phá chấp ngã và 
				vạn pháp cũng Không có nghĩa là không có việc làm tội lỗi chi cả 
				tức là phá chấp tướng. Nếu sống trong vọng tưởng điên đảo, vọng 
				thức mê lầm che lấp Chơn tâm nên thấy mình là dơ, chúng sinh và 
				vạn pháp đều ô uế. Khi thức tỉnh, vọng thức tan biến, Chơn tâm 
				hiện bày thì thấy mình trong sạch, chúng sinh và vạn pháp cũng 
				đều trong sạch. 
				 
				Như vậy dơ bẩn chỉ là lớp vỏ bề ngoài và một khi con người phá 
				được lớp vỏ bề ngoài thì tâm dơ bẩn sẽ trở thành thanh tịnh tức 
				là vọng tâm biến mất và chơn tâm hiện bày. Con người hằng ngày 
				vì chạy theo vọng tâm điên đảo nên bị lớp phiền não dơ bẩn che 
				lấp Phật tánh thanh tịnh bên trong. Nếu chúng ta phá được lớp 
				phiền não che lấp nầy thì Phật tánh hiện bày tức là được giải 
				thoát giác ngộ. 
				 
				Chấp ngã là dơ bẩn, là ô uế. Tại sao? Trong thế gian nầy con 
				người có phiền não, nóng giận, kiêu căng, đau khổ…cũng đều phát 
				nguồn từ cái ngã mà ra. Vì thấy mình quan trọng tức là chấp có 
				cái Ta, nên hễ ai đụng tới là nổi nóng. Có ai nói phải trái là 
				chạm tự ái ngay. Làm việc gì cũng nghĩ đến lợi cho mình trước. 
				Vì chấp thân mình là thật, là trường tồn vĩnh cửu nên tạo tác 
				biết bao nghiệp báo để phải gánh chịu quả khổ về sau. Vậy chấp 
				ngã nếu không là dơ bẩn, tội lỗi, ô uế thì là gì? Bây giờ nếu bỏ 
				chấp ngã vì biết thân nầy không thật, không có cái Ta thì phiền 
				não đâu còn. Tham-Sân-Si biến mất, tập khí ngã mạn cũng tan theo 
				và con người sẽ sống rất thảnh thơi, tâm hằng thanh tịnh. Thân 
				là do duyên hợp nên không bền không chắc. Duyên hợp thì còn, 
				duyên tan thì hoại vậy thôi. 
				 
				Ông Duy Ma Cật nói tiếp: 
				 
				-  Thưa ngài Ưu Bà Ly! Tất cả pháp sinh diệt không dừng, 
				như huyễn hóa, như điện chớp không có chờ nhau, cho đến một niệm 
				cũng không dừng trụ. Các pháp đều do vọng thấy như chiêm bao, 
				như ngấn nước giữa cơn nắng gắt, như trăng đáy nước, như bóng 
				trong gương. Tất cả đều do vọng tưởng sanh ra. Người nào biết kỹ 
				những việc đó mới là người trí luật chơn chánh. Người nào hiểu 
				rõ những điều đó mới là người luận giải luật pháp đúng ý Phật. 
				 
				Sau khi Đức Phật thành đạo dưới cội Bồ-đề thì Ngài bắt đầu thâu 
				nhận đệ tử để truyền lại Chánh pháp. Trong suốt mười hai năm đầu 
				Ngài chưa hề nói đến giới luật vì những đệ tử đầu tiên nầy là 
				những người có đức hạnh cao. Họ đến với đạo Phật là vì bổn 
				nguyện muốn được giải thoát giác ngộ. Rất tiếc sau đó trong tăng 
				đoàn rồng rắn hổn tạp nên Đức thế Tôn mới chế ra nhiều điều giới 
				luật để giúp chúng tăng quay về với Chánh đạo mà được tự độ và 
				độ tha. Mục đích của giới luật là kiềm chế tham đắm ngũ dục làm 
				tâm bất tịnh. Nhưng Tâm Kinh đã khẳng định rằng vạn pháp giai 
				Không có nghĩa là thế gian vủ trụ là không thật, là huyễn. Như 
				thế ngũ dục bây giờ cũng là giả huyễn, như bóng trăng dưới nước, 
				như điện chớp trên không, như giấc chiêm bao thì còn gì mà tham 
				mà đắm. Cái tham không còn thì nhiễm cũng tan. Không tham không 
				nhiễm thì tâm đâu có ô uế tức là thanh tịnh thì đây mới là giữ 
				giới chân chính. 
				 
				Tóm lại đoạn kinh trên gồm có ba phần: 
				 
				1) Trong đoạn đầu ông Duy Ma Cật cho chúng ta thấy rằng tánh tội 
				không thật vì nó phát xuất từ tâm mà tâm là không thật. Tâm 
				không thật mà hành động phát xuất từ tâm nên cũng hư dối vì 
				thế tội nghiệp làm sao thật được. Do đó tất cả đều trở về Như 
				tức là tánh viên mãn tự nhiên và ly ngôn thuyết. 
				 
				2) Đoạn thứ hai thì nói rằng tâm mà dơ bẩn thì chúng sinh cũng 
				dơ bẩn. Tâm mà sạch thì chúng sinh cũng sạch. Còn vọng tưởng là 
				dơ, là ô uế. Hết vọng tưởng là sạch, là thanh tịnh. Cho nên tất 
				cả tội nghiệp phát xuất từ tâm. Nếu tâm thanh tịnh thì tội 
				nghiệp theo đó mà tan biến. 
				 
				3) Đoạn sau cùng ông Duy Ma Cật muốn nói rằng tất cả vạn pháp 
				đều là giả huyễn nay có mai không thì sống trên đời mà đừng nên 
				tham đắm. Tâm không dính mắc, lục căn thường sáng tỏ thì tâm sẽ 
				thanh tịnh thì mới gọi là người giữ giới chân thật. 
				 
				Tôn giả Ưu Bà Ly là hàng Thanh văn nên tuy phá được chấp ngã mà 
				chấp tướng vẫn còn mới thấy có hai vị Tỳ Kheo phạm giới, có giới 
				bị vi phạm và có tội phải bị trừng phạt. Còn ông Duy Ma Cật thì 
				áp dụng tư tưởng đại thừa Bát nhã vào trong đời sống thì thấy 
				rằng tất cả thiện ác, khổ vui, thiên đàng địa ngục hay tội 
				nghiệp đều do tâm tạo. Mà tâm là huyễn, là không thật tức là 
				Không thì tội nghiệp cũng giả dối, không thật. Nếu vạn pháp phát 
				xuất từ tâm thì dùng tâm sám hối sẽ thấy tội tánh vốn Không. Khi 
				mê thì thấy có tâm có tội, lúc tỉnh ngộ thì tâm cũng Không và 
				tội nghiệp cũng Không. Do đó chỉ cần tỉnh thức giác ngộ để lìa 
				bỏ tâm vọng tưởng giả dối mà sống với tự tánh thanh tịnh chân 
				thật của mình thì tội nghiệp đâu còn thì đây mới là người giữ 
				giới chân chính vậy. 
				 
				Vì Bát Nhã là tư tưởng Chân Không nên chúng ta cần phải thấu 
				hiểu sâu xa để tránh những sai lầm tai hại về sau vì trong tam 
				vô lậu học thì Giới là cánh cửa để vào căn nhà giác ngộ. Khi nói 
				rằng: “Tội tánh vốn không” thì người Phật tử có cần phải giữ 
				giới nửa không? Xin thưa rằng: Dĩ nhiên là có. Tại sao? 
				 
				Nếu đứng về Thể Tánh mà nói thì không có tội nghiệp quả báo chi 
				cả vì nghiệp tánh vốn Không có nghĩa là tội nghiệp là không thật 
				Có nhưng chẳng mất. Khi biết tội nghiệp là Không thì hiện tượng 
				quả báo làm sao có thật. Vì thế cái gốc của tội nghiệp vốn Không 
				thì cái tướng của tội nghiệp cũng theo đó mà tiêu diệt hết. Chữ 
				Không ở đây theo tư tưởng đại thừa là Chân Không Diệu Hữu, là 
				Chơn tâm, là Bản Thể Chân Như, là Thật Tướng và cũng là cội 
				nguồn sinh ra muôn pháp. Nếu muốn thấu triệt được cái Không của 
				Bát Nhã thì chúng ta phải quay về sống với tự tánh thanh tịnh 
				của mình để diệt trừ vọng tưởng mà thấy được Chơn tâm. Sáu căn 
				thường sáng tỏ, không dính mắc nơi sáu trần thì chơn tâm hiện 
				bày. Do đó người mê thì thấy tâm là thật, tội nghiệp là thật. 
				Còn kẻ thức tỉnh giác ngộ thì tất cả chỉ là hư dối, giả huyễn mà 
				thôi. 
				 
				Theo tinh thần Bát Nhã thì các pháp tự tánh là Không vì do duyên 
				giả hợp mà có hình tướng. Mặc dầu tội tánh vốn không nhưng khi 
				duyên hợp thì nó liền thành nghiệp nên nói: “Thể Không mà thành 
				Sự”. Thí dụ tự tánh của Tham là không, nhưng khi mắt thấy cái 
				đồng hồ đắc tiền niệm tham liền khởi lên, không dừng được, khiến 
				tay lấy cắp mà tạo ra nghiệp trộm cắp. Khi nghiệp thành tức là 
				phải chịu quả khổ, bị bắt bớ, lao tù… Do đó nghiệp tánh bổn 
				không có nghĩa là tánh nó không cố định, có thể chuyển nghiệp ác 
				thành nghiệp thiện… Nhưng nếu đã lỡ tạo nghiệp xấu rồi thì phải 
				chịu lấy quả báo xấu. 
				 
				Bây giờ nếu đứng về Sự Tướng mà nói thì tội báo là thật. Con 
				người sống trong thế gian nầy vì còn mang thân ngũ uẩn tức là 
				còn thấy có Tướng thì còn phải giữ giới luật. Mọi ý niệm, lời 
				nói và hành động phải dựa vào Chánh đạo tức là giữ giới ngay cả 
				trong tâm và giữ cả ngoài thân. Nói một cách khác là ngày nào 
				còn sống là ngày ấy chúng ta còn giữ giới luật. Chỉ khác là khi 
				tâm được thanh tịnh tức là tâm không còn dính mắc, sáu căn 
				thường sáng tỏ nên giữ giới mà không thấy mình giữ giới, không 
				thấy có giới để giữ thì mới là giữ giới chân thật. Tại sao? Bởi 
				vì tâm thanh tịnh là Chơn tâm, là tâm của Bồ-tát nên bộ ba 
				Thân-Khẩu-Ý luôn được thanh tịnh. Vì tư tưởng, lời nói và hành 
				động đều là thiện nên họ cứ thản nhiên mà sống, tự nhiên mà làm. 
				Tâm không còn vọng tưởng si mê nên nhiễm ô ác xấu cũng tan biến. 
				 
				Khi dựa vào sự Tướng hay dựa theo giáo lý Tiểu thừa thì thế gian 
				vạn pháp là thật. Thân có thật và tội nghiệp phát xuất từ thân 
				thì cũng thật. Vì thế có nhân quả tội phước rõ ràng. Nếu gây tội 
				thì phải trả, phải ăn năn sám hối và làm việc tốt để chuộc lỗi 
				xưa mà đền bù lại. Đối với người tu Tiểu thừa thì Giới luật là 
				kim chỉ Nam để tu đạo, hành đạo và chứng đạo. Vì thế ngày xưa 
				khi mới vào xuất gia thì các chú Sa di phải học giới luật trước. 
				Có chịu nổi khuôn khổ của nhà chùa thì các Sư mới dạy pháp. 250 
				giới phải thực hành đứng đắn, nếu lỡ phạm tội thì phải ghi nhớ 
				để đừng tái phạm. 
				 
				Còn theo Đại thừa vì cốt nhìn vào Thể Tánh bên trong nên Tâm 
				Giới thì quan trọng hơn là Tướng Giới mặc dầu không bỏ Tướng 
				Giới. Theo Giới Tướng thì lỡ phạm tội thì tội ấy cứ theo con 
				người dai dẳng mặc dù họ đã ăn năn sám hối vì thế tâm bất an. 
				Còn theo Tâm Giới thì tội nghiệp là Không nên nếu lỡ phạm tội 
				thì chỉ cần thật lòng tự tâm sám hối thì tội sẽ tan mất. Có 
				quyết tâm tự nguyện không tái phạm thì mới là sự sám hối chân 
				chính. Tội tan thì tâm được thanh tịnh. Người tu Tiểu thừa vì 
				còn chấp nên không dám làm việc gì vì sợ phạm tội. Chẳng hạn như 
				có căn nhà đang cháy và có cô gái trẻ đẹp đang kẹt ở bên trong. 
				Nếu chấp và sợ tội nên không nhảy vào cứu thì cô gái kia sẽ cháy 
				thành tro. Như thế thì làm sao mà gọi là từ bi được? Thấy người 
				chết mà không cứu thì tu hành để làm gì? Vì thế mục đích của Đức 
				Phật khi chế ra giới luật là muốn cho Phật tử đừng có tham đắm 
				làm tâm bất tịnh. Nếu làm bất cứ việc gì mà vì lợi ích cho chúng 
				sinh chớ không phải cho riêng mình và với tâm Bồ-tát thì tuy 
				không thấy giữ giới mà chính thật là giữ giới vậy cho nên trong 
				tiền thân Đức Phật đã có lần giết những tên tướng cướp lái đò để 
				cứu những người khách thương vô tội là vậy. Có rất nhiều Bồ-tát 
				thị hiện trong thế gian nầy để cứu độ chúng sanh vì thế việc gì 
				họ làm cũng được. Những việc mà chúng ta cho là tội lỗi thì họ 
				cho là bình thường chả có gì là tội cả vì Bồ-tát biết rằng vạn 
				pháp là Không cho nên làm mà như không làm tức là làm chơi thì 
				có gì phải bận tâm. Họ không chấp phương tiện mà chỉ nhìn cứu 
				cánh lợi lạc cho chúng sinh thì làm. Thí dụ như tay có vết 
				thương cũng như con người còn tham nhiễm thì nếu đụng vào người 
				bệnh cùi thì sẽ bi lây ngay. Còn nếu tay không bị thương như 
				người có tâm thanh tịnh thì dầu có đụng người cùi thì cũng vậy 
				thôi. Đâu có bị lây bệnh cùi tức là tâm vẫn hằng thanh tịnh 
				không bị nhiễm ô. 
				 
				Tóm lại, trong thế gian nầy nếu có việc khó làm ngay cả cứu 
				người mà phạm giới thì người tu theo hạnh Tiểu thừa liền xa 
				lánh. Ngược lại người tu theo hạnh Bồ-tát tự nguyện xông vào làm 
				mà không sợ nguy nan hay tội nghiệp miễn sao cứu giúp được chúng 
				sinh. Riêng họ dầu có thiệt thòi hay bị tội nghiệp cũng chẳng 
				sao. Đây chính là Tâm Đại Bi vì người quên mình vậy. 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Ông Ưu Bà Ly thưa. Sau phút giây lãnh hội pháp 
				ngữ hùng hồn siêu việt của ông Duy Ma Cật, hai vị Tỳ Kheo bèn 
				tán thán: Ôi! thượng trí thay! Ngài Ưu Bà Ly không bằng được. 
				 
				Đấy mới là người trì luật tối thượng. Đấy mới là người luận giải 
				luật đệ nhất. Tuyệt diệu thay! Không còn ngôn từ tán thán cho 
				vừa. 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Ông Ưu Bà Ly thưa. Lúc đó con cũng cảm kích 
				và xúc động. Con nghĩ rằng : Ngoài Đức Như Lai ra, chưa có một 
				vị Thanh văn, Bồ-tát nào có biện tài lạc thuyết vô ngại của một 
				bậc trí tuệ thông đạt tuyệt luân như vậy. 
				 
				- Bạch Thế Tốn Khi bấy giờ hai vị Tỳ Kheo kia dứt trừ mọi hoang 
				mang sợ sệt và dũng mãnh phát tâm vô thượng Chánh đẳng Chánh 
				giác. Vì duyên cớ đó, con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm 
				bệnh ông Duy Ma Cật. 
				 
				Hai vị Tỳ kheo được nghe ông Duy Ma Cật luận giải để dẫn dắt 
				những người tu theo hạnh Tiểu thừa thấy được con đường sáng rộng 
				rãi mênh mông mà chuyển sang tư tưởng Đại thừa. Có phá được chấp 
				ngã chấp tướng và từ bỏ lý vô thường sinh diệt mới có thể bước 
				sang lý Chân Không Diệu Hữu bất sanh bất diệt của Bát Nhã. 
				 
				Vì còn chấp pháp nên thấy vạn pháp là thật, tội nghiệp là thật 
				và dĩ nhiên quả báo cũng thật nên người tu theo Tiểu thừa rất lo 
				sợ làm tâm bất tịnh. Khi hai vị Tỳ Kheo đã thấu hiểu “Tội tánh 
				vốn Không” và “Tội tòng tâm khởi tòng tâm diệt” thì giữ giới mà 
				không thấy mình giữ giới, không thấy có giới để giữ thì mới là 
				giữ giới chân chính. Tâm thanh tịnh thì không làm điều ác, không 
				tạo nghiệp thì cuộc sống sẽ an nhiên tự tại. Sau khi nghe xong 
				hai vị Tỳ Kheo như người vừa chợt tỉnh chiêm bao, không còn hoài 
				nghi sợ hãi, tán thán công đức ông Duy Ma Cật và cùng phát tâm 
				Bồ-đề. Họ nguyện theo Bồ-tát đạo, đó là tự giác rồi giác tha, 
				không nguyện cho riêng mình mà nguyện cho tất cả chúng sinh đều 
				có biện tài vô ngại. Đây chính là dám từ bỏ con đường nhỏ hẹp 
				ích kỷ mà bước sang con đường rộng lớn vị tha vậy. 
				 
				Chính tôn giả Ưu Bà Ly rất khâm phục và ngưỡng mộ tài biện 
				thuyết vô ngại của ông Duy Ma Cật mà trên thế gian nầy ngoại trừ 
				Đức Phật ra thì không có một vị Thanh văn hay Bồ-tát nào có được 
				một trí tuệ tuyệt luân như vậy cho nên ông không dám lãnh trách 
				nhiệm đi thăm bệnh. 
				
				
				 |  
				 |