| 
				 Chương Thứ Ba 
				Phẩm Đệ Tử 
				(The Disciples’ Reluctance to Visit Vimalakirti) 
				Hàng 
				Thanh Văn 
				 
				Tôn giả Tu Bồ Đề  
				(Subhoti): Trở Lại Vấn Đề 
				Khất Thực. 
				  
				Trong số những đại đệ tử của Phật chỉ có 
				tôn giả Tu Bồ Đề được tôn xưng là đệ nhất giải “không”, có nghĩa 
				là trong hàng Thanh văn tôn giả là người duy nhất thấu hiểu lý 
				Không của Bát Nhã. Do sự thưa thỉnh của tôn giả mà Phật nói Kinh 
				Kim Cang ở tịnh xá Kỳ Viên. Vì lòng từ bi muốn cứu độ chúng sinh 
				nên tôn giả thỉnh Phật nói về ba nội dung. Đó là làm thế nào để 
				phát Bồ-đề tâm, làm thế nào để hàng phục vọng tâm và làm thế nào 
				để an trụ chơn tâm. Cũng trong kinh nầy Đức Phật gọi ông mà 
				giảng luận ý nghĩa thâm sâu huyền diệu của lý Không tức là của 
				đại trí tuệ Ma Ha Bát Nhã mà rất ít người có thể hiểu nổi.  
				Đức Phật gọi tôn giả Tu Bồ Đề mà bảo 
				rằng: 
				 
				- Hiện giờ trưởng giả Duy Ma Cật đang bị bệnh. Tu Bồ Đề! Ông 
				hãy đi thăm bệnh ông ấy. 
				 
				Tu Bồ Đề thưa: 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh ông 
				Duy Ma Cật. Bởi vì trước đây, có lần đi khất thực con ghé nơi 
				nhà Ông, lúc bấy giờ Ông lấy bình bát của con sớt đầy một bát 
				cơm và nói với con rằng: 
				 
				- Thưa ngài Tu Bồ Đề! người khất thực ở nơi vật thực có tâm bình 
				đẳng, ở nơi các pháp có tâm bình đẳng. Ngược lại, ở nơi các pháp 
				có tâm bình đẳng, ở nơi vật thực cũng có tâm bình đẳng. Khất 
				thực được như thế, người khất thực mới xứng đáng nhận lấy vật 
				thực của người thí chủ cúng dường. 
				Khác với tôn giả Đại Ca Diếp là chỉ khất 
				thực nhà nghèo, tôn giả Tu Bồ Đề chỉ đến nhà giàu để khất thực. 
				Tôn giả nghĩ rằng nhà giàu dù có bố thí chút ít thức ăn cũng 
				chẳng hao tốn bao nhiêu còn đối với người nghèo tuy họ lòng có 
				dư mà sức không đủ. Về sau Đức Phật biết được nên quở trách hai 
				vị là cả hai không áp dụng đúng tinh thần bình đẳng của Phật 
				giáo vì tâm còn chấp tướng, còn phân biệt giàu nghèo mà phải 
				thực hành pháp khất thực một cách đứng đắng là không chọn lựa 
				giàu nghèo, không chê dơ sạch và oai nghi nghiêm túc thứ tự mà 
				hành khất ngỏ hầu hóa độ chúng sinh. Vì thế bỏ nhà giàu tìm nhà 
				nghèo là sai mà bỏ nhà nghèo để tìm nhà giàu lại càng không đúng 
				vì còn thiên vị bên nầy bên kia tức là chưa đạt được tâm bình 
				đẳng của Bồ-tát và của chư Phật. Bỏ phân biệt là đi vào con 
				đường Trung đạo, là noi theo dấu chân của Phật mà tiến về giải 
				thoát giác ngộ. 
				Pháp hiểu theo nghĩa thông thường là kinh 
				sách và các pháp môn để tu hành. Kinh sách và những pháp môn tu 
				hành là những phương tiện cần thiết để giúp chúng sinh đạt được 
				cứu cánh thì chúng là bình đẳng. Tại sao? Phật pháp thì không 
				cao không thấp, không cạn không sâu nhưng vì căn cơ của chúng 
				sinh có sai khác nên mới có nhiều pháp môn nhưng tất cả cũng 
				nhằm vào một cứu cánh duy nhất là giải thoát giác ngộ. Cũng như 
				chúng sinh có nhiều thứ bệnh thì Phật cho nhiều thứ thuốc khác 
				nhau nhưng tựu trung là làm cho chúng sinh được khỏe mạnh. Thuốc 
				tuy có nhiều loại nhưng cùng hướng về một mục đích nên chúng 
				bình đẳng. Kinh điển, pháp tu tuy có nhiều nhưng tất cả chỉ là 
				những phương tiện để đưa con người đến chỗ giác ngộ thì pháp là 
				bình đẳng. Còn nếu nới rộng thì pháp là tất cả mọi vật, mọi sự 
				trên thế gian và siêu thế gian cho nên chúng cũng đều bình đẳng 
				vì tất cả phải bị chi phối bởi luật vô thường và lý vô ngã. 
				Không có một vật gì trên thế gian mà tự nó có thể sinh tồn nếu 
				không có sự trợ giúp của những nhân duyên khác vì thế tất cả vật 
				thể là vô ngã. Vì là vô ngã nên tất cả sự vật phải chịu sự thoái 
				hóa của luật vô thường. Đó là hễ có sinh tất có diệt. Nói một 
				cách khác tất cả các pháp đều là huyễn hóa, không có tự tánh, là 
				vô ngã tức là Không. Nói về Tướng thì có muôn sai vạn biệt nhưng 
				Thể Tánh thì chỉ có một cho nên chúng là bình đẳng. Thức ăn thì 
				cũng thế: nào là chua, cay, mặn, ngọt; nào là chiên, xào, luộc, 
				nướng. Mỗi quốc gia có hàng trăm món ăn khác nhau nhưng tựu 
				trung tất cả thức ăn cùng quy về một Thể là bồi dưỡng, nuôi sống 
				xác thân mà thôi. Do đó vật thực là bình đẳng. Vì là phàm nhân 
				nên con người có sự phân biệt. Chẳng hạn như khi có món ăn đưa 
				tới con người không những chỉ ăn cái miệng mà năm căn còn lại 
				cũng ăn cho nên sự phân biệt chạy tới chạy lui và vọng thức cũng 
				vì thế mà sinh khởi dữ dội. Thí dụ như có người bưng đến một đỉa 
				rau xào. Mắt nhìn để phân biệt đỉa rau là xào hay luộc, có hấp 
				dẫn hay không tức là mắt ăn trước. Rồi đến mũi ngửi hương vị có 
				thơm ngon không. Sau đó tay mới gắp để đưa vào miệng mà tay là 
				hành động của thân. Miệng bắt đầu nhai và tai nghe âm thanh khác 
				nhau để phân biệt cứng hay mềm. Trong khi nhai thì lưỡi cho biết 
				là món ăn ngon hay dở và sau cùng tất cả những sự phân biệt của 
				năm căn được chuyển về thức. Nếu là món ngon thì thức sẽ phát 
				sinh ý niệm tham muốn ăn nữa. Còn món ăn dở thì thức sẽ phát 
				sinh ý niệm chán ghét, đánh đổ nó đi. Vì còn sự phân biệt, chạy 
				theo tham cầu dục vọng, tâm chất đầy vọng tưởng nên con người 
				không an và còn đau khổ. Ngược lại, người tu hành đi khất thực 
				ai cúng dường gì thì nhận lấy, khi đầy bát thì trộn lẫn thức ăn 
				với nhau thành một món duy nhất để không còn phân biệt mùi vị, 
				không còn phân biệt món nào của ai cho rồi mới ăn. Đó là tinh 
				thần bình đẳng vô phân biệt. 
				Vì tôn giả Tu Bồ Đề là người thông hiểu lý 
				Không cho nên trưởng giả Duy Ma Cật muốn đem tất cả vạn pháp 
				trong vũ trụ mà so sánh với những thức ăn trong bình bát của tôn 
				giả để chứng minh rằng tất cả đều là huyễn hóa, là giả, là không 
				thật vì chúng không có tự tánh, là vô ngã tức là Không. Tuy bề 
				ngoài hình tướng có sai biệt nhưng tất cả đều cùng một Pháp tánh 
				bình đẳng, không sai không khác. Trưởng giả Duy Ma Cật muốn chỉ 
				cho ông Tu Bồ Đề thấy sự huyền diệu về chữ Không. Đối với hàng 
				Thanh văn thì Không có nghĩa là cái không đối với cái có trong 
				thế giới hữu hình nầy. Còn đối với Bồ-tát thì Không có nghĩa là 
				giả huyễn, không thật Có. Không tức là Thể Tánh Chân Không Diệu 
				Hữu, là cội nguồn để sinh ra tất cả nhân sinh vũ trụ, là “Bất 
				Biến mà Tùy Duyên” có nghĩa là từ cái Bản Thể Chân Như mà sinh 
				ra muôn sinh vạn vật. 
				Ông Duy Ma Cật lại nói tiếp: 
				 
				Thưa ngài Tu Bồ Đề! Không cần đoạn trừ dâm nộ si, mà cũng không 
				tùy thuận với dâm nộ si. Không cần hủy hoại thân nầy mà vẫn tùy 
				thuận tướng nhất (Nhất chân pháp giới), không cần diệt si 
				ái mà cũng có giải thoát. Ngay nơi tướng ngũ nghịch mà được giải 
				thoát. Không mở cũng không cột, không học hạnh Tứ diệu đế, không 
				phải không học hạnh Tứ diệu đế. Không quả đắc, không phải không 
				đắc quả. Không phải phàm phu, không phải xa rời pháp phàm phu. 
				Không phải Thánh nhân, không phải không Thánh nhân. Dù thành tựu 
				tất cả pháp mà rời ngoài cái tướng của tất cả pháp. 
				 
				Được vậy, mới nên nhận lấy vật thực của người cúng dường. 
				Vì ông Tu Bồ Đề là A La Hán nên còn chấp có 
				bên nầy bên kia. Muốn thiện thì phải diệt ác, muốn đạt Thánh quả 
				thì phải tu theo Tứ diệu đế… Cái Không đối với ông là cái Không 
				tương đối của thế gian pháp tức là cái không đối với cái có. Bây 
				giờ ông Duy Ma Cật mới mở rộng tầm mắt cho ông ta thấy cái Không 
				tuyệt đối, không cùng không tận, là cội nguồn của tất cả. Vì tất 
				cả đều là huyễn hóa nên tất cả các pháp đều không thật Có. Nếu 
				áp dụng nguyên lý nhất như (Nhất chân pháp giới) thì trong phiền 
				não tức là Tham-Sân-Si mà vẫn có Bồ-đề, trong tướng ngũ nghịch 
				mà vẫn được giải thoát. Khi không còn thấy có bên nầy bên kia 
				tức là không còn có biên giới của nhị nguyên vì tất cả vốn không 
				hai tức là bất nhị thì con người sẽ tìm giải thoát trong 
				Tham-Sân-Si, loại phiền não để thấy được Bồ-đề. Một khi con 
				người đã được tâm thanh tịnh thì Tham-Sân-Si, tướng ngũ nghịch, 
				không mở, không cột… đều là giả huyễn, là không thật thì có gì 
				phải sợ. Mà nếu không sợ thì cần gì phải trừ bỏ cho phiền lòng. 
				Chẳng những không sợ mà con người có thể chuyển chúng thành 
				thiện, chuyển phiền não thành Bồ-đề thì đây chính là con đường 
				lợi tha của Bồ-tát vậy. 
				Ngày xưa ngài Đạo Tín lúc ấy mới mười bốn 
				tuổi tìm tới gặp Tổ Tăng Xán mà thưa rằng: 
				 
				- Bạch Hòa thượng! Xin Hòa thượng dạy cho con pháp môn giải 
				thoát. 
				 
				Tổ Tăng Xán bảo: 
				 
				- Ai trói buộc ngươi? 
				 
				- Không ai trói buộc con cả. 
				 
				Tổ bảo: 
				 
				- Không trói buộc thì cầu giải thoát để làm gì. 
				Trong Kinh Pháp Bảo Đàn cũng có câu: “Khi 
				mê thì thầy độ, khi ngộ thì tự độ”. Do đó khi mê thì thấy mình 
				còn bị trói buộc, lúc thức tỉnh thì thấy tự tại giải thoát, đâu 
				có ai buộc mà phải cởi trói. 
				Một khi con người có sự sáng suốt triệt để 
				từ nội tâm thì họ sẽ không thấy có pháp Tứ diệu đế để tu và cũng 
				không có qủa vị để chứng đắc vì Tứ diệu đế hay quả vị cũng chỉ 
				là giả danh, không có chi là thật cả. Vì thế mà Tâm Kinh mới có 
				câu: Thị cố không trung, vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo” là vậy. Con 
				người thường hay lầm lẫn là cần pháp Tứ diệu đế làm phương tiện 
				để đạt đến cứu cánh giải thoát giác ngộ tức là chứng quả vị 
				Phật. Nhưng thật chất con người vốn đã giải thoát giác ngộ nhưng 
				chỉ vì mê vọng điên đảo mà lầm tưởng là trầm luân. Trong tất cả 
				chúng sinh vốn đã có Phật tính tức là Bản Thể Chân Như không 
				tăng không giảm, không dơ không sạch mà chúng ta quên mất nó đi 
				để cả cuộc đời đi tìm cái đã có sẳn. Cho nên một lần nữa Tâm 
				Kinh mới nói: “Dĩ vô sở đắc cố” tức là không có gì là chứng đắc 
				cả. Chỉ cần sống với tự tánh thanh tịnh thì Phật tính sẽ hiện ra 
				cũng như lau hết bụi thì gương chiếu sáng vậy thôi vì tánh sáng 
				cũng như Phật tính đã có từ lâu. Đó chính là bản lai diện mục 
				của tất cả chúng ta. 
				Ông Duy Ma Cật khuyên tôn giả Tu Bồ Đề quay 
				về sống với nguyên lý Bất nhị tức là không còn phân biệt có bên 
				nầy bên kia mà phá chấp pháp để vào Pháp Tánh bình đẳng thì mới 
				nên nhận lấy vật thực cúng dường của thí chủ. 
				Còn nữa, thưa ngài Tu Bồ Đề! Không cần 
				tìm gặp Phật. Không cần nghe pháp Phật. Bọn lục sư ngoại đạo: 
				Phú Lan Na Ca Diếp, Mạc Già Lê Câu Xa Lê Tử, Xan Xà Gia Tỳ La 
				Chi Tử, A Kỳ Đa Xý Xá Khâm Bà La, Ca La Câu Đà Ca Chiên Diên, Ni 
				Kiền Đà Nhã Đề Tử… Bọn đó phải là thầy của ngài. Thưa ngài Tu Bồ 
				Đề! Ngài hãy y chỉ vào họ mà xuất gia. Họ đọa địa ngục Ngài cũng 
				đọa theo. Được như vậy mới xứng đáng thọ nhận vật thực của thí 
				chủ cúng dường. 
				Gặp Phật qua 32 tướng tốt hay gặp Phật qua 
				giọng thuyết pháp thì chưa phải là thấy được Như Lai. Vì Phật là 
				một Ứng Thân trong thế giới Ta bà và là thân sinh tử. Còn Pháp 
				Thân chính là Như Lai Viên giác Diệu Tâm mới thật là gặp được 
				Phật và mới nghe được pháp Phật. 
				Đoạn trên ông Duy Ma Cật khuyên ông Tu Bồ 
				Đề nên lìa hai bên, đứng chấp có bên nầy bên kia mà hãy quay về 
				với nguyên lý nhất như để thấy được Bản Thể Chân Như trong khi 
				đoạn nầy thì khuyên ông Tu Bồ Đề theo tà bỏ chánh. Tệ hại hơn 
				nữa là gọi bọn lục sư ngoại đạo là thầy. Tại sao có sự mâu thuẩn 
				như thế? Đối với người xuất gia thì phải quy y Tam Bảo chớ ai 
				lại theo bọn ngoại đạo và đi theo họ vào địa ngục? Vì sự mâu 
				thuẩn nầy mà tôn giả Tu Bồ Đề không sao hiểu được, tâm trí mờ 
				mịt mà để bình bát lại và muốn đi ra khỏi nhà. 
				Thật ra bọn lục sư ngoại đạo mà ông Duy Ma 
				Cật muốn ám chỉ ở trên chính sáu căn bởi vì con người lúc nào 
				cũng để sáu căn chạy theo sáu trần mà trần thì ở ngoài nên gọi 
				là ngoại trần hay ngoại đạo. Mà xuất gia là tháo gở đừng cho 
				dính mắc tức là kiểm soát sáu căn đừng cho dính mắc với sáu 
				trần. Một khi sáu căn không còn dính mắc thì cái chấp về dính 
				mắc cũng không còn nữa thì tâm sẽ thanh tịnh. 
				Còn nữa, thưa ngài Tu Bồ Đề! Cứ xông pha 
				trong các thứ tà kiến, không cần tránh né để đến Niết Bàn. Phải 
				ở ngay trong bát nạn, không được không nạn. Nhập cuộc với phiền 
				não, xa lìa pháp thanh tịnh đi. Ngài được Tam muội Vô tránh tam 
				muội, tất cả chúng sinh cũng được Tam muội đó. Người thí chủ của 
				ngài không được gọi là gieo giống phước điền, kẻ cúng dường ngài 
				đọa trong ba đường ác. Họ là một cánh tay của bọn ma khấy rối. 
				Ngài cùng các bọn ma và các trần lao không hơn kém. Đối với tất 
				cả chúng sinh phải có tâm oán. Chê báng Phật, hủy mạ pháp, không 
				làm Tăng và không cần Niết Bàn. Nếu ngài được như thế thì mới 
				xứng đáng nhận lấy vật thực cúng dường. 
				Bạch Thế Tôn! ngài Tu Bồ Đề thưa: Khi 
				nghe những điều đó tâm trí con mờ mịt, không còn biết phải nói 
				lời gì và không biết phải đối đáp ra sao. Con bèn để bình bát 
				xuống và muốn mau được đi khỏi nhà ông Duy Ma Cật. Như đoán được 
				ý con, ông Duy Ma Cật nói tiếp: 
				- Thưa ngài Tu Bồ Đề! Ngài cứ nhận lấy 
				bát cơm đi, đừng sợ. Ngài nghĩ thế nào? Giả như Đức Như Lai hóa 
				hiện ra một người, đem những điều như thế đàm luận với ngài thì 
				ngài có sợ chăng? 
				 
				- Không sợ. Bạch Thế Tôn! Con đáp như thế. 
				Đoạn trên đã khó nghe mà đoạn nầy lại càng 
				lạ lùng, khó hiểu. Ông Duy Ma Cật nói sao mà ngược ngạo quá vậy? 
				Nhập cuộc với phiền não mà xa lìa thanh tịnh? Còn kẻ thí chủ bị 
				đọa trong ba đường ác, rồi mình với ma giống hệt không khác. Tại 
				sao lại phải chê Phật, hủy pháp, không làm Tăng và chả cần Niết 
				bàn? Bây giờ hãy nghiệm đoạn kinh sau đây thì sẽ thấy được thâm 
				ý của ông Duy Ma Cật. 
				 
				Ông Duy Ma Cật lại nói tiếp: 
				 
				- Tất cả pháp như huyễn, như hóa, ngài không nên có ý sợ sệt. 
				Tất cả ngôn thuyết cũng là huyễn hóa. Bậc trí giả không dính mắc 
				văn tự cho nên không có gì, vì tánh của văn tự vốn Không. Hiểu 
				được rằng: “Văn tự vốn không có tánh” thì người đó được giải 
				thoát. Vì cái tướng giải thoát chính là tướng các pháp vậy. 
				Tôn giả Tu Bồ Đề là đệ nhất giải không nên 
				ông Duy Ma Cật một lần nữa đem Lý Không mà thử lòng đó thôi. Dựa 
				theo Lý Không thì trên đời nầy không có cái gì là thật cả vì 
				chúng không có tự tánh tức là vô ngã. Vì tất cả các pháp đều là 
				huyễn hóa thì lời nói cũng là huyễn hóa, không thật. Lời nói, 
				văn tự là pháp hữu lậu và tương đối do duyên khởi tạo thành nên 
				chính nó không có thật thể và dĩ nhiên không thể nào diễn tả 
				được chân lý Tuyệt đối vô lậu. Vì hàng Thanh văn còn có chấp, 
				ngay cả văn tự nên ông Duy Ma Cật khuyên nếu muốn đạt được trí 
				tuệ Bát Nhã của Bồ Tát thì ngay cả văn tự cũng bỏ luôn, không 
				nên chấp. Bởi vậy Kinh Kim Cang cũng có câu: “Phàm sở hữu tướng 
				giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng Phi Tướng tức kiến Như 
				Lai” có nghĩa là tất cả mọi vật mà có hình tướng đều là giả 
				huyễn, còn nếu thấy được cái Tướng Không của mọi sự vật thì mới 
				thấy được Chân Lý. Nói một cách khác cái gì mà có thể diễn tả 
				được, viết được, nói được thì cái đó không phải là Chân lý. Ngày 
				xưa chư Tổ cũng dạy rằng: “Chân Lý là Tuyệt đối không thể dùng 
				lời nói mà diễn tả được. Nếu còn dùng lời nói thì Chân Lý bị che 
				khuất, bị chôn vùi”. 
				Tất cả kinh điển mà chúng ta có được ngày 
				nay là do các vị đại A La Hán tụng thuật lại và được chuyển sang 
				Phạn âm, rồi Hán tự và sau cùng dịch sang tiếng Việt. Đoạn kinh 
				trên khai thị cho người tu Phật đừng quá chấp vào kinh điển vì 
				không có lời nói hay văn tự nào có thể diễn tả được Chân Lý cả 
				đó là chưa kể khi dịch kinh văn làm sao không có sự thêm bớt, 
				sai biệt. Vì thế trong Kinh Đại Niết Bàn, Đức Phật nói Tứ Y Pháp 
				mà trong đó y nghĩa bất y ngữ là như vậy. Cho nên kinh điển chỉ 
				là phương tiện, là ngón tay mà cứu cánh là Chân Lý, là sự sáng 
				suốt triệt để, là ánh sáng huyền diệu của mặt trăng. 
				 
				Ông Duy Ma Cật đưa ra hai tư tưởng đối lập nhau để chỉ cho tôn 
				giả Tu Bồ Đề đừng quá chấp vào lời nói văn tự vì chúng là huyễn 
				hóa, không thật. Nếu là huyễn hóa thì nói ngược cũng được mà nói 
				xuôi cũng chẳng sai. Vì chấp nên ông Tu Bồ Đề thấy lời nói trên 
				là thật nên hoảng hốt, sợ sệt, muốn ôm bình bát mà chạy. Bây giờ 
				ông Duy Ma Cật mới an ủi rằng nảy giờ là tôi nói đùa đấy vì lời 
				nói không có giá trị chi cả vậy ông hãy lấy cơm mà ăn đi. 
				Tất cả các pháp trên thế gian nầy đều là 
				huyễn hóa ngay cả lời nói văn tự. Nếu ngày nào con người còn 
				chấp vào ngôn ngữ văn tự là thật thì ngày đó còn phải đối diện 
				với phiền não khổ đau. Thói thường thì con người thích lời nói 
				khen, nói tốt và bất mãn, buồn phiền khi bị chỉ trích. Nếu chúng 
				ta chấp lời nói kia là thật thì lúc nào cũng ghi nhớ, gìn giữ 
				những lời nói đó vào lòng. Thuận duyên thì hạnh phúc tức là sống 
				trong mộng tưởng, điên đảo, còn nghịch duyên thì buồn phiền, bực 
				bội. Trưởng giả Duy Ma Cật muốn nhắn nhủ rằng người tu Phật cần 
				phải có trí tuệ để biết rằng tất cả ngôn ngữ, lời nói là không 
				thật thì đừng quan tâm, lưu nhớ vì chúng phát xuất từ bên ngoài 
				tức là ngoại trần mà cần phải giữ tâm thanh tịnh tức là sáu căn 
				không dính mắc nơi sáu trần. Mình thì không nói xấu người mà nếu 
				có ai dèm pha, thị phi thì luôn giữ chánh niệm và đừng cho tâm 
				vọng động để tiêu trừ khẩu nghiệp. Một khi con người có tự chủ 
				tức là không chấp lời nói xấu, tiếng dèm pha hay tiếng khen thì 
				cuộc sống sẽ rất an vui tự tại. 
				 
				Bạch Thế Tôn! Ông Tu Bồ Đề thưa. Sau khi trưởng giả Duy Ma 
				Cật nói thời pháp ấy rồi, có hai trăm vị Thiên tử được pháp nhãn 
				thanh tịnh. Do vậy, con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh 
				ông Duy Ma Cật. 
				Thiên tử ở đây không phải là những ông vua 
				ở thế gian mà là những vị trời trong các cõi Dục giới, Sắc giới 
				và Vô sắc giới. Đó là các cõi trời Đạo Lợi, Dạ Ma, Đầu Xuất, Hóa 
				Lạc, Tha Hóa… Khi chúng sinh thấy rằng dục lạc thế gian không 
				bền chắc, tạm bợ, đáng chán và là cội nguồn tạo ra nghiệp để 
				chịu quả khổ về sau nên họ bỏ ác mà tu theo mười điều thiện và 
				khi chết sẽ được thọ sanh lên cõi trời để hưỡng phước lạc. Tuy 
				thọ mạng ỡ cõi trời rất dài nhưng vẫn còn nằm trong lục độ luân 
				hồi do đó nếu hưởng quá nhiều phước lạc sinh mê sẽ dễ bị đọa vào 
				tam ác đạo. 
				 
				Các vị trời bình sanh được ăn ngon mặc đẹp, sống trong cung vàng 
				điện ngọc với đàn ca múa hát. Họ hưởng quá nhiều dục lạc nên bị 
				mê đến khi nghe được lời dạy của ông Duy Ma Cật thì mới biết tất 
				cả các pháp như thức ăn, áo quần, nhà cửa, đền đài, cung điện 
				ngay cả âm thanh, lời nói đều là huyễn, không thật có. Nhờ thấu 
				hiểu chân lý nầy mà các vị trời bừng tỉnh đôi mắt như người vừa 
				ra khỏi giấc chiêm bao nên mới gọi là Pháp nhãn thanh tịnh. 
				Khi nói về hạnh bố thí thì có người lý luận rằng nếu có người 
				làm ăn lương thiện đang sống trong cảnh bần hàn, mỗi ngày phải 
				chạy cơm nuôi gia đình còn không đủ thì tiền của đâu dư mà bố 
				thí để tạo phước đức cho đời sau? Đó là chưa kể khi gặp cảnh 
				túng quẩn, vợ bệnh con đau sanh ra trộm cướp thì đời sau càng 
				thê thảm. 
				 
				Ngược lại có những người hiện tại rất giàu có, tiền rừng bạc 
				biển, cuộc đời hạnh phúc ấm no thì đối với họ bố thí chút ít 
				tiền của cũng chẳng ăn nhằm gì. Có thể họ dùng tiền của bất 
				lương mà bố thí cho nên dựa theo thuyết nhân quả chẳng những đời 
				nầy họ giàu sang phú quý mà đời sau họ càng hạnh phúc ấm no. Thế 
				thì hạnh bố thí của nhà Phật có bất công và độc ác như họ nghĩ 
				không? 
				 
				Chữ bố thí trong nhà Phật không có nghĩa là đem tiền của ra phân 
				phát cho kẻ khác để tạo phước. Đây chỉ là nhìn về hình tướng bên 
				ngoài mà nói. Thật ra bố thí không nhất thiết phải là phân phát 
				tiền của mà còn phải pháp thí và vô úy thí. Đứng về Bản Thể mà 
				nói thì bố thí là để thanh lọc nội tâm của mình, làm giảm bớt 
				tính tham, tật đố. Tham-sân-si, mạn, nghi có bớt thì tâm thanh 
				tịnh mới hiện bày. Có dám bố thí chia xẻ bớt cho người thì tâm 
				mới bớt tham. Bố thí mà còn mong cầu đền đáp thì tâm tham không 
				giảm. Tham-sân-si chưa dứt thì làm sao đạt được tâm thanh tịnh. 
				Nếu kẻ giàu có bằng hành động bất chính thì chính họ đã tự tạo 
				cho mình bao nhiêu nhân bất thiện, cho dù họ có đem bao nhiêu 
				tiền của để bố thí cũng không cách nào xóa đi những nhân bất 
				thiện được. Vì thế kiếp sau làm sao họ có thể trở thành giàu 
				sang phú quý, an vui hạnh phúc được? Còn đối với những người 
				nghèo khổ, không đòi hỏi họ phải bố thí nhiều tiền của mà chỉ 
				cần họ bố thí với tấm lòng vị tha vô ngã thì cho dù họ chỉ bố 
				thí một đồng nhưng kết quả vẫn cao quý hơn những người giàu có 
				bất thiện. 
				 
				Nhắc lại ngày xưa trong thời Đức Phật còn tại thế, có một bà già 
				đi ăn xin rất nghèo khổ. Tuy muốn cúng dường cho Phật ngặt nổi 
				trong túi không có một xu. Ngày đó mà đi xin được vài đồng, bà 
				nhịn ăn để mua một chút ít dầu đốt đèn và hân hoan đem cúng 
				dường cho Phật. Sau một đêm tất cả những ngọn đèn khác đều tắt 
				chỉ còn ngọn đèn của bà vẫn cháy sáng làm cho mọi người ngạc 
				nhiên thì Phật mới dạy rằng bố thí phát xuất từ tấm lòng chân 
				thành thì sẽ được vô lượng phước đức. Vì thế cho dù đời nầy mình 
				có gặp nhiều nghịch duyên, cuộc sống không được vừa ý thì đó là 
				chất liệu để tu tâm sửa tánh thì ngày sau chắc chắn sẽ tươi đẹp 
				hơn nhiều. Con người không thể oán Trời trách Phật làm cho mình 
				nghèo khổ. Nghèo khổ là do tự mình tạo ra quá nhiều nhân bất 
				thiện trong đời quá khứ, nếu muốn kiếp sau được hạnh phúc an vui 
				thì kiếp nầy tránh ác làm thiện là được ngay. 
				 
				Phật dạy rằng:  
				 
				Chư ác mạc tác 
				 
				Chứng thiện phụng hành 
				 
				Tự tịnh kỳ ý 
				 
				Thị chư Phật giáo 
				 
				Nghĩa là; 
				 
				Tất cả các nghiệp ác chớ có làm 
				 
				Nên làm tất cả các việc lành 
				 
				Cố gắng làm cho tâm ý được thanh tịnh 
				 
				Đó là lời dạy của chư Phật 
				 
				Nên nhớ nghèo không phải là cái tội mà tạo nghiệp bất thiện mới 
				đưa con người lún sâu vào biển trầm luân đau khổ. Nghèo chưa 
				chắc đã khổ mà giàu chưa hẳn đã hạnh phúc vui tươi cho nên cổ 
				nhân có câu: “Thanh bần an lạc, trọc phú đa ưu” là vậy. Như thế 
				thì hạnh bố thí đâu có bất công đối với ai đâu và dĩ nhiên đầy 
				từ bi chớ làm gì có độc ác. 
				
				
				 |  
				 |