| 
				 Chương Thứ 
				Ba 
				 
				Phẩm Đệ Tử 
				(The Disciples’ Reluctance to Visit Vimalakirti) 
				Hàng 
				Thanh Văn 
				 
				Tôn giả Phú Lâu Na. 
				
				  
				(Purna 
				Maitrayaniputra): Trở Lại Vấn Đề Thuyết 
				Pháp. 
				 
				 
				Tôn giả Phú Lâu Na là con một 
				vị Bà La Môn rất giàu sang làm quốc sư trong triều của vua Tịnh 
				Phạn. Ông sanh cùng ngày với Đức Phật và sau đó quy y thọ giáo 
				với Đức Thế Tôn và chứng quả A La Hán. Tôn giả là vị giảng sư 
				rất nổi tiếng. Mỗi khi Đức Phật thuyết ngắn gọn hoặc khó hiểu 
				thì tôn giả giảng giải rộng nghĩa cho tất cả mọi người. Vì thế 
				ngài rất nổi tiếng là người nói pháp rất giỏi và rất dài nên 
				được Đức Phật công nhận là đệ nhất thuyết pháp. 
				 
				Đức Phật gọi ông Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử đến bảo: 
				 
				-  Phú Lâu Na! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma 
				Cật. 
				 
				Ông Phú Lâu Na thưa: 
				 
				-  Bạch Thế Tôn! Trước đây vào một hôm nọ, con ở trong khu 
				rừng Đại Lâm, cùng với một số tân học Tỳ Kheo ngồi dưới bóng mát 
				của một cây cổ thụ. Lúc con đang thuyết pháp dạy cho số Tỳ Kheo 
				tân học, tình cờ trưởng giả Duy Ma Cật đến, nói với con rằng: 
				 
				-  Thưa ngài Phú Lâu Na! Trước hết ngài phải nhập định quán 
				xét tâm tánh của các Tỳ Kheo, rồi sau đó hãy thuyết pháp. 
				 
				-   Thưa ngài Phú Lâu Na! Ngài không nên đem thức ăn 
				thiu bẩn mà đựng trong chén ngọc đĩa vàng. Ngài phải biết ý niệm 
				của các vị Tỳ kheo đang nghĩ tưởng gì, nhiên hậu sẽ thuyết pháp. 
				Không nên sử dụng một thứ nhìn đồng nhất rồi cho rằng lưu ly và 
				thủy tinh là một. Ngài chưa biết căn cơ chủng tánh của chúng 
				sanh thì đừng đem pháp tiểu thừa mà dạy cho họ. Họ vốn không có 
				ghẻ, đừng làm cho lở loét một con người. Họ muốn đi đại lộ, đừng 
				chỉ cho họ ngõ hẹp quanh co. Ngài đừng đem nước biển đựng vào 
				dấu chân trâu. Đừng lấy ánh sáng mặt trời mà đọ với ánh lập lòe 
				của đom đóm. 
				 
				-   Thưa ngài Phú Lâu Na! Các vị Tỳ Kheo ấy đã phát 
				tâm đại thừa từ lâu, khoảng giữa họ quên đi tâm ý đó. Tại sao 
				ngài lấy pháp tiểu thừa hướng dẫn cho họ làm chi? Tôi nghĩ rằng 
				thứ trí tuệ của hàng tiểu thừa nhỏ nhen, cạn cợt chẳng khác 
				người đui. Họ không thể phân biệt được ai độn căn, ai lợi căn 
				trong số chúng sinh, tâm họ vốn còn trong trắng. 
				 
				Trong Phật giáo thì pháp có pháp liễu nghĩa và bất liễu nghĩa. 
				Có pháp Đại thừa và Tiểu thừa. Có pháp cứu cánh và pháp phương 
				tiện. Do đó khi thuyết pháp cần phải quán căn cơ và biết nhìn 
				đối tượng. Chủ điểm của Kinh Duy Ma Cật là bắt nhịp cầu để 
				chuyển tiếp từ tư tưởng chật hẹp, cố chấp của Tiểu thừa sang thế 
				giới rộng rãi vô cùng vô tận của Đại thừa chớ không phải khinh 
				miệt bởi vì có tự giác mới giác tha được. Phật pháp thì cao siêu 
				và vượt ra ngoài văn tự và lời nói, nhưng vì căn cơ, trình độ 
				chúng sinh có sai khác nên pháp Phật được chia làm ngũ thừa chớ 
				không phải Phật pháp có sai khác. 
				 
				Ở đây tôn giả Phú Lâu Na thuyết pháp không phải sai pháp mà là 
				sai đối tượng. Chẳng hạn người có trình độ cao mà mình nói pháp 
				thấp thì chỉ có hại chớ không có lợi. Ngược lại người có trình 
				độ thấp mà mình nói pháp cao thì đối với họ chỉ là vô ích. Vì 
				thế sai đối tượng thì người nghe không có kết quả, pháp đúng trở 
				thành sai. Cũng như chiếc áo trắng một khi đã nhúng chàm, chiếc 
				áo ấy sẽ không còn đẹp nữa khi nhuộm màu sắc khác. Con người thì 
				cũng thế, một khi tâm hồn trong trắng được nhuộm bằng màu sắc 
				Tiểu thừa thì sự trong trắng kia không còn nữa. Nếu con người có 
				khả năng đi đại lộ thì không nên chỉ họ đi quanh co ngõ hẽm làm 
				chậm trễ bước tiến của họ vì thế việc làm chẳng những không được 
				ơn mà còn có tội. 
				 
				Ông Duy Ma Cật ví người Tiểu thừa như người mù vì trí tuệ nông 
				cạn chưa sáng suốt thâm sâu, không biết căn tánh chúng sinh 
				thông minh hay đần độn mà cứ đem pháp Tiểu thừa ra dạy thì lợi 
				đâu không thấy mà chỉ là hại thêm. 
				 
				Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh thì trong tất cả chúng sinh 
				đều có chủng tánh Đại thừa. Nếu họ được hướng dẫn bằng pháp Đại 
				thừa thì hạt giống Đại thừa chắc chắn sẽ phát triển. 
				 
				Bấy giờ ông Duy Ma Cật liền nhập tam muội truyền một lực tĩnh 
				tâm khiến cho các vị Tỳ Kheo kia tự biết túc mệnh của mình: Rằng 
				họ đã từng trồng sâu gốc rễ phước ở 500 Đức Phật từ thưở xa xưa. 
				 
				Ngày xưa trưởng giả Duy Ma Cật nhập định khiến các Tỳ Kheo nhớ 
				được tiền kiếp của mình. Ngày nay chúng ta không có Túc Mạng 
				Thông thì làm sao mà nhập đại định để biết tiền kiếp của mình 
				hay của chúng sinh? Do đó trước khi thuyết pháp thì phải dò xét, 
				đặt câu hỏi để thẩm định trình độ và căn cơ của đối tượng thì 
				lời thuyết pháp chẳng những không có hại hay vô ích mà còn gieo 
				vào chúng sinh những chủng tử Phật pháp nhiệm mầu. 
				 
				Tôn giả Phú Lâu Na nói tiếp: 
				 
				Mọi người tự xoay về quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thoạt 
				nhiên họ liền trở lại tâm đại thừa vốn có. Lúc bấy giờ các vị Tỳ 
				Kheo ấy đánh lễ dưới chân ông Duy Ma Cật. 
				 
				Sau thời pháp của trưởng giả Duy Ma Cật, các vị Tỳ Kheo ấy không 
				còn thoái chuyển đối với ngôi vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh 
				giác. 
				 
				Đối với hàng Tiểu thừa thì cầu Niết bàn và chứng quả A La Hán, 
				nhưng đối với Đại thừa thì Bồ Đề, Niết bàn là tự tánh vốn có của 
				tất cả mọi người. Kinh Kim Cang xác định là thứ tự tánh thanh 
				tịnh nầy ở địa vị Thánh nó cũng không tăng và ở phàm phu nó cũng 
				không giảm. Cũng như nước trong trăng hiện, một khi phiền não 
				hết thì Phật tánh hiễn bày. 
				 
				Hàng Tiểu thừa thì cầu với chứng, nhưng thật ra tất cả quả vị 
				chứng đắc thật ra không ai ban cho và ngay cả Bồ Đề, Niết bàn 
				cũng không do Phật thưởng bởi vì phiền não vô minh tan thì có 
				được an nhiên tự tại cũng như mây đen tan thì trời xanh hiện. Vì 
				thế mà Tâm Kinh có câu: “Dĩ vô sở đắc cố” là vậy. Con người quên 
				rằng trong họ có hòn ngọc Ma Ni rất quý báu mà không biết nên cả 
				cuộc đời cứ sống trong cảnh thiếu thốn, nghèo túng. Thật vậy 
				trong mọi chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh, nhưng vì bị 
				vô minh che lấp nên không thấy mà cứ chạy đi tìm cầu Phật ở bên 
				ngoài. Nếu thức tỉnh phá được cái màn vô minh thì Phật tánh hiện 
				bày cũng như thò tay vô túi lấy viên ngọc ra thì làm gì còn 
				nghèo khổ. Như các vị Tỳ Kheo bổn tâm bị vô minh che lấp, nay 
				nhờ ông Duy Ma Cật mà thức tỉnh, tâm trí bừng sáng mà quay về 
				với Chân lý, với Bản Lai Diện Mục, với Phật Tánh Chân Như. Sự 
				sáng suốt đưa các vị Tỳ Kheo trở về với giáo lý Đại thừa, không 
				còn bất thối chuyển thì chẳng còn trở lại nơi lầm lạc củ mà nhất 
				tâm tiến về nẻo giác ngộ tột cùng tức là Vô thượng Chánh đẳng 
				Chánh giác vậy. 
				 
				Bạch Thế Tôn! Ông Phú Lâu Na thưa. Qua sự kiện đó con suy 
				nghĩ rằng hàng Thanh văn không thể quán xét căn tánh của người 
				thì không nên thuyết pháp. Do vậy, hôm nay con không dám lãnh 
				trách nhiệm đi thăm bệnh ông Duy Ma Cật. 
				 
				Vì khả năng và lối quán sát của hàng Thanh văn chưa thấu đáo nên 
				tôn giả Phú Lâu Na cần phải tu và thực hành thiền định một cách 
				rốt ráo thì mới phát huy được cái trí tuệ sáng suốt triệt để sẳn 
				có trong tất cả mọi người. Vì thế Tâm Kinh cũng dạy rằng: “Dĩ vô 
				sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa cố, tâm vô quái 
				ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng 
				tưởng cứu cánh Niết Bàn” có nghĩa là Khi đã có cái trí tuệ sáng 
				suốt triệt để ở nội tâm và không còn thấy có chứng đắc thì lòng 
				thênh thang không còn bị điều gì ngăn ngại nên không còn sợ hãi, 
				xa lìa mộng tưởng điên đảo mà đạt được cứu cánh Niết bàn”. 
				
				
				 |  
				 |