| 
				   
				Mặc dù A Nan và đại chúng được nghe Như Lai 
				chỉ dạy như thế, nhưng tâm chưa được khai ngộ nên vẫn im lặng, 
				mong Như Lai thương xót chỉ dạy thêm, nên đồng đứng dậy chắp tay 
				lắng lòng trong chờ đức Phật chỉ dạy. 
				 
				Tuy Phật đã giải thích rõ ràng cái thấy và tánh thấy của mắt để 
				giúp ông A Nan và đại chúng thấu biết mà quay về với bản tâm của 
				chính họ, nhưng A Nan chưa phá được tâm vọng chấp đang bị kẹt 
				cứng ở nơi sắc uẩn và thọ uẩn nên tâm vẫn còn mờ mịt không biết 
				lối quay về. 
				Ông không biết thỉnh cầu gì 
				nữa, miệng thì im lặng mà tâm vẫn chưa tỏ ngộ nên chỉ biết đồng 
				đứng dậy mong sự chỉ dạy của đức Thế Tôn. 
				 
				Bấy giờ đức Thế Tôn giơ cánh tay 
				mềm mại lên, bảo ông A Nan và đại chúng rằng: 
				 
				- Sau khi thành đạo, lần đầu tiên ở vườn Lộc Uyển, Như Lai có 
				dạy cho năm anh em tỳ kheo A Nhã Kiều Trần Như rằng tất cả chúng 
				sinh không thành Vô Thượng Bồ-đề mà chỉ thành A la hán, do vì 
				phiền não khách trần làm mê hoặc. Lúc đó các ông nhân đâu mà 
				được khai ngộ, thành tựu quả vị thánh? 
				Ông Kiều Trần Như đứng dậy thưa : 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Nay hàng trưởng lão trong hàng đại chúng, chỉ 
				riêng con được danh hiệu là Giải nghĩa là Hiểu. Nhờ ngộ được hai 
				chữ khách trần mà thành tựu quả vị. Khách là người đi đường, khi 
				cần họ vào quán trọ thuê phòng hoặc ở, hoặc ngủ, hoặc ăn. Ăn ngủ 
				xong xếp hành lý lên đường, không ở luôn được. Còn người chủ thì 
				vĩnh viễn không phải đi đâu nữa. Từ suy nghĩ đó, con hiểu rằng : 
				Khách có đến, có đi; còn chủ thì ở luôn không đi đâu hết. 
				 
				Về nghĩa chữ trần, thì lúc mặt trời mới lên, ánh sáng xuyên vào 
				các kẽ hở, lỗ thủng của mái nhà. Nhìn theo làn ánh sáng trong 
				khoảng hư không yên lặng ấy, con thấy vô số bụi trần li ti loạn 
				động, cuồn cuộn tung bay; còn hư không thì đứng lặng. Thế nên 
				con suy nghĩ, trong lặng gọi là hư không còn lay động là trần. 
				 
				Nếu người Phật tử chịu tư duy quán 
				chiếu tức là có thiền định thì sẽ hiểu rằng tại sao trong đại 
				chúng rộng lớn mà Phật lại dùng pháp môn khách trần của ông Kiều 
				Trần Như. Đức Phật đã dạy quá rõ ràng rằng cái thấy, cái nghe, 
				cái ngửi, cái nếm, cái biết, cái xúc hay nói một cách tổng quát 
				là những tác dụng nhận thức của sáu giác quan không phải là chơn 
				tâm, nhưng chúng cũng không rời ngoài chơn tâm mà có. Chơn tâm 
				thì thường hằng bất biến, lúc nào cũng có cũng như chủ khách 
				sạn. Ngược lại vọng thức thì có đến có đi giống như khách vào 
				quán trọ. Tiền trần luôn luôn thay đổi lúc có lúc không thì sự 
				hồi tưởng lại cái tướng của tiền trần (thọ uẩn) cũng sinh sinh 
				diệt diệt. 
				Vì vậy Đức Phật gọi sự hồi 
				tưởng bóng dáng tiền trần vào trong ký ức phân biệt chỉ là vọng 
				tâm, là những phiền não khách trần. Vì là khách cho nên có đến 
				có đi và vì là trần nên không có giây phút nào yên lặng. Trong 
				sự loạn động quay cuồng của trần, còn có hư không yên lặng không 
				hề lay chuyển. Do đó sự nhận thức của sáu giác quan luôn luôn 
				thay đổi từng sát na, từng giây, từng phút, nhưng bên trong sự 
				thay đổi sinh diệt đó, con người còn có một cái thường trụ, bất 
				sinh bất diệt là sự thanh tịnh thường hằng bất biến mà được gọi 
				là chơn tâm. Vì thế nếu ngộ thì trong vọng tâm con người sẽ tìm 
				thấy chơn tâm thường trú. 
				Ngược lại nếu còn mê thì 
				chỉ có toàn vọng tưởng, bóng dáng của tiền trần. Thí dụ như bây 
				giờ mắt chúng ta nhìn ra ngoài đường, thấy xe chạy, cảnh giới 
				náo nhiệt nên tâm duyên theo mà có sự phân biệt ý niệm. Vài phút 
				sau, điện thoại reo và tai bắt đầu nghe biết bao câu chuyện nhân 
				tình thế thái khác. Tâm lại duyên theo âm thanh mà khởi thêm ý 
				niệm phân biệt. Cái tâm thấy biết được thay thế bởi cái tâm nghe 
				điện thoại và như thế vọng tâm liên tục đến đi, đi đến trong tâm 
				của chúng ta. Do đó nếu là chơn tâm thì lúc nào cũng vậy, không 
				lên bổng xuống trầm, không bị sống chết đổi thay cũng như hư 
				không yên lặng mặc cho bụi trần tha hồ loạn động. Vì thế không 
				chạy theo tiền trần mà quay về sống với chơn tâm thì con người 
				có được thanh tịnh Niết bàn. Ngược lại, quên bỏ chơn tâm chạy 
				theo lục dục thất tình thì cuộc sống sẽ đeo mang hệ lụy phiền 
				não khổ đau. 
				 
				Phật bảo : Đúng vậy. 
				 
				Khi ấy Như Lai ở trong đại chúng co năm ngón tay lại, co rồi lại 
				mở, mở rồi lại co. Rồi hỏi A Nan : 
				 
				- Nay ông thấy gì? 
				 
				- Con thấy bàn tây Phật, nắm lại rồi mở ra. A Nan đáp. 
				 
				Đức Phật hỏi : 
				- Ông thấy tay tôi có 
				nắm có mở hay cái thấy của ông có nắm có mở? 
				 
				A Nan thưa : 
				- Tay Phật có nắm có mở, 
				chớ cái thấy của con làm sao có nắm có mở được! 
				 
				Phật lại hỏi : 
				- Cái nào động, cái nào 
				tịnh? 
				 
				A Nan thưa : 
				- Thưa, Bàn tay của Phật 
				không yên, chớ cái thấy của con còn không có tịnh thì làm chi có 
				động! 
				 
				Phật bảo : Đúng vậy. 
				 
				Đây là lần đầu tiên Phật khen A Nan 
				nói đúng. Mặc dầu ông A Nan chưa hoàn toàn ngộ về bản tâm, nhưng 
				đây là những bước căn bản vững chắc đưa ông ta đến chỗ ngộ. 
				 
				Bấy giờ từ trong lòng bàn tay, Như 
				Lai phóng đạo hào quang báu chiếu đến vai bên phải của A Nan, A 
				Nan liền quay đầu qua bên phải để nhìn. Đức Phật lại phóng một 
				hào quang khác qua vai trái, A Nan liền quay sang bên trái để 
				nhìn. Đức Phật bảo A Nan : 
				 
				Nay đầu ông tại sao lại lay động? 
				 
				A Nan thưa : 
				- Con thấy hào quang của 
				Phật phóng ra bên phải và bên trái của con. Đầu con lay động bởi 
				ngó theo hào quang của Phật. 
				 
				Phật hỏi : 
				- Đầu ông lay động quay 
				bên phải bên trái. Vậy cái đầu ông động mà cái thấy của ông có 
				động chăng? 
				 
				Bạch Thế Tôn! Đầu con tự lay động, chớ cái thấy còn không biết ở 
				chỗ nào, thì lấy gì mà lay động! 
				 
				Phật bảo : Đúng vậy. 
				  
				Đức Phật dùng một thí dụ 
				khác để trắc nghiệm về sự ngộ chơn tâm của A Nan. Nếu tánh thấy 
				mà cố định, không dời đổi theo tiền trần thì cái tánh thấy này 
				là chủ nhân ông, còn sự lay động của cái đầu chỉ là khách trần 
				tức là vọng tưởng. Hai lần hỏi, A Nan nói đúng cả hai nên được 
				Phật khen. 
				 
				Bấy giờ, Phật bảo ông A Nan : 
				 
				- Mọi người ai cũng có thể nhận biết: Không ở luôn là khách, chủ 
				thì vĩnh viễn không đi đâu. Bụi trần thì lay động còn hư không 
				tuyệt nhiên yên lặng. Có nắm có mở là tay, cái thấy thì không có 
				nắm mở. Quay qua quay lại là đầu, tánh thấy thì không hề xoay 
				chuyển. 
				 
				Vậy mà các ông hiện nay lấy cái động làm thân, cái động làm tâm, 
				lấy cái động là cảnh, bỏ mất đi tâm tánh chân thường, bất động, 
				yên lặng nó thường ở luôn với mình. Hằng ngày làm những việc 
				trái ngược, nhận vật làm thân, nhận vọng tưởng làm tâm, xoay vần 
				trong đó nên bị trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi. 
				 
				Sau khi Phật gạn hỏi A Nan nhiều lần cái gì thấy, mắt thấy hay 
				là tâm thấy? Tâm thấy cách nào hoặc là tâm ở đâu? Phật đã đặt ra 
				bao nhiêu câu hỏi cho đến chỗ lý cùng trí tận để giúp A Nan và 
				đại chúng tỏ bày được chơn tâm. Đức Phật đã nhắc lại rằng khách 
				và trần đều là động, một ở bên ngoài và một ở bên trong. Ngoại 
				trần là do gió nghiệp tạo thành nên luôn luân chuyển, biến đổi. 
				Vì tâm duyên theo cảnh bên ngoài nên phát sinh ra muôn vàng ý 
				niệm. Những ý niệm này là khách vì chúng luôn biến đổi, không 
				bao giờ ở một nơi nào cố định, vừa thấy đó đã biến mất. Vì thế 
				nếu chúng sinh không sống với bản tâm thanh tịnh, với chơn tâm 
				thường trú mà chạy theo khách trần động niệm làm cho tâm sinh ra 
				thương yêu, giận hờn, đố kỵ, ghen ghét, tham muốn rồi tự gây ra 
				bao nhiêu nghiệp chướng để phải chịu trôi nổi trong sinh tử luân 
				hồi. 
				 
				 A Nan Cầu Phật Chỉ Dạy ở Nơi Thân Này cái Nào “Chơn”, Cái 
				Nào “Vọng” 
				 
				Khi ấy A Nan và đại chúng nghe Phật chỉ dạy, thân tâm thư 
				thái, nghĩ mình từ vô thỉ đến nay quên mất bản tâm, nhận lầm sự 
				phân biệt bóng dáng duyên trần phân biệt làm tâm. Ngày nay được 
				Phật khai ngộ, như trẻ thơ khát sữa bỗng gặp được mẹ hiền, đồng 
				chắp tay lễ Phật, cầu xin chỉ cho chỗ chân vọng hư thực và phát 
				minh tánh sinh diệt cùng không sinh diệt nơi thân tâm. 
				 
				Bấy giờ vua Ba Tư Nặc đứng dậy thưa : 
				-    Bạch 
				Thế Tôn! Xưa khi chưa được Đức Phật chỉ dạy, con gặp bọn ngoại 
				đạo Ca Chiên Diên (chấp các pháp cũng có cũng không), Tỳ La Chi 
				Tử (chấp mãn kiếp tự nhiên đắc đạo) đều nói rằng: Thân này chết 
				rồi là mất hẳn, gọi đó là Niết bàn. Nay tuy được gặp Phật, nghe 
				pháp, nhưng con vẫn còn hồ nghi. Làm sao để phát huy thực chứng 
				tánh không sanh không diệt nơi tâm này? Hiện nay hàng hữu lậu 
				trong đại chúng đều mong được nghe điều ấy. 
				 
				Ông A Nan nghe Phật khai thị về khách trần ở đoạn trên để nói rõ 
				thân cảnh động thì cũng là bất động, hay có sinh diệt cũng có 
				nghĩa là không sinh diệt. Tuy đã lãnh hội nhưng ông A Nan vẫn 
				còn nhận tâm phân biệt duyên trần (tâm phan duyên) làm chơn tâm 
				nên chưa thấy được thể tánh bất sinh bất diệt. Vì thế ông cùng 
				đại chúng ước mong đức Thế Tôn lúc bấy giờ chỉ bày thế nào là 
				chân thật? thế nào là hư vọng? thế nào là sinh diệt? và cái gì 
				là không sinh diệt? khiến cho hai thể “chân vọng” được thấu hiểu 
				rõ ràng. Một lần nữa tâm nguyện của A Nan vẫn còn lờ mờ chưa 
				sáng tỏ. Vì thế mà vua Ba-tư-nặc nhân đó mà thỉnh thị. 
				 
				Trước khi gặp Đức Phật, vua Ba-tư-nặc tôn sùng ngoại đạo 
				Ca-chiên-diên mà vị giáo chủ tên là Ca-la-cưu-đà. Giáo phái này 
				chủ trương con người khi chết thì mất hết và sự mất hẳn này 
				chính là Niết bàn. Họ nghĩ rằng: “Tu nhơn đức già đời cũng chết, 
				hung hăng bạo ngược tận số cũng chẳng còn”. Vì tin tưởng như thế 
				mà luật nhân quả luân hồi đối với họ không còn ý nghĩa nên họ 
				mặc tình làm điều tội lỗi. Đây là tư tưởng “đoạn kiến” vậy. 
				Ngoài ra nhà vua còn nghe theo phái ngoại đạo khác tên là 
				San-xà-dạ-tỳ-la-chi-tử. Phái này chấp các pháp là tự nhiên có 
				nghĩa người chết sẽ sanh ra người, thánh nhân chết sẽ trở lại 
				làm thành nhân, có tu hay không tu cũng như nhau. Họ không sợ 
				tội ác nên chẳng cần làm thiện. Đây là tư tưởng “thường kiến”. 
				 
				Đối với tư tưởng đoạn kiến tức là chết rồi mất hẳn được phổ biến 
				rất nhiều nơi ngoài Ần độ. Họ quan niệm rằng khi người chết rồi 
				thì khí trong bay lên trời, khí đục thì quay về đất, còn tánh 
				linh thì trở về với hư không. Đây là tà kiến đoạn diệt bởi vì 
				nếu tánh linh thật sự trở về với hư không thì làm sao có nhân 
				quả? Mà nhân quả là chân lý khách quan của nhân sinh vũ trụ chớ 
				đâu chỉ riêng cho Phật giáo. 
				Vào thế kỷ thứ 18, thi hào Tố Như viết như sau: 
				 
				“…Rằng: Những đấng tài hoa 
				Thác là thể phách, còn là 
				tinh anh” 
				 
				Phách là thân tứ đại thì mất, tan rã. Cái duy nhất còn lại của 
				con người mà thi hào Tố Như gọi là tinh anh thì có thể hiểu là 
				cái linh hồn, thần thức, giác linh hay linh tri… Nhưng sau khi 
				chết thì cái đó sẽ ở đâu và sẽ đi về đâu? Con người từ vô thỉ 
				đến nay đã tác tạo biết bao nghiệp, thiện cũng có mà ác cũng 
				nhiều. Khi một ý tưởng, một lời nói hay một hành động vừa thực 
				hiện thì đã được giữ lại trong Tạng thức (A lại da thức) của con 
				người. Vì thế tất cả những chủng tử trong A lại da thức này sẽ 
				được chuyển qua đời sau và nó sẽ là kết quả của tất cả những khổ 
				vui của chúng sinh trong đời kế tiếp. 
				 
				Tuy gặp Phật nhưng vua Ba-tư-nặc vẫn còn chấp theo tập quán cũ, 
				chỉ biết sau khi chết rồi thì mất hẳn. Nay nghe được tánh không 
				sanh không diệt của tâm mà vẫn còn hồ nghi cho nên mới thỉnh 
				Phật chỉ dạy. 
				Tuy kinh Lăng Nghiêm nói về chơn tâm, nhưng trong Duy Thức học 
				cũng phân tích rõ ràng về cái tâm để chúng sinh tư duy quán 
				chiếu. 
				 
				Tâm pháp hay còn được gọi là tâm vương vì những món tâm này rất 
				thù thắng, tự tại và tự chủ cũng như vị vua. Tâm vương gồm có 
				tám món : 
				 
				1) Nhãn thức: Cái biết của con mắt. Vì thức này nương theo sụ 
				thấy biết của mắt mới khởi ra tác dụng sự phân biệt nên gọi là 
				nhãn thức. 
				 
				2) Nhĩ thức: Cái biết của lỗ tai. Vì thức này nương theo âm 
				thanh mà tai nghe được mới khởi ra tác dụng phân biệt nên gọi là 
				nhĩ thức. 
				 
				3) Tỷ thức: Cái biết của mũi. Vì thức này dựa theo cái biết của 
				hương vị do mũi tiếp nhận để khởi ra tác dụng sự phân biệt. 
				 
				4) Thiệt thức: Cái biết của lưỡi. Vì thức này tùy thuộc vào mùi 
				vị do lưỡi nếm được để khởi ra tác dụng sự phân biệt. 
				  
				5) Thân thức: Cái biết của 
				thân. Khi thân cảm thấy nóng lạnh hay tiếp xúc với cứng mềm để 
				khởi ra tác dụng phân biệt nên gọi là than thức. Vì năm thức ở 
				trên là nằm ở bên ngoài và trước nên gọi là “Tiền ngũ thức”. 
				 
				6) Ý thức: Thức này nương tựa ý căn mới khởi tác dụng phân biệt 
				Pháp trần nên gọi là “Ý thức”. Trong tám thức chỉ có thức thứ 
				sáu này rất lạnh lẹ và khôn ngoan hơn hết. Bởi vì chúng sinh có 
				suy nghĩ làm việc lành, việc tốt thì thức này đứng đầu. Còn nếu 
				chúng sinh tính toán tạo tác việc ác thì nó cũng hơn cả. Vì thế 
				mà trong Duy thức có câu : ”Công vi thủ, tội vi khôi” nghĩa là 
				nói về công thì thức này hơn hết, còn luận về tội thì nó cũng 
				đứng đầu. 
				 
				7) Mạt na thức: Thức này có công năng truyền các pháp hiện hành 
				vào A lại da thức (Tàng thức) và tổng đưa các pháp chủng tử khởi 
				ra hiện hành. 
				 
				Lý Duy thức tiềm ẩn trong lời Phật rải rác ở các bộ kinh, về sau 
				Bồ-tát Thế Thân dùng lý đó viết thành luận và được gọi là Thành 
				Duy Thức. Thành Duy Thức cũng gọi là Tịnh Duy Thức bởi vì bộ 
				luận này giảng giải rất rõ ràng rốt ráo đạo lý Duy Thức. Trong 
				bài tụng thứ năm, Bồ-tát Thế Thân diễn tả về Mạt na thức như sau 
				: 
				 
				Thứ đệ nhị năng biến 
				Thị thức danh Mạt na 
				Y bỉ chuyển duyên bỉ 
				Tư lương vi tánh tướng 
				 
				Dịch là: 
				 
				Thức năng biến thứ hai 
				Gọi là thức Mạt na 
				Nương kia chuyển duyên kia 
				Tư lương làm tánh tướng. 
				 
				Thức năng biến thứ hai này chính là Mạt na thức có nghĩa là suy 
				nghĩ, cân nhắc và so đo vì thức nầy có đặc tính là liên tục suy 
				tư, hằng thẩm và tư lương. Thức này nương theo A lại da thức và 
				lấy thức thứ tám này làm căn bản mà chuyển hiện. Cho nên có A 
				lại da thức là có Mạt na thức và A lại da thức sinh về cõi nào 
				thì Mạt na thức chuyển hiện theo cõi ấy. Mạt na thức theo A lại 
				da thức như bóng theo hình, nhưng Mạt na luôn lấy cảnh sở duyên 
				nơi A lại da mà suy xét và so đo, khiến cho tâm bị dấy động và ô 
				nhiễm. Thí dụ A lại da thức là mảnh đất thì Mạt na thức là rễ 
				cây luôn bám chặt vào đất A lại da. Còn ý thức và tiền ngũ thức 
				là thân cây và những nhánh cây vươn lên từ mảnh đất A lại da. 
				Một thí dụ khác là A lại da thức nếu ví như là nước trong những 
				con sông thì Mạt na thức chính là gốc rễ của những cây lục bình 
				trôi nổi trên mặt nước và ý thức và tiền ngũ thức bây giờ cũng 
				như là thân và cánh là lục bình. 
				 
				Mạt na thức sinh ra từ A lại da thức, nhưng nó lại lấy A lại da 
				thức làm đối tượng sở duyên. Vì thế các chủng tử và hiện hành 
				của A lại da thức luôn bị Mạt na thức lấy cảnh sở duyên mà duyên 
				tức là các chủng tử nầy cứ bị soi chiếu, suy xét và đo lường. 
				Chưa hết các cảnh sở duyên lại bị Mạt na thức duyên thêm một lần 
				nữa nên bị biến đổi và sự biến đổi này lại được đưa vào A lại da 
				làm tăng trưởng hay làm suy yếu thêm các chủng tử có sẳn nơi A 
				lại da thức. Nếu sự tác động làm tăng trưởng các chủng tử có sẳn 
				trong A lại da thức thì gọi là Thuận Tăng Thượng Duyên và nếu sự 
				tác động làm suy yếu hay hủy diệt các chủng tử có sẵn trong A 
				lại da thì gọi là Nghịch Tăng Thượng Duyên. 
				 
				Thêm nữa bản chất của Mạt na là suy xét và đo lường cho nên Mạt 
				na thức không bao giờ là không suy tính và so đo. Chính vì sự tư 
				lương này mà tánh chất nhận thức nơi Mạt na thức không được 
				khách quan trung thực, luôn bị bóp méo mà biến đổi khác đi mà 
				Duy thức gọi là phi lượng. Vì thế Mạt na thức là chấp Ngã và Ngã 
				Sở. 
				 
				Bây giờ hãy nghiệm bài tụng thứ sáu : 
				 
				Tứ phiền não thường câu 
				Vị: ngã si, ngã kiến 
				Tinh ngã mạn ngã ái 
				Cập dữ Xúc đẳng câu. 
				 
				Dịch là: 
				 
				Tương ưng bốn phiền não 
				Là ngã si, ngã kiến 
				Cùng ngã mạn, ngã ái 
				Và tâm sở Xúc thấy. 
				 
				Mạt na thức là hằng thẩm tư lương nên luôn chấp đó là mình, là 
				của mình mà sinh ra tham đắm si mê. Vì còn phân biệt đối đải nên 
				thấy có ta có người và dĩ nhiên là thấy cái ta và cái của ta là 
				đúng, là đẹp, là hơn. Đây là những căn bản của phiền não khổ đau 
				cũng bởi do chấp ngã mà ra. Vì thế mới gọi là Ngã Si, Ngã Kiến, 
				Ngã Mạn và Ngã Ái. 
				 
				Ngã Si là vô minh, là mê muội vọng chấp mà tin rằng tất cả các 
				pháp là ngã trong khi chính nó không có tự tánh thì làm sao có 
				tự ngã được. 
				 
				Ngã Kiến là luôn cho rằng những điều mình thấy, mình nghĩ, mình 
				quan niệm, mình tin tưởng là đúng. Những gì khác với quan niệm 
				của mình là sai cho dù đó là lời chân thật. Đây là cố chấp, 
				ngoan cố không phục thiện. 
				  
				Ngã Mạn là luôn coi mình là 
				nhất, không coi ai ra gì, lấn lướt và khinh thường người khác. 
				  
				Ngã Ái là luôn luôn chấp 
				ngã và sinh tâm mê thích ta và cái của ta. Chỉ biết nghĩ đến 
				mình và những gì thuộc về mình. 
				 
				Bốn thứ ngã này làm che đậy và làm vẫn đục nội thức tức là làm 
				nhơ bẩn A lại da thức và phát sinh tiền lục thức khiến cho con 
				người mãi trôi nổi trong sinh tử luân hồi. 
				Sau cùng hãy nghiệm bài 
				tụng thứ bảy : 
				 
				Hữu phú vô ký nhiếp  
				Tùy sở sanh sở hệ 
				A La Hán, Diệt định 
				Xuất thế đạo vô hữu 
				 
				Dịch là: 
				 
				Tánh hữu phú vô ký 
				Sanh theo A lại da 
				Chứng A La hán, Diệt định 
				Xuất thế đạo, không còn. 
				 
				Với những phiền não chấp ngã và suy tư lo nghĩ, Mạt na thức luôn 
				bám lấy A lại da thức mà chấp ngã, chấp là mình, là của mình tức 
				là ngã và ngã sở. Tất cả những hành tướng này tạo nên Nghiệp 
				Nhân và những nghiệp này cứ trùng trùng duyên khởi, tương tục 
				tăng trưởng, sinh sinh diệt diệt cho đến khi đầy đủ nhân duyên 
				thì thọ sanh vào một trong lục đạo và những quốc độ tương xứng 
				với nghiệp quả của mình. Do đó nếu nghiệp báo A lại da thức 
				chuyển biến khởi sanh vào cõi nào thì Mạt na thức sanh vào cõi 
				đó. Vì thế khi nhân duyên đã đầy đủ chín mùi thì A lại da thức 
				có thể chuyển biến và hiện hành thành một loài trong lục đạo, 
				hay một loài trong những cõi trời Sắc giới hay Vô Sắc giới. 
				 
				Khi các vị A la hán của hàng Thanh văn, các vị Bích chi Phật của 
				hàng Duyên giác hay các bậc Bồ-tát Đệ Bát Địa của Đại thừa tu 
				chứng để diệt các thọ và tưởng tức là nhập vào Diệt tận định thì 
				các chấp ngã sẽ không còn sanh khởi trong Mạt na thức nghĩa là 
				các vị đã đạt đến trạng thái vô ngã. Không còn sinh khởi không 
				có nghĩa là Mạt na thức bị biến mất, không còn nữa. Nói tóm lại, 
				khi chưa chuyển thì Mạt na thức luôn luôn chấp ngã và chỉ duyên 
				nơi A lại da thức. Đến khi đắc thành thánh quả, chuyển chấp ngã 
				thành vô ngã thì Mạt na thức chuyển thành Bình Đẳng Tánh Trí, 
				tức là thức thứ bảy bây giờ chỉ còn duyên ‘chân 
				như’ cùng tất cả các pháp khác, thấy được 
				mọi căn cơ và sai biệt nơi mỗi loài chúng sinh, tùy duyên hóa 
				thân ứng hiện thuyết pháp độ sanh và A lại da thức chuyển thành 
				Đại Viên Cảnh Trí. 
				 
				8) A lại da thức: A lại da là âm của tiếng Phạn Alaya có nghĩa 
				là cái kho mà danh từ Hán-Việt gọi là tàng. Tất cả mọi chủng tử 
				không phân biệt thiện ác, tốt xấu, sanh tử và niết bàn, mê ngộ 
				và khổ vui, ngay cả vô ký đều được chứa đựng trong tàng thức 
				này. A lại da thức có khả năng tiếp nhận, duy trì và làm các hạt 
				giống chủng tử tăng trưởng, chuyển biến cho đến khi đầy đủ nhân 
				duyên thuần thục chín mùi thì mới được đi tái sanh vào những thế 
				giới thích hợp với căn nghiệp của mình. Tùy theo nghiệp lực của 
				mỗi chúng sinh mà được thọ sanh vào trong lục đạo hoặc sinh về 
				những cõi trời trong những cõi Sắc giới và Vô sắc giới. Nếu nhân 
				trong A lại da thức chứa nhiều chủng tử thiện thì khi đầy đủ 
				nhân duyên chín mùi thì sẽ chuyển biến và hiện khởi ra quả báo 
				là người hay là trời. Ngược lại nếu chứa nhiều chủng tử bất 
				thiện thì sẽ hiện khởi ra quả báo trong ba đường ác là súc sanh, 
				ngạ quỷ và địa ngục.  Vì các sự huân tập và chuyển biến 
				trong A lại da thức thật tiềm ẩn và vi tế nên người chưa đắc đạo 
				không thể biết được mình sẽ thọ thân làm loài gì và ở trong quốc 
				độ nào. 
				 
				Thức thứ tám này cũng còn được gọi là A-đà-na thức. Vậy cái tên 
				này xuất xứ từ đâu? 
				 
				Trong kinh Giải Thâm Mật có bài tụng rằng : 
				 
				A-đà-na thức thậm thâm tế 
				Tập khí chủng tử như bộc lưu 
				Ngã ư phàm ngu bất khai diễn 
				Khủng bỉ phân biệt chấp vi ngã 
				Dịch là: 
				 
				Thức A-đà-na rất thậm thâm và tế nhị 
				Các tập khí chủng tử của nó sinh diệt như dòng nước thác 
				Ta (Phật) đối với chúng phàm phu và nhị thừa không nói thức này 
				Vì sợ chúng phân biệt chấp làm ngã. 
				 
				Thức này là căn bản của chơn và vọng vì thế thánh phàm đều nương 
				ở nơi đây. Do đó thức A-đà-na rất thâm sâu và tế nhị. Nó chứa 
				nhóm các tập khí chủng tử từ vô thỉ đến nay. Nó làm chủ giữ gìn 
				báo thân của hữu tình chúng sinh sống trong một thời kỳ. Cũng 
				như dòng nước thác, ở xa thấy như điềm tịnh mà kỳ thật nó chảy 
				rất mau. Chẳng những chúng phàm phu không biết mà ngay cả hàng 
				Tiểu thừa Thanh văn cũng mê lầm thức này. Đức Phật đối với hai 
				hạng này chẳng hề giảng nói đến thức A-đà-na vì sợ họ mê lầm 
				chấp làm Ngã. 
				 
				A-đà-na thức còn được tìm thấy trong Nhiếp Đại thừa luận, Hiển 
				dương thánh giáo luận, Thành Duy Thức luận và Du Dà Sư Địa luận… 
				 
				Trong Thành Duy Thức Luận quyển ba giải thích thức A-đà-na có ba 
				công năng như sau : 
				 
				1) Giữ gìn (chấp trì) chủng tử của các pháp: Các pháp nói ở đây 
				là chỉ cho tất cả các pháp hữu vi. Đó là “hữu lậu hữu vi” tức là 
				các pháp tạp nhiễm thuộc về chúng sinh và “vô lậu hữu vi” tức là 
				các pháp thanh tịnh thuộc về Thánh hiền. Tuy nhiên “chủng tử” 
				chỉ có công năng tiềm tàng (ẩn núp) mà không khởi hiện. Nếu 
				không có một cái gì để chứa giữ thì chủng tử của các pháp phải 
				bị tản mất. Nếu chủng tử các pháp bị tản mất thì các pháp hiện 
				hành ở thế gian và xuất thế gian cũng chẳng còn. Do đó phải có 
				thức A-đà-na, tánh vô phú vô ký, nhất loại sinh diệt tương tục 
				mới có thể duy trì chứa giữ chủng tử của các pháp. 
				 
				2) Giữ chịu (chấp thọ) sắc căn và thế giới: Đây là muốn chỉ cho 
				cái công năng giữ gìn báo thân của chúng sinh hữu tình được 
				tương tục tồn tại trong một thời kỳ không tan hoại. 
				 
				3) Giữ lấy (chấp thủ) việc kết nối đời sau tức là “kiết sanh 
				tương tục” là do ba pháp: phiền não, nghiệp và sanh. Con người 
				vì sống trong vô minh phiền não nên tạo ra nghiệp mà phải kết 
				nối đời sau để thọ khổ. Chữ “kiết sanh” có nghĩa là thọ sanh tức 
				là bắt đầu từ khi kết thai cho đến lúc sanh ra vậy. Tiến trình 
				kết mối đời sau bắt đầu từ thân đang sống đến thân đang chết. 
				Rồi từ thân đang chết đến thân trung ấm (thân mới chết chưa đầu 
				thai). Và sau cùng từ thân trung ấm đến thân đời sau. Nếu các 
				thân được tương tục không gián đoạn như thế ắt phải có một cái 
				gì thường lưu hành và giữ gìn (chấp thủ). Cái đó chính là thức 
				A-đà-na. Thật vậy, nếu không có thức thứ tám này để nắm giữ việc 
				“kết nối đời sau” thì khi một người chết rồi phải mất luôn, 
				không còn tái sanh được nữa. Như thế thành ra bị rơi vào thuyết 
				Đoạn diệt của ngoại đạo rồi. Đây là câu trả lời cho vua Ba tư 
				nặc về thuyết Đoạn diệt của bọn ngoại đạo Ca chiên Diên. 
				 
				Thêm nữa tất cả những chủng tử tốt xấu đều được gieo vào mảnh 
				đất A lại da trong trạng thái tiềm ẩn. Các chủng tử này được 
				huân tập, chuyển biến, tương sanh, tương duyên, tương diệt liên 
				tục. Tất cả những sự chuyển biến này xảy ra liên tục và tức 
				thời, chớp nhoáng và liên tiếp. Cái này diệt thì cái kia sinh, 
				tương tức tương tục liên miên bất tận nên được gọi là Sát Na 
				Sinh Diệt. Sát Na Sinh Diệt có thể được ví như những khối nước 
				liên tục chuyển động chảy trong dòng thác lũ. Khối nước trước đổ 
				qua thì có khối nước khác đổ tới, tiếp nối liên tục không ngừng 
				nghĩ và dĩ nhiên dòng nước cũ không thể chẩy trở lại nơi mà nó 
				đã chảy qua. Sự sinh diệt triền miên đó cũng có thể ví như những 
				đợt sóng dạt dào trên biển cả. Đợt sống này đẩy đợt sóng kia, 
				đợt sóng mới đẩy đợt sóng cũ. Bởi có gió vọng tưởng thổi sóng 
				dạt dào trên biển cả làm các ngọn sóng liên tiếp nhồi lên lặn 
				xuống không ngừng nghĩ cho nên ngọn sóng này diệt thì ngọn sóng 
				mới khởi sanh. 
				 
				Khi chúng sinh biết tu tập làm cho tâm được thanh tịnh thì các 
				chủng tử vô lậu được huân tập, tăng trưởng và phát sinh ra hiện 
				hành. Các hiện hành này được huân tập trở vào thức A lại da 
				thành các chủng tử vô lậu mới. Tùy theo tánh chất của các chủng 
				tử vô lậu mới này mà chủng tử hữu lậu tiềm ẩn sẳn có trong tàng 
				thức bị suy thoái và tiêu diệt hoặc các chủng tử vô lậu sẵn có ở 
				trong đó được tăng trưởng và phát sinh thêm. Nếu chúng sinh trì 
				công tu tập có nghĩa là tiếp tục huân tập các chủng tử vô lậu 
				thanh tịnh đến khi tất cả các chủng tử và hiện hành hữu lậu hoàn 
				toàn bị tiêu diệt thì lúc đó họ sẽ chứng đắc được quả vị A la 
				hán trong hàng Thanh văn hay là bát địa Bồ-tát của Đại thừa. Đến 
				đây thì tàng thức chỉ chứa toàn các chủng tử vô lậu. Các hạt 
				giống hữu lậu của phiền não, nghiệp báo luân hồi sinh tử không 
				còn nữa và A lại da thức bây giờ chuyển thành “Vô cấu thức”. Vô 
				cấu thức cũng còn cái tên khác là Yêm-ma-la thức, Bạch tịnh 
				thức, Thanh tịnh thức, Chân như thức, Như Lai tạng thức hay thức 
				thứ chín. Tuy có rất nhiều tên như thế nhưng chúng quy cũng chỉ 
				có một ý nghĩa “thanh tịnh”. 
				 
				Khi chúng sinh đạt đến quả vị A la hán hay bát địa Bồ-tát thì 
				các chủng tử hữu lậu làm chướng ngại chân tâm sẽ bị hủy diệt, 
				nhưng thật ra vẫn còn những chủng tử hữu lậu vi tế nằm tiềm ẩn 
				trong thức thứ tám này. Chỉ khi nào các vị A la hán hay bát địa 
				Bồ-tát tiếp tục tiến tu pháp tối thắng vô phân biệt trí, được 
				gọi là Thắng Pháp Không Quán, để vượt qua khỏi bậc Bồ-tát Thập 
				địa mà đến bậc Đẳng Giác và khởi Kim Cang Dụ Định mà đạt tới 
				Phật quả thì thức thứ tám này mới xóa tan hoàn toàn tất cả các 
				vô lậu thậm thâm vi tế và chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí.  
				Khi đó các chủng tử vô lậu, cấu nhiễm đã hết, thức này chuyển 
				thành trí thanh tịnh chiếu khắp mười phương các cõi nhiều như vi 
				trần nên gọi là Đại Viên Cảnh Trí. Đây chính là cái thể thanh 
				tịnh của Chơn Tâm cũng như mặt gương sáng chiếu soi tất cả vạn 
				pháp một cách chân thật mà nhà Phật gọi là “như thị bất khả tư 
				nghì”. 
				 
				Chúng sinh vì có những nghiệp báo khác nhau nên khi đi thọ báo 
				tái sinh họ sống trong những môi trường, những tin tưởng, những 
				mục đích, những chọn lựa và những hành động khác nhau. Chính vì 
				có sự khác biệt về sinh lý, tâm lý và vật lý mà Đức Thế Tôn phải 
				tùy theo trình độ, căn cơ của mỗi hạng người mà phương tiện chỉ 
				bày ra những pháp môn thích hợp ngỏ hầu giúp họ có thể hội nhập 
				Phật tri kiến. Tuy con người căn nghiệp, tánh nết không đều cũng 
				như tu có mau có chậm, nhưng khi giác ngộ được chân tánh thì 
				đồng một thể chân như. Trong Truyền Tâm Pháp Yếu, tổ Hoàng Bá đã 
				dạy rằng : 
				 
				- Phật cùng chúng sinh một tâm không khác. Cũng giống như hư 
				không, không tạp loạn, không hư hoại. Như ánh sáng mặt trời 
				chiếu khắp thiên hạ. Khi mặt trời lên thì chiếu sáng khắp nơi mà 
				hư không chưa từng sáng. Đến lúc mặt trời lặn, u tối khắp nơi mà 
				hư không cũng chưa từng tối. Cảnh sáng tối tự tranh nhau, còn 
				tánh của hư không thì rỗng rang không thay đổi. Tâm của Phật và 
				tâm của chúng sinh cũng như vậy. Nếu quán Phật mà thấy cái tướng 
				thanh tịnh, quang minh, giải thoát và nếu quán chúng sinh mà 
				thấy cái tướng ô nhiễm, ám muội, sinh tử thì với kiến giải như 
				thế, trải qua hằng hà vô số kiếp vẫn không chứng đạt được đạo 
				quả Bồ-đề. Đó cũng vì còn chấp sắc tướng vậy. Tức tâm là Phật. 
				Tâm đó là vô tâm nghĩa là biết xa rời mọi tướng để thấy biết 
				rằng chúng sinh và Phật không hề khác nhau. Chỉ cần được vô tâm 
				tức thì thành Đạo. Người học đạo nếu không có được cái vô tâm 
				thì tu hành kiếp kiếp cũng không thành “Đạo” được. Tu hành có 
				mau có chậm. Có kẻ mới nghe pháp liền được vô tâm. Có kẻ phải tu 
				hành đến thập tín, thập trụ, thập trụ, thập hồi hướng mới được 
				vô tâm. Lại có kẻ đến hàng thập địa mới được vô tâm. Tóm lại, dù 
				mau dù chậm, hễ chúng sinh có được vô tâm là sẽ an trụ ở đó chứ 
				chẳng còn gì để tu, để chứng nữa. Thật chẳng có gì sở đắc. Sự 
				thật như vậy, quả không hư dối. 
				 
				Sau cùng Chân Như tuyệt đối chỉ có đạt được bằng công năng tu 
				trì và thiền quán nhằm loại bỏ các tập nhiễm từ thô đến tế có từ 
				vô thỉ để đưa tâm thức trở về với tự tánh thanh tịnh bản nhiên 
				tức là bản lai diện mục. Chỉ khi ấy chúng sinh mới nhận chân ra 
				cái cảnh giới như thị, không thể nghĩ bàn mà chư Phật trong tam 
				thế mười phương đã chứng đắc. 
				  
				Mặc dù A Nan và đại chúng được nghe Như Lai 
				chỉ dạy như thế, nhưng tâm chưa được khai ngộ nên vẫn im lặng, 
				mong Như Lai thương xót chỉ dạy thêm, nên đồng đứng dậy chắp tay 
				lắng lòng trong chờ đức Phật chỉ dạy. 
				 
				Tuy Phật đã giải thích rõ ràng cái thấy và tánh thấy của mắt để 
				giúp ông A Nan và đại chúng thấu biết mà quay về với bản tâm của 
				chính họ, nhưng A Nan chưa phá được tâm vọng chấp đang bị kẹt 
				cứng ở nơi sắc uẩn và thọ uẩn nên tâm vẫn còn mờ mịt không biết 
				lối quay về. 
				
				Ông không biết thỉnh cầu gì 
				nữa, miệng thì im lặng mà tâm vẫn chưa tỏ ngộ nên chỉ biết đồng 
				đứng dậy mong sự chỉ dạy của đức Thế Tôn. 
				 
				Bấy giờ đức Thế Tôn giơ cánh tay 
				mềm mại lên, bảo ông A Nan và đại chúng rằng: 
				 
				- Sau khi thành đạo, lần đầu tiên ở vườn Lộc Uyển, Như Lai có 
				dạy cho năm anh em tỳ kheo A Nhã Kiều Trần Như rằng tất cả chúng 
				sinh không thành Vô Thượng Bồ-đề mà chỉ thành A la hán, do vì 
				phiền não khách trần làm mê hoặc. Lúc đó các ông nhân đâu mà 
				được khai ngộ, thành tựu quả vị thánh? 
				Ông Kiều Trần Như đứng dậy thưa : 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Nay hàng trưởng lão trong hàng đại chúng, chỉ 
				riêng con được danh hiệu là Giải nghĩa là Hiểu. Nhờ ngộ được hai 
				chữ khách trần mà thành tựu quả vị. Khách là người đi đường, khi 
				cần họ vào quán trọ thuê phòng hoặc ở, hoặc ngủ, hoặc ăn. Ăn ngủ 
				xong xếp hành lý lên đường, không ở luôn được. Còn người chủ thì 
				vĩnh viễn không phải đi đâu nữa. Từ suy nghĩ đó, con hiểu rằng : 
				Khách có đến, có đi; còn chủ thì ở luôn không đi đâu hết. 
				 
				Về nghĩa chữ trần, thì lúc mặt trời mới lên, ánh sáng xuyên vào 
				các kẽ hở, lỗ thủng của mái nhà. Nhìn theo làn ánh sáng trong 
				khoảng hư không yên lặng ấy, con thấy vô số bụi trần li ti loạn 
				động, cuồn cuộn tung bay; còn hư không thì đứng lặng. Thế nên 
				con suy nghĩ, trong lặng gọi là hư không còn lay động là trần. 
				 
				Nếu người Phật tử chịu tư duy quán 
				chiếu tức là có thiền định thì sẽ hiểu rằng tại sao trong đại 
				chúng rộng lớn mà Phật lại dùng pháp môn khách trần của ông Kiều 
				Trần Như. Đức Phật đã dạy quá rõ ràng rằng cái thấy, cái nghe, 
				cái ngửi, cái nếm, cái biết, cái xúc hay nói một cách tổng quát 
				là những tác dụng nhận thức của sáu giác quan không phải là chơn 
				tâm, nhưng chúng cũng không rời ngoài chơn tâm mà có. Chơn tâm 
				thì thường hằng bất biến, lúc nào cũng có cũng như chủ khách 
				sạn. Ngược lại vọng thức thì có đến có đi giống như khách vào 
				quán trọ. Tiền trần luôn luôn thay đổi lúc có lúc không thì sự 
				hồi tưởng lại cái tướng của tiền trần (thọ uẩn) cũng sinh sinh 
				diệt diệt. 
				Vì vậy Đức Phật gọi sự hồi 
				tưởng bóng dáng tiền trần vào trong ký ức phân biệt chỉ là vọng 
				tâm, là những phiền não khách trần. Vì là khách cho nên có đến 
				có đi và vì là trần nên không có giây phút nào yên lặng. Trong 
				sự loạn động quay cuồng của trần, còn có hư không yên lặng không 
				hề lay chuyển. Do đó sự nhận thức của sáu giác quan luôn luôn 
				thay đổi từng sát na, từng giây, từng phút, nhưng bên trong sự 
				thay đổi sinh diệt đó, con người còn có một cái thường trụ, bất 
				sinh bất diệt là sự thanh tịnh thường hằng bất biến mà được gọi 
				là chơn tâm. Vì thế nếu ngộ thì trong vọng tâm con người sẽ tìm 
				thấy chơn tâm thường trú. 
				Ngược lại nếu còn mê thì 
				chỉ có toàn vọng tưởng, bóng dáng của tiền trần. Thí dụ như bây 
				giờ mắt chúng ta nhìn ra ngoài đường, thấy xe chạy, cảnh giới 
				náo nhiệt nên tâm duyên theo mà có sự phân biệt ý niệm. Vài phút 
				sau, điện thoại reo và tai bắt đầu nghe biết bao câu chuyện nhân 
				tình thế thái khác. Tâm lại duyên theo âm thanh mà khởi thêm ý 
				niệm phân biệt. Cái tâm thấy biết được thay thế bởi cái tâm nghe 
				điện thoại và như thế vọng tâm liên tục đến đi, đi đến trong tâm 
				của chúng ta. Do đó nếu là chơn tâm thì lúc nào cũng vậy, không 
				lên bổng xuống trầm, không bị sống chết đổi thay cũng như hư 
				không yên lặng mặc cho bụi trần tha hồ loạn động. Vì thế không 
				chạy theo tiền trần mà quay về sống với chơn tâm thì con người 
				có được thanh tịnh Niết bàn. Ngược lại, quên bỏ chơn tâm chạy 
				theo lục dục thất tình thì cuộc sống sẽ đeo mang hệ lụy phiền 
				não khổ đau. 
				 
				Phật bảo : Đúng vậy. 
				 
				Khi ấy Như Lai ở trong đại chúng co năm ngón tay lại, co rồi lại 
				mở, mở rồi lại co. Rồi hỏi A Nan : 
				 
				- Nay ông thấy gì? 
				 
				- Con thấy bàn tây Phật, nắm lại rồi mở ra. A Nan đáp. 
				 
				Đức Phật hỏi : 
				- Ông thấy tay tôi có 
				nắm có mở hay cái thấy của ông có nắm có mở? 
				 
				A Nan thưa : 
				- Tay Phật có nắm có mở, 
				chớ cái thấy của con làm sao có nắm có mở được! 
				 
				Phật lại hỏi : 
				- Cái nào động, cái nào 
				tịnh? 
				 
				A Nan thưa : 
				- Thưa, Bàn tay của Phật 
				không yên, chớ cái thấy của con còn không có tịnh thì làm chi có 
				động! 
				 
				Phật bảo : Đúng vậy. 
				 
				Đây là lần đầu tiên Phật khen A Nan 
				nói đúng. Mặc dầu ông A Nan chưa hoàn toàn ngộ về bản tâm, nhưng 
				đây là những bước căn bản vững chắc đưa ông ta đến chỗ ngộ. 
				 
				Bấy giờ từ trong lòng bàn tay, Như 
				Lai phóng đạo hào quang báu chiếu đến vai bên phải của A Nan, A 
				Nan liền quay đầu qua bên phải để nhìn. Đức Phật lại phóng một 
				hào quang khác qua vai trái, A Nan liền quay sang bên trái để 
				nhìn. Đức Phật bảo A Nan : 
				 
				Nay đầu ông tại sao lại lay động? 
				 
				A Nan thưa : 
				- Con thấy hào quang của 
				Phật phóng ra bên phải và bên trái của con. Đầu con lay động bởi 
				ngó theo hào quang của Phật. 
				 
				Phật hỏi : 
				- Đầu ông lay động quay 
				bên phải bên trái. Vậy cái đầu ông động mà cái thấy của ông có 
				động chăng? 
				 
				Bạch Thế Tôn! Đầu con tự lay động, chớ cái thấy còn không biết ở 
				chỗ nào, thì lấy gì mà lay động! 
				 
				Phật bảo : Đúng vậy. 
				  
				Đức Phật dùng một thí dụ 
				khác để trắc nghiệm về sự ngộ chơn tâm của A Nan. Nếu tánh thấy 
				mà cố định, không dời đổi theo tiền trần thì cái tánh thấy này 
				là chủ nhân ông, còn sự lay động của cái đầu chỉ là khách trần 
				tức là vọng tưởng. Hai lần hỏi, A Nan nói đúng cả hai nên được 
				Phật khen. 
				 
				Bấy giờ, Phật bảo ông A Nan : 
				 
				- Mọi người ai cũng có thể nhận biết: Không ở luôn là khách, chủ 
				thì vĩnh viễn không đi đâu. Bụi trần thì lay động còn hư không 
				tuyệt nhiên yên lặng. Có nắm có mở là tay, cái thấy thì không có 
				nắm mở. Quay qua quay lại là đầu, tánh thấy thì không hề xoay 
				chuyển. 
				 
				Vậy mà các ông hiện nay lấy cái động làm thân, cái động làm tâm, 
				lấy cái động là cảnh, bỏ mất đi tâm tánh chân thường, bất động, 
				yên lặng nó thường ở luôn với mình. Hằng ngày làm những việc 
				trái ngược, nhận vật làm thân, nhận vọng tưởng làm tâm, xoay vần 
				trong đó nên bị trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi. 
				 
				Sau khi Phật gạn hỏi A Nan nhiều lần cái gì thấy, mắt thấy hay 
				là tâm thấy? Tâm thấy cách nào hoặc là tâm ở đâu? Phật đã đặt ra 
				bao nhiêu câu hỏi cho đến chỗ lý cùng trí tận để giúp A Nan và 
				đại chúng tỏ bày được chơn tâm. Đức Phật đã nhắc lại rằng khách 
				và trần đều là động, một ở bên ngoài và một ở bên trong. Ngoại 
				trần là do gió nghiệp tạo thành nên luôn luân chuyển, biến đổi. 
				Vì tâm duyên theo cảnh bên ngoài nên phát sinh ra muôn vàng ý 
				niệm. Những ý niệm này là khách vì chúng luôn biến đổi, không 
				bao giờ ở một nơi nào cố định, vừa thấy đó đã biến mất. Vì thế 
				nếu chúng sinh không sống với bản tâm thanh tịnh, với chơn tâm 
				thường trú mà chạy theo khách trần động niệm làm cho tâm sinh ra 
				thương yêu, giận hờn, đố kỵ, ghen ghét, tham muốn rồi tự gây ra 
				bao nhiêu nghiệp chướng để phải chịu trôi nổi trong sinh tử luân 
				hồi. 
				 
				 A Nan Cầu Phật Chỉ Dạy ở Nơi Thân Này cái Nào “Chơn”, Cái 
				Nào “Vọng” 
				 
				Khi ấy A Nan và đại chúng nghe Phật chỉ dạy, thân tâm thư 
				thái, nghĩ mình từ vô thỉ đến nay quên mất bản tâm, nhận lầm sự 
				phân biệt bóng dáng duyên trần phân biệt làm tâm. Ngày nay được 
				Phật khai ngộ, như trẻ thơ khát sữa bỗng gặp được mẹ hiền, đồng 
				chắp tay lễ Phật, cầu xin chỉ cho chỗ chân vọng hư thực và phát 
				minh tánh sinh diệt cùng không sinh diệt nơi thân tâm. 
				 
				Bấy giờ vua Ba Tư Nặc đứng dậy thưa : 
				-    Bạch 
				Thế Tôn! Xưa khi chưa được Đức Phật chỉ dạy, con gặp bọn ngoại 
				đạo Ca Chiên Diên (chấp các pháp cũng có cũng không), Tỳ La Chi 
				Tử (chấp mãn kiếp tự nhiên đắc đạo) đều nói rằng: Thân này chết 
				rồi là mất hẳn, gọi đó là Niết bàn. Nay tuy được gặp Phật, nghe 
				pháp, nhưng con vẫn còn hồ nghi. Làm sao để phát huy thực chứng 
				tánh không sanh không diệt nơi tâm này? Hiện nay hàng hữu lậu 
				trong đại chúng đều mong được nghe điều ấy. 
				 
				Ông A Nan nghe Phật khai thị về khách trần ở đoạn trên để nói rõ 
				thân cảnh động thì cũng là bất động, hay có sinh diệt cũng có 
				nghĩa là không sinh diệt. Tuy đã lãnh hội nhưng ông A Nan vẫn 
				còn nhận tâm phân biệt duyên trần (tâm phan duyên) làm chơn tâm 
				nên chưa thấy được thể tánh bất sinh bất diệt. Vì thế ông cùng 
				đại chúng ước mong đức Thế Tôn lúc bấy giờ chỉ bày thế nào là 
				chân thật? thế nào là hư vọng? thế nào là sinh diệt? và cái gì 
				là không sinh diệt? khiến cho hai thể “chân vọng” được thấu hiểu 
				rõ ràng. Một lần nữa tâm nguyện của A Nan vẫn còn lờ mờ chưa 
				sáng tỏ. Vì thế mà vua Ba-tư-nặc nhân đó mà thỉnh thị. 
				 
				Trước khi gặp Đức Phật, vua Ba-tư-nặc tôn sùng ngoại đạo 
				Ca-chiên-diên mà vị giáo chủ tên là Ca-la-cưu-đà. Giáo phái này 
				chủ trương con người khi chết thì mất hết và sự mất hẳn này 
				chính là Niết bàn. Họ nghĩ rằng: “Tu nhơn đức già đời cũng chết, 
				hung hăng bạo ngược tận số cũng chẳng còn”. Vì tin tưởng như thế 
				mà luật nhân quả luân hồi đối với họ không còn ý nghĩa nên họ 
				mặc tình làm điều tội lỗi. Đây là tư tưởng “đoạn kiến” vậy. 
				Ngoài ra nhà vua còn nghe theo phái ngoại đạo khác tên là 
				San-xà-dạ-tỳ-la-chi-tử. Phái này chấp các pháp là tự nhiên có 
				nghĩa người chết sẽ sanh ra người, thánh nhân chết sẽ trở lại 
				làm thành nhân, có tu hay không tu cũng như nhau. Họ không sợ 
				tội ác nên chẳng cần làm thiện. Đây là tư tưởng “thường kiến”. 
				 
				Đối với tư tưởng đoạn kiến tức là chết rồi mất hẳn được phổ biến 
				rất nhiều nơi ngoài Ần độ. Họ quan niệm rằng khi người chết rồi 
				thì khí trong bay lên trời, khí đục thì quay về đất, còn tánh 
				linh thì trở về với hư không. Đây là tà kiến đoạn diệt bởi vì 
				nếu tánh linh thật sự trở về với hư không thì làm sao có nhân 
				quả? Mà nhân quả là chân lý khách quan của nhân sinh vũ trụ chớ 
				đâu chỉ riêng cho Phật giáo. 
				Vào thế kỷ thứ 18, thi hào Tố Như viết như sau: 
				 
				“…Rằng: Những đấng tài hoa 
				Thác là thể phách, còn là 
				tinh anh” 
				 
				Phách là thân tứ đại thì mất, tan rã. Cái duy nhất còn lại của 
				con người mà thi hào Tố Như gọi là tinh anh thì có thể hiểu là 
				cái linh hồn, thần thức, giác linh hay linh tri… Nhưng sau khi 
				chết thì cái đó sẽ ở đâu và sẽ đi về đâu? Con người từ vô thỉ 
				đến nay đã tác tạo biết bao nghiệp, thiện cũng có mà ác cũng 
				nhiều. Khi một ý tưởng, một lời nói hay một hành động vừa thực 
				hiện thì đã được giữ lại trong Tạng thức (A lại da thức) của con 
				người. Vì thế tất cả những chủng tử trong A lại da thức này sẽ 
				được chuyển qua đời sau và nó sẽ là kết quả của tất cả những khổ 
				vui của chúng sinh trong đời kế tiếp. 
				 
				Tuy gặp Phật nhưng vua Ba-tư-nặc vẫn còn chấp theo tập quán cũ, 
				chỉ biết sau khi chết rồi thì mất hẳn. Nay nghe được tánh không 
				sanh không diệt của tâm mà vẫn còn hồ nghi cho nên mới thỉnh 
				Phật chỉ dạy. 
				Tuy kinh Lăng Nghiêm nói về chơn tâm, nhưng trong Duy Thức học 
				cũng phân tích rõ ràng về cái tâm để chúng sinh tư duy quán 
				chiếu. 
				 
				Tâm pháp hay còn được gọi là tâm vương vì những món tâm này rất 
				thù thắng, tự tại và tự chủ cũng như vị vua. Tâm vương gồm có 
				tám món : 
				 
				1) Nhãn thức: Cái biết của con mắt. Vì thức này nương theo sụ 
				thấy biết của mắt mới khởi ra tác dụng sự phân biệt nên gọi là 
				nhãn thức. 
				 
				2) Nhĩ thức: Cái biết của lỗ tai. Vì thức này nương theo âm 
				thanh mà tai nghe được mới khởi ra tác dụng phân biệt nên gọi là 
				nhĩ thức. 
				 
				3) Tỷ thức: Cái biết của mũi. Vì thức này dựa theo cái biết của 
				hương vị do mũi tiếp nhận để khởi ra tác dụng sự phân biệt. 
				 
				4) Thiệt thức: Cái biết của lưỡi. Vì thức này tùy thuộc vào mùi 
				vị do lưỡi nếm được để khởi ra tác dụng sự phân biệt. 
				  
				5) Thân thức: Cái biết của 
				thân. Khi thân cảm thấy nóng lạnh hay tiếp xúc với cứng mềm để 
				khởi ra tác dụng phân biệt nên gọi là than thức. Vì năm thức ở 
				trên là nằm ở bên ngoài và trước nên gọi là “Tiền ngũ thức”. 
				 
				6) Ý thức: Thức này nương tựa ý căn mới khởi tác dụng phân biệt 
				Pháp trần nên gọi là “Ý thức”. Trong tám thức chỉ có thức thứ 
				sáu này rất lạnh lẹ và khôn ngoan hơn hết. Bởi vì chúng sinh có 
				suy nghĩ làm việc lành, việc tốt thì thức này đứng đầu. Còn nếu 
				chúng sinh tính toán tạo tác việc ác thì nó cũng hơn cả. Vì thế 
				mà trong Duy thức có câu : ”Công vi thủ, tội vi khôi” nghĩa là 
				nói về công thì thức này hơn hết, còn luận về tội thì nó cũng 
				đứng đầu. 
				 
				7) Mạt na thức: Thức này có công năng truyền các pháp hiện hành 
				vào A lại da thức (Tàng thức) và tổng đưa các pháp chủng tử khởi 
				ra hiện hành. 
				 
				Lý Duy thức tiềm ẩn trong lời Phật rải rác ở các bộ kinh, về sau 
				Bồ-tát Thế Thân dùng lý đó viết thành luận và được gọi là Thành 
				Duy Thức. Thành Duy Thức cũng gọi là Tịnh Duy Thức bởi vì bộ 
				luận này giảng giải rất rõ ràng rốt ráo đạo lý Duy Thức. Trong 
				bài tụng thứ năm, Bồ-tát Thế Thân diễn tả về Mạt na thức như sau 
				: 
				 
				Thứ đệ nhị năng biến 
				Thị thức danh Mạt na 
				Y bỉ chuyển duyên bỉ 
				Tư lương vi tánh tướng 
				 
				Dịch là: 
				 
				Thức năng biến thứ hai 
				Gọi là thức Mạt na 
				Nương kia chuyển duyên kia 
				Tư lương làm tánh tướng. 
				 
				Thức năng biến thứ hai này chính là Mạt na thức có nghĩa là suy 
				nghĩ, cân nhắc và so đo vì thức nầy có đặc tính là liên tục suy 
				tư, hằng thẩm và tư lương. Thức này nương theo A lại da thức và 
				lấy thức thứ tám này làm căn bản mà chuyển hiện. Cho nên có A 
				lại da thức là có Mạt na thức và A lại da thức sinh về cõi nào 
				thì Mạt na thức chuyển hiện theo cõi ấy. Mạt na thức theo A lại 
				da thức như bóng theo hình, nhưng Mạt na luôn lấy cảnh sở duyên 
				nơi A lại da mà suy xét và so đo, khiến cho tâm bị dấy động và ô 
				nhiễm. Thí dụ A lại da thức là mảnh đất thì Mạt na thức là rễ 
				cây luôn bám chặt vào đất A lại da. Còn ý thức và tiền ngũ thức 
				là thân cây và những nhánh cây vươn lên từ mảnh đất A lại da. 
				Một thí dụ khác là A lại da thức nếu ví như là nước trong những 
				con sông thì Mạt na thức chính là gốc rễ của những cây lục bình 
				trôi nổi trên mặt nước và ý thức và tiền ngũ thức bây giờ cũng 
				như là thân và cánh là lục bình. 
				 
				Mạt na thức sinh ra từ A lại da thức, nhưng nó lại lấy A lại da 
				thức làm đối tượng sở duyên. Vì thế các chủng tử và hiện hành 
				của A lại da thức luôn bị Mạt na thức lấy cảnh sở duyên mà duyên 
				tức là các chủng tử nầy cứ bị soi chiếu, suy xét và đo lường. 
				Chưa hết các cảnh sở duyên lại bị Mạt na thức duyên thêm một lần 
				nữa nên bị biến đổi và sự biến đổi này lại được đưa vào A lại da 
				làm tăng trưởng hay làm suy yếu thêm các chủng tử có sẳn nơi A 
				lại da thức. Nếu sự tác động làm tăng trưởng các chủng tử có sẳn 
				trong A lại da thức thì gọi là Thuận Tăng Thượng Duyên và nếu sự 
				tác động làm suy yếu hay hủy diệt các chủng tử có sẵn trong A 
				lại da thì gọi là Nghịch Tăng Thượng Duyên. 
				 
				Thêm nữa bản chất của Mạt na là suy xét và đo lường cho nên Mạt 
				na thức không bao giờ là không suy tính và so đo. Chính vì sự tư 
				lương này mà tánh chất nhận thức nơi Mạt na thức không được 
				khách quan trung thực, luôn bị bóp méo mà biến đổi khác đi mà 
				Duy thức gọi là phi lượng. Vì thế Mạt na thức là chấp Ngã và Ngã 
				Sở. 
				 
				Bây giờ hãy nghiệm bài tụng thứ sáu : 
				 
				Tứ phiền não thường câu 
				Vị: ngã si, ngã kiến 
				Tinh ngã mạn ngã ái 
				Cập dữ Xúc đẳng câu. 
				 
				Dịch là: 
				 
				Tương ưng bốn phiền não 
				Là ngã si, ngã kiến 
				Cùng ngã mạn, ngã ái 
				Và tâm sở Xúc thấy. 
				 
				Mạt na thức là hằng thẩm tư lương nên luôn chấp đó là mình, là 
				của mình mà sinh ra tham đắm si mê. Vì còn phân biệt đối đải nên 
				thấy có ta có người và dĩ nhiên là thấy cái ta và cái của ta là 
				đúng, là đẹp, là hơn. Đây là những căn bản của phiền não khổ đau 
				cũng bởi do chấp ngã mà ra. Vì thế mới gọi là Ngã Si, Ngã Kiến, 
				Ngã Mạn và Ngã Ái. 
				 
				Ngã Si là vô minh, là mê muội vọng chấp mà tin rằng tất cả các 
				pháp là ngã trong khi chính nó không có tự tánh thì làm sao có 
				tự ngã được. 
				 
				Ngã Kiến là luôn cho rằng những điều mình thấy, mình nghĩ, mình 
				quan niệm, mình tin tưởng là đúng. Những gì khác với quan niệm 
				của mình là sai cho dù đó là lời chân thật. Đây là cố chấp, 
				ngoan cố không phục thiện. 
				  
				Ngã Mạn là luôn coi mình là 
				nhất, không coi ai ra gì, lấn lướt và khinh thường người khác. 
				  
				Ngã Ái là luôn luôn chấp 
				ngã và sinh tâm mê thích ta và cái của ta. Chỉ biết nghĩ đến 
				mình và những gì thuộc về mình. 
				 
				Bốn thứ ngã này làm che đậy và làm vẫn đục nội thức tức là làm 
				nhơ bẩn A lại da thức và phát sinh tiền lục thức khiến cho con 
				người mãi trôi nổi trong sinh tử luân hồi. 
				Sau cùng hãy nghiệm bài 
				tụng thứ bảy : 
				 
				Hữu phú vô ký nhiếp  
				Tùy sở sanh sở hệ 
				A La Hán, Diệt định 
				Xuất thế đạo vô hữu 
				 
				Dịch là: 
				 
				Tánh hữu phú vô ký 
				Sanh theo A lại da 
				Chứng A La hán, Diệt định 
				Xuất thế đạo, không còn. 
				 
				Với những phiền não chấp ngã và suy tư lo nghĩ, Mạt na thức luôn 
				bám lấy A lại da thức mà chấp ngã, chấp là mình, là của mình tức 
				là ngã và ngã sở. Tất cả những hành tướng này tạo nên Nghiệp 
				Nhân và những nghiệp này cứ trùng trùng duyên khởi, tương tục 
				tăng trưởng, sinh sinh diệt diệt cho đến khi đầy đủ nhân duyên 
				thì thọ sanh vào một trong lục đạo và những quốc độ tương xứng 
				với nghiệp quả của mình. Do đó nếu nghiệp báo A lại da thức 
				chuyển biến khởi sanh vào cõi nào thì Mạt na thức sanh vào cõi 
				đó. Vì thế khi nhân duyên đã đầy đủ chín mùi thì A lại da thức 
				có thể chuyển biến và hiện hành thành một loài trong lục đạo, 
				hay một loài trong những cõi trời Sắc giới hay Vô Sắc giới. 
				 
				Khi các vị A la hán của hàng Thanh văn, các vị Bích chi Phật của 
				hàng Duyên giác hay các bậc Bồ-tát Đệ Bát Địa của Đại thừa tu 
				chứng để diệt các thọ và tưởng tức là nhập vào Diệt tận định thì 
				các chấp ngã sẽ không còn sanh khởi trong Mạt na thức nghĩa là 
				các vị đã đạt đến trạng thái vô ngã. Không còn sinh khởi không 
				có nghĩa là Mạt na thức bị biến mất, không còn nữa. Nói tóm lại, 
				khi chưa chuyển thì Mạt na thức luôn luôn chấp ngã và chỉ duyên 
				nơi A lại da thức. Đến khi đắc thành thánh quả, chuyển chấp ngã 
				thành vô ngã thì Mạt na thức chuyển thành Bình Đẳng Tánh Trí, 
				tức là thức thứ bảy bây giờ chỉ còn duyên ‘chân 
				như’ cùng tất cả các pháp khác, thấy được 
				mọi căn cơ và sai biệt nơi mỗi loài chúng sinh, tùy duyên hóa 
				thân ứng hiện thuyết pháp độ sanh và A lại da thức chuyển thành 
				Đại Viên Cảnh Trí. 
				 
				8) A lại da thức: A lại da là âm của tiếng Phạn Alaya có nghĩa 
				là cái kho mà danh từ Hán-Việt gọi là tàng. Tất cả mọi chủng tử 
				không phân biệt thiện ác, tốt xấu, sanh tử và niết bàn, mê ngộ 
				và khổ vui, ngay cả vô ký đều được chứa đựng trong tàng thức 
				này. A lại da thức có khả năng tiếp nhận, duy trì và làm các hạt 
				giống chủng tử tăng trưởng, chuyển biến cho đến khi đầy đủ nhân 
				duyên thuần thục chín mùi thì mới được đi tái sanh vào những thế 
				giới thích hợp với căn nghiệp của mình. Tùy theo nghiệp lực của 
				mỗi chúng sinh mà được thọ sanh vào trong lục đạo hoặc sinh về 
				những cõi trời trong những cõi Sắc giới và Vô sắc giới. Nếu nhân 
				trong A lại da thức chứa nhiều chủng tử thiện thì khi đầy đủ 
				nhân duyên chín mùi thì sẽ chuyển biến và hiện khởi ra quả báo 
				là người hay là trời. Ngược lại nếu chứa nhiều chủng tử bất 
				thiện thì sẽ hiện khởi ra quả báo trong ba đường ác là súc sanh, 
				ngạ quỷ và địa ngục.  Vì các sự huân tập và chuyển biến 
				trong A lại da thức thật tiềm ẩn và vi tế nên người chưa đắc đạo 
				không thể biết được mình sẽ thọ thân làm loài gì và ở trong quốc 
				độ nào. 
				 
				Thức thứ tám này cũng còn được gọi là A-đà-na thức. Vậy cái tên 
				này xuất xứ từ đâu? 
				 
				Trong kinh Giải Thâm Mật có bài tụng rằng : 
				 
				A-đà-na thức thậm thâm tế 
				Tập khí chủng tử như bộc lưu 
				Ngã ư phàm ngu bất khai diễn 
				Khủng bỉ phân biệt chấp vi ngã 
				Dịch là: 
				 
				Thức A-đà-na rất thậm thâm và tế nhị 
				Các tập khí chủng tử của nó sinh diệt như dòng nước thác 
				Ta (Phật) đối với chúng phàm phu và nhị thừa không nói thức này 
				Vì sợ chúng phân biệt chấp làm ngã. 
				 
				Thức này là căn bản của chơn và vọng vì thế thánh phàm đều nương 
				ở nơi đây. Do đó thức A-đà-na rất thâm sâu và tế nhị. Nó chứa 
				nhóm các tập khí chủng tử từ vô thỉ đến nay. Nó làm chủ giữ gìn 
				báo thân của hữu tình chúng sinh sống trong một thời kỳ. Cũng 
				như dòng nước thác, ở xa thấy như điềm tịnh mà kỳ thật nó chảy 
				rất mau. Chẳng những chúng phàm phu không biết mà ngay cả hàng 
				Tiểu thừa Thanh văn cũng mê lầm thức này. Đức Phật đối với hai 
				hạng này chẳng hề giảng nói đến thức A-đà-na vì sợ họ mê lầm 
				chấp làm Ngã. 
				 
				A-đà-na thức còn được tìm thấy trong Nhiếp Đại thừa luận, Hiển 
				dương thánh giáo luận, Thành Duy Thức luận và Du Dà Sư Địa luận… 
				 
				Trong Thành Duy Thức Luận quyển ba giải thích thức A-đà-na có ba 
				công năng như sau : 
				 
				1) Giữ gìn (chấp trì) chủng tử của các pháp: Các pháp nói ở đây 
				là chỉ cho tất cả các pháp hữu vi. Đó là “hữu lậu hữu vi” tức là 
				các pháp tạp nhiễm thuộc về chúng sinh và “vô lậu hữu vi” tức là 
				các pháp thanh tịnh thuộc về Thánh hiền. Tuy nhiên “chủng tử” 
				chỉ có công năng tiềm tàng (ẩn núp) mà không khởi hiện. Nếu 
				không có một cái gì để chứa giữ thì chủng tử của các pháp phải 
				bị tản mất. Nếu chủng tử các pháp bị tản mất thì các pháp hiện 
				hành ở thế gian và xuất thế gian cũng chẳng còn. Do đó phải có 
				thức A-đà-na, tánh vô phú vô ký, nhất loại sinh diệt tương tục 
				mới có thể duy trì chứa giữ chủng tử của các pháp. 
				 
				2) Giữ chịu (chấp thọ) sắc căn và thế giới: Đây là muốn chỉ cho 
				cái công năng giữ gìn báo thân của chúng sinh hữu tình được 
				tương tục tồn tại trong một thời kỳ không tan hoại. 
				 
				3) Giữ lấy (chấp thủ) việc kết nối đời sau tức là “kiết sanh 
				tương tục” là do ba pháp: phiền não, nghiệp và sanh. Con người 
				vì sống trong vô minh phiền não nên tạo ra nghiệp mà phải kết 
				nối đời sau để thọ khổ. Chữ “kiết sanh” có nghĩa là thọ sanh tức 
				là bắt đầu từ khi kết thai cho đến lúc sanh ra vậy. Tiến trình 
				kết mối đời sau bắt đầu từ thân đang sống đến thân đang chết. 
				Rồi từ thân đang chết đến thân trung ấm (thân mới chết chưa đầu 
				thai). Và sau cùng từ thân trung ấm đến thân đời sau. Nếu các 
				thân được tương tục không gián đoạn như thế ắt phải có một cái 
				gì thường lưu hành và giữ gìn (chấp thủ). Cái đó chính là thức 
				A-đà-na. Thật vậy, nếu không có thức thứ tám này để nắm giữ việc 
				“kết nối đời sau” thì khi một người chết rồi phải mất luôn, 
				không còn tái sanh được nữa. Như thế thành ra bị rơi vào thuyết 
				Đoạn diệt của ngoại đạo rồi. Đây là câu trả lời cho vua Ba tư 
				nặc về thuyết Đoạn diệt của bọn ngoại đạo Ca chiên Diên. 
				 
				Thêm nữa tất cả những chủng tử tốt xấu đều được gieo vào mảnh 
				đất A lại da trong trạng thái tiềm ẩn. Các chủng tử này được 
				huân tập, chuyển biến, tương sanh, tương duyên, tương diệt liên 
				tục. Tất cả những sự chuyển biến này xảy ra liên tục và tức 
				thời, chớp nhoáng và liên tiếp. Cái này diệt thì cái kia sinh, 
				tương tức tương tục liên miên bất tận nên được gọi là Sát Na 
				Sinh Diệt. Sát Na Sinh Diệt có thể được ví như những khối nước 
				liên tục chuyển động chảy trong dòng thác lũ. Khối nước trước đổ 
				qua thì có khối nước khác đổ tới, tiếp nối liên tục không ngừng 
				nghĩ và dĩ nhiên dòng nước cũ không thể chẩy trở lại nơi mà nó 
				đã chảy qua. Sự sinh diệt triền miên đó cũng có thể ví như những 
				đợt sóng dạt dào trên biển cả. Đợt sống này đẩy đợt sóng kia, 
				đợt sóng mới đẩy đợt sóng cũ. Bởi có gió vọng tưởng thổi sóng 
				dạt dào trên biển cả làm các ngọn sóng liên tiếp nhồi lên lặn 
				xuống không ngừng nghĩ cho nên ngọn sóng này diệt thì ngọn sóng 
				mới khởi sanh. 
				 
				Khi chúng sinh biết tu tập làm cho tâm được thanh tịnh thì các 
				chủng tử vô lậu được huân tập, tăng trưởng và phát sinh ra hiện 
				hành. Các hiện hành này được huân tập trở vào thức A lại da 
				thành các chủng tử vô lậu mới. Tùy theo tánh chất của các chủng 
				tử vô lậu mới này mà chủng tử hữu lậu tiềm ẩn sẳn có trong tàng 
				thức bị suy thoái và tiêu diệt hoặc các chủng tử vô lậu sẵn có ở 
				trong đó được tăng trưởng và phát sinh thêm. Nếu chúng sinh trì 
				công tu tập có nghĩa là tiếp tục huân tập các chủng tử vô lậu 
				thanh tịnh đến khi tất cả các chủng tử và hiện hành hữu lậu hoàn 
				toàn bị tiêu diệt thì lúc đó họ sẽ chứng đắc được quả vị A la 
				hán trong hàng Thanh văn hay là bát địa Bồ-tát của Đại thừa. Đến 
				đây thì tàng thức chỉ chứa toàn các chủng tử vô lậu. Các hạt 
				giống hữu lậu của phiền não, nghiệp báo luân hồi sinh tử không 
				còn nữa và A lại da thức bây giờ chuyển thành “Vô cấu thức”. Vô 
				cấu thức cũng còn cái tên khác là Yêm-ma-la thức, Bạch tịnh 
				thức, Thanh tịnh thức, Chân như thức, Như Lai tạng thức hay thức 
				thứ chín. Tuy có rất nhiều tên như thế nhưng chúng quy cũng chỉ 
				có một ý nghĩa “thanh tịnh”. 
				 
				Khi chúng sinh đạt đến quả vị A la hán hay bát địa Bồ-tát thì 
				các chủng tử hữu lậu làm chướng ngại chân tâm sẽ bị hủy diệt, 
				nhưng thật ra vẫn còn những chủng tử hữu lậu vi tế nằm tiềm ẩn 
				trong thức thứ tám này. Chỉ khi nào các vị A la hán hay bát địa 
				Bồ-tát tiếp tục tiến tu pháp tối thắng vô phân biệt trí, được 
				gọi là Thắng Pháp Không Quán, để vượt qua khỏi bậc Bồ-tát Thập 
				địa mà đến bậc Đẳng Giác và khởi Kim Cang Dụ Định mà đạt tới 
				Phật quả thì thức thứ tám này mới xóa tan hoàn toàn tất cả các 
				vô lậu thậm thâm vi tế và chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí.  
				Khi đó các chủng tử vô lậu, cấu nhiễm đã hết, thức này chuyển 
				thành trí thanh tịnh chiếu khắp mười phương các cõi nhiều như vi 
				trần nên gọi là Đại Viên Cảnh Trí. Đây chính là cái thể thanh 
				tịnh của Chơn Tâm cũng như mặt gương sáng chiếu soi tất cả vạn 
				pháp một cách chân thật mà nhà Phật gọi là “như thị bất khả tư 
				nghì”. 
				 
				Chúng sinh vì có những nghiệp báo khác nhau nên khi đi thọ báo 
				tái sinh họ sống trong những môi trường, những tin tưởng, những 
				mục đích, những chọn lựa và những hành động khác nhau. Chính vì 
				có sự khác biệt về sinh lý, tâm lý và vật lý mà Đức Thế Tôn phải 
				tùy theo trình độ, căn cơ của mỗi hạng người mà phương tiện chỉ 
				bày ra những pháp môn thích hợp ngỏ hầu giúp họ có thể hội nhập 
				Phật tri kiến. Tuy con người căn nghiệp, tánh nết không đều cũng 
				như tu có mau có chậm, nhưng khi giác ngộ được chân tánh thì 
				đồng một thể chân như. Trong Truyền Tâm Pháp Yếu, tổ Hoàng Bá đã 
				dạy rằng : 
				 
				- Phật cùng chúng sinh một tâm không khác. Cũng giống như hư 
				không, không tạp loạn, không hư hoại. Như ánh sáng mặt trời 
				chiếu khắp thiên hạ. Khi mặt trời lên thì chiếu sáng khắp nơi mà 
				hư không chưa từng sáng. Đến lúc mặt trời lặn, u tối khắp nơi mà 
				hư không cũng chưa từng tối. Cảnh sáng tối tự tranh nhau, còn 
				tánh của hư không thì rỗng rang không thay đổi. Tâm của Phật và 
				tâm của chúng sinh cũng như vậy. Nếu quán Phật mà thấy cái tướng 
				thanh tịnh, quang minh, giải thoát và nếu quán chúng sinh mà 
				thấy cái tướng ô nhiễm, ám muội, sinh tử thì với kiến giải như 
				thế, trải qua hằng hà vô số kiếp vẫn không chứng đạt được đạo 
				quả Bồ-đề. Đó cũng vì còn chấp sắc tướng vậy. Tức tâm là Phật. 
				Tâm đó là vô tâm nghĩa là biết xa rời mọi tướng để thấy biết 
				rằng chúng sinh và Phật không hề khác nhau. Chỉ cần được vô tâm 
				tức thì thành Đạo. Người học đạo nếu không có được cái vô tâm 
				thì tu hành kiếp kiếp cũng không thành “Đạo” được. Tu hành có 
				mau có chậm. Có kẻ mới nghe pháp liền được vô tâm. Có kẻ phải tu 
				hành đến thập tín, thập trụ, thập trụ, thập hồi hướng mới được 
				vô tâm. Lại có kẻ đến hàng thập địa mới được vô tâm. Tóm lại, dù 
				mau dù chậm, hễ chúng sinh có được vô tâm là sẽ an trụ ở đó chứ 
				chẳng còn gì để tu, để chứng nữa. Thật chẳng có gì sở đắc. Sự 
				thật như vậy, quả không hư dối. 
				 
				Sau cùng Chân Như tuyệt đối chỉ có đạt được bằng công năng tu 
				trì và thiền quán nhằm loại bỏ các tập nhiễm từ thô đến tế có từ 
				vô thỉ để đưa tâm thức trở về với tự tánh thanh tịnh bản nhiên 
				tức là bản lai diện mục. Chỉ khi ấy chúng sinh mới nhận chân ra 
				cái cảnh giới như thị, không thể nghĩ bàn mà chư Phật trong tam 
				thế mười phương đã chứng đắc. 
				
				
				 |  
				 |