Chương Thứ 
				Mười Hai
				
				Phẩm Thấy Phật A Súc
				
				(Thấy VÔ ĐỘNG NHƯ LAI Và Thế Giới DIỆU HỈ)
				(Vision of the Universe Abhirati and the Tathagata Aksobhya)
				
				
				Đức Thế Tôn hỏi ông Duy Ma 
				Cật rằng:
				- Muốn thấy một Như Lai ông phải quán sát như thế nào để được 
				thấy?
				
				- Bạch Thế Tôn! Muốn thấy Như Lai con vận dụng pháp quán 
				chiếu y như quán thật tướng của chính mình. Con quán Như Lai 
				thời gian trước không có đến. Thời gian sau không có đi. Thời 
				hiện tại không trụ.
				
				Quán Như Lai con không dựa trên sắc cũng không dựa trên thể chơn 
				như của sắc, không dựa trên tánh của sắc, thọ, tưởng, hành cũng 
				vậy. Cho đến không dựa trên thức mà quán cũng không dựa trên thể 
				chơn như của thức, không dựa trên tánh của thức. Vì Như Lai 
				không phải do tứ đại khởi sanh. Như Lai giống như hư không, 
				nhưng không phải hư không. Như Lai không tương quan lục nhập và 
				vượt ra ngoài nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Như Lai không ở 
				trong tam giới, xa lìa ba cấu, thuận theo tam giải thoát môn. 
				Như Lai đầy đủ tam minh, bình đẳng với vô minh. Như Lai không 
				phải tướng một, không phải tướng khác, không phải tướng tự. 
				Không phải tướng tha, Không phải tướng hữu. Như Lai không phải 
				bờ bên này, không phải bờ bên kia cũng không phải giữa dòng mà 
				vẫn thành tựu nhiệm vụ giáo hóa chúng sinh.
				
				Quán Như Lai tịch diệt mà không vĩnh viễn vắng lặng. Như Lai 
				không kia, không đây, không lấy kia, không lấy đây. Như Lai 
				không thể dùng trí mà nhận biết, không thể dùng thức mà phân 
				biệt. Như Lai không phải là tối mà cũng không phải sáng. Như Lai 
				không tên, không tướng, không mạnh, không yếu, không tịnh, không 
				uế. Như Lai không ở trong phương hướng, mà cũng không rời phương 
				hướng. Không phải hữu vi cũng không phải vô vi. Không thể chỉ 
				bày, không thể diễn nói. Như Lai không phải bố thí cũng không 
				phải bỏn sẻn. Không phải trì giới, không phải phạm giới. Không 
				phải nhẫn nhục, không phải sân nộ. Không phải tinh tấn, không 
				phải giải đải. Không phải định tâm, không phải loạn ý. Không 
				phải trí tuệ mà không phải ngu si. Như Lai không thật mà không 
				dối. Không đến cũng không đi. Không ra cũng không vào. Tất cả 
				ngôn ngữ không thể diễn đạt thấu đáo thật nghĩa Như Lai.
				
				Như Lai, không phải phước điền, không phải không phước điền. 
				Không phải bậc nên cúng dường, không phải không cúng dường. 
				Không phải lấy, không phải bỏ. Không phải tướng có cũng không 
				phải tướng không.
				
				Quán Như Lai hòa đồng chân lý, bình đẳng như pháp tánh, không 
				thể cân, không thể lường, vượt quá cân lường. Như Lai không lớn, 
				mà không phải nhỏ. Như Lai, không thể dùng cái thấy để thấy. 
				Không phải dùng cái nghe để nghe. Không thể dùng tri giác để 
				khái niệm. Không thể dùng tri thức để nhận biết. Như Lai rời 
				ngoài các ràng buộc, đồng với các trí, bình đẳng như chúng sinh. 
				Đối với các pháp không có sự phân biệt. Như Lai đối với tất cả, 
				không lỗi, không trược cấu, không não phiền. Như Lai không có 
				tác giả, không có mới khởi đầu, không sanh, không diệt, không có 
				sợ, không có lo, không mừng, không nản, không phải đã có, không 
				phải sẽ có, không phải đang có. Không thể dùng lời lẽ diễn đạt 
				hay chỉ bày.
				
				Bạch Thế Tôn! Ông Duy Ma Cật thưa: Thân Như Lai là thế đấy. Quán 
				Như Lai phải quán như thế đấy. Do quán như thế mà con thật thấy 
				Như Lai. Và người nào quán Như Lai như thế, gọi là quán đúng, 
				nếu quán khác là quán sai, không thể thấy Như Lai đích thực.
				
				Tiếng Phạn A Súc có nghĩa là Vô Động hay Bất Động. Vậy Phật A 
				Súc là Phật chẳng hề chuyển động, không tới mà chẳng lui, vắng 
				lặng thường còn là muốn ám chỉ cho Pháp thân bất sinh bất diệt 
				trong tất cả mọi chúng sinh.
				
				Thế nào gọi là quán để thấy được Như Lai? Quán là quán chiếu, là 
				dùng trí mà soi rọi vào nội tâm thay vì cái thấy của mắt nghĩa 
				là biến tánh thấy trở thánh cái thấy bằng trí. Theo Sự Tướng thì 
				Như Lai là Đức Phật Thích Ca hay mười phương chư Phật. Còn nói 
				theo Bản Thể thì Như Lai chính là Thật Tướng, là Pháp thân, là 
				Pháp Tánh của tất cả các pháp trong thế gian vũ trụ này. Thật 
				Tướng chính là cái Không, là cội nguồn sinh ra tất cả tức là cái 
				Có. Nói một cách khác con người là “hiện tượng tùy duyên” của 
				Thật Tướng và Thật Tướng là “bản thể bất biến” của con người. Vì 
				thế kinh có câu: “Vô Sở Tùng Lai Nhi Vô Sở Khứ” nghĩa là không 
				từ đâu mà đến và cũng chẳng đi về đâu thì gọi là Như Lai.
				
				Vì Pháp thân là thường trụ nên Pháp thân ở khắp mọi nơi. Cho dù 
				Phật nhập thế cứu độ chúng sinh thì Pháp thân cũng không tăng 
				hay Phật có xuất thế thì nó cũng không giảm, lúc nào cũng vậy mà 
				thôi. Cái Pháp thân nầy Phật và chúng sinh đều có như nhau, 
				nhưng ở Phật thì nó sáng suốt chiếu soi rực rỡ còn ở chúng sinh 
				thì nó bị vô minh che mờ nên không hiển lộ. Trong Kinh Kim Cang, 
				Phật dạy rằng: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến 
				chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai” nghĩa là trong thế gian 
				này bất cứ cái gì có hình tướng, màu sắc, âm thanh, ngôn ngữ, 
				văn tự, kích thước, trọng lượng đều là giả huyễn, là sinh diệt, 
				là không thật chỉ khi nào thấy được Thật Tướng là Tướng Không 
				nằm ẩn dưới hình tướng bên ngoài thì thấy được Như Lai tức là 
				thấy được Chân lý vậy. Như thế thì Như Lai là “vô sở tùng lai 
				diệc vô sở khứ” nghĩa là Như Lai thọ lượng vô thỉ vô chung, vô 
				cùng vô tận.
				
				Bấy giờ ông Xá Lợi Phất hỏi ông Duy Ma Cật:
				- Thưa ngài Duy Ma Cật! Ngài mất ở cõi nào mà lại sanh đến thế 
				giới Ta bà này?
				
				Ông Duy Ma Cật hỏi lại:
				- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Pháp của ngài chứng đắc có mất và có 
				lai sanh chăng?
				
				- Pháp của tôi chứng đắc, không có lúc nào mất và cũng chẳng có 
				lúc nào lai sanh.
				
				- Nếu các pháp không có tướng mất và tướng lai sanh. Vậy cớ sao 
				ngài hỏi tôi rằng: “Ngài mất từ 
				cõi nào, lai sanh đến thế giới này?” Xá Lợi Phất! Ngài nghĩ thế 
				nào? Ví như huyễn thuật sư làm ra người nam hay người nữ, vậy 
				những con người đó có “mất” hay “lai sinh” không?
				
				- Không có mất và không có lai sinh.
				
				Xá Lợi Phất! Ngài há chẳng nghe Phật dạy: “Các pháp, tướng nó 
				như huyễn chăng?”.
				
				- Đúng vậy, tôi có nghe.
				
				- Nếu tất cả pháp, tướng như huyễn, thì tại sao ngài hỏi tôi mất 
				ở thế giới nào, lai sinh đến cõi này?
				
				Này! Ngài Xá Lợi Phất! Mất là cái tướng tan rã của pháp hư dối, 
				sanh là cái tướng tương tục của các pháp hư dối. Bồ-tát dù mất 
				mà không dứt hết gốc lành, dù sanh mà không cho sanh trưởng gốc 
				ác.
				
				Cái nhìn của ông Xá Lợi Phất là cái tướng đối tượng thấy của 
				“nhục nhãn” dựa trên hiện tượng vạn pháp hữu vi sinh diệt. Còn 
				ông Duy Ma Cật sử dụng “tuệ nhãn” mà thấy bản thể thanh tịnh bất 
				sinh bất diệt thì làm gì có “Sanh” hay “Chết”. Bởi vì “Chết” là 
				cái tướng tan rã và “Sanh” là cái tướng tương tục của các pháp 
				hữu vi hư huyễn còn Thật tướng, Pháp thân thì như như bất động, 
				trước sao sau vậy thì làm gì có sinh có tử. Cũng như Đức Phật 
				Thích Ca, khi có duyên thì Pháp thân thành ra Ứng thân để cứu độ 
				chúng sinh và khi duyên hết thì ứng thân mất, tan rã mà trở lại 
				với Pháp thân thanh tịnh của chư Phật. Nói theo Pháp giới duyên 
				khởi thì khi có duyên thì “bất biến mà tùy duyên” trở thành Phật 
				Thích Ca. Còn khi hết duyên thì “tùy duyên mà bất biến” nghĩa là 
				Phật Thích Ca nhập diệt bên hai cây Sa La Long Thọ mà trở về với 
				Pháp thân của chư Phật vậy thôi. Do đó người trí thì việc sống 
				chết, sanh diệt, mất còn chẳng có gì quan trọng vì tất cả chỉ là 
				“hiện tượng duyên khởi” chớ thật ra không có cái gì là thật sanh 
				hay thật mất cả.
				
				Bấy giờ Đức Phật bảo ông Xá Lợi Phất rằng:
				- Có cõi nước tên Diệu Hỉ, Đức Phật hiệu Vô Động là giáo chủ. 
				Ông Duy Ma Cật từ cõi nước đó mất là lai sinh đến cõi này.
				
				Ông Xá Lợi Phất nói:
				- Thật là việc chưa từng có. Bạch Thế Tôn! Ông Duy Ma Cật lại có 
				thể bỏ quốc độ thanh tịnh, đến cõi Ta bà để vui nhận ở nơi cảnh 
				giới có nhiều sân nộ và ác hại này!
				
				Ông Duy Ma Cật bảo:
				- Xá Lợi Phất! Ngài nghĩ thế nào? Lúc mặt trời soi sáng thì 
				không còn tối được nữa.
				- Đúng vậy, thưa ngài Xá Lợi Phất! Hễ ánh sáng soi thì bóng tối 
				diệt. Bồ-tát dù sanh ở cõi Phật không thanh tịnh là vì mục đích 
				giáo hóa chúng sinh nhưng không thể hợp chung với những gì tối 
				tăm nhu độn. Ngược lại, Bồ-tát dạy cho chúng sinh diệt hết phiền 
				não ngu tối của họ mà thôi.
				
				Dựa theo câu hỏi trên thì tâm ông Xá Lợi Phất vẫn còn phân biệt 
				đối đãi, còn thấy có “sanh” và “chết”, có cõi “thanh tịnh Diệu 
				Hỉ” và “thế giới xấu xa Ta bà”. Tuy đã qua khỏi phẩm Bất Nhị mà 
				ông Xá Lợi Phất vẫn còn nghĩ có cõi Tịnh độ và có thế giới xấu 
				xa, ô trược. Đối với phàm nhân vì vô minh che lấp nên mới thấy 
				có tốt có xấu, có tịnh có nhiễm, còn Bồ-tát thị hiện vào cõi Ta 
				bà là vì bản nguyện muốn cứu giúp chúng sinh nên tâm hằng thanh 
				tịnh, không hề bị nhiễm ô trần cấu bất tịnh của thế gian cũng 
				như hoa sen thơm ngát vươn lên từ trong bùn tanh hôi hám.
				
				Bấy giờ đại chúng khát ngưỡng muốn thấy thế giới Diệu Hỉ và 
				Đức Vô Động Như Lai cùng chư Bồ-tát, Thanh văn cõi ấy.
				
				Đức Phật biết ý niệm của đại chúng bèn gọi ông Duy Ma Cật bảo:
				- Thiện nam tử! Đại chúng trong hải hội muốn thấy Đức Vô Động 
				Như Lai và cõi nước Diệu Hỉ cùng chư Bồ-tát, Thanh văn ở thế 
				giới kia. Ông hãy giúp cho hải hội hiện tiền đều được thấy!
				
				Bấy giờ, ông Duy Ma Cật nghĩ bụng rằng: Ta sẽ không rời khỏi 
				chỗ này, tiếp nhận thế giới Diệu Hỉ đem về đây. Ta sẽ dời tất cả 
				Thiết vi sơn, Tu di sơn và tất cả núi lớn, núi nhỏ, biển cả, 
				sông ngòi, nguồn lạch, suối khe, mặt trời, mặt trăng, các tinh 
				tú. Tiếp nhận thiên cung, long cung, quỷ thần, Phạm thiên cung… 
				Tiếp nhận các chúng Bồ-tát, Thanh văn cả thành ấp, tụ lạc, nam 
				nữ lớn nhỏ. Tiếp thỉnh Đức Vô Động Như Lai, cây Bồ-đề và các 
				diệu liên hoa và những người có thể làm Phật sự trong mười 
				phương. Tiếp nhận ba đường hành lang báu thông đồng từ cõi Diêm 
				phù để thẳng lên cõi trời Đạo lợi. Trên hành lang báu này chư 
				Thiên tấp nập xuống lên kính lễ Đức Vô Động Như Lai, nghe học 
				lãnh thọ kinh pháp. Người cõi Diêm phù đề cũng rộn rịp trên hành 
				lang tiến bước hướng về cõi trời Đạo Lợi và mọi người đều thấy 
				rõ hàng chư Thiên ở thế giới Diệu Hỉ, họ hoàn thành những công 
				việc công đức lớn lao vô lượng như thế. Ta sẽ tiếp thụ trên từ 
				cõi sắc cứu cánh dưới tột cùng mé thủy luân, để lên tay mặt của 
				ta y như người thợ gốm ngắt bớt mật mẫu đất thừa. Dời tất cả 
				những cảnh giới gần xa, đem về sáp nhập thế giới này như cầm một 
				tràng hoa đẹp trên tay, giới thiệu chỉ bày cho toàn thể đại 
				chúng trong hải hội.
				
				Ông Duy Ma Cật nghĩ như thế rồi liền nhập tam muội, hiện sức 
				thần thông. Dùng tay mặt cắt lấy thế giới Diệu Hỉ đem về sáp 
				nhập vào cõi Ta bà. Những hàng Bồ-tát, Thanh văn, chư Thiên có 
				chứng đắc thần thông, đồng thanh kêu lên lời cầu cứu:” Thế Tôn! 
				Ai lấy chúng con đem đi. Mong Phật cứu hộ”.
				
				Đức Vô Động Như Lai nói:
				- Việc đó không phải ta làm. Do thần lực của ông Duy Ma Cật, ông 
				ấy đang làm chuyện đó, để phục vụ khai ngộ và giáo hóa chúng 
				sinh.
				
				Những người chưa được thần thông thì không hề hay biết về sự 
				việc như thế đã xảy ra.
				
				Thế giới Diệu Hỉ dù được đem sáp nhập cõi Ta bà, mà thế giới Ta 
				bà không bị giản rộng ra, thế giới Diệu Hỉ không vì vậy mà tóp 
				hẹp. Vị trí của mọi sự vật vẫn y nhiên, không thay đổi một mảy 
				may nào.
				
				Đây là lần thứ ba Kinh giới thiệu cảnh Tịnh độ.
				
				Lần thứ nhất muốn khai thị cho tôn giả Xá Lợi Phất nên Phật lấy 
				ngón chân nhấn xuống đất làm cho cõi Ta bà trở thành cảnh Tịnh 
				độ như bao thế giới khác. Đoạn nầy nhằm nhắc nhở chúng sinh là 
				“Tịnh” hay “Uế’ đều là do con người. Khi tâm tịnh thì có cõi 
				nước Phật tịnh, ngược lại tâm bất tịnh, còn phiền não vô minh 
				thì ở đâu cũng không có cõi Tịnh được. Đó là “Tùy kỳ tâm tịnh, 
				tắc Phật độ tịnh”. Thế giới Ta bà mà con người cho rằng có nhiều 
				tội lỗi, xấu xa, đầy phiền não khổ đau, nhưng chính Đức Phật 
				cũng sống ở đây mà tâm Ngài rất tự tại, rất thanh tịnh cũng như 
				tất cả những cõi giới thanh tịnh khác của mười phương chư Phật. 
				Nói một cách khác khi một người có tâm thanh tịnh, không còn 
				phiền não vô minh thì người ấy ở đâu, cõi ấy là cõi thanh tịnh.
				
				Lần thứ hai ông Duy Ma Cật sử dụng khả năng Bất khả tư nghì 
				khiến ba mươi hai ngàn tòa sư tử to lớn lộng lẫy trang nghiêm 
				của thế giới Tu Di Tưởng vào trong tịnh thất của ông nhằm giới 
				thiệu một cõi Tịnh độ cách xa thế giới Ta bà trên 42 ức hằng hà 
				sa thế giới. Tuy cảnh Tịnh độ xa xôi như thế mà có thể đem về 
				cõi Ta bà trong khoảnh khắc là thâm ý của kinh muốn nhắn nhủ 
				chúng sinh đừng mong cầu ở cõi Tịnh độ xa xôi vời vợi nào khác 
				mà chỉ cần giữ tâm thanh tịnh thì cảnh Tịnh độ xa xôi kia sẽ 
				hiển hiện trong tâm thức của mình tức thì. Đây là lần thứ nhì 
				Phật muốn nhấn mạnh câu: “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh”. 
				Một lần nữa, kinh lại nhấn mạnh là tuy trong mười phương thế 
				giới có rất nhiều cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm khác, có cõi 
				xa có cõi gần, nhưng Nhất Chân Pháp Giới khẳng định là thế giới 
				thanh tịnh nầy cũng là thế giới thanh tịnh kia, không sai không 
				khác. Do đó chúng sinh không nên hoài công mà trông mong về thế 
				giới nầy hay thế giới nọ mà chính mình không tu sửa để có tâm 
				thanh tịnh trước. Vì thế trong Kinh A Di Đà xác định là nếu có 
				chúng sinh muốn vãng sanh về thế giới của Phật A Di Đà thì trước 
				hết họ phải niệm Phật cho đến Nhất Tâm Bất Loạn. Nhât tâm là 
				Chơn tâm, là thấy được Phật tánh tức là có tâm thanh tịnh rồi. 
				Khi ấy thì tri kiến của mình sẽ không còn phân biệt có ta có 
				người, có thế giới nầy hay cõi thanh tịnh nọ vì tất cả đều cùng 
				chung Nhất Chân Pháp Giới nghĩa là Bản Thể giống nhau nhưng tùy 
				theo duyên mà biến hiện sự sai khác.
				
				Thí dụ như trong quả địa cầu của chúng ta, tùy theo địa dư mà 
				con người chia thành trăm ngàn dân tộc khác nhau chẳng hạn như Á 
				châu thì có dân da vàng là người Việt Nam, người Tàu, người 
				Thái…, ở Âu châu thì có dân da trắng là người Pháp, người Ý, 
				người Đức…ở Mỹ châu thì có trăm ngàn bộ tộc da đỏ…và ở Phi châu 
				thì có dân da đen…Vì chúng sinh duyên nghiệp khác nhau nên dựa 
				theo nghiệp lực mà thọ sanh vào những vùng đất khác nhau, thành 
				những giống dân khác nhau, đó là “hiện tượng duyên khởi”, nhưng 
				tất cả con người dù là da vàng, da đen, da trắng hay da đỏ thì 
				Bản Thể vẫn như nhau, cùng chung Phật tánh, cùng chung máu đỏ và 
				nước mắt mặn. Vậy Nhất Chân Pháp Giới là “hiện tượng” tuy có 
				khác nhau nhưng tất cả đều cùng chung “Bản Thể”. Hiểu thấu suốt 
				như vậy thì gọi là “Lý vô ngại”.
				
				Thí dụ thứ hai là khi cầm một cục nước đá, chúng ta tư duy quán 
				chiếu thì biết rằng muốn có nước đá thì phải làm cho nước lạnh 
				đông lại. Mà nước thì là sự tổng hợp của hai nguyên tử Hydrogen 
				và một nguyên tử Oxygen (H2O). Nhưng mỗi nguyên tử Hydrogen hay 
				Oxygen được cấu tạo bởi rất nhiều âm điện tử và trung hòa tử. 
				Khi đã hiểu thấu suốt sự tạo thành của vật chất như thế thì đây 
				là “Sự vô ngại”.
				
				Bây giờ quý vị hãy nhìn những đợt sóng vô cùng vô tận trên biển. 
				Tuy những làn sóng nhấp nhô cao thấp cũng không ngoài nước. Làn 
				sóng thay đổi là hiện tượng, còn mặt nước phẳng lặng êm đềm nằm 
				sâu dưới lòng đại dương là Bản Thể thanh tịnh của nước. Vì thế 
				hiện tượng là Lý và Bản Thể thanh tịnh là Sự, nhưng Lý và Sự 
				không thể tách rời nhau. Bởi vì sóng là do nước mà thể nước 
				thanh tịnh là cũng do nước. Do đó hiện tượng và Bản Thể dung 
				thông với nhau. Khi động tức là có gió thì Bản Thể biến thành 
				hiện tượng tức là nước biến thành sóng. Khi tịnh, gió lặng thì 
				hiện tượng trở thành Bản Thể nghĩa là sóng biển trở thành thanh 
				tịnh. Nói một cách khác hiện tượng không ngoài Bản Thể và Bản 
				Thể không rời hiện tượng. Bản Thể duyên sanh ra hiện tượng (bất 
				biến mà tùy duyên) và hiện tượng trở về với Bản Thể (tùy duyên 
				mà bất biến). Vậy hiện tượng là Bản Thể và Bản Thể là hiện tượng 
				như Tâm kinh đã xác định: “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”. 
				Đây chính là “Lý Sự vô ngại” pháp giới.
				
				Chung quanh thế giới của con người, chúng ta thấy đâu đâu cũng 
				là tứ đại (đất, nước, gió, lửa). Bây giờ hãy nhìn kỷ lại con 
				người của chính mình thì cũng thế, cũng cấu thành bởi tứ đại bởi 
				vì chúng ta ăn rau cỏ, trái cây, ngũ cốc,  uống nước, hít 
				thở không khí, hấp thụ sức nóng của mặt trời… Nếu nói con người 
				là cỏ cây hoa lá, ngũ cốc, ngũ quả thì không đúng, mà nói con 
				người không cần cỏ cây, hoa lá, ngũ cốc, ngủ quả từ đất, nước, 
				lửa, không khí để sống thì cũng không đúng. Do đó vạn pháp là 
				“bất tức bất ly”. Hiểu rõ như thế thì đây là “Sự sự vô ngại” 
				pháp giới.
				
				Đến đoạn kinh nầy thì ông Duy Ma Cật nhập tam muội nghĩa là vào 
				chánh định, vận dụng thần thông lấy tay mặt cắt thế giới Diệu Hỉ 
				đem sáp nhập vào cõi Ta bà mà không chật hẹp, không thêm không 
				bớt. Vạn pháp trong “Pháp Giới Nhất Chân” thì lúc nào cũng tương 
				ứng, tương túc, tương nhập, tương dung, lý vô ngại, sự vô ngại, 
				lý sự vô ngại và sự sự vô ngại nên Bản Thể các pháp dung thông 
				vô ngại và vượt qua mọi hình tướng vật chất nên không có lớn 
				nhỏ, rộng chật mà chỉ có Tâm Thể hòa hợp làm một. Một lần nữa, 
				ông Duy Ma Cật muốn giới thiệu một cõi Tịnh độ ở ngoài thế giới 
				Ta bà, nhưng muốn đạt đến cảnh giới thanh tịnh nầy thì chúng 
				sinh cũng phải giữ tâm mình cho được thanh tịnh, như như bất 
				động bằng cách phá tan tâm phân biệt ích kỷ hẹp hòi chấp trước 
				mà quay về sống với Tâm Vô Động là Chân Tâm, là Bản Thể, là cội 
				nguồn phát sinh ra tất cả. Mà tâm tịnh thì trí tuệ sẽ phát sinh 
				để thấy được sự huyền diệu an vui. Phải chăng đó cũng là ý nghĩa 
				của hai chữ: nước Diệu Hỉ và Phật Vô Động? Đây là lần thứ ba 
				kinh muốn nhấn mạnh với chúng sinh là tâm tịnh thì có thế giới 
				tịnh nghĩa là khi tâm tịnh thì Ta bà là Diệu Hỉ còn tâm bất tịnh 
				thì Diệu Hỉ là Ta bà.
				
				Kinh đã dùng ba phương tiện, ba hình ảnh khác nhau để chứng minh 
				cho chúng sinh thấu hiểu một mục đích, một Chân lý tối thượng 
				trên con đường Vô thượng Bồ-đề là : “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật 
				độ tịnh”.
				
				Bấy giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo toàn thể đại chúng trong 
				hải hội:
				- Toàn thể đại chúng đã được thấy thế giới Diệu Hỉ và thấy 
				Đức Vô Động Như Lai rồi chứ? Các vị đã thấy sự trang nghiêm đẹp 
				đẽ huy hoàng tráng lệ của thế giới Diệu Hỉ chứ? Các vị thấy 
				Bồ-tát và Thanh văn chúng cõi kia tịnh hạnh và thanh bạch chứ?
				
				Toàn thể đại chúng đồng thanh bạch Phật:
				- Dạ! Chúng con đều đã thấy!
				
				Đức Phật dạy:
				- Nếu Bồ-tát muốn được cõi Phật thanh tịnh như vậy, cần phải 
				học theo con đường hành đạo của Đức Vô Động Như Lai.
				
				Trong thế giới Diệu Hỉ hiện hữu, cõi Ta bà có mười bốn ức 
				người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, muốn sanh sang thế giới Diệu Hỉ 
				của Đức Vô Động Như Lai.
				
				Bấy giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đồng thọ ký:
				- Tất cả các vị muốn sanh sang cõi nước kia đều sẽ được như 
				nguyện.
				
				Trong những giờ phút thế giới Diệu Hỉ hiện hữu ở cõi Ta bà, 
				tác động vào tâm lý, kích khởi thiện căn của những chúng sinh 
				hữu duyên đem lại nhiều lợi lạc. Sự kiện ấy trôi qua. Tất cả đại 
				chúng đều thấy cảnh giới Ta bà bổng nhiên trở về trạng thái củ.
				
				Tại sao Phật lại thọ ký cho số người nhiều thế? Đây có lẻ là 
				lòng thương xót chúng sinh, tâm đại từ đại bi của Phật chăng?
				
				Trong tất cả mọi chúng sinh không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, 
				thông minh hay khờ dại đều có sẳn cái Chơn Tâm thường trú hay 
				Thể Tánh tịnh minh mà Kinh Pháp Hoa gọi là Tri Kiến Phật, Kinh 
				Niết Bàn gọi là Phật Tánh, Kinh Hoa Nghiêm gọi là Trí Huệ Phật, 
				Kinh Lăng Nghiêm gọi là Chơn Tâm và Kinh Viên Giác gọi là Như 
				Lai Viên Giác Diệu Tâm. Do đó nếu có chúng sinh nào muốn sanh về 
				cõi Tịnh độ hay muốn được giải thoát giác ngộ thì chỉ cần thực 
				hiện lời Như Lai dạy là: “Tùy kỳ tâm 
				tịnh, tắc Phật độ tịnh” và “Dục tịnh Phật độ, tiên tịnh kỳ tâm” 
				nghĩa là khi nào tâm của mình tịnh thì sẽ có cõi Phật tịnh, mà 
				muốn được cõi Phật tịnh thì chính mình phải tự sửa đổi cho được 
				cái tâm tịnh trước.
				
				Như thế thì Phật thọ ký chẳng qua là lời khuyến khích để chúng 
				sanh cố gắng tinh tấn nổ lực tu hành, nhưng muốn về cõi tịnh thì 
				chính mình phải tu tâm dưỡng tánh, loại bỏ tánh tham, 
				tật đố phân biệt chấp trước, nghiêm trì sáu căn và giữ tam 
				nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh thì chắc chắn sẽ có cõi Phật thanh 
				tịnh. Đây chính là Phật độ chứ Như Lai không hề gia trì, phù hộ 
				hay cứu rỗi cho ai hết tức là ông tu ông chứng, bà tu bà đắc vậy 
				thôi.
				
				Đức Phật bảo:
				- Xá Lợi Phất! Ông đã thấy thế giới Diệu Hỉ và Đức Vô Động 
				Như Lai rồi chứ?
				
				- Dạ! Con đã thấy! Bạch Thế Tôn! Con 
				mong muốn cho tất cả chúng sinh được cõi nước thanh tịnh trang 
				nghiêm như cõi Đức Vô Động Như Lai và có sức thần thông như ông 
				Duy Ma Cật vậy. Con cũng mong cho mọi người có đủ duyên lành 
				thân cận cúng dường để được nhiều lợi lạc. Con nghĩ rằng: những 
				chúng sinh hiện tại hoặc sau Phật diệt độ được nghe kinh nầy sẽ 
				được lợi ích khó nghĩ bàn. Nghe rồi tin hiểu, giảng thuyết đúng 
				như pháp tu hành, người đó được xem như trong tay đã cầm giữ 
				được kho tàng pháp bảo của Như Lai. Người như thế là cúng dường 
				pháp. Mà cúng dường Pháp tức là cúng dường Phật. Người biên chép 
				diễn giải kinh này, phải biết, chỗ thất của họ ở có Phật. Ai 
				nghe kinh này mà khởi tâm tùy hỷ, không lâu sẽ thành tựu nhất 
				thiết trí. Nghe kinh nầy tin hiểu chừng một bài kệ bốn câu, vì 
				người khác truyền đạt ý kinh, phải biết, đó là người đã được Như 
				Lai thọ ký thành tựu quả Vô thượng Chánh Biến Tri Giác rồi!
				
				Kinh là Pháp Bảo, là chiếc thuyền rắng chắc để đưa chúng sinh từ 
				bờ mê đến bến giác. Nếu chúng sinh biết y giáo phụng hành, thực 
				hành đứng đắn lời dạy trong kinh để chuyển phàm thành Thánh thì 
				trong tay họ đang giữ được kho tàng Pháp bảo vô giá của Như Lai. 
				Nhưng kinh điển chỉ là văn tự cho nên dù kinh có hay, chúng sinh 
				có đọc thuộc lòng mà không tư duy quán chiếu và ứng dụng thực 
				hành những lời dạy trong kinh thì cũng chẳng lợi ích gì. Cũng 
				như trong túi có viên ngọc quý mà không biết sử dụng thì viên 
				ngọc quý kia có khác gì viên thỏi đá tầm thường. Vì thế người 
				xưa có câu: “Ngọc bất trác bất thành quý” nghĩa là ngọc kia mà 
				không dủa mài đánh bóng thì không thành ngọc quý. Nghe kinh, học 
				kinh và thực hành kinh để mình được giải thoát giác ngộ tức là 
				tự giác, rồi sau đó giúp người cùng đến chỗ giác ngộ như mình 
				tức là giác tha chớ không ôm lòng ích kỷ thì thực hành đứng đắn 
				hạnh Bồ-tát và tiến về Vô thượng Bồ-đề. Kinh này là giáo lý viên 
				đốn Đại thừa nghĩa là giáo lý giúp chúng sinh viên thành Phật 
				đạo nhanh chóng vì thế nếu hành trì kinh để lợi ích cho mình thì 
				cũng như cúng dường Pháp và chính sự lợi ích của mình giúp chúng 
				sinh tin theo mà tu học để có thể giải thoát cho chính họ thì 
				cũng như đã cúng dường Phật rồi vậy. Vì người mà tạo duyên lành 
				ngay cả dùng một bài kệ bốn câu để gieo hạt giống Phật trong 
				chúng sinh có cơ hội nẩy mầm đơm hoa và kết quả thì cũng như 
				được Như Lai thọ ký thành tựu quả Vô thượng Chánh biến tri giác 
				rồi vậy.
				
				
				
|