| 
				 Chương Thứ 
				Ba 
				 
				Phẩm Đệ Tử 
				(The Disciples’ Reluctance to Visit Vimalakirti) 
				Hàng 
				Thanh Văn 
				 
				Tôn giả Ca Chiên Diên 
				  
				(Katyayana): 
				Thuyết Pháp Tinh Yếu. 
				 
				 
				Tôn giả Ca Chiên Diên là con 
				của một vị quốc sư của nước A Bàn Đề thuộc miền Nam nước Ấn Độ. 
				Tiên A Tư Đà vị thần thông bác học của Ấn Độ thời bấy giờ, người 
				đã đến xem tướng cho Thái tử Tất Đạt Đa khi Ngài mới đản sanh 
				chính là cậu ruột và cũng là sư phụ đầu tiên của tôn giả. Sau 
				tôn giả quy y theo Phật trở thành A La Hán và trong số mười đại 
				đệ tử của Phật thì tôn giả nổi tiếng là đệ nhất nghị luận vì 
				ngài có tài biện luận và lời nói diệu dàng làm mọi người kính 
				phục. Ngoài tài biện thuyết, tôn giả còn làm ra bộ Thi Thiết Túc 
				Luận gồm có 18 ngàn câu kệ và một bộ kinh có tên là Ca Chiên 
				Diên Kinh để nói về ý nghĩa lìa cả hai đường Có và Không mà phá 
				trừ tập khí ngã mạn. 
				Bấy giờ Đức Phật gọi ông 
				Ca Chiên Diên bảo: 
				 
				- Ca Chiên Diên! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật. 
				 
				Ông Ca Chiên Diên thưa: 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Trước kia con đã từng nghe Phật nói pháp tinh 
				yếu cho các Tỳ Kheo. Hôm nọ con cùng các Tỳ Kheo hội hợp lại, 
				con bèn trùng tuyên diễn nói lại về ý nghĩa vô thường, khổ, 
				không, vô ngã và tịch diệt… Lúc 
				bấy giờ trưởng giả Duy Ma Cật đến, nói với con rằng: 
				 
				- Thưa ngài Ca Chiên Diên! Ngài không nên dùng tâm hành sanh 
				diệt mà nói pháp thật tướng. Thưa ngài, các pháp không sanh 
				không diệt, đó là nghĩa vô thường. Ngũ uẩn rỗng không, không có 
				điểm sanh khởi, đó là nghĩa khổ. Các pháp rốt ráo không, không 
				có nguồn gốc, đó là nghĩa không. Ngã và vô ngã không hai, đó mới 
				là nghĩa vô ngã. Các pháp xưa không sanh, nay không diệt, đó là 
				nghĩa tịch diệt. 
				Người học Phật thì phải 
				nhìn vạn pháp qua hai mặt. Pháp thì có pháp tánh và pháp tướng. 
				Nếu con người chưa ngộ được thật tướng của vạn vật trong vủ trụ 
				thì chỉ nói được pháp tướng. Còn thấu nhập được thật tướng thì 
				mới nói được pháp tánh. Mà thật tướng chính là vô tướng. 
				 
				Chúng sinh sống trong thế giới Ta bà nầy tức là đang bơi trong 
				biển khổ cho nên Đức Thế Tôn muốn đem Phật pháp để giúp chúng 
				sinh nương theo đó mà giải thoát. Vì thế Phật mới nói thuyết vô 
				thường, vô ngã, khổ, không và diệt phiền não để chứng đắc Niết 
				bàn. Vì đây là lời của Phật nên tôn giả Ca Chiên Diên mới đem 
				những ý chính mà diễn lại cho các Tỳ Kheo nghe thì lời nói của 
				tôn giả là đúng. Nói đúng mà tại sao lại bị quở? Trưởng giả Duy 
				Ma Cật không những chỉ trích tôn giả Ca Chiên Diên mà còn chỉ 
				trích tất cả các vị đại đệ tử của Phật không phải vì họ nói sai 
				hay tu hành sai mà họ không đi đúng Phật đạo. Con đường để đạt 
				đến Phật quả viên thành bắt đầu từ nhân thừa, thiên thừa, tiểu 
				thừa, duyên giác thừa và cuối cùng tiến đến đại thừa viên giáo 
				để đến Đẳng giác mà thành Phật. Bất cứ ai trong thế gian nầy nếu 
				muốn hoàn thành Phật đạo đều phải đi theo con đường của các vị A 
				La Hán cả, nhưng lý do họ bị khiển trách là vì họ tự mãn ở địa 
				vị của hàng Thanh văn mà không tiếp tục tinh tấn tu hành từ 
				Thanh văn lên Bồ-tát hay từ Tiểu thừa sang Đại thừa. Tuy đã 
				thoát khỏi sinh tử luân hồi nhưng nếu không tiến tu theo Bồ-tát 
				đạo thì trí tuệ không phát sinh, vô minh chưa trừ diệt thì làm 
				sao thành Phật được. Do đó ông Duy Ma Cật mới đại diện cho Phật 
				chỉ bày con đường sáng để khai thị cho họ theo đó mà tiếp tục tu 
				hành để viên thành Phật đạo. Đây là chỉ trích trong tinh thần 
				xây dựng vậy. 
				Khi Đức Phật thuyết pháp 
				dạy các Tỳ Kheo thì Ngài thuyết huyễn pháp, độ huyễn nhân để 
				chứng huyễn quả. Nhưng tôn giả Ca Chiên Diên nghe Phật nói huyễn 
				lại tưởng là thật. Phật dùng phương tiện lại tưởng là cứu cánh 
				cho nên tôn giả mới đem những lời Phật mà dạy cho các Tỳ Kheo. 
				 
				Đứng về phương diện pháp tướng mà nói thì vạn pháp là thật có, 
				cho nên thấy vạn pháp là vô thường. Cũng như thấy thân nầy là 
				thật nên phải chịu sinh lão bịnh tử. Thấy cái ta là thật có nên 
				thấy cái ta là vô ngã. Muốn ngã và ngã sở được trường tồn vĩnh 
				cửu nên thấy vạn pháp giai không. Thấy phiền não là thật cho nên 
				mới mong cầu tịch diệt Niết bàn. Tóm lại vô thường, khổ, không, 
				vô ngã, tịch diệt đều là pháp tướng tức là tướng sinh diệt của 
				thế gian. Vì thế tôn giả Ca Chiên Diên càng diễn giải, biện luận 
				cho các Tỳ Kheo thì càng chứng tỏ tâm ông bị dính mắc càng 
				nhiều. Do đó trưởng giả Duy Ma Cật mới đến bảo ông chớ đem tâm 
				hạnh sinh diệt tức là pháp tướng mà nói pháp Thật Tướng. Tại 
				sao? Bởi vì tâm hạnh sinh diệt là pháp thế gian, là tương đối 
				thì làm sao diễn tả được pháp Thật Tướng tức là tuyệt đối, là 
				pháp xuất thế gian. 
				Đứng về phương diện tuyệt đối mà nói thì các pháp không sinh mà 
				cũng không diệt, không còn đối đãi tức là Bất nhị. Ông Ca Chiên 
				Diên nói các pháp có sinh có diệt tức là vô thường còn ông Duy 
				Ma Cật nói các pháp không sinh không diệt mới là vô thường. Đây 
				là hai tư tưởng hoàn toàn trái ngược nhau. Vậy ai đúng ai sai? 
				Thật ra cả hai cùng đúng. Tại sao lại có chuyện ngược với lý vô 
				nhị thị như vậy? Nếu đứng về pháp Tướng tức là pháp sinh diệt 
				tương đối của thế gian thì ông Ca Chiên Diên nói đúng. Còn nếu 
				dựa vào pháp Tánh bất sinh bất diệt tức là Chân Lý Tuyệt đối thì 
				ông Duy Ma Cật đúng vì trong Chân Không thì làm gì có sinh có 
				diệt, có tăng có giảm. Nhưng nếu nói không sanh không diệt thì 
				tại sao nói vô thường như các pháp sinh diệt? Đứng về pháp Tánh 
				thì không sanh không diệt nhưng nhờ có duyên hợp mới thành 
				Tướng. Mà đã là duyên hợp thì có sanh có diệt tức là vô thường. 
				Đây chính là bất biến mà tùy duyên. Thí dụ như cái nhà của chúng 
				ta. Vì cái nhà là do duyên hợp của gạch, ngói, cây, xi măng… nên 
				cái nhà không có tự tánh tức là Không. Vì cái nhà là do duyên 
				hợp mà thành nên có sanh có diệt tức là vô thường nhưng tự tánh 
				của cái nhà là Không thì làm gì có sanh có diệt. Do đó cùng một 
				đối tượng mà có hai bản thể là hữu vi và vô vi hay tương đối và 
				tuyệt đối. Hữu vi là Tướng và vô vi là Thể. Như vậy nói vô 
				thường là chỉ cho giả tướng duyên hợp. Còn pháp Tánh thì không 
				sanh không diệt. Cho nên cái không sanh không diệt đó không thể 
				rời cái Tướng sanh diệt được. Vì thế Tâm Kinh mới có câu: “Sắc 
				chẳng khác Không” là như vậy. Tuy tôn giả Ca Chiên Diên nói 
				không sai, nhưng sự hiểu biết về sự sinh tồn của nhân sinh vủ 
				trụ chỉ có một bên là pháp Tướng tức là pháp sinh diệt cho nên 
				ông Duy Ma Cật muốn đem chân lý của Thật Tướng tuyệt đối mà 
				giảng giải để khai thị cho tôn giả thấy rằng tuy vạn pháp có 
				tướng sinh diệt tức là vô thường nhưng Bản Thể Chân Như là Thật 
				Tướng thì không có hình tướng nên không bị chi phối bởi tánh vô 
				thường, khi nào cũng như khi nào, không lên bổng xuống trầm, 
				không còn già trẻ sống chết đổi thay nên được gọi là Chơn 
				Thường. Vì thế ông Ca Chiên Diên tuy là nói không sai nhưng chưa 
				được rốt ráo, thấu triệt mà thôi.  
				Ngũ uẩn rỗng không, 
				không có điểm sanh khởi, đó là nghĩa khổ. 
				 
				Năm uẩn ở đây chính là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong thế 
				gian nầy con người còn thấy khổ, vui là vì còn cảm thọ những 
				duyên trần từ bên ngoài. Khi gặp cảnh thuận duyên thì tâm vui mà 
				gặp cảnh nghịch lòng thì phát sinh tâm sân hận. Tâm Kinh dạy 
				rằng trong Bản Thể Chân Như thì ngũ uẩn là Không. Mà ngũ uẩn đã 
				là Không thì làm gì có cảm thọ những duyên trần bên ngoài. Cảm 
				thọ cũng Không thì vui khổ cũng chẳng còn. Vì thế ông Duy Ma Cật 
				nói nghĩa khổ chính là chẳng khổ chẳng vui, là chân lý tuyệt đối 
				vậy. 
				 
				Trong Kinh Hoa Nghiêm có dạy rằng: “Vạn pháp duy tâm tạo” cho 
				nên khổ vui cũng bởi tự lòng ta. Cùng một trái ớt cay mà có 
				người thích ăn còn người khác lại không thích. Nếu bắt người Mỹ 
				ăn cơm hoài như người Việt thì làm sao họ vui hay bắt người Việt 
				ăn bánh mì hoài thì họ sẽ kêu khổ. Vậy vui khổ là không thật Có 
				mà nó chỉ xuất hiện làm cho con người thêm điêu đứng khi chúng 
				ta chạy theo gió lục trần. Khi con người còn chấp có hai bên là 
				khổ vui nên tâm mới khổ vì muốn phá khổ tìm vui. Khi đã ngộ được 
				Bản Thể Tuyệt Đối thì không còn chấp có khổ vui mà chỉ thấy rõ 
				tất cả chỉ là một cái bất biến. Trong cuộc đời có ai lại không 
				đối diện với cảnh trái ý nghịch lòng. Nếu người không hiểu đạo 
				khi gặp nghịch duyên thì họ than trời, trách đất chẳng những làm 
				khổ cho mình mà còn làm khổ cho mọi người chung quanh. Còn người 
				có trí tuệ sáng suốt thì cũng cảnh nghịch duyên đó mà họ bình 
				tĩnh lắng lòng để tìm nguyên nhân nào tạo ra nghịch cảnh mà tìm 
				phương đối trị để vượt qua cảnh trái ý nghịch lòng. Cái vui khổ 
				mà con người thọ nhận trong đời nầy chẳng qua là cái quả của 
				những cái nhân tốt xấu mà họ đã tác tạo từ kiếp trước mà thôi. 
				Tự tác hoàn tự thọ tức là ta làm thì ta chịu có gì phải phàn 
				nàn. Chúng ta không có túc mạng thông thì không thể nào biết 
				được mình đã làm những gì trong tiền kiếp. Nhưng điều quan trọng 
				mà con người cần phải chú ý là ngay trong đời hiện tại cũng như 
				trong tương lai đừng gây ra nghiệp xấu vì đây chính là những 
				duyên xấu sẽ kết tập với những nghiệp bất thiện trong quá khứ mà 
				tạo thành cái ác quả để hành hạ chúng ta. Nhân mà không có duyên 
				thì không bao giờ thành quả. Do đó không chỉ riêng có Bồ-tát mới 
				thấy câu: “Bồ-tát sợ nhân chúng sinh sợ quả” là chân lý mà tất 
				cả chúng sinh cũng như Bồ-tát cùng sợ nhân cả. 
				 
				Các pháp rốt ráo không, không có nguồn gốc, đó là nghĩa 
				không. 
				 
				Không có một hiện tượng tinh thần hay vật chất nào trong thế 
				gian nầy có thể tự nó sinh tồn mà không cần đến những trợ duyên 
				khác. Vì do sự kết hợp của nhiều nhân duyên nên tất cả vạn pháp 
				chính nó không có tự tánh, không có chủ thể hay vô ngã tức là 
				Không. Không ở đây có nghĩa là Chơn Không Diệu Tánh tức là từ vô 
				thỉ nó như vậy và cho đến vô chung nó cũng thế, không tăng không 
				giảm nên nói không nguồn không gốc là như vậy. Cái Không nầy mới 
				chính thật là nghĩa không chớ không phải cái không đối với cái 
				có của hàng Thanh văn. 
				 
				Ngã và vô ngã không hai, đó mới là nghĩa vô ngã. 
				 
				Ngã là thấy mình thật, vạn vật cũng thật. Còn vô ngã thì mình là 
				huyễn và vạn vật, chúng sinh cũng huyễn. Khi còn thấy có ngã và 
				vô ngã là thấy có bên nầy bên kia, là còn phân biệt nhị nguyên 
				tức là tâm không bình đẳng. Đây là lối nói ngược để phá trừ bệnh 
				chấp tướng, nhưng thật ra trong vô thường có Chơn thường và 
				trong vô ngã có Chơn ngã. Đây mới chính là Trung đạo. Thí dụ như 
				ngày xưa chúng ta chưa biết đạo thì lúc nào cũng chạy theo bản 
				ngã, làm việc gì cũng vì mình, ai nói nặng một chút là giận là 
				hờn, ai tâng bốc là kiêu căng, tự phụ cũng vì lầm tưởng thân nầy 
				là thật, cái Ta là thật. Khi đã biết thân nầy là giả, thế gian 
				vủ trụ là giả thì từ cái bản ngã mê lầm quay về với cái tự tánh 
				thanh tịnh mà sống với tinh thần vô ngã từ bi của nhà Phật. Vậy 
				ngã và vô ngã vốn ở trong ta. Nếu chạy theo lục dục thất tình là 
				ngã còn sống với tự tánh bản nhiên thanh tịnh là vô ngã. Tuy hai 
				nhưng mà một tức là bất nhị thì đây mới là nghĩa vô ngã vậy. 
				 
				Các pháp xưa không sanh, nay không diệt, đó là nghĩa tịch 
				diệt. 
				 
				Giáo lý Tiểu thừa dựa trên pháp hữu vi mà thấy các pháp có sinh 
				có diệt nên tâm bất định mà sinh ra cái khổ. Do đó họ cố tu, xa 
				lìa cái sinh diệt cho tâm được an định mà tìm cái vui tức là sự 
				tịch diệt của Niết bàn. Ngược lại tư tưởng Đại thừa thì cho rằng 
				các pháp từ nguyên thủy đến nay vẫn như thế, không sanh không 
				diệt, không nhơ không sạch, không tăng không giảm. Mà các pháp 
				vốn không sanh thì làm gì có diệt! Đây chính là Pháp Tánh của 
				các pháp tức là Không. Vì là Chơn Không Diệu Tánh không hình 
				không sắc, không kích thước, không nặng nhẹ thì làm gì có thể 
				nghĩ bàn hay dùng văn tự để diễn bày được. 
				 
				Như thế khi còn mê lầm vọng tưởng điên đảo thì còn thấy các pháp 
				có sinh có diệt, đến khi trí tuệ bừng sáng để nhận thấy Thể Tánh 
				bất sinh bất diệt của các pháp tức là thấy được tính Thường, 
				Lạc, Ngã, Tịnh thì vọng tưởng điên đảo không còn và tâm hằng 
				vắng lặng thanh tịnh thì Niết bàn còn dùng vào đâu mà cầu mong 
				chứng với đắc thì đây mới chính là nghĩa Tịch Diệt vậy. 
				 
				Như vậy: 
				 
				- Nếu thấy thân là vô thường thì phải quay về sống với pháp tánh 
				bất sinh bất diệt để tới chỗ Chơn Thường. 
				 
				- Biết vạn pháp trong thế gian vủ trụ là vô ngã thì cố gắng suy 
				tư quán chiếu, tĩnh lự và quay về sống với tự tánh thanh tịnh 
				của mình thì sẽ thấy Chơn Ngã. 
				 
				- Nếu để tâm chạy theo vọng trần thì sẽ cảm thọ cái vui hay cái 
				buồn, nhưng nếu thấy rằng ngũ uẩn là Không thì sẽ chặn được gió 
				lục trần. Không có gió lục trần thì làm gì còn cảm thọ cho nên 
				buồn vui cũng vì thế mà tan biến. 
				 
				- Nếu thấy thế gian sinh diệt thì tâm mới có khổ bây giờ quay về 
				với pháp tánh thì sẽ không còn sinh diệt. Không sinh diệt thì 
				khổ không còn tức là Tịch Diệt. 
				 
				Tóm lại theo tư tưởng đại thừa thì ngay trong vô thường mà thấy 
				được Chơn Thường. Ngay trong vô ngã mà thấy được Chơn Ngã. Trong 
				cái khổ mà thấy Chơn Lạc và trong thế giới uế độ nầy mà vẫn thấy 
				được Niết bàn thanh tịnh tức là Chơn Tịnh vậy. Vì thế với tuệ 
				nhãn của Bồ-tát thì vạn pháp là Chơn Thường, Chơn Ngã, Chơn Lạc 
				và Chơn Tịnh hay là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. 
				 
				Nói một cách khác, tất cả vạn pháp trong thế gian vủ trụ nầy thì 
				Tướng là giả huyễn, là sinh diệt. Thể thì lặng lẽ, là Chơn Không 
				Diệu Tánh, là Không. Còn Dụng thì phát sinh từ tâm để tạo thành 
				muôn sai vạn biệt. Đối với người tu theo đại thừa thì cho dù tâm 
				có phát sinh trăm ngàn ý niệm, chánh có tà có, thiện có ác có… 
				nhưng con người làm chủ tâm tức là kiềm chế ý niệm chớ không 
				chạy theo nó. Niệm vừa dấy lên thì tự nhiên nó lắng xuống, biến 
				đi. Vô niệm tức là Chơn tâm, là Phật tánh, là hạnh phúc vĩnh 
				hằng trong tất cả chúng ta. 
				 
				Hằng ngày chúng ta đi chùa, ngồi thiền, kinh hành, tụng kinh, 
				niệm Phật mà người chửi còn giận, vật đẹp muốn lấy, tranh công 
				đoạt chức thì vẫn làm nô lệ cho bản ngã. Muốn đạt đến ngã Không 
				thì phải thấy vạn pháp là vô thường, vô ngã, Không và khổ như 
				cái thấy biết của các vị A La Hán. Sau cùng phá luôn chấp pháp 
				tức là pháp Không để được cái nhìn cái biết của Bồ-tát. Đó là 
				thế gian là huyễn hóa, nhưng Bản Thể thì thường hằng bất biến, 
				là Chơn Không Diệu Tánh nên lúc nào cũng thanh tịnh. Con người 
				biết quay về sống với tự tánh thanh tịnh của mình thì ở đâu và 
				lúc nào cũng có tịch diệt Niết bàn. 
				 
				Tôn giả Ca Chiên Diên nói tiếp: 
				 
				Sau khi ông Duy Ma Cật diễn nói về những pháp yếu đó, các Tỳ 
				Kheo tâm được cởi mở. Vì vậy, hôm nay con không dám lãnh trách 
				nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật. 
				 
				Các Tỳ Kheo khi đã được nghe Chân lý tuyệt đối, lãnh hội được 
				pháp Tánh thanh tịnh thì như người ngũ mê sực tỉnh, không còn 
				thấy mình bị trói buộc và tâm rất hoan hỷ. Ý của ông Duy Ma Cật 
				trong đoạn kinh nầy là đứng lấy tâm sinh diệt tương đối của thế 
				gian mà luận bàn về pháp Tánh tức là Chơn Không Diệu Tánh. Vì nó 
				là Chơn Không, là rỗng lặng nên không thể dùng ngôn ngữ, văn tự 
				để diễn bày. Nhưng nếu có quán chiếu, có thực hành thì sẽ ngộ 
				Chân lý và nhập Thể Tánh thì lúc đó tự mình sẽ có Thường, Lạc, 
				Ngã, Tịnh vậy. 
				
				
				 |  
				 |