| 
				   
				Nói về con người, chúng ta có sáu căn là 
				mắt, tai, mũi, lưởi, thân và ý. Đây là sáu cánh cửa để giao tiếp 
				với sáu trần bên ngoài là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà 
				phát sinh ra sáu thức là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt 
				thức, thân thức và sau cùng là ý thức. Trong sáu căn thì mắt và 
				tai là hai căn sắc bén nhất vì nó tiếp xúc với ngoại trần nhiều 
				hơn những căn khác. Tuy nhiên giữa tai và mắt thì tai nghe âm 
				thanh vẫn là nhạy bén hơn. 
				Thí dụ như chúng ta đang ở 
				trong một căn phòng kín thì đâu có thấy gì bên ngoài, nhưng tai 
				vẫn nghe âm thanh rồi từ đó phát sinh ra vọng tưởng. Vì thế muốn 
				nghiêm trì sáu căn thì chúng sinh tùy theo căn cơ, sở nguyện mà 
				chọn căn nào thích hợp với mình để tu chớ không thể tu một lần 
				sáu căn được. Tuy có sáu căn, nhưng chúng sinh chỉ cần chọn một 
				căn để tu là đủ bởi vì nếu một căn đã viên thông tức là có sự 
				thanh tịnh thì năm căn còn lại cũng từ đó mà thông suốt tức là 
				hoàn toàn thanh tịnh. Trong tâm của chúng sinh có tám mươi bốn 
				ngàn phiền não chướng cho nên Đức Phật mới có tám mươi bốn ngàn 
				pháp môn để giải trừ. 
				Tuy nhiên, trong kinh Lăng 
				Nghiêm này, Đức Phật Thích Ca chỉ yêu cầu Ngài Văn Thù Sư Lợi 
				chọn một pháp môn để giúp cho ông A Nan và đặc biệt là cho tất 
				cả chúng sinh căn cơ còn yếu dựa theo đó mà tu hành. Chính Ngài 
				Văn Thù đã chọn pháp môn nhĩ căn viên thông. Tại sao? Bởi vì nhĩ 
				căn có tới một ngàn hai trăm công đức và thông đạt nhiều nhất so 
				với năm căn còn lại. Do đó, nếu nhĩ căn trở về với thanh tịnh 
				thì năm căn còn lại lập tức cũng trở về với thanh tịnh. Đây 
				chính là nhất hạnh pháp môn tức là chỉ chọn một pháp môn duy 
				nhất để tu. Vì thế nếu chúng sinh dựa theo nhĩ căn viên thông mà 
				đạt được đại định tức là có được Thủ Lăng Nghiêm tam muội nghĩa 
				là trở về với bản lai diện mục, với Phật tánh, với chơn tâm, với 
				tự tánh thanh tịnh bản nhiên của chính mình thì trong bốn oai 
				nghi là đi, đứng, nằm, ngồi lúc nào họ cũng sống trong Pháp thân 
				đó. Khác với định của Tiểu thừa là phải ngồi thiền nên còn lệ 
				thuộc xuất, nhập và trụ, vì thế còn ngồi thiền tâm còn định 
				nhưng khi xả thiền thì vọng tâm trở lại. Còn định của Đại thừa 
				là thể hiện ngay trong cuộc sống hằng ngày, từng giây, từng 
				phút. Đi, đứng, nằm, ngồi lúc nào cũng định. Do đó khi đã thấy 
				được chơn tâm thường trú của mình thì người đó suốt cuộc đời 
				luôn sống với đại định, với Phật tánh, với Pháp thân hằng thanh 
				tịnh của chính mình. 
				 
				Vậy tâm ở đâu? 
				 
				Cái tâm của con người thật là quan trọng, nó là trung tâm của sự 
				sống, của vũ trụ và chứa nhóm tất cả muôn pháp. Nó là hào lũy ẩn 
				náu của mọi tật xấu, nhưng cũng là mảnh đất phì nhiêu nẩy sanh 
				mầm giống giác ngộ. Vì thế, chính tâm tạo nên hạnh phúc và cũng 
				chính tâm tạo biết bao nỗi khổ đau. Vậy cái tâm của nó nằm ở 
				đâu? 
				 
				Để trả lời câu hỏi nầy, Đức Phật lần thứ nhất đã gạn hỏi ông A 
				Nan bảy lần về nơi thường trụ của tâm để có cái nhìn rõ ràng về 
				sự khác nhau giữa vọng tâm sinh diệt thay đổi từng giây từng 
				phút, từng cảnh giới, chạy theo lục dục thất tình, tham đắm sắc 
				tài danh lợi và sự thanh tịnh không thay đổi, lúc nào cũng an 
				vui tự tại và luôn ở trong ta, là chơn tâm. Trên con đường giải 
				thoát Bồ-đề, văn hay chữ tốt không quan trọng, kiến thức thế 
				gian không cần thiết mà một điều tối quan trọng là khả năng dập 
				tắt mọi vô minh phiền não, pháp giới của trần gian để phát triển 
				trí tuệ mà có được giải thoát giác ngộ. Do đó một người không 
				liễu ngộ được bản tâm, cho dù có tu hành suốt kiếp cũng không 
				ích lợi gì vì vẫn là phàm phu. Còn nếu đã ngộ được bản tâm và 
				dùng bản tâm này đi vào bản giác viên dung thì người này cho dù 
				có tu một ngày còn hơn là tu một kiếp tức là họ đã chứng đạo. 
				Ngày xưa, Lục Tổ Huệ Năng xuất thân là người quê mùa, dốt nát. 
				Nhưng chỉ qua một thời gian ngắn tu tập với Tổ Hoằng Nhẫn đã 
				liễu ngộ được chơn tâm của mình trong khi đó đệ tử của ngũ Tổ có 
				biết bao người văn hay chữ tốt mà người nổi tiếng nhất là Thiền 
				Sư Thần Tú mà vẫn không đạt được đạo. Càng học giỏi, càng thông 
				minh, càng trí thức cao, càng hiểu biết nhiều thì càng dễ rơi 
				vào thế trí biện thông nghĩa là có càng nhiều tự cao, ngã mạn để 
				chôn họ vào nấm mồ sinh tử luân hồi. 
				  
				1)A NAN CHO RẰNG TÂM Ở 
				TRONG THÂN : 
				 
				A Nan bạch Phật rằng : 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Tất cả mười loại chúng sinh trên thế gian đều 
				cho tâm thức ở trong thân. Nay con nhận được mắt con ở trên mặt 
				con và tâm thức ở trong thân, như mắt Thanh Liên Hoa (Hoa sen 
				xanh) của Như Lai ở trên mặt Như Lai vậy. 
				 
				Phật bảo : 
				 
				- A Nan! Nay ông hiện ngồi trong giảng đường cùng Như Lai, ông 
				xem thấy vườn cây Kỳ Đà đang ở chỗ nào? 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Giảng đường thanh tịnh rộng rãi này trong vườn 
				Cấp Cô Độc, còn rừng Kỳ Đà thì ở ngoài giảng đường. 
				 
				Phật hỏi : 
				 
				- A Nan! Bây giờ đang ngồi trong giảng đường, trước hết ông thấy 
				gì? 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Con ở trong giảng đường trước thấy Như Lai, sau 
				thấy đại chúng, rồi nhìn ra ngoài mới thấy rừng cây. 
				 
				- A Nan! Khi ông thấy rừng cây là nhờ vào đâu mà thấy được? 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Vì cửa sổ giảng đường này mở rộng nên con trông 
				thấy suốt ra bên ngoài. 
				 
				Khi ấy, Đức Thế Tôn ở trong đại chúng đưa cánh tay sắc vàng xoa 
				đầu A Nan, dạy ông và đại chúng rằng : 
				 
				- Có pháp Tam-ma-đề tên là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm, gồm đủ 
				muôn hạnh. Mười phương Như Lai đều do một pháp môn là con đường 
				diệu trang nghiêm ấy mà siêu xuất, nay ông hãy lắng nghe thật 
				kỹ. 
				 
				A Nan đảnh lễ, kính vâng lời Phật dạy. 
				 
				Phật bảo A Nan : 
				 
				- Như lời ông nói, thân ở trong giảng đường, nhờ cửa mở trống 
				nên thấy rừng cây; vậy có chúng sinh nào ở trong giảng đường lại 
				không thấy Như Lai mà thấy được rừng cây bên ngoài chăng? 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Ở trong giảng đường không thấy Như Lai mà lại 
				thấy rừng cây bên ngoài thì chẳng đúng. 
				 
				- A Nan! Ông cũng vậy. Tâm của ông tất cả sáng tỏ. Nếu tâm sáng 
				tỏ hiện tiền của ông thật ở trong thân thì trước hết nó phải 
				biết những gì trong thân ông. Vậy có chúng sinh nào trước thấy 
				trong thân rồi sau mới thấy vật bên ngoài chăng? Dù không thấy 
				được tim, gan, tỳ, vị nhưng các chỗ: móng tay mọc, tóc dài ra, 
				gân chuyển, mạch máu chảy cũng phải thấy chứ, sao lại chẳng 
				thấy? Nếu trong thân còn không thấy thì làm sao thấy vật bên 
				ngoài? Thế cho nên ông nói Tâm Ở Trong Thân là không đúng lý. 
				 
				Ông A Nan cho rằng không chỉ riêng mình ông mà tất cả mười loài 
				chúng sinh trên thế gian đều chấp tâm nằm trong thân. Vậy thế 
				nào là mười loài chúng sinh : 
				 
				1) Noãn sanh: là những động vật sinh ra bởi trứng rồi nở ra con. 
				Thí dụ như gà, vịt, chim, rùa, cá sấu, rắn… 
				 
				2) Thai sanh: là những động vật sinh ra bằng tinh cha, huyết mẹ 
				như con người, con heo, con bò, con sư tử, con dê… 
				  
				3) Thấp sanh: loài này sinh 
				ra do những vùng ẩm thấp như ao hồ, vũng nước… như con lăng 
				quăng, hay những vi khuẩn trong ao hồ rất nhỏ. 
				 
				4) Hóa sanh: như con nhộng ăn tằm rồi biến thành bươm bướm, hay 
				rơm bị ẩm ướt lâu ngày biến thành con đom đóm… 
				 
				5) Hữu sắc: Đây là những vị Trời ở trong cõi Dục giới, Sắc giới. 
				 
				6) Vô sắc: Đây là những vị Trời không có hình dáng như con người 
				mà chỉ có tư tưởng và sống trong cõi trời vô sắc giới. 
				 
				7) Hữu tưởng: là những vị Trời sống trong cõi Sắc giới mà không 
				có hình dáng mà chỉ có tư tưởng làm thân xác. 
				 
				8) Vô tưởng: Đây là cõi Trời Vô tưởng thiên phần lớn do ngoại 
				đạo tu thành và nó ở trên cõi Trời Sắc giới. Những ngoại đạo 
				nhận thấy rằng tư tưởng làm cho con người đầy phiền não khổ đau 
				nên họ cố tu để tiêu diệt hết tư tưởng trong tâm thức. Tuy không 
				còn tư tưởng, nhưng nếu những vị trời này sống trong cõi thiên 
				này trên năm trăm năm thì tư tưởng bắt đầu khởi dậy thì bị luân 
				chuyển ngay vào lục đạo luân hồi. 
				 
				9) Phi hữu sắc và phi vô sắc: những vị Trời ở trong những cảnh 
				giới rất cao trong thế giới của vô sắc. 
				 
				10) Phi hữu tưởng và phi vô tưởng: là những người đã tu hành đến 
				chỗ không còn tư tưởng và cũng không còn cái tư tưởng để loại 
				ngay cả đó là vi tế hay siêu vi tế. Đây là cảnh giới của phi phi 
				tưởng xứ. 
				 
				Tuy A Nan là đệ nhất đa văn, nhưng sau câu trả lời, Đức Phật 
				biết rằng A Nan chưa nhìn thấu suốt muôn pháp cũng vì ông còn 
				lấy những cảnh trần lao bên ngoài mà đưa vào trong tâm của ông. 
				Một người muốn đạt được đạo thì phải hồi quang phản chiếu, quay 
				vào bên trong để loại bỏ tất cả vọng thức thì tâm mới thanh 
				tịnh. Thí dụ nếu nhìn thấy cảnh trái ý nghịch lòng thì tâm sân 
				hận liền phát sinh, hoặc thấy người thống khổ làm tâm mình đau 
				thương. Thử nghĩ nếu muốn tu hành để có tâm thanh tịnh mà ngoại 
				cảnh làm khởi dậy tâm tham, sân, si, mạn, nghi thì tu biết đến 
				bao giờ mới có tâm thanh tịnh. Vì thế mà cả đời ông A Nan tuy đi 
				theo Phật mà không tu chứng được gì cũng bởi vì ông sống với 
				tình cảm bên ngoài thay vì quay về sống với trí tuệ bên trong. 
				Chúng sinh vì có quá nhiều 
				tập khí nên cuộc sống mới đau khổ. Tập khí là những thứ mình yêu 
				thích và nó núp trong tâm để sai khiến con người. Thí dụ như 
				không nghe tiếng ca nhạc hoặc tự mình không ca hát thì không 
				vui. Quý bà quý cô nếu không trang điểm phấn son thì như chết cả 
				cuộc đời. Còn quý ông nếu không uống rượu, cà phê hay thuốc lá 
				thì cuộc sống chẳng còn hương vị… Tập khí là những thói quen 
				tăng trưởng dần theo thời gian, nhưng con người bị lệ thuộc vào 
				nó một cách máy móc nên nghĩ rằng nó là một thành phần của cuộc 
				sống cho nên có người có thể bỏ gia đình, nhịn ăn, nhưng bỏ hút 
				thuốc thì không được. Do đó con người nếu muốn có tâm thanh tịnh 
				thì phải dần dần loại bỏ hết những tập khí. Càng bỏ nhiều tập 
				khí thì tâm càng thanh tịnh. 
				 
				Bây giờ Phật muốn giới thiệu cho A Nan và đại chúng về pháp môn 
				Tam-ma-đề để tu. Tam-ma-đề nghĩa là tam muội tức là chánh định. 
				Người có chánh định sẽ không còn xuất, nhập và trụ như thiền 
				Tiểu thừa mà tâm hằng thanh tịnh, không bị ngoại trần làm ô 
				nhiễm. Nếu nhập được vào tam muội tức là mình đã thấy và đang 
				sống với Pháp thân, với chơn tâm nên thân tâm hoàn toàn thanh 
				tịnh, trong sáng. Tại sao các vị A la hán có được thần thông? 
				Khi các ngài nhập vào chánh định với tâm rỗng rang thanh tịnh 
				thì định lực cực mạnh của tâm giúp các ngài thành tựu quán tưởng 
				mà có được thần thông. Còn chúng sinh không có được thần thông 
				vì tâm của chúng sinh bị dao động làm cho định lực bị yếu kém. 
				 
				Chúng sinh muốn hướng về giải thoát giác ngộ nên xoay tâm của 
				mình vào trong chớ đừng hướng ra ngoài. Biết bao ma chướng như 
				thị phi, tham, sân, si, mạn, nghi làm tâm bất tịnh. Trên con 
				đường tu đạo, gầy dựng, lượm lặt công đức rất khó, nhưng một 
				vọng niệm của tham, sân, si, mạn, nghi dấy khởi sẽ giết chết 
				những công đức này rất dễ dàng vì thế quay vào trong tâm là mình 
				phải biết mình, luôn bồi dưỡng trí tuệ để phát triển định lực và 
				ý chí sắc đá để phá trừ chướng ma và vào trong thiền định để 
				loại bỏ những ma chướng này. 
				 
				Vì thế kinh cũng có câu : 
				 
				Lửa sân si tam độc, đốt hết rừng công đức 
				Muốn hạnh Bồ-tát đạo, giữ 
				thân tâm thanh tịnh. 
				 
				Vì A Nan chấp tâm ở trong thân nên Đức Phật mới dùng phương tiện 
				mà phá cái chấp đó. Tại sao? Nếu nói rằng ông A Nan ngồi trong 
				giảng đường thì trước hết ông phải thấy Như Lai, đại chúng rồi 
				sau mới thấy những cảnh vật bên ngoài. Bây giờ Phật áp dụng lối 
				lý luận nầy cho tâm của A Nan. Nếu tâm hay biết của A Nan thật 
				sự ở trong thân thì trước hết tâm phải thấy những vật bên trong 
				như tim, gan, phèo, phổi rồi sau đó mới thấy được những hình sắc 
				ngoài thân. Nhưng tâm ông A Nan đâu có thấy được tim, gan của 
				ông cho nên Phật kết luận tâm ở trong thân là vô lý. 
				  
				2) A NAN CHO RẰNG TÂM Ở 
				NGOÀI THÂN : 
				 
				A Nan cúi đầu bạch Phật : 
				 
				- Bạch đức Thế Tôn! Con nghe lời dạy của Như Lai nên nhận ra tâm 
				con đúng ở ngoài thân. Tại sao? Ví như đèn thắp trong phòng thì 
				trước phải chiếu sáng trong phòng, rồi sau mới từ cửa rọi ra 
				ngoài sân. Tất cả chúng sinh chẳng thấy trong thân, chỉ thấy 
				ngoài thân, cũng như ngọn đèn ở ngoài phòng chẳng thể chiếu sáng 
				trong phòng, nghĩa này rõ ràng, chẳng còn nghi ngờ, vậy so với 
				nghĩa lý rốt ráo của Phật có đúng chăng? 
				 
				Đức Phật bảo A Nan : 
				 
				- Vừa rồi, các tỳ kheo theo ta khất thực trong thành Thất La 
				Phiệt, nay đã về rừng Kỳ Đà. Như Lai đã thọ trai xong, ông hãy 
				xem coi trong chúng tỳ kheo, khi một người ăn thì những người 
				khác có no không? 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Không thể. Tại sao? Các Tỳ kheo này tuy đã chứng 
				quả A La Hán, nhưng thân thể khác nhau thì làm sao một người ăn 
				mà tất cả đều no được. 
				 
				- A Nan! Nếu tâm thấy nghe hay biết của ông thật ở ngoài thân 
				thì thân tâm cách biệt nhau, tự nó không liên quan với nhau. Vậy 
				điều gì tâm biết thì thân ắt không biết và những gì thân biết 
				thì tâm không thể biết. Nay ta đưa cánh tay lên cho ông xem, 
				trong lúc mắt ông thấy, tâm ông có biết được chăng? 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. 
				 
				Đức Phật bảo A Nan : 
				 
				- A Nan! Nếu thân và tâm cùng biết một lượt thì tại sao ông nói 
				tâm ở ngoài thân? Vậy nên biết rằng tâm ở ngoài thân là chẳng 
				đúng. 
				 
				Sau khi bị Phật bác vì A Nan cho rằng nếu tâm ở trong thân thì 
				tâm phải thấy lục phủ ngũ tạng, nhưng đâu có tâm nào thấy được 
				tim, gan của mình đâu. Ông A Nan bây giờ dựa vào cái thấy của 
				tâm mà lý luận rằng nếu ngọn đèn ở bên ngoài thì không thể chiếu 
				sáng bên trong cũng như chúng sinh chỉ nhìn thấy hình sắc ngoài 
				thân chớ không thấy được lục phủ ngủ tạng bên trong nên ông A 
				Nan kết luận là tâm ở ngoài thân. Đây là lối lý luận táo bạo lạ 
				thường chứng tỏ sự hiểu biết của ông A Nan chưa được rốt ráo. 
				 
				Trước khi Phật bác cái chấp tâm ở ngoài thân, Đức Phật muốn giải 
				thích cho ông A Nan rằng : Nếu tâm thật sự ở ngoài thân thì thân 
				và tâm là hai thực thể khác nhau cũng như Phật và chư Tăng là 
				hai nhóm khác nhau. Tại sao? Nếu Phật và chư Tăng là một tức là 
				trong ngoài như nhau thì khi Phật thọ trai, chư Tăng phải no. 
				Nhưng ở đây, khi Phật thọ trai mà chư Tăng không no nghĩa là 
				Phật và chư Tăng là hai thực thể khác nhau. 
				 
				Thêm nữa, khi Phật đưa cánh tay lên, mắt A Nan vừa thấy thì tâm 
				liền biết, chứng tỏ thân tâm không thể cách biệt nhau nghĩa là 
				thân tâm là một khối, bất khả phân ly. Vì thế chấp tâm ở ngoài 
				thân tức là thân tâm cách biệt là vô lý. 
				  
				3) A NAN CHO RẰNG TÂM 
				NÚP SAU CON MẮT : 
				 
				A Nan bây giờ bạch Phật rằng : 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Như lời Phật dạy, vì chẳng thấy bên trong nên 
				tâm con chẳng ở trong thân. Vì thân tâm đều biết nhau, chẳng hề 
				rời nhau nên tâm con chẳng ở ngoài thân. Nay con nghĩ kỹ biết nó 
				ở tại một chỗ. 
				 
				- Nó ở nơi nào? 
				 
				A Nan thưa : 
				 
				- Cái tâm hiểu biết đã không biết bên trong mà lại nhận biết rõ 
				sự vật bên ngoài, theo con nghĩ là nó núp sau con mắt. Ví như 
				người lấy chén thủy tinh úp vào hai con mắt, con mắt dù có vật 
				úp vào, nhưng không làm ngăn ngại sự thấy. Và vì tâm núp sau con 
				mắt nên khi mắt thấy thì tâm liền phân biệt. Sở dĩ tâm không 
				biết tạng phủ trong thân, vì nó không ở trong thân, nhưng tâm 
				lại nhận biết cảnh vật bên ngoài vì nó ở trên cái mặt. 
				 
				Phật bảo A Nan : 
				 
				- Như ông vừa nói, tâm núp sau con mắt, còn con mắt núp sau chén 
				thủy tinh, nếu người kia sau khi úp chén thủy tinh lên mắt mà 
				mắt vẫn nhìn thấy núi sông, vậy con mắt có thấy được chén thủy 
				tinh không? 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. Khi người ấy úp chén thủy tinh lên 
				mắt, thật có thấy chén thủy tinh. 
				 
				Phật bảo A Nan : 
				 
				- A Nan! Con mắt núp sau chén thủy tinh thì thấy được chén thủy 
				tinh. Còn tâm núp sau con mắt sao tâm chẳng thấy mắt? Dù cho là 
				thấy mắt, mắt tức là cảnh thì cảnh làm sao thấy cảnh? Nếu chẳng 
				thấy mắt thì ông nói tâm núp sau con mắt giống như con mắt núp 
				sau chén thủy tinh là vô lý. 
				 
				Ông A Nan nói tâm ở trong thân bị Phật bác, ông bèn nói tâm ở 
				ngoài thân thì cũng bị Phật bác. Bây giờ ông nghĩ rằng sở dĩ tâm 
				không thấy được lục phủ ngũ tạng là vì tâm không ở trong thân mà 
				ở trên mặt. Nếu nói tâm ở trên đầu thì tâm không thấy biết những 
				hình sắc bên ngoài cho nên ông A Nan mới nói tâm núp sau con 
				mắt. Vì tâm núp sau con mắt nên mắt thấy vật gì thì tâm lập tức 
				biết ngay. Đây là để đối lại với lời của Phật trong phần trước 
				khi Ngài đưa cánh tay lên thì thân tâm cùng biết. 
				 
				Đức Phật bây giờ mới từ bi mà giải thích cho A Nan. Giả sử nếu 
				cho rằng tâm núp sau con mắt cho nên mỗi khi mắt thấy hình sắc 
				nào bên ngoài thì tâm liền thấy biết. Cũng như có người úp chén 
				thủy tinh lên mắt mà mắt vẫn nhìn thấy cảnh vật bên ngoài thì dĩ 
				nhiên mắt phải thấy chén thủy tinh. Một thí dụ khác nếu chúng ta 
				đeo cặp mắt kiếng thì mắt dĩ nhiên phải núp dưới đôi mắt kiếng. 
				Do đó khi mắt thấy được cảnh vật bên ngoài thì tất nhiên mắt 
				phải thấy được đôi mắt kiếng đang đeo vì đôi mắt kiếng là đối 
				tượng để thấy tức là cảnh thấy và đang ở trước mắt chúng ta như 
				những cảnh vật ở bên ngoài khác. 
				 
				Nếu dựa theo lý luận của ông A Nan là tâm núp dưới con mắt cho 
				nên khi tâm thấy được cảnh giới bên ngoài thì tâm phải thấy con 
				mắt trước rồi sau đó tâm mới thấy cảnh vật bên ngoài. Như thế 
				mắt bây giờ không còn là mắt mà là đối tượng để thấy. Nhưng trên 
				thực tế, tâm đâu có thấy mắt hay thấy cảnh vật bên ngoài mà chỉ 
				có mắt mới thấy được cảnh giới bên ngoài mà thôi. Vì thế, ông A 
				Nan chấp tâm núp dưới con mắt là sai. 
				  
				4) A NAN CHO RẰNG NHẮM 
				MẮT THẤY TỐI LÀ TÂM THẤY TRONG THÂN : 
				 
				A Nan bạch Phật : 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Nay con lại thiết nghĩ rằng : thân thể của chúng 
				sinh, tạng phủ ở trong, khiếu huyệt (ngũ căn) ở ngoài. Nơi tạng 
				phủ thì tối, nơi khiếu huyệt thì sáng. Nay con ở trước mặt Phật, 
				mở mắt thấy sáng gọi là thấy bên ngoài, nhắm mắt thấy tối gọi là 
				thấy bên trong. Nghĩa nầy đúng chăng? 
				Đức Phật bảo A Nan : 
				 
				- Khi ông nhắm mắt thấy tối, cái cảnh tối ấy là đối với mắt hay 
				không đối với mắt? 
				 
				Nếu đối với mắt thì tối ở trước mắt, tức là ở ngoài thân, sao 
				lại nói trong thân? Giả sử cho tối là trong thân thì lúc trong 
				phòng tối chẳng có ánh sáng, những gì trong phòng tối đều là 
				tạng phủ của ông sao? 
				 
				Nếu chẳng đối với mắt thì làm sao được thấy? Nếu lìa sự thấy bên 
				ngoài, thành lập sự thấy đối vào trong, khi nhắm mắt thấy tối 
				gọi là thấy trong thân; vậy khi mở mắt thấy sáng sao chẳng thấy 
				mặt? 
				 
				Thêm nữa, nếu chẳng thấy mặt thì cái nghĩa “con mắt đối vào 
				trong” chẳng thể được. Nếu thấy mặt thì tâm hay biết và nhãn căn 
				đều tại hư không, làm sao nói ở trong? 
				 
				Nếu ở ngoài hư không thì chẳng phải thân ông, tức hiện nay Như 
				Lai thấy mặt ông cũng là thân ông sao? Vậy mắt ông thấy biết thì 
				thân ông chẳng biết. Nếu ông cho thân và mắt cùng biết một lượt, 
				thì phải có hai cái biết, tức một thân người phải thành hai 
				Phật. 
				 
				Vậy nên biết rằng : Nhắm mắt thấy tối là thấy trong thân là 
				chẳng đúng. 
				 
				Lần thứ nhất A Nan chấp tâm ở trong thân, bị Phật bác. Sau đó, A 
				Nan chấp tâm ở ngoài thân, cũng bị Phật bác. Liền sau đó, A Nan 
				chấp tâm núp sau con mắt, lý luận này cũng bị Phật bác. A Nan 
				bèn nghĩ rằng tạng phủ ở trong thân nên mắt không thấy được và 
				dĩ nhiên ngũ căn ở bên ngoài thì mắt dễ dàng thấy. Do đó ông mới 
				kết luận rằng vì tạng phủ ở bên trong nên khi nhắm mắt, thấy tối 
				thì cái tối tức là thấy bên trong tạng phủ. Còn khi mở mắt, thấy 
				sáng thì cái sáng này sẽ thấy hình sắc bên ngoài. 
				 
				Bây giờ Phật mới giải thích cho A Nan rằng : Nếu ông A Nan nhắm 
				mắt lại mà thấy cảnh tối thì : 
				 
				1) Nếu ông nhắm mắt mà thấy cảnh tối thì mắt phải nhìn thấy cảnh 
				tối bên ngoài tức là cảnh tối là đối tượng để thấy thì cảnh tối 
				bắt buộc phải ở ngoài thân. Nếu cảnh tối ở trong thân thì làm 
				sao mắt thấy được. Nếu ông A Nan lý luận cảnh tối ở trong thân 
				thì cũng giống như cảnh tối của một căn phòng không có ánh sáng. 
				Như thế thì đồ đạc vật dụng trong phòng kia là tim, gan, tỳ, 
				tạng của ông A Nan? 
				 
				2) Bây giờ nếu không có mắt để thấy thì làm sao thấy được đối 
				tượng, cảnh vật. Mà nếu cho rằng con mắt ở trong thân cho nên 
				khi nhắm mắt thì thấy cảnh tối vậy khi mở mắt sáng thì phải thấy 
				cảnh vật bên ngoài. Nhưng ở đây khi mở mắt sáng mà chẳng thấy 
				được mặt mày của mình thì con mắt đâu phải ở trong thân. Mà muốn 
				thấy mặt thì mắt phải ở ngoài thân vì thế tâm và mắt phải nằm lơ 
				lửng trong không gian. 
				 
				Nếu mắt, tâm ở ngoài thân và nằm trong hư không thì rõ ràng mắt 
				và tâm không thuộc thân. Cũng như Đức Phật đứng từ bên ngoài 
				nhìn A Nan thì làm sao bảo Đức Phật là thân của A Nan được. Do 
				đó nếu mắt biết thì thân không biết, còn nếu cho rằng mắt biết 
				và thân cũng biết hóa ra trong thân có tới hai tánh biết nghĩa 
				là một thân A Nan tu mà có tới hai A Nan thành Phật. Mỗi người 
				sinh ra chỉ có một tánh biết, nếu tánh biết hiện ra ở mắt là 
				thấy, hiện ra ở tai là nghe, hiện ra ở mũi là ngửi…cho nên nếu 
				có hai tánh biết thì rõ ràng ông A Nan một thân mà có tới hai 
				bản tâm hay sao? 
				 
				Do đó ông A Nan chấp “nhắm mắt thấy tối là tâm thấy trong thân” 
				là vô lý. 
				  
				5) A NAN CHO RẰNG SỰ SUY 
				NGHĨ LÀ TÂM : 
				 
				A Nan thưa : 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Con thường nghe Phật dạy tứ chúng rằng: do tâm 
				sanh nên các pháp mới sanh; do các pháp sanh cho nên tâm mới 
				sanh. Nay con suy nghĩ, chính cái “suy nghĩ” ấy là tâm của con. 
				Tùy sự hòa hiệp chỗ nào tâm theo đó mà có nên nó chẳng ở trong, 
				ở ngoài và ở chính giữa. 
				Phật bảo A Nan : 
				 
				- A Nan! Ông cho sự suy nghĩ là tâm, sự suy nghĩ hòa hợp chỗ nào 
				tâm theo đó mà có. Như thế thì cái tâm của ông không có tự thể. 
				Nếu tâm ông không có hình thể (tức là không có) thì lấy cái gì 
				mà hòa hiệp, cũng giống như giới mười chín hòa hợp với trần thứ 
				bảy, nghĩa ấy không đúng? Còn nó có hình thể, thì ông thử lấy 
				tay mặt đánh qua tay trái, ông liền biết đau. Vậy cái tâm biết 
				đau này, là từ trong thân chạy ra hay từ bên ngoài chạy vào? 
				 
				- Nếu ông nói : ”nó từ trong thân chạy ra” thì trước hết nó phải 
				thấy gan ruột trong thân của ông. Còn nếu nó từ ngoài hư không 
				chạy vào thì trước hết nó phải thấy cái mặt của ông. 
				 
				A Nan thưa : 
				 
				- Thấy là ở con mắt, còn tâm thì biết chớ không thấy như con 
				mắt. Nói tâm thấy là không đúng nghĩa. 
				 
				Phật dạy rằng : 
				 
				- Nếu con mắt thấy thì những người chết, con mắt vẫn còn, sao họ 
				không thấy vật? 
				 
				- Nếu người chết, mà vẫn còn thấy vật, thì sao gọi là người 
				chết? 
				 
				Lại nữa, nếu cái tâm hiểu biết của ông có thật thể, thì có một 
				thể hay nhiều thể, ở khắp cả thân ông, hay không khắp cả thân? 
				 
				- Nếu tâm ông có một thể và ở khắp cả thân thì khi ông lấy tay 
				đánh thử một chỗ trên thân ông, đáng lẽ, đều biết đau hết vì tâm 
				ở khắp cả thân và đồng một thể. 
				 
				- Nếu cả thân biết đau thì cái đau đó lẽ ra không có ở nhất định 
				chỗ nào. 
				 
				- Nếu cái đau có chỗ nhất định thì ông nói : “cái tâm một thể ở 
				khắp cả thân” cũng không phải. Còn nói : “tâm ông có nhiều thể” 
				thì thành ra nhiều người; vậy cái nào là tâm của ông? 
				 
				- Nếu tâm ông không ở khắp thân thể, vậy ông đồng thời vừa đụng 
				trên đầu và cũng vừa đụng dưới chân; khi ấy, nếu đầu biết đau 
				thì chân phải không biết. Còn chân biết đau thì đầu phải không 
				biết. 
				 
				Nhưng thực tế thì đầu và chân của ông cả hai đều biết đau. 
				 
				Thế nên cho rằng “tùy hòa hiệp chỗ nào thì tâm tùy theo đó mà 
				có” cũng không đúng. 
				 
				Cho đến bây giờ, ông A Nan vẫn chưa biết chỗ viên thông của bản 
				tâm nên mới đem cái thức suy nghĩ mà cho rằng đó là bản tâm. Ông 
				A Nan thường nghe Phật giảng giải về câu : “tâm sanh nên các 
				pháp sanh; do pháp sanh nên tâm sanh”, nghĩa là con người có 
				khởi tâm phân biệt là do các pháp trần sinh khởi nghĩa là căn 
				tiếp xúc với trần thì thức phát sinh mà tạo ý niệm phân biệt. 
				Thí dụ, quý vị ngồi trong nhà nhìn ra đường thấy chiếc xe thì 
				thức cho biết đó là chiếc xe, nhưng thức phân biệt sau đó mới 
				cho quý vị biết đó là xe gì, tốt hay xấu… Vì thế nếu pháp trần 
				sinh thì tâm sinh tức là nếu có hiện tượng xảy ra thì tâm phát 
				hiện để ghi lại. Đây chính là vọng tâm bản nguyên phan duyên 
				ngoại cảnh nghĩa là vọng tâm hay những thức suy nghĩ có phát 
				sinh cũng bởi tại phan duyên với những trần cảnh bên ngoài. Ông 
				A Nan không rõ ý Phật muốn chỉ dạy về pháp tướng mà tâm phân 
				biệt là cội nguồn sinh ra các tâm yêu, ghét, buồn, vui… nhưng 
				lại chấp rằng tâm hòa hợp với chỗ nào thì liền có ở nơi ấy. 
				 
				Không riêng gì ông A Nan cho rằng sự suy nghĩ là tâm mà tất cả 
				chúng sinh trên thế gian này đều trả lời như thế nếu họ chưa 
				thấu hiểu sâu xa về thật tướng của vạn pháp. Thí dụ, con người 
				thường nói tâm nghĩ thiện, tâm nghĩ ác, tâm suy nghĩ việc này, 
				việc nọ… thế thì cái suy nghĩ không là tâm thì là gì? Nhưng nếu 
				tư duy quán chiếu thì thấy rằng trong tâm chúng ta không có một 
				ý niệm nào thường trụ bất biến cả. Niệm trước vừa đến thì được 
				thay thế bằng những niệm kế tiếp. Trong một cái chớp mắt mà có 
				tới chín trăm ý niệm vi tế khởi lên trong tâm vì thế mà con 
				người sống trong quay cuồng điên đảo với muôn vạn ý niệm trong 
				tâm thức của mình. 
				 
				Đức Phật dạy rằng nếu thật sự cái suy nghĩ là tâm, mà sự suy 
				nghĩ là hư không, không hình sắc thì làm sao hòa hiệp. Bây giờ 
				giả sử cho rằng sự suy nghĩ có hình sắc; nếu ông A Nan lấy tay 
				mặt đánh qua tay trái thì tâm liền biết đau. Do đó nếu cho rằng 
				tâm ở trong thân chạy ra cánh tay để biết cái đau thì tâm phải 
				thấy tạng phủ của ông A Nan trước rồi mới chạy ra cánh tay, 
				nhưng thật ra tâm đâu có thấy tim, gan của ông được. Còn nói 
				rằng nếu tâm từ bên ngoài hư không chạy vào cánh tay để biết cái 
				đau thì tâm phải thấy mặt của A Nan, nhưng tâm đâu có thấy được 
				mặt của A Nan. 
				 
				Lý do Đức Phật bác lời ông A Nan cho rằng “sự hòa hiệp chỗ nào 
				thì tâm theo chỗ ấy mà có” là vì bản tâm không có tự thể, là vô 
				hình, vô tướng nên không thể thấy và dĩ nhiên không thể nào hòa 
				hiệp được. Tại sao? Vì tự thể là thể chất của vật chất cho nên 
				nếu muốn hòa hợp nước, đường với chanh thì cần phải có nước, 
				đường và trái chanh thì mới làm được nước chanh đường. 
				 
				Ông A Nan vì chưa ngộ được thật tướng viên thông của bản tâm nên 
				tâm còn chấp có, chấp không mà cãi gượng rằng nếu muốn thấy thì 
				phải dùng mắt tức là nhãn căn, còn tâm thì biết tức là thức. 
				Phật không thể nhận lầm thức là nhãn căn được. Lúc bấy giờ A Nan 
				chưa chứng đắc thánh quả A La Hán nên đây là câu hỏi rất thông 
				thường và rất hợp lý đối với phàm nhân. 
				 
				Để trả lời, Phật lại dạy rằng nếu cho rằng phải có mắt mới thấy 
				sự vật thì tại sao người mới chết hai mắt vẫn còn nguyên vẹn mà 
				họ không thấy gì hết! Còn những người đã chết, mắt không còn 
				dùng được mà vẫn thấy sự vật? Lời Phật muốn dạy A Nan rằng không 
				nhất thiết có mắt mới thấy mà tâm cũng thấy được. Khi một người 
				đã chết, thần thức thoát ra khỏi thân xác và lưu lại ở một thế 
				giới trung gian từ một tới bảy tuần lễ để tùy theo nghiệp lực mà 
				đi tái sinh thì gọi là thân trung ấm. Thân trung ấm là thân 
				không có xác thịt mà chỉ là bóng dáng. Vì là bóng dáng nên thân 
				trung ấm không có sáu căn : mắt, tai, mủi, lưỡi, thân và ý, 
				nhưng họ có thể thấy, nghe, hay, biết một cách rõ ràng. Họ có 
				thể ngửi mùi hương mà thân quyến đốt cho họ… Họ có thể thấy gia 
				quyến thương tiếc khóc than cho họ. Do đó thân trung ấm vẫn thấy 
				mọi hiện tượng mà không cần có mắt. Vậy cái thấy của thân trung 
				ấm chính là do tâm mà có chớ đâu phải do mắt. 
				 
				Ngày xưa tôn giả A Na Luật vì mỗi khi nghe Phật thuyết pháp 
				thường hay ngủ gục liền bị Phật quở nên ông thề trong tâm không 
				ngủ nữa. Vì giấc ngủ là thức ăn cho mắt cho nên sau bảy ngày 
				không ngủ liên tiếp ông bị mù. Chính Đức Phật đã dạy ông pháp 
				môn “Kim Cang Chiếu Minh Tam Muội” nên chẳng bao lâu A Na Luật 
				chứng được thiên nhãn thông có thể thấy tam thiên đại thiên thế 
				giới rất rõ như thấy quả quít trên tay. Như thế cái thấy của ông 
				A Na Luật đâu phải là do nhãn căn. 
				 
				Bây giờ Phật mới phân tích cái tâm của A Nan mà hỏi rằng nếu cái 
				tâm hiểu biết của ông là một thể và bao trùm khắp toàn thân nên 
				khi đưa tay đánh một chỗ nào trên thân thì toàn thân phải cảm 
				thấy đau như nhau. Nhưng trên thực tế điều nầy không đúng vì nếu 
				lấy tay đánh trên đầu thì mình và tay chân đâu có đau. Vì thế 
				cho rằng tâm là một thể và bao trùm khắp toàn thân là sai. Còn 
				nếu cho rằng tâm ông có nhiều thể thì cũng không đúng vì mỗi 
				người chỉ có một thể tánh mà thôi. Còn có nhiều thể tức là có 
				nhiều người thành ra cái nào là tâm của A nan? 
				 
				Sau cùng nếu cho rằng tâm hiểu biết của A Nan không bao trùm 
				khắp toàn thân nên khi lấy tay đánh lên đầu và dưới chân một 
				lượt thì chỉ có một chỗ biết đau, hoặc là đầu hoặc là chân bởi 
				vì khi biết đau có nghĩa là trong thời điểm ấy hoặc là tâm chạy 
				lên đầu hoặc là chạy xuống chân. Nhưng trên thực tế, cả đầu lẫn 
				chân cùng đau chứng tỏ tâm vừa chạy lên đầu và cũng vừa chạy 
				xuống chân. 
				 
				Vậy cái thuyết ”hòa hiệp với chỗ nào, tâm liền có ở chỗ đó” 
				không đúng sự thật. 
				  
				6) A NAN CHO RẰNG TÂM Ở 
				CHẶNG GIỮA : 
				 
				A Nan bạch Phật : 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Con được nghe Thế Tôn cùng với ngài Văn Thù Sư 
				Lợi và các vị Pháp Vương Tử bàn về nghĩa thật tướng. Con nghe 
				Phật nói tâm chẳng ở trong cũng chẳng ở ngoài. Theo như con 
				nghĩ: Nếu tâm ở trong thân sao lại không biết bên trong, còn nếu 
				tâm ở bên ngoài sao thân tâm cùng biết. Tâm không biết bên trong 
				nên không thể nói ở trong thân. Thân và tâm cùng biết nên không 
				thể nói tâm ở ngoài thân. Nay vì thân tâm biết nhau và không 
				thấy được vật bên trong nên con khẳng định tâm chắc chắn ở giữa. 
				 
				Phật bảo : 
				 
				- Này A Nan! Ông nói chặng giữa, chỗ ấy không phải tự nhiên mà 
				có, hoặc không có vị trí nhất định. Theo sự suy nghĩ của ông thì 
				chặng giữa là ở nơi nào? Ở nơi thân hay ở nơi cảnh? Nếu ở nơi 
				thân mà ở một bên thì không phải ở giữa, còn nếu ở giữa thân thì 
				cũng như ở trong thân rồi. Nếu cái giữa ở nơi cảnh thì có thể 
				nêu ra được hay không thể nêu ra được? Không nêu ra được thì 
				cũng như không có cái giữa, còn nêu ra được thì lại không nhất 
				định ở giữa. Tại sao?  Ví như có người cắm một cây nêu để 
				làm điểm giữa. Nếu nhìn từ phương Đông thì cây nêu ở phía Tây. 
				Còn nếu nhìn từ phương Nam thì thấy cây nêu ở phía Bắc. Cái giữa 
				đã lẫn lộn như thế thì cái tâm ở chặng giữa cũng thành rối loạn, 
				chẳng rõ ở đâu. 
				 
				A Nan thưa : 
				 
				- Con nói “chính giữa” chẳng phải là hai thứ này. Như Thế Tôn 
				dạy: mắt gặp sắc trần, duyên sanh nhãn thức. Mắt thì có phân 
				biệt, sắc trần vốn vô tri. Thức phát sinh trong khoảng giữa ấy 
				chính là tâm con. 
				Đức Phật bảo : 
				 
				- Tâm ông nếu ở giữa căn và trần, vậy tâm thể ấy gồm cả hai bên 
				hay không gồm cả hai bên? Nếu gồm cả hai bên thì ngoại vật và 
				tâm thể lẫn lộn, trần thì không biết nhưng căn biết thành hai 
				thứ đối lập nhau. Như thế chỗ nào gọi là điểm giữa? Nếu lìa biết 
				(căn) và không biết (trần) thì chẳng có thể tánh, vậy lấy tướng 
				nào làm chính giữa? 
				 
				Thế nên biết rằng tâm ở chặng giữa là chẳng đúng. 
				 
				Khi Phật và đại trí Văn Thù bàn về thật tướng nghĩa là các Ngài 
				nói về tánh thường trụ của bản tâm tức là chơn tâm, là Phật 
				tánh, là Tri kiến Phật, là tự tánh thanh tịnh bản nhiên có sẵn 
				trong tất cả chúng sinh, nhưng ông A Nan lại hiểu lầm thật tướng 
				thường trụ bất sinh bất diệt của chơn tâm với pháp tướng sinh 
				diệt của vọng tâm. Vì thế mà ông mới lý luận rằng nếu tâm ở 
				trong thân thì tâm phải thấy lục phủ ngũ tạng, nhưng tâm đâu có 
				thấy được tim, gan của mình nên chắc chắn tâm không ở trong 
				thân. Còn nếu cho rằng tâm ở ngoài thân, khi thân đau thì tâm 
				không biết vì nó ở ngoài nên chắc chắn tâm cũng không ở ngoài 
				thân. Nhưng ở đây khi Phật đưa cánh tay lên thì thân tâm cùng 
				biết hoặc có người đánh vào tay ta thì thân tâm cũng cùng biết 
				cho nên ông A Nan mới kết luận tâm không ở trong, tâm cũng chẳng 
				ở ngoài mà tâm bây giờ ở ngay chặng giữa. Khi ông A Nan còn dùng 
				thức tâm tức là tâm phân biệt còn ngăn cách bởi sự vật, còn chạy 
				theo sắc trần bên ngoài, thì không cách nào ông hiểu được chơn 
				tâm thường trú và thể tánh tịnh minh vốn trong sạch, thanh tịnh, 
				thường hằng bất biến trong tâm của ông. 
				 
				Bây giờ Phật từ bi mà giải thích rằng cái giữa mà ông A Nan muốn 
				nói là ở đâu. Giữa ở nơi thân hay giữa ở nơi cảnh. 
				 
				1) Nếu tâm ở giữa nơi thân thì rõ ràng tâm ở trong thân thì cũng 
				giống như phần trên. Hoặc là cho tâm ở trong thân, nhưng ở một 
				bên thì cái giữa đâu còn ý nghĩa. 
				 
				2) Còn nếu cho rằng tâm giữa ở nơi cảnh thì cũng có hai trường 
				hợp : 
				 
				- Nếu không nói ra được chỗ nào là ở giữa thì cái giữa không có. 
				 
				- Còn nếu có thể nói được thì nơi nào gọi là chỗ giữa. Phật bèn 
				đưa ra thí dụ : Giả sử có người cắm một cây nêu để làm điểm giữa 
				trong một cánh đồng trống. Nếu một người nhìn từ hướng Đông thì 
				thấy cây nêu nằm về hướng Tây. Hoặc một người nhìn từ hướng Nam 
				thì thấy cây nêu nằm về hướng Bắc. Vậy chỗ nào là chính giữa? 
				Cái ý nghĩa của chính giữa đã không rõ biết thì làm sao nói tâm 
				ở chính giữa là đúng được. 
				 
				Vì A Nan còn mê nên nói sao cũng không đúng, nói cái gì cũng bị 
				Phật bác nên ông dựa vào duy thức luận mà nói rằng: Nhãn căn là 
				căn của mắt, sắc trần là những ngoại vật ở bên ngoài cho nên khi 
				nhãn căn tiếp xúc với sắc trần liền phát sinh nhãn thức tức là 
				sự phân biệt của sự thấy. Ông A Nan nói nhãn căn có sự phân 
				biệt, sắc trần tự nó vô tri nên không có sự phân biệt, nhưng khi 
				nhãn căn gặp sắc trần sanh ra nhãn thức ở giữa có sự phân biệt 
				hay biết nên ông cho rằng tâm ở nơi nầy. Thí dụ như khi chúng ta 
				nhìn thấy một chiếc xe đang đậu ngoài đường. Nhìn là mắt tức là 
				nhãn căn, chiếc xe là sắc trần, nhưng nếu mắt nhìn chiếc xe mà 
				chỉ biết đây là chiếc xe thì thức không có sự phân biệt. Bây giờ 
				nếu mắt vừa nhìn thấy chiếc xe mà thức liền phân biệt cho rằng 
				chiếc xe này là xe gì, đẹp hay xấu… thì ông A Nan nói cái thức 
				phân biệt này chính là bản tâm của ông ta. 
				 
				Phật lại dạy rằng nếu ông A Nan nói tâm nằm ở giữa căn và trần 
				thì cái tâm ấy gồm hai bên (căn và trần) hay không gồm hai bên? 
				 
				1) Nếu tâm gồm hai bên có nghĩa là nhãn thức vừa bao gồm cả nhãn 
				căn và sắc trần mà trần thì không biết còn căn thì biết như thế 
				biết và không biết hay tâm thức và sắc trần lẫn lộn vào nhau thì 
				làm sao biết chỗ nào là tâm mà nói ở chặng giữa. 
				 
				2) Nếu tâm không gồm hai bên nghĩa là nó không có biết và cũng 
				không phải không biết nên tâm bây giờ không có thể tánh thì làm 
				sao nói tâm ở chặng giữa được. Tuy bản tâm là vô hình vô tướng, 
				nhưng nó có sự biết, sự thọ cảm nên nó có thể tánh, ngược lại 
				nếu không có thể tánh thì không phải là tâm. Mà nếu không là tâm 
				thì làm sao nói tâm ở chỗ này hay chỗ kia. 
				 
				Vậy ông A Nan chấp tâm ở chặng giữa là không đúng. 
				  
				7) A NAN CHO RẰNG TÂM LÀ 
				CÁI KHÔNG DÍNH DÁNG VÀO ĐÂU CẢ: 
				 
				Ông A Nan thưa : 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Con nhớ trước đây có lần Phật chuyển pháp luân 
				cùng bốn đại đệ tử: Mục Kiền Liên, Tu Bồ-đề, Phú Lâu Na và Xá 
				Lợi Phất, khi đó Phật dạy: “Cái tâm tánh hiểu biết nó không ở 
				trong, không ở ngoài, không có chặng giữa và không chỗ trụ, tất 
				cả không dính dáng”. 
				 
				Bạch Thế Tôn! Nay con lấy cái không dính dáng ấy gọi là tâm có 
				được chăng? 
				 
				Phật bảo : 
				 
				- A Nan! Ông nói cái tâm hiểu biết của ông không dính dáng, vậy 
				tôi hỏi ông : Biển cả, đất liền, núi rừng, hoa, cỏ… nói chung 
				mọi sự vật hiện tượng trên thế gian mà ông cho là không dính 
				dáng, chúng có hay là không có? Nếu chúng là không thì không cần 
				phải nói dính dáng hay không dính dáng. Bởi vì có ai dính với 
				chuyện lông rùa, sừng thỏ bao giờ! Còn nếu có sự dính dáng thì 
				không thể nói sự vật hiện tượng là không. Không tướng mới không, 
				còn không phải không thì ắt phải có tướng. Mà đã có tướng thì có 
				dính dáng chứ làm sao không dính dáng được? 
				 
				Vậy nên biết rằng tâm là cái không dính dáng vào đâu cả cũng 
				không hợp lý. 
				 
				Một lần nữa kinh Lăng Nghiêm chứng minh rằng cái nghe thấy biết 
				của ông A Nan và sự thấy biết của những bậc tu chứng khác nhau 
				rất xa. Tại sao? Khi các bậc Thánh giả tu chứng đến chỗ các Ngài 
				có thể phá được sắc, thọ, tưởng, hành của ngũ uẩn thì các Ngài 
				đạt đến chỗ nhân không tức là họ đã phá được bản ngã nên tâm 
				hoàn toàn tự tại cho nên cái thấy của họ không phải do mắt mà 
				bằng trí tuệ nên không có dính dáng. Còn ông A Nan tuy theo chân 
				Đức Phật suốt hai mươi bảy năm, nhưng với sở thích học rộng nghe 
				nhiều mà không dùng thiền định để soi chiếu được cái thật tướng 
				của bản tâm (chơn tâm) nên cái thấy của ông A Nan không khác gì 
				cái thấy của phàm nhân tức là thấy bằng nhục nhãn chớ không phải 
				bằng tuệ nhãn như các vị A la hán. Mà thấy bằng mắt thịt thì dĩ 
				nhiên phải có dính dáng, có đối tượng mới thấy được. 
				 
				Phật từ bi mà dạy rằng nếu ông A Nan cho rằng cái tâm hiểu biết 
				của ông không dính dáng với tất cả những sự vật hiện tượng trên 
				thế gian, ông hãy nhìn ra ngoài sẽ thấy nào là trời cao, biển 
				rộng, núi rừng, hoa quả, chim bay, cá lặn… thì chúng có hay 
				không? 
				 
				1) Nếu ông nói không có thì không cần phải nói gì thêm. 
				 
				2) Còn nếu ông nói chúng có hiện hữu thì làm sao ông nói là 
				không dính dáng được? Tại sao? Bởi vì cái không dính dáng là cái 
				không của hình sắc, của thế giới hữu vi tức là phải có hình 
				tướng chớ không phải cái không của không tướng tức là chân không 
				diệu tánh của thế giới vô vi. Mà thế gian, trời đất, núi cao, 
				biển rộng, chim bay, cá lặn vẫn sờ sờ trước mắt thì làm sao nói 
				không có? Do đó có thế giới hữu hình, có hình tướng thì phải có 
				dính dáng. 
				 
				Vậy ông A Nan chấp không dính dáng là tâm hay biết lại cũng 
				không đúng. 
				 
				Phần Tóm Lược 
				 
				Con người có sống trong hệ lụy của phiền não khổ đau cũng vì để 
				tâm chạy theo những trần cảnh bên ngoài. Mỗi cái chớp mắt có tới 
				hàng trăm ý niệm thay nhau sinh khởi trong tâm. Ý niệm trước vừa 
				dấy khởi liền được thay thế bằng ý niệm sau. Đó là tại sao chúng 
				sinh có lúc vui, lúc buồn, lúc giận, lúc hờn, lúc thương, lúc 
				ghét… Cái vui nhỏ thay thế cái vui lớn, cái tức giận mới thay 
				thế cái tức giận cũ. Vài phút trước đang vui, nhưng vừa thoáng 
				qua thì nước mắt đã chảy dài. Tất cả những thay đổi của tâm bởi 
				những trần lao bên ngoài thì cái tâm này nhà Phật gọi là thức 
				tâm hay vọng tâm tức là cái tâm sinh diệt, biến đổi theo hoàn 
				cảnh và thời gian. 
				Trong chương này, Đức Phật 
				trước khi chỉ bày phương pháp tu hành để loại trừ vọng tâm sinh 
				diệt chính là cội nguồn của sinh tử khổ đau mà thấy được chơn 
				tâm thường trú của chính mình, Ngài gạn hỏi ông A Nan bảy lần về 
				bản tâm. Ông A Nan tuy theo chân Đức Phật suốt hai mươi bảy năm 
				và được Phật khen ngợi là đệ nhất đa văn, nhưng ông chỉ thích 
				học rộng nghe nhiều, cố thu góp kho tàng Phật pháp mà không chịu 
				tu chứng. Vì chưa chứng đắc Thánh quả, ông A Nan chưa phá nổi 
				nhân không nên ông vẫn còn chấp ngã, chấp tướng, tâm chưa được 
				thanh tịnh, rỗng rang như các vị A la hán. Bởi tâm còn chấp nên 
				Đức Phật sau bảy lần gạn hỏi bản tâm là cái gì và ở đâu, ông chỉ 
				dùng trí thức phàm nhân mà trả lời. Thâm ý của Đức Phật là muốn 
				hỏi về chơn tâm, Phật tánh trong khi ông A Nan lại dùng vọng tâm 
				sinh diệt mà đáp lại. 
				 
				Đức Phật đưa ra bảy chỗ gạn hỏi là có ý muốn đưa A Nan thẳng đến 
				chỗ tự ngộ vì thế lời Phật giảng giải chẳng phải chân lý. Tại 
				sao? Đức Phật chỉ dùng phương tiện tức là dùng thuốc giả để trị 
				bịnh giả của A Nan bởi vì những kiến chấp của A Nan là không 
				đúng và lời phá chấp của Phật cũng không phải là chân lý. Thí dụ 
				như khi ông A Nan nói tâm ở trong thân, ở ngoài thân, tâm không 
				dính dáng thì thật ra không phải có chỗ chẳng đúng hay chẳng 
				sai. Do đó khi A Nan chấp tâm ở trong thân thì Phật bác không 
				phải ở trong. A Nan bèn chấp tâm ở ngoài thân thì Phật lại bác 
				không phải ở ngoài. Tuy phá chấp của A Nan, nhưng lời phá chấp 
				của Phật cũng không phải là chân lý. Tại sao? Vì tự tánh, chơn 
				tâm vốn là cùng khắp cho nên nếu Phật nói tâm không phải ở trong 
				thân nghĩa là tự tánh không cùng khắp, hoặc nếu Phật cho rằng 
				tâm không ở ngoài thân thì tự tánh cũng không cùng khắp. Nhưng 
				vì A Nan chấp tâm phải nhất định ở một chỗ nên Phật mới bác. Nếu 
				bệnh chấp chưa hết thì không những bảy chỗ mà A Nan có thể đưa 
				ra vô số chỗ. Còn nếu bệnh chấp đã hết thì một chỗ cũng chẳng 
				có, nói gì đến bảy chỗ. 
				 
				Trong Nhiếp Đại Thừa luận có câu chuyện “Kẻ mù rờ voi”. Người rờ 
				nhằm cái chân thì nói con voi như cột nhà, người rờ nhằm lỗ tai 
				thì nói con voi như cái quạt, còn người khác rờ nhằm cái đuôi 
				thì nói con voi như cây chổi quét nhà…Do đó nếu những người mù 
				kia không thấy được chân tướng của con voi, cho dù có rờ trúng, 
				thì họ nói cách nào cũng sai cả. 
				 
				Vậy nên biết nếu con người chưa ngộ được thể tánh chơn tâm thì 
				cho dù nói cách nào cũng sai cả. 
				
				
				 |  
				 |