| 
				 Chương Thứ Hai 
				 
				Phẩm Phương Tiện 
				 
				(Inconceivable Skill in Liberative Technique) 
				 
				 
				Đây là phẩm Phương tiện, vậy 
				thế nào là phương tiện? Phương là phương pháp và tiện là tiện 
				dụng. Theo tiếng Phạn, phương tiện là Upaya, có nghĩa là những 
				phương pháp đem ra ứng dụng tùy theo căn cơ, hoàn cảnh xã hội và 
				trình độ của mọi chúng sinh để thiết lập và giải quyết tạm thời 
				mà đưa chúng sinh vào con đường giải thoát giác ngộ tức là chứng 
				hiểu Chân lý. Mà Chân lý chỉ có thể thực chứng chớ không thể 
				diễn bày bằng ngôn ngữ hay kinh điển vì thế giáo lý nhà Phật 
				không có mục đích trình bày Chân lý mà chỉ muốn dùng phương tiện 
				để hướng dẫn người tu hành sáng suốt để tự mình đạt đến cứu cánh 
				tối thượng là chứng được Chân lý. Một phương tiện cho dù thiện 
				xảo tới đâu cũng không thể nào áp dụng cho tất cả mọi trường hợp 
				và cho tất cả mọi người vì thế mà Đức Thế Tôn mới chế ra 84 ngàn 
				pháp môn tức là 84 ngàn phương tiện và cũng là 84 ngàn cánh cửa 
				để đi vào căn nhà giác ngộ. Chúng ta tham thiền, niệm Phật, trì 
				chú, tu theo Tứ Diệu đế, Thập nhị Nhân Duyên hay Lục độ 
				ba-la-mật, tu nhà, tu chợ, tu chùa …tất cả đều là phương tiện. 
				Quý vị có thấy trong thế gian nầy có một viên thuốc nào có thể 
				trị bá bệnh cho dù đó là viên thần dược? Ngày xưa những vị đạo 
				sĩ của Lão giáo đã luyện thuốc trường sinh bất tử cho vua Tần 
				Thủy Hoàng, nhưng tại sao vua nhà Tần vẫn chết? Ví cũng như khi 
				tuổi về già, chúng ta phải uống thuốc chống áp huyết cao, thuốc 
				làm giảm lượng mở trong máu, thuốc trị bệnh tiểu đường, thuốc 
				cảm, thuốc đau nhức khớp xương, thuốc ăn không tiêu... Muốn thân 
				được an thì phải uống thuốc. Người ít bệnh thì uống ít thuốc còn 
				người nhiều biến chứng thì phải uống nhiều có khi năm bảy loại 
				thuốc là thường. Phật Pháp thì cũng thế, con người nếu vỏ vô 
				mình càng dày tức là bệnh nặng thì cần phải dùng nhiều loại 
				thuốc cho nên có lúc chúng ta tham thiền, tư duy quán chiếu để 
				thấy được bản Thể chân thật, có lúc thì kinh hành niệm Phật để 
				tâm được an tịnh, có khi thì trì tụng thần chú vì đây là cánh 
				cửa giao thông giữa con người và chư Phật. Khi hết bệnh tức là 
				thức tỉnh giác ngộ thì uống thuốc để làm gì? Vì thế tất cả những 
				phương pháp tu trên thế gian nầy chỉ là phương tiện, những liều 
				thuốc nhiệm mầu giúp chúng sinh phá tan màng vô minh hắc ám mà 
				thấy được ánh sáng Chân Lý. Nhưng phương tiện không phải là cứu 
				cánh. Phương tiện là nhân mà cứu cánh mới là quả. Phương tiện là 
				giả mà cứu cánh là thật. Cái vô minh lớn nhất của con người là 
				chấp phương tiện với cứu cánh. Vì thế người tu Phật chỉ nương 
				theo phương tiện để đạt cứu cánh, nương theo ngón tay để thấy 
				mặt trăng. Nhưng đừng lầm phương tiện là cứu cánh, đừng nhìn 
				ngón tay mà quên đi mặt trăng và đừng chấp kinh điển là Chân lý. 
				Đừng nhìn vào ngón tay chỉ mặt trăng mà quên đi luồng ánh sáng 
				tuyệt vời phát xuất từ mặt trăng. Do đó khi đạt được cứu cánh 
				thì phải bỏ phương tiện, hết bệnh thì bỏ thuốc, tới bờ thì phải 
				bỏ chiếc bè để lên bờ giác ngộ chớ đừng vác bè lên vai mà thêm 
				nặng nhọc khổ đau. Tại sao lại gọi đây là phẩm phương tiện? Vì 
				muốn tạo cơ duyên để hoằng pháp độ sanh nên Trưởng giả Duy Ma 
				Cật mượn cớ bị bệnh để tạo cơ hội thuyết pháp cho chúng sinh. 
				Đây là phương tiện về việc làm. 
				 
				Bấy giờ ở trong thành Tỳ Xá Ly có ông Trưởng giả tên là Duy 
				Ma Cật. Trưởng giả Duy Ma Cật là người đã từng cúng dường vô 
				lượng chư Phật, gốc rễ lành trồng sâu cho nên ông được vô sanh 
				pháp nhẫn. Trong hàng Bồ-tát, Duy Ma Cật là vị Bồ-tát biện tài 
				vô ngại. Du hí thần thông. Hàng phục các ma được vô sở úy. Vào 
				sâu trong các pháp môn khéo nơi trí mà độ người. Thông suốt 
				phương tiện. Biết rõ tâm tưởng của chúng sinh, phân biệt độn 
				căn, lợi căn của đối tượng. Ở lâu trong Phật đạo, đã thuần thục 
				thâm tín đại thừa. Việc làm vững chãi, suy nghĩ chín chắn, Trụ ở 
				oai nghi Phật. Tâm rộng như biển cả. Chư Phật khen ngợi, hàng 
				Trời cung kính. Vì muốn độ người, Trưởng giả Duy Ma Cật phương 
				tiện ở thành Tỳ Xá Ly. 
				 
				Cúng dường vô lượng Phật là đem của báu thế gian để dâng lên 
				Đấng giác ngộ mà mong được sự giác ngộ cũng như Phật. Nhưng Phật 
				đã vượt ra ngoài tam giới: dục giới, sắc giới và vô sắc giới thì 
				đâu có cần hưởng những của báu thế gian? Vậy cúng dường vô lượng 
				Phật phải được hiểu là xa lìa mọi lạc thú, bỏ đi những của cải 
				vật chất quý báu giả tạm của thế gian để phát huy tăng trưởng 
				lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả ngỏ hầu có được tâm thanh tịnh và trí tuệ 
				sáng suốt. 
				 
				Cúng dường vô lượng Phật cũng còn có một ý nghĩa khác là quên 
				mình mà làm lợi ích cho chúng sinh bởi vì Phật là Phật đã thành 
				còn chúng sinh là Phật sẽ thành. Hơn nữa, trong tất cả mọi chúng 
				sinh ai ai cũng đều có Phật tánh như nhau tức có khả năng thành 
				Phật. Thật vậy, tâm Phật và tâm của chúng sinh thật ra không hề 
				khác nhau. Tâm của Phật ví như mặt nước hồ thu yên tĩnh mà trên 
				đó mặt trăng Chân lý có thể phản chiếu một cách toàn vẹn. Trong 
				khi tâm của chúng sinh thì giống như mặt nước đang bị các làn 
				sóng vô minh khuấy động làm cho ánh trăng chân lý bị lu mờ, 
				không cách nào phản chiếu được. Do đó nếu chúng sinh có thể đánh 
				tan những làn sóng vô minh thì ánh trăng Chân lý sẽ hiện bày tức 
				là thành Phật. 
				 
				Đối với người Phật tử thì phải thấu hiểu sâu xa ý nghĩa của sự 
				cúng dường lễ Phật. 
				 
				1) Ngã mạn lễ: Những người giàu có thế lực trong xả hội muốn bỏ 
				ra số tiền lớn để xây chùa hay tạo tượng Phật, Bồ-tát nên đến 
				ngày khánh thành thì họ phải là người cắt băng hay dành riêng 
				cho họ dâng nhang nghi lễ trước nhất. 
				2) Cầu danh lễ: Cúng dường để được người biết tên tuổi mà mưu 
				lợi chớ không thật tâm vì Phật pháp. 
				 
				3) Cung kính lễ: Ngày nay chúng ta thấy có rất nhiều tông phái 
				chế ra những pháp lễ lạy, hay màu sắc áo tràng khác nhau để đề 
				cao tông phái của mình. 
				 
				Ngã mạn, cầu danh và cung kính lễ tức là Sự lễ là những lễ nghi 
				hình thức bề ngoài có giá trị rất thấp trong Phật giáo. Ngược 
				lại giáo lý liễu nghĩa đại thừa thì chú trọng Phật tánh tức là 
				tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mỗi chúng sinh. Đó là: 
				 
				1) Pháp trí thanh tịnh lễ: Chúng sinh phải nhìn thấy cho được sự 
				thanh tịnh của nội tâm để kiểm tra tư tưởng của mình. Tâm thức 
				tức là tư tưởng thì biến chuyển không ngừng cho nên chúng sinh 
				phải biết nó đang nghĩ gì, nó đang nói gì và nó đang muốn làm 
				gì. Nếu ý thiện thì lấy còn ý xấu, ý ác thì bỏ ngay. 
				 
				2) Chánh quán tâm thành lễ: Hằng ngày trong mọi uy nghi như đi, 
				đứng, nằm, ngồi chúng sinh đều có thể suy tư quán chiếu hay gọi 
				là hành thiền, tọa thiền hay ngọa thiền để xoay tâm mình trở về 
				với chánh đạo và tránh xa tà kiến. 
				 
				3) Biến nhập pháp giới lễ: Biến tâm mình trở thành rỗng rang để 
				hòa nhập vào vủ trụ bao la mà không cần một đối tượng để không 
				còn vui buồn, hờn giận, thương ghét, nhân ngã bỉ thử…Tâm hồn con 
				người hoàn toàn rỗng rang thanh tịnh được xem như hòa tan vào 
				trong hư không vô tận để buông bỏ tất cả. Trạng thái sống như 
				vậy trong thời gian đó là biến nhập pháp giới lễ vậy. 
				 
				4) Thực tướng bình đẳng lễ: Chúng sinh phải thấy cho được tính 
				cách vô tướng của vạn pháp vì thật tướng là vô tướng. Tất cả các 
				pháp là do duyên sanh nên không có chủ tể hay tự tánh nên không 
				có vật gì là vĩnh viễn tồn tại, bền chắc vì thế chúng sinh dễ 
				buông xả tất cả. Vì vạn pháp giai không duyên sanh như huyễn nên 
				con người có thể coi thường cả sinh, lão, bệnh, tử của mình, coi 
				thường cả sự thành, trụ, hoại, không của vủ trụ và coi thường 
				ngay cả sinh, trụ, dị, diệt của cuộc đời nên lúc nào cũng an vui 
				tự tại. 
				 
				Thực hành được như thế thì tuy không lễ lạy trước Đức Phật mà 
				chính chúng ta đã lễ lạy rồi vậy. Nếu chúng sinh không nhận thức 
				được Phật tâm của mình để sống với cái tự tánh thanh tịnh bản 
				nhiên để có an vui tự tại mà cầu Phật tướng bên ngoài thì chỉ 
				gởi gắm tâm hồn vào nơi vô định. Tu hành theo hình tướng bề 
				ngoài thì dĩ nhiên không có kết quả. 
				 
				Gốc rễ lành trồng sâu có nghĩa là đã vun bồi vô lượng công đức 
				trãi qua nhiều đời nhiều kiếp. Biện tài vô ngại là có tài nói 
				năng, biện thuyết lưu lót và hợp với Chân lý nhưng chỉ với mục 
				đích lợi lạc cho chúng sinh và làm cho thính chúng thấu hiểu 
				giáo lý mà hoan hỷ tin theo chớ không dùng bạo quyền để áp chế 
				người. 
				 
				Du hí thần thông. Du là chơi, hí là vui còn thần thông là lối 
				viết tắt của Thần Túc Thông có nghĩa là có phép biến hóa thay 
				hình đổi dạng, biến chỗ nầy hiện chỗ kia, bay đi qua lại các 
				cõi, ung dung tự tại. Vậy du hí thần thông là có đủ phép thuật 
				để thiên biến vạn hóa, di sơn đảo hải mà luôn lấy sự hóa độ 
				chúng sinh làm vui. Khác với những phép lạ của ngoại đạo là do 
				công phu tu luyện và lòng mong cầu mà được tức là thực hành với 
				mục đích tự lợi nên còn bị ngăn ngại trong khi Thần túc thông là 
				do trí tuệ sáng suốt, chứng ngộ Chân tánh, không cầu mà được nên 
				rất tự tại vô ngại tức là phép thuật thần thông xuất quỷ nhập 
				thần mà không bị vật chất ngăn trở. 
				 
				Hàng phục các ma. Ma tiếng Phạn là Marat có nghĩa là Ma Vương 
				chuyên quấy phá làm chướng ngại người tu hành. Ma thì có nội ma 
				và ngoại ma. 
				 
				1) Nội ma: là những chướng ngại phát xuất từ thân và tâm của con 
				người làm cho tâm thức bất an và bấn loạn. Đây chính là Phiền 
				não ma, Ngũ uẩn ma, Pháp hành ma và Tứ diệt ma. 
				 
				-  Phiền não ma: Lục dục, bất mãn, đói khác, ái dục, uể 
				oải, buồn ngủ, sợ hãi, hoài nghi, phỉ báng, cố chấp, danh lợi và 
				tự cao là những động lực phát sinh những thói hư tật xấu, thú 
				tính thấp hèn làm cho những chủng tử Tham-Sân-Si có cơ hội phát 
				khởi. Đây là những chướng ngại rất thông thường làm cản trở mọi 
				tiến bộ phát triển của tâm linh. 
				 
				-  Ngũ uẩn ma: Vì lầm tưởng thân nầy là thật nên con người 
				mới cung phụng, bảo vệ cho thân mà gây ra tội nghiệp. Mà còn 
				nghiệp tức là còn sinh tử luân hồi. Nhưng Tâm kinh xác định 
				rằng: “Ngũ uẩn giai không” tức thân nầy không thật. 
				 
				-  Pháp hành ma: Vì không thông hiểu Phật pháp nên không 
				kiềm chế làm cho Thân, Khẩu, Ý tác tạo mà gây ra nghiệp để phải 
				chịu quả báo đời đời. 
				 
				-  Tứ diệt ma: Sắc thân là vô thường nên không ai thoát ra 
				khỏi cảnh sinh lão bệnh tử. Có thân là có hoại vì thế nếu thấy 
				mình già đi hay nay đau mai yếu thì sanh lòng buồn khổ, đau 
				thương. Còn buồn khổ là còn chướng ngại cho người tu hành. 
				 
				2)   Ngoại ma: là những ma cảnh từ bên ngoài thường 
				lôi cuốn con người vào đường tối tăm tội lỗi làm cho tâm bất 
				tịnh. Danh vọng, tiền tài, sắc dục, ăn sang, mặc sướng là những 
				miếng mồi làm cho tâm trí con người không còn sáng suốt. Đây là 
				những cạm bẩy của thế gian để cột chặt chúng sinh vào vòng sinh 
				tử luân hồi. Con người càng si mê say đắm theo vật dục thì chân 
				họ càng lún sâu vào vũng bùn tội lỗi đau thương. Cái đà của tham 
				dục cũng giống như cái đà của một chiếc xe đang xuống dốc. Càng 
				xuống dốc thì xe chạy càng nhanh cũng như con người càng say đắm 
				thì càng đắm say không bao giờ biết đủ cả. Ngoài ra còn có những 
				hương linh vì chưa đủ nhân duyên để đi tái sinh nên thường ẩn 
				hiện làm con người kinh sợ nên gọi là ma. 
				 
				Nhắc lại ngày xưa lúc Đức Phật ngồi tham thiền nhập định 49 ngày 
				đêm dưới cội Bồ-đề, Ngài không ngừng chiến đấu với bọn Ma Vương. 
				Trong thì có nội ma và ngoài thì có ngoại ma nhưng chiến đấu với 
				ngoại ma thì không đáng ngại bằng các nội ma ở trong tâm. Cho 
				nên khi thành đạo Đức Phật đã dạy rằng: “Dù chiến thắng vạn quân 
				ở chiến trường không bằng chiến thắng chính mình, vì đó là chiến 
				thắng cao thượng nhất”. 
				 
				Vô sở úy là không còn lo sợ. Thử nghĩ trong thế gian nầy cái lo, 
				cái sợ đã chiếm quá nửa cuộc đời con người. Chúng ta sợ nghèo, 
				sợ đói, sợ bệnh, sợ già, sợ xấu, sợ khổ, sợ ma, sợ thi rớt, sợ 
				không có việc làm, sợ thua sút bạn bè, sợ thiếu công danh, sợ ly 
				tán, sợ không có tình yêu… và cuối cùng là sợ chết. Trong các 
				thứ bố thí thì vô úy thí là quý nhất bởi vì làm cho chúng sinh 
				không còn sợ hãi. Nếu giúp chúng sinh thấu hiểu thông suốt luật 
				vô thường, lý vô ngã, thuyết nhân quả, tính duyên khởi của vạn 
				pháp… thì họ sẽ không còn sợ hãi. Mà hết lo sợ thì tâm sẽ an 
				định, chấm dứt mộng tưởng điên đảo và cảm ứng được sự thanh tịnh 
				an lạc của Niết bàn. 
				 
				Vào sâu trong các pháp môn. Pháp môn có nghĩa là phương pháp tu 
				hành. Giáo lý đạo Phật có 84 ngàn pháp môn tức là có 84 ngàn 
				cánh cửa để vào căn nhà giác ngộ. Tại sao lại có nhiều thế? Chân 
				lý của Phật giáo thì chỉ có một là giác ngộ nhưng con 
				đường dẫn tới chân lý thì có rất nhiều tùy theo căn cơ, hoàn 
				cảnh, ý thích và sở nguyện của chúng sinh. Tu thiền, tu tịnh, tu 
				mật, tu giới, tu tâm... chỉ là phương tiện tức là nhân nhưng 
				đừng quên quả mới là cứu cánh tức là minh tâm kiến tánh, nhất 
				tâm bất loạn, đại khai viên giải… mới là giải thoát giác ngộ. 
				Nhưng ở đây trưởng giả Duy Ma Cật vào sâu có nghĩa là thấy biết 
				rõ ràng phương pháp sâu kín nhiệm mầu tức là thâm nhập Chân lý, 
				chứng ngộ lý Không, đạt tới tuyệt đối và tâm trí bừng sáng tức 
				là minh tâm kiến tánh. 
				 
				Khéo như trí mà độ người. Trí là trí tuệ và độ là vượt sang bờ 
				bên kia. Vậy khéo như trí mà độ người là người tu đã khai mở trí 
				tuệ sẳn có của mình để giúp người vượt qua sông mê biển khổ mà 
				đến bờ bên kia tức là bờ giải thoát giác ngộ. Theo Phật giáo 
				tiểu thừa thì chúng sinh vì bị vô minh che lấp Chân tánh, 
				Tham-Sân-Si tác tạo nên sống trong điên đảo khổ đau ở bờ bên 
				nầy. Nếu tu theo Tứ diệu đế để diệt sạch phiền não thì vượt qua 
				sông mê bể khổ trầm luân mà đến được bờ an vui, giải thoát. Hết 
				sinh tử luân hồi thì chứng đắc an lạc Niết bàn. Tư tưởng Phật 
				giáo đại thừa thì không có đôi bờ bên nầy hay bên kia. Từ đó 
				cũng không có dòng sông sinh tử, biển khổ sông mê làm ngăn cách. 
				Tại sao? Vì sau khi thành đạo dưới cội Bồ-đề, câu nói đầu tiên 
				của Đức Phật là trong tất cả mọi chúng sinh ai ai cũng đều có 
				Phật tính tức là có khả năng thành Phật. Ngay cả Lục Tổ Huệ Năng 
				cũng thốt rằng không ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ, vốn tự thanh 
				tịnh, vốn không sinh diệt… Đây chính là tánh giác, là Phật tính, 
				là tự tánh thanh tịnh của con người. Nhưng con người vì luôn 
				sống trong mê muội, thiếu sáng suốt nên mới thấy mình ở bờ bên 
				nầy còn bờ bên kia thì nghìn trùng xa cách. Đến khi thức tĩnh 
				quay về sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình tức là 
				bản lai diện mục thì biển khổ cũng tan sông mê cũng cạn, lấy gì 
				để phân chia đôi bờ? Không có dòng sông thì làm gì có bờ? Còn 
				thấy có bờ bên nầy bờ bên kia hay có mê có ngộ tức là còn đối 
				đãi, còn vướng vào vòng nhị nguyên. Nhưng mê ngộ chẳng phải hai 
				tức là Bất nhị. Thật vậy, Phật và chúng sinh chỉ khác nhau ở chỗ 
				mê và giác. Mê là chúng sinh mà giác là Phật. Tâm niệm xấu ác là 
				chúng sinh còn tâm niệm từ bi là Phật. Nếu con người biết chuyển 
				ác thành thiện, chuyển tâm mê thành giác thì từ chúng sinh thành 
				Phật chỉ trong một sát na. Vì thế kinh Phật mới có câu tu muôn 
				kiếp nhưng ngộ một giây là vậy. 
				 
				Biết rõ tâm tưởng của chúng sinh. Biết rõ tâm mình thì đã khó mà 
				muốn biết rõ tâm người lại càng khó khăn hơn. Vì thế cổ nhân mới 
				có câu: “Tri nhân tri diện bất tri tâm”. Do đó chỉ có những 
				người tu chứng đắc đạo, trí tuệ sáng suốt, thấu rõ Chân tánh để 
				được tâm ý dung thông thì mới cảm ứng được những tâm niệm sở cầu 
				của chúng sinh mà nhà Phật gọi là Tha Tâm Thông. 
				 
				Phân biệt độn căn, lợi căn của đối tượng. Độn căn là chậm chạp, 
				chậm hiểu, thiếu căn bản. Lợi căn là căn tánh lanh lẹ, thông 
				minh sáng suốt, nói một hiểu mười. Phật pháp thì có cao có thấp. 
				Cao thì vô cùng vô tận, thâm sâu huyền diệu còn cạn thì dễ thấy 
				dễ biết, dễ tìm. Vì thế Trưởng giả Duy Ma Cật đã cảm ứng được 
				những tâm niệm sở cầu của chúng sinh để có thể phân biệt rõ ràng 
				ai là người thông minh lanh lẹ và người nào là kẻ thiếu thông 
				minh, chậm chạp mà tùy cơ dạy bảo đúng với trí thông minh, sức 
				hấp thụ, lòng mong cầu và sở thích của họ. 
				 
				Ở lâu trong Phật đạo là công phu tinh tấn tu hành trãi qua nhiều 
				kiếp mới thấm nhuần Phật Pháp và kiến tạo đạo tâm bền vững. 
				 
				Đã thuần thục thâm tín đại thừa là tâm đã thanh tịnh, chín chắn, 
				thành thạo và thông suốt Chánh pháp làm ánh sáng chỉ đạo thì sẽ 
				không còn lầm đường lạc lối. Cũng như Lục Tổ Huệ Năng ngày xưa 
				chỉ cầu thành Phật, phát nguyện tâm Đại thừa để cầu đạo Bồ-đề mà 
				thành Phật. Thực hành Bồ-tát đạo rốt ráo để quên mình mà phục vụ 
				và làm lợi ích cho chúng sinh chớ không mong cầu những quả vị 
				của hàng Thanh văn, Duyên giác hay cầu phước báo để được làm 
				người hay Trời. Vì cho dù có thành A-la-hán thì mới phá được 
				chấp Ngã mà chấp Tướng vẫn còn, đoạn diệt được phiền não nhưng 
				trí tuệ chưa phát sinh tức là vô minh còn thì chưa thấy được 
				Chân lý. 
				 
				Việc làm vững chãi. Là phàm nhân nên con người có khuynh hướng 
				chạy theo lục dục thất tình làm cho ba cánh cửa Thân-Khẩu-Ý tác 
				tạo mà gây ra nghiệp. Khi thông hiểu Chánh Pháp, con người có 
				cái nhìn khác hơn về nhân sinh vũ trụ, về cái thật, cái giả thì 
				họ sẽ cẩn thận, cân nhắc từng ý nghĩ, từng lời nói và hành động 
				để mang sự an vui đến cho mọi người. Thân-Khẩu-Ý bây giờ trở nên 
				thanh tịnh nên từ lời nói đến mọi việc làm đều thích ứng với 
				lòng mong cầu sở nguyện của chúng sinh khiến họ hoan hỷ mà tìm 
				về với Chơn đạo. Khi Bồ-tát tu hành chứng đắc thì họ chuyển thức 
				thứ sáu là Ý Thức thành ra Diệu Quan Sát Trí để có đủ trí tuệ và 
				năng lực mà quan sát rõ ràng tất cả những tâm niệm của chúng 
				sinh rồi tùy theo đó mà hành động cho khéo léo, hợp căn cơ và 
				đúng với Chân lý. 
				 
				Trụ ở oai nghi Phật. Trong Phật giáo khi đã thâm nhập Chánh Pháp 
				và thọ trì giới luật nghiêm chỉnh thì bốn oai nghi là đi, đứng, 
				nằm, ngồi được thể hiện một cách rất khoan thai thư thái, chậm 
				rãi nhưng không kém uy nghi vì bốn đức tính Từ, Bi, Hỷ, Xả hiện 
				bày trên chân tướng làm cho chúng sinh kính phục. Vì tâm được 
				thanh tịnh nên hành vi của họ rất từ tốn, thanh nhã, không vội 
				vàng hấp tấp và đó chính là trong ngoài tương trợ cho nhau làm 
				cho mọi người kính mến. 
				 
				Tâm rộng như biển cả. Ngày nào còn chúng sinh lặn hụp trong biển 
				khổ thì còn Bồ-tát vào đời cứu độ. Họ quên thân mình mà làm việc 
				lợi ích vì chúng sinh cho đến khi nào chúng sinh được an vui tự 
				tại thì họ mới viên thành Phật đạo. Bồ-tát làm việc với tinh 
				thần vô cầu vô chứng đắc. Tâm không còn chấp ngã chấp pháp nên 
				họ rất an nhiên tự tại. Tâm bình đẳng nên Bô-tát không còn phân 
				biệt thân sơ, kẻ lành người xấu vì tất cả đều là chúng sinh và 
				Bồ-tát thương tất cả chúng sinh với tấm lòng bao la, vô cùng vô 
				tận, không bờ không bến. 
				 
				Chư Phật khen ngợi, hàng Trời cung kính. Trưởng giả Duy Ma Cật 
				đã làm mọi việc lành và đúng theo Chánh Pháp cũng vì lợi ích cho 
				chúng sinh. Tất cả những công đức được thành tựu mà không thể 
				nghĩ bàn nầy khiến cho chư Phật tán thán và các chư Thiên kính 
				phục. Vì thế ông Duy Ma Cật có một địa vị cao quý vô cùng chỉ 
				thua chư Phật và chắc chắn Trời, người không ai bì kịp. Trong 
				kinh điển Phật giáo thì trời Đế Thích xuất hiện nhiều nhất trong 
				các pháp hội cũng như để tán thán công đức tu hành của các bậc 
				thánh chẳng hạn như tôn giả Tu Bồ Đề trong kinh Kim Cang. Trời 
				Đế Thích, tiếng Phạn là Sakya Devanam Indra, là vị trời cai quản 
				cung trời Đạo lợi trên chót núi Tu Di thuộc Dục giới mà ngày xưa 
				Đức Phật lên đó ba tháng để thuyết pháp cho Hoàng hậu Ma-Da. 
				Ngoài ra cũng còn có trời Phạm Thiên, tiếng Phạn là Brahma, là 
				vua cõi trời Sơ thiền thuộc Sắc giới. 
				 
				Trưởng giả Duy Ma Cật dùng phương tiện thị hiện làm thân ông 
				trưởng giả ở thành Tỳ Xá Ly để cứu độ chúng sinh. Thị là chỉ bày 
				còn hiện là cho thấy. Do đó thị hiện là hiện ra cho thấy rõ ràng 
				làm gương sáng cho mọi người noi theo. Dựa theo tư tưởng đại 
				thừa thì Đức Phật Thích Ca đã thành Phật trong quá khứ nhưng vì 
				muốn cứu độ chúng sinh nên thị hiện tại Ấn Độ, sanh vào một gia 
				đình vương gia quý tộc, sống trong dục lạc của thế gian rồi xã 
				bỏ, lìa xa tất cả mà đi tìm Chân lý để đưa con người ra khỏi 
				biển khổ sông mê. Đây chính là phương tiện thiện xảo để khai thị 
				cho chúng sinh thấy con đường sáng mà noi theo và Đức Phật chính 
				là tấm gương sáng chói cho tất cả mọi người nhưng đặc biệt là 
				cho chúng xuất gia. Còn vai trò của trưởng giả Duy Ma Cật thì 
				cũng thế. Ông là một vị đại Bồ-tát chứng đắc ở thế giới Diệu Hỷ 
				nhưng vì muốn cứu độ chúng sinh nên thị hiện tại thành Tỳ Xá Ly 
				làm thân cư sĩ, lớn lên có vợ con, thân bằng quyến thuộc như tất 
				cả mọi người. Phương tiện ở đây là ông thực hành Lục độ vạn hạnh 
				viên mãn, tuy là cư sĩ nhưng có nếp sống thanh tịnh, có đại lực 
				thần thông, không dính mắc lục trần nên tâm rất tự tại. Ông là 
				tấm gương sáng chói cho hàng Phật tử tại gia còn nhiều dính mắc 
				thế tục. Tuy có hai phương tiện nhưng cùng đến một cứu cánh là 
				đưa con người đến chỗ giải thoát giác ngộ, viên thành Phật đạo. 
				Giải thoát giác ngộ vốn không hai tức là Bất nhị. 
				 
				Vì muốn cảm hóa những người nghèo, ông Duy Ma cật bố thí rất 
				nhiều của cải. Để cảm hóa người phạm giới, Ngài trì giới thanh 
				tịnh. Để cảm hóa người nóng nảy, Ngài biểu lộ hạnh kiên nhẫn ôn 
				hòa. Để độ người giải đải, Ngài thực hành tinh tấn. Để cảm hóa 
				người loạn tâm, Ngài thiền định nhất tâm. Để cảm hóa người vô 
				trí, Ngài hướng dẫn phát huy trí tuệ. 
				 
				Đây chính là Lục độ Ba-la-mật gồm có Bố thí, Trì giới, Nhẫn 
				nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ. Lục độ là những phương 
				pháp tu hành của các Bồ-tát hay cho tất cả chúng sinh đã phát 
				tâm vô thượng Bồ-đề, thọ Bồ-tát giới, tu theo Bồ-tát hạnh để phá 
				chấp ngã, chấp pháp quên mình mà làm việc lợi ích cho chúng 
				sinh. 
				 
				Sống trong bất cứ xã hội nào thì người nghèo vẫn chiếm đa phần 
				đặc biệt tại Ấn Độ thời Đức Phật còn tại thế và ngay cả thời bây 
				giờ thì đâu đâu cũng có nhiều người nghèo khổ, làm điều bất 
				thiện, thường hay giận dữ, tánh tình lười biếng và tâm ý bấn 
				loạn. Vì thế ông Duy Ma Cật dùng thuốc Lục độ để trị bịnh cho 
				người. Kẻ nghèo, người đói thì ông bố thí. Nhưng bố thí ở đây là 
				bố thí ba-la-mật chớ không nhất thiết chỉ là cho tiền, cho cơm, 
				cho gạo để sống qua ngày mà còn phải pháp thí và vô úy thí để 
				giúp cho họ thấy con đường sáng mà tự cứu lấy đời mình và thông 
				hiểu Chánh Pháp thì sẽ không còn sợ hãi. Vì Bồ-tát đã phá được 
				chấp ngã, chấp pháp nên khi bố thí thì họ thực hành câu: “Bố thí 
				vô tướng và độ sanh vô ngã”. Người tà tâm, làm điều bất thiện 
				thì dạy giới để họ tự sửa mình, cải thiện lại đời sống bất an. 
				Kẻ giận dữ thì dùng hạnh nhu hòa nhẫn nhục để biến cuộc đời sóng 
				gió trở nên an tịnh, thanh bình. Người lười biếng thì giúp họ 
				thấy được ý nghĩa của cuộc đời để họ cố gắng nổ lực hạnh trì mà 
				tăng thêm phước báo. Kẻ loạn tâm thì dùng thiền định tức là tư 
				duy quán chiếu để loại bỏ vọng thức mà quay về sống với tự tánh 
				thanh tịnh của mình. Còn người ngu dốt thì chỉ họ phương pháp tu 
				hành để phát sinh trí tuệ và đạt đến cứu cánh giác ngộ viên 
				thành. 
				 
				Mặc dù Lục độ là những thần dược để trị tâm bệnh của chúng sinh, 
				nhưng muốn thực hành Lục độ đến chỗ viên mãn thì Bồ-tát phải phá 
				tất cả các chấp có nghĩa là khi thấy việc cần làm thì ra tay mà 
				không thấy mình làm và cũng không thấy có chúng sinh được độ bởi 
				vì Bồ-tát một khi làm xong là quên, là xả hết cho nên tâm không 
				dính mắc, không dao động và lúc nào cũng an nhiên tự tại. Làm 
				việc với tâm vô ngã, vô cầu, vô chứng, vô đắc thì mới thật là 
				tâm Bồ-tát. 
				 
				Bạch y là áo trắng, tượng trưng cho sự tinh khiết trong sạch và 
				để chỉ cho Phật tử tại gia trong khi người xuất gia thì mặc màu 
				vàng. 
				 
				Phụng trì luật là chấp hành những giới luật của Phật rất nghiêm 
				chỉnh để tâm được an định. Thí dụ Phật tử tại gia thì có năm 
				giới, tám giới hay 58 Bồ-tát giới. Hàng xuất gia thì Sa di có 
				mười giới, Tỳ kheo có 250 giới và Tỳ kheo ni có 348 giới. Khi đã 
				thọ giới thì suốt đời không được phạm một giới nào thì 
				Thân-Khẩu-Ý mới thanh tịnh. Người phạm giới không phải là họ 
				phạm tội với Trời hay Phật gì cả mà chính họ đã gây ra nghiệp 
				bất thiện để cột chặc họ vào vòng sinh tử luân hồi vậy thôi. 
				Muốn liễu sanh thoát tử thì phải tránh xa sợi dây oan nghiệp 
				nầy. 
				 
				Dù Ngài là bạch y mà phụng trì luật của Sa môn. Dù ở tại gia mà 
				không lưu luyến tam giới. Thị hiện có vợ con mà thường tu phạm 
				hạnh. Hiện có quyến thuộc mà thường thích viễn ly. Dù mặc đồ quý 
				báu mà dùng tướng tốt để nghiêm thân. Dù có ăn uống như thế gian 
				mà dùng thiền duyệt làm mùi vị. 
				 
				Sa Môn tiếng Phạn là Samana có nghĩa là người chuyên làm việc 
				thiện, tránh xa việc ác và cũng là vị khất sĩ. Khất sĩ là người 
				đi xin ăn, giữ phận nghèo, không giữ tiền. Xin ăn là để khỏi nấu 
				nướng chớ không phải là lười biếng mà dùng nhiều thời giờ vào 
				việc tu học để tư duy quán chiếu mà tự độ và hóa độ chúng sinh. 
				Hiện nay tại các nước còn theo Tiểu thừa như Thái lan, Miến 
				Điện, Tích Lan, Ấn Độ thì hình ảnh các Tăng sĩ đi khất thực trên 
				các đường xá, làng mạc đã trở thành một nét đặc thù quen thuộc. 
				Vì các tăng sĩ đều đi khất thực nên chùa chiền xứ Thái không hề 
				có nhà bếp. Sau khi đi khất thực, các Tăng sĩ mang thức ăn về 
				chùa và ăn ngay tại chánh điện trong khi tại các nước theo Bắc 
				tông thì chánh điện là nơi tôn kính trang nghiêm, được giữ gìn 
				sạch sẽ, ít ai dám nói lớn hay có những cử chỉ thiếu trang 
				nghiêm tại đây. Riêng tại Thái Lan, chánh điện vừa là nơi hành 
				lễ, vừa là chốn hội hợp, mọi người thản nhiên ăn uống, cười nói 
				một cách thoải mái. 
				 
				Ông Duy Ma Cật tuy thị hiện làm thân cư sĩ nhưng lại thọ giới 
				của hàng xuất gia có nghĩa là tuy ở hàng cư sĩ  mà tâm vẫn 
				giải thoát. 
				 
				Tam giới là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Dục giới là cõi 
				chúng sinh còn tình dục, thực dục, nhơ uế, ô trược như cõi Ta bà 
				nầy. Trong dục giới có tất cả sáu loài chúng sinh là Trời, Thần, 
				người, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục. Sắc giới là cõi chúng sinh 
				đã thanh tịnh hơn không còn tình dục và thực dục, nhưng còn hình 
				sắc. Vô sắc giới là cõi chúng sinh không còn hình sắc mà chỉ còn 
				tư tưởng tức là tâm thức. Chúng sinh trong ba cõi cho dù có đến 
				cõi cao nhất là Trời cũng vẫn chưa ra khỏi vòng sinh tử luân hồi 
				nên còn phải chịu sự tái sinh nhiều đời nhiều kiếp. Trưởng giả 
				Duy Ma Cật là cư sĩ tại gia tức là sống trong vòng thế tục đầy 
				dẫy nhiễm ô. Tiền tài, sắc đẹp, công danh, phú quý, nhà cao, cửa 
				rộng… lúc nào cũng có những ma lực thu hút con người sa đọa vào 
				vòng tội lổi, đau thương nhưng ông không hề bị dính mắc, lưu 
				luyến. Ngay cả những cõi vô sắc hay vô sắc giới cũng không mê 
				hoặc tâm ông được. Vì thế sống trong trần thế, có vợ con, có 
				thân bằng quyến thuộc nhưng ông không hề bị ô nhiễm, thường tu 
				phạm hạnh, tâm thanh tịnh tức là tâm giác ngộ vậy. 
				 
				Tướng tốt là ám chỉ Phật có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Những 
				tướng tốt, vẻ đẹp của Phật không phải là dùng vàng ngọc châu báu 
				để trang nghiêm nhưng chính là do tất cả công đức tu hành mà 
				được. Chẳng hạn như Phật có lưỡi rộng dài là vì ba đời Ngài 
				không nói dối. Vì thế tuy trưởng giả Duy Ma Cật có nhiều đồ 
				trang sức, áo quần đẹp đẽ cao sang nhưng ông không thấy đó là 
				quan trọng mà chỉ dùng 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp mà trang nghiêm 
				thân mình. 
				 
				Thiền duyệt là vui trong lúc tọa thiền. Khi ngồi thiền thì tâm 
				định và thân được nhẹ nhàng thảnh thơi. Cho nên dù ông Duy Ma 
				Cật có ăn uống cao lương mỹ vị của thế gian mà không có thiền 
				duyệt thì cũng như nấu đồ ăn mà quên nêm mắm muối, gia vị. Do đó 
				ngồi thiền là an nhàn, là thảnh thơi cho nên ông Duy Ma Cật tuy 
				có ăn mâm cao cổ đầy, nhưng những thứ đó đối với ông không quan 
				trọng mà ông chỉ lấy thiền duyệt làm mùi vị cho thức ăn. 
				 
				Theo Phật giáo, mục đích của thiền định không phải đi vào một 
				trạng thái vô thức,  an tĩnh hay bất động mà thật ra thiền định 
				là là một sự chuyển hóa để ý thức cho thật rõ ràng mọi hiện 
				tượng trong thế gian vũ trụ nầy. Do đó thiền định là cốt quay 
				vào bên trong để nghe rõ tiếng nói của Tâm. Mà con người chỉ có 
				thể nghe được những âm thanh huyền diệu nầy khi thân và tâm được 
				thanh tịnh và lúc đó sẽ không còn những vọng niệm của 
				tham-sân-si nữa. Khi chúng sinh nghe được những âm thanh chân 
				thật nầy thì tâm đã có định và từ đó trí tuệ bát nhã ba la mật 
				sẽ phát sinh. Một khi đã có trí tuệ sáng suốt rồi thì chúng sinh 
				sẽ không còn thấy mình và tất cả vạn vật có sự khác biệt nữa. 
				Thời điểm nầy mình và chúng sinh đều là một và đã là một thì ắt 
				phải nghe tiếng cầu cứu đang lặn hụp trong biển khổ của chúng 
				sinh. Và từ đây phải quay về thế gian để cứu đời, độ đời và làm 
				việc quên mình để hy sinh và thực hành Bồ-tát đạo đúng với tinh 
				thần lợi tha, vô ngã. Nên nhớ nguyên nhân của sự đau khổ bắt 
				nguồn từ bản ngã vốn có khuynh hướng phân biệt và từ đó nẩy sinh 
				các tham vọng, ái dục. 
				 
				Nếu khi đến chỗ cờ bạc, xướng hát thì ông lợi dụng cơ hội để độ 
				người. Dù thọ các Pháp ngoại đạo nhưng chẳng tổn hại lòng chánh 
				tín. Đọc hiểu suốt sách vở thế gian mà thường vui với giáo pháp 
				Phật. Nhằm cảm hóa mọi người mà giữ gìn chánh pháp. Kinh doanh 
				được tiền của nhưng chẳng lấy đó làm vui. Dạo chơi khắp phố 
				phường để làm điều lợi ích chúng sinh. Có lúc tham gia trị chánh 
				nhằm để cứu độ quốc dân. Có khi tham dự các diễn đàn hội thảo mà 
				cốt lèo lái hướng dẫn mọi người đi vào đường chánh đạo đại thừa. 
				Vào học đường nhằm để dẫn dắt tuổi thơ. Có lúc đến thanh lâu 
				nhằm chỉ rõ cho mọi người tai họa của ái dục. Vào quán rượu như 
				mọi người nhằm để nêu gương tự chủ. 
				 
				Khác với tăng sĩ tu theo Tiểu thừa thì họ chẳng những không dám 
				đến những nơi cờ bạc, rượu chè mà họ còn không dám đến những chỗ 
				đông người, ồn ào náo nhiệt vì sợ tâm bị dao động, ngược lại 
				trưởng giả Duy Ma Cật an nhiên tự tại đi vào những nơi ô uế như 
				sòng bạc, nhà hát, thanh lâu, quán rượu… mà không hề sợ bị ô 
				nhiễm vì tâm ông đã Định và trí tuệ luôn sáng suốt. Đây là ứng 
				dụng câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong kinh Kim Cang 
				vậy. Khi tâm thanh tịnh tức là tâm không còn dính mắc đó là lục 
				căn tuy có tiếp xúc với lục trần mà cho dù lục trần có hấp dẫn, 
				thu hút cách mấy cũng không thể nào lay động hay cám dỗ được 
				thanh tâm của chúng ta. Tại sao? Bởi vì Bồ-tát thấy là để thấy 
				vậy thôi nhưng trong cái thấy đó không có nhãn thức giới tức là 
				không có cái biết của sự thấy nên không có sự phân biệt tốt xấu, 
				thiện ác… Không phân biệt là tâm bình đẳng, tâm thanh tịnh, tâm 
				Bồ-tát vậy. Ông Duy Ma Cật đi vào những nơi trà đình tửu điếm để 
				cứu độ chúng sinh chớ không phải vì ham mê sắc dục. Vào quán 
				rượu thì mới thân cận để giáo hóa cho họ biết rượu là tai hại mà 
				lập chí bỏ rượu. Vào sòng bạc để chỉ cho họ thấy sự si mê, cám 
				dỗ làm cho nhà tan cửa nát, gia đình mất hạnh phúc cũng bởi từ 
				gốc Si nhỏ sang thành Tham lớn làm cho gia đình tan vở. Có nhận 
				thức được sự tai hại thì con người mới dám từ bỏ. Bồ-tát phải 
				hòa đồng thân mật sát cánh với mọi người thì họ mới thông cảm, 
				quý mến và nghe theo. Đây chính là Bô-tát dùng phương tiện thân 
				cận để độ chúng sinh. 
				 
				Mặc dù có trí tuệ sáng suốt nhưng ông Duy Ma Cật không có tinh 
				thần bảo thủ cho rằng chỉ có chánh Pháp của ta là cao quý, là vô 
				địch mà ông còn học hỏi những sách vở thế tục và kinh điển của 
				ngoại đạo để mở mang kiến thức vì trong thế gian nầy tuy tôn 
				giáo có nhiều hình thức khác nhau nhưng chung quy vẫn đều suy 
				tìm Chân Lý. Đó là tìm về với cội nguồn bản thể, với bản lai 
				diện mục, với Chân tánh để phát huy trí tuệ và hòa nhập với Chân 
				Như. Vì thế đọc là để thấy, để biết nhưng ông không hề hủy hoại 
				chánh tín, luôn cung kính, giữ gìn chánh Pháp và cúng dường Tam 
				Bảo. 
				 
				Vì thị hiện làm thân trưởng giả, có gia đình vợ con nên phải làm 
				ăn buôn bán, nhưng ông làm thương mãi không phải vì mục đích 
				kiếm tiền cho riêng mình mà dùng tiền của như là phương tiện để 
				bố thí cho người nghèo khổ, gieo duyên lành cho họ tu học Phật 
				Pháp. Pháp Đại Thừa là con đường tu hành của Bồ-tát với tôn chỉ 
				làm lợi ích cho chúng sinh. Tâm Bồ-tát thì bình đẳng vì dưới mắt 
				của họ ai ai cũng là chúng sinh, không phân biệt già trẻ, sang 
				nghèo, đẹp xấu… và ai ai cũng đều có Phật tính cả. Ngay cả trẻ 
				thơ ông cũng gieo duyên mặc dù chúng chưa có đủ trí tuệ để hiểu 
				biết Phật Pháp cao thâm huyền diệu nhưng ông vẫn gieo những 
				chủng tử lành vào trong tâm thức của chúng. Đây chính là những 
				hạt giống tốt để mai sau khi đủ duyên thì chúng sẽ nẩy mầm, đơm 
				hoa và kết quả. 
				 
				Vì thế Kinh Hoa Nghiêm có nói: 
				 
				Chẳng phải tự mình cầu khoái lạc 
				 
				Quyết vì cứu độ cả quần sanh 
				 
				Nếu ông ở trong hàng trưởng giả thì trưởng giả tôn kính vì 
				ông nói Pháp thù thắng. Nếu ở trong hàng cư sĩ thì họ cung kính 
				vì ông mà họ đoạn trừ tâm tham trước. Nếu ông ở trong dòng Sát 
				Đế Lợi thì họ cung kính vì ông dạy họ pháp nhẫn nhục.  
				Sát Đế Lợi là dòng võ tướng, lên ngựa cầm 
				binh ra trận cho nên đối với những dũng tướng can cường nóng 
				tính thì ông dạy hạnh nhẫn nhục. Nếu ở trong dòng Bà La Môn thì 
				được họ tôn trọng vì ông dạy họ trừ hết tâm ngã mạn. Trong xã 
				hội Ấn Độ thời bấy giờ có bốn giai cấp là Bà La Môn, Sát Đế Lợi, 
				Tỳ xá và Thủ Đà La mà Bà La Môn là giai cấp cao nhất, họ tu hạnh 
				trong sạch và thờ trời Đại Phạm Thiên nên họ sinh tâm ngã mạn 
				khinh khi những giai cấp thấp hơn.  
				Nếu ở trong Đại thần thì Đại thần tôn 
				kính và thọ Chánh Pháp. Nếu ở trong hàng vương tử thì họ tôn 
				kính vì ông dạy họ đạo nghĩa hiếu trung. Nếu ở trong nội cung 
				thì nội cung cung kính vì ông dạy họ làm người cung nữ chân 
				chính. Nếu ở chỗ thứ dân thì thứ dân tôn trọng vì ông dạy họ làm 
				những điều phước lành. Nếu ở chỗ Phạm Thiên thì được các bậc 
				trời cung kính vì ông dạy họ trí tuệ thù thắng. Nếu ở hàng Đế 
				Thích thì được trong hàng Đế Thích tôn trọng vì ông thị hiện 
				cảnh vô thường.  
				Tại sao lại chỉ thị hiện cảnh vô thường cho 
				hàng trời Đế Thích mà không dạy cái gì khác? Bởi vì Đế Thích 
				đang ở cõi trời, thừa hưởng ngũ dục lạc nên dễ bị mê. Người giàu 
				sang sung sướng thì họ không chịu tu ví cũng như người cột đá 
				vào thân nhảy xuống nước thì làm sao bơi nổi? Nay ông Duy Ma Cật 
				thị hiện cảnh vô thường như là sinh lão bệnh tử, có sanh tất có 
				diệt cho dù thọ mạng trên trời có dài hơn dưới trần gian nhưng 
				vẫn có ngày tận. Phước báo hết thì sẽ bị đọa nếu không tu tâm 
				dưỡng tánh và dùng phước đức hiện tại để tạo thêm phước đức cho 
				ngày mai. 
				 
				Phần trên là để giới thiệu và diễn tả tất cả những sự việc đã 
				làm nổi bật tư cách cao quý của ông Duy Ma Cật. Ông có đủ những 
				đức tính từ bi, trí tuệ, biện tài vô ngại, phương tiện thiện xảo 
				của chư Phật. Vì thấy chúng sinh sống trong cảnh khổ mà không 
				biết khổ lại cứ say mê chạy theo lục dục thất tình mà gây ra 
				nghiệp để phải chịu sinh tử luân hồi nên mặc dù là một đại 
				Bồ-tát, ông vẫn thị hiện làm thân cư sĩ dùng vô số phương tiện 
				cứu độ chúng sinh. Thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị 
				quốc, bình thiên hạ là những giá trị đạo đức của người lảnh đạo 
				để đưa đất nước đến chỗ phú cường thì ở đây trưởng giả Duy Ma 
				Cật dù ở trong giai cấp nào ông vẫn là tấm gương cho giai cấp đó 
				vì tất cả việc làm dù ở hoàn cảnh hay ở trường hợp nào ông cũng 
				nhắm thẳng cái lợi ích cho người mà ông ở trong cảnh đó chớ 
				không phải vì thụ hưởng, vì an vui riêng cho mình. Như vậy ở 
				trong cảnh giàu, ở trong cảnh quan quyền hay ở trong cảnh dòng 
				họ cao quý đều là vì muốn thức tỉnh, muốn cảnh giác họ chớ không 
				vì thụ hưởng cho bản thân mình. Có thế thì chúng sinh mới nghe, 
				mới tin, mới phục và lý tưởng cũng như mục đích cứu độ của 
				Bồ-tát mới được thực hiện viên mãn và tồn tại mãi mãi trong lòng 
				chúng sinh. 
				 
				Con người thường hay có quan niệm sai lầm về Bồ-tát. Họ nghĩ 
				rằng Bồ-tát thì phải có hào quang sáng chói, đi mây về gió, hiện 
				thần thông biến hóa, ngàn tay ngàn mắt… nhưng thật ra Bồ-tát 
				thường sống lẫn lộn với người đời mà không ai hay biết. Sau năm 
				1975 khi làn sóng người Việt vượt biển ra đi tìm tự do trên 
				những chiếc tàu đánh cá rất nhỏ, lênh đênh không định hướng, 
				thiếu lương thực. Nếu may mắn họ được những tàu lớn cứu vớt thì 
				ông hạm trưởng cùng thủy thủ đoàn không là những vị Bô-tát thì 
				là gì? Có một thuyền trưởng người Đại Hàn sau khi thấy một chiếc 
				tàu đánh cá rất nhỏ chở trên trăm người sắp bị chết đuối làm cho 
				ông ta động tâm muốn cứu, nhưng thượng cấp không cho. Sau khi đi 
				một đoạn đường ông quyết định quay tàu trở lại cứu hết những 
				người tị nạn và đưa họ vào bờ an toàn mặc dầu ông biết sau đó sẽ 
				bị cách chức. Khi thấy một căn nhà cháy mà có người mạnh dạn 
				chạy vào cứu đem những người già hay trẻ em chạy ra, một người 
				nhảy xuống sông cứu một người đang chết đuối, làm việc từ thiện 
				giúp đỡ viện mồ côi che chở kẻ khốn cùng hoạn nạn mà lòng không 
				mong cầu, dùng lời nói hòa diệu để an ủi kẻ khốn khổ đau thương, 
				ngay cả dắt một người già đi qua đường… đều là hành vi của 
				Bồ-tát bởi vì họ làm việc quên mình mà chỉ cần lợi ích cho chúng 
				sinh đôi khi có thể hy sinh cả mạng sống của mình. Vì thế chư 
				Bồ-tát hiện thân hay con người hành Bồ-tát đạo đều như nhau cả. 
				 
				Trưởng giả Duy Ma Cật vận dụng vô số phương tiện để đem lại lợi 
				lạc cho chúng sinh và hôm nay ông lại hiện thân có bệnh. 
				 
				Nghe ông bị bệnh, Quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, 
				Bà-la-môn, các vương tử và các thân thuộc cả mấy ngàn người lần 
				lượt đến tịnh thất của trưởng giả mà vấn an. Nhân cơ hội có 
				nhiều người đến thăm bệnh, ông Duy Ma Cật thừa cơ thuyết Chánh 
				Pháp. 
				 
				Thưa các nhân giả: Cái huyễn thân nầy thật là vô thường, 
				không mạnh, không dai, không bền, không chắc. Nó là cái thứ mau 
				mục nát, dễ rệu rã chẳng đáng tin cậy. Nó là cái khối chứa nhóm 
				các khổ đau, buồn phiền và nhiều bệnh tật. 
				 
				Đây là lần đầu tiên trưởng giả Duy Ma Cật lên tiếng trong bộ 
				kinh nầy vì những phần trước là lời của Phật và chư Bồ-tát nói 
				ra để giới thiệu và tán thán ông Duy Ma Cật. Vì hiện thân có 
				bệnh nên trước hết ông nói về thân. Phàm là con người thì ai 
				cũng quý cái xác thân của mình. Hễ thân kêu đói thì cho ăn, thân 
				lạnh thì mặc áo ấm mở máy sưởi, thân kêu nóng thì lo gắn máy 
				lạnh, muốn thân mạnh khỏe thì phải lo tẩm bổ bồi dưỡng và khi 
				thân đau yếu thì lo chạy thuốc thang. Muốn thân đẹp thì trang 
				điểm và muốn thân hạnh phúc thì mua nhà cao, xe mới, nấu thức ăn 
				ngon cho thân dùng. Tranh công đoạt chức để cho thân hãnh diện… 
				Vì vậy con người có làm bao nhiêu điều tội lỗi, gây ra lắm 
				nghiệp căn để phải chịu quả khổ đời đời cũng vì cưng chiều xác 
				thân quá đáng. Nhưng thân có thật chăng? Chúng ta là phàm nhân 
				thì tin chắc thân nầy là thật, là bền, là chắc, là của riêng ta, 
				nhưng ông Duy Ma Cật nói thân nầy là huyễn tức là giả, là không 
				thật, không bền, không chắc vì thân là vô thường, biến đổi. Tại 
				sao? Ngày nay chúng ta ngồi đây xem kinh nầy, nhưng có ai bảo 
				đảm ngày mai chúng ta cũng được như vậy đâu? Một luồng gió độc, 
				một mạch máu não bể hay một viên đạn xuyên qua là mất mạng. Ngày 
				xưa chúng ta mạnh khỏe tráng kiện bao nhiêu mà ngày nay tay mỏi, 
				lưng còng, da nhăn, má hóp thì luật vô thường đâu có thương xót 
				một ai. Có ai trẻ mãi mà không già hoặc có người nào sống đời mà 
				không chết? Khoa học ngày nay đã chứng minh cứ mỗi bảy năm thì 
				các tế bào trong thân thể con người hoàn toàn thay đổi và chính 
				sự thay đổi nầy làm con người chóng lớn, chóng già và chóng 
				chết. Tất cả cũng chỉ nằm trong luật vô thường là sinh, trụ, dị, 
				diệt mà thôi. 
				 
				Thưa các nhân giả: 
				 
				-  Người trí không tin cậy ở thân vì nó là khổ não thì làm 
				sao tin cậy vào nó được. 
				 
				- Thân như bọt nước không thể nắm bắt cũng ví như khi ra biển 
				chúng ta thấy sóng nước tạo ra vô số bọt biển nhưng có ai bắt 
				được nó đâu? Đây là để diễn tả về không gian vô thường, có tan 
				có hợp. 
				 
				- Thân nầy như bong bóng không được bền lâu bởi vì dầu trời mưa 
				có tạo thành hàng loạt bong bóng. Nhưng khi bong bóng vừa nổi 
				lên liền tan vở, biến mất. Đó là hiện thân của thời gian vô 
				thường. Cũng như chúng ta mới ngày nào còn là thanh niên nữ tú, 
				da dẻ hồng hào, tráng kiện, minh mẫn mà ngày nay lưng mỏi, gối 
				run, da khô, mắt kém, nhớ trước, quên sau… 
				 
				-  Thân nầy như cây chuối do bẹ hợp lại thành cây trong đó 
				không có cái nào rắng chắc vì cây chuối là do từng bẹ tạo thành. 
				Nếu tách từng bẹ ra thì không có thân cây chắc ở bên trong. 
				 
				-  Thân nầy như huyễn từ điên đảo khởi sanh. Cũng ví như 
				nhà ảo thật Chist Angel làm cho con người bay bổng lên không mà 
				ai ai cũng tin là thật. 
				 
				-  Thân nầy như mộng do cái thấy hư dối mà thành. Khi nằm 
				chiêm bao, chúng ta thấy đang ở trong một căn nhà đang cháy nên 
				hốt hoảng tìm lối chạy ra. Vừa chạy vừa la, lo sợ đến toát mồ 
				hôi nhưng khi tỉnh giấc biết mình nằm mộng thì cháy nhà cũng 
				tan, lo sợ cũng hết. Dựa theo Phật giáo, con người đang sống 
				trong một giấc mộng dài vì tất cả chúng sinh đang nằm chiêm bao 
				trong suốt chiều dài của cuộc đời họ. Sự sung sướng, khổ đau, 
				tiền tài, danh vọng chỉ là giả tạm, sinh diệt mà con người cố 
				bám vào đó vì họ cho đó là thật, là của họ. Nếu thức tỉnh, con 
				người sẽ thấy rằng tiền tài, danh vọng, của cải vật chất, gia 
				đình quyến thuộc đều là giả, sinh diệt vì tất cả đều do tâm vọng 
				thức tạo ra. Vì thế mà kinh Lăng Nghiêm mới dạy rằng chỉ khi nào 
				chúng sinh giác ngộ được Chơn tâm thì vọng thức sẽ tan biến. Ngộ 
				được chơn tâm như người thức giấc mộng, không ngộ được chơn tâm 
				như người còn ngủ chiêm bao. 
				 
				-  Thân nầy như cái bóng từ nơi nghiệp duyên mà hiện.  
				Đây là nói về luật nhân quả nghiệp báo. Con 
				người có được là do nghiệp báo tạo tác từ vô lượng kiếp mà 
				thành. Quả theo nhân cũng như bóng theo hình vì thế có hình thì 
				có bóng cho nên nếu không muốn chịu quả báo thì tránh gây ra 
				nhân. 
				 
				Trong Kinh A Hàm có câu chuyện kể rằng: 
				 
				Một hôm có vị Bà La Môn hỏi Phật: 
				 
				-  Thưa Ngài Cù Đàm! đệ tử của Ngài chết, Ngài có thể cầu 
				nguyện cho họ lên thiên đường được không? 
				 
				Phật không đáp mà hỏi lại: 
				 
				-  Nếu đệ tử của các ông chết, các ông có thể cầu nguyện 
				cho họ lên thiên đường được không? 
				 
				Người Bà La Môn đáp: 
				 
				-  Được. 
				 
				Phật liền đưa ra một thí dụ: 
				 
				-  Giả sử có người đem một tảng đá lớn để trên miệng giếng, 
				rồi thỉnh hai ba chục vị Bà La Môn đứng xung quanh cầu nguyện 
				cho vị ấy xô tảng đá xuống giếng để tảng đá nổi không chìm. Quý 
				vị Bà La Môn có cầu nguyện được không? 
				 
				-  Cầu không được. 
				 
				Phật hỏi: 
				 
				-  Tại sao? 
				 
				Người Bà La Môn đáp: 
				 
				-  Vì đá nặng, rớt xuống nước là chìm dầu cho hàng triệu 
				người cầu nguyện nó cũng không nổi được. 
				 
				Phật lại hỏi tiếp: 
				-  Giả sử có người đem dầu đổ xuống giếng, rồi mời các vị 
				Bà La Môn cầu nguyện cho dầu đừng nổi mà chìm dưới đáy giếng. 
				Các vị có cầu được không? 
				 
				Người Bà La Môn đáp: 
				 
				-  Không được. 
				 
				-  Tại sao? 
				 
				-  Vì dầu nhẹ nên nổi ở trên mặt nước, không thể chìm dưới 
				đáy giếng được. 
				 
				Bây giờ Phật mới nói: 
				 
				-  Cũng vậy, nếu người tạo thập ác là cái nhân đọa vào 
				đường ác thì làm sao cầu nguyện cho họ lên thiên đường. Ngược 
				lại người tu thập thiện dù có người ác ý muốn cầu cho họ xuống 
				địa ngục thì họ vẫn lên thiên đường như thường. 
				 
				Ngày nay đa số Phật tử không chịu tu mà cứ chạy theo tài sắc 
				danh lợi để gây ra nghiệp. Đến khi gần chết, sợ quá nên thỉnh 
				chư Tăng cầu nguyện để được lên thiên đường hoặc về Tây phương 
				cực lạc. Dựa theo thí dụ trên thì cầu nguyện có thành tựu không? 
				Chắc chắn là không được. Chân lý của đạo Phật là tự độ, tự giác 
				nên chỉ có ta mới có thể giải thoát cho ta mà thôi. Đừng ỷ lại 
				vào người khác hoặc hy vọng vào sự cầu nguyện thì có ngày sẽ hối 
				hận vì tự tác hoàn tự thọ nghĩa là ta làm thì ta phải chịu. Toàn 
				bộ giáo lý của Đức Phật là độ sanh tức là tu sửa cái nhân để 
				giúp con người đạt được tâm thanh tịnh mà được giải thoát giác 
				ngộ. Rất tiếc ngày nay Phật giáo chỉ quan tâm đến độ tử tức là 
				cái quả. Chuyển nghiệp tức là tu nhân còn quả là nghiệp báo thì 
				làm sao sửa được. Đây là tà kiến tiền mất tật còn vậy. Nên nhớ 
				không có tha nhân nào có thể cầu nguyện cho người khác về Tây 
				phương cực lạc được. 
				 
				Người Việt Nam có cái tật là cất nhà phải lựa chỗ hàm rồng để 
				sau nầy con cháu làm ăn phát đạt. Hay khi chôn ông bà cũng lựa 
				chỗ hàm rồng để sau nầy con cháu phát quan. Thế thì chúng ta 
				chọn chỗ tốt để chuyển con người thành tốt. Vậy chuyển có được 
				không? Giả sử nếu chuyển được thì gia đình con cháu các ông địa 
				lý đã thành giàu sang phát quan hết rồi vì đương nhiên các ông 
				phải lựa chỗ tốt cho gia đình của họ trước rồi còn lại mới lựa 
				cho mình sau. Nhưng tại sao chính bản thân của các ông và con 
				cháu của các ông không làm quan làm vua mà các ông vẫn cứ làm 
				thầy địa lý? Giàu có, quan quyền là do phước đức nhà mình chớ 
				không phải do ông thầy địa lý. Nếu lựa chỗ chôn cha mẹ để được 
				phát quan trong khi mình là kẻ bất tài thiếu phước thì làm sao 
				phát quan được. Ngược lại nếu chúng ta thật có tài có đức thì 
				công danh phú quý sẽ đến mau hay chậm mà thôi. 
				 
				Thêm nửa, đạo Phật không thừa nhận linh hồn mà cho rằng con 
				người có thức chuyển biến và thức ấy chính là cái biết phân 
				biệt. Cái biết phân biệt nầy là một dòng chuyển biến không dừng. 
				Khi ta còn bé thì sự hiểu biết phân biệt theo trẻ con. Đến khi 
				lớn lên thì sự hiểu biết phân biệt cũng theo thời gian mà phát 
				triển. Thí dụ nếu có duyên học cao hiểu rộng thì trí phân biệt 
				càng sâu xa. Do đó tâm thức con người luôn luôn biến đổi không 
				ngừng. Còn linh hồn thì cố định. Vì linh hồn cố định nên có học 
				cũng không giỏi, không học cũng chẳng ngu và dĩ nhiên tu hành 
				cũng không tiến bộ. 
				 
				-  Thân nầy như mộng do nhân duyên mà có. Đây là nói về lý 
				nhân duyên có nghĩa là con người và vũ trụ là một duyên khởi rất 
				lớn tức là các pháp làm nhân, làm duyên cho nhau để nương tựa, 
				tương phản dung thông mà thành lập ra con người và vũ trụ. Vì 
				pháp nầy dung thông với pháp kia để làm duyên khởi nên thân là 
				sinh diệt, tạm bợ, không bền, không chắc. Biết nhân sinh vũ trụ 
				luôn luôn biến đổi nên chúng ta sống tùy duyên và theo duyên. 
				Tạo duyên tốt thì thăng tiến còn tạo duyên xấu thì phải trầm 
				luân. Đủ duyên thì thân nầy có, hết duyên thì thân nầy tan. Như 
				vậy là quả theo nhân theo duyên mà có chớ không phải tự nhiên mà 
				thành. 
				 
				-  Thân nầy như mây nổi trong chốc lát liền biến diệt. Vì 
				thân là vô thường nên cơ thể con người biến đổi từng giây từng 
				phút. Mỗi ngày chúng ta già đi một chút và trong ta các tế bào 
				chết lần chết mòn chứ đâu phải xuôi tay nhắm mắt mới gọi là 
				chết. 
				 
				-  Thân nầy như làn điện chớp mỗi niệm nó không dừng. Khi 
				nói thân và tâm nhưng thật ra chúng chính là một. Vì thân là 
				hình tướng còn tâm là năng lực để hình tướng có thể hoạt động. 
				Do đó nếu tâm rời thân thì năng lực chẳng tồn tại còn thân không 
				nhờ tâm thì hình tướng không phát hiện được. Nhưng tâm thì thay 
				đổi không ngừng, mỗi phút có hàng ngàn ý niệm sinh khởi cho nên 
				thân cũng vì thế mà đổi thay theo. Càng biến đổi thì thân càng 
				dễ hoại cũng như chiếc xe nếu con người chạy nhiều thì nó sẽ mau 
				hư. Trong kinh Kim Cang cũng có bài kệ: 
				 
				Nhất thiết hữu vi pháp 
				 
				Như mộng, huyễn, bào, ảnh 
				 
				Như lộ diệc như điện 
				 
				Ưng tác như thị quán. 
				 
				Dịch là: 
				 
				Tất cả pháp hữu vi 
				 
				Như giấc mộng, như huyễn, như bọt nước, như hình bóng, 
				 
				Như giọt sương, như ánh điện chớp, 
				 
				Nên quán tưởng như thế. 
				 
				-  Thân nầy không chủ như là đất. 
				 
				-  Thân nầy không có ngã ví như lửa. 
				 
				-  Thân nầy không có thọ mạng ví như gió. 
				 
				-  Thân nầy không có người ví như nước. 
				 
				-  Thân nầy không thật vì là sự tổ hợp của tứ đại. Vì thân 
				là sự kết hợp của tứ đại : đất, nước, gió, lửa. Mà chính đất, 
				nước, gió, lửa là sự tổng hợp của biết bao nhân duyên khác nên 
				chúng là vô ngã tức Không. Hễ là vô ngã thì thân sẽ bị ảnh hưởng 
				của luật vô thường là thành, trụ, hoại, không tức là có sinh tất 
				có diệt. 
				 
				-  Thân nầy vốn không vì không có ngã và ngã sở. 
				 
				-  Thân nầy là vô tri như là cỏ cây, gạch ngói. 
				 
				-  Thân nầy vô tác giả vì do sức nghiệp chuyển sanh. Theo 
				Phật giáo thì con người cũng như vạn vật trong vũ trụ nầy là do 
				tự kỷ nhân quả mà thành chứ không phải là do một đấng thiêng 
				liêng nào tạo ra hay là do một phép mầu nhiệm nào kết cấu cả. 
				Cho nên trong Tạo-hóa-nhơn-tâm có bài kệ: 
				 
				Nghiệp-Duyên bởi tại lòng 
				 
				Ảnh-hưởng nào sai-chạy 
				 
				Tạo-hóa vốn không làm 
				 
				Quần-sanh tự tạo lấy. 
				Theo thuyết nghiệp cảm duyên khởi thì trong đời quá khứ con 
				người gây ra lắm nghiệp căn thì đời nầy phải thọ nhận những quả 
				báo nầy. Thân xác, tính tình, khổ vui, giàu sang hay nghèo 
				khó…đều là do quả báo tạo thành chớ không do ai tạo ra cả. Mỗi 
				một nghiệp mà con người vừa tác tạo chính là một vết mực để vẽ 
				cho bức tranh của đời họ ở đời sau. Đến khi thân mất thì chính 
				chúng ta đã vẽ xong bức tranh cuộc đời cho mình trong kiếp sau. 
				Vì thế nếu muốn có thân đẹp và cuộc sống được an vui thịnh vượng 
				thì bây giờ nên tạo nghiệp lành. Ngược lại thì thân xấu, cuộc 
				sống nhiều trắc trở, sóng gió và thiếu hạnh phúc. 
				 
				-  Thân nầy bất tịnh đầy dẫy uế trược xấu xa. 
				 
				-  Thân nầy tạm bợ, rỗng không dù có ăn mặt tắm rửa nhưng 
				cuối cùng cũng tiêu ma hoại diệt. 
				 
				-  Thân nầy là tai họa chứa nhóm một trăm lẻ một bệnh khổ 
				sầu đau. 
				 
				-  Thân nầy như giếng trên đất gò cao bị cái bệnh già nó 
				bức bách. 
				 
				-  Thân nầy không cố định vì không biết sẽ chết lúc nào. 
				 
				-  Thân nầy là rắn độc, là kẻ oán thù, cướp giựt, là xóm 
				rỗng do ngũ uẩn, lục nhập, thập nhị xứ, thập bát giới gá hợp mà 
				hình thành. 
				 
				Thân của con người thì bất tịnh, nhơ bẩn từ khi còn nằm trong 
				bụng mẹ đến khi lớn lên sự bất tịnh cũng tăng theo. Vì hằng ngày 
				phải hấp thụ biết bao vật chất từ bên ngoài để nuôi thân nên 
				thân phải tống ra bao đồ phế thải. Bên dưới lớp da tươi thắm, 
				xinh đẹp thì lục phủ ngũ tạng không bất tịnh thì là gì? Vì thân 
				là do sự kết hợp của nhân duyên ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, 
				thức) nên thân là vô ngã, là giả Có tức là Không nên không bền, 
				không chắc. Duyên kết thì còn duyên tan thì hoại thế thôi. Sau 
				khi sanh thì lục nhập tức là sáu căn tiếp nhận sáu trần (mắt, 
				tai, mũi, lưỡi, thân và ý tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, 
				xúc, pháp) mà tạo thành thập bát giới (sáu căn cộng với sáu trần 
				trở thành sáu giới của thức). Mà chính sáu căn, sáu trần, sáu 
				thức là vô ngã nên thân cũng là vô ngã, biến dịch và tan rã. 
				 
				Lời nói đầu tiên của ông Duy Ma Cật là khai thị cho chúng sinh 
				thấy biết rõ ràng về thân để con người quay về nhìn lại mà chán 
				chê, chớ ham tiếc, cưng chiều cái thân vô thường tạm bợ, là cội 
				gốc của phiền não khổ đau và cũng là nguyên nhân đưa con người 
				lang thang lẩn thẩn trong vòng sinh tử luân hồi. 
				 
				Đây chính là cái nhìn của hàng Tiểu thừa là thấy thân là vô 
				thường, vô ngã, đau khổ và bất tịnh. Nếu không lìa tướng mà tu 
				hành thì khó mà ngộ được cho dù chấp Có chấp Không cũng đều là 
				vọng chấp làm chướng ngại trên con đường giải thoát giác ngộ. Vì 
				thế cổ nhân có bài kệ như sau: 
				 
				Bỏ chấp mới là thật 
				 
				Bằng còn chấp tức là hư 
				 
				Chẳng Không cũng chẳng Có 
				 
				Chi thiếu lại chi thừa? 
				 
				Đau, thuốc thang điều trị 
				 
				Mạnh, phương pháp diệt trừ 
				 
				Lý tam Không tỏ đặng 
				 
				Xuất chúng nhập Vô-dư. 
				 
				Bây giờ trưởng giả Duy Ma Cật mới bắt đầu chuyển cái nhìn, cái 
				thấy, cái biết, cái suy luận của hàng Tiểu thừa sang một thế 
				giới mới. Đó là thế giới của Đại thừa. Chỉ khi nào chúng sinh 
				nhận thấy được các đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của tất cả hiện 
				tượng vạn pháp thì con người mới chứng ngộ được Chân Lý. 
				 
				Thưa các nhân giả: 
				 
				Phải sanh tâm khinh rẻ cái thân nầy và sanh tâm ham mến thân 
				Phật. Vì thân Phật là Pháp thân. Thân Phật từ vô lượng công đức 
				trí tuệ sanh. Từ giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri 
				kiến sanh. Từ từ, bi, hỷ, xả sanh. Từ bố thí, trì giới, nhẫn 
				nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ sanh. Từ phương tiện sanh. 
				Từ lục thông sanh. Từ tam minh sanh, Từ ba mươi bảy phần trợ đạo 
				sanh. Từ chỉ quán sanh. Từ thập lục, tứ vô úy sanh, thập bát bất 
				cộng pháp sanh. Từ chỗ dứt hết tất cả các pháp bất thiện, chứa 
				nhóm tất cả thiện nghiệp sanh. Từ chân thật sanh. Từ vô lượng 
				pháp thanh tịnh như thế mà sanh thân Như Lai. 
				 
				Đức Phật là giác giả và có ba thân là Pháp thân, Báo thân và Ứng 
				thân. 
				 
				1) Pháp thân: Chữ Phạn là Dharmakaya chính là tự tánh thân, là 
				thân bất sinh bất diệt, thường trụ và lan tỏa trong khắp cả 
				không gian làm sở y bình đẳng cho Báo thân và Ứng thân. Phật lấy 
				Pháp Tánh Chân Như làm thân nên gọi là Pháp thân. Vì là Chơn 
				Như, Pháp Giới Tánh, Như Lai Tạng… nên Pháp thân hiện hữu ở khắp 
				nơi và cũng là bản thể của muôn loài chúng sanh. Thọ mệnh của 
				Pháp thân không có lúc ban đầu và cũng không có lúc cùng tận tức 
				là vô thỉ tới vô chung. Do đó chư Phật ngày nay lúc nào cũng 
				thường trụ trong tâm của tất cả chúng sinh và vĩnh hằng ở khắp 
				mọi nơi chính là Pháp thân Tỳ Lô Giá Na vậy. Phật và chúng sinh 
				đều có Pháp thân như nhau, không sai không khác, không cao không 
				thấp, nhưng ở Phật thì Pháp thân thường sáng suốt chiếu soi rực 
				rỡ. Còn ở chúng sinh thì bị màng vô minh che lấp nên không thể 
				hiện bày. Vì thế Pháp thân chính là nơi chúng sinh trở về sau 
				khi diệt hết vô minh phiền não khổ đau. Hết vô minh thì trí tuệ 
				bừng sáng và Pháp thân hiện bày. Do đó Pháp thân chính là nguồn 
				gốc, là Bản Thể của muôn sinh vạn vật và cũng là Bản Lai Diện 
				Mục, là Phật Tánh vĩnh hằng có sẳn trong tất cả muôn loài vậy. 
				 
				2) Báo thân: Chữ Phạn là Sambhogakaya là cái thân tốt đẹp do 
				công phu tu hành trải qua nhiều đời nhiều kiếp mà đạt được. Vì 
				đây là thân của các Như Lai do thành tựu công đức tu hành nên 
				chỉ có chư Phật mới thấy còn phàm nhân thì không trông thấy. 
				Cũng ví như người niệm Phật đến chỗ nhất tâm bất loạn thì được 
				vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc của Phật A Di Đà và thọ 
				báo thân trong hoa sen. Cho nên Tịnh độ thi có câu: 
				 
				Mỗi niệm chỉ cần không thối chuyển 
				Ao vàng đã sẵn có liên hoa 
				Thân tàn về cõi báu 
				Sen nở thấy Di Đà. 
				 
				Đối với chúng sinh thì báo thân mà Phạn ngữ gọi là Karmakaya có 
				nghĩa là con người phải thọ lãnh thân của mình tùy thuộc vào tất 
				cả nghiệp quả mà chính họ đã tạo ra trong đời quá khứ. Những 
				chủng tử của nghiệp là phần thần thức duy nhất còn lại sau khi 
				con người mất và nó sẽ quyết định thân của con người trong đời 
				nầy. Thân có đẹp, xấu hay cuộc đời có sướng, khổ chẳng qua chỉ 
				là quả báo mà thôi. Ngược lại chư Phật hay Bồ-tát tự nguyện vào 
				đời vì lòng từ bi muốn cứu độ chúng sinh chứ không phải bị 
				nghiệp lực chi phối. 
				 
				3) Ứng thân: Chữ Phạn là Nirmanakaya còn được gọi là hóa thân 
				hay ứng hóa thân vì thân nầy có hình tướng mà con người thấy 
				được nên phải bị chi phối của luật vô thường là sinh lão bịnh 
				tử. Thí dụ như cách nay trên vài ngàn năm, Thái tử Tất Đạt Đa 
				ứng thân vào dòng họ vua Tịnh Phạn, lớn lên nổ lực tinh tấn tu 
				hành, thành Phật để hóa độ chúng sinh rồi nhập diệt giữa hai cây 
				Sa-la song thọ. 
				Ngoài ra trong cõi Ta bà nầy đôi khi có chư Phật hay Bồ-tát ứng 
				hiện ra nhiều hình tướng khác nhau để cứu độ chúng sinh trong 
				một thời gian hay trong một hoàn cảnh đặc biệt nào rồi biến mất. 
				Đối với người Việt tỵ nạn thì không ai lạ gì những câu chuyện về 
				Đức Quán Thế Âm hiện thân trên biển Thái Bình Dương để cứu vớt 
				nhiều con thuyền sắp bị đắm chìm rồi sau đó biến mất. 
				 
				Thật ra ngày nay Phật giáo cũng chưa đồng nhất về ý nghĩa của 
				Báo thân và Ứng thân của Phật. 
				 
				1) Dựa theo tư tưởng của Phật giáo Tiểu thừa thì Đức Phật khi 
				chưa thành Phật, Ngài là Thái tử mà đây chỉ là Báo thân cuối 
				cùng để Ngài trả hết những quả báo còn lại như bị Đề Bà Đạt Đa 
				làm hại, bị chảy máu… và sau cùng xóa bỏ Báo thân nhục thể mà 
				được Pháp thân chân thường của chư Phật. 
				 
				2) Ngược lại với tư tưởng của Phật giáo Nam Tông thì Phật giáo 
				Đại thừa chủ trương rằng Đức Phật Thích Ca đã thành Phật từ vô 
				lượng kiếp và Ngài thị hiện trong cõi Ta-bà để độ chúng sinh mà 
				Thái tử Tất Đạt Đa chỉ là Ứng thân mà thôi. 
				 
				Nói một cách khác, sự khác biệt giữa Nam Tông và Bắc Tông trong 
				việc thờ một hay nhiều vị Phật xuất phát từ hai quan niệm khác 
				nhau. Nam Tông cho rằng chỉ có một vị Phật duy nhất là Đức Thích 
				Ca Mâu Ni vì họ căn cứ vào những sự kiện lịch sử tức là nhìn vào 
				sự Tướng. Trong khi đó, Bắc tông quan niệm ngoài Đức Phật Thích 
				Ca Mâu Ni còn có hằng hà sa số chư Phật giáo hóa chúng sinh ở 
				khắp mọi nơi trong vủ trụ. Bắc tông thì dựa vào kinh điển mà Đức 
				Phật đã thuyết. Tùy theo sở thích hay tâm niệm mà chúng sinh có 
				thể tin theo quan niệm nào cũng được. Thật ra điều nầy không có 
				gì quan trọng cho dù chúng ta theo Nam tông hay Bắc tông hay tin 
				có một vị Phật hay nhiều vị Phật thì điều quan trọng vẫn là tinh 
				tấn tu học theo lời Phật dạy. Hình thức, phương tiện tuy sai 
				khác nhưng cứu cánh vẫn là một. Do đó con người đừng chấp vào 
				phương tiện mà chính yếu là phải tự cất bước mà đi, tự nổ lực để 
				đạt đến cứu cánh giải thoát ra khỏi sinh tử luân hồi. 
				 
				Khi nói về Pháp thân thì: 
				 
				Đạo là tỏ-ngộ tánh bình thường 
				Đói phải ăn cơm, buồn phải ngũ. 
				Chẳng cần tìm Phật đâu xa 
				Tây phương tại đó Thích Ca nơi nầy 
				 
				Hoặc là: 
				 
				Đêm đêm với Phật nằm 
				Sáng sáng cùng đồng dậy 
				Tất gan chẳng cách-xa 
				Ảnh hưởng nào sai-chạy 
				Muốn biết Phật ở đâu, 
				Do nơi lời nói ấy. 
				 
				Cũng ví như những làn sóng nhấp nhô của đại dương. Đợt sóng nầy 
				tan thì đợt sóng khác lại đến. Nước biển là Tướng, sóng biển là 
				Dụng còn tính nước yên tịnh dưới lòng đại dương là Thể của nước. 
				Cùng một ý nghĩa thì Pháp thân là Thể, Báo thân là Tướng và Ứng 
				thân là Dụng. Mặc dầu Thể, Tướng và Dụng tuy ba nhưng mà một tức 
				là Bất nhị có nghĩa là Thể, Tướng và Dụng cũng đều là do nước mà 
				ra. Vậy một ở đây chính là Bản Thể Chơn Như, là Chơn Tâm vậy. 
				 
				Thưa các nhân giả: 
				 
				Muốn được thân Phật, muốn vứt bỏ cái thân nhiều bệnh khổ của 
				chúng sanh thì phải phát tâm vô thượng Bồ-đề. 
				 
				Vô Thượng Bồ-đề tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác có nghĩa 
				là sự giác ngộ sáng suốt hoàn toàn không gì hơn. Mà muốn đạt đến 
				trình độ để có được sự tỉnh thức giác ngộ chân chánh thì chúng 
				sinh phải phát tâm. Phát tâm theo tinh thần Phật giáo là Tri và 
				Hành phải hợp nhất. Nếu Tri mà không Hành thì chỉ là lý thuyết 
				suông tức là năng thuyết bất năng hành có nghĩa là lời nói không 
				đi đôi với hành động cũng như nhân viên ngân hàng suốt ngày đếm 
				tiền cho kẻ khác mà trong túi của mình không có một xu… Còn Hành 
				mà thiếu Tri thì cũng như người mù dẫn kẻ đui, sa hầm sụp hố, 
				không rõ đường đi dễ rơi vào tà đạo. 
				 
				Phát tâm là hướng tâm đi về con đường giải thoát giác ngộ mà hai 
				cánh cửa chính là tam huệ học và tam vô lậu học. Tam Huệ học thì 
				có Văn huệ tức là học hỏi, tham vấn kinh điển của Phật để nhận 
				hiểu mà phát sinh trí tuệ. Tư huệ là suy tư quán chiếu những lời 
				Phật dạy để thấy được sự huyền diệu của kinh. Và sau cùng là tu 
				huệ có nghĩa là đem thực hành và thể nghiệm những giáo lý của 
				Phật để chứng được Chân lý mà giác ngộ. Sau khi đã mở được cánh 
				cửa Tam Huệ học thì cánh cửa sau cùng để vào căn nhà giác ngộ là 
				Tam Vô Lậu học. Chính Giới, Định, Tuệ là chiếc thuyền êm ái để 
				đưa chúng sinh từ bờ mê đến bến giác. Bởi vì có giữ Giới thì tâm 
				mới Định, mà có vào sâu vào Định thì trí tuệ Bát nhã mới phát 
				sinh. Chính cái trí tuệ Bát nhã nầy là cứu cánh của tất cả mọi 
				người. 
				 
				Trưởng giả Duy Ma Cật vì những người đến thăm bệnh mà nói pháp 
				khiến cho vô số nghìn người phát tâm vô thượng Bồ-đề. Chư Phật 
				và Bồ-tát dùng mọi phương tiện thiện xảo để hóa độ chúng sinh. 
				Có khi các Ngài tạo duyên để đến với chúng sinh mà giáo hóa, có 
				lúc các Ngài tạo duyên làm cho chúng sinh đến với các Ngài. 
				Trong kinh nầy ông Duy Ma Cật dùng phương tiện có bệnh để chúng 
				sinh đến thăm ông và tùy duyên mà tỏ bày Chánh pháp khiến mọi 
				người phát tâm cầu quả vị Phật. Phát tâm là nhân, là bước đầu 
				trên con đường bỏ tà quy chánh, phá mê chuyển ngộ mà chứng ngộ 
				là bước sau cùng, là quả. Thật vậy, có đi mới có đến chỉ cần 
				chúng sinh tinh tấn chuyên cần lấy Chánh pháp làm bản đồ, lấy 
				Chánh niệm làm nhiên liệu để lái con tàu Giới Định Tuệ mà thấy 
				được ngọn hải đăng trí tuệ của bờ giác ngộ. 
				 
				Một điểm sáng chói khác là tuy ông Duy Ma Cật đã chứng được vô 
				sanh pháp nhẫn nhưng ông không chủ trương xa lánh cuộc đời để 
				hưởng thú an vui tịch diệt của Niết bàn mà còn thị hiện dùng 
				phương tiện, tùy duyên tùy cảnh để giáo hóa chúng sinh và giúp 
				họ thay tâm đổi tánh và quay về với Chánh đạo. Bồ-tát vào đời 
				cũng vì lợi ích chúng sinh cho nên với tâm đại bi và trí vô phân 
				biệt, Bồ-tát thấy mình là chúng sinh, chúng sinh là mình, tuy 
				hai nhưng mà một tức là Bất nhị. Tâm bình đẳng thì không còn 
				thấy ta với người, không còn thân sơ, không còn cao thấp…và 
				không còn thấy giữa mình và chúng sinh có sự sai khác nữa mà chỉ 
				thấy tất cả là chúng sinh còn đang lặn hụp trong biển trầm luân 
				đau khổ và lang thang trong vòng sinh tử luân hồi. 
				
				
				 |  
				 |