| 
				   
				Đức Phật bảo A Nan : 
				- Có gì khác nhau giữa màu đen tối mà người mù thấy được và màu 
				tối đen mà người sáng mắt nhìn thấy khi họ ở trong phòng tối? 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy.Bottom of 
				Form 
				  
				Phật bảo : 
				- A Nan! Nếu người mù 
				chỉ thấy được màu tối đen khi bỗng dưng được sáng mắt lại nên 
				thấy được đủ loại sắc tướng. Ông gọi đó là do mắt thấy. Và khi 
				người ở trong phòng tối kia, chỉ thấy phía trước hoàn toàn màu 
				đen, bỗng dưng thấy được mọi vật nhờ có đèn sáng, lẽ ra nên gọi 
				là đèn sáng đúng hơn. Nếu cái thấy do đèn thì đèn có được cái 
				thấy, và nếu là đèn thấy thì quan hệ gì đến ông? Thế nên phải 
				biết, đèn làm cho ta thấy rõ được mọi vật, còn cái thấy là do ở 
				mắt, chớ không phải đèn. Khi mắt nhận rõ các vật thể thì “tánh 
				thấy” đó chính là tâm, chớ không phải là mắt. 
				 
				Sau khi Phật chỉ sự khác nhau giữa cái tánh thấy và sự thấy của 
				mắt thì bây giờ ông A Nan lại lý luận rằng người mù thấy tối đen 
				thì cái tối đen đâu phải cái thấy. Phật lại dạy tiếp nếu cho 
				rằng người mù chỉ thấy tối đen không phải là cái thấy, còn người 
				sáng mắt ngồi ở trong một căn phòng kín tối đen thì người sáng 
				mắt cũng chỉ thấy một màu đen có khác gì người mù đâu. Vậy nếu 
				người mù và người sáng mắt cùng ngồi trong căn phòng kín tối đen 
				thì cái thấy của họ có khác gì nhau. Phật lại dạy tiếp rằng nếu 
				người mù bỗng dưng được sáng thì ông A Nan gọi cái thấy đó là do 
				mắt thấy. Nhưng nếu cùng lý luận như vậy thì người sáng mắt ngồi 
				trong căn phòng kín tối đen bỗng dưng có đèn sáng nên thấy được 
				mọi vật thì cái thấy bây giờ là do đèn chớ đâu phải do mắt. Điều 
				này là sai. 
				Vậy mắt thấy hay tâm thấy? 
				 
				Nếu nói rằng mắt thấy thì sai lầm, thiển cận mà cho rằng không 
				phải con mắt thấy lại càng sai. Còn nếu nói rằng tâm thấy thì 
				tâm thấy là cái tâm nào? Kinh Phật dạy rằng : “Quá khứ tâm bất 
				khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc” nghĩa 
				là tâm quá khứ đã diệt, tâm hiện tại quay cuồng, tâm tương lai 
				chưa đến. Vậy lấy cái tâm nào để thấy? 
				 
				Ngày xưa ngài Huệ Khả quỳ trước cửa chùa ba năm ròng rã để cầu 
				pháp với Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Thấy Huệ Khả có lòng, Tổ hỏi : 
				 
				- Ông đến đây cầu gì? 
				 
				Huệ Khả đáp : 
				- Con cầu pháp để tâm được 
				an. 
				 
				Tổ hỏi : 
				- Ông đem tâm đến đây ta an 
				cho. 
				 
				Huệ Khả tìm kiếm mãi mà không thấy được tâm vì tâm biến hiện 
				theo thời gian, không dừng trụ thì làm sao lấy ra được. Tâm là ý 
				niệm, là vọng tưởng nên thay đổi không ngừng. Mỗi sát na có tới 
				900 ý niệm tức là 900 cái tâm thì biết cái tâm nào mà lấy. Khi 
				chúng sinh dứt trừ hết vọng niệm thì chơn tâm hiện bày, Phật 
				tánh biểu lộ thì tự họ sẽ có an vui tự tại. Ngược lại, nếu tâm 
				mình chất đầy vọng tưởng, chạy theo tham đắm lợi danh mà về chùa 
				nhờ các sư cầu an thì làm sao mà an cho được. Một người ăn mặn 
				khát nước mà muốn người khác uống nước dùm thì làm sao hết khát 
				được. Muốn tâm an thì chính mình phải diệt trừ bớt vọng niệm, lo 
				tu tâm dưỡng tánh, biết sống tri túc thiểu dục thì tâm sẽ được 
				an. Kinh Lăng Nghiêm giúp chúng sinh loại trừ mọi tà kiến để có 
				cuộc sống thanh thản, an nhàn và tự tại. 
				Khi Phật nói tâm thấy là ý Ngài muốn dạy A Nan về bát thức tâm 
				vương trong duy thức luận. Đó là tám thức có công năng thù 
				thắng, cũng như ông vua có oai quyền thế lực, thống trị thiên hạ 
				nên gọi là “tâm vương”: 
				 
				1) Nhãn thức: Cái biết của mắt, vì thức này nương Nhãn căn, khởi 
				ra tác dụng phân biệt về sắc trần. 
				 
				2) Nhĩ thức: Cái biết của lỗ tai, vì thức này nương Nhĩ căn khởi 
				ra tác dụng phân biệt về thanh trần. 
				 
				3) Tỷ thức: Cái biết của mũi, vì thức này nương tỷ căn khởi ra 
				tác dụng về hương trần. 
				 
				4) Thiệt thức: Cái biết của lưỡi, vì thức này nương tựa Thiệt 
				căn  khởi ra tác dụng phân biệt vị trần. 
				  
				5) Thân thức: Cái biết của 
				thân, vì thức này nương Thân căn khởi ra tác dụng phân biệt xúc 
				trần. Trong tám thức tâm vương thì năm thức này ở bên ngoài và 
				trước, nên cũng gọi là “Tiền ngũ thức”. 
				  
				6) Ý thức: Cái biết của ý, 
				nương tựa Ý căn khởi tác dụng phân biệt Pháp trần. Trong tám 
				thức duy có thức thứ sáu này rất lanh lẹ và khôn ngoan hơn hết 
				vì con người có suy nghĩ làm việc lành, thức này đứng đầu; còn 
				tính toán tạo việc ác thì nó cũng hơn cả. 
				 
				7) Mạt-na-thức: Thức này có công năng truyền các pháp hiện hành 
				vào Tàng thức và tổng đưa các pháp chủng tử khởi ra hiện hành. 
				 
				8) A-lại-da thức: Thức này có công năng chứa đựng chủng tử của 
				các pháp 
				 
				Dựa theo Duy Thức học, Tiền ngũ thức và nhãn thức tác động là 
				một. Khi tiền ngũ thức tiếp xúc với ngũ trần (sắc, thanh, hương, 
				vị, xúc) thì chỉ thông qua “hiện lượng”. Hiện lượng là sự lượng 
				biết còn trong đệ nhất sát na chớ chưa chuyển qua thành ý thức 
				phân biệt. Sự tiếp thu tiền cảnh của tiền ngũ thức cũng giống 
				như sự tiếp thu âm thanh và hình ảnh của một chiếc máy quay 
				phim. Hình ảnh, cảnh giới, âm thanh bên ngoài thế nào thì chiếc 
				máy ghi nhận y như vậy, không thêm không bớt. Cái thấu kính chỉ 
				cho hình ảnh, âm thanh, màu sắc bên ngoài xuyên vào, nhưng muốn 
				ghi lại những hiện tượng trên thì máy quay phim cần phải có 
				phim, có memory stick để lưu giữ. Do đó khi nói mắt thấy thật ra 
				mắt chỉ tiếp thu làm tỏ rõ các vật sắc cũng như cái thấu kính, 
				mà thấy biết cần phải có ý thức tâm vương cộng vào. Vì thế ông A 
				Nan cho rằng mắt thấy thì bị Phật quở là đúng rồi. 
				 
				Một thí dụ khác là con mắt của con người ví như bóng đèn điện, 
				còn cái thấy của họ giống như dòng điện. Khi bóng đèn hư ví như 
				người mù thì đèn không cháy, chớ không phải dòng điện mất hay bị 
				cúp điện. Đến khi thay bóng mới ví như người mù được sáng mắt 
				thì đèn cháy trở lại. Dù bóng đèn hư hay mới thì dòng điện lúc 
				nào cũng có trong dây điện. Tánh thấy cũng vậy, cho dù con người 
				có mắt hay bị mù thì tánh thấy lúc nào cũng ở với họ. Chỉ khác 
				là sáng mắt thì thấy màu sắc huy hoàng, còn mù thì chỉ thấy toàn 
				màu đen. 
				 
				Do đó cái thấy của mắt chỉ là hiện lượng cho nên con mắt là 
				phương tiện tỏ rõ sự vật, mà “tánh thấy biết” mới là bản tâm của 
				chính mình. 
				
				
				 |  
				 |