|   CĂN, TRẦN, THỨC, GIỚI, 
				THẤT ĐẠI ĐỀU LÀ DỮ KIỆN CHỨNG ĐẮC VIÊN THÔNG. 
				  
				Ông A nan và đại chúng nhờ Phật khai thị 
				tuệ nhãn được Viên dung Thông đạt. Đối với chân lý xẻ bỏ được 
				màn lưới nghi ngờ đen tối. Tất cả đồng chấp tay cung kính thưa: 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Ngày nay chúng tôi thâm tâm sáng suốt vén bức 
				rèm vô minh, tuệ giác được phần vô ngại. Đối với diệu nghĩa “sáu 
				mở một không còn” Như Lai dạy chúng tôi đã lãnh hội. Nhưng nay 
				còn chưa rõ chúng tôi cần phải làm gì để tâm tánh được “viên 
				thông”, khi rời pháp âm hướng dẫn của Phật? Xin Phật rũ lòng 
				thương xót ban cho chúng tôi những bí pháp thậm thâm được xem 
				như lời dạy cuối cùng của Phật? 
				  
				Ông A Nan và đại chúng nhờ 
				Phật khai thị nên trí tuệ được viên thông. Viên thông có nghĩa 
				là viên mãn thông suốt, là trình độ đạt đạo, nhận thức chân lý 
				nên có thể vượt qua những tri kiến chấp mắc hẹp hòi u ám của 
				phàm nhân. Viên thông trong kinh này không có nghĩa là hoàn toàn 
				trọn vẹn giống như viên mãn Vô thượng Bồ-đề mà chỉ là sự chứng 
				nhập viên thông của các vị Thanh Văn và Bồ-tát. Nếu con người có 
				thể diệt hết kiến hoặc và tư hoặc, ra ngoài ba cõi thì có được 
				giải thoát,  chứng đắc Niết bàn. Do đó Niết bàn là do sự 
				giải thoát tất cả phiền não buộc ràng. Còn nếu phá được những vô 
				minh tác động hoành hành để nhận chân chân lý thì có giác ngộ 
				tức là có Bồ-đề. Đức Phật đã giải thích rõ ràng rằng sinh tử 
				luân hồi do nơi sáu căn, mà được an vui diệu thường cũng do nơi 
				sáu căn. Sáu căn tuy vọng, nhưng không thể ngoài sáu căn tìm cái 
				chơn được. 
				Khi mê thì các căn bị ràng 
				buộc nên gọi là thắt gút, đến khi thức tỉnh giác ngộ thì các căn 
				được viên thoát nên gọi là mở. Vì đồng một thể tánh chơn tâm 
				thanh tịnh, nhưng vì do mê lầm chấp trước nên mới hiện ra sáu 
				căn ràng buộc cho nên nếu nói là vọng thì căn nào cũng vọng, còn 
				nói rằng chơn thì căn nào cũng chơn. Khi đã được tự tại thì các 
				căn không còn bị bó buộc trong phạm vi giới hạn của nó. Thí dụ 
				mắt thì chỉ thấy sắc, tai chỉ nghe âm thanh, mũi chỉ ngửi mùi… 
				mà trái lại sáu căn bây giờ tự tại thọ dụng, viên dung vô ngại. 
				Tuy ông A Nan đã hiểu một khi sáu căn được mở thì một căn cũng 
				không còn thắt gút, nhưng ông còn chưa rõ trong sáu căn thì căn 
				nào là thích hợp nhất với căn cơ của ông và của tất cả đại 
				chúng. Pháp môn Thủ lăng Nghiêm tam muội là một pháp môn thù 
				thắng, vi diệu và con người chỉ có thể thu nhận khi nào tâm của 
				họ thật sự mở rộng để đón nhận. Vì thế Đức Phật đợi tâm của ông 
				A Nan và của tất cả đại chúng viên mãn đầy đủ thì lúc ấy Ngài 
				mới trao pháp bảo Thủ Lăng Nghiêm tam muội cho. 
				  
				PHẬT HỎI ĐẠI CHÚNG VỀ 
				NHÂN DUYÊN NGỘ ĐẠO VÀ DỮ KIỆN CHỨNG ĐẮC VIÊN THÔNG 
				 
				Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo khắp các đại Bồ-tát và hàng lậu tận A la 
				hán rằng : 
				 
				- Các ông là Bồ-tát và A la hán sanh trong Phật Pháp đã chứng 
				quả vô học. Nay tôi hỏi các ông: Lúc mới phát tâm, trong thập 
				bát giới, các ông tâm đắc ở giới nào? Do nhân duyên gì? Từ 
				phương tiện nào mà các ông được Tam-ma-đề “viên thông” tâm tánh? 
				 
				Từ đoạn này trở đi Đức Phật khai thị tường tận về phương tiện 
				tối sơ là thay vì trả lời làm thế nào để đạt được tâm tánh viên 
				thông, Ngài không tự nói ra mà lại hỏi Bồ-tát và Thanh Văn trong 
				pháp hội tùy theo phương tiện sơ tâm nhập đạo của từng người để 
				trình bày đường lối tu tập của mình từ lúc mới phát tâm cho đến 
				khi được thành chánh quả. Đại Bồ-tát là các vị đã chứng được 
				thường trụ pháp thân, vào Kim Cương Địa. Đại A la hán là các vị 
				A la hán đại thừa đã phá trừ chấp ngã, chấp pháp và vào trong đệ 
				bát địa. Nói chung trong thập bát giới, chúng sinh tu theo giới 
				nào thì cũng có thể được viên thông cả. Căn cơ, trình độ và 
				nghiệp quả của chúng sinh có sai khác nên Phật pháp mới có nhiều 
				phương tiện, nhiều pháp môn, nhiều cánh cửa, nhưng tựu trung 
				cũng đều vào căn nhà giác ngộ. Trong kinh Duy Ma Cật có ba mươi 
				mốt vị Đại sĩ Bồ-tát trình bày ba mươi mốt phương pháp khác nhau 
				để cùng chứng nhập pháp môn không hai nghĩa là trăm sông cùng đổ 
				về biển lớn. 
				Ở đây có hai mươi lăm vị 
				Thánh đệ tử đại diện cho sáu căn, cáu trần, sáu thức và bảy đại 
				cũng lần lượt trình bày những căn nguyên, phương pháp và sở đắc 
				của mình mà ngộ được tánh viên thông. Ông A Nan tuy đã thâm ngộ 
				cái ý nghĩa viên ngộ và viên tu, nhưng trên thực tế chưa rõ sáu 
				căn thì căn nào thích hợp với trình độ của mình nên cầu Phật chỉ 
				bày. Khi Đức Phật gạn hỏi chỗ ngộ đạo của các bậc hiền Thánh 
				tăng không phải là để so sánh chỗ hơn kém, cao thấp mà cốt để 
				chỉ rõ lối tu viên đốn của đại thừa khác với lối tu tiệm thứ của 
				nhị thừa và để cho ông A Nan nhân đó tự lựa cho mình căn nào 
				thích hợp với trình độ của mình mà tu để được giải thoát. Không 
				chỉ riêng cho ông A Nan, tất cả chúng sinh sau khi thâm hiểu và 
				biết chọn lấy cho mình một pháp môn thích hợp để tu hành thì 
				cũng sẽ được ngộ nhập viên thông tam muội. 
				 
				1) VIÊN THÔNG VỀ THANH TRẦN 
				 
				Nhóm ông Kiều Trần Như năm vị tỳ kheo từ chỗ ngồi đứng dậy 
				cung kính chấp tay thưa: 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai thành đạo ở vườn Lộc Uyển, 
				chúng tôi gặp Phật trước tiên. Chúng tôi được Phật khai thị cho 
				về pháp Tứ diệu đế. Do nghe tiếng Pháp của Phật mà tôi tỏ ngộ. 
				Lúc đó Phật hỏi các tỳ kheo: Có hiểu không, tôi thưa là đã hiểu. 
				Nhơn đó Như Lai đặt cho tôi cái tên là A Nhã Đa, ấn chứng chúng 
				tôi là những người A la hán. Nay Phật hỏi “viên thông” đối với 
				tôi “thanh trần” là mầu nhiệm nhất. 
				 
				Khi biết Phật xuất gia, vua Tịnh Phạn bèn ra lịnh cho ba người 
				trong dòng họ là A Hiền Bà, Bạt Đề, Ma Ha Nam và hai người bên 
				cậu là Kiều Trần Như và Thập Lực Ca Diếp đi theo hộ vệ cho Thái 
				tử. Nhưng sau đó họ bỏ Phật tu theo ngoại đạo. Đến khi Đức Phật 
				vừa thành đạo dưới cội Bồ-đề trên tòa Kim Cương thì Ngài nghĩ 
				đến việc hoằng pháp độ sanh nên liền đến vườn Nai ở xứ Ba La Nại 
				gặp lại năm anh em ông Kiều Trần Như, những người đã cùng tu khổ 
				hạnh với Ngài khi xưa. Bài thuyết pháp đầu tiên, Đức Phật đem 
				chân lý Tứ Diệu Đế mà giảng giải cho họ để chuyển bánh xe pháp. 
				Phật dạy đây là những nỗi khổ cần phải biết tức là khổ đế. Đây 
				là nguyên nhân gây ra những nỗi khổ tức là tập đế. Phật lại dạy 
				hễ hết khổ đau là có thanh tịnh Niết bàn tức là diệt đế. Và sau 
				cùng đạo đế là con đường để đoạn mọi phiền não mà chứng đắc sự 
				thanh tịnh tịch diệt Niết bàn. 
				Trước hết, nhóm ông Kiều 
				Trần Như nhờ nghe pháp âm của Phật mà ngộ được chân lý Tứ Diệu 
				Đế. Như vậy pháp âm của Đức Phật tức là thanh trần tác dụng vào 
				nhĩ căn của nhóm ông Kiều Trần Như làm cho các ông  thức 
				tỉnh được tánh giác của mình. Nhưng điều quan trọng là chính ông 
				tư duy quán chiếu để thấu rõ thật tướng của âm thanh mà ngộ đạo. 
				Thật tướng của âm thanh là vô tướng, nó thường vắng lặng cùng 
				khắp mười phương và tùy theo tâm lượng nghiệp cảm của chúng sinh 
				mà phát hiện. Vì thế khi tai không còn nghe những âm thanh đối 
				đãi sinh diệt bên ngoài mà khi ấy tiếng (tánh nghe) cũng chẳng 
				phải không. Con người thường chỉ phân biệt theo giả ảnh của 
				thanh trần sinh diệt đối đãi với ta nên bị thống khổ khi có 
				tiếng, hay khi không có tiếng chớ không bao giờ chịu lắng lòng 
				định tâm để quán thật tánh của những tiếng “động tịnh” là từ đâu 
				nên chưa liễu nhập tánh âm thanh vốn là tánh diệu chơn như của 
				Như Lai Tạng. Khi tâm phân biệt với trần cảnh dần dần tan biến, 
				họ không còn nghe theo âm thanh, tiếng nói của thế gian thì tâm 
				trở thành thanh tịnh, ngộ được tánh viên thông, thoát ly sinh tử 
				và chứng đắc Niết bàn. Phật liền ấn chứng cho ông danh hiệu là A 
				Nhã Đa nghĩa là giải tức là nhờ thanh trần mà được giải ngộ. 
				 
				2) VIÊN THÔNG VỀ SẮC TRẦN 
				 
				Ông Ưu Ba Ni Sa Đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi 
				chân Phật mà bạch rằng: 
				 
				- Tôi cũng nhìn Phật lúc Ngài mới thành đạo. Phật đã dạy tôi 
				quán các tướng bất tịnh đến khi tôi thật sự nhàm chán thì ngộ 
				được bản chất của sắc. Đầu tiên tôi quán tướng bất tịnh, rồi 
				quán xương trắng cho đến vi trần, sao đó quy về hư không và khi 
				“Không” và “Sắc” đều không thì tôi đã thành tựu đạo vô học. Như 
				Lai ấn khả cho tôi tên Ni Sa Đà vì đối với tôi thì sắc trần đã 
				tiêu sạch nên được diệu sắc mật viên. Tức tôi từ sắc tướng mà 
				được quả A la hán. Nay Phật hỏi viên thông, theo chỗ tôi chứng 
				thì sắc trần là tối thượng. 
				 
				Ông Ưu Ba Ni Sa Đà tuy đã xuất gia theo Phật, nhưng ông vẫn quý 
				yêu cái thân thể của ông. Đức Phật biết ông còn lụy về thân, còn 
				dính mắc nơi sắc trần nên rất khó tu đạo vì thế mà Ngài dạy cho 
				ông pháp môn “quán bất tịnh”. Ông bắt đầu quán rằng tấm thân tứ 
				đại bên ngoài đầy mồ hôi dơ bẩn, bên trong chứa đựng những đồ ô 
				uế. Sống thì bệnh tật khổ đau, đến khi chết sình lên hôi thúi và 
				da thịt tiêu chảy thành nước, bốc mùi tanh hôi. Xương trắng theo 
				thời gian cũng mục nát thành  tro bụi cho nên chỉ cần gặp 
				một luồng gió nhẹ là tan mất trong hư không, không còn gì cả. Vì 
				quán thấu triệt như thế nên ông Ưu Ba Ni Sa Đà không còn lưu 
				luyến sắc thân giả huyễn và cũng không còn lưu luyến sắc trần 
				sinh diệt. Sắc thân trở thành cát bụi, tan theo hư không thì dĩ 
				nhiên cái đối đãi giữa sắc và không cũng không còn làm ông chợt 
				bừng tỉnh mà ngộ rằng sắc không, không sắc đều chẳng ra gì. Một 
				khi tâm không còn dính mắc vào những tướng trạng giả huyễn của 
				sắc trần thì tâm trở thành thanh tịnh, không còn phiền não nên 
				ông trở thành A la hán, tỏ ngộ viên thông và chứng đắc Niết bàn. 
				Nhờ ngộ được sắc tánh mà Đức Phật ấn khả cho ông danh hiệu Ni Sa 
				Đà nghĩa là Trần-Tánh Không. 
				 
				3) VIÊN THÔNG VỀ HƯƠNG TRẦN 
				 
				Ông Hương Nghiêm đồng tử đứng dậy cung kính chấp tay thưa : 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Trước đây Như Lai dạy tôi quán sát kỹ về các 
				pháp tướng hữu vi. Một hôm tôi tĩnh tọa trong giảng đường các tỳ 
				kheo đốt hương trầm thủy, mùi hương thoang thoảng trong tĩnh 
				mịch u nhàn, tác dụng đến mũi tôi. Tôi tư duy quán xét: Hương 
				này không phải do gỗ, không phải do hư không, không phải do 
				khói, không phải do lửa. Đi ra không dính vào đâu. Đến đâu không 
				chỗ dừng trụ. Quán chiếu như vậy, ý thức phân biệt của tôi tự 
				khắc tiêu vong. Trí vô lậu phát sinh, Như Lai ấn chứng cho tôi 
				danh hiệu là Hương Nghiêm. Vì do tôi thể nghiệm mùi hương mà 
				chứng được A la hán quả. Nay Phật hỏi phương tiện được viên 
				thông, xin thưa: Với tôi, “hương trần” là tối thắng nhất. 
				 
				Ông Hương Nghiêm đồng tử tuy xuất gia theo Phật lúc còn nhỏ, 
				nhưng tâm vẫn còn dính mắc nơi thế giới hữu hình. Vì chưa có trí 
				tuệ nên cái thấy, nghe, hay, biết của ông đối với thế giới hữu 
				vi sinh diệt thì ông cho là thật cho nên Đức Phật chỉ cho ông 
				phương pháp quán chiếu để trực nhận cái thật tướng của vạn pháp. 
				Thí dụ tướng hữu vi là mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi 
				hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc và ý phân biệt. Nói cách khác 
				còn chạy theo sắc tướng âm thanh là còn chạy theo vòng đối đãi, 
				sinh diệt và xa dần với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của chính 
				mình. 
				 
				Con người thường nghĩ rằng mùi hương là một thứ sẵn có của gỗ 
				trầm. Tuy gỗ trầm có mùi hương, nhưng xét cho cùng thì thì mùi 
				hương ấy đâu phải chỉ do gỗ trầm mà có được. Nếu không có không 
				khí, do lửa đốt và do tỷ căn của con người tiếp nhận thì không 
				thành mùi hương được. Nói cách khác có được mùi hương là do các 
				nhân duyên cây hương, hư không, lửa khói… hợp lại mà thành. Một 
				khi do nhân duyên kết hợp thì mùi hương không có tự tánh, không 
				có chủ thể, là vô ngã tức là không. Vậy cái tánh chơn thật của 
				hương trần không phải là do năng tri sở tri và cũng không phải 
				là ly năng tri sở tri mà có, nhưng chỉ tùy theo nghiệp của mỗi 
				chúng sinh mà phát hiện. Vì quán được tất cả các pháp hữu vi là 
				duyên sinh như huyển, không bền không chắc mà Ngài chứng được 
				tánh viên thông của hương trần và thành A la hán.  
				 
				4) VIÊN THÔNG VỀ VỊ TRẦN 
				 
				Hai vị Bồ-tát Dược Vương, Dược Thượng cùng năm trăm phạm 
				thiên trong Hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân 
				Phật mà bạch rằng : 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Từ vô lượng kiếp, chúng tôi là lương y cứu tế 
				thế nhân. Miệng chúng tôi thường nếm những lá hoa cây cỏ kim 
				thạch trong cõi Ta bà này. Tất cả những vị: Mặn, nhạt, chua, 
				cay, ngọt, đắng… cùng các vị biến đổi, do các vị kia hòa hợp 
				cùng sinh ra, vị nào lạnh, vị nào nóng, thứ nào có độc, thứ nào 
				không độc, tôi đều biết cả. Được phục vụ chư Phật và tất cả 
				chúng sinh, rõ biết tánh chất của vị trần. Không phải không, 
				không phải có, không phải tức thân tâm, không phải ly thân tâm. 
				Nhờ tôi phân biệt “vị trần” mà được khai ngộ. Phật ấn chứng cho 
				tôi danh hiệu là Dược Vương và Dược Thượng Bồ-tát. Nay Phật hỏi 
				nhân duyên và phương tiện được viên thông, xin thưa: Đối với 
				chúng tôi vị trần là ưu việt nhất. 
				 
				Vị trần là các vị chua, cay, mặn, nhạt, đắng, ngọt… Có những vị 
				tự nó chỉ có một vị duy nhất như ớt thì cay, bồ hòn thì đắng. 
				Tuy nhiên cũng có những vị biến dị tức là do thay đổi mà ra. Thí 
				dụ mật ong để lâu biến thành chua hay rượu để lâu thành lạt. 
				 
				Tuy chúng sinh có nếm biết rất nhiều mùi vị, nhưng có lẽ không 
				có ai trên đời mà nếm được nhiều mùi vị hơn hai Ngài Dược Vương 
				và Dược Thượng. Vì là lương y nên các Ngài vào tận rừng sâu để 
				tìm rất nhiều loại thảo dược, kim thạch cho nên tất cả các vị 
				đắng, cay, mặn, chát các Ngài đều nếm qua. Càng nếm nhiều thảo 
				dược, cái vị nếm của các Ngài càng tăng trưởng nên sự đối đãi 
				phân biệt cũng phát triển theo. Nhưng thay vì chạy theo vọng 
				tưởng phân biệt làm tâm bất tịnh, các Ngài bây giờ lại quan sát 
				bốn nhân của vị trần mà chứng đạo. Thứ nhất nếu nói rằng vị có 
				trong hư không thì tại sao khi nếm hư không con người không biết 
				có vị ngọt, đắng? Thứ hai nếu cho rằng vị là do lưỡi mà có thì 
				vị không phải từ vật chất bên ngoài thế thì trái chanh với mật 
				ông có khác gì nhau? Thứ ba nếu cho rằng vị là do thân tâm thành 
				ra vị có tánh biết? Sau cùng nếu nói vị ly thân tâm thì lấy cái 
				gì phân biệt mà biết vị? 
				Các Ngài quán sát tại sao 
				chiếc lá này có vị mặn, rễ cây kia có vị chua, vỏ cây nọ có vị 
				đắng…, nhưng sau cùng đã thấy được cái tướng giả hợp của vị trần 
				là do nhân duyên kếp hợp và cũng do nhân duyên mà tan rã. Thí dụ 
				trái ớt là do biết bao nhân duyên hợp lại như hột giống, đất, 
				nước, ánh sáng, phân bón… để quyết định vị cay của nó. Cũng thì 
				hột giống đó mà trồng hai nơi khác nhau thì vị cay không giống 
				nhau. Nhờ quan sát như vậy các Ngài ngộ nhập cái tánh phi tức, 
				phi ly, phi hữu, phi không của vị trần nên tất cả vọng ý tiêu 
				tan mà giác tánh được tỏ bày. 
				 
				5) VIÊN THÔNG VỀ XÚC TRẦN 
				 
				Ông Bạt Đà Bà La cùng với mười sáu vị tăng sĩ đồng là bạn đạo 
				cùng đứng dậy cung kính chấp tay thưa : 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Bọn tôi trước kia ở thời Phật Oai Âm Vương, nghe 
				pháp xuất gia. Lúc chư Tăng tắm, tôi theo thứ lớp vào nhà tắm để 
				tắm. Bỗng nhiên tôi tư duy và nhận thức rằng: Nước vốn không rửa 
				bụi và cũng chẳng rửa thân, trung gian an nhiên lặng lẽ. Tôi tâm 
				đắc tột độ cái chân lý “Chẳng có gì”. Tập quán trước không quên, 
				đến nay tôi theo Phật xuất gia được quả vô học. Đức Phật thuở ấy 
				gọi tôi với cái tên: Bạt Đà La (thiên thủ). Do tôi phát hiện 
				tánh nhiệm mầu của xúc trần mà thành Phật tử. Nay Phật hỏi duyên 
				cớ được viên thông, xin thưa : Đối với tôi “xúc trần” là hơn tất 
				cả. 
				 
				Ông Bạt Đà Bà La là một Bồ-tát tại gia, nhưng tu hành chứng đắc. 
				Bình thường các vị A la hán chỉ có thể nhớ lại được khoảng 84 
				ngàn tiền kiếp của mình, nhưng túc mạng thông của ông Bạt Đà Bà 
				La lại có thể nhớ lại hằng hà vô lượng kiếp bởi vì từ thời Phật 
				Oai Âm Vương đến thời Đức Phật Thích Ca rất dài không thể đếm 
				được. Ông Bạt Đà Bà La là một điển hình về sự hiện thân của các 
				vị Bồ-tát vào thế gian tùy nhân duyên mà hóa độ chúng sinh. Ông 
				cũng còn là biểu tượng cho người tại gia mà nếu biết hóa giải vô 
				minh phiền não thì người cư sĩ tại gia cũng có giải thoát giác 
				ngộ. 
				Bồ-đề, Niết bàn tùy thuộc 
				vào khả năng đoạn trừ vô minh phiền não ở chính con người. Vì 
				thế quan hệ tình cảm trong gia đình giữa vợ chồng, con cái, cha 
				mẹ hay bà con thân quyến không phải là cánh cửa lúc nào cũng 
				đóng chặt không cho con người bước vào căn nhà giải thoát giác 
				ngộ. Ngày xưa Bàng Uẩn cũng có gia đình, con cái, cư sĩ Duy Ma 
				Cật cũng vậy nhưng họ đã giải thoát được những cái gút mà bình 
				thường đã cột chặt con người vào vòng sinh tử. Người tu tại gia 
				dĩ nhiên phải đối diện với nhiều phiền não, nhưng người xuất gia 
				cũng có những cái gút, cái khổ tuy bề ngoài, danh xưng có khác 
				nhưng cái gốc của vô minh phiền não đâu có khác gì nhau. 
				 
				Khi nói về Bồ-tát thị hiện, câu chuyện “Quán Âm bán cá” nói về 
				về một thiếu nữ vô cùng xinh đẹp, thường mang giỏ cá đi bán 
				trong một ngôi làng mà cư dân vốn hoàn hoàn không tin theo đạo 
				Phật. Khi gặp một cô gái đẹp đẽ như thế thì tất cả trai tráng 
				trong làng đều nổi lòng tham muốn, người nào cũng ao ước được 
				cưới cô làm vợ. Tuy rằng dân trong làng ấy không đông lắm khoảng 
				trên một trăm thanh niên nên cô gái bèn nói với họ: “Phận tôi là 
				gái không thể nào kết hôn cùng cả trăm người được, vậy giờ tôi 
				xin dùng cách này để kén chồng. Trong hơn một trăm quý ông ở 
				đây, hễ người nào học thuộc được Phẩm Phổ Môn trước nhất thì tôi 
				sẽ kết duyên với người ấy. Bây giờ quý ông hãy về nhà mà học đi, 
				tôi cho quý ông thời hạn là ba ngày thôi đấy”. 
				 
				Thế là hơn một trăm thanh niên, người nào cũng lấy một bản Diệu 
				Pháp Liên Hoa Kinh Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn Phẩm để về học. 
				Hết kỳ hạn ba hôm thì có khoảng bốn, năm chục người đã thuộc 
				được. Như vậy là hơn một trăm ngời dự thi lúc ban đầu thì bây 
				giờ còn lại chỉ một nữa. Người này nói đã thuộc rồi, người kia 
				cũng bảo đã học xong nên Quán Âm bán cá bèn nói: “Bây giờ vẫn 
				còn quá nhiều. Mặc dù hơn năm mươi quý ông đây đều thuộc Phẩm 
				Phổ Môn cả, song tôi không thể kết hôn với cả năm mươi người 
				được! Tôi chỉ có thể kết hôn với một người mà thôi. Thôi thì bây 
				giờ quý ông hãy trở về, tôi lại cho quý ông thời hạn năm ngày để 
				học Kinh Kim Cương, ai thuộc được thì tôi sẽ cùng người ấy kết 
				duyên”. 
				 
				Hơn năm mươi thí sinh ấy quay về và miệt mài học Kinh Kim Cương 
				và sau năm ngày thì có hơn hai mươi người đã học thuộc. Thiếu nữ 
				bán cá lại nói: “Thế này thì vẫn còn đông quá, tôi không thể kết 
				hôn với nhiều người như vậy được. Bây giờ tôi lại có một điều 
				kiện: “Tôi kỳ hạn cho quý ông bảy ngày, hễ ai học thuộc lòng 
				được bộ Kinh Pháp Hoa thì tôi sẽ kết hôn với người ấy. Lần nầy, 
				tôi tin rằng người học thuộc sẽ được toại nguyện”. 
				 
				Như thế là hơn hai mươi người và luôn cả những người đã dự thi 
				khi trước lại cùng nhau cặm cụi học Kinh Pháp Hoa và nội trong 
				bảy ngày thì có một người có thể tụng nhuần nhuyễn và thuộc nằm 
				lòng được trọn bộ kinh. Anh ta xuất thân từ một gia đình giàu 
				có. Vì là người duy nhất trúng tuyển nên anh gởi thiệp mời thân 
				thuộc đến dự lễ thành hôn của mình. Không ngờ sau lễ gia tiên, 
				vừa vào phòng tân hôn thì cô gái xinh đẹp ấy lại bị lên cơn đau 
				tim mà chết. Chàng thanh niên đã hao tổn biết bao tinh thần để 
				học thuộc Phẩm Phổ Môn, Kinh Kim Cương, Kinh Pháp Hoa mới cưới 
				được vợ, thế mà vừa vào phòng tân hôn thì cô dâu lại đột ngột 
				ngã ra chết. 
				 
				Khi đưa đám tang cô gái ấy thì có một vị Sư xuất hiện và hỏi: 
				“Chẳng hay quý vị đang làm gì vậy?” Tang gia đáp: “Cô dâu mới 
				cưới về bỗng dưng mắc bệnh mà chết đột ngột, bây giờ chúng tôi 
				đang đưa đám cô ta đây”. 
				 
				Vị sư nói: “Không đúng! Cổ quan tài kia hoàn toàn trống rỗng, 
				sao lại bảo là có người chết nằm trong đó? Quý vị không tin thì 
				hãy mở ra xem đi”. Mở nắp quan tài ra thì bên trong quả nhiên 
				trống không, thi hài của cô gái bán cá được đặt nằm trong áo 
				quan bây giờ chẳng thấy đâu nữa. Thấy thế, ai nấy đều kinh ngạc 
				bảo nhau: “Vậy thì cô ấy đi đâu?” Hãy mau mau đuổi theo! Phải 
				tìm cho ra cô ấy và đưa về đây, nhanh lên!”. 
				 
				Bấy giờ vị sư giải thích: “Thật ra cô gái ấy chính là Quán Thế 
				Âm Bồ-tát thị hiện đấy. Bởi dân chúng ở địa phương này không tin 
				Phật nên Bồ-tát mới thị hiện làm một thiếu nữ xinh đẹp khiến cho 
				những kẻ háo sắc như các ông say mê mà chịu học Phật Pháp. Nay 
				các ông đã chịu học rồi thì Bồ-tát ra đi thôi. Nghe xong chú rễ 
				chợt tỉnh ngộ: “Ồ! Thì ra như vậy”.Thế rồi, khi đã nhìn thấu 
				suốt được mọi chuyện ở thế gian, anh ta quyết định xuất gia, 
				tinh tấn tu hành và sau đó chứng được Thánh quả. 
				 
				Xúc là đụng chạm, tiếp xúc. Khi thân căn tiếp xúc với xúc trần 
				mà nhận biết có nóng, lạnh, cứng, mềm, trơn, nhám… Như vậy, xúc 
				trần được phát hiện là bởi có thân căn với sắc cảnh. Nếu thiếu 
				một thì không thành tức là không có xúc trần. Nhưng khả năng thu 
				nhập cảm giác của mỗi cá nhân cũng không giống nhau. Thí dụ cùng 
				đứng trước một lò lửa, nếu kẻ lạnh thì có cảm xúc ấm, còn kẻ 
				nóng thì có cảm xúc nóng hơn. Vậy tùy chúng sinh mà thành lạnh 
				hay nóng chớ không có thật thể nhất định. Đối với nước cũng vậy, 
				khi con người dùng nước tắm gội thì dòng nước chảy trên thân thể 
				mà phát sinh ra cảm giác tức là xúc trần. Nhưng hãy suy nghiệm 
				kỹ rằng cái tắm rửa ấy là rửa cho thân thể hay rửa cho bụi trần? 
				Nếu nói rửa thân thể nghĩa 
				là không có bụi trần thì thân thể sạch đâu cần phải rửa! Còn nếu 
				nói là rửa bụi trần thì cũng dòng nước kia chảy trên mặt đất thì 
				cũng gọi là tắm rửa sao? Vì vậy nước tắm không rửa bụi, không 
				rửa thân thể mà nó chỉ làm tách rời bụi ra khỏi thân thể mà 
				thôi. Thế thì nước, bụi trần, thân thể vốn an nhiên nghĩa là 
				nước không phải rửa (năng) và bụi trần hay thân thể không phải 
				bị rửa (sở) cho nên xúc trần chỉ là tướng giả dối, đối đãi theo 
				vọng nghiệp chúng sinh không xúc mà hiện xúc. Một khi năng sở 
				không còn tức là tâm phân biệt đối đãi biến mất thì chơn tâm, 
				Phật tánh hiện bày khiến ông chứng được Thánh quả, ngộ được tánh 
				viên thông. 
				 
				6) VIÊN THÔNG VỀ PHÁP TRẦN 
				 
				Ông Ma Ha Ca Diếp và bà Tử Kim Quang Tỳ khưu ni… 
				đồng đứng dậy cung kính chấp tay thưa: 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Kiếp xa xưa trong cõi này có Phật ra đời hiệu 
				Nhật Nguyệt Đăng. Sau Phật diệt độ chúng tôi thắp sáng ngọn đèn 
				chánh pháp để cúng dường, lại lấy vàng thắm thếp tô hình tượng 
				Phật. Do đó đời đời kiếp kiếp thân thường viên mãn, rực rỡ như 
				vàng ròng. Bọn Tử Kim Quang Tỳ kheo ni cũng đồng phát tâm như 
				tôi vậy. Chúng tôi quan sát sáu trần luôn luôn biến hoại. Tôi 
				trụ tâm trong vắng lặng, nhập định diệt tận, thân tâm rỗng rang, 
				thời gian trăm nghìn kiếp tựa hồ như cái khảy móng tay. Do thành 
				tựu pháp “không quán” mà tôi được quả A la hán. Thế Tôn ấn chứng 
				tôi là: Đầu đà đệ nhất, pháp trần thâm diệu nhờ tuệ nhãn tôi 
				được khai minh, lậu hoặc được dứt trừ. Nay Phật hỏi duyên cớ 
				viên thông, với sở ngộ sở chứng của tôi thì “pháp trần” là tối 
				thượng. 
				 
				Ông Ma-Ha Ca-Diếp tức là tôn giả Đại Ca Diếp, sinh ra trong một 
				gia đình phú hộ mà kham nhẫn tu khổ hạnh đầu đà. Ở trên hội Linh 
				Sơn được Đức Thế Tôn ngầm trao chánh pháp nhãn tạng “Niêm hoa vi 
				tiếu” là điểm tích tối sơ của thiền tông. Đức Phật đã di huấn 
				cho ông thành sơ tổ thiền tông rằng: ”Ta có chánh pháp nhãn 
				tạng, Niết bàn diệu tâm, pháp môn nhiệm mầu, chẳng lập văn tự, 
				ngoại giáo lý truyền riêng. Nay ta giao phó cho ông. Ông khéo 
				giữ gìn chánh Pháp này để truyền lại mãi mãi cho những đời sau”. 
				Đến khi Tôn giả Đại Ca Diếp ngoài trăm tuổi, tuy trí tuệ sáng 
				suốt nhưng sắc thân tứ đại mỏi mòn theo năm tháng nên sau khi 
				phú chúc cho A Nan làm người thừa kế, Ngài bèn ôm bình bát và y 
				của Đức Phật trao lại vào núi Kê Túc mà nhập diệt. Ngài nhập vào 
				diệt tận định mà chờ cho đến khi Đức Di Lặc thành đạo ở hội Long 
				Hoa và sau đó đến núi Kê Túc, búng ngón tay vào thì ngọn núi 
				tách ra và nhận lại y bát của Đức Phật Thích Ca. Bà Tử Kim Quang 
				Tỳ kheo ni tức là người vợ không chung gối của tôn giả lúc ông 
				chưa xuất gia. Về sau xuất gia theo Phật, bà trở thành Tỳ kheo 
				ni và chứng đắc A la hán. Trong số Tỳ kheo ni, bà được Phật khen 
				tặng là người rất giỏi về mặt “túc mạng thông”. 
				 
				Pháp trần là tất cả ấn tượng của tiền trần: sắc, thanh, hương, 
				vị, xúc lưu lại trong tâm ý mà làm cảnh sở duyên cho ý thức. 
				Cảnh này còn gọi là “độc ảnh cảnh” nghĩa là cảnh do một mình ý 
				thức khơi lại bởi những điều nhớ biết chớ không phải cảnh hiện 
				đang xảy ra ở ngoài. Nên nhớ rằng tất cả thế gian vũ trụ biến 
				chuyển vô cùng vô tận cũng không ngoài sáu trần: sắc, thanh, 
				hương, vị, xúc, pháp. Những pháp đó luôn biến chuyển, thay đổi 
				chớ không niệm nào yên lặng, dừng nghĩ. Một ý niệm vừa thoáng 
				qua trở thành hiện tại, rồi hiện tại biến thành quá khứ vì thế 
				pháp là giả huyển, không có chi là chân thật. Thí dụ khi còn bé, 
				độc ảnh cảnh gần như không có vì trong tâm em bé chẳng có cái gì 
				để nhớ cả cho nên các em chỉ sống với kiến đại tức là trực giác 
				nhiều hơn thức đại. Đến khi lớn lên thì sự thu thập kiến thức và 
				kinh nghiệm của cuộc sống dần dần đưa vào tâm và lưu giữ lại 
				trong Tàng thức (A lại da thức). Chính những ý niệm này làm căn 
				bản cho ý thức có sự so sánh phân biệt. 
				Chẳng hạn khi nhìn cái nhà 
				thì trong tâm đã bắt đầu so sánh, phân biệt đối đãi với những 
				cái nhà mà tâm đã biết trong quá khứ để cho con người biết ngay 
				rằng cái nhà này thì đẹp quá, to quá, sang quá hay ngược lại. 
				Đây chính là cội nguồn phát sinh ra vọng tưởng, phiền não khổ 
				đau. Con người có khởi niệm tham-sân-si thì cũng từ những ý thức 
				phân biệt từ pháp trần mà ra. Một thí dụ khác là khi tai nghe ai 
				nói tới me chua thì miệng chảy nước miếng. Tại sao miệng lại 
				chảy nước miếng? Bởi vì trong quá khứ lưỡi đã từng nếm vị chua 
				của me, nên tai nghe tiếng me chua thì ý thức liền so sánh và 
				cho tâm biết ý niệm chua làm con người lầm tưởng rằng mình đang 
				ăn me chua thật sự. 
				Vì là ăn tưởng tượng nên 
				tất cả những ý tưởng phát ra từ Pháp trần là không thật, 
				là  giả dối. Do đó những hình ảnh lưu lại đều do 
				tưởng niệm mà thành, như cảnh chiêm bao không có thực. Vì thế mà 
				ông Ma Ha Ca Diếp quán các pháp trần là giả huyển thì các món 
				thọ, tưởng, hư vọng phiền não nương theo pháp trần mà sinh ra 
				liền bị tiêu diệt. Ông phá trừ ý thức nên tâm không còn phân 
				biệt mà trở về với thể tánh thanh tịnh trong sáng mà chứng diệt 
				tận định để diệt luôn cái không phân biệt mà chứng vào tánh viên 
				thông, đắc thành A la hán. 
				 
				Nói tóm lại, sáu trần thì trần nào cũng là dữ kiện để tạo ra 
				thành quả viên thông, chứng đắc Niết bàn tự tại. Con người 
				thường nhận thức sai lầm rằng khi nói đến trần là nói đến nhiễm 
				ô, bất tịnh, nhưng thật ra nó chỉ nhiễm ô chỉ khi nào nó tác 
				động vào sáu căn của những ai chưa tự chủ. Nếu nói trần qua định 
				nghĩa nhiễm ô là đứng về phương diện tục đế duyên sanh hiện 
				tượng, nhưng đối với nhãn quan của những bậc giác ngộ có khả 
				năng tự chủ thì trần bây giờ vẫn là một hiện tượng biểu hiện 
				phát xuất từ Như Lai Tạng bản thể thanh tịnh. 
				Nếu con người nhìn thế gian 
				vũ trụ này bằng nhận thức khách quan thì sắc, thanh, hương, vị, 
				xúc, pháp vẫn có đầy đủ tự tánh thanh tịnh bản nhiên nên chúng 
				rất thanh tịnh và không có chi là tội lỗi, ô nhiễm cả. Nhưng bây 
				giờ nếu con người cũng nhìn thế gian này với tâm hắc ám, đầy 
				khát vọng điên cuồng thì cái nhìn khách quan tự tại biến mất mà 
				được thay bằng chủ quan, hẹp hòi, ích kỷ nên họ nhìn cái gì cũng 
				thích, cũng tham đắm say mê. Một khi vọng tưởng nổi lên, chơn 
				tâm thanh tịnh biến mất và phiền não khổ đau xuất hiện. Do đó 
				nếu con người làm chủ được bản tâm của mình thì cho dù khách 
				trần giả dối có biến hiện, mê hoặc cách mấy cũng không bao giờ 
				thay đổi thanh tâm của ta được. 
				 
				7) VIÊN THÔNG VỀ NHÃN CĂN 
				 
				Ông A Na Luật Đà đứng dậy cung kính chấp tay thưa : 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Lúc tôi mới xuất gia thường ưa thích nằm và ngủ 
				li bì. Như Lai quở trách tôi là loại súc sanh. Nghe lời quở của 
				Phật, tôi thầm khóc, tủi hổ và tự trách mình. Tôi cương quyết 
				thề không ngủ và tôi thức suốt bảy ngày đêm. Hai con mắt tôi bị 
				bệnh và hư mất. Thế Tôn thương dạy cho tôi pháp: “Lạc kiến chiếu 
				minh kim cương tam muội”. Sau khi được tam muội, tôi thấy thấu 
				suốt hiện tượng trong mười phương như trái 
				quít để trên bàn tay. Như Lai ấn chứng cho tôi quả A la hán. Nay 
				Phật hỏi nguyên nhân nào đươc viên thông, xin thưa: Theo chỗ tâm 
				đắc của tôi là: Xoay tánh thấy của nhãn căn trở về với bản thể 
				thanh tịnh bản nhiên là ưu việt nhất. 
				 
				Ông A Na Luật là anh em chú bác với Phật, con vua Bạch Phạn tức 
				là em vua Tịnh Phạn. Vì tôn giả thích ngủ nên bị Phật quở rằng: 
				“Sao lại ngủ giống như loài ốc, loài sò ngủ một giấc cả ngàn 
				năm, chẳng nghe danh hiệu Phật”. Ông hổ thẹn và tự nguyện với 
				lòng không ngủ nữa nên sau bảy ngày đêm thức trắng, mắt sưng vù 
				và sau cùng ông bị mù. 
				 
				Tánh thấy (kiến tánh) thì lúc nào cũng thường diệu, thường minh, 
				nương theo con mắt mà phát ra cái dụng thấy sắc gọi là nhãn căn. 
				Tánh thấy vốn đã diệu minh cho nên kiến dụng thì lúc nào cũng 
				minh cũng diệu. Con người thường có ý nghĩ sai lầm là cái thấy 
				là do con mắt mà có thấy tức là mở mắt là thấy còn nhắm mắt là 
				không thấy hay có sắc trần là có thấy và không có sắc trần thì 
				gọi là không thấy. Khi tánh giác diệu minh viên dung cùng khắp 
				tác động vào con người trở thành minh giác nên tánh viên dung 
				cùng khắp trở thành ngăn ngại. Thí dụ mắt thấy không ngoài sống 
				mũi, tai tuy không bị kẹt tường kẹt vách nhưng cái nghe đâu có 
				xa. 
				Trong đoạn kinh trước, Phật 
				gạn hỏi ông A Nan về cái thấy là tâm hay con mắt? Phật sau đó 
				dạy rằng: “Tâm thấy chớ không phải mắt thấy”. Vì thế có mắt 
				không tâm, không thành có thấy, có tâm không mắt cũng thấy khắp 
				mười phương. Đây là pháp môn “Lạc kiến chiếu minh kim cương tam 
				muội” tức là tánh thấy (kiến tánh) thì lúc nào cũng soi sáng, 
				xưa nay không hề lay chuyển nên gọi là Kim Cương tam muội. Ông A 
				Na Luật nương vào những lời Phật dạy, đi sâu vào bản tánh của 
				nhãn căn chứng được tánh viên thông thì cái sáng suốt của tự tâm 
				xuất hiện khiến ông thấy thấu suốt mười phương mà không có gì 
				ngăn ngại. Nhờ đó ông đạt được thiên nhãn thông thấy được tam 
				thiên đại thiên thế giới như thấy quả quít trong bàn tay, chứng 
				quả A la hán, tự tại Niết bàn. 
				 
				8) VIÊN THÔNG VỀ TỶ CĂN 
				 
				Ông Châu Lợi Bàn Đặc Ca đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật 
				rằng : 
				 
				- Tôi vì thiếu trì tụng kinh điển nên không có tuệ đa văn. Khi 
				mới gặp Phật, tôi xin xuất gia nghe học pháp Phật tôi cố nhớ một 
				bài kệ của Như Lai mà không sao nhớ nổi. Tôi gắng học suốt cả 
				một trăm ngày, nhớ đoạn trước thì quên câu sau, nhớ đoạn sau lại 
				quên câu trước. Phật thương tôi ngu muội, dạy tôi ở một nơi yên 
				tĩnh tu tập pháp môn điều hòa hơi thở ra vào. Bấy giờ tôi vận 
				dụng quán trí theo dõi từng hơi thở, từ thô đến vi tế, từng sát 
				na nhiếp ý, vận dụng tư duy, chia hơi thở thành bốn thời kỳ : 
				Hít vô gọi là “sanh”. Đầy hơi gọi là “trụ”. Thở ra gọi là “dị”. 
				Mãn hơi gọi là “diệt”. Thực hiện một thời gian, tâm tôi bừng 
				sáng rỗng rang được đại vô ngại, các lậu hoặc dứt hết thành A la 
				hán. Trước pháp tòa, Phật ấn chứng cho tôi thành quả vô học. Nay 
				Phật hỏi viên thông, theo chỗ sở hành của tôi: Tập trung tư 
				tưởng xoay vào quán hơi thở ra vào kinh mạch là pháp hành hiệu 
				quả nhất. 
				 
				Bàn Đặc Ca Châu Lợi là nói về hai anh em chớ không phải tên của 
				một người. Khi bà mẹ sinh người anh bên đường lớn nên đặt tên là 
				Châu Lợi. Về sau bà mới sinh ra người con thứ hai ở bên đường 
				nhỏ nên đặt tên là Bàn Đặc Ca. Vào một kiếp quá khứ, ông Bàn Đặc 
				Ca là một vị đại Pháp sư, nhưng vì tâm bỏn xẻn không chịu đem 
				Phật Pháp giảng giải hết cho chúng sinh vì sợ họ sẽ hơn mình nên 
				qua đến kiếp này ông trở thành một người ngu si đần độn, ngay cả 
				một câu trong bài kệ cũng không thuộc được. 
				Thấy vậy, người anh khuyên 
				ông nên hoàn tục nhưng ông rất lưu luyến cuộc sống Tăng đoàn nên 
				không chịu. Đức Phật biết được bèn dạy cho ông pháp môn “sổ tức 
				quán” tức là tập đếm hơi thở. Trong hai mươi mốt ngày liên tiếp, 
				ông quán sát theo dõi từng hơi thở dựa theo chu kỳ sinh, trụ, 
				dị, diệt. Mỗi hơi thở bắt đầu hít vào tức là sinh, hơi vào đầy 
				trong phổi là trụ. Sau đó thở ra tức là dị và cuối cùng mãn hơi 
				là diệt. Ông suy tư quán chiếu từng hơi thở thì nhận thức rằng 
				hơi thở quay cuồng theo chu kỳ sinh, trị, dị, diệt chỉ là huyển 
				ảnh của hơi gió ở trong thân. Khi ấy thì hơi thở của ông không 
				còn ra vô bình thường, mà nó trở thành một làn quang minh khiến 
				tâm trí ông bừng sáng, ngộ được tánh viên thông, chứng quả A la 
				hán. Khi tâm được khai mở, ông trở thành một người biện tài vô 
				ngại và ông là một trong mười sáu vị A la hán được Phật tin 
				tưởng cho đi hoằng pháp khắp các nơi ở Ấn Độ. 
				 
				9) VIÊN THÔNG VỀ THIỆT CĂN 
				 
				Ông Kiều Phạm Ba Đề đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật : 
				 
				- Rằng tôi mắc khẩu nghiệp trong kiếp quá khứ, nhiều đời phải 
				tật nhai mãi như trâu. Như Lai thương dạy cho tôi pháp: “Nhất vị 
				thanh tịnh tâm địa”. Nhờ đó tôi diệt phân biệt, được tam-ma-đề. 
				Tôi quán chiếu rằng: Tánh biết vị không phải do thân thể, cũng 
				không phải do ở ngoại vật. Do đó trong thì thân tâm giải thoát, 
				ngoài thì như rời bỏ thế gian. Viễn ly ba cõi như chim sổ lồng, 
				cấu nhiễm không còn, tiêu vong hóa trần tướng, pháp nhãn thanh 
				tịnh, được quả A la hán. Như Lai ấn chứng cho tôi lên hàng vô 
				học. Nay Phật hỏi phương tiện được viên thông, xin thưa: Theo 
				tôi thì “trả vị” về cho phân biệt của “thiệt căn” là ưu việt 
				nhất. 
				 
				Ông Kiều Phạm Bạt Đề trong một đời quá khứ đã từng buông lời chê 
				bai vị lão Tăng nên khi qua đến kiếp này bị quả báo miệng thường 
				nhai như trâu. Đức Phật cảm thương dạy cho ông pháp môn “Nhất vị 
				thanh tịnh tâm địa” nghĩa là quán cái tánh biết của vị (tánh 
				nếm) vốn thường thanh tịnh, không phải giả dối, không chạy theo 
				vị mặn, ngọt, đắng, cay nên gọi là nhất vị. Nói cách khác bình 
				thường con người khi ăn một món gì thì tướng lưỡi tạo sự phân 
				biệt để cho biết đó là vị mặn hay vị chua khiến con người thích 
				món ngon và chê bai món dở. Khi con người cố gắng để không còn 
				chạy theo mùi vị, không còn say đắm món nầy, món kia thì sự phân 
				biệt của tướng lưỡi dần dần tan biến. Và sau cùng sẽ nhận biết 
				được tánh nếm thường trụ, không sinh diệt của mình. Chính ông tư 
				duy quán chiếu thấy rằng tánh nếm chẳng phải trần nên chẳng phải 
				vô tri và không phải căn nên không giả dối. Khi tâm bừng sáng 
				thì các món hữu lậu, dục lậu, vô minh lậu trong thế gian không 
				còn ràng buộc và ông được thư thái như chim ra khỏi lồng, thong 
				dung tự tại, thấy xa biết rộng, không còn thọ sanh trong vòng 
				sinh tử luân hồi, chứng đắc tánh viên thông, tự tại Niết bàn. 
				 
				 
				10) VIÊN THÔNG VỀ THÂN CĂN 
				 
				Ông Tất Lăng Già Bà Ta đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật 
				rằng : 
				 
				- Lúc tôi mới phát tâm xuất gia theo Phật, thường nghe Phật dạy: 
				“Cuộc đời chẳng có gì vui”. Đang khi đi khất thực, vừa đi vừa tư 
				duy lời Phật, bỗng dưng tôi đạp phải cái gai độc. Cả mình đều 
				đau đớn. Trong lúc đau đớn, tôi quán chiếu tư duy: Giác tâm 
				thanh tịnh vốn không có cái đau và cái biết đau. Một thân thể lẽ 
				đâu lại có hai tánh biết! Nhiếp niệm không bao lâu thân tâm bỗng 
				nhiên rỗng rang thanh tịnh. Hai mươi mốt ngày sau, các lậu hoặc 
				được tiêu trừ, Phật ấn chứng cho tôi lên hàng vô học, chứng quả 
				A la hán. Nay Phật hỏi duyên cớ nào được viên thông, xin thưa, 
				đối với tôi: Nắm giữ giác tánh xem nhẹ thân căn là thành công dễ 
				nhất. 
				 
				Trong đời trước, ông Tất Lăng Già Bà Ta có quá nhiều tập khí ngã 
				mạn nên ỷ mình là người Bà la môn mà mắng chửi thần sông Hằng là 
				loài Tiểu tỳ nên khi qua đến kiếp này, ông sinh vào trong một 
				gia đình nghèo khó. Lúc mới nhập đạo, Đức Phật dạy ông nên quán 
				các pháp thế gian là khổ, không, vô thường nghĩa là thế gian chỉ 
				toàn là khổ chớ chẳng có cái gì là vui cả. Tại sao Phật lại dạy 
				“cuộc đời chẳng có gì vui” trong khi cũng chính cái cuộc đời này 
				chính Ngài có Niết bàn, đệ tử của Ngài cũng có an vui tự tại? 
				Không lẽ hễ có cuộc đời là đau khổ hết sao? Thật ra đây chỉ cách 
				nói đối với những người còn dính mắc trong phiền não vô minh nên 
				họ nhìn đâu, thấy đâu cũng toàn là tam khổ, bát khổ. 
				Nói chung khi con người còn 
				nhìn đời xuyên qua thấu kính của tham-sân-si thì nhãn thức của 
				họ bị cái vẫn đục tham đắm dục tình che phủ khiến tâm trí không 
				còn sáng suốt mà cứ nhắm mắt cắm đầu làm nô lệ cho tư kỷ cá 
				nhân. Khi không có gì thì tủi khổ mà có càng nhiều thì lòng tham 
				càng muốn thêm tức là càng thêm khổ cũng như người đang khát 
				nước mà uống nước muối cho nên càng uống thì càng khát. Nhưng 
				cũng trong cái thế gian này mà nếu chúng sinh biết diệt hết kiến 
				hoặc và tư hoặc thì cuộc sống của họ rất an vui, tâm hằng thanh 
				tịnh Niết bàn. Do đó khổ hay vui là do người chớ đâu phải do 
				cuộc đời cho nên trong kinh Duy Ma Cật có câu: “Tùy kỳ tâm tịnh, 
				tắc Phật độ tịnh” nghĩa là khi chúng sinh có tâm hồn trong sáng 
				thanh tịnh thì bất cứ ở đâu cũng có cảnh giới an nhàn, thanh 
				thoát cả. 
				 
				Ông Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều thì cũng nhìn đời nhưng bằng một 
				tâm tư âm u, ảm đạm, đen tối của kẻ chán đời yếm thế trong “Cung 
				Oán Ngâm Khúc” như sau : 
				  
				Thảo nào khi mới chôn 
				nhau 
				Đã mang tiếng khóc ban 
				đầu mà ra! 
				Khóc vì nỗi thiết tha sự 
				thế, 
				Ai bày trò bãi bể nương 
				dâu, 
				Trắng răng đến thuở bạc 
				đầu, 
				Tử, sinh, kinh, cụ làm 
				nau mấy lần. 
				Cuộc thành bại hầu cằn 
				mái tóc, 
				Lớp cùng thông như đúc 
				buồng gan, 
				Bệnh trần đoài đoạn tâm 
				toan, 
				Lửa cơ đốt ruột, dao 
				hàng cắt da. 
				Gót danh lợi bùn pha sắc 
				xám, 
				Mặt phong trần nắng rám 
				mùi dâu, 
				Nghĩ thân phù thế mà 
				đau, 
				Bọt trong bể khổ, bèo 
				đầu bến mê. 
				Mùi tục vị lưỡi tê tân 
				khổ, 
				Đường thế đồ gót rỗ kỳ 
				khu, 
				Sóng cồn cửa bể nhấp 
				nhô, 
				Chiếc thuyền bào ảnh lô 
				xô mặt ghềnh. 
				Trẻ tạo hóa đành hanh 
				quá ngán, 
				Chết đuối người trên cạn 
				mà chơi, 
				Lò cừ nung nấu sự đời, 
				Bức tranh vân cẩu vẽ 
				người tan thương. 
				Đền vũ tạ nhện giăng cửa 
				mốc, 
				Thú ca lâu dế khóc canh 
				dài, 
				Đất bằng bỗng rấp chông 
				gai, 
				Ai đem nhân ảnh nhuốm 
				mùi tà dương. 
				Mồi phú quý dữ làng xa 
				mã, 
				Bả vinh hoa lừa gã công 
				khanh, 
				Giấc Nam Kha khéo bất 
				bình, 
				Bừng con mắt dậy thấy 
				mình tay không. 
				Sân đào lý mây lồng man 
				mác, 
				Nền đỉnh chung nguyệt 
				gác mơ màng, 
				Cánh buồm bể hoạn mênh 
				mang, 
				Cái phong ba khéo cợt 
				phường lợi danh. 
				Quyền hóa phúc trời 
				tranh mất cả, 
				Chút tiện nghi chẳng trả 
				phần ai, 
				Cái quay búng sẵn trên 
				trời, 
				Mờ mờ nhân ảnh như người 
				đi đêm. 
				Hình mộc thạch vàng kim 
				ố cổ, 
				Sắc cầm như ủ vũ ê 
				phong, 
				Tiêu điều nhân sự đã 
				xong, 
				Sơn hà cũng ảo côn trùng 
				cũng hư. 
				Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ 
				độ, 
				Quán thu phong đứng rũ 
				tà huy, 
				Phong trần đến cả sơn 
				khê, 
				Tang thương đến cả hoa 
				kia cỏ này. 
				Tuồng ảo hóa đã bày ra 
				đấy, 
				Kiếp phù sinh trông thấy 
				mà đau, 
				Trăm năm còn có gì đâu, 
				Chẳng qua một nấm cổ 
				khâu xanh rì. 
				Mùi tục lụy đường kia 
				cay đắng, 
				Vui chi mà đeo đẳng trần 
				duyên. 
				Cái gương nhân sự chiền 
				chiền, 
				Liệu thân này với cơ 
				thiền phải nao. 
				Thà mượn thú tiêu dao 
				cửa Phật, 
				Mối thất tình quyết dứt 
				cho xong, 
				Đa mang chi nữa đèo 
				bồng, 
				Vui gì thế sự mà mong 
				nhân tình. 
				Lấy gió mát trăng thanh 
				kết nghĩa, 
				Mượn hoa đàm đuốc tuệ 
				làm duyên 
				Thoát trần một gót thiên 
				nhiên, 
				Cái thân ngoại vật là 
				tiên trong đời. 
				 
				Sống nhiều năm trong phủ Chúa Trịnh vì ông là cháu của Chúa 
				Trịnh Doanh nên Ôn Như Hầu đã chứng kiến sự suy tàn, sa đọa của 
				giai cấp phong kiến, thấy rõ đời sống đau khổ của những người 
				phụ nữ sống trong cung Vua Lê, phủ Chúa Trịnh. Vì thế mà ông nổi 
				tiếng với tác phẩm Cung Oán Ngâm Khúc, tác phẩm trử tình gồm 356 
				câu song thất lục bát nói về nỗi đau khổ của người cung nữ và 
				được xem là thành tựu xuất sắc nhất của thể loại “ngâm” trong 
				lịch sử văn học Việt Nam. Ông sống cùng thời với những danh nhân 
				Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, những người đã góp phần 
				cho sự phát triển của nền văn học dân tộc. Có người đánh giá thơ 
				của ông cho rằng sự thành công của Cung Oán Ngâm Khúc là do ông 
				đã học tập Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm (Nguyên tác Hán văn: 
				Đặng Trần Côn). Từ sự phản ánh hiện thực với lòng phẫn nộ và sự 
				oán hờn khi nhìn cuộc đời ảo mộng, dối trá, phù du và tuyệt vọng 
				nên Nguyễn Gia Thiều đã mượn lời cung nữ để nói lên sự bế tắc 
				của ông cũng chính là sự bế tắc của lớp nhà nho vào thời đại 
				ông. 
				 
				Thật là quá u sầu, ảm đạm, tang tóc, đau thương cho số kiếp con 
				người dưới cái nhìn của Nguyễn Gia Thiều, nhưng đạo Phật đâu có 
				phải như vậy. Chúng sinh có 84 ngàn phiền não chướng nên Đức 
				Phật mới dạy 84 ngàn phương pháp để hóa giải. Đối với đạo Phật, 
				đừng nên chấp phương tiện vì nó chỉ là nhân tức là giả mà giải 
				thoát giác ngộ mới là thật, là cứu cánh, là quả. Bằng chứng là 
				trong phần tu chứng viên thông này, Đức Phật tùy theo căn cơ, sở 
				nguyện của từng người mà giáo hóa phương tiện giúp họ đạt đến 
				cứu cánh tột cùng là giác ngộ tánh viên thông của mình và chứng 
				đắc thánh quả. Do đó tam khổ, bát khổ trong Phật giáo chỉ là 
				giáo lý phương tiện, là cách nói chớ không có gì là khổ cả một 
				khi chúng sinh đã thanh lọc những vẩn đục trong tâm. Không vui 
				là tại mình, khổ là cũng do mình, chớ đâu phải tại đời hay là do 
				ở Phật trời. Cũng thì trái ớt đó mà có người thích, người không. 
				Mình chạy theo vô minh phiền não thì phải gánh chịu vô minh 
				phiền não. Còn nếu mình diệt hết vô minh phiền não thì cuộc sống 
				sẽ trở thành thanh tịnh, thanh thoát, an vui và tự tại. Đứng về 
				phương diện tâm lý mà nói thì cái nhìn, sự hiểu biết của mình 
				đối với thế gian ảnh hưởng rất lớn cho cuộc sống của con người 
				hay nói rộng rãi thêm thì lối biết sống làm thay đổi thân tâm 
				hằng ngày mà con người không hề để ý đến. Thí dụ một người bệnh 
				mà mang trong người nhiều tư tưởng tiêu cực thì căn bệnh khó 
				lành, ngược lại một người tuy bệnh nhưng tâm hồn trong sáng, lạc 
				quan, không chấp sự sống chết thì thân cảm thấy ít đau và bệnh 
				có nhiều cơ hội chóng lành. Một thí dụ khác là khi con người quá 
				lo lắng thì thần kinh căng thẳng làm rối loạn hệ thống tiêu hóa 
				và lở loét bao tử. Ưu tư, lo lắng, phiền muộn thì người ưu tư 
				chớ tóc đâu có ưu tư thế mà người càng lo thì dễ bạc đầu. Vì thế 
				thân tâm hay tinh thần và vật chất  tuy hai nhưng mà một, 
				bất tức bất ly, tương trợ cho nhau. 
				 
				Ông Tất Lăng Già Bà Ta nghe theo lời Phật, quán những cảnh khổ 
				của thế gian trong khi đi khất thực, thình lình chân đạp phải 
				gai độc nên đau buốt toàn thân. Cái đau của thân càng làm ông 
				thấm thía cái khổ của cuộc đời. Vì vậy khi về đến tịnh xá, ông 
				thiền quán tư duy sự đau đớn của thân. Ông tự hỏi cái gì là đau 
				đớn và cái gì là chủ thể để phân biệt sự đau đớn? Không lẽ trong 
				thân lại có hai cái là vừa bị đau đớn và vừa biết đau đớn? Nhờ 
				đi sâu vào thiền định, ông ngạc nhiên khám phá ra rằng tuy thân 
				có đau đớn, nhưng tâm lại không biết sự đau đớn này. Sau cùng 
				ông nhận biết rằng thân căn của con người là hư huyển, cái gai 
				độc bên ngoài cũng là giả huyển do nhân duyên giả hợp mà sinh ra 
				cái đau. Nói cách khác đau là cái biết hư vọng nơi thân căn dựa 
				theo nhân duyên ngoại cảnh mà phát hiện có năng có sở. Nhưng 
				giác tâm thanh tịnh vốn thường bất biến, không có năng sở, không 
				có trong ngoài, không bị khổ vui làm lay động, nhưng con người 
				vì bị mê lầm chấp trước khởi ra vọng tưởng phân biệt nên chấp có 
				ngoại cảnh, có nội thân, có năng có sở đối đãi phân biệt mà cảm 
				nhận cái đau. Khi đoạn được tướng “năng sở” thì không thấy có 
				cái tướng đau, không thấy cái tướng bị đau mà chỉ còn một giác 
				tâm thanh tịnh. Lúc ấy, cái đau biến mất mà chỉ còn là tánh giác 
				hoàn toàn thanh tịnh, tâm trí rỗng rang nên ông chứng đắc tánh 
				viên thông, trở thành A la hán. 
				 
				11) VIÊN THÔNG VỀ Ý CĂN 
				 
				Ông Tu Bồ Đề đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật rằng : 
				 
				- Từ nhiều kiếp đến nay, tôi vẫn được tâm vô ngại thường trú nơi 
				không tịch. Sự vật hiện tượng trong mười phương đối với tôi trở 
				thành “chân không hóa” chẳng chút vướng víu 
				buộc ràng. Như Lai phát minh tánh giác là chân không, tôi tư duy 
				thể nhập: “Bảo minh không hải tam muội”, 
				tri kiến đồng như Phật. Tôi được Phật ấn chứng lên hàng vô học A 
				la hán. Nay Phật hỏi nhân duyên được viên thông, theo chỗ chứng 
				ngộ của tôi: Quán các tướng đều là phi tướng. Cái phi tướng đối 
				tượng cũng không lưu lại. Nhìn hiện tượng vạn pháp đúng như thật 
				của nó: “Có mà thật chẳng có gì”. Đối với tôi, đó là phương tiện 
				chinh phục ý căn hữu hiệu nhất. 
				 
				Tu Bồ Đề là cháu của trưởng giả “Cấp Cô Độc” Tu Đạt Đa, người đã 
				xây cất tịnh xá Kỳ Viên để cúng dường Phật và chư Tăng an nghĩ 
				trong những mùa an cư kiết hạ. Trong những kiếp quá khứ, tôn giả 
				Tu Bồ Đề đã từng tu thiền định về hạnh “không tịch” nên khi Ngài 
				vừa mới chào đời thì tất cả tài bảo, dụng cụ trong nhà của cha 
				mẹ bỗng dưng biến mất. Mãi đến ba ngày sau, đột nhiên những tài 
				bảo nầy mới trở lại như xưa. Đây quả là chuyện hy hữu xưa nay ít 
				có. Khi xuất gia theo Phật, ông trở thành “đệ nhất giải không” 
				là một trong mười đại đệ tử của Phật đà. Vậy thế nào là “Không”? 
				Thí dụ lúc chưa có sự hòa hợp của gạch, ngói, xi măng, cốt sắt 
				thì chưa có cái nhà vì đây chỉ là một mảnh đất trống tức là 
				không. Nhưng sau này gạch, ngói đổ bể tan rã thì cái nhà cũng 
				không còn tức là nó trở lại với tánh Không ban đầu. Vậy “Không” 
				chính là “bản lai diện mục” của tất cả mọi sự vật. Như thế tất 
				cả vạn pháp trên thế gian nầy đều là do nhân duyên hòa hợp mà 
				thành nên không có vật nào có tự tánh, có chủ thể nên chúng là 
				vô ngã tức là Không. Người mê thì thấy mọi vật trên đời này là 
				thật, là bền chắc muôn đời nên lòng tham dễ phát khởi. Ngược lại 
				người ngộ được lý “không” thì tất cả thế gian vũ trụ tuy có mà 
				cũng như không, giống như là giấc mộng. Vì thế mà ông Tu Bồ-đề 
				thể nhập “Bảo minh không hải tam muội” nghĩa là cái nhìn sáng 
				suốt thấu đáo về vạn pháp giai không của ông nó to lớn bao la 
				như biển cả vô cùng vô tận vậy. Ở đây tôn giả Tu Bồ-đề nói rằng 
				ông có tri kiến đồng như Phật có nghĩa là phải có cái tri kiến 
				về “vạn pháp giai không” cho tất cả mọi hiện tượng về thế gian 
				và xuất thế gian pháp trong đó có cả quả Vô thượng Bồ-đề nghĩa 
				là tuy thế gian vũ trụ sờ sờ trước mắt, nhưng đối với họ tất cả 
				vẫn là không nên không dính mắc. Nói cách khác không có gì trên 
				thế gian là thật cả, ngay cả chứng đắc quả vị Phật vì thật ra 
				chẳng có cái gì gọi là chứng đắc hết. Một khi chúng sinh biết 
				hồi đầu thị ngạn, quay thuyền trở lại bến xưa thì có an vui, tự 
				tại, Bồ-đề, Niết bàn chớ đâu phải chưa bao giờ biết bến xưa, nhà 
				cũ mà gọi là đắc, là được. Vì thế mà trong kinh Kim Cang, Phật 
				dạy rằng: “Ta đối với Vô thượng chánh đẳng, chánh giác cho đến 
				một chút pháp cũng không chứng đắc thì đó mới gọi là Vô thượng 
				chánh đẳng chánh giác”. Nếu còn thấy mình chứng đắc tức là còn 
				vướng mắc nơi tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sinh, tướng thọ 
				giả thì không là Như Lai được. 
				 
				Ý căn là tánh hiểu biết tất cả những hiện tượng của pháp trần. 
				Hễ có pháp trần là có ý căn cho nên nếu tiêu trừ được ý căn thì 
				pháp trần không phát khởi. Ông Tu Bồ-đề trong nhiều kiếp quá khứ 
				đã tu theo “ý căn không tịch” nghĩa là không phát khởi ý niệm, 
				tư tưởng trong tâm cho dù đó là ý niệm thiện hay ác mà quy tâm 
				về trạng thái yên tỉnh, thanh tịnh. Tại sao ông có thể đưa ý căn 
				trở về với không tịch được? Bởi vì Phật dạy trong kinh Kim Cang 
				rằng: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng; Nhược kiến chư 
				tướng, phi tướng tức kiến Như Lai” nghĩa là nếu chúng sinh muốn 
				thấy được Phật thì phải nhìn vạn pháp trong thế gian vũ trụ này 
				đều là như huyển, không có chi là thật cả. 
				Nói cách khác nếu con người 
				nhìn thấu được tánh chất phi vật chất của vật chất thì sẽ thấy 
				được Phật tức là “vạn pháp giai không” vậy. Nên biết rằng tất cả 
				vật chất có được trong thế gian là do nhân duyên trùng trùng 
				duyên khởi, tác động qua lại mà thành chớ không có cái gì mà tự 
				nó có được nên vật chất không có tự tánh, không có chủ thể vì 
				thế chúng là vô ngã tức là “không”. Vì là vô ngã nên vật chất sẽ 
				bị thoái hóa dựa theo tiến trình sinh, trụ, dị, diệt của luật vô 
				thường nên thấy đó rồi mất đó, không có chi là bền chắc cả. Nếu 
				biết thức tỉnh, con người sẽ không còn đam mê, say đắm, lưu 
				luyến, đừng vì nó mà tạo nên bao nhiêu tội nghiệp để phải gánh 
				chịu khổ đau bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp. 
				Vì thâm nhập các tướng đều 
				là phi tướng tức là vạn pháp giai không nên ông Tu Bồ-đề chứng 
				được tánh viên thông, tâm trí rỗng rang và chứng đắc A la hán.  
				Nếu đứng về mặt tục đế mà nói thì “căn” cũng ví như gốc rễ để 
				rồi từ đó sanh ra biết bao vô minh lậu hoặc mà gây ra đau khổ 
				cho cuộc sống con người. Nhưng bây giờ nếu nhìn “căn” bằng một 
				khía cạnh khác thì căn chỉ là một dạng vật chất phát xuất từ tứ 
				đại duyên sanh như vô vàn hiện tượng duyên sanh khác. 
				Thế giới vật chất hữu hình 
				biểu hiện vô vàn hình thái hiện tượng khác nhau, nhưng có một 
				điều chắc chắn là không có thứ vật chất nào là nguyên nhân của 
				tội lỗi gây ra phiền não khổ đau cho con người. Tuy trần có vô 
				vàn hiện tượng, nhưng cũng không ngoài sắc, thanh, hương, vị, 
				xúc, pháp. Tự tánh của “căn, trần” là thanh tịnh bản nhiên, 
				không ô nhiễm, tội lỗi xấu xa gì, nhưng nó chỉ gây tác hại, đau 
				thương cho những ai không làm chủ được sáu căn của mình. Vì thế 
				nếu chúng sinh biết kiềm chế sáu căn, không cho dính mắc nơi sáu 
				trần thì chẳng những “căn trần” không phải là nguyên nhân gây 
				nên tội lỗi mà ngược lại còn là những dữ kiện để chứng đắc tánh 
				viên thông, có tự tại Niết bàn.  
				 
				12) VIÊN THÔNG VỀ NHÃN THỨC 
				 
				Ông Xá Lợi Phất đứng dậy cung kính chấp tay thưa : 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Từ nhiều kiếp đến nay, sự nhận thức của tôi 
				thường thanh tịnh. Số kiếp thọ sanh lên xuống nhiều như số cát 
				sông Hằng. Do vậy mà các pháp biến hóa thế gian, một khi thấy là 
				tôi nhận thức không xa chân lý, được vô chướng ngại. Trong lần 
				gặp gỡ giữa đường, anh em ông Ca Diếp dụng ý theo tôi để thuyết 
				pháp. Các ông nói cho tôi nghe về giáo lý nhân duyên sâu xa của 
				Phật. Nhân buổi đàm đạo đó, tôi được tỏ ngộ, nhận thức được 
				rằng: “Tâm không ngần mé”. Rồi tôi theo Phật xuất gia. Trí tuệ 
				sáng suốt ngày càng viên mãn, được đại vô úy, thành A la hán 
				quả, trưởng tử Phật. Nay Phật hỏi nguyên nhân tỏ ngộ viên thông, 
				xin thưa: Theo chỗ chứng đắc của tôi thì sự nhận thấy rõ ràng, 
				nhận thức đánh giá chính xác đúng như thực của sự vật hiện tượng 
				là thành công ưu việt nhất. 
				 
				Dựa theo Duy Thức học, khi tiền ngũ thức tức là nhãn thức, nhĩ 
				thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức tiếp xúc với ngũ trần là 
				sắc, thanh, hương, vị, xúc thì chỉ thông qua “hiện lượng”. Hiện 
				lượng là sự lượng biết còn trong đệ nhất sát na chớ chưa chuyển 
				qua thành ý thức phân biệt. Sự tiếp thu tiền cảnh của tiền ngũ 
				thức cũng giống như sự tiếp thu âm thanh và hình ảnh của một 
				chiếc máy quay phim nghĩa là hình ảnh, màu sắc, cảnh giới, âm 
				thanh bên ngoài như thế nào thì chiếc máy ghi nhận y như vậy, 
				không thêm không bớt. Nói cách khác tiền ngũ thức là cái thấy 
				biết chưa có sự phân biệt cho nên công dụng của nó không có ý 
				niệm: mừng, giận, thương, ghét, yêu, sợ, phải, quấy, tốt, xấu, 
				lấy, bỏ, hơn, thua… vì vậy mà tiền ngũ thức không thể tạo nên 
				nghiệp “thiện” hay “ác” được. Thí dụ như thấy có người vào nhà 
				thì cái thấy này là nhãn thức, nhưng nếu quan sát kỷ thì nhận 
				biết người đó là người đàn ông cao lớn, tóc bạc phơ thì cái thấy 
				bây giờ là do ý thức phân biệt mà có. 
				Cũng theo Duy Thức luận thì 
				nhãn thức là một trong tám thức tâm vương mà tánh thấy chính là 
				tinh quang của tám thức soi vào năm trần mà rõ được cảnh. Nếu 
				lúc mắt mới chạm vào sắc trần thì cái thời điểm thấy sao biết 
				vậy này gọi là “hiện lượng”. Nhưng khi tâm vừa khởi sự phân biệt 
				thì gọi là “tỷ lượng” tức là thuộc về ý thức phân biệt. Sau cùng 
				“phi lượng” là sự nhận biết không đúng với chân lý mà thiên về 
				ngã kiến. Như thế nếu tiền ngũ thức chung khởi với tỷ lượng của 
				ý thức thì sự nhận biết của con người có thể đúng mà cũng có thể 
				sai tùy theo sự phân biệt đúng hay sai, khách quan hay chủ quan. 
				Nếu nhận thức đúng chân lý thì gọi là thiện bằng ngược lại là 
				ác. Nếu tiền ngũ thức chung khởi với phi lượng của ý thức thì sẽ 
				gây ra sự sai quấy hoàn toàn đối với chơn lý. 
				 
				Con người có gây ra tội cũng vì do mê, do bất giác vô minh. Do 
				đó, nếu chúng sinh chỉ cần cảnh giác cội nguồn của phiền não là 
				tham-sân-si, mạn… để tâm trí được sáng suốt không mê thì sẽ trở 
				thành người giác. Nói cách khác đừng để kẻ giặc cướp vô minh 
				phiền não vào nhà “tánh giác diệu minh” cướp phá sự nghiệp trí 
				tuệ giải thoát giác ngộ của ta. Tóm lại, chỉ cần “không mê” thì 
				ta là “giác” và chỉ cần không “vọng” thì “chơn” hiển bày. 
				Do vậy ý thức ngoài hiện 
				lượng ra, còn có thêm tỷ lượng và phi lượng nên mới có câu “tâm 
				viên ý mã” là vậy.  Xá Lợi Phật được sinh ra trong một gia 
				đình thuộc dòng Bà la môn. Thân phụ của tôn giả đã từng là một 
				luận sư nổi tiếng của đạo Bà la môn. Thân mẫu, trong thời gian 
				mang thai Ngài thì tâm trí trở nên linh mẫn khác thường cho đến 
				người em ruột là Câu Hi Na (Kotthita) vốn là một tay nghị luận 
				nổi tiếng lúc bấy giờ mà cũng phải chịu thua bà. Lúc mới lên tám 
				tuổi, Xá Lợi Phất đã làu thông kinh sử. Khi lớn lên, tôn giả trở 
				thành một thanh niên cao lớn, nét mặt thanh tú, đối mắt có thần, 
				tay dài quá gối và có cái phong độ của một nhà học giả trứ danh. 
				Trong giới học thuật lúc 
				bấy giờ, không ai là không biết đến đại danh của chàng thanh 
				niên “hậu sinh khả úy” đó. Khi được hai mươi tuổi, Xá Lợi Phật 
				xin phép song thân đi du phương học đạo, tìm cầu chân lý. Đầu 
				tiên ông đến thọ giáo với một thầy Bà la môn tên là San Xà Da 
				(Sanjayabelatthiputta) và cũng chính nơi này, Xá Lợi Phất kết 
				bạn với Mục Kiền Liên. Một thời gian sau, vì thấy San Xà Da 
				không đủ khả năng làm thỏa mãn ước vọng của mình, Xá Lợi Phất từ 
				giả để đi nơi khác. Cho đến một hôm, Xá lợi Phất bỗng nhìn thấy 
				tỳ kheo A Thị Thuyết (Mã Thắng, A Xả Bà Thể, Assja) là một trong 
				năm vị tỳ kheo đầu tiên xuất gia làm đệ tử Phật, đã từng nhiều 
				năm tu khổ hạnh với dáng vẻ trang nghiêm và mỗi cử chỉ, đi, đứng 
				đều tỏ rỏ oai nghi tế hạnh làm tôn giả cảm thấy tâm hồn rung 
				động. 
				 
				Xá Lợi Phất hỏi : 
				 
				- Bậc tôn sư của Ngài là ai? Và thường dạy Ngài những đạo lý gì? 
				 
				- Thầy tôi là người thuộc dòng họ Thích Ca, người ta thường gọi 
				là Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài thường dạy cho chúng tôi về chân 
				lý của vũ trụ và nhân sinh mà kẻ trí óc cạn cợt như tôi không 
				thể nào lãnh hội hết được. Giáo lý thầy tôi thường giảng dạy mà 
				tôi ghi nhớ nhiều nhất là như vầy: 
				 
				“Các pháp do nhân duyên sinh, 
				Và cũng lại do nhân duyên mà diệt”. 
				Và người còn dạy thêm rằng : 
				“Tất cả các hành nghiệp đều là vô thường, 
				Đều là pháp sinh diệt. 
				Và một khi chấm dứt được sự sinh diệt, 
				Thì có được sự an lạc trong cảnh giới Niết bàn tịch tịnh”. 
				 
				Xá Lợi Phất cảm thấy như trời long đất lở, như ánh sáng chói lòa 
				của mặt trời chiếu ngay trước mắt, bao nhiêu đám mây nghi ngờ về 
				các vấn đề nhân sinh vũ trụ từ trước đến nay bỗng dưng được quét 
				sạch. Từ đó Ngài đến xin quy y và trở thành “đệ nhất trí tuệ” 
				trong số mười vị đại đệ tử của Phật đà. 
				 
				Con mắt thịt thì gọi là phù trần căn, còn bên trong con ngươi có 
				những giây thần kinh bao bọc võng mô thì gọi là tịch sắc căn. Do 
				đó thức nương gá theo cái căn đó mà cho ta cái thấy tức là nhãn 
				thức. Bình thường con mắt đâu có tội lỗi xấu xa gì, nhưng con 
				người vì không làm chủ được nhãn thức để có vui có buồn, có 
				thương có ghét, có phải có quấy, có hơn có thua nên mới có đau 
				khổ. Còn nếu thấy thì cái gì cũng thấy, nhưng đừng đem ý niệm 
				vào tâm tức là đừng cộng nhãn thức với ý thức mà có sự phân biệt 
				thì cái thấy kia đâu có phải là nguyên nhân của phiền não khổ 
				đau nên không có thấy ghét, thấy thương, thấy mừng, thấy giận… 
				Thật chất của nhãn thức là hiện lượng tức là vô tư, khách quan 
				chớ không phải là tỷ lượng hay phi lượng vì thế cái tánh thấy 
				không hề có thương ghét, phải quấy gì hết. 
				 
				Nhờ có nhãn thức tức là cái thấy biết đúng, nhận thức đánh giá 
				chính xác đúng như thật khiến ông Xá Lợi Phất nhìn thế gian rất 
				rõ ràng, không sai chân lý cho nên dựa theo thuyết nhân duyên mà 
				ông đã nghe được thì con người ông có ngày hôm nay là do biết 
				bao nhân duyên sinh khởi mà tạo thành. Khi duyên đủ thì sinh và 
				khi duyên hết, thân tan và con người theo nghiệp lực tái sinh 
				vào kiếp khác. Cứ thế mà xoay vần, khi lên khi xuống, vô cùng vô 
				tận trong thế gian nầy. Lý nhân duyên sanh nghĩa là tất cả vạn 
				pháp nương gá, tác động qua lại với nhau mà sinh khởi và trong 
				sự nương gá đó nếu các pháp đồng chủng thì tương hợp, dị chủng 
				tương xích, đồng tánh tương cự và dị tánh thì tương để. Các pháp 
				trong thế gian này nhân duyên trùng trùng mà sinh khởi, nhân 
				thành duyên, duyên thành nhân, nhân này duyên nọ rồi nhân nọ 
				duyên này tiếp nối không ngừng mà tác tạo ra nhân sinh, thế 
				giới, vũ trụ. 
				 
				Trong kinh Tỳ kheo Na Tiên, vua Milinda hỏi Tỳ Kheo về nhân 
				duyên sinh như sau: 
				 
				- Bạch Đại đức, trên thế gian này có vật nào bỗng dưng mà tự 
				nhiên sinh ra không? 
				 
				- Tâu Đại vương! Không có vật nào bỗng dưng mà tự nhiên sinh ra 
				cả. Hết thảy đều phải có sở nhân. 
				 
				Na Tiên bèn hỏi ngược nhà vua : 
				 
				- Cái cung điện mà nhà vua đang ngự đây, phải chăng là do tự 
				nhiên sanh ra hay do tay người kiến tạo? 
				 
				- Do tay người kiến tạo. Cây thì đốn trong rừng về để làm kèo 
				cột… Nhân công cả đàn ông lẫn đàn bà xúm lại, kẻ cưa người đẽo, 
				kẻ đắp người tô, ai lo tròn việc ấy, mới kiến tạo xong tòa cung 
				điện này. 
				 
				- Cũng như thế đó, con người cũng do yếu tố hòa hợp lại mà 
				thành. Mọi vật không thể bỗng không mà sanh ra được. Hết thảy 
				đều có sở nhân, chứ không do tự nhiên mà có. 
				 
				- Xin cho thí dụ. 
				 
				- Ví như nhạc công khảy đàn. Nếu không có dây, phiếm và tay 
				người khảy… thì khiến phát ra âm thanh trầm bổng nhặt khoang 
				được không? 
				 
				- Thưa không. 
				 
				- Con người và vạn vật trong thế gian cũng như thế đó. Không thể 
				bỗng dưng mà có sinh ra. Hết thảy đều phải có sở nhân. Các sở 
				nhân ấy kết hợp lại với nhau, tạo thành sự sự vật vật ngàn sai 
				muôn khác. Đó là nhân duyên sanh vậy. Chớ không thể nào có tự 
				nhiên sanh. 
				 
				Tâm không có ngằn mé nghĩa là tâm thì bao la vô cùng vô tận, hòa 
				đồng chân lý vũ trụ vì thế tâm trong đạo Phật phải được hiểu là 
				Như Lai Tạng bản thể (tâm) chứa đựng tất cả những chủng tử (hạt 
				giống) để duyên khởi hình thành ra tất cả hiện tượng vạn pháp 
				trong cái thế giới vũ trụ bao la này. Vì tâm không giới hạn nên 
				khi chúng sinh thể nhập được chơn tâm thường trú, thể tánh tịnh 
				minh rồi thì cái tâm này mới có thể hòa đồng với chơn không 
				được. 
				 
				Vì có nhận thức đúng về lý nhân duyên nên tỏ ngộ chân lý giúp 
				ông Xá Lợi Phất chứng đắc tánh viên thông, thành quả A la hán, 
				có được Niết bàn. 
				 
				13) VIÊN THÔNG VỀ NHĨ THỨC 
				 
				Bồ-tát Phổ Hiền đứng dậy cung kính chắp tay bạch 
				Phật : 
				 
				- Rằng tôi từng làm Pháp vương tử cho các Như Lai nhiều như cát 
				sông Hằng. Mười phương Như Lai dạy các đệ tử Bồ-tát tu hạnh Phổ 
				Hiền chính là do dựa theo đức tinh tấn của tôi mà đặt ra cái tên 
				Phổ Hiền Hạnh. 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Tôi sử dụng tánh nghe của tâm mà nhận biết 
				nguyện vọng của chúng sanh, nếu có chúng sinh phát hạnh Phổ 
				Hiền. Do vậy, giả sử ở một phương khác, cách ngoài hằng sa thế 
				giới, có chúng sinh phát hạnh Phổ Hiền thì liền trong lúc ấy, 
				tôi cỡi voi sáu ngà, phân thân trăm nghìn đến chỗ người ấy. 
				Phỏng sử người kia nghiệp chướng sâu dày chưa thấy được tôi, tôi 
				cũng thầm kín xoa đầu an ủi ủng hộ khiến cho sở nguyện thành 
				tựu. Nay Phật hỏi nguyên nhân tu chứng viên thông, tôi xin thưa: 
				Sử dụng tánh nghe của nội tâm mà nhận biết tự tại, đối với tôi 
				là pháp môn ưu việt nhất. 
				 
				Khi nói về giáo nghĩa phương tiện, Bồ-tát Phổ Hiền thường thị 
				hiện cởi voi trằng sáu ngà có nghĩa là Ngài dùng đại hạnh hóa độ 
				chúng sinh, đưa họ từ bờ mê đến bến giác. Con voi trắng sáu ngà 
				tượng trưng cho Lục độ là Bố thí, Trì giới, Tinh tấn, Nhẫn nhục, 
				Thiền định và Trí tuệ. Mặc dù bể khổ thì rộng lớn mênh mông còn 
				chúng sinh thì vô lượng, nhưng Ngài vẫn không ngại nhọc nhằn 
				tiếp tục cứu vớt chúng sinh kiếp này sang kiếp khác. Với chiếc 
				chèo bố thí, cánh buồm tinh tấn, mục tiêu thiền định, tay lái 
				trí tuệ, Phổ Hiền Bồ-tát luôn kiên nhẫn tiến tới mà chẳng ngại 
				sóng gió để cứu giúp chúng sinh. 
				 
				Thấy Phổ Hiền Bồ-tát là thấy chân lý cho nên con người phải 
				tránh xa mọi ảo vọng để trở vế với chân lý. Gạt bỏ mọi vô minh, 
				đừng lấy chân làm giả mà hãy dùng trí tuệ mà nhìn thẳng váo chân 
				lý để được giác ngộ như chư Phật. Mười đại hạnh Phổ Hiền là: 
				 
				1.Lễ kính chư Phật: 
				 
				Lễ kính chư Phật ở đây không có nghĩa là lễ lạy tượng Phật, mà 
				chư Phật ở đây là ám chỉ cho tất cả mọi chúng sinh vì ai ai cũng 
				đều có Phật tánh như nhau. Giáo lý liễu nghĩa đại thừa thì chú 
				trọng Phật tánh tức là tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mỗi 
				chúng sinh. Đó là: 
				 
				1) Pháp trí thanh tịnh lễ: Chúng sinh phải nhìn thấy cho được sự 
				thanh tịnh của nội tâm để kiểm tra tư tưởng của mình. Tâm thức 
				tức là tư tưởng thì biến chuyển không ngừng cho nên chúng sinh 
				phải biết nó đang nghĩ gì, nó đang nói gì và nó đang muốn làm 
				gì. Nếu ý thiện thì lấy còn ý xấu, ý ác thì bỏ ngay. 
				 
				2) Chánh quán tâm thành lễ: Hằng ngày trong mọi uy nghi như đi, 
				đứng, nằm, ngồi chúng sinh đều có thể suy tư quán chiếu hay gọi 
				là hành thiền, tọa thiền hay ngọa thiền để xoay tâm mình trở về 
				với chánh đạo và tránh xa tà kiến. 
				 
				3) Biến nhập pháp giới lễ: Biến tâm mình trở thành rỗng rang để 
				hòa nhập vào vủ trụ bao la mà không cần một đối tượng để không 
				còn vui buồn, hờn giận, thương ghét, nhân ngã bỉ thử… Tâm hồn 
				con người hoàn toàn rỗng rang thanh tịnh được xem như hòa tan 
				vào trong hư không vô tận để buông bỏ tất cả. Trạng thái sống 
				như vậy trong thời gian đó là biến nhập pháp giới lễ vậy. 
				 
				4) Thực tướng bình đẳng lễ: Chúng sinh phải thấy cho được tính 
				cách vô tướng của vạn pháp vì thật tướng là vô tướng. Tất cả các 
				pháp là do duyên sanh nên không có chủ tể hay tự tánh nên không 
				có vật gì là vĩnh viễn tồn tại, bền chắc vì thế chúng sinh dễ 
				buông xả tất cả. Vì vạn pháp giai không duyên sanh như huyễn nên 
				con người có thể coi thường cả sinh, lão, bệnh, tử của mình, coi 
				thường cả sự thành, trụ, hoại, không của vủ trụ và coi thường 
				ngay cả sinh, trụ, dị, diệt của cuộc đời nên lúc nào cũng an vui 
				tự tại. 
				 
				Thực hành được như thế thì tuy không lễ lạy trước Đức Phật mà 
				chính chúng ta đã lễ lạy rồi vậy. Nếu chúng sinh không nhận thức 
				được Phật tâm của mình để sống với cái tự tánh thanh tịnh bản 
				nhiên để có an vui tự tại mà cầu Phật tướng bên ngoài thì chỉ 
				gởi gắm tâm hồn vào nơi vô định. Tu hành theo hình tướng bề 
				ngoài thì dĩ nhiên không có kết quả. 
				 
				2. Khen ngợi Như Lai 
				3. Cúng dường khắp cả 
				4. Sám hối nghiệp chướng 
				5. Tùy hỷ công đức 
				6. Thỉnh Phật chuyển pháp luân 
				7. Thỉnh Phật thường ở đời 
				8. Thường theo học Phật 
				9. Hằng tùy thuận chúng sinh 
				10. Hồi hướng khắp hết. 
				 
				Đức Phổ Hiền Bồ-tát đã sử dụng tánh nghe của nội tâm mà nhận 
				biết tiếng cầu cứu của chúng sinh. Vậy Ngài sử dụng tánh nghe 
				như thế nào? Nghe bằng tự tánh không phải là lối nghe thông 
				thường bằng nhĩ căn mà chỉ là tánh nghe trong nhĩ căn tức là cái 
				lý thể vô phân biệt. Với tánh nghe này, dù có âm thanh hay không 
				vẫn được sáng tỏ rõ ràng, không sai sót cũng như tấm kiếng cho 
				dù có hình hay không thì kiếng vẫn sáng tỏ. Khi con người chú 
				tâm vào tự tánh thì gọi là nhập lưu, vọng ngoại theo tiếng là 
				xuất lưu. Do đó, khi có thể lìa bỏ mọi âm thanh (thanh trần) 
				cũng còn gọi là phủi bỏ trần cảnh, dùng cách nhập lưu trở về tự 
				tánh nghĩa là hành giả không chú tâm vào tiếng bên ngoài mà chỉ 
				hướng vào trong tánh nghe, an trụ lặng lẽ thì những phân biệt 
				thô thiển không còn nữa và lúc đó tánh nghe sẽ hiện rõ như mặt 
				trăng mùa thu trong sáng. Nếu trong một thoáng, con người chú 
				tâm đến âm động bên ngoài thì tánh nghe sẽ mờ mịt, không còn 
				sáng suốt nữa. Vì vậy khi nhập lưu hành giả đừng bao giờ quan 
				tâm đến động tịnh thì mới thành tự tánh bổn định được. 
				 
				Tất cả thế gian, vũ trụ, muôn sinh, vạn vật, trời, Phật, Thánh, 
				thần, A tỳ, súc sinh, địa ngục đều phát khởi từ tâm. Do đó cứ 
				mỗi giây, mỗi phút con người sống một trong thập pháp giới đó. 
				Thật vậy, tâm là cội nguồn của chư Phật, là biển của muôn pháp, 
				là đất tánh của chúng sinh. Đất thì sinh ra muôn sinh vạn vật 
				còn tâm thì bao gồm muôn pháp, trăm khéo ngàn hay, huyền cơ diệu 
				lý, mỗi mỗi đều từ tâm dựng lập. Vì thế khi chúng sinh phát hạnh 
				tinh tấn thì tâm ấy chính là tâm Phổ Hiền chớ đừng hiểu là Ngài 
				Phổ Hiền vì nghe biết nguyện vọng chúng sinh nên từ xa đến để 
				xoa diệu niềm đau nổi khổ. Đây là lối “văn dĩ tải đạo” nghĩa là 
				dùng lời văn mà chuyên chở đạo lý bên trong thế thôi. 
				Còn con voi trắng sáu ngà 
				phải được hiểu là tượng trưng cho sự kiên cường, sức chịu đựng 
				bền bỉ của Bồ-tát. Do đó dựa theo liễu nghĩa đại thừa thì Phổ 
				Hiền Bồ-tát cởi voi trắng sáu ngà là chỉ cho chúng sinh đã phát 
				tâm tinh tấn, kiên cố, chịu đựng bền bỉ không thoái bước trên 
				con đường Vô thượng Bồ-đề chớ đừng sống trong ảo tưởng cho rằng 
				có Ngài Phổ Hiền cởi voi trắng sáu ngà thật mà trông chờ, mong 
				đợi, van xin, cầu lạy. Đạo Phật dạy chúng sinh tin sâu vào nhân 
				quả nghĩa là mình đầu tư cái nhân bao nhiêu thì chỉ gặt hái 
				chừng ấy quả, không cầu không xin ai cả vì có cầu cũng chẳng 
				được nào chỉ tăng trưởng lòng tham tức là tăng thêm nỗi khổ mà 
				thôi. Vì xử dụng tánh nghe được viên mãn nên Ngài Phổ Hiền chứng 
				đắc tánh viên thông, tự tại Niết bàn. 
				 
				14) VIÊN THÔNG VỀ TỶ THỨC 
				 
				Ông Tôn Đà La Nan Đà đứng dậy cung kính chắp tay thưa với 
				Phật : 
				 
				- Lúc tôi mới xuất gia theo Phật học đạo, trong khi tu 
				Tam-ma-đề, tâm thường tán loạn. Đức Thế Tôn dạy tôi quán điểm 
				trắng ở chót mũi. Tôi bắt đầu thực hành, trải qua thời gian hai 
				mươi mốt ngày, thấy hơi thở trong mũi ra vào như khói, thân tâm 
				trong sáng như ngọc lưu ly. Tướng khói lần lần không còn, tâm 
				tôi được khai ngộ, các lậu tận sạch trong, thành A la hán. Thế 
				Tôn thọ ký cho tôi thành quả Bồ-đề. Nay Phật hỏi sở nhân được 
				viên thông, xin thưa: Đối với tôi tập trung ý niệm, quán hơi thở 
				và điểm trắng ở tỷ căn là thành tựu hữu hiệu nhất. 
				 
				Ông Nan Đà có người vợ tên là Tôn Đà La vì thế kinh này gọi ông 
				là Tôn Đà La Nan Đà để tránh ngộ nhận ông với những ông Nan Đà 
				khác. Ông xuất gia theo Phật là người rất thông minh, giữ gìn 
				đúng giới luật, nhưng thỉnh thoảng lại nhớ đến người vợ đẹp, tâm 
				thường tán loạn nên tu các pháp quán không có kết quả. Đức Phật 
				dạy ông nhiếp niệm quán điểm trắng ở chót mũi. Ông tinh tấn tu 
				pháp quán ấy rồi trải qua thời gian hai mươi mốt ngày, ông vào 
				được định rồi đưa tâm theo hơi thở ra vào. Tâm theo hơi thở ra 
				thì hiện thành thế giới và khi tâm theo hơi thở vào thì tất cả 
				đều không. Cứ như thế cho đến lúc thấy hơi thở thành như khói, 
				rồi thành sắc trắng và sau cùng hóa thành hào quang sáng chói 
				soi khắp mười phương thế giới. 
				Trong ngũ uẩn thì hành uẩn 
				là nơi tư tưởng phát sinh như dòng suối liên tục không ngừng. Ý 
				niệm trước vừa dấy khởi thì liền bị thay thế bởi ý niệm sau cho 
				nên tâm con người chất đầy vọng tưởng. Ở đây Đức Phật dạy ông 
				Tôn Đà La Nan Đà quán vào hơi thở nghĩa là định tâm của mình vào 
				hơi thở mà quên đi tất cả những hiện tượng, ý niệm sinh diệt 
				khác. Khi tâm đã bắt đầu cô động, ý nghĩ không còn phát hiện thì 
				ngay vào thời điểm đó tất cả những tư tưởng tham-sân-si biến mất 
				khiến tâm ông rỗng rang thanh tịnh tột cùng. Một khi tâm được 
				thanh tịnh không còn bị ngoại trần “sắc, thanh, hương, vị, xúc” 
				hay nội trần “pháp” quấy phá thì ông phá được ngã chấp, chứng 
				được ngã không mà trở thành A la hán, chứng đắc tánh viên thông 
				tự tại. 
				 
				15) VIÊN THÔNG VỀ THIỆT THỨC 
				 
				Ông Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử đứng dậy cung kính chấp tay 
				bạch Phật : 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Tôi từ nhiều kiếp đến nay biện tài vô ngại, 
				tuyên thuyết các pháp : khổ, không, hiểu sâu thật tướng cho đến 
				những pháp môn bí mật như hằng sa của Như Lai, tôi có thể diễn 
				giảng trước đại chúng không hề có sự sai lầm và sợ sệt. Thế Tôn 
				biết tôi có đại biện tài, dạy tôi tuyên dương chánh pháp, giúp 
				Phật chuyển pháp luân. Tôi nhờ giảng nói chánh pháp mà được quả 
				A la hán. Thế Tôn ấn chứng cho tôi là “thuyết pháp đệ nhất”. Nay 
				Phật hỏi nguyên nhân được viên thông, xin thưa: Tôi dùng pháp âm 
				hàng phục tà ma ngoại đạo, tiêu trừ hoặc lậu là ưu việt nhất. 
				 
				Phú Lâu Na sinh ra trong một gia đình thuộc hạng giàu có ở Ấn 
				Độ, nhưng khi lớn lên, ông nhận biết rằng ái ân, tài bảo của thế 
				gian là giả tạm, có lúc biệt ly tan rã. Chỉ có một điều quan 
				trọng nhất của cuộc đời là cầu cho mình thấu biết một chân lý 
				tối thượng nên mới quy y theo Phật. Vì trong nhiều kiếp quá khứ, 
				ông có biện tài vô ngại, tuyên duyên chánh pháp mà trở thành 
				“thuyết pháp đệ nhất”. Khi đã đi sâu vào Phật pháp, con người sẽ 
				phát sinh tứ vô ngại nghĩa là có pháp vô ngại, nghĩa vô ngại, từ 
				vô ngại và lạc thuyết vô ngại. 
				 
				1) Pháp vô ngại: Khi đã thành tựu trí tuệ thì nhìn vạn pháp thấy 
				cái gì cũng đúng với chân lý nên khi thuyết pháp biến tất cả các 
				pháp trở thành Phật pháp. Thí dụ như khi thấy lá rụng, tuyết rơi 
				thì nghĩ ngay đến sự tạm bợ, vô thường. 
				 
				2) Nghĩa vô ngại: là biết đúng nên nói đúng, nói chánh ngữ, đúng 
				nghĩa, không sai chân lý. 
				 
				3) Từ vô ngại: là lời nói trôi chảy, không ngăn ngại. 
				 
				4) Lạc thuyết vô ngại: là càng nói càng 
				thêm phấn khởi, dồi dào phong phú chớ không bao giờ bị bế tắc. 
				 
				Đứng về phương diện ý thức, tư tưởng thì tứ vô ngại được gọi là 
				tứ vô ngại trí tức là do trí tuệ mà phát sinh ra bốn thứ vô 
				ngại. Còn dựa trên ngôn từ diễn đạt mà nói thì gọi là tứ vô ngại 
				biện tức là tứ vô ngại biện tài. Sau cùng khi chúng sinh nhìn 
				kinh điển mà có thể nhận thức, thấy biết ngay thì gọi là tứ vô 
				ngại giải, nghĩa là đọc kinh thì biết ngay ý nghĩa mà khỏi cần  
				nghiên cứu. 
				 
				Vì có được tứ vô ngại nên tôn giả tuy thuyết pháp nhưng tâm 
				không rời pháp giới tánh. Đức Phật biết ông có tài biện thuyết 
				lớn lao nên dạy ông tu hạnh thuyết pháp. Do thuyết pháp đứng 
				đắn, đúng với chân lý, dùng ngọn lưỡi thay ánh thép quét sạch tà 
				ma ngoại đạo nên ông chứng được tánh viên thông, đắc quả A la 
				hán. 
				 
				16) VIÊN THÔNG VỀ THÂN THỨC 
				 
				Ông Ưu Bà Ly đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật : 
				 
				- Rằng chính tôi theo Phật vượt thành xuất gia. Tôi thấy Như Lai 
				sáu năm cần khổ, cuối cùng hàng phục tà ma, chế ngự ngoại đạo, 
				giải thoát các lậu thế gian. Phật dạy tôi trì giới, giữ gìn tánh 
				nghiệp, giới nghiệp của thân, miệng, ý 
				giữ vẹn ba nghìn oai nghi, tám vạn tế hạnh. Nhờ vậy, thân tâm 
				tịch tịnh thành quả A la hán. Nay kỷ cương trong đại chúng, Như 
				Lai ấn chứng tôi là “trì luật đệ nhất”. Hôm nay Phật hỏi phương 
				tiện được viên thông, xin thưa: Đối với tôi do giữ gìn thân được 
				thanh tịnh. Thân đã thanh tịnh thì tâm sẽ thanh tịnh sau. Đó là 
				phương pháp uốn dẹp tu sửa thân tâm hữu hiệu nhất. 
				 
				Ông Ưu Bà Ly xuất thân từ dòng hạ tiện Thủ Đà La cho nên suốt 
				cuộc đời chỉ được làm nô bộc cho kẻ khác mà thôi. Lớn lên ông 
				trở thành người thợ hớt tóc. Nhờ tánh thuần lương trung hậu, 
				chẳng bao lâu ông được vào Hoàng cung hớt tóc cạo râu cho các 
				vương tôn công tử. Do vậy mà khi Đức Thế Tôn về thăm lại gia 
				đình, ông được chọn để cạo tóc cho Phật. Về sau bảy vị vương tử 
				xuất gia, ông cũng quyết chí quy y theo Phật và chẳng bao lâu 
				sau trở thành “đệ nhất trì giới” của Phật đà. 
				 
				Phật biết ông là người thẳng thắn, cương trực mà lại thuần lương 
				trung hậu nên dạy ông tu pháp trì giới. Ông kiên trì giữ gìn 
				tánh hạnh cho đến ba ngàn uy nghi, tám vạn tế hạnh ông đều giữ 
				được thanh tịnh từ trong đến ngoài. Trong Phật giáo, Giới là 
				cánh cửa để vào căn nhà giác ngộ bởi vì có giới thì tâm mới định 
				mà tâm định thì trí tuệ sẽ sinh. Tuy kinh Lăng Nghiêm thuộc về 
				lối tu “Tự tánh bổn định”, nhưng phần sau Đức Phật dạy muốn có 
				cái định này chúng sinh vẫn phải tránh xa tánh nghiệp là “dâm, 
				sát, đạo, vọng” tức là phải tu “giới” trước vậy. Tánh nghiệp là 
				những điều thể tánh tuy không ác, nhưng nó mở đường cho tội lỗi 
				có cơ hội phát tác như rượu chè, cờ bạc… Các vị xuất gia phải 
				thọ 250 giới rồi đem nhân với 4 cử động đi, đứng, nằm, ngồi 
				thành ra 1000 và nhân nó với 3 tụ giới thành ra 3000 oai nghi. 
				Lấy 3000 oai nghi này nhân với 7 chi là sát, đạo, dâm, lưỡng 
				thiệt, vọng ngôn, ác khẩu, ỷ ngữ thành ra 21000. 
				Sau cùng nhân 21000 cho 4 
				phần phiền não là đa tham, đa sân, đa si, tham-si đồng phần 
				thành ra 84000 tế hạnh mà một vị tỳ kheo phải giữ gìn, không 
				được khuyết phạm giới nào. Nếu thân thường ở trong giới và một 
				khi giới đã thanh tịnh thì thân ấy là thân tịch diệt và tâm ấy 
				chính là tâm chơn thường diệu giác, cho dù có ở trong chốn bụi 
				trần mà không bao giờ ô nhiễm như diệu liên hoa vậy. Giới là 
				khuôn vàng thước ngọc, là kim chỉ Nam để tránh đi lầm đường lạc 
				lối, vào chỗ đọa lạc. Vì tầm quan trọng đó mà trước khi nhập 
				diệt, Đức Phật dạy rằng: “Vào thời không có Phật hãy lấy giới 
				luật làm thầy”. Giữ giới là có giải thoát nên ông Ưu Bà Ly thân 
				được tự tại và tâm được thông suốt. Cũng vì có thân tâm đều vắng 
				lặng trong suốt nên ông Ưu Bà Ly chứng được tánh viên thông, đắc 
				thành A la hán. 
				 
				 
				17) VIÊN THÔNG VỀ Ý THỨC 
				 
				Ông đại Mục Kiền Liên đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật 
				rằng : 
				 
				- Lúc nọ tôi đi khất thực giữa đường được ba anh em ông Ca Diếp 
				: Ưu Lâu Tần Loa, ông Dà Gia và Na Đề giảng nói lý nhân duyên 
				thậm thâm của Phật, tâm tôi bừng ngộ thông suốt rỗng rang. Như 
				Lai ban cho cà sa mặc vào thân, râu tóc tự cạo. Đại chúng suy 
				tôn tôi là “thần thông đệ nhất” trong hàng vô học A la hán. Nay 
				Phật hỏi viên thông, xin thưa: Tôi xoay ý thức trở về tánh sáng 
				suốt trạm nhiên. Giống như lóng nước đục, lóng nước lâu trở về 
				với tự thể trong sạch. Đó là phương tiện tu sửa đối với tôi hữu 
				hiệu nhất. 
				 
				Tôn giả Mục Kiền Liên cũng như Xá lợi Phất sau nghe đạo lý nhân 
				duyên thì tâm chợt bừng ngộ, tâm trí rỗng rang, thần thông diệu 
				dụng nên được Phật tặng cho danh hiệu “đệ nhất thần thông” trong 
				số mười vị đại đệ tử của Phật đà. Trong đạo Phật, thần thông 
				không phải là điều tối quan trọng vì bất cứ vị A la hán nào cũng 
				có. Cái khác nhau giữa Phật giáo và ngoại đạo là tuy ngoại đạo 
				cũng luyện được năm phép thần thông, nhưng tâm họ chưa trong 
				sạch, không thanh tịnh cho nên khi không còn luyện thì thần 
				thông biến mất. 
				Ngược lại thần thông của 
				Phật giáo là do tâm thanh tịnh mà có nên thường hằng, không bao 
				giờ mất. Ngày xưa ngoại đạo có khi dùng cả bốn, năm chục năm để 
				luyện cho mình có thể đi trên mặt nước hay bay qua ngọn núi… 
				nhưng đi trên mặt nước hay bay qua ngọn núi thì có chi là tuyệt 
				vời mà phải mất cả đời người để tu luyện! Ngày nay con người chỉ 
				cần bỏ ra vài trăm đô la là có thể bay trên không 4, 5 chục ngàn 
				bộ dễ dàng. Hoặc cả phái đoàn bốn, năm trăm người từ Mỹ cùng bay 
				qua Ấn Độ để hành hương chớ đâu như Tề Thiên Đại Thánh chỉ có 
				một Đường Tăng mà không đằng vân đem theo được. 
				Ngay cả những người tự cho 
				mình có thần thông này, diệu dụng nọ, nhưng các ông các bà này 
				cũng phải đứng sắp hàng ở phi trường hàng giờ chờ đi máy bay. 
				Những chiếc tàu ngầm nguyên tử có thể chở mấy trăm thủy thủ đoàn 
				lặn sâu tận lòng đại dương cả năm trời mới nổi lên. Hiện tại có 
				một chiếc du thuyền lớn nhất thế giới cao trên mười mấy tầng, 
				thiết kế đầy đủ như là một khu phố trến mặt nước tên là Oasis mà 
				người Mỹ gọi là The Biggest ship: "Oasis" or is it a floating 
				town? hay những chiếc hàng không mẫu hạm có thể xuyên khắp năm 
				châu bốn bể. 
				Con người đâu cần thần 
				thông mà vẫn bay đến mặt trăng thăm chị Hằng, chú cụi! Hoa Kỳ và 
				Nga đã thiết lập những trạm ngoài không gian mà con người có thể 
				ở trên đó cả năm, đánh cờ uống rượu khác gì những vị tiên. Hoặc 
				trong những thập niên tới con người có thể đến thăm những hành 
				tinh như Hỏa tinh như đi chợ, có khó gì. Do đó đối với đạo Phật, 
				cái thần thông diệu dụng nhất phải là biến một người ngu si 
				thành ra người trí tuệ vẹn tròn. Cái đạo lý ở đây là tuy khoa 
				học có phát triển để phục vụ, đem con người gần với nhau hơn và 
				có cuộc sống khả dĩ khá hơn, nhưng tánh tham-sân-si của họ chẳng 
				những không giảm mà còn tăng nên họ vẫn còn nô lệ cho phiền não 
				khổ đau. 
				 
				Vậy những nhà bác học, học giả… thì chúng ta gọi họ là những 
				người trí thức. Như thế thì trí thức và trí tuệ khác nhau ở chỗ 
				nào? 
				 
				Theo nghĩa thông thường thì nhà bác học là người nghiên cứu, 
				nghiền ngẫm, phân tích và phát minh thêm những sáng tạo mới cho 
				nhân loại, còn học giả là người lượm lặt những hiểu biết của 
				người khác. Họ thu góp những cái hay, cái đẹp, cái lạ của người 
				rồi cho đó là kiến thức của mình. Sau cùng trí thức là do ý thức 
				nhanh nhẹn khéo léo, so sánh phân biệt, nhận định tường tận làm 
				cho người nghe dễ nhận dễ hiểu. Như vậy những nhà bác học, học 
				giả hay trí thức đều nhắm vào những điều kiện vật chất để kiến 
				tạo, vun bồi cho đời sống thêm sung túc, tốt đẹp và giàu có hơn. 
				Nhưng tất cả việc làm của họ đều thuộc về pháp sanh diệt của thế 
				gian mà thôi, có nghĩa là được rồi sẽ mất. 
				 
				Còn chúng ta là người học Phật thì lấy trí tuệ làm gốc. Mà trí 
				tuệ có hai loại là trí tuệ hữu lậu và trí tuệ vô lậu. 
				 
				1) Trí tuệ hữu lậu chính là Văn, Tư, Tu. Văn là học những lời 
				dạy của Phật để thấy được chân lý về sự liên quan của con người 
				và vũ trụ. Tư là tư duy, suy nghĩ và nghiền ngẫm để thấy rõ 
				những chân lý của Phật một cách chính xác. Còn Tu là ứng dụng, 
				thực hành những chân lý của Phật dạy để tâm không còn ô nhiễm và 
				dính mắc các pháp sinh diệt ở bên ngoài. Tuy nhiên trí tuệ hữu 
				lậu vẫn còn rơi rớt trong vòng sanh tử luân hồi. 
				 
				2) Trí tuệ vô lậu chính là Giới, Định, Tuệ. Giới là khuôn vàng 
				thước ngọc giúp cho chúng ta đi đúng con đường chánh đạo. Có 
				giới mới sanh định, có nghĩa là những ý thức lăng xăng được lắng 
				xuống và từ định mới sanh trí tuệ. Cái trí tuệ nầy không phải do 
				học mà có, nhưng nó chính là sự tạo thành bởi sức công phu tu 
				tập bền vững. Trí tuệ nầy chính là trí tuệ chân thật và cũng 
				chính là tánh giác của chúng ta. Nếu chúng ta biết sống với cái 
				tánh giác chân thật nầy thì sẽ không còn tạo nghiệp và dĩ nhiên 
				là sanh tử luân hồi cũng vì thế mà dừng. 
				 
				Tóm lại, người thông minh trí thức ở ngoài đời là do khả năng 
				lượm lặt của người làm của mình, nhưng không có gì thật là của 
				mình cả. Còn người tu Phật là phải gạt bỏ tất cả những thứ bên 
				ngoài để cho tâm được trong sáng và khi đó tánh giác sẽ hiện 
				bày. Như vậy, nền giáo dục của thế gian là thu vào, thu vào càng 
				nhiều thì càng thông minh trí thức, còn người tu Phật thì phải 
				bỏ ra, càng bỏ ra thì tâm càng thanh tịnh và tánh giác mới hiện 
				bày. Đây mới chính là trí tuệ chân thật có sẵn trong tất cả mọi 
				người. 
				 
				Thật ra trong thế giới khoa học tiến bộ ngày nay, thần thông hữu 
				hiệu nhất cho người đệ tử Phật có lẽ là du hí thần thông. Đó là 
				khi tâm được trong sáng rỗng rang, không chấp trước thì cho dù ở 
				đâu, đi đâu hay thăm viếng chỗ nào thì con người cũng rất an 
				nhiên tự tại. Khi biết thế gian là huyễn thì còn gì để chấp, 
				mình cũng không mà người cũng không thì lấy gì để bận bịu, lưu 
				luyến, ưu phiền cho nên ở nhà cũng vui, đến chùa cũng vui, đi 
				thăm bạn bè cũng vui, thăm thân bằng quyến thuộc cũng vui ngay 
				cả thăm viếng ngoại đạo cũng vui, không chấp. Con người khi 
				không còn tranh chấp, đố kỵ thì cái tâm bây giờ sẽ không còn 
				giới hạn chật hẹp nhỏ bé trong phạm vi tham-sân-si mà lan tỏa ra 
				cùng khắp thì ở đâu, làm gì cũng an nhiên tự tại. Tóm lại, con 
				người tuy có ở trong trạm không gian mấy năm, nhưng tâm vẫn còn 
				vô minh phiền não khổ đau thì có ích gì, ngược lại người có du 
				hí thần thông tự tại thì tâm hằng thanh tịnh, vô minh tan biến 
				phiền não tiêu trừ, tự tại Niết bàn. 
				 
				Ông Mục Kiền Liên nhờ ý thức mà nhận biết nhân duyên như huyễn, 
				sinh không thật là sinh và diệt không phải là thật diệt. Do vậy 
				mà tâm Ngài không còn phân biệt, chứng được diệu chân như tánh, 
				có thần thông tự tại, biến hóa vô biên và chứng tánh viên thông 
				vô ngại, thành quả A la hán. 
				 
				Tóm lại, sáu căn, sáu trần và sáu thức không có cái nào là 
				nguyên nhân của tội lỗi vì nếu nó là nguyên nhân của tội lỗi xấu 
				xa thì không bao giờ có thể dựa vào đó mà tu chứng được. Tội lỗi 
				là do con người mê, bất giác mà dựa vào sáu căn, sáu trần hay 
				sáu thức mà gây ra tội lỗi. Ngược lại, đối với người không mê, 
				không vô minh bất giác thì chẳng những sáu căn, sáu trần, sáu 
				thức không phải là nguyên nhân của phiền não, khổ đau mà chính 
				nó còn là những dữ kiện, những yếu tố cần thiết dùng để tu hành. 
				Cũng xin nhắc lại, sáu thức được phân tích ở đây là dựa theo tư 
				tưởng Tiểu thừa mà theo đó họ tin rằng sáu căn, sáu trần và sáu 
				thức là nguyên nhân gây ra tội lỗi đau thương. Nhưng khi bước 
				sang tư tưởng Đại thừa thì ngoài sáu thức còn có Mạt-na-thức và 
				A-lại-da thức trong bát thức tâm vương và tư tưởng Đại thừa chủ 
				trương không có căn, trần hoặc thức nào là nguyên nhân của tội 
				lỗi, xấu xa cả mà phiền não khổ đau chỉ có đối với những người 
				còn vô minh bất giác, không làm chủ sáu căn của mình mà thôi. 
				 
				18) VIÊN THÔNG VỀ HỎA ĐẠI 
				 
				Ông Ô Sô Sắc Ma đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật : 
				 
				- Tôi nhớ những kiếp xa xưa, tánh tôi nhiều tham dục. Bấy giờ 
				nhằm thời Đức Phật Không Vương trụ thế. Đức Phật Không Vương Như 
				Lai bảo rằng: “Người đa dâm như đống lửa hồng”. Rồi Phật dạy tôi 
				quán hơi nóng trong cơ thể cả khắp tứ chi. Nhờ quán như vậy tinh 
				thần sáng suốt, nội tâm đứng lặng, tâm háo dâm trở thành lửa trí 
				tuệ. Từ đó, chư Phật gọi tôi với cái tên Hỏa Đầu. Tôi dùng sức 
				hỏa quang tam muội mà chứng quả A la hán. Tôi phát đại nguyện, 
				nếu có chư Phật thì tôi làm lực sĩ hầu cận Phật để đánh dẹp bọn 
				tà ma quấy phá. Nay Phật hỏi nhân duyên được viên thông, xin 
				thưa rằng:  Do tôi quán hơi ấm trong thân, lưu thông không 
				ngằn ngại, từ đó các lậu tiêu trừ, sinh lửa trí tuệ. Đối với 
				tôi, đó là pháp tu hữu hiệu nhất. 
				 
				Đại có nghĩa là bao trùm khắp cả không gian và thời gian cho nên 
				trong Phật giáo có tất cả bảy đại là địa đại, thủy đại, hỏa đại, 
				phong đại, không đại, kiến đại và thức đại phổ biến không chỗ 
				nào không có. Do thất đại mà khái niệm về không gian và thời 
				gian được hình thành nghĩa là thất đại là nguyên nhân trực tiếp 
				của hiện tượng vạn hữu duyên khởi sinh ra thế gian vũ trụ này. 
				Trong thế gian này, không có sự vật nào có một thực thể cố định 
				bất di bất dịch mà phải tương quan kết hợp với những yếu tố 
				khác. Thí dụ chiếc xe đạp là sự tổng hợp của rất nhiều nhân 
				duyên như bánh xe, yên ngồi, thắng… chớ bánh xe không phải là 
				yếu tố đầu tiên của chiếc xe đạp. Vì vậy địa, đại, thủy, hỏa, 
				phong, không, kiến, thức là những hình thái của chủng tử được 
				biểu hiện trong Như Lai Tạng bản thể mà thôi. 
				Địa, thủy, hỏa, phong và 
				không là năm yếu tố căn bản duyên khởi hình thành ra núi sông, 
				cây cỏ, hoa lá… và chúng là loài vô tình chúng sinh. Nếu hòa hợp 
				đất, nước, gió, lửa, không và kiến thì có các loài súc vật, 
				chúng có trực giác (kiến đại) mà không có tri giác (thức đại). 
				Còn nếu có đủ bảy đại thì có loài người tức là loài hữu tình có 
				giác tri. Do vậy nhân sinh vũ trụ dựa theo pháp giới duyên khởi 
				cũng nằm gọn trong “bất biến tùy duyên và tùy duyên bất 
				biến” nghĩa là từ Như Lai Tạng bản thể huyền diệu nhiệm mầu mà 
				duyên khởi ra cây cỏ, hoa lá, núi cao, rừng thẳm, chim bay, cá 
				lặn, con người… và cũng từ cái thế gian này mà duyên khởi trở về 
				với tự tánh thanh tịnh bản nhiên ban đầu của nó. 
				 
				Con người chỉ vì còn vọng tưởng nên còn tánh tham dâm và do tánh 
				tham dâm này mới kết thành lửa nghiệp bừng bừng đốt cháy thân 
				tâm, lu mờ ánh sáng trí tuệ. Nhưng xét cho cùng thì vọng tưởng 
				là do tâm, tham dâm cũng do tâm và trí tuệ cũng phát xuất từ tâm 
				cho nên nếu diệt được tâm tham dâm vọng tưởng thì lửa trí tuệ 
				tức là hỏa tánh tức thì phát hiện. Ở đây nói về hỏa đại không 
				phải là lửa bên ngoài mà chính là lửa tâm tham dục của mình. Nên 
				nhớ trong Như Lai Tạng có đủ hỏa tánh chơn không, một khi tâm 
				dâm vừa dấy khởi thì nó sẽ giúp dâm căn tăng trưởng. 
				Ông Ô Sô Sắc Ma vốn nhiều 
				dâm dục nên Đức Phật dạy cho biết người đa dâm biến thành đống 
				lửa dữ nên ông chuyên tâm tu tập quan sát từ trong sắc thân tứ 
				đại đến ngoài cảnh giới thì thấy đâu đâu cũng là hỏa đại. Khi đã 
				hiểu Hỏa đại theo tâm chúng sinh mà duyên khởi như huyễn, nhưng 
				vẫn bản nhiên thanh tịnh thì ông có được định lực hỏa quang tam 
				muội đốt cháy hết thảy vọng tưởng tham dâm và ánh sáng trí tuệ 
				chợt hiển bày. Ông nhờ quán hỏa đại mà chứng tánh viên thông, 
				đắc thành A la hán. 
				 
				19) VIÊN THÔNG VỀ ĐỊA ĐẠI 
				 
				Ngài Trì Địa Bồ-tát đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật 
				rằng : 
				 
				- Tôi nhớ lại trong những kiếp xa xưa, tôi từng được gặp Phật và 
				cúng dường chư Phật như hằng sa, và cũng từng phục vụ vô lượng 
				chúng sinh đem đến chúng sinh nhiều lợi lạc. Trong một kiếp nọ, 
				ở vào thời Phật Phổ Quang trụ thế, tôi là một tỳ kheo phát tâm 
				sửa chữa những đoạn đường gồ ghề sụp lở, những bến xe, bến đò 
				bất tiện cho sự đi lại của nhiều người. Ngoài những công trình 
				gánh đất, bưng sỏi, đắp bồi sửa chữa như vậy, tôi còn mang gánh 
				giúp đỡ những người gánh gồng nặng nhọc ở chợ búa mà không lấy 
				tiền công. 
				 
				Vào thời Phật Tỳ Xá Phù trụ thế, nhân gian nhiều đói kém, tôi 
				phải cõng giúp nhiều người không kể gần xa mà chỉ lấy một đồng 
				tiền. Có lúc tôi ra sức kéo phụ xe trâu qua những nơi khá lầy 
				lội. Có lúc vì Phật tôi sửa đường bằng phẳng đợi Phật đi hóa 
				trai. 
				 
				Một hôm Đức Tỳ Xá Phù Như Lai đi qua đoạn đường tôi vừa sửa 
				chữa, Phật xoa đầu tôi mà dạy rằng: “Nên bình cái tâm địa thì 
				đất đai trên thế giới đều bình”. Tôi nghe xong tâm liền sáng 
				bừng tỏ ngộ. Tôi quán thấy vi trần trong cơ thể cùng tất cả vi 
				trần tạo thành thế giới bên ngoài không sai khác gì nhau. Tự 
				tánh vi trần không chạm sát với nhau cho đến đao binh các thứ tự 
				nó cũng không va chạm gì. Nhờ nhận thức như vậy, tôi tỏ ngộ vô 
				sanh nhẫn, thành A la hán hồi tâm. Nay ở trong hàng Bồ-tát nghe 
				Phật dạy: “Tri kiến Phật như diệu liên hoa”, tôi lãnh hội trước 
				tiên, đại chúng suy tôn là thượng thủ. Nay Phật hỏi nguyên do 
				đạt đến viên thông, xin thưa: Do tôi quán trần ở nội thân và 
				trần cấu của thế giới bên ngoài bình đẳng không sai khác. Tất cả 
				đều từ Như Lai Tạng tùy duyên biến hiện. Vọng tâm chấp mắc trần 
				tướng tiêu vong thì trí tuệ viên mãn thành đạo Bồ-đề. Đó là đối 
				tượng sở quán, đối với tôi đem lại thành công nhất. 
				 
				Bồ-tát là viết tắt của chữ Bồ-đề Tát Đỏa mà Phạn ngữ là 
				Bodhisatwa có nghĩa là Giác Hữu Tình tức là loài hữu tình đã 
				giác ngộ và phát nguyện làm cho chúng sinh cũng được giác ngộ 
				như mình tức là Hữu Tình Giác. Bồ-tát phải trải qua 55 giai đoạn 
				từ khi phát tâm Bồ-đề thì mới đạt được quả vị đẳng giác là thành 
				Phật. Đừng nên hiểu lầm là Bồ-tát thì lúc nào trí tuệ hay tâm 
				thanh tịnh cũng cao hơn các vị A La Hán trong Thanh Văn. 
				 
				Khi chúng sinh mới phát tâm tu theo Đại thừa, làm việc vì người 
				quên mình tức là lấy lợi tha làm phương châm hành động thì được 
				gọi chung là Bồ-tát. Tất cả Phật tử không phân biệt tại gia hay 
				xuất gia, nam hay nữ muốn phát tâm tu theo Bồ-tát đạo, giữ 
				Bồ-tát giới tức là 10 giới trọng và 48 giới khinh để phá trừ tập 
				khí ngã mạn, chấp ngã chấp pháp và nguyện hy sinh mình mà lo cứu 
				giúp chúng sinh đều là Bồ-tát cả. Càng quên mình, càng hy sinh 
				vì chúng sinh thì càng tiến sâu trong Bồ-tát đạo. Nếu hy sinh 
				những vật ngoài thân như tiền của, nhà cửa, xe cộ, cúng dường để 
				in kinh viết sách, vật dụng… thì tương đối dễ làm nhưng Bồ-tát 
				còn dám hy sinh những gì về nội thân như hiến tặng tim, gan, 
				thận, máu huyết… đôi khi ngay cả thân xác của mình mà họ vẫn 
				hoan hỷ thực hành. 
				 
				Giai đoạn đầu kể từ khi mới phát tâm Đại thừa là Thập Tín, Thập 
				Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng và Tứ Gia Hạnh thì gọi là Đệ Nhất 
				A Tăng Kỳ Kiếp tức là Bồ-tát Địa Tiền có nghĩa là chưa bước vào 
				Thập Địa. Trí tuệ và tâm thanh tịnh của Bồ-tát Địa Tiền không 
				bằng các vị A La Hán vì họ đã vượt ra khỏi tam giới, chứng đắc 
				Niết bàn nên tâm rất thanh tịnh. 
				 
				Giai đoạn thứ hai là Bồ-tát tu từ Sơ Địa đến Thất Địa tức là họ 
				đã đạt được Hoan Hỷ Địa, Ly Cấu Địa, Phát Quang Địa, Diệm Huệ 
				Địa, Nan Thắng Địa, Hiện Tiền Địa và Viễn hành Địa thì gọi là Đệ 
				Nhị A Tăng Kỳ Kiếp. 
				 
				Giai đoạn thứ ba là họ tu từ Bát Địa đến Thập Địa tức là Bất 
				Động Địa, Thiện Huệ Địa và Pháp Vân Địa thì gọi là Đệ Tam A Tăng 
				Kỳ Kiếp. 
				 
				Khi mãn Thập Địa đến địa vị Đẳng giác, qua Đẳng giác đến Diệu 
				giác tức là thành Phật. Bồ-tát Đẳng giác và Diệu giác đã dứt trừ 
				Trần sa hoặc và Vô minh hoặc để đến chỗ giác ngộ hoàn toàn là  
				Phật. Thông thường các vị Bồ-tát đã chứng quả vị cao trong Thập 
				Địa tức là chứng được Đệ Tam A Tăng Kỳ Kiếp thì họ thường thị 
				hiện trong thế gian nầy để giáo hóa và cứu độ chúng sinh dưới 
				nhiều hình tướng khác nhau, nhưng không bao giờ để lộ tông tích 
				thì chúng ta gọi họ là Siêu phàm Bồ-tát. 
				 
				Phàm những vị phát tâm hướng cầu Bồ-đề mà tu Bồ-tát hạnh, thường 
				lấy việc lợi tha làm trọng, lợi kỷ làm khinh, ngay cả xả kỷ để 
				lợi nhân cũng không tiếc. Tuy phương tiện thực hành Bồ-tát đạo 
				có sai khác, có vị dùng lời nói dịu dàng thuyết pháp để lợi ích 
				chúng sinh, có vị đem tiền tài vật dụng ra bố thí để cứu giúp 
				chúng sinh, có vị sống rất thanh cao thánh thiện để người khác 
				bắt chước mà noi theo, ngược lại cũng có vị làm những chuyện 
				trái đạo, phi luân lý, làm gương xấu để thức tỉnh chúng sinh… 
				nhưng ở đây Ngài Trì Địa Bồ-tát thường đem thân khỏe mạnh mà 
				giúp ích nhiếp hóa chúng sinh. Từ thời Phật Phổ Quang xuất thế 
				và mãi về sau vô lượng kiếp Ngài vẫn thường qua các nẻo đường, 
				bến đò và những nơi hiểm trở lầy lội mà ra công tự gánh đất cát 
				sửa sang bằng phẳng, xây dựng cầu cống hay gánh vác dùm việc 
				nặng nhọc ở chợ búa cho chúng sinh. 
				Đến khi gặp Đức Phật Tỳ Xá 
				Phù ra đời dạy cho một câu rằng: “Hãy bình tâm địa thì tự tâm 
				được khai” nghĩa là một khi tâm của mình được bằng phẳng tức là 
				an bình, thanh tịnh thì tất cả đất đai trên thế giới sẽ được 
				bằng phẳng, thanh tịnh cho nên thấy vi trần nơi thân mình chẳng 
				khác gì vi trần bên ngoài thế giới. Trong kinh Duy Ma Cật có dạy 
				rằng: “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh và Dục tịnh Phật độ 
				tiên tịnh kỳ tâm” nghĩa là nếu tâm mình thật thanh tịnh, không 
				còn phiền não vô minh quấy phá thì thế giới này chính là cõi 
				Phật thanh tịnh rồi; mà muốn có cõi Phật thanh tịnh thì phải 
				huân tập cho tâm mình thật thanh tịnh trước đã. 
				Tất cả đất đai vi trần từ 
				trong thân đến ngoài thế giới đều giả dối, không có tự tánh, chỉ 
				do tâm biến hiện. Nhưng con người vì mê, bất giác nên không nhận 
				biết cảnh giới là do tâm biến hiện vốn không có trong ngoài, 
				năng sở cao thấp. Vì thế nếu gạt bỏ hết các vọng tưởng điên đảo 
				mà bình được tâm địa nơi mình thì đất đai ở thế giới bên ngoài 
				tự nhiên đều bằng phẳng cho nên các vi trần hợp thành nơi thân, 
				vi trần hợp thành ở thế giới bên ngoài đồng một tâm, đồng một 
				tánh, bình đẳng như như, không ngăn ngại nhau tức là một là tất 
				cả và tất cả là một. Đất bên trong và đất ở ngoài không sai khác 
				vì chúng đều là hiện tượng duyên sanh của vạn pháp. 
				Tri kiến Phật như diệu liên 
				hoa nghĩa là tri kiến Phật như hoa sen tức là trong nhân đã có 
				quả và trong quả đã ngầm chứa cái chân rồi. Nói cách khác hoa 
				sen là nhân quả đồng thời nghĩa là chúng sinh tuy mang sắc thân 
				tứ đại, ngũ uẩn phàm phu, nhưng thật chất đã có Phật tánh rồi. 
				Nếu không có Phật tánh sẵn có thì cho dù chúng sinh có tu ngàn 
				kiếp cũng không bao giờ thành Phật được cũng ví như vàng trộn 
				lẫn với sỏi đá trong mỏ. Nếu trong mỏ kia không có vàng thì cho 
				dù có rửa sạch tất cả đất sỏi trong mỏ cũng không bao giờ tìm 
				thấy vàng ròng được. Chúng sinh phàm phu thì cũng như hoa sen 
				búp còn lẫn lộn trong bùn, đến khi tu thành A la hán thì hoa sen 
				kia vượt thoát khỏi mặt nước và bắt đầu nở nhụy. Sau cùng thành 
				Phật thì hoa sen nở hoàn toàn, hương hoa thơm ngát. Tâm địa là 
				tâm duyên ra đất và đất duyên ra tâm, tâm tức là đất và đất tức 
				là tâm nên Ngài Trì Địa liền chứng ngộ, xóa bỏ những sự sai khác 
				giữa thân tâm và cảnh giới, chứng được tánh viên thông, tự tại 
				Niết bàn.  
				 
				20) VIÊN THÔNG VỀ THỦY ĐẠI 
				 
				Ngài Nguyệt Quang đồng tử đứng dậy cung kính chấp tay bạch 
				Phật rằng : 
				 
				- Tôi nhớ hằng hà sa kiếp trước có Đức Phật ra đời hiệu là Thủy 
				Thiên. Thủy Thiên Như Lai dạy các Bồ-tát nên quán về nước để 
				nhập Tam-ma-đề. Phật dạy quán tánh nước không gì lấn cướp là cho 
				mất hẳn được. Từ nước mắt, nước mũi, nước miếng, nước tiểu, nước 
				tân dịch trong châu thân… đều quán một tánh nước đồng nhau. Tánh 
				nước trong tự thân cùng tánh nước các bể hương thủy phù trần 
				vương sát của thế giới bên ngoài đồng nhau không sai khác. Lúc 
				tôi thành tựu pháp thủy quán này, tôi chỉ thấy được tánh đồng 
				của nước mà chưa thấy được “thân không”. Hồi bấy giờ, tôi là một 
				tỳ kheo tọa thiền trong một tịnh thất, có người đệ tử trông cửa 
				sổ nhìn vào, thấy toàn là nước. Vì nhỏ dại, nó liền lấy một 
				miếng ngói ném vào, rồi tự bỏ đi. Khi xuất định tôi thấy tim đau 
				một cách lạ thường. Truy nguyên ra duyên cớ, tôi bảo người đệ tử 
				: Khi tôi nhập định, trông thấy nước trong thất thì hãy vào mà 
				nhặt miếng ngói mà người đã ném ấy ra. Quả thật, khi xuất định, 
				tôi không còn đau đớn nữa. 
				 
				Qua vô lượng kiếp sau tôi gặp vô lượng Phật, nhưng chưa chứng 
				ngộ. Mãi đến thời Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai thì tôi 
				mới chứng được “không thân”. Bây giờ tôi thấy rõ nước trong tự 
				thân cùng với nước bể Hương Thủy trong mười phương thế giới đồng 
				một tánh chân không, không sai khác. Ở nước Phật Sơn Hải Huệ Tự 
				Tại, tôi được hiệu là Đồng Chân, dự vào hàng Bồ-tát. Nay Phật 
				hỏi nguyên nhân được viên thông, xin thưa: Do tôi quán tánh 
				“nước” dung thông mà được vô sanh nhẫn. Đối với tôi, pháp Thủy 
				quán là ưu việt nhất. 
				 
				Thủy đại nói ở đây là những gì ở trong thể lỏng chớ không nhất 
				thiết chỉ là nước thông thường. Nói chung trong tất cả thất đại 
				thì đại nào cũng bao gồm thể, tướng và dụng. Lấy thủy đại làm 
				thí dụ thì tánh thủy chân không, tánh không chân thủy nghĩa là 
				tánh của nước là thanh tịnh bản nhiên, khi cần thì sinh khởi còn 
				không cần thì nó không sinh khởi, nó nằm trong khắp không gian 
				vũ trụ mà không làm ngập lụt, bảo tố hay gây tang thương, chết 
				chóc, tai họa cho ai cả. 
				Nhưng khi chúng sinh cần 
				nước và đủ nhân duyên thì từ tánh không nước sẽ xuất hiện để 
				thỏa mãn sự đòi hỏi của con người. Do đó tánh thanh tịnh bản 
				nhiên của nước là thể thì cùng khắp pháp giới; còn nước biển, 
				nước sông ao hồ làm ngập lụt là tướng của nước và dụng của nước 
				là nước nuôi dưỡng cây cối, nuôi sống con người hay các loài 
				động vật thực vật khác. Con người không thể tồn tại nếu không có 
				nước cho nên hiện nay các khoa học gia mỗi khi muốn tìm hiểu về 
				sự sống của những hành tinh gần trái đất thì việc trước hết là 
				phân tích để xác định là ở đó có những nguyên tố nước hay không 
				cho dù nước ở dưới dạng đặc, lỏng hay thể hơi. 
				 
				Ngài Nguyệt Quang đồng tử trong những kiếp xa xôi về trước được 
				gặp Thủy Tiên Như Lai dạy Ngài phép quán về nước (thủy đại). 
				Quán từ trong thân, Ngài thấy đâu đâu cũng là nước lưu hành và 
				tánh nước trong thân và tánh nước ở ngoài biển cả đều bình đẳng, 
				chẳng khác gì nhau. Tướng nước thì có rất nhiều như nước miếng, 
				nước mũi, nước mắt, nước biển, nước ngọt ao hồ… nhưng thể nước 
				tức là tánh nước là bản thể thanh tịnh thì giống nhau, cùng 
				chung một bản thể. 
				Vì thế khi không còn nhìn 
				nước bằng hình tướng bên ngoài mà nhìn thẳng vào tự tánh thanh 
				tịnh bản nhiên của nó thì tất cả nước đều cùng chung một thể 
				tánh nên chúng bình đẳng, giống nhau. Một thí dụ khác là khi 
				nhìn con người từ bề ngoài thì thấy có người cao, người thấp, 
				người giàu, người nghèo, người tốt, người xấu, người mập, người 
				ốm… Đây là cái nhìn nhục nhãn, nhìn cái tướng sinh diệt của phàm 
				nhân nên có sự phân biệt đối đãi. Ngược lại nếu bây giờ dùng tuệ 
				nhãn mà nhìn thẳng vào tự tâm tức là nhìn cái bản thể của những 
				người đó thì chỉ thấy ai ai cũng đều có Phật tánh như nhau, 
				không sai khác. 
				 
				Ngài Nguyệt Quang đồng tử nhìn nước thế gian mà không thấy sai 
				khác tức là Ngài đã phá được “pháp chấp” nhưng vẫn còn chưa thấy 
				“thân không” nghĩa là thấy thân mình là thật tức là chưa phá nổi 
				“ngã chấp”. Ngài tinh tấn tu hành trong vô lượng kiếp nữa đến 
				khi Đức Phật Sơn Hải Huệ Tự Tại xuất thế thì Ngài mới chứng được 
				“ngã không” tức là phá được bản ngã. Bây giờ thì mình cũng không 
				mà người cũng không nên Ngài rất tự tại, chứng được tánh viên 
				thông, đắc thành thánh quả. 
				 
				Thế nào là ngộ vô sanh? 
				 
				Vô sanh nhẫn tức là vô sanh pháp nhẫn. Khi tư duy quán chiếu để 
				nhìn vạn pháp vô sanh thì cũng có nghĩa là nhìn vạn pháp vô 
				diệt. Thí dụ khi nhìn một nụ hoa thì làm sao biết được tánh vô 
				sanh của nó? Khi nhìn đóa hoa mới nở thì chắc chắn là nụ hoa 
				sanh và vài tuần sau, hoa tàn thì nói rằng nụ hoa diệt. Nhưng 
				đây chỉ là cái nhìn thiển cận của phàm nhân, còn cái nhìn của 
				Bồ-tát tu hành chứng đắc, ngộ được vô sanh thì ngay trong lúc nụ 
				hoa mới nở, cái sinh đã có diệt trong đó rồi. Ngược lại trong 
				lúc nó tàn úa thì các vị Bồ-tát lại nhìn cái diệt là bắt nguồn 
				cho cái sinh khác. 
				Đó là hiện tượng quy về bản 
				thể và bản thể duyên khởi thành ra hiện tượng thành ra có cái gì 
				là thật sinh hay cái gì là thật diệt đâu. Nói cách khác sinh để 
				rồi diệt, diệt rồi lại sinh, sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận 
				nên sinh diệt, sống chết là chuyện thường, chả có gì quan trọng 
				nên không còn lo sợ, đau khổ. Vì vậy chúng sinh khi thấy mình 
				già yếu, bệnh tật thì đau khổ buồn phiền. Ngược lại, đối với 
				Bồ-tát thì sống chết là chuyện bình thường nằm trong chu kỳ bất 
				biến tùy duyên rồi tùy duyên bất biến thế thôi. Vì vậy với tuệ 
				nhãn của Bồ-tát hay Phật nhãn của chư Phật thì nhìn vạn pháp 
				sanh mà không thật sanh và diệt nhưng không phải là mất hẳn 
				nghĩa là sinh để rồi diệt và diệt rồi để lại sanh, sinh sinh 
				diệt diệt vô cùng vô tận. Đây là chứng ngộ chân lý vô sanh pháp 
				nhẫn vậy. 
				 
				Đối với người tu Phật, chết thì không có gì đáng sợ mà sợ chết 
				mới là điều đáng sợ. Nếu con người biết tu tập, cởi mở cho tâm 
				thức được nhẹ nhàng thì cuộc sống hiện tiền chẳng những được nhẹ 
				nhàng, êm ái và đến khi gần chết cũng được nhẹ nhàng ra đi. 
				Ngược lại chúng sinh còn nhiều ràng buộc, khó buông xuống thì 
				cuộc sống ngay bây giờ đã thấy khổ, đó là chưa kể đến lúc gần 
				chết những nghiệp bất thiện quay về làm cho thân, tâm khó bề yên 
				ổn. Vậy nếu con người biết hóa giải thân, khẩu, ý nghiệp nhưng 
				đặc biệt là ý nghiệp của mình cho được nhẹ nhàng thanh thoát thì 
				cuộc sống sẽ có “sinh thuận tử an” nghĩa là sống thì bình yên 
				còn chết thì nhẹ nhàng an ổn, không ốm đau dai dẳng, khổ mình và 
				khổ cả cho con cháu. 
				 
				Ngày xưa khi thành Phật dưới cội Bồ-đề thì Ngài trở thành người 
				khất sĩ nên Ngài mới có Vô thượng Niết bàn bởi vì đối với thế 
				gian vũ trụ thì Ngài không có gì hết, nhưng có tất cả. Không có 
				gì hết vì Ngài chả có cái gì, mình trần thân trụi, gia tài vỏn 
				vẹn chỉ có tam y nhất bát và hằng ngày phải xin cơm từ tín 
				chúng. Nhưng có tất cả vì trong thế gian này cái gì cũng là của 
				Ngài vì Ngài không chấp là “cái của ta”. Một thí dụ khác là khi 
				nhìn bàn tay của Đức Phật hay chư Bồ-tát thì lúc nào cũng thấy 
				họ buông xuống, không nắm lại. Bàn tay buông xuống là biểu tượng 
				của không có gì hết, nhưng có tất cả bởi vì thế gian vũ trụ đối 
				với các Ngài là không cho nên tay không nắm thì mới nắm được tất 
				cả. 
				Ngược lại chúng sinh phàm 
				nhân thì tay lúc nào cũng nắm, nào là nắm cái nhà của mình, nắm 
				cái xe của mình, nắm vợ chồng con cái của mình… Tay không nắm 
				thì mới nắm được tất cả, còn một khi tay đã nắm những thứ đó rồi 
				thì làm sao có thể nắm toàn thể thế giới vũ trụ được nghĩa là 
				nắm cái có thì phải bỏ mất cái “toàn không”. Nói cách khác khi 
				tay đã nắm có nghĩa là những thứ như vợ chồng, nhà cửa, xe cộ, 
				con cháu, tiền bạc, công ty, đất ruộng… trở thành “cái của tôi”. 
				Mà đã là cái của tôi thì tôi phải lo, phải giữ, phải sống chết 
				để gìn giữ nó. Nếu đây không phải là khổ thì là gì! 
				 
				21) VIÊN THÔNG VỀ PHONG ĐẠI 
				 
				Ngài Lưu Ly Quang Pháp Vương Tử đứng dậy cung kính chấp tay 
				bạch Phật : 
				 
				- Tôi nhớ lại hằng sa kiếp trước có Phật ra đời hiệu là Vô Lượng 
				Thanh. Phật khai thị cho các Bồ-tát về: “Bản giác diệu minh”. 
				Dạy các Bồ-tát quán “Thế giới và chúng 
				sinh đều do sự vận động của sức gió vọng duyên chuyển biến mà 
				hình thành”. Riêng tôi, lúc bấy giờ, tôi quán không gian an lập, 
				quán thời gian trôi đi mãi, quán thân, khi động khi dừng, quán 
				tâm, niệm trước diệt niệm sau sanh… Tất cả những chuyển động 
				biến diệt, tôi thấy không hai không khác. Tôi nhận thức rõ rằng 
				tánh của các thứ động: Đến không chỗ từ, đi không chỗ tới. Tất 
				cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới có trong pháp 
				giới mười phương so sức gió “vọng duyên” mà hình thành, mà sinh 
				hoạt với nhau trong tánh “bản giác diệu minh, chơn tâm minh 
				diệu”. Giống như hàng vạn muỗi mòng trong một cái đồ đựng, kêu 
				vo vo rầm rĩ, ào ào rối rít với nhau. 
				 
				Tôi quán sát tư duy như vậy, không bao lâu, tôi được vô sanh 
				pháp nhẫn làm vị Pháp vương tử. Nay Phật hỏi viên thông, xin 
				thưa: Do tôi quán tánh “phong đại” đi không chỗ từ, đến không 
				chỗ tới” mà tỏ ngộ tâm Bồ-đề. Đối với tôi thì quán phong đại là 
				đệ nhất. 
				 
				Trong phần thất đại này, tất cả các vị Bồ-tát đều phải trải qua 
				hằng sa kiếp tu hành mới đến chỗ giác ngộ, thành Bồ-tát. Do đó 
				tiến trình tu học, giải ngộ đòi hỏi nhiều đời nhiều kiếp cho nên 
				người tu Phật không cần quan tâm, lo lắng để được hoát nhiên đại 
				ngộ. Khi nhân duyên chín mùi, việc đến sẽ đến, thân tâm rỗng 
				rang, tâm trí hoàn toàn sáng suốt thì Bồ-đề Niết bàn hiển lộ. 
				 
				Bản giác diệu minh là cái giác tánh sẵn có lúc nào cũng sáng 
				suốt nhiệm màu của mình thường không lay động cho nên nói tu 
				chứng đắc tức là trở về với cái bản giác trong sáng vốn đã có 
				sẵn nghĩa là hồi đầu thị ngạn thế thôi chớ chẳng có chứng đắc 
				gì. Nói cách khác quả vị chứng đắc là khoảng cách xa gần để về 
				lại nhà củ vườn xưa. Thí dụ A la hán là đã đi được nữa đường, 
				đến khi đạt đến Bồ-tát quả thì có thể từ nữa đường tới hai phần 
				ba đường, rồi sắp tới nhà và sau cùng thành Phật là tới nhà. 
				 
				Ngài Lưu Ly Quang Pháp Vương Tử quán con người và thế giới là 
				đều do gió vọng duyên chuyển biến hình thành nghĩa là gió này là 
				không thật chỉ xuất hiện tạo sự biến hoại cho thế gian rồi biến 
				mất. Khi động thì gió này tạo thành những cơn gió lốc, những 
				ngọn sóng thần gây tai họa đau thương cho con người. Cũng chính 
				gió vọng duyên thúc đẩy hội tụ vọng nghiệp kết tứ đại với nhau 
				hình thành ra con người. Ngài quán con người và thế giới đều do 
				phong lực giả dối chuyển biến mà phát hiện. Không gian có thành, 
				trụ, hoại, không; thời gian có quá khứ, hiện tại, vị lai, sự lưu 
				động nơi thân, sự động niệm nơi tâm, tuy hình thức có sai khác, 
				nhưng tất cả đều không có tự tánh, đều do sức gió hư vọng phát 
				sinh cho nên không thật có đến có đi, có sinh có diệt. 
				Ngài quán như vậy nên thấu 
				biết rõ ràng tất cả các lay động đều do vọng tưởng biến hiện, 
				đều như huyễn hóa, không có tự tánh. Đứng về bản thể chân như mà 
				nói, cái “bản giác diệu minh, chơn tâm minh diệu” thì trùm khắp 
				mười phương thế giới, nhưng khi nó duyên khởi ra gió vọng duyên 
				để hình thành ra thân ngũ uẩn tứ đại thì gió vọng duyên chính là 
				hiện tượng sinh hoạt trong cái tánh giác diệu minh của mình. Nhờ 
				vậy Ngài chứng lý “động” 
				vốn “bất động” cho 
				nên được làm pháp vương tử ở cõi nước Phật Bất Động bên phương 
				Đông. Thân không động thì tâm cũng không còn sinh diệt cho nên 
				Ngài phát quang, rỗng rang vô ngại. 
				 
				22) VIÊN THÔNG VỀ KHÔNG ĐẠI 
				 
				Ngài Hư Không Tạng Bồ-tát đứng dậy cung kính chắp tay bạch 
				Phật : 
				 
				- Tôi nhớ lại tôi cùng Như Lai đồng chứng được “vô biên thân” 
				hồi thời Phật Định Quang. Lúc đó tay tôi cầm bốn đại bảo châu 
				chiếu sáng cõi Phật mười phương như số vi trần đều hóa thành hư 
				không. Bấy giờ tâm tôi sáng suốt thành trí Đại Viên Cảnh. Tôi 
				quán sát khắp phù trần hương sát cùng tột hư không, nhập vào 
				thân tôi. Thân tôi và hư không không ngăn ngại gì nhau. Do vậy, 
				tôi khéo vận dụng hài hòa vào cõi nước như vi trần làm Phật sự 
				được thuận lợi lớn lao. Sức thần to lớn đó tôi quán sát tứ đại 
				không có chỗ sở y. Do vọng tưởng mà thấy có diệt có sinh. Hư 
				không không hai, cõi Phật vốn đồng. Do tôi phát minh được tánh 
				đồng mà chứng được vô sanh pháp nhẫn. Nay Phật hỏi nhân duyên 
				nào được viên thông, xin thưa: Do tôi quán chiếu “hư không vô 
				biên” mà thể nhập Tam-ma-đề là phương tiện ưu việt nhất. 
				 
				Ngài Hư Không Tạng Bồ-tát cùng Đức Phật Thích Ca đều chứng được 
				pháp thân vô biên. Khi ấy Ngài cầm bốn hạt châu lớn là không, vô 
				sinh, vô nhị, vô tự tánh soi chiếu khắp mười phương chư Phật và 
				tất cả đều hóa thành hư không nghĩa là nhờ quán tứ đại viên minh 
				thể hợp với chơn không nên được gọi là chứng được “vô biên 
				thân”. Khi chứng đạo thì thức thứ tám là A lại da thức sẽ biến 
				thành Đại viên cảnh trí nghĩa là nơi tự tâm hiện ra một cái 
				gương tròn sáng lớn chiếu khắp mười phương tận hư không pháp 
				giới. 
				Vì thế tâm này đồng nhất 
				với chơn tâm. Cái gương mà con người thường thấy thì có khi hình 
				vuông có khi hình tròn, nhưng chỉ chiếu sáng một bên. Còn cái 
				gương tròn, lớn này thì hình tròn như trái banh nên phía nào 
				hình ảnh cũng có thể chiếu vào được. Phật dạy: “Tánh sắc chơn 
				không” nghĩa là Hư không là thể của sắc. Trong đoạn kinh này, 
				ngọc châu là tiêu biểu cho sắc pháp và gương sáng là biểu tượng 
				cho tâm pháp. Chính Đại viên cảnh trí bình đẳng hiển hiện nên 
				các cõi Phật được thâu vào trong gương, rồi nhập vào thân nên 
				bây giờ thân đồng với hư không mà không có gì ngăn ngại. Vì vọng 
				chấp mê lầm nên con người thấy có cõi này tốt hơn cõi kia, nhưng 
				nhìn bằng tuệ nhãn của Bồ-tát và Phật nhãn của chư Phật thì cõi 
				Phật không có “Hai” tức là Pháp giới bất nhị hay Pháp giới nhất 
				chân. 
				Vì thế trong kinh Duy Ma 
				Cật dạy rằng: “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh” nghĩa là hễ ở 
				đâu mà có tâm thanh tịnh thì nơi ấy chính là cõi Phật thanh tịnh 
				rồi. Con người vì còn tâm mong cầu nên muốn sang cõi này, thích 
				sống cõi kia mà không chịu lo tu sửa để có tâm thanh tịnh thì sự 
				mong cầu kia chỉ là ảo huyền, giả tưởng. Vì thế nếu chúng sinh 
				có tâm được hoàn toàn thanh tịnh, sáng suốt rỗng rang thì tâm ấy 
				chính là Phật Di Đà và cảnh giới đang sống là cõi tịnh độ rồi 
				chớ còn tìm Phật đâu nữa trong càn khôn vũ trụ này. Vì không còn 
				ngăn ngại, Ngài Hư Không Tạng Bồ-tát hiện được vô lượng huyển 
				thân, vào vô lượng huyển thế giới và tùy thuận vô lượng huyễn 
				chúng sinh mà làm vô lượng huyễn Phật sự. Ngài áp dụng triệt để 
				“Như huyễn Tam-ma-đề” nên Bồ-tát rất tự tại, không còn dính mắc 
				và chứng được tánh viên thông, đắc thành thánh quả. 
				 
				23) VIÊN THÔNG VỀ THỨC ĐẠI 
				 
				Ngài Di Lặc Bồ-tát đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật : 
				 
				- Tôi nhớ lại vi trần kiếp trước có Đức Phật hiệu Nhật Nguyệt 
				Đăng Minh. Tôi được theo Phật xuất gia, nhưng tâm còn trọng hư 
				danh thế gian, ưa giao du với các hàng vọng tộc. Phật Nhật 
				Nguyệt Đăng Minh dạy tôi tu tập định: “Duy tâm thức” và tôi được 
				nhập Tam-ma-đề. Trải hằng sa số kiếp đến nay, tôi sử dụng tam 
				muội ấy, phụng sự hằng sa chư Phật, tâm cầu danh được diệt hết. 
				Đến thời Phật Nhiên Đăng ra đời tôi mới chứng được tam muội 
				“thức tâm diệu viên” vô thượng. Bấy giờ tôi quán thấy cõi nước 
				của chư Như Lai, tột bờ mé hư không, tịnh, uế, có, không đều do 
				thức tâm biến hiện. 
				 
				-Bạch Thế Tôn! Do tôi ngộ “Duy tâm thức” thức tánh của tôi xuất 
				hiện vô lượng Như Lai và hiện nay được Phật thọ ký, tôi sẽ được 
				bổ xứ thành Phật ở cõi Ta bà sau này. Nay Phật hỏi nguyên nhân 
				viên thông, xin thưa: Tôi quán mười phương đều Duy thức. Thức 
				tâm tròn sáng thì xa lìa tánh biến kế, nhận thức đúng thực thể 
				của tánh y tha khởi thì chứng nhập tánh viên thành thật, được vô 
				sanh nhẫn. Đối với tôi đó là pháp quán ưu việt nhất. 
				 
				Đại là phổ biến cùng khắp cho nên thất đại phổ biến cùng khắp cả 
				không gian và thời gian, nơi nào và lúc nào cũng có. Thức đại là 
				phần nhận thức tác động vào con người để có sự hiểu biết và sau 
				cùng phát sinh ra trí tuệ. Thức đại thì bao la trùm khắp trong 
				thế gian vũ trụ cũng như hư không chớ không nhất thiết chỉ có 
				trong con người. Nói cách khác khi nào một hữu tình chúng sinh 
				có đầy đủ ngũ quan, tứ chi, lục căn thì thức đại tác động vào 
				hữu tình chúng sinh đó để có đầy đủ tri giác của một con người. 
				Vì vậy nếu trên thế gian có bao nhiêu con người, thì thức đại 
				tác động vào chừng ấy chúng sinh, không thêm không bớt rất mầu 
				nhiệm để họ có đầy đủ tri giác, trí tuệ của con người. 
				 
				Bồ-tát Di Lặc tên là A Dật Đa (Ajita) và họ là Từ Thị. Trong vô 
				lượng kiếp quá khứ, có Đức Phật hiệu là Đại Thông Trí Như Lai ra 
				đời thì cả Đức Thích Ca (tiền kiếp) và Bồ-tát Di Lặc (tiền kiếp) 
				cùng phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nhưng mãi đến 
				khi Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh ra đời thì Ngài Di Lặc mới 
				phát tâm xuất gia. Tuy xuất gia nhưng ngài Di Lặc không chú tâm 
				tu hành mà muốn kết thân, cầu danh với những hàng danh gia vọng 
				tộc, quan quyền, giàu có nên Ngài sẽ thành Phật sau Đức Phật 
				Thích Ca gần mười tiểu kiếp. 
				Đây là bài học điển hình 
				cho các tu sĩ còn ham chuộng danh lợi, chạy theo uy quyền, tham 
				gia chính trị, phế bỏ cả đời tu của mình. Người tu sĩ mà thích 
				kết thân, giao du và dựa hơi với hạng quan quyền, người giàu có 
				mà cho đó là phước đức, danh vọng, địa vị của mình là hỏng bét, 
				là thiếu đức hạnh. Đối với người tu sĩ chân chính là phải tách 
				mình ra khỏi xã hội, không chạy theo danh văn lợi dưỡng, không 
				nhiễm ô tham đắm thế tình mà phải luôn bồi dưỡng trí tuệ thì mới 
				là sống đúng theo chánh pháp để có thể diệt được cái bản ngã tối 
				tăm. Phải biết rằng : 
				 
				Niệm mà không chấp có niệm, đó là chánh niệm. 
				Hành mà không chấp có hành, đó là chánh tinh tấn. 
				Độ mà không chấp có độ, đó là chánh tư duy. 
				Tu mà không chấp có tu, đó là chánh kiến. 
				 
				Còn người tu sĩ mà có uy quyền ghê gớm, danh vọng ghê gớm, đạo 
				đức ghê gớm, tiền của ghê gớm thì người này là đệ tử của đạo “sự 
				nghiệp uy quyền” chớ đâu phải đệ tử của Phật Thích Ca là đạo 
				giải thoát giác ngộ. Nhưng nếu muốn có sự nghiệp uy quyền thì cứ 
				hoàn tục trở về với gia đình mà tha hồ thỏa chí bình sinh, sống 
				đời vinh thân phì da chớ đừng núp dưới cội Bồ-đề mà làm ô uế cửa 
				thiền. 
				 
				Chính Đức Phật đã từng khuyên Đề Bà Đạt Đa nên hoàn tục vì tuy 
				là người xuất gia, nhưng “tâm không vào đạo” nên ông luôn nuôi 
				dưỡng những tư tưởng bất thiện, cố tranh giành thế lực, chia rẽ 
				Tăng đoàn để mưu lợi riêng cho mình. Đối với Tăng đoàn, Đề Bà 
				Đạt Đa muốn chiếm ngôi vị của Phật, còn đối với thế sự ông xuối 
				vua A Xà Thế giết cha, hại mẹ, làm chuyện vô luân. Màn vô minh 
				hắc ám che lấp tâm tánh thuần lương khiến ông làm việc phản sư, 
				phạm giáo mà phải bị đọa vào địa ngục A tỳ. Ngày xưa Đức Phật và 
				biết bao đệ tử của Ngài từ bỏ giàu sang phú quý, quyền cao chức 
				trọng để xuất gia cầu đạo và sống đời thanh bần an lạc mà hoằng 
				pháp lợi sanh. Ngày nay người đệ tử Phật thì ngược lại muốn xuất 
				gia để có được quyền uy, danh vọng, ăn trên ngồi trước, giàu 
				sang phú quý. Như thế đủ biết tinh thần: “Xã phú cầu bần xã thân 
				cầu đạo” chỉ còn là kỷ niệm, là cái bóng của quá khứ. 
				 
				Về sau nhờ Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh dạy cho pháp tu Duy 
				Tâm Thức nên Ngài mới chứng được “Tam giới duy tâm, Vạn pháp duy 
				thức”, nhưng mãi đến thời Phật Nhiên Đăng xuất thế thì Ngài mới 
				chứng được tam muội “thức tâm diệu viên” và được Phật Thích Ca 
				thọ ký đời sau sẽ thành Phật ở hội Long Hoa tại thế giới Ta bà 
				nầy. Hiện nay Bồ-tát Di Lặc đang tu ở cung trời Đầu Xuất, chuyên 
				giảng môn Duy Thức Học. 
				 
				Tuy tất cả các pháp có rất nhiều, nhưng tóm lại có 100 pháp và 
				được chia làm 5 loại : 
				 
				1) Tâm pháp hay còn gọi là Tâm Vương gồm có 8 món: Nhãn thức, 
				nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt-na-thức và 
				A lại da thức. Tiếng gọi thông thường là bát thức tâm vương. 
				 
				2) Tâm sở hữu pháp gồm có 51 món và được chia làm 6 loại: Biến 
				hành (5 món), biệt cảnh (5 món), thiện (11 món), căn bản phiền 
				não (11 món), tùy phiền não (20 món), bất định (4 món). Trong 51 
				món thì chỉ có 11 món là thiện. 
				 
				3) Sắc pháp có 11 món gồm có năm căn và sáu trần. 
				 
				4) Tâm bất tương ưng hành pháp có 24 món. 
				 
				5) Vô vi pháp có 6 món. 
				 
				Duy tâm là A lại da thức hay Tàng thức tức là đệ bát thức tâm 
				vương. Còn thức là sự phân biệt. Do đó tâm là bản thể và thức là 
				diệu dụng. Dựa theo duy thức thì tất cả sự vật trên thế gian như 
				trời trăng, mây nước, chim bay, cá lặn, cỏ cây, hoa lá thì gọi 
				là sở tàng nghĩa là những vật mà do thức tâm con người biến 
				hiện. Và năng tàng là khả năng chứa đựng những sở tàng bên ngoài 
				ở trong tâm của con người. Vì thế con người có khái niệm tới đâu 
				nghĩa là sở tàng biến đổi thế nào thì năng tàng cũng bao trùm 
				tới đó. Nói cách khác cảnh thay đổi thế nào thì tâm cũng biến 
				hiện tùy thuộc theo. Bồ-tát Di Lặc tu tập theo pháp Duy Tâm Thức 
				nên quan sát tất cả cảnh giới là giả, tưởng là giả, chỉ do thức 
				tâm biến hiện mới thành có tánh cách phân biệt sai khác. 
				Bây giờ nếu tu được định 
				duy thức thì ngoài tâm không có cảnh, ngoài cảnh không có tâm 
				cho đến khi chứng được “Vô thượng diệu viên thức tâm tam muội” 
				thì nhận thấy tất cả nhân sinh vũ trụ cho dù là loài vô tình, 
				hữu tình, là tâm, là cảnh, là phàm, là thánh đều do “tánh duy 
				thức” biến hiện nên không có sai khác. Nói cách khác khi Ngài Di 
				Lặc chứng được “chơn duy thực tánh” thì không còn thấy thật có 
				tướng duy thức vì tất cả mười phương Như Lai, quốc độ, sắc không 
				đều không có món nào ra ngoài “thức tánh” ấy mà tự có. Tại sao? 
				Bởi vì thức tánh chính là Như Lai Tạng bản thể mà duyên khởi 
				phát sinh ra nhân sinh vũ trụ tức là bất biến tùy duyên. Các 
				pháp đã là thức tánh thì tất cả đều là tự tánh viên mãn, thành 
				tựu chân thật, không còn có thật ngã và ngã sở, xa lìa biến kế 
				sai lầm, chứng pháp vô sanh nhẫn. 
				 
				Bồ-tát Di Lặc chuyên tu theo Duy thức nên còn tâm phân biệt có 
				pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng và có đạo quả Bồ-đề để 
				thành. Vì thức là cái biết do sự phân biệt nên cần phải chuyển 
				thức thành trí thì mới có đầy đủ trí tuệ sáng suốt. 
				 
				Dựa theo Duy Thức Luận thì khi chúng sinh có được giải thoát 
				giác ngộ thì họ chuyển tám thức thành bốn trí. Đó là : 
				 
				1) Ý thức hay thức thứ sáu có tác dụng phân biệt sẽ biến thành 
				“Diệu Quan Sát Trí” tức là trí có năng lực quan sát thâm diệu có 
				thể thấy được hằng sa thế giới và thấy được tất cả tâm niệm sở 
				cầu trong mỗi chúng sinh. Nhờ sự quan sát huyền diệu rốt ráo như 
				thế mà tùy theo nguyện vọng, tâm lý, sở cầu mà Bồ-tát làm lợi 
				lạc cho chúng sinh. 
				 
				2) Còn nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức sẽ 
				biến thành “Thành Sở Tác Trí” tức là cái trí nầy có những công 
				năng vô cùng rộng lớn như thị hiện thần thông, biến hóa, hiện ra 
				ba món hóa thân để tùy theo căn cơ của chúng sinh mà hóa độ. 
				 
				3) Mạt na thức tức là thức chấp ngã sẽ biến thành “Bình đẳng 
				tánh trí” là trí có năng lực nhận thức tính bình đẳng và vô ngã 
				của vạn pháp. 
				 
				4) A lại da thức là thức thứ tám sẽ biến thành “Đại viên cảnh 
				trí” tức là trí sáng như tấm gương lớn và tròn đầy cũng như biển 
				cả chơn như. 
				 
				Khi Bồ-tát Di Lặc tin vào lời nói Thọ ký, tin vào văn tự “Một 
				đời sẽ thành Phật” và tin vào chứng quả Bồ-đề thì Ngài tượng 
				trưng cho Sai Biệt Trí, nhưng dựa vào Bản Thể, Pháp Tánh thì 
				không còn có sự phân biệt mà phải lìa tất cả văn tự, ngôn ngữ để 
				thấy tất cả không Hai tức là Bất Nhị. Đây chính là Căn Bản Trí 
				tức là giác tính minh diệu mà mỗi chúng sinh vốn đã có sẳn nhưng 
				bị vô minh phiền não che lấp nên chưa được phát chiếu cũng như 
				chất vàng còn nằm trong quặng lẫn lộn với đất, cát, sỏi, đá. 
				 
				Khi đã thấu hiểu rằng Đức Phật không những chỉ thọ ký cho Bồ-tát 
				Di Lặc mà Ngài còn thọ ký cho tất cả chúng sinh vì ai ai cũng 
				sẳn có cái Phật Tánh thanh tịnh bản nhiên. Và một đời sẽ thành 
				Phật là nói theo giáo lý phương tiện chớ thật ra không có cái 
				móc thời gian nào có thể đo được khi nào là một đời cả vì ngay 
				trong đời hiện tại thì chúng ta cũng đã có quá khứ và vị lại 
				hiện diện rồi. Nói cách khác, về phương diện thời gian không có 
				bất cứ một thời điểm đặc biệt nào làm thời điểm zero để sau đó 
				phân chia cái âm thì thuộc quá khứ hay cái dương thì thuộc về 
				hiện tại như trong toán học. Sau cùng cũng không có cái gì là 
				Bồ-đề hay chứng đắc cả vì nếu con người biết lìa xa vọng thức mê 
				lầm quay về sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình thì 
				Bồ-đề hiển hiện. 
				 
				Như thế thì không riêng gì Bồ-tát Di Lặc được Phật thọ ký mà 
				chính Đức Phật cũng đã thọ ký cho tất cả chúng sinh từ lâu rồi. 
				 
				Thế là : 
				 
				Chẳng cần chờ đến “Long Hoa hội” 
				Tự tánh đã từng “thọ ký” xong. 
				 
				Trí tuệ của mọi người là thật tánh để có khả năng trực nhận chân 
				lý mà Tự tánh thanh tịnh hay Phật Tánh là có sẳn trong tất cả 
				mọi người. Tự tánh luôn vắng lặng thanh tịnh thì cần gì phải 
				chứng đắc Niết bàn. Bồ-đề, Phật Tánh là có sẵn chớ đâu phải tu 
				hành đắc đạo mới có. Khi mê vọng điên đảo thì không biết mình có 
				Phật Tánh thanh tịnh. Lúc thức tỉnh thì nó hiện ra cũng như 
				trong túi luôn có viên ngọc quý Ma ni mà không biết, chỉ cần thò 
				tay vô lấy thì cuộc đời sẽ hết nghèo đói, điên đảo khổ đau ngay. 
				Trong tánh Không tức là Tự 
				Tánh thanh tịnh bản nhiên thì không có trí tuệ hay chứng đắc gì 
				cả. Vì thế Tâm Kinh mới có câu: “Vô trí diệc vô đắc” và “Dĩ vô 
				sở đắc cố” là vậy. Trong Chân Không Diệu Tánh, Phật Tánh thì 
				luôn sẵn có cho nên chứng đắc chỉ là cách nói, là giả danh để 
				tìm thấy được con người thật tức là Bản Lai Diện Mục của mình mà 
				thôi. Vì thế mà Kinh Hoa Nghiêm, Phật đã dạy rằng: “Tất cả chúng 
				sinh sẽ thành Phật vì trong tất cả chúng sinh đều có đủ phước 
				đức trí tuệ Phật”. Và Đức Phật đã dạy trong Kinh Pháp Hoa trước 
				khi Ngài nhập Niết bàn là “Tất cả chúng 
				sinh đã thành Phật”. 
				Trong Kinh Kim Cang, Đức 
				Phật Thích Ca dạy rằng “Như Lai không chứng đắc quả Vô thượng 
				Chánh đẳng Chánh giác gì cả”. Sở dĩ Ngài không chứng mà thế gian 
				đều tôn trọng Ngài là vì Như Lai không có tướng ngã, không có 
				tướng nhơn, không có tướng chúng sinh và cũng không có tướng thọ 
				giả. Như Lai nhìn vạn pháp đều bình đẳng không thương, không 
				ghét, không giận không hờn, không thiên không vị. Và Như Lai 
				luôn sống trong thiện pháp chớ không lọt vào trong quỷ đạo của 
				ác pháp cho nên người đời gọi Như Lai chứng quả Vô thượng Bồ-đề 
				chớ thật ra Như Lai đâu có chứng đắc gì đâu. Nhưng Như Lai nói 
				không chứng đắc mà thật ra Như Lai có chứng đắc. Cái chứng đắc 
				nầy là vô thực và vô hư tức là không phải thật và cũng không 
				phải là không. 
				Tại sao không là thật? Bởi 
				vì cái mà Như Lai chứng đắc thì không có hình tướng, không có 
				màu sắc, không có kích thước, nặng nhẹ, không có văn tự ngôn ngữ 
				để diễn tả. Thế thì cái mà Như lai chứng đắc là không thật có. 
				Nhưng nếu không thật thì phải là hư. Vậy mà cái quả chứng đắc 
				của Như Lai lại là vô hư. Tại sao? Là vì Như Lai có đầy đủ trí 
				tuệ để nhận thức chân lý hoàn toàn đúng, đúng theo tự tánh Bồ-đề 
				và tự tánh thanh tịnh Niết bàn của sự vật hiện tượng, đúng theo 
				Thật Tánh của con người, đúng theo Pháp Tánh của vạn pháp cho 
				nên Như Lai không bao giờ có vô minh phiền não khổ đau, tâm luôn 
				thường trụ Niết bàn. Thế thì quả chứng đắc chính là vô hư tức là 
				không phải là không có. Cho nên Tâm Kinh mới có câu :  
				“Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc” có nghĩa là Có tức là 
				Không và Không mới chính là Có vậy. 
				 
				Con người đã có sẵn cái khả năng nhận thức khách quan mà đạo 
				Phật gọi là tự tánh thanh tịnh bản nhiên. Chính cái tự tánh 
				thanh tịnh khách quan sẽ giúp chúng ta có khả năng nhận thức mọi 
				hiện tượng trong thế gian nầy một cách khách quan, đứng đắn đúng 
				với sự thật. Nhưng chúng ta lúc nào cũng chạy theo chủ quan tức 
				là chạy theo tham-sân-si, mạn, nghi, phiền não, vô minh nên đánh 
				mất đi cái nhìn khách quan, cái tự tánh thanh tịnh tức là cái 
				trí tuệ trong sáng của mình nên chúng ta không có Bồ-đề là vậy. 
				 
				Vì Bồ-đề không phải là cái mà từ bên ngoài đưa đến hay cố gắng 
				nỗ lực để đạt được mà Bồ-đề đã có sẵn trong tất cả mọi chúng 
				sinh. Vì thế nếu con người phá được màn vô minh hắc ám, thấy 
				được thật tướng của nhân sinh vũ trụ thì Bồ-đề hiển hiện. Niết 
				bàn thì cũng thế, nếu chúng sinh biết loại bỏ tánh tham, tật đố, 
				không giận không hờn, không vui không buồn thì Niết bàn hiển 
				hiện ngay. Nhà Phật không quan trọng về vui hay hạnh phúc bởi vì 
				có vui thì sẽ có lúc buồn và hạnh phúc thì sẽ biến thành đau 
				khổ. Cái mà đạo Phật chú trọng nhất là sự an lạc thanh tịnh từ 
				trong nội tâm vì đó là sống với trí tuệ sáng suốt triệt để, là 
				chơn tâm, là tự tánh thanh tịnh của mình. 
				 
				Ngày xưa, lúc Lục Tổ trụ trì ở chùa Nam Hoa, Vĩnh Gia Đại sư 
				nghe lối truyền “tâm ấn” của Thiền tông. Đó là “Nhĩ đề diện 
				mệnh, khẩu thọ tâm hội” nghĩa là “đối diện rỉ tai, lời trao tâm 
				lãnh” nên Sư không ngại ngàn dặm đường xa tìm đến Lục Tổ để cầu 
				ấn chứng. 
				 
				Lúc Sư đến thì cùng lúc Lục Tổ đang thuyết pháp. Sư đắp y, tay 
				cầm tích trượng tiến lên pháp tòa, đi nhiễu bên phải ba vòng, 
				rồi đứng trước Lục Tổ, không cúi đầu đảnh lễ mà quát lớn một 
				tiếng. 
				Tổ hỏi : 
				 
				- Người xuất gia gọi là Sa-môn phải có phép tắc, phải đủ ba trăm 
				oai nghi, ba ngàn tế hạnh. Tại sao ông tới đây mà lại có thái độ 
				thô lỗ như vậy, một chút lễ phép cũng không có? 
				 
				Vĩnh Gia đáp : 
				 
				- Sanh tử là việc lớn, vô thường quá mau. 
				 
				Ý Sư muốn nói rằng việc dụng công tu tập quá cấp bách nên không 
				còn thời gian để làm lễ. Chuyện sống chết quá to lớn, con quỷ vô 
				thường nó đến bất cứ lúc nào nên không có thì giờ hành lễ hay 
				nghiên cứu cái gì là ba trăm oai nghi hay ba ngàn tế hạnh cả. 
				 
				Tổ bèn nói : 
				 
				- Sao chẳng thể giải cái không sanh và liễu ngộ cái không mau 
				chóng? 
				 
				Ý Tổ muốn nói rằng tại sao Sư không nghiên cứu pháp vô sanh là 
				để đối lại với sanh tử? Tạo sao không thấu hiểu đạo lý của cái 
				không mau là để đối lại với cái vô thường quá mau. 
				 
				Sư thưa lại : 
				 
				- Thể giải tự tánh tức là không sanh, liễu ngộ tự tánh rồi thì 
				vốn không có mau chóng. 
				 
				Ý Sư nói rằng khi đã quay về với thể tánh thanh tịnh tức là sống 
				với chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh của mình thì làm 
				gì còn sống chết tức là vô sanh. Và một khi sống với cái tự tánh 
				thanh tịnh đó thì không còn quá khứ, hiện tại hay vị lai tức là 
				tâm không còn bị thời gian (ngoại trần) giả dối chi phối. 
				 
				Tổ bảo : 
				 
				- Nếu ông đã nói rằng thể giải tức vô sanh, ngộ rồi thì vốn 
				không có mau chậm, vậy ai là kẻ phân biệt? 
				 
				Ý của Tổ là: tuy biết rằng hễ liễu ngộ chơn tâm Phật tánh thì 
				bất sanh bất tử, không còn già trẻ sống chết đổi thay, nhưng ai 
				là người nói? Vì hễ có nói là hư vọng, đâu còn là chân thật cho 
				nên chơn tâm biến mất. 
				 
				Sư đáp : 
				 
				- Phân biệt cũng chẳng phải ý. Nghĩa là không có tâm niệm ở chỗ 
				phân biệt. 
				 
				Ý của Sư là biết chớ chẳng nói ra. Nói là nói vậy thôi chớ không 
				có ý niệm nói. Vì thế mà ngày xưa chính Đức Phật tuy thuyết pháp 
				độ sinh suốt 49 năm, nhưng Ngài nói “Ta chưa hề nói một chữ” bởi 
				vì cái mà nói được thì không thật. 
				 
				Liền đó, Lục Tổ bèn ấn chứng cho Vĩnh Gia Đại sư. 
				 
				- Đúng thế! Đúng thế! 
				 
				Sư thấy Tổ đã ấn chứng cho mình, bèn dùng đầy đủ oai nghi lễ tạ 
				Tổ. Sau đó Sư xin cáo từ. 
				 
				Tổ thấy Sư tới nơi chỉ nói mấy câu rồi ra đi, mới hỏi rằng: 
				 
				- Sao lại ra đi quá mau như vậy? 
				 
				Sư thưa : 
				 
				- Vốn tự không động, há có mau ư? 
				 
				Ý Sư muốn nói bổn lai không đến không đi thì làm gì có mau 
				có chậm? 
				 
				- Ông thật đã chứng được vô sanh! 
				 
				- Vô sanh có ý sao? 
				 
				- Không ý, cái gì phân biệt được? 
				 
				- Phân biệt cũng không phải ý. 
				 
				- Ông có thể liễu, nhưng không nên đi. 
				 
				Lúc đó Sư biết Lục Tổ quả đã ấn chứng cho mình nên Sư ở lại chùa 
				Nam Hoa một đêm. Vì thế mà người đương thời gọi Sư là “Nhất túc 
				giác” nghĩa là ngộ một đêm. Vĩnh Gia Đại sư là người đã nghiêm 
				trì kinh Duy Ma Cật đến chỗ liễu ngộ và về sau viết ra “Chứng 
				Đạo Ca”. 
				
				
				 |  
				 |