| 
				 Chương Thứ 
				Tư 
				 
				Phẩm BỒ TÁT 
				(The Reluctance of the Bodhisattvas)  
				 
				Quang Nghiêm Đồng tử. 
				 
				Vấn Đề Đạo Tràng. 
				 
				 
				Đức Phật gọi Quang Nghiêm 
				Đồng Tử bảo: 
				 
				- Quang Nghiêm! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật. 
				 
				Quang Nghiêm thưa: 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh 
				trưởng giả Duy Ma Cật! Bởi vì trước đây vào một hôm nọ, con từ 
				thành Tỳ Xá Ly đi ra, Ngài Duy Ma Cật thì từ ngoài thành đi vào. 
				Con lễ phép chào và hỏi” 
				 
				- Thưa cư sĩ! Ngài từ đâu đến đây? 
				 
				Ông Duy Ma Cật đáp: 
				 
				- Tôi từ đạo tràng đến. 
				 
				Con lấy làm lạ hỏi: 
				 
				- Ngài nói đạo tràng, vậy đạo tràng nào? Ở đâu? 
				 
				Thông thường trong kinh điển Phật giáo thì Đồng Tử là người tu 
				hành từ khi còn nhỏ, không phạm dâm dục và giữ giới hạnh thanh 
				tịnh trọn đời. Đồng Tử cũng còn có nghĩa là người đang tu theo 
				Bồ-tát đạo nhưng chưa được giác ngộ hoàn toàn vì như đứa trẻ 
				chưa thành người lớn. Một nghĩa khác là người tu hành chân 
				chánh, tẩy trừ sạch mọi trần cấu, phiền não khổ đau và có tâm 
				hồn thanh tịnh trong sáng như trẻ thơ. 
				 
				Nhưng Đồng Tử trong kinh nầy là một vị Bồ-tát tu hành chứng đắc. 
				Ngài dùng ánh sáng của trí tuệ và công đức để trang nghiêm nên 
				mới có tên là Quang Nghiêm. Phàm nhân thì dùng vàng ngọc, kim 
				cương, châu báu, áo quần, phấn son… để trang sức cho báo thân tứ 
				đại của họ. Còn Quang Nghiêm Đồng Tử lại dùng trí tuệ sáng suốt 
				và công đức tu hành để trang nghiêm cho Pháp Thân làm cho chúng 
				sinh đều kính phục. Khi nhìn hình tượng của các chư Phật hay 
				Bồ-tát thì có hào quang rực rỡ vì đây là tượng trưng cho trí tuệ 
				sáng suốt thanh tịnh tỏa ra vô cùng vô tận để cứu giúp chúng 
				sinh còn đang lặn hụp trong bến bờ mê muội. 
				 
				Đứng về Sự Tướng mà nói thì đạo tràng là nơi Đức Phật Thích Ca 
				tĩnh tọa trên tòa Kim Cương mà thành đạo nên được gọi là Bồ-đề 
				đạo tràng. Các tịnh xá như Trúc Lâm, Kỳ Viên… là nơi Phật và chư 
				đệ tử trú ngụ trong mùa an cư kiết hạ cũng là đạo tràng. Ngày 
				nay các Phật Học Đường, các chùa để phổ biến Phật pháp đều là 
				đạo tràng cả. Nhưng ở đây ông Duy Ma Cật đứng về Thể Tánh mà nói 
				thì bất cứ pháp môn, hạnh tu nào mà lợi ích cho chúng sinh, đưa 
				đến chỗ giải thoát giác ngộ đều là đạo tràng. Vì thế ông Duy Ma 
				Cật mới nói: 
				 
				Trực tâm là đạo tràng: Tâm hạnh thành thật, thẳng thắn 
				không hư dối quanh co. Khi một người có tâm thẳng thắn, thành 
				thật thì đây là người tốt, là trực tâm của nhơn thừa Phật giáo. 
				Còn trực tâm của Đại thừa là không có trí phân biệt để chạy theo 
				cái tốt mà chê cái dở, tâm phải bình đẳng không cao không thấp 
				đối với tất cả vạn pháp. Nhìn đúng là Như thị chớ đừng phân biệt 
				khen chê theo sở thích của mình. Không thương, không ghét, không 
				giận không hờn, thấy sao biết vậy thì đây mới là trực tâm để có 
				Bồ-đề. 
				 
				Phát hạnh là đạo tràng: Siêng năng tinh tấn làm tất cả 
				việc. 
				 
				Thâm tâm là đạo tràng: Luôn luôn vun bồi công đức và làm 
				tăng trưởng công đức. 
				 
				Bồ-đề tâm là đạo tràng: Vận dụng trí tuệ trong sự thấy, 
				nghe, ngửi, nếm, xúc, biết...để tránh mọi si mê lầm lạc. 
				 
				Bố thí là đạo tràng: Thí tài, thí pháp và thí cả vô úy 
				cho chúng sinh mà không hy vọng đền đáp ơn nghĩa. 
				 
				Trì giới là đạo tràng: Giữ giới thanh tịnh đúng như chí 
				nguyện mong ước lúc phát khởi sơ tâm. 
				 
				Nhẫn nhục là đạo tràng: Tâm được điều thuận, nhu nhuyễn 
				đối với tất cả chúng sinh không còn bị chướng ngại. 
				 
				Tinh tấn là đạo tràng: Không lúc nào giải đãi trong việc 
				học chánh pháp, hành chánh pháp và sống trong chánh pháp. 
				Thiền định là đạo tràng: Tâm nhu hòa an ổn, không rong 
				rủi ở lục dục thất tình. Hằng ngày con người nên kiểm soát lại 
				những ý nghĩ của mình. Nếu có ý nghĩ thiện thì nên làm tức là 
				chúng thiện phụng hành, những ý nghĩ bất thiện như tham lam, 
				giận hờn, si mê, tật đố tức là chư ác mạc tác thì nên loại bỏ nó 
				đi, còn những ý nghĩ lăng xăng thì nên chận đứng nó đi để tâm 
				được thanh tịnh tức là tự tịnh kỳ ý. Làm được như thế tức là 
				thiền cho nên bất cứ ở đâu mà có những đức tính trên thì có đạo 
				tràng. 
				 
				Trí tuệ là đạo tràng: Thấy rõ bản chất vô thường, vô ngã 
				và bất tịnh của các pháp đúng như thật. 
				 
				Từ là đạo tràng: Đối với tất cả chúng sinh đều thương như 
				con một của mình thì người đó ở đâu là có đạo tràng đến đó. 
				 
				Bi là đạo tràng: Vận dụng mọi phương tiện cứu khổ cho 
				chúng sinh. 
				 
				Hỉ là đạo tràng: Lúc nào cũng vui mừng khi thấy người 
				khác được vui. 
				 
				Xả là đạo tràng: Đoạn hết mọi ý niệm ghét thương trong 
				lòng. 
				 
				Thần thông là đạo tràng: Thành tựu đầy đủ lục thông. 
				 
				Giải thoát là đạo tràng: Luôn luôn vận dụng pháp bội xả 
				và sống trong pháp bội xả. 
				 
				Phương tiện là đạo tràng: Giáo hóa chúng sinh bằng nhiều 
				hình thức, tùy căn cơ, đối tượng. 
				 
				Tứ nhiếp là đạo tràng: Thuyết pháp độ chúng sinh bằng 
				nhiều cách và tùy cơ duyên mà hóa độ. 
				 
				Đa văn là đạo tràng: Chúng ta học Phật tức là nghe chánh 
				pháp rồi tư duy chánh pháp. Sau đó có thực hành chánh pháp và 
				sống đúng theo chánh pháp là chúng ta ở trong đạo tràng rồi đó. 
				 
				Phục tâm là đạo ràng: Vận dụng chánh quán mà quán các 
				pháp. 
				 
				Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là đạo tràng: Rời bỏ hết pháp 
				hữu vi. Nếu luôn quán niệm về Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý 
				túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ-đề và Bát chánh đạo là chúng ta 
				đang ở trong đạo tràng vậy. 
				Tứ diệu đế là đạo tràng: Thấy đúng như thật, biết đúng 
				như thật, nói đúng như thật các pháp thế gian. Thấy biết rõ thế 
				gian là tam khổ, bát khổ mà cái gốc chính là tham-sân-si, mạn, 
				nghi… và nếu diệt được cái gốc tư hoặc và kiến hoặc để cảm nhận 
				được sự tịch diệt của Niết bàn thì người đó đang ở trong đạo 
				tràng. 
				 
				Duyên khởi là đạo tràng: Biết rõ từ vô minh cho đến lão 
				tử đều không có cái hết. Biết quán tưởng pháp mười hai nhân 
				duyên để tu hành là ở trong đạo tràng. 
				 
				Các phiền não là đạo tràng: Vì nhận biết sự tác hại của 
				phiền não một cách quyết định. 
				 
				Chúng sinh là đạo tràng: Vì nhận biết sự hòa hợp, sự 
				nương gá tạm bợ, biết rõ tánh chất vô thường vô ngã của chúng. 
				 
				Tất cả Pháp là đạo tràng: Vì biết rõ tất cả pháp vốn 
				Không. 
				 
				Hàng ma là đạo tràng: Vì biết trước các thế lực bất hảo 
				của ma. 
				Tam giới là đạo tràng: 
				Dù nhận có tam giới mà không bị ràng buộc trong tam giới. Người 
				nào dù ở trong tam giới mà không bị các dục vọng của cõi dục, 
				không bị các vật chất của cõi sắc, không bị các khái niệm tư 
				tưởng hoang đường của cõi vô sắc làm mê muội thì tuy ở trong tam 
				giới mà không dính mắc tam giới. Cho nên cũng là con người đó mà 
				nếu không còn bị các dục vọng thiêu đốt thì ra khỏi dục giới, 
				không còn lệ thuộc vào vật chất thì ra khỏi sắc giới và tâm 
				không còn gởi gắm vào những tư tưởng mơ hồ, hoang đường mê tín 
				dị đoan thì người đó ra khỏi vô sắc giới. Thế thì tam giới vẫn 
				là đạo tràng. 
				 
				Sư tử hống là đạo tràng: Vì sự thuyết pháp độ sanh đạt 
				đến vô sở úy. 
				 
				Thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cọng pháp là đạo tràng: 
				Vì thân, khẩu, ý đã thuần thục đạt đến chỗ tột cùng của thanh 
				tịnh, không còn có sự sai lầm. 
				 
				Tam minh là đạo tràng: Nhận thức các pháp thấu suốt tận 
				gốc, tột nguồn. 
				 
				Nhất niệm tri nhất thiết pháp là đạo tràng: Vì thành tựu 
				nhất thiết chủng trí. 
				 
				Như thế thì tất cả các pháp đều là đạo tràng mà tất cả các pháp 
				đều là Phật pháp, là Chơn Tâm, là Phật Tánh. Chơn Tâm, Phật pháp 
				thì ở cùng khắp mọi nơi cho nên đạo tràng cũng vậy. Nơi nào có 
				Phật pháp là nơi ấy có đạo tràng. Vì thế người Phật tử tu đâu 
				cũng được không nhất thiết phải vào chùa mới tu. Khi đã lìa 
				Tướng nhập Thể thì đâu đâu cũng là đạo tràng. Ở nhà, ở chợ, ở sở 
				làm là những đạo tràng rất tốt để tu. Sống trong thế giới ô 
				trược mà chúng ta biết tu tâm dưỡng tánh có nghĩa là biết lìa bỏ 
				tâm vọng tưởng cuồng loạn để quay về sống với tự tánh thanh tịnh 
				của mình thì gia đình mình chính là đạo tràng vậy. Nhưng đạo 
				tràng lớn nhất, cao siêu nhất chính là Tâm của mình và chùa lớn 
				nhất, vĩ đại nhất và thanh tịnh nhất chính là Phật Tâm của chúng 
				ta vậy. 
				Các vị Bồ-tát đã dùng trực 
				tâm tức là tâm ngay thẳng chân chánh, không hư dối quanh co mà 
				thực hành Lục độ Ba-la-mật, tứ vô lượng tâm, tứ diệu đế, thập 
				nhị nhân duyên… để giáo hóa chúng sinh. Các Ngài đem chánh pháp 
				của Phật đến với chúng sinh tức là các Ngài đã đem đạo tràng đến 
				với mọi người cho nên bất cứ nơi nào các Ngài đến thì nơi đó là 
				đạo tràng. Vì thế mà ông Duy Ma Cật mới nói với Quang Nghiêm 
				Đồng Tử: “Tôi từ đạo tràng đến” là vậy. 
				 
				Ông Duy Ma Cật đáp: 
				 
				Thế đấy! Quang Nghiêm Đồng tử! Bồ-tát nếu ứng dụng trí tuệ 
				Ba-la-mật giáo hóa chúng sinh thì mọi hành động giở chân lên, hạ 
				chân xuống đều từ đạo tràng đến và lúc nào cũng ở trong Phật 
				pháp vậy. 
				 
				Muốn có đạo tràng nầy thì phải ứng dụng câu: “Sắc chẳng khác 
				Không, Không chẳng khác Sắc” của Tâm Kinh làm tiêu chuẩn cho mọi 
				sinh hoạt của cuộc đời mình thì giở chân lên, hạ chân xuống đều 
				từ trong đạo tràng mà xuất phát. 
				 
				Bạch Thế Tôn! Quang Nghiêm thưa. Trưởng giả Duy Ma Cật nói 
				thời pháp ấy rồi có năm trăm trời, người đều phát tâm Vô thượng 
				Bồ-đề. Vì vậy con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh. 
				  
				Tuy Ông Duy Ma Cật chỉ nói 
				một câu đơn giản và rất bình thường là: “Tôi từ đạo tràng đến” 
				mà nó có một sức mạnh vô song có thể phá tan cái màn vô minh còn 
				che lấp trong tâm trí của tất cả chúng sinh. Vì từ đây con người 
				sẽ không còn lầm lẩn về ý nghĩa của chữ “đạo tràng” nửa. Chúng 
				ta sẽ không còn nghĩ rằng đạo tràng là chỗ Phật ngồi, đạo tràng 
				là chỗ Phật tử tu theo Tịnh độ, Mật tông, Thiền tông… hay là chỗ 
				tu tập cúng kiến làm đàn làm chay… mà Trực tâm mới là đạo tràng, 
				thâm tâm là đạo tràng, Bố thí là đạo tràng, Từ là đạo tràng, 
				Giải thoát là đạo tràng… Do đó chúng ta không cần phải đi đâu xa 
				để tìm đạo tràng mà một khi chúng ta biết sống với những đức 
				tính như Thiền định, Duyên khởi… là chúng ta đang ở trong đạo 
				tràng đó. 
				 
				Quang Nghiêm Đồng Tử còn chấp hình tướng bề ngoài, còn chấp có 
				pháp lành để độ chúng sinh và còn chấp có hình tướng người xuất 
				gia tu trong đạo tràng nên cư sĩ Duy Ma Cật dựa theo Pháp Tánh 
				mà nói thì tất cả nhất cử nhất động là từ nơi đạo tràng mà ra vì 
				tất cả các pháp đều là Phật pháp. Chủ đích của đoạn kinh nầy là 
				phá cái chấp phải vào chùa mới tu, phải xuất gia mới là đi tu mà 
				thật ra tu ở đâu cũng được. Tu hành không phải là hình thức bề 
				ngoài, không quan trọng vấn đề đầu tròn áo vuông, không nhất 
				thiết phải vào chùa, thấy tượng Phật mà chính là tu sửa tự tâm. 
				Vì thế cái đạo tràng thanh tịnh nhất, lớn nhất, huyền diệu nhất 
				vẫn chính là tâm của chúng ta và không tượng Phật nào trên thế 
				gian nầy mà to hay mầu nhiệm bằng Phật tâm của chúng ta vậy. 
				  
				Thời Đức Phật còn tại thế 
				không hề có chùa chiền, am tự mà chỉ có tu viện. Tại sao? Tu 
				viện là nơi chư Tăng tu học Phật pháp với nhau và sau đó thuyết 
				giảng những chân lý đó cho Phật tử tại gia. Họ sống với nhau 
				trong Lục hòa, bình đẳng với mục đích cao cả là cùng hướng về 
				giải thoát giác ngộ. Ngày nay có rất nhiều chùa chiền ở khắp mọi 
				nơi. Ngay cả một khu phố có hai ba cái chùa mà không chùa nào 
				hòa hợp với nhau. Nhiều chùa chiền, nhiều giáo hội có phải là 
				Phật giáo đang trên đà phát triển cực thịnh không? Nhìn ngược 
				lại vào lịch sử của Phật giáo thì thời kỳ nào có những vị cao 
				tăng đắc đạo làm sáng danh đạo Phật thì thời kỳ đó mới là cực 
				thịnh. Vì chúng sinh nhìn vào tấm gương sáng đó mà quay về tu 
				tâm dưỡng tánh. Ngược lại nếu chúng sinh thấy cảnh chia rẻ, bất 
				hòa làm họ chán ngán. Ngày nay trong bất cứ xã hội nào trên thế 
				giới cũng có rất nhiều tôn giáo. Nếu tôn giáo nào biết phát 
				triển bằng cách mở mang những khóa tu học, thiết lập những hệ 
				thống giáo dục để hướng dẫn con người tiến theo đà văn minh của 
				thế giới mà không đánh mất đi những đạo đức căn bản, những chân 
				lý huyền diệu có thể đưa họ đến chỗ giải thoát giác ngộ thì tôn 
				giáo đó phát triển cực mạnh. Trong khi đó các tu sĩ Phật giáo 
				vẫn mơ mộng những chuyện viễn vông, lo cầu an cầu siêu, hay các 
				hình thức mê tín dị đoan vốn thật ra không hề có trong truyền 
				thống Phật giáo. Việt Nam vào thời chấn hưng Phật giáo, có những 
				trường Trung Đẳng và Cao Đẳng như Phật Học đường Liên Hải và Nam 
				Việt… đã đào tạo rất nhiều Tăng Ni xuất sắc làm cho Phật giáo 
				được rạng ngời. 
				 
				Tiền tài, danh vọng, vật chất là những chướng ngại lớn cho những 
				người tu. Câu chuyện như thế nầy: 
				  
				“Có một đệ tử quyết tâm học 
				đạo với một vị đạo sư. Sau một thời gian dài thọ giáo, vị đại sư 
				vì có việc phải đi xa nên căn dặn người đệ tử tiếp tục tinh tấn 
				tu hành. Người học trò nghe lời thầy dặn công phu sớm tối không 
				bê trễ. Vì nếp sống thanh bần người đệ tử chỉ có duy nhất một 
				chiếc áo cà sa mà cứ bị chuột cắn rách hoài nên lại phải đi xin 
				mảnh vải khác để vá vào. Phật tử thấy vậy bèn cúng dường cho tu 
				sĩ một con mèo để trừ lũ chuột. Từ ngày có con mèo, lũ chuột 
				không dám lộng hành nữa, nhưng muốn giữ con mèo thì tu sĩ ngoài 
				việc xin thêm cơm chay còn phải xin thêm sửa để nuôi con mèo. Có 
				vị Phật tử hảo tâm cúng dường con bò để lấy sửa cho con mèo. Tu 
				sĩ vui vẻ nhận con bò, nhưng bây giờ tu sĩ phải xin cỏ cho bò 
				ăn. Thấy vậy dân làng biếu tu sĩ một mãnh đất và dụng cụ canh 
				nông để tu sĩ lo canh tác mà nuôi bò. Tu 
				sĩ ra công cày cấy, trồng rất nhiều rau cỏ, bò ăn hoài không hết 
				nên phải đem ra chợ bán bớt. Miếng đất quá phì nhiêu nên tu sĩ 
				làm không xuể và phải nhờ người đến làm giúp. Tu sĩ bây giờ có 
				nhiều hoa lợi nên tiền bạc dồi dào bèn thuê thợ xây một cái chùa 
				thật lớn. Ngày nào cũng lo mướn người khắc tượng, đúc chuông 
				thật là vĩ đại nhưng thời gian tu hành không còn như trước. Bây 
				giờ tu sĩ phải lo đồn điền, chùa to, tượng lớn, lo giao dịch 
				buôn bán. Có tiền nhiều thì lo mua thêm đất mới để khai thác đầu 
				tư. 
				Một hôm sư phụ trở về không 
				thấy túp lều tranh mộc mạc mà thay vào đó là một ngôi chùa khang 
				trang tráng lệ. Khách hành hương nô nức, ồn ào cúng vái vang 
				xin. Sau khi nghe người đệ tử giải thích nguồn cơn, sư phụ chỉ 
				thở dài mà nói: “Xây cất đền thờ thật to chỉ là trói buộc, nào 
				phải giải thoát. Tu tập tín đồ cho đông, ồn ào phức tạp chỉ gây 
				trở ngại cho việc thanh tu. Than ôi chỉ vì một chiếc áo ránh mà 
				con đã đi thật xa, xa hẳn con đường mà ta đã chỉ dạy nhằm việc 
				giải thoát. Con chỉ lầm lẫn một chút mà đã đi lạc đường lúc nào 
				không hay. Nếu mình bị trói buộc vào các thứ đó rồi thì làm sao 
				có thể giải thoát được?”. 
				  
				Ngày xưa Lục Tổ Huệ Năng 
				sau khi được ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền Tổ vị thì đi về phương Nam 
				và phải sống trên 16 năm ròng rả với bọn thợ săn để mai danh ẩn 
				tích. Hằng ngày Ngài phải hái rau cải mà đem nấu chung trong nồi 
				thịt của những người thợ săn. Khi ăn thì Ngài chỉ lựa rau mà ăn 
				chớ không ăn thịt. Mãi đến năm 676 tây lịch khi biết thời cơ 
				hoằng pháp đã đến nên Ngài mới rời rừng núi đi Quảng Châu và sau 
				đó xuống Quảng Đông đến chùa Bửu Lâm miền Tào Khê để hoằng pháp 
				độ sinh. Ngài qua đời năm 713 tây lịch thọ 76 tuổi. Khi ra đi 
				Ngài chỉ ngồi xếp bằng và an nhiên thị tịch. Vua Đường Hiến Tông 
				truy phong Ngài là Đại Giám thiền sư và đổi tên chùa Bửu Lâm 
				thành Nam Hoa tự. Trải qua hơn một ngàn năm mà nhục thể của Ngài 
				vẫn còn y nguyên không hề bị hư hại. Nam Hoa tự là một ngôi chùa 
				khá lớn nằm ẩn giữa hai ngọn đồi. Phía sau chùa là một rừng tùng 
				bách xanh um, phong cảnh thiên nhiên vắng lặng. Con đường dẫn 
				vào chùa với những hàng trúc chạy dài. Phía sau chánh điện là 
				một căn phòng nhỏ, trình bày rất giản dị, không có đồ đạc gì đặc 
				biệt ngoài một chiếc ngai lớn bằng gổ có màn trướng bao bọc 
				chung quanh. Bên trong là nhục thân của Lục Tổ, thân hình đen 
				bóng như gỗ mun ngồi xếp bằng trên chiếc ngai. Khác với những 
				xác ướp Ai Cập thì bên ngoài thường được quấn vải liệm rất kỹ 
				nhưng khi cởi các tấm vải đó ra thì thể xác bên trong bị hư hại 
				rất nhiều. Phần lớn da thịt đều nát vụn ra từng mảnh, dù nó được 
				ướp bằng những chất hóa học rất tốt. Và sau khi khai quật thì 
				những xác ướp nầy phải được đặt trong phòng có máy điều hòa 
				không khí để chống lại sự tàn phá của thời gian. Trong khi nhục 
				thể của Lục Tổ không hề quấn vải liệm và toàn thân nguyên vẹn 
				không có một dấu vết hư hại nào. Năm 1966 giáo sư Koshiro, viện 
				trưởng viện đại học y khoa Washeda của Nhật Bản đã cầm đầu một 
				phái đoàn qua Trung Hoa để khảo sát về hiện tượng nầy. Ông đã 
				được phép dùng một cái khoan nhỏ đâm vào nhục thân Lục Tổ để lấy 
				ra một mẩu thịt đem về Nhật khảo sát. Kết quả cho thấy đó quả là 
				một xác người chớ không phải là một pho tượng và cũng không có 
				bằng chứng gì nhục thể của Lục Tổ được ướp bằng chất thuốc nào. 
				Giáo sư Koshiro đã xác định là vì một lý do nào đó mà thể xác đã 
				hóa thạch một cách tự nhiên. 
				 
				Phải chăng đây là một phép lạ? hay là sức mạnh kỳ diệu của nội 
				tâm của Ngài đã tỏa ra khiến da thịt Ngài trở nên rắn chắc như 
				Kim Cương và trường tồn bất hoại? 
				 
				Nhắc lại trước đó hai trăm năm khi Tổ Bồ-đề Đạt Ma vào Trung 
				Quốc thì Ngài rất thất vọng vì Phật giáo thời bấy giờ quá chú 
				trọng về hình thức, lấy phương tiện làm cứu cánh mà quên đi giải 
				thoát giác ngộ mới là điều tối thượng. Tuy đã được ban Tổ vị 
				nhưng rất nhiều người không tin một kẻ thất học, xuất thân từ 
				miền biên thùy hoang dả như Huệ Năng lại có thể tu hành chứng 
				đắc được. Mặc dù Lục Tổ có kiến thức về tuệ giác bát nhã thâm 
				sâu nhưng số người theo Thần Tú quá đông nên họ không bao giờ 
				chấp nhận việc Tổ Hoằng Nhẫn truyền trao y bát cho Huệ Năng. Có 
				lẽ Ngài để lại nhục thân bất hoại là một bằng chứng hùng hồn 
				rằng cái kiến thức mà con người có thể học được từ sách vở từ 
				chương so với cái trí tuệ siêu tuyệt của người tu chứng đắc vốn 
				khác nhau rất xa. Cái trí thức của kẻ phàm phu và cái trí tuệ 
				của bậc thượng trí có thể ví như đom đóm mà so với trăng rằm 
				vậy. 
				 
				Đối với Phật giáo Việt Nam thì tại Chùa Đậu tỉnh Hà Tây (miền 
				Bắc) cũng có hai anh em thiền sư Vũ Khắc Trường và Vũ Khắc Minh 
				nhập thất 100 ngày tụng kinh niệm Phật. Sau 100 ngày các thiện 
				tín Phật tử mở cửa am thấy hai vị thiền sư vẫn ngồi theo thế 
				nhập thiền và có mùi thơm. Nhục thể biến thành đá và ngày nay 
				vẫn còn tại chùa để Phật tử chiêm bái. 
				 
				Phật giáo Tây tạng (Tibetan Budhism) có một lịch sử rất thăng 
				trầm. Đạo Phật truyền vào Tây tạng từ thế kỷ thứ bảy dưới triều 
				đại vua Songsen Gampo, nhưng mãi đến thế kỷ thứ tám dưới triều 
				đại vua Trisong Detsen, Phật giáo mới bắt đầu phát triển nhờ sự 
				giúp đở của một nhà sư Mật tông (Tantrism) Ấn độ tên là 
				Padmasambhata. Nhưng mãi đến năm 1041 có đại sư Atisha lúc bấy 
				giờ đang trụ trì tại tu viện Vrikamasila ở Ần độ nhận lời mời 
				của vua Yeshe-O đến Tây Tạng mà hoằng dương Phật pháp và Phật 
				giáo bắt đầu phát triển rất mạnh. Ở Tây tạng tất cả các tu sĩ 
				đều phải trải qua một kỳ thi về Phật học. Nếu thi đậu thì họ 
				được gọi là “Trappa” tương đương với chữ “Bhiksu” tức là Tỳ 
				Kheo. Còn danh từ Lạt Ma có nghĩa là một vị học giả, dùng gọi 
				cho tất cả những người thi đậu kỳ thi về Phật học. Lạt Ma gồm có 
				cư sĩ và tăng sĩ. Trước khi đạo Phật du nhập thì Tây tạng đã có 
				đạo Bon Pa chuyên về huyền học, thần thông. Để chống lại sự đàn 
				áp của nhóm Bon Pa, Phật giáo Tây tạng đã được tổ chức thành 
				những môn phái, giáo hội, nhưng chính sự tổ chức nầy đã đưa Phật 
				giáo vào con đường suy vong. Vì có nhiều giáo hội, dần dần các 
				tu sĩ đã trở nên lười biếng, không giữ gìn giới luật và coi việc 
				tu hành như một nghề nghiệp hướng dẫn tinh thần cho quần chúng 
				hơn là tu thân cầu giải thoát. Tệ hại hơn nữa, các nghi thức 
				hành lễ để suy gẫm lời Phật dạy đã biến thành cúng vái, xin xỏ, 
				lên đồng, nhập cốt, giải đáp lá số tử vi, bùa chú thư phù… Các 
				tinh hoa Phật pháp được cất giữ không mang ra giảng dạy mà chỉ 
				đề cao hình thức bề ngoài. Các tu sĩ không chịu tu học mà chỉ 
				đặt trọng tâm vào việc sắc tướng như kêu gọi Phật tử xây chùa, 
				đúc tượng để được phước. Truyền bá những chuyện mê tín hoang 
				đường để lôi kéo tín đồ thay vì giúp họ tu hành để được giải 
				thoát giác ngộ. Họ còn cho phép các tu sĩ được lấy vợ và được 
				thừa kế tức là nếu cha là Lạt Ma thì con đương nhiên cũng thành 
				Lạt Ma khỏi cần tu học. Cho đến thế kỷ thứ 14 có vị tu sĩ tên 
				Tsong Khapa (1357-1419) mới bắt đầu phong trào chấn hưng Phật 
				giáo và đưa lại sự hòa giải giữa hai phái Mũ Vàng (Gelugpas) và 
				Mũ Đỏ (Dugpas). Tất cả 14 vị Đạt Lai Lạt Ma đều xuất thân từ 
				phái Mũ Vàng nhưng phái Mũ Đỏ vẫn được tôn trọng và vẫn chiếm số 
				đông. Mãi cho đến vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 là Lobsang Gyatso (La 
				bốc tạng Gia mục thố) thì việc chấn hưng mới được hoàn mãn. Tục 
				lệ thừa kế bị loại bỏ và nhiều kỳ thi về Phật học được tổ chức 
				để gạt bỏ những người mượn áo tu hành làm bậy. Những kinh điển 
				từ trước vẫn được cất kỹ thì nay được mang ra truyền bá sâu rộng 
				để khuyến khích phong trào tu học trong nước. Mọi gia đình được 
				khuyến khích gởi con cái vào các tu viện để trở thành các vị Lạt 
				Ma. Sau đó họ có thể lập gia đình và sống như một người thường. 
				Chỉ khi nào họ phát nguyện xuất gia thì mới được gọi là tu sĩ 
				(Trappa). Các tu sĩ phải thi đậu những kỳ thi Phật học mới được 
				bổ nhiệm làm trụ trì tại các tu viện nhưng cũng chỉ ở đây một 
				thời gian ấn định để tránh sự quyến luyến, tham ái tức là chùa 
				của bá tánh mà xem là của mình. Sau thời gian hoằng dương giáo 
				pháp, các tu sĩ được đưa đến những tu viện khác để học hỏi thêm. 
				Phật giáo Tây tạng tiếp tục phát triển cho đến năm 1950 khi 
				Trung Cộng đưa quân xâm chiếm đất Tây tạng khiến cho vị Đạt Lai 
				Lạt Ma thứ 14 là Tenzin Gyatso (Đăng châu Gia mục thố) bị giam 
				lỏng tại Potala trong chín năm liền cho đến tháng tư năm 1959 
				mới trốn thoát và tỵ nạn tại Dharamsala mà sau nầy có tên là 
				“Little Lhassa”, gần biên giới Tây tạng và Ấn Độ sau dãy Hy Mã 
				Lạp Sơn, cho tới ngày nay. 
				
				
				 |  
				 |