|   
				
				Chương Thứ Mười Một 
				
				  
				
				Phẩm
				Hạnh Bồ-tát 
				
				(Việc Làm Của Bồ-tát) 
				
				(The Practices of Bodhisattvas) 
				Đức Phật đang thuyết pháp 
				ở trong một vườn xoài Am la cây to hàng rợp bóng. Lúc bấy giờ 
				đất vườn bỗng nhiên trở nên rộng rãi bao la khác thường, cành lá 
				vườn cây đổi màu mơn mởn xanh tươi, trăm hoa đua nở rực rỡ sắc 
				màu, lã lướt đong đưa trong làn gió nhẹ. Cảnh vật tựa hồ như hân 
				hoan chào đón …Tất cả đại chúng trong hải hội tự nhiên đến trở 
				thành màu hoàng kim rạng rỡ hào quang. 
				Thấy hiện tượng lạ, ông A 
				Nan thưa với Phật: 
				- Bạch Thế Tôn! Do nhân 
				duyên gì mà cảnh vật trong vườn hiện ra điềm lạ thế kia. Đất của 
				vườn xoài bỗng nhiên rộng rãi bao la, cây cối xanh tươi, trăm 
				hoa rực rỡ sắc màu, mọi vật có vẻ như hân hoan khác lạ. Đại 
				chúng trong hải hội đều trở thành một màu hoàng kim rực rỡ. 
				Đức Phật bảo A Nan: 
				- Hiện giờ ông Duy Ma Cật 
				và Văn Thù Sư Lợi cùng đại chúng đang phát khởi ý muốn đến ra 
				mắt Ta. Họ đang cung kính đi nhiểu quanh, trước khi đến đây cho 
				nên ứng ra điềm ấy. 
				Mỗi khi Bồ-tát thị hiện ở 
				bất cứ nơi nào thì kinh thường diễn tả cảnh vật ở đó bỗng nhiên 
				trở thành trang nghiêm rực rỡ làm cho đại chúng thêm hoan hỉ. 
				Người Ấn độ có màu da hơi sạm đen vì thời tiết quá nóng, nay tất 
				cả mọi người thấy màu da của mình chuyển thành màu vàng kim tức 
				là màu đẹp đẽ tôn quý nên tất cả càng thêm hoan hỉ. Đất của vườn 
				xoài Am la bỗng nhiên rộng rãi bao la nghĩa là tâm của chúng 
				sinh ví như Đất (tâm địa) thì mở rộng sẳn sàng đón nhận tư tưởng 
				Đại thừa. Khi nội tâm đã hoán chuyển thì ngoại cảnh cũng biến 
				hiện theo nghĩa là nếu nội tâm có tinh thần sáng suốt thì hình 
				tướng bên ngoài cũng theo nhãn thức sáng suốt, tốt đẹp mà hiển 
				hiện. Thí dụ như nếu chúng ta nghĩ lành, làm tốt thì trong 
				tâm địa của mình chuyển thành những hiện tượng đẹp vui, 
				thanh thoát. Ngược lại nếu mình muốn ám hại ai thì trong tâm 
				địa tức thì ứng hiện những cảnh xấu xa A tỳ, địa ngục. Nói 
				một cách rộng rãi hơn là mỗi khi chúng ta khởi ý niệm làm những 
				việc tốt đẹp lợi ích cho chúng sinh thì tâm (địa) của mình chính 
				là tâm của Bồ-tát. Hay khi đang làm việc lành, việc thiện thì 
				cái tâm (địa) của chúng ta trong thời điểm đó rất hân hoan, 
				khoan khoái, nhẹ nhàng, đẹp đẽ, hào quang sáng chói như Bồ-tát. 
				Trái lại nếu chúng ta đang làm việc bất thiện, hại người lợi 
				mình thì cái tâm (địa) lúc bây giờ nặng nề, lo âu, sợ hãi, đầy 
				chướng khí như ma quỷ.  
				Bấy giờ ông Duy Ma Cật 
				nói với Đại Trí Văn Thù Sư Lợi rằng: 
				- 
				Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Chúng ta nên đến ra mắt 
				Đức Thế Tôn. Nhân cơ hội này để chư Bồ-tát tham kiến và lễ bái 
				cúng dường Đức Phật. 
				Bồ-tát Văn Thù nói: 
				- Ý kiến rất hay. Thật là 
				đúng lúc. Vậy chúng ta nên cùng đi. 
				Bấy giờ ông Duy Ma Cật 
				bèn dùng thần lực, dời tất cả đại chúng trong lúc mọi người vẫn 
				ngồi trên tòa sư tử, để lên bàn tay phải của mình sang đến chỗ 
				Phật. Đến nơi để xuống dưới đất. Ông Duy Ma Cật đê đầu, lễ dưới 
				chân Phật. Đi hữu nhiểu bảy vòng, chắp tay cung kính đứng qua 
				một phía. Các Bồ-tát, hàng đệ tử Thanh văn, trời Đế Thích, Phạm 
				Thiên, tất cả rời khỏi tòa ngồi, dập đầu dưới chân Đức Phật cùng 
				đi hữu nhiểu bảy vòng và đứng sang một phía. 
				Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn 
				tỏ lời thăm hỏi trong đạo tình thân thiết đối với toàn thể đại 
				chúng và mọi người hãy an tọa trở lại bản tòa. 
				Đức Phật bảo ông Xá Lợi 
				Phất rằng: 
				- 
				Xá Lợi Phất! Ông đã thấy sức thần thông tự tại của bậc đại sĩ 
				Bồ-tát làm rồi chứ? 
				- Dạ! Bạch Thế Tôn, con 
				đã thấy. Ông Xá Lợi Phất thưa. 
				Phật hỏi:
				Ý ông thế nào? 
				Bạch Thế Tôn! Con thấy 
				việc làm của Bồ-tát khó có thể nghĩ bàn. Vượt ra ngoài sự suy 
				lường của tâm, sự nghĩ ngợi của ý. 
				Chúng ta đã quen thuộc với 
				Thập Huyền Duyên Khởi hay Mười Lý Huyền Diệu của các Pháp thì có 
				thể quán trí mà thấy được Bản Thể dung thông vô ngại và vượt qua 
				mọi hình tướng vật chất nên không có lớn nhỏ, rộng chật vì thế 
				tuy ông Duy Ma Cật có vận thần thông đặt tất cả những tòa sư tử 
				đồ sộ như thế lên một bàn tay và dời đến chỗ Phật thì tất cả 
				cũng chỉ là tư tưởng, hình ảnh mà thôi chớ không phải bằng vật 
				chất thật. Trong Hoa Nghiêm tôn do ngài Đỗ Thuận lập ra đời 
				Đường chủ trương “Pháp giới duyên khởi” nghĩa là vũ trụ vạn hữu 
				trùng trùng do nhân duyên hòa hợp mà thành. Nói một cách khác, 
				mọi sự vật trong vũ trụ bao la, từ nhỏ như hạt bụi đến lớn như 
				trăng sao đều nương vào nhau, làm nhân làm quả, lớp lớp không 
				cùng không tận, dung thông nhau, đối chọi nhau, ảnh hưởng lẫn 
				nhau mà có. Cái này có là nhờ cái kia và ngược lại. Cái này, cái 
				kia tương quan, tương duyên, lớp lớp không cùng tận nên được gọi 
				là “trùng trùng duyên khởi”.  
				Pháp giới duyên khởi có bốn 
				giai đoạn: 
				1) Sự pháp giới: Sự là nói 
				về hình tướng khác nhau của các pháp trong vũ trụ. Thí dụ như 
				nước đá nước sôi, hơi nước đều có tướng trạng khác nhau. 
				2) Lý pháp giới: Lý là nói 
				về cái phần bên trong tức là thế giới vô hình của sự vật. Đây 
				chính là lý Tánh bình đẳng, là chỗ nương tựa cho tất cả sự 
				Tướng. Thí dụ tuy có nước lạnh, nước sôi, nước đá, hơi nước, 
				nhưng Thể Tánh vẫn là một, là nước. 
				3) Lý Sự vô ngại pháp giới: 
				Lý do Sự mà biết, còn Sự nương vào Lý mà thành. Lý và Sự dung 
				thông. Thí dụ như nước tức là sóng, sóng tức là nước. Lý, Sự 
				dung thông vô ngại. 
				4) Sự Sự vô ngại pháp giới:
				Trong pháp giới có hằng hà sa số sự vật, hình tướng tuy khác 
				nhau, nhưng Lý Tánh lại dung thông bình đẳng, không có phân chia 
				ngăn cách. Thí dụ có nhiều cái hồ chứa nước lớn nhỏ khác 
				nhau, hình dáng khác nhau, nhưng ăn thông với nhau bằng những 
				ống nước. Do đó sự đầy vơi, dơ sạch của một hồ đều liên quan đến 
				tất cả các hồ khác. Thí dụ nầy là để quý độc giả có một khái 
				niệm về sự dung thông bất tận, nhưng thật ra Lý Tánh thì vô hình 
				tướng thì làm sao mà giải thích, so sánh được. Nếu nhìn về tướng 
				trạng thì thấy có lớn có nhỏ, có ngăn ngại tức là cái nhỏ làm 
				sao chứa cái lớn hay làm sao bưng cả vũ trụ vào bàn tay được, 
				nhưng nếu dựa vào Lý Tánh thì tất cả là tư tưởng, là chân không 
				thì làm gì có lớn có nhỏ nên dung thông mà không ngăn ngại. Thí 
				dụ nhìn qua kính Hubble thì tất cả vũ trụ bao la vô cùng vô tận 
				cũng chỉ nằm gọn trong cái thấu kính mà thôi, không hề ngăn ngại 
				   
				Những thí dụ trên là cốt gợi 
				lên cho độc giả một ý niệm về sự sự vô ngại pháp giới thôi, chứ 
				thật ra Lý, Sự không thể phân tách ra được nghĩa là trong Lý có 
				Sự và trong Sự có Lý rồi. 
				Vì là trùng trùng duyên khởi 
				nên một là tất cả và tất cả là một, mọi sự vật trong vũ trụ đều 
				dung thông nhau. Đây chính là “sự sự vô ngại pháp giới” vậy. 
				 Nói tóm lại tất cả những 
				chân lý trên nhằm một mục đích nhận chân được rằng: Các pháp một 
				và nhiều không ngăn ngại nhau, lớn và nhỏ trùm nhau, lớp lớp 
				không cùng không tận, ẩn hiện tự tại, đồng thời tương túc tương 
				nhập, thâu nhiếp, dung thông nhau cho đến vô cùng vô tận, trùm 
				chứa cả vũ trụ bao la. Do đó khi nhận chân được “Lý trùng trùng 
				duyên khởi” tức là “sự sự vô ngại pháp giới” thì chúng sinh sẽ 
				không còn nghĩ rằng việc ông Duy Ma Cật đem bao nhiêu tòa sư tử 
				để vào một bàn tay mà đưa đến chỗ Phật là chuyện thần thoại 
				hoang đường. (Nhắc lại những chân lý nầy không phải dễ hiểu, xin 
				quý độc giả nên đọc lại nhiều lần ý nghĩa của Thập Huyền Duyên 
				Khởi trong phẩm Bất Khả Tư Nghì và Pháp Giới Duyên Khởi ở trên 
				để tư duy quán chiếu thì mới thấy lẻ huyền diệu của kinh. Khi đã 
				thấu hiểu những chân lý nầy thì chúng sinh nhìn vật thể, vũ trụ 
				bằng lối nhìn rất thực tế và hảnh diện vì Phật giáo có thể giải 
				thích mọi hiện tượng cấu thành của nhân sinh vũ trụ rất chính 
				xác và khoa học).  
				Bấy giờ ông A Nan đứng 
				lên hỏi Phật: 
				- Bạch Thế Tôn! Hôm nay 
				trong bầu không khí của hải hội có mùi hương kỳ diệu mà từ trước 
				chưa từng có, chúng con không biết đó là thứ hương gì? 
				Phật bảo: 
				- 
				Đó là mùi hương phát ra từ lỗ chân lông của các Bồ-tát vừa mới 
				đến. 
				Ông Xá Lợi Phất nói với 
				ông A Nan: 
				- Từng lỗ chân lông của 
				tôi cũng phát ra mùi hương ấy. 
				A nan hỏi: 
				- Do đâu ngài có được mùi 
				hương ấy? 
				- Do ông Duy Ma Cật xin 
				được cơm dư của Phật Hương Tích ở nước Chúng Hương đem về tịnh 
				thất của ông. Những ai được ăn cơm ấy, lỗ chân lông đều phát ra 
				mùi hương như thế. 
				- Mùi hương ấy có thể giữ 
				lại trong người bao lâu mới hết? 
				- Cho đến khi nào cơm 
				tiêu thì mùi hương mới hết. 
				- Cơm ấy bao lâu mới 
				tiêu? 
				Thế lực của cơm này sau 
				bảy ngày mới tiêu. 
				         
				- Thưa ngài A nan! Nếu người Thanh văn chưa chứng nhập chánh vị, 
				ăn cơm này, đến khi tâm được giải thoát, cơm mới tiêu. Nếu chưa 
				phát ý Đại thừa, ăn cơm này đến khi phát ý, cơm mới tiêu. Đã 
				phát ý Đại thừa, ăn cơm này đến khi được vô sanh pháp nhẫn, cơm 
				mới tiêu. Đã được vô sanh pháp nhẫn, ăn cơm này đến khi được 
				nhất sanh bổ xứ, cơm mới tiêu. Ví như có thứ thuốc tên là thượng 
				vị, người uống thuốc này, các chất độc trong thân hết, vị của 
				thuốc mới tiêu. Cơm này cũng thế. Chừng nào dứt trừ hết các độc 
				phiền não, nhiên hậu cơm mới tiêu. 
				Ông A Na thưa: 
				- Bạch Thế Tôn! Thật chưa 
				từng có. Cơm này có thể làm nên Phật sự! 
				Cơm trong kinh nầy là cơm 
				hương nghĩa là cơm giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri 
				kiến chớ không phải là cơm lúa gạo của thế gian. Nhưng thế nào 
				là giải thoát và giải thoát tri kiến? Đó là diệt trừ ngã chấp và 
				pháp chấp không ngừng nghĩ vì thế trong tâm thức lúc nào cũng tư 
				duy quán chiếu để diệt ngã và diệt tất cả những ý niệm về chấp 
				pháp. Do đó ngửi thấy mùi hương là thâm nhập giới, định, tuệ, 
				giải thoát và giải thoát tri kiến hương thì tự mình đã có an vui 
				tự tại, giải thoát cũng như từng lỗ chân lông tiết ra mùi hương 
				vậy. Cơm gạo thì nuôi dưỡng thân mạng của mình, nhưng cơm hương 
				chỉ là món ăn tinh thần để nuôi dưỡng phần tâm linh, là Pháp 
				thực để nuôi Huệ mạng. Thí dụ một người chưa biết Phật pháp mà 
				sau khi ngửi cơm hương nên quyết tâm thọ trì tam quy ngũ giới 
				thì cơm mới tiêu. Còn nếu người đã biết tam quy ngũ giới và sau 
				khi ngửi cơm hương nên quyết tâm tu để thành đạt Tu Đà Hoàn thì 
				cơm mới tiêu. Nói tóm lại mùi thơm của cơm hương kéo dài cho đến 
				khi hàng Thanh văn phát tâm tu theo Đại thừa, được vào chánh vị, 
				có giải thoát, chứng được vô sanh pháp nhẫn và còn một đời nữa 
				thành Phật thì cơm mới tiêu. Cơm hương nầy chính là giáo lý Nhất 
				thừa Phật Đạo có công năng đưa tất cả mọi người và đặc biệt là 
				hàng Thanh văn tới quả vị Phật.    
				Phật nói: 
				- 
				Đúng vậy! A Nan! Có cõi Phật lấy ánh hào quang Phật làm Phật sự 
				hoặc có cõi lấy Bồ-tát làm Phật sự. Cõi lấy hóa nhơn Phật làm 
				Phật sự. Cõi lấy cây Bồ-đề làm Phật sự. Cõi lấy y phục ngọa cụ 
				của Phật làm Phật sự. Cõi lấy cơm ăn làm Phật sự. Cõi lấy vườn 
				rừng, đài quán làm Phật sự. Cõi lấy 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của 
				thân Phật làm Phật sự. Cõi lấy chiêm bao, huyễn ảo, âm vang, 
				hình trong gương, trăng trong nước, bóng giả mã, các thí dụ như 
				thế làm Phật sự. Cõi lấy âm thanh, ngữ ngôn văn tự làm Phật sự. 
				Cõi lấy quốc độ thanh tịnh bằng bặc vô ngôn, vô thuyết, vô thị, 
				vô thức, vô tác, vô vi mà làm Phật sự. 
				Như thế đấy A Nan! Nhất 
				nhất oai nghi, đi đứng tới lui, động tịnh của chư Phật không một 
				cử chỉ nào không làm nên Phật sự. 
				Đức Phật dạy tiếp: 
				- 
				Này a nan! Có cõi Phật dùng cả tứ ma, dùng cả 84,000 phiền não 
				trần lao. Đối với những thứ đó, chúng sinh cho là những thứ 
				phiền lụy, khổ đau, mỏi mệt. Thế mà chư Phật lại lấy những pháp 
				đó mà làm nên Phật sự. Làm được những việc như thế, gọi đó là 
				thể nhập Nhất Thiết Chư Phật Pháp Môn. Bồ-tát thể nhập pháp môn 
				đó, giả sử thấy tất cả cõi thanh tịnh đẹp đẽ cũng không lấy làm 
				mừng, không khởi ý tham cầu, không móng tâm cao ngạo. Giả sử 
				thấy cõi Phật không thanh tịnh, cũng không bị ám ảnh ưu tư, 
				không ngại ngùng khởi tâm trốn tránh. Lúc nào cũng vững tâm 
				thanh tịnh đối với chư Phật, hoan hỉ cung kính như được cái chưa 
				từng có. Vì biết rằng chư Phật Như Lai công đức bình đẳng, chỉ 
				vì giáo hóa chúng sinh mà hiện cõi Phật không giống nhau. 
				Phương tiện để chúng sinh 
				phát tâm tu hành thì rộng rãi bao la. Cõi Ta bà thì Phật Thích 
				Ca sử dụng Thanh Trần làm Phật sự trong khi đó cõi Chúng Hương, 
				Đức Hương Tích lại dùng Hương Trần làm Phật sự. Có cõi Phật chỉ 
				lấy ánh hào quang Phật hoặc thân Phật mà làm Phật sự. Có cõi lấy 
				Bồ-tát, lấy cây Bồ-đề, lấy y phục, cơm ăn, lấy chiêm bao, lấy 
				hình trong gương, ảnh dưới nước làm Phật sự. Vì thế nếu chúng 
				sinh biết cách nhìn đối tượng thì bất cứ việc gì cũng đều là 
				Phật sự cả. Cho nên tất cả các việc đều là việc Phật và tất cả 
				các Pháp đều là Phật Pháp. Có người thấy sự thanh tịnh của 
				Bồ-tát và chư Phật nên phát tâm tu hành. Còn có người thấy kẻ 
				khác bị quả báo đau khổ, bệnh tật hiểm nghèo, chết dở sống dở 
				đâm ra lo sợ cho chính mình nên mới chịu tu tâm dưỡng tánh. 
				Nhiều người thấy cảnh chùa trang nghiêm thanh tịnh nên ham mộ mà 
				tụng kinh niệm Phật. Ngược lại có người thấy chúng sinh làm ác 
				mà tự mình phát tâm Bồ-đề. Ngay cả Phật dùng cả các ma chướng 
				phiền não để làm Phật sự với mục đích dùng nghịch cảnh trái lòng 
				mà thử thách tâm kiên nhẫn và tánh kiên trì của người tu hành. 
				Vì thế Bồ-tát nên phát tâm thanh tịnh vô phân biệt mà làm Phật 
				sự, dù thấy cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm cũng không mừng, 
				không tham muốn hay khởi tâm kiêu mạn hoặc dù thấy cõi Phật 
				không trang nghiêm thanh tịnh thì cũng không lo âu, không ngại 
				ngùng và không trốn tránh. Đối với chư Phật thì công đức rất 
				bình đẳng, không cao thấp, không dị biệt, nhưng vì giáo hóa 
				chúng sinh nên mới hiện ra nhiều cõi Phật không giống nhau. Biết 
				và làm được như thế thì thể nhập Nhất Thiết Chư Phật Pháp Môn 
				vậy. 
				A Nan! Đất đai cõi nước 
				của chư Phật có giới hạn mà hư không thì không có giới hạn. Cũng 
				vậy, nhìn thấy sắc thân của chư Phật có giới hạn mà trí tuệ vô 
				ngại của chư Phật thì không có giới hạn. 
				A Nan! Sắc thân của chư 
				Phật oai nghi, tướng hảo, chủng tánh giới, định, tuệ, giải thoát 
				tri kiến, thập lực, tứ vô úy, thập bát bất cộng pháp, đại từ, 
				đại bi, oai nghi sở hành, thọ mạng, thuyết pháp giáo hóa, thành 
				tựu chúng sinh, tịnh Phật quốc độ… Các phương tiện để thành tựu 
				Phật pháp trọn vẹn thì đều bình đẳng giống nhau. Vì thế cho nên 
				gọi là Chánh Giác, gọi là Chánh biến tri giác, gọi là Vô thượng 
				Chánh biến tri giác. 
				A Nan! Nếu Như Lai nói đủ 
				nghĩa ba câu này, dầu suốt đời của ông cũng không lãnh thọ hết 
				được. Giả sử chúng sinh đầy cả ba ngàn đại thiên thế giới, có 
				khiếu đệ nhất đa văn như A Nan được chánh niệm có sức tổng trì, 
				những người đó dùng trọn kiếp thọ mạng cũng không lãnh hội được 
				hết. Như thế đó A nan! Vô thượng chánh biến tri giác của chư 
				Phật không có hạn lượng. Trí tuệ biện tài không thể nghĩ bàn. 
				Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có 
				ba thân là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân. 
				1) Pháp thân 
				(Dharmakaya) là pháp giới thanh tịnh của các Đức Như Lai 
				lan tỏa trong khắp không gian làm sở y bình đẳng cho Báo thân và 
				Ứng thân. Pháp thân thì luôn thường trụ, bất sinh bất diệt cũng 
				được gọi là Pháp giới tánh, Như Lai Tạng… Phật lấy Pháp Tánh 
				Chân Như làm thân nên gọi là Pháp thân. Pháp thân là chỗ sở y 
				chứa tất cả công đức trong Pháp giới. Vì Pháp thân là thường trụ 
				nên Pháp thân ở khắp mọi nơi. Cho dù Phật nhập thế cứu độ chúng 
				sinh thì Pháp thân cũng không tăng hay Phật có xuất thế thì nó 
				cũng không giảm, lúc nào cũng vậy mà thôi. Cái Pháp thân nầy 
				Phật và chúng sinh đều có như nhau, nhưng ở Phật thì nó sáng 
				suốt chiếu soi rực rỡ còn ở chúng sinh thì nó bị vô minh che mờ 
				nên không hiển lộ. Pháp thân chính là cái mà con người sẽ trở về 
				sau khi diệt hết vô minh phiền não để phát huy trí tuệ sẳn có 
				của mình. Vậy Pháp thân chính là cội nguồn, là Bản Thể của tất 
				cả muôn sinh vạn vật. Đây chính là Bản Lai Diện Mục, là Phật 
				tánh có sẳn trong tất cả mọi người.  
				2) Báo thân 
				(Sambhogakaya) là thân tốt đẹp do công phu tu hành trải 
				qua bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp mà có. Vì thế mà Đức Phật có 32 
				tướng tốt và 80 vẻ đẹp rực rỡ là vậy. Báo thân còn được gọi là
				tự thọ dụng thân.  
				Nếu chúng sinh đoạn trừ mọi 
				vô minh phiền não thì tâm được hoàn toàn thanh tịnh. Cái thanh 
				tịnh an lạc tự tại nầy chỉ có người đó biết và hưởng được còn 
				người khác không hề cảm nhận hay san sẻ được thì cái quả thanh 
				tịnh an nhàn nầy là tự thọ dụng thân. Cũng như uống một tách trà 
				thơm ngon thì chỉ người uống trà mới biết được hương vị thơm 
				ngon như thế nào mà thôi. Do đó nếu chúng ta bớt được một phần 
				vô minh phiền não thì có được một phần thanh tịnh tức là có được 
				một phần tự thọ dụng thân. 
				Còn Báo thân của chúng sinh 
				thì gọi là Karmakaya tức là thân nầy là do quả nghiệp của 
				tiền kiếp tạo thành. Muốn có thân thể khỏe mạnh sống lâu thì 
				đừng bao giờ sát sinh. Muốn có giọng nói thanh tao trong trẻo 
				thì đừng nên vọng ngữ. Muốn thân hình được đoan trang, đẹp đẽ 
				thì đừng nghĩ tới tà dâm. Muốn gia đình được ấm no hạnh phúc thì 
				đừng trộm cướp gian tham.  
				3) Ứng thân hay biến hóa 
				thân (Nirmanakaya) Chư Phật do 
				trí thành sở tác mà biến hóa ra thành vô lượng thân, ứng theo 
				căn cơ của chúng sinh mà hóa độ. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là ứng 
				thân của Phật trong cõi Ta bà nầy. Vì Ứng thân là thân thị hiện 
				nên phải ảnh hưởng bởi luật vô thường là sinh lão bệnh tử. Ứng 
				thân cũng được gọi là tha thọ dụng 
				thân. 
				Đối với Phật giáo thì báo 
				thân hay tự thọ dụng thân có giá trị tuyệt đối vì chỉ có người 
				được thức tỉnh giác ngộ mới hưởng được cái hương vị thanh tịnh 
				an vui tự tại của giải thoát giác ngộ mà không một người nào 
				khác có thể biết được và cái trí tuệ của Phật thì vô cùng vô tận 
				không thể nghĩ bàn. Thí dụ như uống một tách trà nóng rất thơm 
				ngon thì chỉ có mình mới biết sự khoái lạc về tách trà nầy. Khi 
				chư Phật hay Bồ-tát thị hiện để hoằng dương đạo pháp thì chúng 
				sinh có cơ hội học hỏi, tu sửa và sống theo Chân lý để tự mình 
				giải thoát giác ngộ thì ứng thân để cứu độ chúng sinh ra khỏi bể 
				khổ sông mê gọi là tha thọ dụng thân. 
				Tóm lại ba thân của Đức Phật 
				là: Pháp thân là Thể, Báo thân là Tướng và Ứng thân là Dụng. Tuy 
				nói ba mà là một, tuy một mà ba tức là một là tất cả và tất cả 
				là một.  
				Vô thượng Chánh đẳng Chánh 
				giác mà Phạn âm là Anuttara- samyak-sambodhi nghĩa là sự giác 
				ngộ cao tột nhất tức là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Phật Đà hay đọc 
				gọn là Tam Miệu Tam Phật Đà. Còn Chánh Biến Tri, Chánh Biến Giác 
				là sự hiểu biết chân chánh cùng khắp các pháp. Ngoài ra còn hai 
				danh hiệu khác để tôn xưng bậc toàn giác là Đa Đà A Dà Độ và 
				Phật Đà. 
				Đa Đà A Dà Độ, Phạn âm là 
				Tathagata nghĩa là Như Lai tức là người giữ tâm bất động. Như 
				Lai không từ đâu đến và không đi về đâu, là đấng giác ngộ chân 
				chính. 
				Phật Đà, Phạn âm là Buddha, 
				tiếng Trung Hoa dịch là Giác Giả nghĩa là người đã hoàn toàn 
				giác ngộ và thấu hiểu Chân Lý tuyệt đối. 
				A Nan thưa: 
				- Bạch Thế Tôn! Từ nay về 
				sau, con không còn dám nghĩ mình đa văn nữa. 
				Phật bảo: 
				- A 
				Nan! Ông đừng suy thoái lý chí như thế. Từ trước Như Lai vẫn nói 
				ông là đa văn đệ nhất đó. Nhưng đệ nhất trong hàng Thanh văn chứ 
				không phải đệ nhất với hàng Bồ-tát. Ông hãy an tâm đi. Là người 
				có trí, không ai so lường trí tuệ của các hàng Bồ-tát! Tất cả 
				vực sâu, biển cả còn có thể đo lường chứ thiền định, trí tuệ 
				biện tài, sức tổng trì và công đức của chư Bồ-tát thì không thể 
				lường biết.  
				- A Nan! Ông hãy gác qua 
				những việc làm của Bồ-tát, đừng nghĩ ngợi so bì nữa! Sức thần 
				thông biến hiện của ông Duy Ma Cật chừng một giờ thôi, tất cả 
				Thanh văn, Bích chi Phật dùng hết sức biến hóa trải trăm ngàn 
				kiếp cũng không làm sao bằng được. 
				Đa văn là nghe nhiều, nhớ 
				sâu và học rộng. Tôn giả A Nan tuy là đệ nhất đa văn vì có nhân 
				duyên gần gủi với Đức Phật nhiều nhất trong hàng Thanh văn, 
				nhưng vì không chịu tu rốt ráo nên trong thời gian Phật còn tại 
				thế vẫn chưa chứng quả A La Hán. Trong khi rất nhiều đệ tử khác 
				của Phật, ngay cả nàng Ma Đăng Già, tuy học kém hơn A Nan rất 
				xa, nhưng nhờ quyết tâm công phu tu tập nên đều chứng quả A La 
				Hán. Đức Thích Ca tán thán công đức trí tuệ của mười phương chư 
				Phật vô cùng vô ngại không có giới hạn và giáo lý Đại thừa cao 
				siêu nhiệm mầu làm ông A Nan đem lòng sợ hãi, không còn dám tự 
				nhận mình là đa văn. Ông A Nan tự biết mình còn kém xa hàng 
				Bồ-tát nên thoái chuyển tự ti, không dám múa riều qua mắt thợ 
				cũng như ngày xưa Tôn Tử có câu: “Tri kỷ tri bỉ bách chiến bách 
				thắng” nghĩa là biết mình biết người trăm trận trăm thắng. Trong 
				đoạn kinh này, Đức Phật đề cao hàng Bồ-tát là có ý muốn khuyến 
				khích hàng Thanh văn tinh tấn phát tâm tu hành để tiến tới quả 
				vị Bồ-tát và sau cùng thành Phật chớ đừng tự mãn hay thỏa chí ở 
				quả vị A La Hán. 
				Các Bồ-tát từ thế giới 
				Chúng Hương đến dự, lúc bấy giờ chắp tay bạch với Đức Phật rằng: 
				- Bạch Thế Tôn! Chúng con 
				khi mới đến cõi này, thoạt đầu chúng con có ý tưởng hơi xem 
				thường. Giờ đây, chúng con rất ăn năn tự trách và ý nghĩ đó 
				không còn. Vì chúng con được hiểu rằng phương tiện của chư Phật 
				không thể nghĩ bàn. Vì độ chúng sinh tùy phước đức và căn cơ của 
				họ mà ứng hiện cõi nước Phật có khác. 
				Không riêng gì Bồ-tát ở cõi 
				Chúng Hương thoạt đầu đã nghĩ rằng thế giới Ta bà nầy là ô 
				trược, xấu xa, gồ ghề, bất toàn mà ngay cả tôn giả Xá Lợi Phất 
				cũng đã nói như thế trong phẩm Phật Quốc. Chính Đức Phật Thích 
				Ca đã hóa giải bằng cách lấy ngón chân ấn xuống đất để cho ông 
				Xá Lợi Phất thấy rằng cõi Ta bà cũng rất thanh tịnh, nhưng vì 
				muốn độ những kẻ căn cơ hạ liệt nên mới thị hiện ra cõi đầy nhơ 
				nhớp xấu xa bất tịnh mà thôi. Bây giờ các vị Bồ-tát biết rằng 
				cõi Ta bà của Phật Thích Ca thật sự không xấu xa bất tịnh như 
				chúng sinh luôn lầm tưởng mà thật ra nhơ xấu bất tịnh là bởi tại 
				chúng sinh. Vì tốt hay xấu là bởi tâm cho nên kinh dạy rằng: 
				“Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh” là vậy. Chính Đức Phật Thích 
				Ca thị hiện trong thế giới nầy là vì muốn cứu độ, giáo hóa chúng 
				sinh chớ không phải vì Ngài kém đức nên phải bị đọa vào cõi Ta 
				bà. Tại sao? Bởi vì thế giới trong mười phương chư Phật đều bình 
				đẳng như nhau, không có thế giới nào đẹp hay xấu hơn thế giới 
				nào. Đã là Phật thì các Ngài đều có tâm thanh tịnh bình đẳng như 
				nhau. Mà đã có tâm tịnh rồi thì cho dù các Ngài có thị hiện ở 
				thế giới nào thì cõi ấy cũng trở thành thanh tịnh. 
				Tới đây có người thắc mắc là 
				thế giới Tây phương Cực lạc của Phật A Di Đà làm toàn bằng Vàng, 
				Bạc, Lưu ly, Xà cừ, Trân châu, San hô, Mã não thì chắc chắn phải 
				tốt hơn cõi Ta bà đầy uế trược, ghồ ghề, sỏi đá của Phật Thích 
				Ca rồi? 
				Đối với phàm nhân thì thất 
				bảo là vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, trân châu, san hô, mã não là 
				những vật cao quý nhất. Còn đối với thánh nhân thì bảy món cao 
				quý vật chất của thế gian là để ám chỉ cho Thất Thánh Tài. Đó 
				là: Giới, Tín, Văn, Sám hối, Tinh tấn, Buông xả và Trí tuệ. Phàm 
				nhân thì cho vàng bạc là cao quý tốt đẹp nhất, còn đối với người 
				giải thoát giác ngộ thì vàng bạc là nguồn gốc của phiền não khổ 
				đau. Phàm nhân thì quý trọng thất bảo còn người giác ngộ thì 
				Thất thánh tài mới là cứu cánh.  
				Vàng 
				là vật cao quý chẳng khác gì Giới 
				Bạc 
				là sự thay trắng đổi đen nên ám chỉ cho Tín tức là lòng 
				tin tưởng vào Phật pháp, không còn nghi ngại. 
				Lưu ly 
				là lưu chuyển tượng trưng cho Văn tức là tánh nghe. 
				Xà cừ 
				có hình tướng xấu xa nên ám chỉ cho Sám hối. 
				Trân châu 
				là thanh cao tượng trưng cho Tinh tấn. 
				San hô 
				thì tượng trưng cho Buông xả. 
				Mã não 
				thì sáng chói tượng trưng cho Trí tuệ. 
				Thất thánh tài là bảy chất 
				liệu làm cho tâm tịnh vì thế hễ có tâm tịnh thì dĩ nhiên có cõi 
				Phật tịnh nghĩa là Ta bà tức là Tịnh độ. 
				- Dạ! Kính bạch Thế Tôn! 
				Chúng con mong mỏi Thế Tôn cho chúng con xin một lời dạy để khi 
				trở về bổn độ, chúng con được nhớ Như Lai mãi mãi. 
				Phật dạy:  
				Này các Bồ-tát! Như Lai 
				có pháp môn HỮU TẬN VÔ TẬN GIẢI THOÁT. Các ông nên học. 
				Hữu tận tức là pháp hữu 
				vi. Vô tận tức là pháp vô vi. Phàm là Bồ-tát, phải tu học Bất 
				Tận Hữu Vi, Bất Trụ Vô Vi. 
				1) Bất Tận Hữu Vi nghĩa 
				là Bồ-tát không rời tâm đại từ, không gián đoạn lòng đại bi. 
				Phát tâm cầu nhất thiết trí sâu sắc không tâm xao lãng. Giáo hóa 
				chúng sinh không nài mỏi mệt. Đối với pháp Tứ nhiếp thường nhớ 
				nghĩ làm theo. Hộ trì chánh pháp không tiếc thân mạng, trồng căn 
				lành không biết mỏi mệt. Tâm thường an trú trong các phương 
				tiện, ý chí hồi hướng vô thượng Bồ-đề. Cầu pháp không giải đải. 
				Thuyết pháp không lẫn tiếc. Siêng cúng dường chư Phật, cho nên 
				vào sanh tử mà không sợ. Được vinh quang không vui mừng kiêu 
				hãnh. Bị khổ nhục không buồn bã nản lòng. Không khinh người chưa 
				học. Kính người học như kính Phật. Ai sa vào phiền não khiến cho 
				họ phát khởi chánh niệm. Viễn ly được dục lạc không lấy đó làm 
				tự hào. Mình được vui, không luyến ái đam mê. Người được vui 
				khởi tâm vui mừng tùy hỷ. Tâm trụ thiền định mà khởi tưởng như ở 
				địa ngục. Ở trong sanh tử, khởi tưởng như đang dạo chốn hoa 
				viên. Có người đến cầu xin, khởi tưởng như vị thầy tốt. Xả bỏ 
				hết sở hữu, khởi tưởng thành tựu nhất thiết trí. Thấy người hủy 
				phạm điều răn, khởi tưởng cứu hộ. Các ba-la-mật khởi tưởng như 
				cha mẹ. Những pháp trợ đạo phẩm khởi tưởng như quyến thuộc. 
				Trồng các căn lành không hạn chế. Dùng những việc trang nghiêm 
				tịnh Phật quốc độ xây dựng Phật độ cho mình. Thực hành bố thí 
				ba-la-mật để được đầy đủ tướng hảo. Trừ bỏ tất cả hành vi ác để 
				thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Dù sanh tử vô số ức kiếp ý chí 
				vẫn tích cực lạc quan. Nghe Phật có vô lượng công đức, không có 
				ý mỏi mệt thoái thoát tự khinh. Dùng gươm trí tuệ đánh dẹp giặc 
				phiền não. Ra khỏi ấm giới nhập, gánh vác chúng sinh. Hằng ở 
				trong giải thoát, dùng sức đại tinh tấn hàng phục ma quân. 
				Thường trụ trong vô niệm mong được trí tuệ thực tướng. Thực hành 
				thiểu dục tri túc mà không rời bỏ pháp thế gian. Không sai trái 
				oai nghi mà có thể tùy thuận việc làm thế tục. Vận dụng thần 
				thông, kích khởi trí dẫn dắt chúng sinh. Trụ trong chánh niệm 
				được sức tổng trì, nghe học chân lý, thường không quên sót. Khéo 
				phân biệt căn tánh, cắt đứt mọi nghi ngờ của chúng sinh trong 
				những điều nghi vấn. Lạc thuyết biện tài, nói pháp không mâu 
				thuẩn trước sau. Hành thập thiện trong sáng, hưởng thụ phước báu 
				nhơn thiên. Tu tứ vô lượng tâm mở đường giác ngộ cho Đế Thích, 
				Phạm Thiên. Khuyến thỉnh thuyết pháp, tùy hỷ mọi việc lành. Được 
				âm thanh thánh thiện, thân khẩu ý đều lành. Được oai nghi Phật 
				tu sâu thiện pháp. Việc lành tập trung, chuyển hướng phục vụ 
				giáo hóa đại thừa. Thành tựu Bồ-tát tăng, tâm không phóng dật, 
				không rơi sót tất cả hạnh lành. 
				Thực hành tốt những điều 
				như thế, gọi đó là Bồ-tát BẤT TẬN HỮU VI. 
				Tất cả vạn pháp trong thế 
				gian hữu vi nầy từ hữu tình cho đến vô tình đều là “duyên sanh 
				như huyễn” nghĩa là không có một vật gì mà tự chúng có thể sinh 
				tồn mà không nhờ đến những nhân duyên khác. Vì không có tự tánh 
				hay chủ thể nên vạn pháp là vô ngã. Đã là vô ngã nên vạn pháp 
				phải chịu cảnh sinh diệt của vô thường và từ đó vạn pháp mới có 
				khổ và bất tịnh. Dù biết vạn pháp là vô thường, nhưng Bồ-tát vẫn 
				làm mọi việc lợi ích cho chúng sinh. Dù biết vạn pháp là khổ, 
				nhưng Bồ-tát cũng không trốn chạy cảnh đời nhiều đau khổ này. Dù 
				biết vạn pháp là vô ngã và cuối cùng là vạn pháp giai Không, 
				nhưng Bồ-tát vẫn không bỏ sót một cơ hội nào để làm lợi lạc cho 
				chúng sinh. Dù biết vạn pháp là bất tịnh nghĩa là vạn pháp còn 
				nhiều vô minh, ô trược, phiền não và đau khổ, nhưng Bồ-tát không 
				vì thế mà xa lánh. Do đó pháp môn bất tận hữu vi là Bồ-tát không 
				rời bỏ vạn pháp cho dù vạn pháp là không thật, là giả huyễn, là 
				sinh diệt, là ô trược, là phiền não khổ đau. 
				Bất tận hữu vi cũng có nghĩa 
				là trong thế gian nầy bất cứ việc thiện dù nhỏ cách mấy cũng làm 
				và việc ác cho dù có nhỏ cách mấy cũng lánh xa. Điều thiện tuy 
				nhỏ nhưng khi tích tụ lại cũng thành điều thiện lớn. Còn điều ác 
				nhỏ nhưng nếu chúng ta cứ làm hoài thì sẽ biến thành đại ác. Khi 
				làm công đức cũng vậy, chúng ta làm từ những việc nhỏ mà sau sẽ 
				thành công đức lớn.  
				1)  
				
				Bồ-tát BẤT TRỤ VÔ VI nghĩa là Bồ-tát tu học “Vạn pháp giai 
				không” mà không lấy cái KHÔNG làm mục tiêu đối tượng chứng đắc. 
				Tu học “Vạn pháp vô tướng, vô tác” mà không lấy “Vô tướng, Vô 
				tác” làm đối tượng sở chứng sở đắc. Bồ-tát quán vô thường mà làm 
				tất cả việc lành không hề có chán ngán. Quán thế gian khổ mà 
				không oán ghét sanh tử. Quán vô ngã mà hết sức tinh tấn trong 
				việc giáo hóa con người. Quán bản thể của vạn pháp là tịch diệt 
				mà không mong cầu vĩnh viễn diệt như hư không. Quán viễn ly mà 
				thân tâm luôn luôn tu thiện pháp. Quán vạn pháp vô sanh mà lấy 
				pháp sanh để gánh vác tất cả. Quán cảnh giới vô lậu mà không dứt 
				hẳn các lậu. Quán vạn pháp vô hành mà lấy pháp hành giáo hóa 
				chúng sinh. Quán rỗng không, không có gì mà không rời bỏ đại bi. 
				Quán chánh pháp vị mà không theo đường lối của Tiểu thừa. Quán 
				vạn pháp “hư vọng” không bền chắc, không người, không chủ, không 
				tướng nhưng bổn nguyện chưa tròn thì đối với phước đức, thiền 
				định, trí tuệ lại là việc “bất hư”. 
				Niết bàn, Bồ-đề là an vui 
				tịch diệt thanh tịnh giải thoát hoàn toàn, nhưng Bồ-tát không 
				được để tâm mong cầu trụ chấp ở đó. Nếu Bồ-tát để tâm trụ chấp 
				mong cầu cho dù đó là Niết bàn Bồ-đề thì đây cũng là ý niệm 
				tham. Mà một khi ý niệm tham lam khởi lên thì Bồ-tát đã mất đi 
				tánh chất Niết bàn Bồ-đề vô thượng rồi. Nói một cách khác Vô vi 
				là cứu cánh tột đỉnh của người còn đi trên con đường giải thoát 
				giác ngộ, nhưng cho dù có đạt được mục đích nầy cũng đừng khởi 
				tâm “chấp trụ” và khởi ý “đam mê”. Bởi vì đam mê thì Pháp Vô vi 
				không còn là giải thoát mà trở thành ràng buộc. Còn chấp trụ, cố 
				giữ lấy nó thì tâm không còn thanh tịnh mà biến thành “sợ mất”. 
				Càng lo sợ, mất mát thì cái mất mát sẽ đến nhanh hơn và cái lo 
				bây giờ thành ra cái khổ. Như thế thì Niết bàn Bồ-đề bổng nhiên 
				biến mất và thanh tịnh Vô vi biến thành phiền não khổ đau như 
				lúc ban đầu. Do đó khi đã thấu suốt Bồ-đề, Niết bàn chính là tự 
				tánh thanh tịnh của mình thì mình chỉ cần tự hóa giải tất cả 
				phiền não vô minh tức là tùy thuận Pháp Tánh hay xứng Tánh khởi 
				tu thì tự mình có được Bồ-đề Niết bàn chớ đừng mong cầu, trông 
				đợi Bồ-đề Niết bàn nào ở bất cứ nơi nào hay do Phật, Bồ-tát ban 
				cho. Cho dù các pháp vô vi là an lạc, là tịch tĩnh, là thanh 
				tịnh, là giải thoát, là Bồ-đề Niết bàn, nhưng không vì thế mà 
				đam mê chỉ lo hưởng lạc cho riêng mình trong khi chúng sinh vẫn 
				còn lặn hụp trong biển phiền não khổ đau. 
				
					- 
					
					.  
					Tu học những pháp 
					như thế gọi là Bồ-tát BẤT TRỤ VÔ VI. 
					 
					- 
					
					·  Vì 
					sự nghiệp phước đức đầy đủ, Bồ-tát không trụ vô vi. 
					 
					- 
					
					·  Vì 
					sự nghiệp trí tuệ đầy đủ, Bồ-tát không rời bỏ hữu vi. 
					 
					 
					- 
					
					·  Vì 
					đại từ bi không trụ vô vi. 
					 
					- 
					
					·  Vì 
					trao truyền thuốc pháp không rời bỏ hữu vi. 
					 
					- 
					
					·  Vì 
					trừ diệt bệnh chúng sinh không rời bỏ hữu vi. 
					 
				 
				Này! Các chánh sĩ! Đức 
				Phật dạy tiếp: Bồ-tát thực hiện những pháp “bất tận hữu vi, bất 
				trụ vô vi” rồi thì chính đó cũng gọi là TẬN VÔ TẬN GIẢI THOÁT 
				PHÁP MÔN. Các vị hãy theo đó mà tu học. 
				Nói tóm lại, tuy quán biết 
				thế gian là giả huyễn, là Không, nhưng không vì thế mà không làm 
				gì hết. Ngược lại làm tất cả mọi việc lành, thấy người cần thì 
				giúp đỡ, thấy người hoạn nạn thì cứu, làm theo tinh thần đại từ 
				bi của Bồ-tát là làm tất cả mà không chấp mình làm, không trông 
				đợi đền ơn đáp nghĩa, không cầu phước báu cho riêng mình ngay cả 
				quả vị Bồ-đề cũng không tham đắm. Khi đã hóa giải hết mọi phiền 
				não vô minh, loại trừ tánh tham tật đố, phá tan chấp ngã chấp 
				pháp thì cho dù chúng ta không mong cầu mà Niết bàn Bồ-đề vẫn 
				hiển hiện như thường. Đó chính là Bất tận hữu vi và Bất trụ vô 
				vi hay còn gọi là Tận, Vô tận Giải thoát Pháp Môn vậy. 
				Các Bồ-tát đại sĩ nước 
				Chúng Hương nghe Đức Phật dạy pháp môn ấy rồi đều rất hoan hỷ, 
				lấy các thứ hoa sắc màu rực rỡ đẹp tươi, bao nhiêu thứ hương 
				thơm thượng diệu tung rãi khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới để 
				cúng dường Phật, cúng dường Pháp và cúng dường chư Bồ-tát Tăng.
				 
				Cúng dường xong, tất cả 
				cùng dập đầu lễ dưới chân Phật tán thán rằng: chỉ có Đức Phật 
				Thích Ca vận dụng phương tiện hành những việc nan hành, trong 
				cõi thế gian chưa từng có. 
				Nói xong, bỗng nhiên 
				không còn hiện diện. Các đại sĩ đã trở lại quốc độ Chúng Hương. 
				  
				Phần Tổng 
				Luận 
				Tâm kinh dạy rằng: “Sắc tức 
				là Không, Không tức là Sắc”, nhưng trong phẩm nầy, chân lý “sự 
				sự vô ngại pháp giới” giải thích thêm rất rõ ràng về sự dung 
				thông vô ngại giữa Sự và Lý tức là Sắc và Không. Đó là trong 
				pháp giới thì các pháp hình Tướng tuy có khác nhau, nhưng Lý 
				Tánh lại dung thông bình đẳng, không ngăn cách nghĩa là Lý, Sự 
				dung thông vô ngại tức là trong Lý có Sự và trong Sự đã có Lý 
				rồi, không thể phân tách. Tuy Lý Tánh thanh tịnh bình đẳng, 
				nhưng không vì thế mà quên đi Sự Tướng. Nói một cách khác Bồ-tát 
				tuy biết thế gian vũ trụ là huyễn, nhưng không vì thế mà không 
				làm tất cả Phật sự để cứu giúp huyễn chúng sinh chứng đạt huyễn 
				Thánh quả. Tuy Bồ-tát dứt trừ mọi vô minh phiền não, chứng đắc 
				thanh tịnh tịch diệt của Bồ-đề Niết bàn, nhưng các Ngài không 
				đam mê, chấp trụ vào nó mà vẫn ung dung tự tại vào đời để cứu 
				giúp chúng sinh. Tuy thế gian đối với phàm nhân là xấu xa, tội 
				lỗi, ô trược vì tâm chúng sinh bất tịnh, ngược lại tâm Bồ-tát 
				luôn thanh tịnh cho nên các Ngài dù có thị hiện ở bất cứ thế 
				giới nào thì cõi ấy cũng là cõi Phật thanh tịnh mà thôi. Các 
				Ngài phát nguyện vào đời cứu giúp tất cả chúng sinh với lòng lợi 
				tha vô ngã, quên mình vì người, làm tất cả các hạnh lành, thuận 
				duyên cũng làm mà nghịch cảnh cũng không trốn chạy. Việc càng 
				khó làm thì công đức càng to, nhưng cho dù có chút công đức gì 
				các Ngài cũng ban hết cho chúng sinh. Đó chính là các việc làm 
				của Bồ-tát mà phẩm nầy có tên là Hạnh Bồ-tát vậy. 
				
				
				 |  
				 |