| 
				 Chương Thứ 
				Sáu 
				 
				Phẩm Bất Tư Nghì 
				 
				(The Inconceivable Liberation) 
				 
				 
				Bất khả tư nghì có nghĩa là 
				vượt ra ngoài những khái niệm suy tư phân biệt về sự hiểu biết 
				thông thường của con người. Vì thế sự kiện bất khả tư nghì cũng 
				được hiểu là những hiện tượng chưa từng có, chưa từng xảy ra mà 
				nay có. 
				 
				Dựa trên định nghĩa trên thì ông Duy Ma Cật là người bất tư 
				nghì. Ông thuyết bất tư nghì pháp và trình diễn bất tư nghì cảnh 
				cho bất tư nghì đại chúng để khởi động bất tư nghì tâm. 
				 
				Ông Xá lợi Phất thấy trong tịnh thất không có giường cũng 
				chẳng có chiếc ghế nào. Ông bèn khởi ý nghĩ: Tịnh thất trống 
				trơn như thế nầy, chư Bồ-tát và Thanh Văn chúng tôi sẽ ngồi vào 
				đâu? 
				 
				Biết ý nghĩ của ông Xá Lợi Phất, trưởng giả Duy Ma Cật bèn hỏi: 
				 
				- Thưa ngài Xá Lợi Phất! ngài vì pháp đến đây hay vì chỗ ngồi mà 
				đến? 
				 
				- Tôi vì pháp mà đến chớ không phải vì chỗ ngồi. Ngài Xá Lợi 
				Phất đáp. 
				 
				Trưởng giả Duy Ma Cật là người giàu có, vợ con tôi tớ đầy nhà 
				nhưng ông dùng thần thông làm cho bàn ghế biến mất chỉ còn căn 
				tịnh thất trống không. Nhà trống không tiêu biểu cho tâm thanh 
				tịnh và bàn ghế biến mất là ám chỉ cho vạn pháp giai không. Muốn 
				thấy được Chân lý, chúng sinh bên trong phải phá cho được ngã 
				chấp và bên ngoài đánh tan mọi pháp chấp thì tâm được như như 
				bất động. 
				 
				Người Phật tử thông thường thì đến chùa lạy Phật vì thấy chùa 
				đẹp, Phật to. Đây chỉ là phương tiện để gieo duyên dành cho 
				những người sơ cơ có cơ hội quy y trở về với đạo Phật và chưa 
				thấu hiểu đạo lý huyền diệu của liễu nghĩa Đại thừa. Vì chùa to, 
				Phật lớn chỉ là Phật Tướng sinh diệt mà Phật tâm tức là tự tánh 
				thanh tịnh bản nhiên bất sinh bất diệt mới quan trọng. Phật tánh 
				là Bản Thể chân không thì không hình tướng, màu sắc, kích thước, 
				trọng lượng thì đã có sẳn trong tâm của tất cả mọi chúng sinh. 
				Vì thế chỗ ngồi, nơi lạy Phật là sắc tướng sinh diệt thì quan 
				tâm làm gì cho nên khi về chùa thì ngồi đâu cũng được thậm chí 
				ngồi ngoài hiên mà tâm thanh tịnh thì vẫn thông đạt giáo pháp 
				như thường. Cầu pháp là tu học để thấy được Phật tâm của mình mà 
				có được giải thoát giác ngộ thì mới là cứu cánh. Do đó từ nay về 
				chùa nghe Pháp mới là cứu cánh chớ đừng quan tâm đến cơm chay 
				hay cảnh chùa to Phật lớn vì người Phật tử đến với Tam Bảo thì 
				chùa to, chùa nhỏ có khác gì nhau.  Tuy nhiên cổ nhân cũng 
				có câu: “Chùa đất Phật vàng” nghĩa là tuy là chùa tranh vách lá 
				nhưng lại có cao Tăng đắc đạo. 
				 
				- Thưa ngài Xá Lợi Phất! người thực tâm cầu pháp, thân mạng 
				còn không đáng tiếc hà huống phải quan tâm nghĩ đến chỗ ngồi. 
				Cầu pháp phải quên đi cái thân ngũ uẩn. Cầu pháp phải đóng bít 
				kín lục căn, cắt dứt lục trần và vô hiệu hóa tất cả lục thức. 
				 
				Đi nghe pháp cốt là để học chánh pháp, hành chánh pháp và sống 
				đúng theo chánh pháp vì thế người cầu pháp cho đến thân mạng của 
				mình cũng không tham tiếc thì chỗ ngồi có xá gì. Do đó khi đã 
				sống đúng với chánh pháp thì không còn gì để bám víu cả ngay cả 
				chánh pháp cũng phải bỏ, quên đi thì tâm không còn dính mắc và 
				sẽ được an vui tự tại. Lúc đó con người mới trở về được với Căn 
				Bản Trí tức là Vô Phân Biệt Trí nghĩa là thấy tất cả mà như 
				không thấy gì hết hay là như không thấy gì hết mà thật ra thấy 
				tất cả. Biết tất cả mà như không biết gì hết hay là như không 
				biết gì hết mà biết tất cả. 
				 
				Cầu pháp không cầu những phiền trược tương quan trong cõi 
				Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc. 
				 
				Tất cả những pháp như sắc, tài, danh, lợi…là những pháp ràng 
				buộc con người vào trong các cõi Dục, cõi Sắc và cỏi Vô Sắc thì 
				không nên cầu. 
				 
				- Thưa ngài Xá Lợi Phất! 
				 
				Người cầu pháp không phải vì ham quả vị Phật. 
				 
				Chúng sinh đến chùa nghe pháp với tâm cầu một ngày nào đó sẽ 
				được thành Phật, nhưng đây chỉ là giáo lý phương tiện Tiểu thừa, 
				là giáo lý bất liễu nghĩa. Còn kinh điển giáo lý liễu nghĩa tối 
				thượng thừa thì cầu pháp là không cầu gì hết vì bất cứ cầu việc 
				gì cho dù đó là cầu thành Phật thì cũng là tham. Dù là tham 
				Bồ-đề, tham Niết bàn thì vẫn là tham, vẫn còn dính mắc thì tự 
				tánh thanh tịnh không hiễn bày. Nếu vì tham mà cầu Bồ-đề, cầu 
				Niết bàn, cầu thành Phật… thì đã quên đi Bồ-đề, Niết bàn đã có 
				sẳn trong chúng sinh chớ còn ở đâu nữa mà cầu. Nói một cách khác 
				nếu cầu như vậy là chúng sinh đã bỏ mất quả vị Phật của chính 
				mình rồi. Một khi đã quên đi quả vị Phật của mình tức là quên đi 
				Phật tánh, quên đi tự tánh thanh tịnh bản nhiên hay là Như Lai 
				Viên Giác Diệu Tâm của chính mình thì tìm ở đâu cho có quả vị 
				Phật. Vì thế chúng sinh đi trên con đường Bồ-tát thì làm bất cứ 
				việc gì có lợi ích cho chúng sinh mà không cần phải cầu cho 
				thành Phật. Khi đạt đến đỉnh cao tột cùng của trí tuệ Bát nhã 
				Ba-la-mật thì chúng sinh nhận chân Chân lý tức là thành Phật. 
				Cũng như trăm ngàn con sông, con suối mà nếu có được nước trong 
				thì ánh trăng vẫn chiếu rọi được như thường. Và cho dù đồi cao 
				núi thẳm mà không có mây đen che lấp thì bầu trời trong sáng như 
				nhau. Nếu tâm hồn không còn phiền não vô minh thì tự tánh Niết 
				bàn tịch diệt hiện ra mà không cần mong cầu trông đợi và khi 
				Bồ-đề tự tánh đạt đến đỉnh cao giác ngộ thì chúng sinh là Phật 
				chớ Phật ở đâu nửa mà cầu. 
				 
				Tóm lại, dựa theo Lý Tánh tuyệt đối thì Phật Bảo cũng không cầu, 
				Pháp Bảo cũng không đắc và Tăng Bảo cũng không trụ bởi vì trong 
				thế giới Chân không thì Phật, Pháp, Tăng vốn là Một tức là Nhất 
				Thể Tam Bảo thì đã có sẳn trong chúng ta. Vì thế nếu chúng sinh 
				bỏ được tâm mong cầu, không còn ngã chấp, pháp chấp thì Chân lý 
				sẽ hiện bày. 
				 
				Cầu pháp không phải vì đam mê giáo pháp. 
				 
				Giáo pháp của Như Lai chính là ba tạng kinh điển: Kinh tạng, 
				Luật tạng và Luận tạng cũng chỉ là phương tiện, là ngón tay chớ 
				không phải là cứu cánh giải thoát giác ngộ hay là ánh sáng huyền 
				diệu của mặt trăng. Nếu chúng sinh cầu pháp, học kinh mà đam mê 
				theo giáo pháp thì cũng như xuống bè rồi ham mê chiếc bè mà quên 
				đi cứu cánh là đến bờ bên kia. Dầu giáo pháp có huyền diệu hay 
				ho đến đâu cũng chỉ là phương tiện mà chúng sinh có thực hành 
				mới được thực chứng tức là dùng bè để qua sông chớ không tham 
				đắm say mê chiếc bè. Cũng như nương theo ngón tay để thấy ánh 
				trăng chân lý và khi thấy được ánh sáng chân lý thì nên bỏ quên 
				ngón tay cũng như bỏ quên chiếc bè mới có thể bước được lên bờ 
				giác ngộ. 
				 
				Cầu pháp không phải vì cảm tình với chúng Tăng. 
				 
				Người Phật tử thường sống với cảm tình nên nghĩ rằng chỉ đi chùa 
				của mình và chỉ ủng hộ chùa hay thầy của mình mà thôi. Nhưng 
				thật ra cầu pháp là cốt để học chánh pháp, hành chánh pháp và 
				sống theo chánh pháp cho nên bất cứ vị thầy nào nói đúng theo 
				chánh pháp, đúng với chân lý và có thể đem lại sự lợi lạc cho 
				việc tu học của mình thì chúng sinh thọ pháp. Cảm tình vì thương 
				thầy, muốn bố thí cúng dường để được gọi là thí chủ hạng nhất mà 
				không nghe được giáo pháp để tu tập hướng về giải thoát giác ngộ 
				là mê muội, là thiếu sáng suốt, là lổ lã, là tự chuốc lấy khổ 
				đau về sau. 
				 
				Không vì thấy Khổ mà cầu pháp. Không vì đoạn Tập mà cầu pháp. 
				Không vì chứng đắc Niết Bàn mà cầu pháp. Và cũng không vì nguyên 
				nhân chứng đắc Niết Bàn mà cầu pháp. 
				 
				Tại sao? Bởi vì pháp không phải hý luận. 
				 
				Nếu nói rằng ta vì thấy Khổ, vì đoạn Tập, vì chứng Niết Bàn, vì 
				tu Đạo mà cầu pháp thì pháp đó trở thành hý luận, không phải cầu 
				pháp. 
				 
				Đối với người tu tiểu thừa tức là giáo lý phương tiện thì họ 
				thấy có mình tu tức là còn chấp ngã, thấy có pháp môn để tu, có 
				chúng sinh để độ và còn Niết bàn để chứng đắc tức là còn chấp 
				pháp nên họ còn lanh quanh lẩn quẩn trong thế giới của sắc tướng 
				hữu vi nên không thể nào chứng nghiệm thế giới thanh tịnh vô vi 
				được. Nói chứng đắc chứ thật ra không có chứng đắc gì cả. Tại 
				sao? Cái mà chúng ta gọi là chứng đắc chính là “bổn tính cố hữu” 
				hay “bản lai diện mục” tức là Phật Tánh vốn đã có sẳn trong tất 
				cả mọi người. Chúng sinh không thấy biết nó là vì bị màng vô 
				minh dày đặc che lấp. Nếu xóa tan được màng vô minh hắc ám nầy 
				thì ánh sáng huyền diệu của chân lý sẽ hiễn hiện ra ngay. Nếu 
				chúng sinh lìa xa tham đắm lợi danh thì tự tánh Niết bàn xuất 
				hiện mà không cần phải cầu mong trông đợi gì hết. Đối với hàng 
				tiểu thừa thì họ nhìn đời tức là thế giới hữu vi tục đế bằng 
				nhục nhãn nên họ thấy sự sinh diệt vô thường của vạn pháp khiến 
				tâm bất tịnh mà cố tu để cầu chứng Niết bàn ngỏ hầu tìm sự an 
				vui tự tại. Trong khi đó giáo lý liễu nghĩa tối thượng đại thừa 
				thì nhìn thế giới vũ trụ bằng trí tuệ Bát nhã ba-la-mật nên 
				trong tướng Không chẳng có cái gì gọi là Khổ, chẳng có cái gì là 
				nguyên nhân của sự khổ và dĩ nhiên tự tánh thanh tịnh bản nhiên 
				luôn luôn có sẳn trong tất cả mọi chúng sinh thì Niết bàn còn 
				dùng vào đâu được mà cầu với chứng. 
				 
				Thưa ngài Xá Lợi Phất! 
				 
				Pháp là tịch diệt. Nếu biểu hiện qua hành vi sanh diệt thì đó là 
				cầu sanh diệt, chớ không phải là cầu pháp. 
				Pháp là vô nhiễm. Nếu nhiễm ở pháp cho đến nhiễm Niết Bàn thế là 
				cầu nhiễm chớ không phải là cầu pháp. 
				Pháp không năng hành, sở hành. Nếu dụng ý hành ở nơi pháp, đó là 
				cầu năng hành, sở hành chớ không phải cầu pháp. 
				Pháp không có thủ xả. Đối với pháp mà có ý thủ xả, đó là cầu thủ 
				xả chớ không phải là cầu pháp. 
				Pháp không có xứ sở. Nếu chấp nê xứ sở, đó là cầu xứ sở chớ 
				không phải cầu pháp. 
				Pháp là vô tướng. Nếu dựa trên tướng để nhận biết, đó là cầu 
				tướng chớ không phải là cầu pháp. 
				Pháp không được trụ. Nếu trụ ở nơi pháp, đó là cầu trụ chớ không 
				phải là cầu pháp. 
				Pháp không phải là thấy, nghe, hiểu biết. Nếu biểu hiện qua 
				thấy, nghe, hiểu biết đó là cầu thấy, nghe, hiểu biết chớ không 
				phải cầu pháp.  
				Vì vậy cho nên: 
				 
				- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Nếu là người cầu pháp, đối với tất cả 
				không nên khởi ý niệm Cầu. 
				 
				Pháp là tịch diệt, không sanh diệt cho nên nếu để tâm thanh tịnh 
				thì sẽ được an nhiên tự tại. Pháp là vô nhiễm cho nên nếu còn 
				tham đắm ngay cả chứng đắc Niết bàn thì đó là ô nhiễm. Pháp 
				không tạo tác cho nên bất cứ việc gì có lợi ích cho chúng sinh 
				thì làm mà làm xong thì bỏ không nhớ đến. Pháp không có thủ xả 
				và xứ sở bởi vì người biết nhập chủng Tánh đại thừa thì chỗ nào 
				tu cũng được. Tu nhà cũng tốt, tu chợ cũng hay và tu chùa cũng 
				tiện. Thật ra tu nhà hay tu chợ thì khó hơn tu chùa bởi vì ở nhà 
				và ở chợ thì gặp nhiều cảnh trái ý nghịch lòng và tiếp xúc nhiều 
				chúng sinh xấu ác nên có nhiều cơ duyên thực hành Bồ-tát đạo. 
				Pháp là vô tướng vì nếu còn chấp có tướng giàu nghèo, cao thấp, 
				đẹp xấu là tâm còn phân biệt, chấp trước, không bình đẳng. Pháp 
				không được trụ ở bất cứ pháp môn nào mà phải tùy thuận theo 
				chúng sinh mà hoan hỷ hướng dẫn họ tu hành. Căn cơ chúng sinh 
				sai khác nên nếu ai thích niệm Phật thì cùng họ niệm Phật, ai 
				muốn tham thiền thì cùng họ tham thiền nhập định, ai muốn trì 
				chú thì cùng họ tu trì thần chú mật ngữ. Pháp môn nào cũng tốt 
				cả như trăm sông cùng đổ về biển lớn là giải thoát giác ngộ. 
				 
				Dựa theo giáo lý Tiểu thừa tức là pháp sắc tướng sinh diệt thì 
				thấy cuộc đời khổ đau nên họ cầu vui, cầu hạnh phúc. Mà có cầu, 
				có xin là tâm còn tham đắm. Nhưng dựa theo triết lý Đại thừa thì 
				khi chúng sinh làm một việc thiện thì chính họ đã có sự lợi ích 
				rồi. Bởi vì làm việc thiện thì tâm thức được tự tại, thân tâm 
				được an vui và dĩ nhiên luật nhân duyên quả báo sẽ tự động đền 
				bù cho họ những phước đức sau nầy cho dù họ có cầu hay không. 
				Thêm nữa chúng sinh thường hồi hướng việc làm tốt của mình cho 
				mọi loài chúng sinh để cùng sớm thành Phật đạo. Một lần nữa tư 
				tưởng nầy chỉ áp dụng cho giáo lý tiểu thừa tức là giáo lý 
				phương tiện vì chúng sinh còn cầu mong sớm được thành Phật. Giáo 
				lý tiểu thừa thì nương vào năng cầu sở cầu, năng nguyện sở 
				nguyện mà một khi còn năng sở thì con người vẫn còn vướng mắc 
				vào vòng bất ý, bất toại nguyện. Ngược lại giáo lý liễu nghĩa 
				đại thừa thì không cần phải hồi hướng, không mong cầu bất cứ 
				việc gì ngay cả quả vị Phật vì bản nguyên chúng sinh đã là Phật 
				rồi. 
				 
				Nói tóm lại, cầu pháp theo tinh thần Đại thừa là không cầu một 
				cái gì hết vì nếu chúng sinh biết học chánh pháp, biết hành 
				chánh pháp và biết sống theo chánh pháp thì trong ta đã có đầy 
				đủ những đức tính Thường, Lạc, Ngã, Tịnh rồi. Bởi vì các pháp 
				không sanh không diệt nên nói là Thường, lúc nào cũng an nhiên 
				tự tại nên gọi là Lạc, là chủ sinh là muôn pháp nên gọi là Ngã 
				và không bị cấu nhiễm nên gọi là Tịnh. Thêm nữa, Bồ-đề và Niết 
				bàn là vô tại vô bất tại tức là nó không có ở đâu hết mà không ở 
				đâu chẳng có Bồ-đề, Niết bàn. Nó không có trong con người nào 
				hết nhưng không có con người nào là không có Bồ-đề, Niết bàn. Do 
				đó kinh nói : “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh” nghĩa là một 
				khi tâm mình đã tịnh thì thế giới chung quanh mình sẽ là cõi 
				Tịnh độ. Vì thế nếu tâm đã thanh tịnh thì có Bồ-đề, Niết bàn mà 
				khỏi phải cầu cái gì hết. Còn tâm không thanh tịnh thì có cầu 
				cũng không bao giờ có. Cũng như khi đào ao thì khỏi phải trông 
				chờ trăng sao gì hết, miễn là cái ao làm xong có nước trong đứng 
				lặng thì trăng sao sẽ rọi vào mà thôi. 
				 
				Ông Duy Ma Cật nói xong những điều trên, bấy giờ có năm trăm 
				thiên tử đối với các pháp có được cái nhận thức thanh tịnh (đắc 
				pháp nhãn tịnh). 
				 
				Các vị trời nhờ tu mười điều thiện mà có phước báo lành. Nay nhờ 
				nghe được những lời mầu nhiệm của ông Duy Ma Cật mà thấy được  
				thế giới của Bản Thể Chân Như thì tâm không còn mong cầu tham 
				đắm mà chỉ thực hành Bồ-tát đạo cho được viên mãn. Họ như người 
				mù được sáng, người mê được tỉnh và thấy được chân lý. 
				 
				Bấy giờ ông Duy Ma Cật hỏi Bồ-tát Văn Thù rằng: 
				 
				- Nhân giả từng vân du vô lượng vô số cõi nước. Ngài biết cõi 
				Phật nào có tòa sư tử đẹp nhất do công đức trang nghiêm thành 
				tựu? 
				 
				- Có. Thưa cư sĩ. Bồ-tát Văn Thù đáp. 
				 
				Ở về phương Đông, từ đây phải trải qua ba mươi sáu hằng hà sa 
				nước, có thế giới tên Tu Di Tưởng, đức Phật ở cõi nước đó hiệu 
				Tu Di Đăng Vương đang trụ thế. Thân Phật lớn hơn tám muôn bốn 
				ngàn do tuần. Tòa sư tử của Phật cũng cao tám muôn bốn ngàn do 
				tuần, lộng lẫy trang nghiêm bậc nhất. 
				 
				Ông Duy Ma Cật vận dụng hiện sức thần thông khiến ba muôn hai 
				ngàn tòa sư tử lộng lẫy trang nghiêm cao rộng tự chuyển vào 
				trong tịnh thất của ông trong khoảnh khắc. 
				 
				Chư Bồ-tát, các đệ tử, Đế Thích, Phạm Thiên nghĩ rằng việc nầy 
				từ trước đến nay chưa từng thấy. Chu vi ngôi tịnh thất hữu hạn 
				chừng ấy, lại bao dung cả ba muôn hai ngàn tòa sư tử đồ sộ thế 
				kia mà không chướng ngại gì nhau. Thành Tỳ Xá Ly cũng có chừng 
				mực phạm vi của nó thế mà mọi hiện trạng đều y nguyên như cũ, 
				không chật chội hơn chút nào! 
				 
				Cư sĩ Duy Ma Cật bây giờ mới bắt đầu biểu diễn chân lý Bất khả 
				tư nghì giải thoát. Giải thoát Bất tư nghì là sự giải thoát mà 
				chỉ có một mình mình biết và một mình mình hay mà thôi. Người kế 
				bên cũng không hề cảm biết ngoại trừ những bậc có trí huệ tức là 
				trình độ nhận thức chân lý và trình độ trí tuệ tu tập ngang nhau 
				thì mới biết được. Nhưng người học Phật nếu muốn thể nhập sâu 
				sắc chân lý huyền diệu nầy mà không bị rơi vào mê tín dị đoan và 
				có thể cắt nghĩa được những Bất Tư Nghì Sự của Bồ-tát thi thố để 
				hiểu đúng những Bất Tư Nghì Pháp của Bồ-tát nói và có thể thật 
				thấy mà không phải thấy thật những Bất Tư Nghì Cảnh Giới mà 
				Bồ-tát trình diễn thì tuyệt đối không được khởi niệm tin rằng 
				ông Duy Ma Cật có tài phép biến hóa như một nhà ảo thuật hay một 
				vị thôi miên, phù thủy. 
				 
				Bồ-tát trụ trong Pháp Môn Bất Tư Nghì nên có thể làm tất cả việc 
				Bất Tư Nghì bởi vì Bồ-tát biết sử dụng Quán Trí Bất Tư Nghì để 
				thấy và biết rõ tánh duyên khởi huyền diệu của vạn pháp. Vì thế 
				khi nói đến Bất khả tư nghì mà chúng sinh không vận dụng công 
				phu  trong việc “Tư Duy” “Quán Chiếu” để thể nhập Thập 
				Huyền Duyên Khởi thì không thể nào hiểu đúng được tông chỉ mục 
				đích của kinh. 
				 
				Thập Huyền Duyên Khởi là mười sự duyên khởi huyền diệu của tất 
				cả vạn pháp trong thế giới nhân sinh vũ trụ nầy mà được giải 
				thích trong bộ Kinh Hoa Nghiêm Sớ Sao và bộ Tham Huyền Ký của 
				ngài Hiền Thủ.  Đó là: 
				 
				1) Đồng Thời Cụ Túc Tương Ưng: Trong mỗi một pháp nào đồng thời 
				cũng có đủ, hàm chứa tất cả các pháp khác trong vũ trụ. Thí dụ 
				một giọt nước có đủ của muôn ngàn sông biển. 
				 
				2) Nhất Đa Tương Dung Bất Đồng: Nghĩa là về số lượng, một và 
				nhiều vật có thể dung nạp lẫn nhau mà không phá hoại cái tướng 
				riêng biệt của mỗi vật. Thí dụ như có ngàn cây nến đang cháy 
				trong một gian phòng, nhưng ngọn đèn này lẫn hiệp với ngọn đèn 
				kia mà ngọn đèn nào cũng có ánh sánh riêng của nó. 
				 
				3) Chư Pháp Tương Tức Tự Tại: Pháp nầy dung thông pháp kia và 
				pháp kia dung thông pháp nầy tức là trong pháp nầy hàm chứa 
				chủng tử của tất cả pháp kia và trong pháp kia có chứa chất liệu 
				chủng tử của pháp nầy. Vì thế chủng tử 
				của vạn pháp trùng trùng duyên khởi cho nhau, tương tức tương 
				nhập một cách tự tại. Thí dụ như chất vàng với sắc vàng, hai 
				pháp ấy không rời nhau. 
				 
				4) Quảng hiệp tự tại vô ngại: Nghĩa là một vật gọi là lớn, chưa 
				hẳn là lớn. Một vật gọi là nhỏ, chưa hẳn là nhỏ. Nhờ cái Lý dung 
				thông, một vật nhỏ như đầu mảy lông có thể chứa cả càn khôn vũ 
				trụ mà không chật. Nói một cách khác, trong pháp giới, sự sự đã 
				vô ngã, dung thông thì quan niệm về sự rộng hẹp, lớn nhỏ đều là 
				những danh từ suông. 
				 
				5) Nhân Đà La Võng Cảnh Giới: Nhơn-đà-la tức là phiên âm chữ 
				Indra là cõi trời Đế Thích. Theo Bà-la-môn giáo thì trên cõi 
				trời Nhơn-đà-la có các màn lưới bằng bửu châu; mỗi hạt bữu châu 
				chói hiện đến muôn trượng, hạt này, hạt khác chói sáng lẫn nhau 
				lớp lớp không cùng tận. Pháp môn nầy thì cũng thế. Trong mỗi 
				pháp có nhiều pháp khác và trong nhiều pháp khác lại có nhiều 
				pháp khác nữa. Cứ thế nhân mãi lên cho đến vô cùng vô tận. Kinh 
				Hoa Nghiêm nói rằng: “Tất cả thế giới đều như thế giới màn lưới 
				Nhơn-đà-la”. 
				 
				6) Vi Tế Tương Dung An Lập: nghĩa là rộng hẹp tự tại vô ngại. Dù 
				vật nhỏ cách mấy như một mảy may hay ở một điểm vi tế nào cũng 
				hàm dung chất liệu của tất cả hiện tượng vạn pháp. Thí dụ như 
				một giọt nước thì bao gồm bởi nhiều hạt nước, mà mỗi hạt nước 
				gồm nhiều hóa chất. Mỗi hóa chất gồm biết bao nguyên tử và mỗi 
				nguyên tử thì gồm nhiều điện tử và cái nhân. Mỗi thứ đều dung 
				nhau và an lập trong nhau. 
				 
				7) Bí Mật Ẩn Hiện Câu Thành: Nghĩa là một pháp có nhiều phương 
				diện, khi phương diện này hiện thì phương diện kia ẩn và khi 
				phương diện nầy ẩn thì phương diện kia 
				hiện. Trong ẩn có hiện, trong hiện có ẩn, ẩn hiện đắp đổi nhau 
				mà thanh tựu. Sự ẩn hiện cũng không nhất định cái nào sau cái 
				nào trước, cũng không ngăn ngại chống đối nhau. Thí dụ có một 
				pho tượng bằng vàng. Nếu chúng ta chú ý đến vàng thì không chú ý 
				đến cái đẹp của pho tượng. Ngược lại khi chú ý đến cái đẹp của 
				pho tượng thì không chú ý đến chất vàng. Nói tóm lại, khi cái 
				đẹp hiện thì vàng ẩn và khi vàng hiện thì cái đẹp ẩn. 
				 
				8) Mười Đời Cách Pháp Dị Thành: Đây muốn nói thời gian mặc dù 
				cách biệt nhau từ quá khứ đến hiện tại qua tương lai, nhưng 
				chính nhờ thế mà các pháp được thành tựu một cách dễ dàng. Đáng 
				lẽ ra chỉ nói quá khứ, hiện tại và tương lai là đủ, nhưng muốn 
				chia một cách rốt ráo, tinh vi thì Kinh chia làm mười đời. Đó là 
				trong quá khứ cũng gồm có quá khứ, hiện tại, vị lai, trong hiện 
				tại và tương lai cũng thế. Như vậy có tất cả chín đời, nhưng nếu 
				chia nhỏ như thế mà không có ý niệm tổng quát so sánh liên hệ 
				với nhau thì cũng không có ý niệm với thời gian. Vì thế cho nên 
				ngoài chín niệm riêng biệt cộng thêm một niệm tổng quát thành ra 
				mười. 
				 
				9) Chủ, bạn,viên minh công đức: Nếu ta lấy một pháp làm chủ thì 
				các pháp khác là bạn. Chủ và bạn nương nhau làm đầy công đức, 
				lớp lớp không cùng tận. Thí dụ như mặt trăng sáng trên không 
				trung chiếu rọi khắp sông ngòi, đồi núi, ao hồ làm cho cảnh vật 
				khắp nơi càng thêm rạng rỡ. 
				 
				10) Thác Sự Hiểu Pháp Sanh Giải: Nghĩa là nhờ Sự mà hiểu được 
				Lý, nhưng khi Lý đã rõ thì Lý lại lan rộng làm cho chúng ta hiểu 
				rộng sâu xa qua nhiều sự khác. Thí dụ như vết dầu lan ra trên 
				mặt nước, chỉ một tia lửa có thể bừng cháy rất xa. 
				 
				Thập Huyền Duyên Khởi giúp chúng sinh có được một cái nhìn sâu 
				xa về sự duyên khởi của tất cả vạn pháp trong thế gian vũ trụ 
				nầy. Theo tinh thần của Hoa Nghiêm thì giải thoát mà vẫn không 
				phá hoại thế gian tướng nghĩa là không phải phủ nhận thế gian 
				tướng mà có thể tìm thấy giải thoát ở một nơi nào khác. Nói một 
				cách khác nếu chúng sinh phân biệt được chân, vọng để khử trừ 
				điên đảo khiến cho tâm được thanh tịnh thì có giải thoát. Có 
				thấu hiểu Thập Huyền Duyên Khởi thì khi đọc đến phẩm Bất Tư Nghì 
				mới không còn nghĩ rằng Bồ-tát làm những chuyện phi lý, ảo 
				tưởng, hoang đường. 
				 
				Trong Phật giáo thì sự phát triển trí tuệ tùy theo khả năng nhận 
				biết chân tướng của nhân sinh vũ trụ. 
				 
				1) Đối với phàm nhân thì họ nhìn cuộc đời, thế gian vũ trụ bằng 
				nhục nhãn tức là bằng đôi mắt thịt nghĩa là cái gì có hình sắc, 
				kích thước, âm thanh, mùi vị… thì họ cho là thật. Họ tin thân 
				mình là thật nên còn chấp ngã, tin thế gian vũ trụ là thật nên 
				còn chấp pháp. Vì còn chấp ngã, chấp pháp nên tham-sân-si, mạn 
				nghi, tà kiến phát tác mà tạo ra nghiệp để phải chịu quả khổ đời 
				đời. 
				 
				2) Nhất Thiết Trí: Các vị Thanh văn không nhìn đời bằng nhục 
				nhãn như phàm nhân mà họ nhìn thế gian bằng Pháp nhãn. Họ thấy 
				thân mình là không thật, là tạm bợ, là dơ dáy, là cội nguồn của 
				những nổi khổ nên họ cố tu để chứng đắc sự an lạc của Niết bàn 
				và tìm sự giải thoát quả vị Bồ-đề. Chẳng những nhìn thân mình 
				không thật mà họ còn nhìn cả thế gian vũ trụ cũng không thật nên 
				chán ngán cuộc đời và tránh xa bụi trần ô nhiễm. Vì thế hàng 
				Thanh văn thì chấp ngã không tức là còn Ngã Không, nhưng vì còn 
				thấy có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng, có đạo quả Bồ-đề 
				để đắc nên họ vẫn còn chấp Pháp tức là Pháp có. Cho nên cái trí 
				tuệ của họ không phải là trí tuệ giải thoát tự tại mà vẫn còn 
				dính mắc của Pháp nên trí tuệ nầy là Nhất Thiết Trí. 
				 
				3) Đạo Chủng Trí: Đối với các vị Bồ-tát thì họ nhìn thế gian vũ 
				trụ bằng Tuệ nhãn tức là họ hành thâm bát nhã ba-la-mật để thấy 
				rằng ngũ uẩn giai không. Dưới mắt của họ thì thế gian vũ trụ là 
				do duyên khởi tạo thành nên tất cả đều là giả huyễn, là không 
				thật, là Không. Vì ta là giả, là không thật nên họ có ngã không. 
				Ta không thật thì người và thế gian vạn vật cũng không thật nên 
				họ có pháp không. Nói một cách tổng quát dưới mắt của Bồ-tát thì 
				thế gian vũ trụ là Không. Mặc dù biết thế gian là Không, nhưng 
				Bồ-tát vẫn còn chấp cái Không nên tâm không được hoàn toàn tự 
				tại và trí tuệ chưa hoàn toàn sáng suốt triệt để nên cái trí tuệ 
				nầy gọi là Đạo Chủng Trí. 
				 
				4) Nhất Thiết Chủng Trí: Hàng Thanh văn thì chấp Pháp có và các 
				vị Bồ-tát thì vẫn còn chấp Không. Nếu bây giờ bỏ được chấp Pháp 
				có và chấp Không tức là không còn chấp có pháp môn để tu, có 
				Niết bàn để chứng, có quả vị Bồ-đề để thành và không còn chấp 
				thế gian vũ trụ là Không thì có được trí tuệ viên mãn, dung 
				thông tự tại mà nhà Phật gọi là Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết 
				Chủng Trí thì thấy vạn pháp là Có nhưng không phải là Có thật, 
				còn Không nhưng không phải là không của cái trống không. Vì vạn 
				pháp do nhân duyên hòa hợp nên vạn pháp sanh và khi nhân duyên 
				tan rã chia ly thì vạn pháp diệt. Thế thì vạn pháp do nhân duyên 
				hòa hợp nên sanh sanh diệt diệt, diệt diệt sanh sanh mà người 
				được Nhất Thiết Chủng Trí thì luôn luôn tự tại trước sự sanh 
				diệt, diệt sanh của hiện tượng vạn pháp nên không cần phải tiêu 
				cực như hàng Thanh văn và cũng không cần phủ nhận tất cả như các 
				vị Bồ-tát mà phải thấy vạn pháp nầy có mà không phải có thật. 
				Mặc dầu không phải có thật mà hiện giờ nó vẫn có vì thế nên 
				người có Nhất Thiết Chủng Trí làm bất cứ cái gì cần làm để giúp 
				đở cho tất cả chúng sinh mặc dù chúng sinh là không có thật. Đây 
				chính con đường trung đạo dung thông giữa cái Có và cái Không và 
				chỉ có Phật mới đạt được cái trí tuệ nầy. 
				 
				Khi Bồ-tát trụ Bất Tư Nghì Giải Thoát để làm những việc Bất Tư 
				Nghì là cách vận dụng ngôn ngữ để chuyên chở trí tuệ Bất Tư Nghì 
				của con người đã thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí tức là trí huệ 
				của một vị Phật, của một bậc Chánh đẳng Chánh giác. 
				 
				Cách nay trên mấy ngàn năm khi khoa học chưa phát triển như ngày 
				nay mà Đức Phật Thích Ca đã cho chúng sinh một khái niệm về thế 
				giới vũ trụ bao la vô cùng vô tận. Ngài thường ví mỗi thế giới 
				như một hạt cát của sông Hằng. Trong kinh nầy Bồ-tát Văn Thù đại 
				diện Phật mà nói rằng ở về phía hướng Đông cách trái đất của 
				chúng ta ba mươi sáu lần cát của sông Hằng thì có một quốc độ là 
				Tu Di Tưởng và Đức Phật hiệu là Tu Di Đăng Vương Như Lai. 
				 
				Kinh điển Phật giáo Đại thừa, mỗi khi giới thiệu một vị Phật hay 
				một vị Bồ-tát thì kinh thường ám chỉ một đức tính cao quý, một ý 
				nghĩa thiêng liêng huyền diệu như trong phẩm Bồ-tát có nói đến 
				Đức Nan Thắng Như Lai. Trong phẩm nầy, kinh lại giới thiệu Đức 
				Tu Di Đăng Vương Như Lai nghĩa là ngọn đèn vua tức là ngọn đèn 
				sáng nhất, chiếu soi xa nhất và cao nhất trên núi Tu Di. Nhưng 
				thật ra tất cả những đức tính trên là muốn ám chỉ cho Chân tâm, 
				Phật tánh bất sanh bất diệt sáng soi vô cùng vô tận có sẳn trong 
				tất cả mọi chúng sinh. 
				 
				Mỗi tòa sư tử cao rộng 84,000 do tuần mà một do tuần dài 30 km. 
				Cho nên tòa sư tử cao rộng 2,520,000 cây số vuông. Vậy mà ông 
				Duy Ma Cật dùng sức thần thông đem về 32,000 tòa sư tử cao rộng 
				như thế và đặt hết vào trong cái tịnh thất của ông, ngay cả 
				thành Tỳ Xá Ly và xóm làng cũng không chật chội hơn chút nào. 
				 
				Dựa trên sự kiện này, kinh Duy Ma Cật muốn nói gì đây? Và chúng 
				ta là người Phật tử phải tin hiểu cách nào? 
				 
				Tại sao đem 32,000 tòa sư tử to lớn như thế mà đặt vào tịnh thất 
				cho được? Phải chăng đây là chuyện ảo tưởng, hoang đường? 
				 
				Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát tức là Bồ-tát đã thành tựu Bát 
				nhã ba-la-mật. Tất cả những vật chất trong thế gian nầy mà kinh 
				Lăng Nghiêm gọi là Sắc thì gọi là địa đại. Khi Bồ-tát trụ Bất tư 
				nghì giải thoát cũng giống như Quán Tự Tại Bồ-tát trong Tâm Kinh 
				đã xác định rằng: “Quán tự tại Bồ-tát 
				hành thâm bát nhã ba-la-mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai 
				không”. Vì thế ông Duy Ma Cật cũng hành thâm bát nhã ba-la-mật 
				đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không để thấy sắc chẳng khác 
				không, không chẳng khác sắc và sắc tức là không và không tức là 
				sắc, thọ tưởng hành thức cũng như vậy. Trong khi đó kinh Lăng 
				Nghiêm cũng nói thêm rằng: “Tánh sắc chơn không, tánh không chơn 
				sắc, thanh tịnh bản nhiên trang biến pháp giới tùy chúng sinh 
				tâm ứng sở ứng tri lượng tuần nghiệp phát hiện”. Khi Bồ-tát đã 
				có trí tuệ sáng suốt triệt để thì họ nhìn sắc tức là không. 
				Không ở đây chính là đương thể bất không tức là không chẳng khác 
				sắc. Vì Thể Tánh của Sắc có tính thanh tịnh bản nhiên nhưng sở 
				dĩ nó có là tùy theo tâm lượng hay theo sự yêu cầu của chúng 
				sinh mà ứng hiện. Cho nên nếu Bồ-tát có tâm cầu cở nào thì nó 
				phát hiện cở ấy còn không cầu thì nó không có. Nói một cách khác 
				là Bản Thể của vật chất là Không nghĩa là Sắc tức là Không. 
				 
				Nếu đứng về phương diện sắc Tướng thì mới có sự phân biệt cao 
				thấp, to lớn, rộng hẹp. Nhưng ở đây kinh muốn nói đến Thể Tánh 
				tức là tánh Không của Bát nhã thì làm gì có lớn nhỏ, cao thấp. 
				Tánh Không thì không có hình tướng, kích thước nên tất cả vạn 
				pháp dung thông rất tự tại. Thể Tánh, Chân Không tức là Phật 
				Tánh, Chơn Tâm là tâm thanh tịnh bản nhiên của tất cả chúng 
				sinh. Chính cái Chơn Tâm có khả năng chuyển biến xoay vần, duyên 
				khởi tác dụng vạn pháp vào nhau hình thành một cách mầu nhiệm mà 
				chúng ta gọi là thần thông biến hóa. Ngày xưa các vị đại đệ tử 
				của Phật như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên... sau khi đã được tâm 
				thanh tịnh thì tự nhiên họ cũng phát hiện những thần thông tự 
				tại. Còn ở đây ông Duy Ma Cật đã thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí 
				tức là trí tuệ của một vị Phật thì khả năng thần thông biến hóa 
				còn xa biết bao, không thể nghĩ bàn. 
				 
				Thêm nữa, muốn đừng hiểu đây là chuyện phi lý, hoang đường, thần 
				thoại thì chúng sinh phải biết Quảng Hiếp Tự Tại Vô Ngại tức là 
				rộng hẹp tự tại vô ngại mà tư duy quán chiếu về Thập Huyền Duyên 
				Khởi để hiểu hiện tượng nầy bằng trí, thấy bằng trí cho nên thấy 
				thật chân lý mà không phải thật thấy. Không thật thấy vì không 
				thể nào đặt 32 ngàn tòa sư tử vào trong cái tịnh thất được, 
				nhưng chúng có thể thấy thật là vì chúng ta thấy hiện tượng nầy 
				bằng trí vì Nhất Đa Tương Dung tức là một và nhiều tương dung 
				nhau, Chư Pháp Tương Túc Tự Tại nghĩa là cái nầy là cái kia và 
				cái kia có cái nầy, Đồng Thời Cụ Túc Tương Ứng tức là một pháp 
				có đủ, chất liệu của vạn pháp. 
				 
				Vi Tế Tương Dung An Lập là bất cứ vật chất nào trong thế giới vũ 
				trụ nầy thì cái nhỏ (vi tế) vẫn tương dung trong cái lớn và 
				ngược lại tức là nếu chúng ta lấy một mẫu cực nhỏ của vật chất 
				thì nó cũng bao hàm tất cả những đặc tính của vật chất ấy cho dù 
				vật chất nầy to lớn như hành tinh vũ trụ. Thí dụ như khoa học 
				ngày nay, chúng ta chỉ cần lấy một mẫu DNA của bất cứ con người, 
				súc vật hay vật chất nào thì mẫu DNA nầy là bao gồm tất cả những 
				tính đặc thù của vật chất đó. Bây giờ hãy quan sát pháp Đồng 
				Thời Cụ Túc Tương Ứng môn. Đó là bất cứ một vật gì trong thế 
				gian vũ trụ nầy cũng bao hàm đầy đủ tất cả những chất liệu của 
				vạn pháp và tự nó ứng hợp, duyên khởi mà hình thành. Nói một 
				cách khác bất cứ vật chất gì cũng từ lục đại duyên khởi mà ra. 
				Đó là chúng phải có đầy đủ đất, nước, gió, lửa, không gian và 
				thức mà duyên sanh và khởi sanh để tạo thành con người, cây cỏ, 
				nhà cửa, áo quần, xe cộ, ly chén, bát đỉa, thức ăn thức uống và 
				hành tinh vũ trụ. Khi nói là vật và tâm nhưng Bản Thể của chúng 
				vẫn là một. Vật là hình tướng và tâm là năng lực để hình tướng 
				có thể hoạt động. Thí dụ như khi cầm cái ly thì cái ly nầy đã có 
				đủ đất, nước, gió, lửa, không khí và thức (năng lực) để duyên 
				khởi mà kết thành cái ly. Còn nếu đem cái ly ra phân tích dựa 
				theo khoa học thì nó có biết bao hóa chất như khoáng, nước, khí, 
				đồng, kẻm, chì, oxgen…hợp lại. Bây giờ chúng ta nên biết pháp 
				Nhất Đa Tương Dung Bất Đồng nghĩa là một là một của tất cả và 
				tất cả là tất cả của những cái một dung nhiếp quyện chặt vào 
				nhau. Nói một cách khác một là tất cả và tất cả là một. Trong 
				thế giới vô cùng vô tận nầy thật ra cũng bắt đầu từ những vật 
				chất rất vi tế mà duyên khởi tác tạo hình thành. Đây chính là sự 
				biến hiện thay đổi của không gian và thời gian. 
				 
				Ngày nay khoa học đã chúng minh sự hình thành của tất cả thế 
				giới vũ trụ bao la vô cùng vô tận cũng bắt nguồn từ sự nổ tung 
				của một vi tử mà khoa học gọi là Vụ Nổ Lớn (The Big Bang) cách 
				nay khoảng 13.7 tỷ năm về trước. Theo lý thuyết nầy thì tất cả 
				vật chất và năng lượng được chất chứa trong một vi tử cực nhỏ, 
				nhỏ hơn cả kích thước của một nguyên tử. Điểm vi tử nầy có mật 
				độ vật chất và nhiệt độ vô hạn lớn hàng tỷ tỷ độ C (lớn hơn 1030 
				độ C). Vì chịu áp xuất quá lớn và độ nóng cùng cực nên vi tử nầy 
				bị nổ tung và từ đó không gian từ từ mở rộng dựa theo tiến trình 
				nguội dần của những phần phân tán vi tử.  Dựa theo sự đo 
				lường của khoa học thì khoảng 300,000 năm sau đó thì những 
				nguyên tử mới được hình thành và nhiệt độ vẫn còn nóng đến 
				10,000 độ C. Khoảng một tỷ năm sau đó thì khí Hydrogen và Helium 
				mới được tạo tác và những đám mây cũng như hành tinh bắt đầu 
				xuất hiện và lực hút quân bình giữa các hành tinh cũng hình 
				thành. Khi nhiệt độ giảm dần thì không gian cũng từ từ nới rộng 
				và những dãy thiên hà cũng vì thế được kiến tạo cho đến ngày 
				nay. Hiện nay thì vũ trụ vẫn còn trong trạng thái nới rộng nên 
				sẽ có nhiều dãy thiên hà mới được tạo dựng. Khi không gian được 
				mở rộng cùng với thời gian làm cho các dãy thiên hà di chuyễn xa 
				nhau hơn. Để có một cái nhìn đơn giản về sự hình thành của nhân 
				sinh vũ trụ, các khoa học gia đã giới thiệu cuốn Lịch Vũ Trụ 
				(the Cosmic Calender) như sau: Bắt đầu từ ngày một tháng giêng 
				thì vi tử nổ tung (The Big Bang) và dãy Ngân Hà (Milky Way) được 
				tạo thành ngày 31 tháng giêng. Mãi đến tháng tám thì Thái dương 
				hệ (Solar System) mới hình thành. Nhưng khoảng ngày 16 đến ngày 
				17 của tháng tám thì cuộc sống của các sinh vật mới hiện hữu 
				trên trái đất nầy. Và sau đó loài người được hình thành ngày 31 
				tháng tám. Nhưng trong tương lai khi vũ trụ giản nở đến một kích 
				thước cực đại thì nó sẽ bắt đầu co lại. Dấu hiệu của tận thế là 
				khi tất cả các hành tinh và vũ trụ từ từ nguội dần và tắt hẳn 
				cũng như mặt trời trong thái dương hệ không còn cháy và toàn 
				thái dương hệ sẽ chìm trong bóng tối. Thế giới sẽ trở thành băng 
				giá và tan biến vào tháng ngày 16 tháng năm năm tới của Lịch Vũ 
				Trụ. Sau đó, vũ trụ sẽ trở nên đặc hơn, nóng hơn và sau cùng thu 
				gọn bằng một vi tử như lúc ban đầu. Những tôn giáo thờ phượng 
				Thượng đế thì họ lý luận rằng nếu thế gian vũ trụ bắt đầu từ một 
				vi tử thì đây chính là điểm khởi đầu tức là thỉ? Nếu đã có thỉ 
				thì Phật giáo làm sao giải thích nguyên lý vô thỉ vô chung? 
				Chẳng những thế mà họ còn tự nhận Thượng đế chính là vi tử trên 
				đã sáng tạo ra tất cả. Chỉ có Phật giáo là có quan niệm rất 
				chính xác và tương đồng với khoa học vì Phật giáo xác định vũ 
				trụ là vô thỉ vô chung tức là không có điểm bắt đầu hay có ngày 
				cùng tận mà chẳng qua là những chu kỳ duyên khởi sinh diệt mà 
				thôi. Vi tử nổ tung tạo thành vũ trụ và khi vũ trụ thu trở lại 
				thì sẽ thành vi tử. Chu kỳ nầy xảy ra vô cùng vô tận thì cái nào 
				là cái bắt đầu? Còn nếu nói Thượng đế sáng tạo ra vũ trụ thì sau 
				bao nhiêu tỷ năm vũ trụ thu dần nhỏ lại thành vi tử thì ai chịu 
				trách nhiệm cho việc nầy? Thánh kinh xác định là Thượng đế đã 
				tạo ra trái đất nầy khoảng mười ngàn năm, nhưng ngày nay khoa 
				học đã chứng minh trái đất hiện diện trong vũ trụ nầy gần năm tỷ 
				năm rồi. Nếu nói chỉ có mười ngàn năm thì làm sao nói xưa như 
				trái đất được! Tóm lại, khoa học cũng chứng minh rằng khi đũ 
				nhân duyên thì từ một vi tử mà sanh ra vũ trụ và khi hết nhân 
				duyên thì vũ trụ bao la vô cùng vô tận cũng trở về thành một vi 
				tử mà thôi. 
				 
				Hiện tượng nầy không có gì xa lạ đối với Phật giáo. Đó chính là 
				bất biến tùy duyên và tùy duyên bất biến của Pháp giới duyên 
				khởi của đại thừa. Khi nhân duyên hòa hợp thì tạo thành con 
				người và vũ trụ nghĩa là bất biến mà tùy duyên. Còn nhân duyên 
				tan rã thì con người, vũ trụ sẽ trở về với bản thể ban đầu tức 
				là tùy duyên mà bất biến. Thế thì đâu có cái gì Có và Mất đâu. 
				Đây chẳng qua là tiến trình của Duyên Khởi mà thôi. 
				 
				Khoa học thì cũng chứng minh như thế. Nguyên lý bảo tồn năng 
				lượng xác định rằng năng lượng luôn luôn được bảo tồn tức là 
				năng lượng không bao giờ mất mà chỉ thay hình đổi dạng 
				(dU=dQ-dW). Thí dụ như chúng ta mở cái nút điện thì đèn sáng 
				nghĩa là năng lượng chuyển từ điện năng sang quang năng. Một thí 
				dụ khác là khi mở máy xay sinh tố thì máy chạy nghĩa là năng 
				lượng chuyển từ điện năng sang cơ năng. Cũng như nước chảy của 
				đập thủy điện là cơ năng làm cho các trục biến điện di động tạo 
				thành điện năng. Một nguyên lý thứ hai của vật lý học xác định 
				rằng tất cả tổng số sự bất ổn của vật chất luôn luôn tăng trưởng 
				nghĩa là vật chất sẽ hư hoại, tan biến dựa theo thời gian (fdQ/T≥0). 
				Đây chính là luật vô thường vô ngã của nhà Phật vậy. 
				 
				Vì có Nhất Thiết Chủng Trí nên ông Duy Ma Cật có thể hiểu biết 
				tất cả các pháp và Thể Tánh chân thật của nó. Khi sử dụng Nhất 
				Thiết Chủng Trí thì ông Duy Ma Cật thấy, biết rõ ràng một pháp 
				có đủ chủng tử, chất liệu của vạn pháp và tự nó ứng hợp lại với 
				nhau mà hình thành. Pháp nầy hàm chứa chủng tử của pháp kia và 
				chủng tử của vạn pháp trùng trùng duyên khởi cho nhau. Mặc dù 
				một pháp là yếu tố cấu tạo nên vạn pháp nhưng tướng một pháp và 
				tướng vạn pháp vốn không hai mà cũng không phải là một tức là 
				bất nhị. Thêm nữa, ông Duy Ma Cật quán chiếu Nhân Đà La Võng 
				Cãnh Giới để thấy biết vạn pháp tương ứng, tương túc và tương 
				nhập tác dụng lẫn nhau như sự ánh hiện trùng trùng phản chiếu vô 
				cùng vô tận. Do đó khi đem 32 ngàn tòa sư tử to lớn như thế vào 
				nhà mà không hề bị chật hẹp đó chính là Quảng Hiệp Tự Tại Vô 
				Ngại. Tất cả những tòa sư tử vì không có tướng trạng mà chỉ là 
				tư tưởng nên chúng không bị giới hạn bởi không gian hữu hạn nên 
				không bị chật hẹp. Chân tâm thì vô cùng vô tận, không những đem 
				32 ngàn tòa sư tử mà có thể thu nhiếp cả thế giới vũ trụ vào mà 
				không bao giờ đầy cả. Thí dụ như khi nhìn ngọn Hy Mã Lạp Sơn thì 
				chúng ta liền đem ngọn núi to lớn nầy vào trong tâm tưởng của 
				mình mà không thấy to lớn, chật hẹp bởi vì ngọn núi chỉ là tư 
				tưởng chớ không phải thật có. Ở đây hàng thấp nhất là A La Hán 
				đều đã đoạn tất cả phiền não lậu nên có được tâm thanh tịnh tức 
				là có được Chân tâm nên ông Duy Ma Cật dùng Chủ, Bạn Viên Minh 
				Công Đức khiến mọi người thấy biết những hiện tượng bất khã tư 
				nghì nầy một cách rõ ràng như thật. 
				 
				Bấy giờ ông Duy Ma Cật mời Bồ-tát Văn Thù và chư đại Bồ-tát 
				an tọa. Các Bồ-tát được thần thông tự biến thân cao lớn bốn muôn 
				hai ngàn do tuần, mới lên tòa ngồi được. Các Bồ-tát tân phát ý 
				và hàng Thanh Văn đại đệ tử đều không lên ngồi được. 
				 
				Trưởng giả Duy Ma Cật mời ông Xá Lợi Phất thăng tòa. 
				 
				Ông Xá Lợi Phất nói: 
				 
				- Thưa cư sĩ! tòa cao quá tôi không lên được. 
				 
				Trưởng giả Duy Ma Cật nói: 
				 
				- Xá Lợi Phất! Ngài hãy làm lễ Đức Tu Di Đăng Vương Như Lai rồi 
				có thể lên tòa ngồi được. 
				 
				Hàng tân phát ý Bồ-tát và tất cả đại đệ tử Thanh Văn làm lễ Đức 
				Tu Di Đăng Vương Như Lai, bấy giờ mọi người đều lên được tòa 
				ngồi. 
				 
				Quả vị Phật, trí tuệ Bồ-đề ngay cả Niết Bàn thanh tịnh không 
				phải chỉ dành riêng cho Phật, nhưng Phật và Bồ-tát có Bồ-đề, có 
				Niết bàn, riêng về phần Như Lai có vô thượng Chánh đẳng Chánh 
				giác. Còn phàm phu chúng sinh thì cũng có tự tánh Bồ-đề, tự tánh 
				Niết bàn như vậy, nhưng họ không hưởng được Niết bàn an lạc nầy 
				và không sử dụng được trí tuệ vô thượng Bồ-đề của mình mà còn 
				chìm đắm trong vòng sắc tài danh lợi thị phi phải quấy hơn thua 
				tốt xấu nên phải chịu chập chùng đau khổ hàng ngày cho đến hết 
				kiếp. Sau khi đảnh lễ đức Tu Di Đăng Vương Như Lai có nghĩa là 
				họ đã hồi đầu thị ngạn thì họ mới có thể lên tòa ngồi được. Tại 
				sao? Phật ví như người đã ở trên bờ còn phàm phu chúng sinh thì 
				vốn cũng đã ở trên bờ như Phật nhưng họ vì sự tham đắm sắc dục 
				và vô minh che lấp trí tuệ nên đã lên thuyền vượt ra biển cả 
				mênh mông mà phải bị sóng dập gió biển trùng trùng. Bây giờ nếu 
				nghe lời ông Duy Ma Cật mà chịu quay thuyền trở lại thì cũng có 
				thể lên bờ và được an vui tự tại như Phật. Đó chính là hồi đầu 
				thị ngạn tức là có hồi thuyền mới có ngày đến bến. Người học 
				Phật nếu thấu hiểu đạo lý nầy để cảm nhận được chân lý huyền 
				diệu của Thế Tôn mà không rơi vào mê tín dị đoan. Tuy Phật và 
				Bồ-tát thương tất cả chúng sinh như con một của các Ngài, nhưng 
				chính chúng sinh phải tự mình hồi đầu thị ngạn bằng cách áp dụng 
				những chân lý nhiệm mầu của Phật. Đó chính là ba từng kinh điển 
				giáo pháp. Đừng hiểu lầm chỉ đường để chúng sinh quay về bờ 
				không có nghĩa là Phật ra biển đưa chúng sinh về bờ mà chúng 
				sinh phải tự mình chèo lái dựa theo tấm hải đồ mà Đức Phật đã 
				ban cho. Thí dụ như chúng ta muốn khai khẩn một lô đất để trồng 
				rau cải. Phật đem cuốc xẻn đến giúp chúng ta có phương tiện và 
				chỉ dẫn cách trồng trọt. Nếu chúng ta y giáo phụng hành thì sau 
				vài tháng sẽ có vườn rau xanh mướt. Nói một cách khác là Phật 
				không độ hiểu theo nghĩa cầu nguyện, cúng lạy cho ai hết mà Phật 
				chỉ độ hiểu theo nghĩa y giáo phụng hành mà thôi. Chèo nhanh, 
				chèo chậm là tùy theo căn cơ, sở nguyện của chúng sinh, nhưng hễ 
				có chèo là có ngày đến bến. Tóm lại quả vị vô thượng Bồ-đề không 
				phải dành riêng cho Như Lai, nếu các vị Thanh Văn chịu hướng về 
				với tự tánh thanh tịnh tức là Phật tánh của mình thì sẽ có Bồ-đề 
				ngay. 
				 
				Các đại Bồ-tát thâm nhập trí tuệ Đại thừa nên không còn chấp 
				ngã, chấp pháp. Họ lìa Sự Tướng mà nhập Bản Thể thanh tịnh nên 
				có thần thông diệu dụng và tâm thể dung thông với vạn pháp nên 
				không có gì ngăn ngại. Họ quán Quảng Hiệp Tự Tại Vô Ngại mà tự 
				biến hóa tương ứng với kích thước tòa sư tử nên mới lên tòa sư 
				tử ngồi được. Nhưng đối với các vị Bồ-tát mới phát tâm và hàng 
				Thanh Văn thì họ còn chấp Pháp tức là thấy có pháp môn để tu, có 
				quả vị để chứng và còn cầu Niết bàn để được an vui tịch diệt nên 
				chưa thâm nhập được Bản Thể thanh tịnh mà không thể dung thông 
				với vũ trụ và hòa nhập với thiên nhiên được. Mặc dầu họ cũng có 
				thần thông nhưng bị giới hạn. Sau khi đảnh lễ Đức Tu Di Đăng 
				Vương Như Lai có nghĩa là họ đã lìa Tướng mà nhập Thể Tánh. Bỏ 
				Tiểu thừa về với Đại thừa, bỏ tối về sáng, lìa vô minh về với 
				trí tuệ hằng sáng chói của mình thì họ có được thần thông diệu 
				dụng và tự mình biến hóa để lên ngồi trên tòa sư tử. 
				 
				Ông Xá Lợi Phất nói: 
				 
				- Thưa cư sĩ! Quả là việc lạ lùng chưa từng có. Diện tích của 
				ngôi tịnh thất hữu hạn nầy mà lại có thể dung chứa hàng mấy muôn 
				cái tòa rộng. Thành Tỳ Xá Ly, xóm làng, cõi nước đều không chật 
				chội trở ngại gì nhau. Đây là việc chưa từng có. 
				 
				Ông Duy Ma Cật nói: 
				 
				- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Chư Phật, Bồ-tát có pháp môn giải thoát 
				gọi là : “Bất Khả Tư Nghì”. Nếu 
				Bồ-tát trụ trong pháp môn giải thoát đó, có thể lấy núi Tu Di 
				cao rộng để vào trong một hạt cải, mà núi Tu Di vẫn y nguyên 
				trạng, hạt cải vẫn không thêm bớt chút nào. Trời Thiên Vương, 
				Đạo Lợi, Chư Thiên không hề hay biết cảnh giới Chư Thiên đang ở 
				trong hạt cải. Chỉ có những người đáng độ (Bồ-tát đăng địa), mới 
				thấy biết núi Tu Di được đặt vào trong hạt cải. 
				 
				Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát tức là Bồ-tát đã thành tựu Bát 
				nhã ba-la-mật. Tất cả những cái vật chất trong thế gian nầy mà 
				kinh Lăng Nghiêm gọi là Sắc tức là địa đại. Cho nên khi Bồ-tát 
				lấy núi Tu Di để lọt vào trong hạt cải thì đây chính là sắc. Mà: 
				“Tánh sắc chơn không, tánh không chơn sắc, thanh tịnh bản nhiên 
				trang biến pháp giới tùy chúng sinh tâm ứng sở ứng tri lượng 
				tuần nghiệp phát hiện”. Vì Thể Tánh của Sắc có tính thanh tịnh 
				bản nhiên nhưng sở dĩ nó có là tùy theo tâm lượng hay theo sự 
				yêu cầu của chúng sinh mà phát hiện. Cho nên nếu Bồ-tát cầu cở 
				nào thì nó phát hiện cở ấy còn không cầu thì nó không có. Nói 
				một cách khác là Bản Thể của vật chất là Không tức là Sắc tức là 
				Không. Do đó khi thấy hiện tượng giới như đem vật lớn đặt vào 
				chỗ nhỏ là Bồ-tát muốn chúng sinh tư duy quán chiếu để thấy một 
				cách triệt để là ngũ uẩn giai không. 
				 
				Bồ-tát trụ bất tư nghì giải thoát, có thể lấy nước biển cả để 
				vào lỗ chân lông mà nước biển cả vẫn y nhiên. Các loài thủy tộc 
				cá, tôm, rùa, rạch… không bị khuấy 
				động. Long vương, quỷ thần, A tu la… không hề hay biết và họ 
				chẳng bị nhiễu hại chút nào. 
				 
				Bồ-tát trụ bất tư nghì giải thoát, còn xắn lấy ba ngàn đại thiên 
				thế giới để trên bàn tay và ném qua hằng hà sa thế giới, rồi thu 
				về đặt lại chỗ cũ mà thế giới vẫn y nhiên. Người người ở trong 
				các thế giới kia không hề hay biết về sự đi lại của mình. 
				 
				Còn Bồ-tát đem nước biển để vào lỗ chân lông hay lấy ba ngàn đại 
				thiên thế giới để trên bàn tay là ý như thế nào? 
				 
				Hai hiện tượng trên đây cũng đều là phản ảnh cho sự biến đổi của 
				không gian vì thế chúng ta cũng có thể áp dụng câu: “Tánh thủy 
				chơn Không, Tánh không chơn thủy, thanh tịnh bản nhiên trang 
				biến pháp giới tùy chúng sinh tâm ứng sở ứng tri lượng tuần 
				nghiệp phát hiện” nghĩa là Tánh của nước là Không, Tánh Không là 
				nước, tự nó rất thanh tịnh, nhưng vì nhu cầu của chúng sinh mà 
				ứng hiện. Vì nước nầy là do tinh khí và dưỡng khí hòa hợp mà 
				thành nghĩa là nước không có tự tánh tức là Không. Khi đầy đủ 
				nhân duyên hội tụ thì Không trở thành nước còn bình thường thì 
				nước trang biến pháp giới mà lại thanh tịnh bản nhiên. Cho nên ở 
				đâu cũng có nước mà nước không làm ngập lụt chết người vì tánh 
				của nước là thanh tịnh bản nhiên. Chỉ khi nào cần và có đủ nhân 
				duyên hội tụ thì Không thành ra nước tức là tùy chúng sinh tâm 
				ứng sở tri lượng nghĩa là đáp ứng tùy theo nhu cầu của chúng 
				sinh. Do đó đứng về sắc thì thấy có nước biển nhiều, nhưng Bản 
				Thể của nước biển là Không cho nên nếu Bồ-tát quán Quảng Hiệp Tự 
				Tại Vô Ngại thì có thể biến hiện Thể Không của nước biển vào 
				trong lỗ chân lông là vậy. 
				 
				Còn nữa, thưa ngài Xá lợi Phất! Nếu có chúng sinh thích sống 
				lâu ở đời, vì hóa độ họ, trong khoảng bảy ngày, Bồ-tát nói với 
				họ là một kiếp, khiến chúng sinh kia tin nhận là một kiếp. 
				 
				Hoặc có chúng sinh không thích sống lâu ở đời, vì hóa độ họ, 
				Bồ-tát rút ngắn một kiếp nói là bảy ngày, khiến chúng sinh kia 
				tin nhận là bảy ngày. 
				 
				Những phần trên của phẩm nầy thì Bồ-tát đã biểu diễn Bất khả tư 
				nghì giải thoát do sự thay đổi biến hiện của không gian. Bây giờ 
				ông Duy Ma Cật muốn chứng minh thời gian cũng như không gian là 
				vô thường vô ngã sinh diệt, là những tướng trạng tương đối, là 
				những khuôn mẩu đặt ra để phân biệt, là giả huyễn không thật có. 
				 
				Dựa theo Mười Đời Cách Pháp Dị Thành thì một đời bao gồm cả ba 
				đời nghĩa là ngay trong đời hiện tại đã có sự hiện diện của đời 
				quá khứ, hiện tại và vị lai. Tại sao? Bởi vì đời hiện tại của 
				chúng ta ngày nay chẳng qua là kết quả của biết bao nghiệp nhân 
				mà con người đã tạo tác trong những đời quá khứ và cũng chính 
				đời hiện tại nầy chúng ta đang tạo ra rất nhiều nghiệp nhân mà 
				sẽ là kết quả cho đời tương lai. Vậy đời nào là đời thật? Vì thế 
				đời không có gì làm tiêu chuẩn cho quá khứ, hiện tại, vi lai cả. 
				Thí dụ như nhìn thấy một người chúng ta cho họ là năm sáu mươi 
				tuổi. Nhưng dựa trên tiêu chuẩn nào để chúng ta kết luận như 
				vậy? Phải chăng là nhìn thấy người nầy tóc hoa râm, mắt kém… 
				Nhưng thật sự làm sao biết chắc người nầy năm sáu chục tuổi? Có 
				người sáu bảy chục tuổi mà mắt vẫn sáng như sao, tóc da tươi 
				nhuận. Còn có người mới ba bốn mươi tuổi nhưng vì cuộc sống đầu 
				tắt mặt tối nên đầu tóc bạc phơ thì già hơn trước tuổi là chuyện 
				thường. Do đó nếu dựa trên thời gian thì không tìm đâu cho ra 
				tuổi. Tuổi mà con người dựa theo là tính theo sự vận chuyển của 
				địa cầu quanh mặt trời đâu có giống tuổi của những thế giới 
				khác. Một ngày trên không gian dài hơn một ngày dưới địa cầu rất 
				nhiều. Ngày xưa Lưu Nguyễn ngao du chốn bồng lai mới vài năm mà 
				khi về lại nhà củ làng xưa thì hoàn toàn thay đổi vì mấy năm 
				tiên cảnh bằng vài trăm năm trần thế. Vậy tuổi nào là tuổi thật? 
				Kiếp sống chết của con người không bao giờ có thể luận theo tuổi 
				tác được. Có người chết già, có kẻ chết bệnh và có kẻ sống dở 
				chết dở cho nên thời gian chẳng có giá trị chân thật bởi vì khái 
				niệm thời gian chỉ là dựa trên sự vô thường chuyển biến của các 
				pháp hữu vi. Thí dụ như ngày và đêm đâu có đồng nhất. Ngày ở Hoa 
				kỳ tức là đêm ở Việt nam vậy thời gian cùng một thế giới nhỏ nầy 
				mà không giống nhau thì làm sao gọi là chân lý. 
				 
				Còn nữa thưa ngài Xá Lợi Phất! Trụ bất tư nghì giải thoát, 
				Bồ-tát lấy những sự trang trí đẹp đẽ của tất cả cõi Phật nhóm 
				lại ở một chỗ chỉ bày cho chúng sinh xem thấy rõ ràng. Bồ-tát 
				lấy tất cả chúng sinh và cõi Phật để trên bàn tay bay đến khắp 
				mười phương, chỉ rõ cho tất cả mà “bổn xứ” không hề động chuyển. 
				 
				Thưa ngài Xá Lợi Phất! Những món đồ cúng dường chư Phật trong 
				mười phương, Bồ-tát có thể đem vào trong một lỗ chân lông khiến 
				cho ai cũng có thể được thấy. 
				 
				Mười phương cõi nước có bao nhiêu nhật nguyệt, tinh tú gom về 
				trong một lỗ chân lông, khiến cho xem thấy dễ dàng. 
				 
				Mười phương thế giới có bao nhiêu gió, Bồ-tát hớp vào miệng mà 
				thân không hề tổn hại. Tất cả cây cỏ bên ngoài không bị gãy đổ. 
				 
				Mười phương thế giới, khi kiếp tận, lửa cháy ngút trời, Bồ-tát 
				hút tất cả lửa vào trong bụng mà thân không bị tai hại. 
				 
				Bồ-tát có thể lấy một cõi Phật ở hằng hà sa thế giới ở hạ 
				phương, cầm đem lên cách hằng hà sa số thế giới ở thượng phương 
				như cầm một que tăm găm vào một quả táo, không khó khăn mệt nhọc 
				chút nào. 
				 
				Còn nữa thưa ngài Xá Lợi Phất! Trụ bất tư nghì giải thoát, 
				Bồ-tát có thể dùng thần thông hiện thân Phật, hoặc hiện thân 
				Bích Chi Phật, hoặc hiện thân Phạm vương, hoặc hiện thân Chuyển 
				luân Vương. 
				 
				Lại nữa, trong mười phương thế giới có bao nhiêu thứ âm thanh, 
				thượng, trung, hạ đều có thể biến thành âm thanh Phật, diễn nói 
				những pháp của chư Phật trong mười phương đã nói như vô thường, 
				khổ, không và vô ngã khiến cho chúng sinh hữu duyên đều được 
				nghe. 
				 
				Thưa ngài Xá Lợi Phất! Tôi lược nói về thần lực bất khả tư nghì 
				giải thoát của Bồ-tát là thế. Nếu nói rộng suốt kiếp cũng không 
				nói hết được. 
				 
				Cũng như lửa cháy ngút trời mà Bồ-tát hớp vào miệng mà thân 
				không hề tổn hại. Nếu nhìn bằng nhục nhãn thì làm sao hớp lửa 
				ngút trời vào trong bụng cho được, nhưng ở đây một lần nữa 
				Bồ-tát không nhìn vật chất bằng nhục nhãn mà nhìn bằng mắt trí 
				tuệ bát nhã ba-la-mật thì thấy lửa tức là Không và Không tức là 
				lửa (Tánh hỏa chơn Không, Tánh Không chơn hỏa). Thanh tịnh bản 
				nhiên là lửa ở khắp trong vũ trụ mà không làm cháy ai hết, nhưng 
				nếu chúng sinh tâm ứng sở tri lượng tuần nghiệp phát hiện thì 
				nếu con người cần lửa thì nó mới cháy. Thí dụ như ánh sáng mặt 
				trời là một dạng của lửa thì có cháy ai đâu, nhưng chỉ khi nào 
				chúng ta đem kính lúp đặt dưới ánh sáng mặt trời thì sẽ có lửa 
				cháy ngay. 
				 
				Nói chung những hiện tượng trên giúp chúng sinh tư duy quán 
				chiếu về địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến 
				đại và thức đại. Tất cả đều là Không mà Không chẳng khác có và 
				có chẳng khác Không vậy. Nói một cách khác lửa chẳng khác Không 
				và Không chẳng khác lửa. 
				 
				Thêm nữa, khi Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát hiện các thân 
				Phật, Bích Chi Phật, Phạm Vương… hay biến cả các thứ âm thanh to 
				nhỏ thành tiếng Phật thì tất cả hiện tượng nầy đều là Sắc.  
				Mà: “Tánh sắc chơn không, tánh không chơn sắc, thanh tịnh bản 
				nhiên trang biến pháp giới tùy chúng sinh tâm ứng sở ứng tri 
				lượng tuần nghiệp phát hiện”. Dù biết thân Phật, thân Bích Chi 
				Phật, ngay cả âm thanh hay tiếng Phật là giả huyễn mà Bồ-tát vẫn 
				biến hiện các hình tướng thích hợp với hoàn cảnh mà hoằng dương 
				Phật pháp. Họ dùng phương tiện để giúp chúng sinh tìm về với cứu 
				cánh giải thoát giác ngộ. 
				 
				Nếu chúng sinh biết tư duy quán chiếu để thấy biết rằng vũ trụ 
				là do sự tạo thành biến hiện của không gian và thời gian, nhưng 
				không gian và thời gian là giả huyễn, là vô thường vô ngã, sanh 
				sanh diệt diệt. Khác hẳn với hàng Thanh Văn vì thấy thế gian vũ 
				trụ là sinh diệt nên họ cố tu để mong chứng quả vị Bồ-đề và cầu 
				sự tịch diệt an lạc của Niết bàn nên họ còn chấp Pháp có và các 
				vị Bồ-tát thì chấp Không vì đối với họ vạn pháp giai Không tức 
				là không có gì trên đời là thật có cả. Ở đây chúng sinh nên bắt 
				chước chư Phật để xóa tan những tư tưởng về chấp Pháp và chấp 
				Không mà nhận biết rằng vạn pháp tuy là Có nhưng không phải là 
				Có thật, còn Không nhưng không phải là không của cái trống 
				không. Khi nhân duyên hòa hợp thì vạn pháp sanh và khi nhân 
				duyên tan rã thì vạn pháp diệt cho nên tuy vạn pháp sanh sanh 
				diệt diệt, diệt diệt sanh sanh mà chúng sinh vẫn luôn luôn tự 
				tại trước sự sanh diệt, diệt sanh nầy. Cùng lối nhìn như Bồ-tát 
				để thấy rằng con người, vạn pháp là Không nghĩa là không thật có 
				mà hiện giờ nó vẫn có vì thế con người nên làm bất cứ cái gì cần 
				làm để giúp đở cho tất cả chúng sinh mặc dù họ là không có thật. 
				 
				Nếu biết áp dụng huyền nghĩa của đoạn kinh nầy vào trong cuộc 
				sống thì con người sẽ không còn chấp Tướng tức là hình sắc, âm 
				thanh, ngôn ngữ, lời nói, văn tự… thì cuộc sống sẽ an vui tự 
				tại, không còn ràng buộc khổ đau. Nếu không chấp vào hình tướng 
				thì con người sẽ không còn quan trọng đến nhà sang, xe đẹp, áo 
				lụa quần là, se sua chưng diện xa hoa… mà chỉ cần đứng đắn chỉnh 
				tề, tâm tư thanh thoát và ung dung tự tại. Nếu không chấp âm 
				thanh, lời nói, văn tự vì chúng là giả huyễn, là sinh diệt thì 
				con người sẽ dững dưng trước lời khen tiếng chê và xem những 
				tiếng thị phi như gió thoảng ngoài tai mà hướng tâm thanh tịnh 
				để thấy rằng: “Nhất thế sắc giai thị Phật sắc, nhất thế thanh 
				giai thị Phật thanh” nghĩa là nếu có tâm thanh tịnh thì tất cả 
				hình tướng đều là hình tướng Phật và tất cả âm thanh đều là âm 
				thanh Phật. 
				 
				Ngài Đại Ca Diếp sau khi nghe pháp môn bất khả tư nghì giải 
				thoát, rất hoan hỉ, tán thán và nói với ông Xá Lợi Phất rằng: 
				 
				- Ví như sắc tượng hiện hữu ngay trước mắt người mù nhưng người 
				mù không sao thấy được. Cũng vậy, với pháp môn bất khả tư nghì 
				giải thoát, hàng Thanh Văn dù có nghe nhưng cũng không hiểu rõ 
				được. 
				 
				Người trí ai nghe mà chẳng phát tâm vô thượng Bồ-đề. 
				 
				Hàng Thanh Văn chúng ta vì sao lại dứt hẳn hạt giống đại thừa để 
				cho mầm tược cháy khô. Tất cả hàng Thanh Văn nghe pháp môn bất 
				khả tư nghì giải thoát, nên khóc rống lên đi! Khóc cho vang động 
				cả ba ngàn đại thiên thế giới! Còn tất cả các Bồ-tát, những 
				người chủng tánh đại thừa nên hân hoan tiếp thụ, kê đầu đội lấy 
				pháp môn nầy. 
				 
				Bồ-tát tin và hiểu pháp môn bất khả tư nghì giải thoát, tất cả 
				các ma dù có thể lực bao nhiêu đi nữa cũng không làm gì động 
				chuyển. 
				 
				Ngài Đại Ca Diếp nói xong. Khi bấy giờ có ba muôn hai ngàn thiên 
				tử phát tâm vô thượng Bồ-đề. 
				 
				Các vị Thanh văn tuy chứng quả A La Hán và được ra khỏi sinh tử 
				luân hồi nhưng tâm vẫn còn chấp trước nơi pháp Tiểu thừa nên 
				chưa được giải thoát rốt ráo. Sau khi nghe Bồ-tát trụ Bất tư 
				nghì giải thoát làm Bất tư nghì sự và trình diễn Bất tư nghì 
				cảnh giới thì như người mê chợt tỉnh, bỏ tối tìm sáng mà phát 
				tâm vô thượng Bồ-đề để quay về với chân lý liễu nghĩa tối thượng 
				đại thừa. 
				 
				Bấy giờ ông Duy Ma Cật nói với ngài Đại Ca Diếp: 
				 
				- Thưa nhân giả! Trong thập phương vô lượng A tăng kỳ thế giới, 
				những người làm ma vương phần nhiều là Bồ-tát trụ bất khả tư 
				nghì giải thoát, dùng sức phương tiện giáo hóa chúng sinh mà 
				hiện làm ma vương như vậy. 
				 
				Lại nữa, thưa ngài Ca Diếp! Bồ-tát trong mười phương nhiều vô 
				số. Có khi người ta theo các ngài để xin mắt, mũi, tay, chân, 
				máu thịt, xương tủy, đầu óc… Xin 
				quốc thành thê tử, tượng mã, kim ngân… xin cả y phục và thức ăn. 
				Người xin như vậy, phần nhiều là Bồ-tát trụ bất khả tư nghì giải 
				thoát dùng sức phương tiện để thử thách hạnh sở hành của Bồ-tát 
				khiến cho sức kiên cố càng thêm kiên cố. 
				 
				Thử thách như vậy để làm gì? 
				 
				Bởi vì Bồ-tát trụ bất tư nghì giải thoát có nghị lực và uy đức 
				lớn lao cho nên dùng những hành động bức bách dồn ép làm những 
				việc khó làm để biểu thị sức tinh tấn, chỉ bày đức nhẫn nhục…vì 
				sự nghiệp giáo hóa chúng sinh. 
				 
				Hạng phàm phu hạ liệt không có uy lực, không thể kham chịu những 
				sự bức bách nghiệt ngã như Bồ-tát được. Ví như sức lừa không 
				chịu nổi sự dẫm đạp của long tượng. 
				 
				Thông thường ma quỷ là những hình bóng, hiện tượng kỳ quái xuất 
				hiện khiến cho con người lo sợ, khiếp đảm làm cản trở chướng 
				ngại sự tu hành. Nhưng ở đây chính các vị Bồ-tát trụ Bất tư nghì 
				giải thoát lại thị hiện làm ma vương để dùng phương tiện mà giáo 
				hóa chúng sinh. Thí dụ như có người phát nguyện tu bố thí 
				ba-la-mật để phát triển chủng tử từ bi đại thừa thì ma vương thị 
				hiện đến xin từ ngoại tài như vàng bạc, châu báu, thức ăn, áo 
				mặc cho đến nội thân như chân tay, mắt, mũi…cốt là để thử thách 
				người đó có thực hành hạnh bố thí như họ đã phát nguyện không. 
				Ma vương cũng thị hiện đến quấy phá những người tu hạnh nhẫn 
				nhục, quấy nhiễu những kẻ tu thiền, làm phân tâm những người 
				niệm Phật. Ngày xưa lúc Đức Phật tu dưới cội Bồ-đề sắp thành 
				ngôi Chánh giác thì Ma Nữ cũng xuất hiện rất nhiều để thử thách 
				lòng kiên cố, tâm kiên nhẫn và ý chí sắc đá của Ngài. 
				 
				Thật ra ma vương mà kinh nầy muốn ám chỉ chính là lục dục thất 
				tình núp thật sâu vào trong tâm thức của tất cả chúng sinh. Đó 
				chính là tham-sân-si, mạn, nghi, tà kiến… những ảo tưởng của thị 
				dục, những thói hư tật xấu luôn thúc đẩy con người lún sâu vào 
				vòng tăm tối, xấu xa. Khác hẳn với hàng Thanh văn hay phàm nhân 
				thì sợ nghịch cảnh, không dám đối diện với cảnh trái ý nghịch 
				lòng, ở đây Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát thị hiện làm ma 
				vương để giáo hóa chúng sinh tu trong nghịch cảnh. Có đối diện 
				với nghịch cảnh, biết mặt thật của cuộc đời thì con người mới 
				nung nấu chí nguyện của mình trở thành sắc đá, tăng trưởng tâm 
				nhẫn nhục, phát huy lòng từ bi, đạo đức làm nền tảng cho tâm 
				được thanh tịnh mà có trí tuệ sáng suốt. Vì thế người xưa cũng 
				có câu: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có 
				hơn ai”. Thật vậy, lửa có cao mới biết vàng nhiều tuổi, có vào 
				hang cọp mới bắt được cọp con. Bồ-tát thì phải làm cho được 
				những việc khó làm. Cố gắng tích cực chế ngự nghịch cảnh, vượt 
				qua mọi khó khăn, cứu giúp tất cả chúng sinh mà không chán nản 
				mệt mỏi và không hề bị dòng đời lôi cuốn. Bồ-tát luôn vận dụng 
				trí tuệ để đáp ứng mọi yêu cầu, sang bằng mọi thử thách để hoàn 
				thành hạnh nguyện. Khác với các vị A La Hán thấy đời vô thường 
				vô ngã sinh sinh diệt diệt nên cố tu tìm giải thoát tịch diệt 
				Niết bàn và mong chứng quả vị Bồ-đề, ông Duy Ma Cật vạch ra một 
				con đường sáng là lấy gia đình xã hội làm đạo tràng tu thanh 
				tịnh, lấy chúng sinh làm đối tượng tu học, lấy nghịch cảnh làm 
				phương châm giáo hóa. Ngay trong cảnh phiền não ô trược, xã hội 
				phức tạp mà chúng sinh vẫn có được Niết bàn cũng như hoa sen 
				thơm ngát vươn lên trong bùn tanh hôi hám. Còn quả vị Vô thượng 
				Bồ-đề thì chúng sinh cũng không cần mong cầu trông đợi vì tự 
				tánh Bồ-đề thì lúc nào cũng có sẳn trong mọi chúng sinh. Nếu con 
				người chịu lìa xa vọng chấp, tâm không còn dính mắc và hướng về 
				sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình tức là hồi đầu 
				thị ngạn để quay thuyền trở lại bến thì ai ai cũng có ngay Phật 
				tánh, chơn tâm nghĩa là Bồ-đề hiễn hiện vậy. 
				 
				Đó là pháp môn phương tiện và trí tuệ của Bồ-tát trụ Bất Khả Tư 
				Nghì Giải Thoát pháp môn. 
				
				
				 |  
				 |