| 
				 
				  
				
				
				(The explanation of the 
				Surangama Sutra) 
				Ngày nay với sự tiến bộ của văn minh khoa 
				học đã giúp con người có những cái nhìn tương đối rộng rãi và 
				chính xác hơn đối với nhân sinh vũ trụ. Ngày xưa, khi Ngài Tam 
				Tạng Trần Huyền Trang khổ công lặn núi trèo non, băng qua tuyết 
				sơn giá buốt đến Ấn Độ để thỉnh kinh. Cuộc hành trình phải mất 
				hai năm đi, hai năm về và 13 năm du học bắt đầu từ năm 629 mãi 
				đến năm 645 Ngài mới về lại Trường An, Trung Quốc. Rời Đại Đường 
				17 năm, Ngài Huyền Trang đi trên năm vạn dặm đường, xuyên qua 
				128 quốc gia lớn nhỏ.  
				Khi đi chỉ một người một 
				ngựa, nhưng ngày trở về cố quốc Ngài đã thỉnh về 150 Xá Lợi, hai 
				tượng Phật gỗ đàn tô ngân cao 4 thước, ba tượng Phật bằng đàn 
				hương cao trên 2, 3 thước và 657 bộ kinh chia làm 520 hiệp cùng 
				một số bảo vật khác. Trong suốt thời gian du học, Ngài đã thăm 
				viếng hầu hết các di tích của đạo Phật như vườn Lâm Tỳ Ni (nơi 
				Phật đản sanh), Bồ-đề đạo tràng (nơi Phật thành đạo), thành Câu 
				thi na (nơi Phật nhập diệt) và rất nhiều tu viện lớn trải khắp 
				Ấn Độ. Đặc biệt Ngài lưu lại sáu năm tại tu viện Na Lan Đà tu 
				học và trở thành một trong ba người học trò giỏi nhất của cao 
				tăng Giới Hiền. Tất cả những kinh điển của phái Đại thừa, Tiểu 
				thừa, kinh Vệ đà ngay cả những sách thuốc… đều tập trung tại tu 
				viện này. Từ ngày về lại Trung Hoa, Ngài Huyền Trang bắt tay 
				ngay vào công việc phiên dịch. 
				Trong suốt 19 năm ròng rã, 
				Ngài dịch được tất cả 75 bộ kinh, gần 1335 quyển từ tiếng Phạn 
				sang tiếng Hán. Thể theo lời yêu cầu của vua Đường để phô trương 
				cho người Ấn Độ biết những học thuyết của Trung Hoa, Ngài còn 
				dịch bộ Đạo Đức Kinh của Lão Tử và bộ Đại Thừa khởi tín luận từ 
				chữ Hán sang chữ Phạn. Và dĩ nhiên Ngài còn để lại cho đời một 
				bộ “Đại Đường Tây Vực Ký” gồm 12 quyển ghi lại đầy đủ rất chi 
				tiết về lịch sử, địa lý, phọng tục, tập quán… của 128 quốc gia 
				Ngài đã đi qua. Trưa ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, vì tuổi già 
				sức yếu Ngài gác bút nghìn thu tại chùa Ngọc Hoa, thọ 69 tuổi. 
				Trên đường hồi hương Ngài phải băng qua con sông Tín độ (Indus), 
				một trong hai con sông lớn nhất của Ấn Độ. Khi đoàn người hộ 
				tống kinh sách đến giữa dòng sông thì đột nhiên cuồng phong nổi 
				sóng ba đào khiến thuyền bị chơi vơi làm rơi mất 50 bộ kinh. 
				Biến cố nầy làm cho Ngài Huyền Trang ray rứt đau buồn khôn xiết 
				vì Ngài quý kinh điển còn hơn cả mạng sống của mình. Giả sử ngày 
				xưa Ngài Huyền Trang có cái “memory stick” chứa khoảng vài 
				“Gigabyte” thì tất cả kinh điển có thể dung chứa trong cái 
				memory nhỏ hơn ngón tay út nầy. Giả sử Ngài Huyền Trang có được 
				chiếc máy “GPS” để dẫn đường thì cuộc hành trình qua Ấn Độ sẽ dễ 
				dàng biết bao. Nhưng giả sử Ngài Huyền Trang có được những thứ 
				nầy thì làm sao Phật giáo có được một bậc vĩ nhân đã tận tụy hy 
				sinh cả đời mình cho Phật pháp, bất chấp mọi hiểm nguy. Một 
				người chẳng những đã thông suốt tam tạng kinh điển mà còn cống 
				hiến đời mình để thỉnh và dịch những bộ Đại Tạng Kinh lưu lại 
				cho hậu thế đến hơi thở cuối cùng. Ngài là một tấm gương sáng 
				chói cho hàng hậu học vì không có một thành công lớn nào trên 
				thế gian mà không trải qua những thử thách khó khăn. Vì thế cổ 
				nhân có dạy rằng: 
				 
				“Nhân giả tiên nan nhi hậu hoạch” 
				 
				Nghĩa là người cho chí lớn trước hết phải trải qua một phen khó 
				khăn gian khổ, sau đó mới có thể đạt được sự dễ dàng. 
				 
				Tu học kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng thế, đòi hỏi hành giả phải 
				chuyên cần, bền chí dành nhiều thì giờ tư duy quán chiếu, thẩm 
				xét tư lương đến khi nhân duyên đến, tức thì được ngộ. Do vậy cổ 
				nhân cũng nhắn nhủ rằng: 
				 
				“Bất kinh nhất phiên hàn triệt cốt, 
				Chẩm đắc mai hoa phác tỵ hương?” 
				 
				Nghĩa là: 
				 
				Không trải qua mùa đông buốt giá, 
				Hoa mai sao nở được mùi thơm? 
				 
				Nhưng tiếc thay chính Ngài Huyền Trang tuy đã lưu ngụ rất nhiều 
				nơi và nhiều năm ở Ấn Độ mà cũng không hề hay biết lúc bấy giờ ở 
				Ấn Độ còn có một bộ kinh rất quý giá khác là kinh Thủ Lăng 
				Nghiêm. 
				 
				Thử nghĩ một người đi trong biển khơi, sóng dồi gió dập, lênh 
				đênh chập chùng, nếu không có tấm hải đồ hay kim chỉ Nam thì làm 
				sao vượt qua bão tố trùng dương để quay thuyền về bến. Chúng ta 
				ngày nay rất may mắn có được chiếc máy Navigation nên không còn 
				lầm đường lạc nẻo, nhưng thử nghĩ lại trên con đường tu đạo 
				chúng sinh có may mắn nắm trong tay cái máy GPS Phật pháp chăng? 
				Vâng, chính kinh Thủ Lăng Nghiêm là chiếc máy GPS, là kim chỉ 
				Nam để hướng dẫn người tu hành từng bước ngỏ hầu vượt qua bao 
				thử thách chướng ma mà thành tựu trí tuệ Bồ-đề. 
				 
				Bấy giờ tại núi Thiên Thai bên Trung Hoa có Trí Giả Đại Sư là 
				người đã nghiêm trì kinh Pháp Hoa đến chỗ tột cùng. Một hôm Ngài 
				đọc phẩm Dược Vương Bồ-tát bổn sự trong kinh Pháp Hoa đến câu : 
				“Thị chân tinh tấn, thị danh chân pháp cúng dường Như Lai” nghĩa 
				là có được tâm chân chính tinh tấn thì mới được gọi là pháp cúng 
				dường Như Lai chân thật, Ngài liền nhập định, chứng Pháp Hoa 
				Tam-muội và đạt được Nhất Triền đà-la-ni. Lúc đó Ngài vừa 49 
				tuổi. Sau khi Ngài xuất định, với trí tuệ siêu tuyệt, Ngài lập 
				ra môn Tam Chỉ Tam Quán và từ đó tông Thiên Thai được vang danh 
				cho đến ngày nay. Sau đó có một vị Pháp sư người Ấn Độ đến Trung 
				Hoa vì nghe danh Ngài nên đến núi Thiên Thai để thăm. Sau khi 
				nghe Trí Giả Đại Sư trình bày về môn Tam Chỉ Tam Quán, vị Pháp 
				sư rất ngạc nhiên mà thốt rằng môn Tam Chỉ Tam Quán nầy cũng 
				giống như kinh Thủ Lăng Nghiêm ở Ấn Độ. Tam Chỉ Tam Quán dùng “ý 
				thức” để tu tâm, còn kinh Thủ Lăng Nghiêm dùng “Tánh của Căn” để 
				tu. Thông thường, chỉ quán là do công phu luyện tập lâu ngày 
				thuần thục mới có thể kết hợp được tâm và cảnh nhất như mà không 
				lấy ngay tự tánh sẵn có làm định. Ngược lại, kinh Lăng Nghiêm 
				dùng định viên mãn của tự tâm sẵn có làm “Nhất Thiết Sự Cứu Cánh 
				Kiên Cố” nghĩa là sự bền chắc nhất trong tất cả mọi thứ tức là 
				cứu cánh bậc nhất. 
				Vì thế lối tu “Tự tánh bổn 
				định” này khác hẳn với lối tu tam chỉ tam quán của Ngài Trí Giả 
				Đại sư. Một khi đã nắm được thể tánh chiếu diệu đó, hành giả 
				liền khởi công tu luyện “vi mật quán chiếu” mà không cần lấy tư 
				duy tu tập làm quán. Tại sao? Bởi vì cái định này vốn tự tánh 
				sẵn có, thường hằng, không ngoài tự tánh bất động cùng làm một 
				thể chơn định. Vì sự huyền diệu đó mà Trí Giả Đại Sư rất xúc 
				động khi nghe có kinh Thủ Lăng Nghiêm đang lưu hành mà chính 
				Ngài chưa từng hay biết nên Ngài khát vọng muốn có cơ hội để xem 
				cho được bộ kinh nầy nên hằng ngày hai lần sớm chiều hướng về 
				phương Tây (Ấn Độ) quỳ lạy cầu khẩn liên tiếp trong mười tám năm 
				cho kinh Lăng Nghiêm được sớm truyền bá sang Trung Quốc. Nhưng 
				duyên chưa đến nên Trí Giả Đại Sư viên tịch lúc Ngài 67 tuổi mà 
				vẫn chưa hề thấy, đọc được kinh. 
				 
				Tại sao Ấn Độ lại cấm kinh Lăng Nghiêm lưu truyền ra nước ngoài 
				và luật pháp cấm Pháp sư Ấn độ không được dạy kinh nầy cho người 
				ngoại quốc? 
				Bởi vì kinh quá quý báu nên 
				Quốc vương Ấn Độ thông báo cho thần dân biết kinh Lăng Nghiêm là 
				quốc bảo vì đó là bổn kinh do Bồ-tát Long Thọ mang từ long cung 
				về nên nhà vua ra lệnh cấm lưu truyền kinh sang ngoại quốc. 
				Khoảng 100 năm sau, trong thời đại của Võ Tắc Thiên hoàng đế, có 
				Ngài Pháp sư Bất Lạt Mật Đế (Pramiti) người Trung Ấn Độ, vì thấy 
				tầm quan trọng của kinh nên động lòng từ bi muốn đem kinh truyền 
				sang nước khác để cứu độ chúng sinh, đặc biệt là Trung Hoa. Lần 
				đầu Ngài sắp đặt cho thương nhân Trung Hoa mang đi bản sao của 
				kinh, nhưng bị thuế quan ở biên giới giữ lại, không cho phép 
				mang ra khỏi nước. Lần thứ hai, Ngài dấu kinh trong người nhưng 
				cũng bị thuế quan bắt lại. Vì Ấn Độ thời bấy giờ triều đình rất 
				kính trọng đạo Phật nên Ngài mới được tha tội. 
				Cuối cùng Ngài chép kinh 
				bằng chữ rất nhỏ trên một tấm lụa cực mỏng, cuốn lại rồi phủ bên 
				ngoài tấm lụa một lớp sáp. Ngài tự xẻ thịt nơi cánh tay mình 
				nhét cuộn lụa vào trong đó, may vết thương lại rồi dùng thuốc 
				đắp lên cho đến khi vết thương lành lặn. Khi vết mổ đã lành, 
				Ngài lại lên đường sang Trung Hoa. Lần nầy, lính gác biên giới 
				không chút nghi ngờ nên Ngài đi thoát. Ngài Bất Lạc Mật Đế dùng 
				đường biển để đến Quảng Châu. Khi đến đất Nam Thuyên thì Ngài 
				gặp cư sĩ Phòng Dung. Cư sĩ Phòng Dung lúc còn trẻ, làm đến chức 
				Thừa tướng cho Hoàng đế Võ Tắc Thiên, nhưng vì phạm lỗi lầm nên 
				bị thuyên chuyển đến làm quan ở đất Nam Thuyên nầy. Vì làm đại 
				quan nên ông là bậc bác học uyên thâm và cũng là người rất hâm 
				mộ Phật pháp. 
				Khi nghe Ngài Bất Lạc Mật 
				Đế nói về kinh Lăng Nghiêm thì ông hết sức vui mừng, nhưng khi 
				mở tấm lụa ra thì máu me bám lấy lâu ngày làm mất cả chữ nghĩa. 
				May thay, phu nhân của ngài Phòng Dung đem cuốn lụa ấy nấu với 
				một chất hóa học thì máu mủ đều theo nước mà tan đi và chỉ lưu 
				lại các nét mực mà thôi. Ngài Bất Lạt Mật Đế vì đạo quên mình 
				cũng đủ chứng minh sự quý báu của kinh Lăng Nghiêm và tâm Bồ-tát 
				của Ngài làm cho chúng sinh trọn đời bái phục. Cũng xin nhắc 
				lại, vào năm 64 trước tây lịch, vua Hán Minh Đế ở Trung Hoa một 
				đêm nằm mộng thấy có “người vàng” trên đầu tỏa ánh hào quang. 
				Khi nhà vua hội quần thần lại thì có người cho biết đó là hình 
				ảnh Đức Phật bên Ấn Độ. Nhà vua bèn cho người sang tận Ấn Độ 
				thỉnh. Lúc ấy có Ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan chở kinh 
				về Trung Hoa. Từ đó Trung Hoa mới bắt đầu có kinh Phật. Ở Ấn Độ 
				kinh Phật được chép trên lá bối thành từng miếng rồi xâu lại 
				thành một thiên tức gồm một ngàn miếng. Vì thế có người gọi kinh 
				Phật là kinh là bối. Nhưng khi kinh được dịch từ Phạn ngữ sang 
				tiếng Trung Hoa thì được viết vào lụa trắng. 
				 
				Ngài Bất Lạc Mật Đế dịch kinh Thủ Lăng Nghiêm từ chữ Phạn sang 
				chữ Hán theo khẩu dịch (văn nói) tại chùa Chế Chi tỉnh Quảng 
				Châu vào ngày Tân Sửu, tháng Kỷ Mảo năm Ất Tỵ (705 Tây lịch) 
				niên hiệu Thần Long thứ nhất và hoàn tất bản dịch năm Đinh Mùi 
				(707 Tây lịch). Tuy Ngài Bất Lạc Mật Đế chủ trì công cuộc phiên 
				dịch này, nhưng còn có hơn hai trăm Pháp sư đã tựu về để cùng 
				nhau tiến hành công tác phiên dịch kinh Lăng Nghiêm. Triều đại 
				nhà Đường của Võ Tắc Thiên Hoàng đế kéo dài từ năm 618 đến năm 
				907 Tây lịch. Năm Tân Sửu (701Tây lịch) Võ Tắc Thiên thoái vị, 
				nhường ngôi cho Hoàng đế Trung Tông lấy niên hiệu là Thần Long 
				nguyên niên. 
				 
				Pháp sư cố gắng dịch kinh rất nhanh để phải trở về lại Ần Độ, 
				đến thú tội với nhà vua và xin nhận bất kỳ mọi hình phạt nào 
				trước khi viên quan giữ cửa ải có thể bị phạt vì để Ngài lén 
				mang kinh ra nước ngoài. Trong khi đó ở tại Trung Hoa, sau khi 
				dịch xong, cư sĩ Phòng Dung vào yết kiến triều đình thì vua 
				Trung Tông mới lên kế vị và vì phải đương đầu với nhiều quốc sự 
				nên nhà vua chưa rảnh để nhuận sắc. Đến khi Thiền sư Thần Tú 
				được phong làm Quốc sư, rồi được cúng dường ở trong hoàng cung 
				nên một hôm Thiền sư thấy được bộ kinh này bèn cho chép lại và 
				ấn tống lưu hành ở phương Bắc. Sau khi được vua Trung Tông nhuận 
				sắc, kinh Lăng Nghiêm được ấn hành tại chùa Độ Môn ở Kinh Châu 
				và từ đó kinh mới được lưu truyền. 
				 
				Khi nói về Thần Tú thì làm sao quên được bài kệ : 
				
				 
				Thân thị Bồ-đề thọ 
				Tâm như minh cảnh đài 
				Thời thời thường phất thức 
				Vật sử nhạ trần ai. 
				Dịch là : 
				
				 
				Thân là cội Bồ-đề 
				Tâm như đài gương sáng 
				Luôn luôn phải lau chùi 
				Chớ để dính bụi trần. 
				 
				Vì mỗi câu đều chấp vào sự tướng chứng tỏ tâm chưa ngộ được lý 
				Không. Trong khi đó Ngài Huệ Năng dùng trí tuệ Bát nhã mà đối 
				lại rằng : 
				
				 
				Bồ-đề bổn vô thọ 
				Tâm phi minh cảnh đài 
				Bổn lai vô nhất vật 
				Hà xứ nhạ trần ai. 
				 
				Nghĩa là : 
				 
				Bồ-đề là sự giác ngộ thì làm sao là cây được. 
				Chơn tâm là chơn không vô hình vô tướng thì làm sao là cái đài 
				gương. 
				Cái chơn tâm, bản lai diện mục này từ xưa đến nay đâu có hình 
				tướng. 
				Nếu không có tướng trạng thì làm sao dính được bụi trần! 
				 
				Tuy ít học nhưng tâm đã liễu ngộ chân lý nên Ngài Huệ Năng trở 
				thành tổ thứ sáu của thiền tông Trung Hoa. Sau khi Lục Tổ Huệ 
				Năng rời Huỳnh Mai quay về phương Nam lánh nạn và sau này truyền 
				bá Đông Sơn Pháp môn chỉ trong phạm vi thuộc vùng biên cương 
				Trung Hoa và Việt Nam nên triều đình và phần lớn người Trung 
				Quốc không hề biết đến Ngài. Chính trong thời gian này, Thiền sư 
				Thần Tú đang được trọng vọng ở triều đình và được vua Trung Tông 
				sắc phong làm quốc sư vì thế mọi người đều nghĩ rằng Thần Tú 
				chính là người thừa kế tâm ấn của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn. Mãi về sau 
				có Ngài Thần Hội là đệ tử của Lục Tổ sau khi thọ giáo với Huệ 
				Năng đã đem những sở đắc của mình, bằng cách dùng trí tuệ Bát 
				nhã, quét sạch hệ phái Lăng Già của Thần Tú để khôi phục danh vị 
				lại cho Lục Tổ Huệ Năng. Thần Hội dùng phương pháp Đốn giáo 
				(giác ngộ nhanh theo pháp tu trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành 
				Phật) mà đánh tan Tiệm giáo (tu từ từ) của Thần Tú do Phổ Tịch 
				đệ tử của Thần Tú phát huy vì lúc đó cả Lục Tổ và Thần Tú đều đã 
				viên tịch. Những lời thuyết pháp của Thần Hội mạnh như vũ bão đã 
				quét sạch những tông phái Thiền lúc bấy giờ và phục hồi ngôi vị 
				Lục Tổ cho Huệ Năng. 
				 
				Phụ tá cho Ngài Bất Lạt Mật Đế trong việc phiên dịch kinh cũng 
				là một pháp sư lỗi lạc người Ấn Độ có nhiệm vụ đọc lại bản dịch, 
				chú ý đặc biệt đến sự diễn đạt văn nghĩa, câu cú và cách dùng 
				những thành ngữ tiếng Hán. Đó là pháp sư Di-Già Thích-Ca 
				(Meghasikhara). Ngài Di-Già Thích-Ca là người Ô-trành (Udyana) 
				phía Bắc Ấn Độ mà ngày xưa là vườn hoa của vua A-dục (Asoka). 
				 
				Cư sĩ Phòng Dung là một Phật tử tại gia đã thọ trì mười giới 
				trọng và bốn mươi tám giới khinh của Bồ-tát. Ông là một người có 
				tài văn chương và kiến thức rất uyên bác cho nên chính việc 
				nhuận sắc của ông đã làm cho kinh Lăng Nghiêm có giá trị rất đặc 
				sắc cho nên kinh Lăng Nghiêm chẳng những nghĩa lý rất hay mà văn 
				chương còn tuyệt diệu. Từ xưa các học giả, không nhất thiết là 
				trong đạo Phật, mà cả đạo Khổng Mạnh, mỗi khi xem đến kinh Lăng 
				Nghiêm đều kính phục và vô cùng khen ngợi cái nghĩa lý cao siêu 
				và văn chương tuyệt diệu của kinh. Có thể nói kinh Lăng Nghiêm 
				là một tác phẩm hoàn hảo nhất bằng tiếng Hán ngay cả người Trung 
				Hoa khi đọc cũng khó mà lãnh hội hết ý kinh. 
				 
				Tuy hai Pháp sư Bất Lạt Mật Đế và Di-Già Thích-Ca đều là người 
				Ấn Độ và rất thông thạo tiếng Phạn (Sanskrit) cũng như tiếng 
				Hán, nhưng vì sợ rằng mình không thông hiểu được tiếng Trung Hoa 
				hoàn hảo cho lắm nên họ cho mời một vị Pháp sư người Trung Hoa 
				chứng minh cho bài dịch. Đó là Pháp sư Hoài Địch. Ngài Hoài Địch 
				lúc bấy giờ đang làm trụ trì chùa Nam Lâu trên ngọn núi La Phù 
				là ngọn núi nổi tiếng ở tỉnh Quảng Đông. Ngoài tinh thông giáo 
				nghĩa kinh tạng, Ngài Hoài Địch còn thông thạo cả tiếng Phạn nên 
				được mời chứng minh cho sự phiên dịch chính xác của bản dịch. 
				 
				Kinh Thủ Lăng Nghiêm là tâm ẩn bí mật đại tổng trì môn của chư 
				Phật Như Lai, bao gồm toàn bộ hệ thống giáo lý nhân quả, mê ngộ, 
				chơn vọng, phàm thánh của tất cả đại tạng. Kinh soi chiếu rõ 
				ràng giúp chúng sinh thấy sự sai khác của chánh tà trong quá 
				trình tu chứng và tình trạng điên đảo của luân hồi cũng như thấu 
				triệt cả nguồn nhất tâm, bao gồm cả vạn pháp một cách rộng lớn 
				và đầy đủ. Sau khi Đức Phật nhập diệt, kinh điển Phật giáo được 
				chia làm ba tạng: Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng. Nếu đứng về 
				phương diện Tam vô lậu học “Giới, Định, Tuệ” thì Kinh tạng thuộc 
				về Định học, Luật tạng thuộc về Giới học và Luận tạng thuộc về 
				Tuệ học. Thế thì kinh Lăng Nghiêm chủ yếu dạy chúng sinh làm thế 
				nào để tu thiền định tuy trong kinh cũng có đề cập đến Giới và 
				Tuệ, nhưng không nhiều lắm. Do vậy, có thể nói rằng kinh Lăng 
				Nghiêm lấy Định học làm gốc cho nên kinh thuộc về Kinh tạng. Vì 
				thế nội dung của kinh vẫn không ngoài tôn chỉ “thị tánh định, 
				khuyến thực chứng”. 
				 
				Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, 
				đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình 
				đều có thể viên thành Phật đạo. Nhưng chủ yếu của kinh vẫn là 
				nhắm vào thành phần Thanh Văn, Duyên giác, hàng hữu học và đặc 
				biệt là hàng định tánh Thanh văn tức là những vị A la hán không 
				muốn “hồi tiểu hướng đại” nghĩa là họ chỉ muốn an hưởng quả vị A 
				la hán mà không chịu tiến tu chuyển sang đại thừa để hoàn thành 
				Phật quả. Nhưng nếu nói rộng ra thì tất cả chúng sinh trong tam 
				giới đều có thể lãnh hội kinh Lăng Nghiêm mà chứng nhập Thủ Lăng 
				Nghiêm tam muội. Vì vậy kinh Lăng Nghiêm có thể nói là “vô cơ 
				bất dị, vô nhân bất độ” nghĩa là không căn cơ nào không được gia 
				bị và không người nào không được cứu độ. 
				Sau khi Đức Phật Thích Ca 
				thành đạo dưới cội Bồ-đề, Ngài nói trong thiền định trong 21 
				ngày về giáo lý tối thượng Đại thừa (Hoa Nghiêm) để đưa các vị 
				Bồ-tát lên quả vị Diệu Giác tức là thành Phật. Đức Phật thị hiện 
				giáo hóa chúng sinh, chuyển bánh xe pháp cũng không ngoài mục 
				đích muốn chúng sinh ngộ nhập Phật Tri Kiến tức là thể nghiệm và 
				sống được với chơn tâm của mình. Vì thế Phật mới dạy rằng: ”Nhất 
				thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật” nghĩa 
				là trong tất cả chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh, đều có 
				thể thành Phật. Nhưng nếu chúng sinh đều có Phật tánh thì tại 
				sao đến nay chúng ta vẫn chưa thành Phật? Cũng chỉ vì tâm của 
				chúng sinh chất đầy vọng tưởng, chấp trước. Vậy chúng ta chấp 
				cái gì? Chấp “cái ta” tức là bản ngã và cái “của ta” tức là ngã 
				sở hữu cho nên không buông bỏ được những hưởng thụ vật chất 
				trong thế gian. Con người luôn níu kéo, nắm bắt mãi, càng có thì 
				càng chấp trước thêm và ham thích hưởng thụ nên chưa thể thành 
				Phật. 
				Cho nên Đức Phật mới dạy 
				rằng : “Do vọng tưởng và chấp trước mà tất cả chúng sinh không 
				thể chứng đắc, không thể thành Phật”. Cũng vì tâm chúng sinh 
				chất đầy phiền não vô minh, lấy khổ làm vui, chạy theo tham đắm 
				dục tình cho nên Đức Phật tạm thời trên hội A Hàm chỉ nói về 
				giáo nghĩa thập thiện giúp cho họ thấy con đường sáng mà khỏi bị 
				đọa vào tam ác đạo. Ngài nói các pháp Vô thường, Khổ, Không, Vô 
				Ngã, chân lý Tứ Diệu Đế và thuyết Thập Nhị Nhân duyên để giúp 
				chúng sinh tạm thời ra khỏi tam giới, xa lìa sinh tử và chứng 
				đắc Niết bàn. Nhưng Niết bàn mà họ chứng được chỉ là hóa thành 
				tức là tạm nghĩ chớ chưa phải là bảo sở tức là hoàn toàn, chân 
				thật và an định mãi mãi bởi vì hàng Tiểu thừa không đạt được đạo 
				lý Duy Thức. 
				Sau đó Phật mới nói kinh 
				Giải Thâm Mật để khai triển tám thức (Lục thức, Mạt na thức và A 
				lại da thức). Kinh nầy giúp con người  thấy rõ vọng tướng 
				đều từ duy thức sở biến, nhưng sau cùng cũng trở về với thật 
				tướng là không tướng tức là tướng không. Kế đến Phật nói thời 
				Bát Nhã để giới thiệu “chân không huyển có” nghĩa là “không” là 
				cái không của chân không diệu tánh, là cội nguồn phát sinh ra 
				thế giới hữu vi. Còn “huyển” nghĩa là cái có tạm bợ, không bền 
				chắc của luật vô thường. Chân không này hoàn toàn khác với cái 
				không của Tiểu thừa là cái không đối với cái có của thế giới hữu 
				vi. Sau cùng đến thời Pháp Hoa, Phật dạy rằng: “Phật vi nhất đại 
				sự nhân duyên, xuất hiện ư thế” nghĩa là Phật chỉ vì một đại sự 
				nhân duyên mà xuất hiện ở đời. Nhưng Phật muốn nói nhân duyên 
				gì? Đó là “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật Tri Kiến” và quy 
				tam thừa thành nhất thừa Phật giáo. 
				 
				Đức Phật Thích Ca trong suốt bốn mươi chín năm hoằng pháp tế độ 
				chúng sinh. Ngài thuyết trên ba trăm hội và nói trên mười hai bộ 
				đại tạng kinh, nhưng quan trọng nhất vẫn là kinh Thủ Lăng 
				Nghiêm. Kinh Thủ Lăng Nghiêm được Phật thuyết giảng vào thời kỳ 
				Phương Đẳng (phương là phương tiện rộng khắp và đẳng là bình 
				đẳng) và lúc đó Đức Phật vừa được 62 tuổi. Giáo pháp của Phật 
				thì vô biên vô lượng, nhưng tựu trung có thể chia làm hai phần: 
				bình đẳng là pháp “thật” và pháp môn phương tiện là pháp 
				“quyền”. Pháp “thật’ là chân thật và không bao giờ biến đổi. Còn 
				pháp “quyền” thì không thật, chỉ là phương tiện tạm thời, là 
				những thí dụ cụ thể dùng để xiển dương chân lý. Vì Phật khéo léo 
				dùng những thí dụ, những phương tiện để phô bày những gì ẩn dụ 
				bên trong mà ngôn ngữ con người không thể nào diễn tả được. Có 
				một thí dụ về pháp “quyền” như sau : 
				 
				Một hôm Đức Phật thấy một đứa bé đang chập chững đi về hướng một 
				cái giếng và chỉ còn một chút xíu nữa là nó rơi xuống nước. Đức 
				Phật biết nếu Ngài gọi đứa bé quay trở lại chưa chắc nó đã nghe 
				lời, mà vẫn cứ đi. Do đó thay vì nói thật thì không có kết quả, 
				Ngài bây giờ nói quyền rằng: “Trong tay Như Lai có cây kẹo, hãy 
				quay lại đây ngay Như Lai sẽ cho con cây kẹo ấy”. Khi đứa bé 
				nghe nói được cho kẹo để ăn, liền quay trở lại. Thật ra Như Lai 
				chả có cái gì trong tay cả. Thế thì Đức Phật có nói dối chăng? 
				Như Lai có đánh lừa đứa bé không? Dĩ nhiên là “không” bởi vì nếu 
				Đức Phật không dùng cây kẹo để khuyến dụ đứa bé làm cho nó quay 
				trở lại thì chắc chắn nó sẽ bị rơi xuống giếng và chết đuối 
				ngay. Do đó đứa bé đến với Đức Phật ban đầu chỉ là cây kẹo, 
				nhưng sau đó mới biết được sự lợi ích của lời nói Như Lai. Đây 
				chính là huyền nghĩa của kinh điển Đại thừa, nhưng nếu người đệ 
				tử Phật không thông hiểu thấu suốt mà cho quyền là thật, chấp 
				phương tiện là cứu cánh thì chẳng những không có được giải thoát 
				giác ngộ mà còn lún sâu vào mê tín tà kiến biến cuộc sống thành 
				ảo tưởng hoang đường. 
				 
				Rất nhiều kinh điển được Phật dùng pháp “quyền” để giáo hóa 
				chúng sinh mà kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì là một điển hình 
				vậy. Quyền là chẳng có gì thật cả, nhưng Đức Phật lại khéo léo 
				dùng những thí dụ làm phương tiện thiện xảo để xiển dương được 
				giáo lý của Ngài. Đức Phật dạy rằng : “Như Lai có một kho báu, 
				hãy đến đây, Như Lai sẽ cho quý vị một viên ngọc minh châu vô 
				giá và các thứ trân châu khác…”. Vì chúng sinh còn nhiều tâm 
				tham nên họ liền đến với Như Lai để được món lợi, vì thế Như Lai 
				mới có cơ hội giáo hóa họ được. Khi đã thấu hiểu huyền nghĩa của 
				giáo pháp Như Lai, chúng sinh sẽ không còn quan trọng hay quan 
				tâm đến viên ngọc minh châu vô giá đó nữa vì chúng sinh vốn đã 
				có viên ngọc đó trong họ rồi. Đó là quyền, là phương tiện thiện 
				xảo để cứu độ chúng sinh. 
				 
				Kinh Thủ Lăng Nghiêm vừa có pháp bình đẳng (pháp thật) và vừa 
				bao gồm pháp phương tiện (pháp quyền) nên chúng sinh tu theo 
				kinh nầy sẽ thoát ra khỏi mọi hệ lụy của phiền não khổ đau, có 
				được sự an vui tự tại và thể nghiệm được chơn tâm, Phật tánh 
				thanh tịnh của chính mình và cuối cùng đạt tới tuệ giác giải 
				thoát. 
				 
				Vì thế mà chư Tổ ngày xưa đã nói rằng : “Thành Phật tu Pháp Hoa, 
				Tuệ giác tu Lăng Nghiêm” là vậy. Bởi vì kinh Pháp Hoa xác định 
				là tất cả chúng sinh đều có Phật tánh như nhau nên ai ai cũng 
				đều có khả năng tu chứng Pháp Hoa Tam Muội mà thành Phật. Còn tu 
				theo Lăng Nghiêm là chứng đắc được tuệ giác để phá tất cả những 
				vô minh phiền não trần lao mà trở về sống với Chơn Tâm thường có 
				và Thể Tánh thanh tịnh sáng suốt sẵn có trong tất cả chúng sinh. 
				Kinh xác định rõ rằng còn phiền não khách trần là còn sống trong 
				điên đảo khổ đau, lau sạch phiền não khách trần là sống với Chơn 
				Tâm thường có và Thể Tánh thanh tịnh sáng suốt của mình tức là 
				có được giải thoát giác ngộ. 
				 
				Chẳng những kinh Lăng Nghiêm là bộ kinh hay nhất, quý nhất và là 
				kim chỉ Nam cho kẻ tu hành, mà kinh còn là chướng ngại lớn nhất 
				cho bọn tà đạo, ma vương. Trong kinh Pháp Diệt Tận xác định rõ 
				ràng rằng : “Vào thời mạt pháp kinh Thủ Lăng Nghiêm sẽ bị hoại 
				diệt trước hết, sau đó, các kinh khác dần dần biến mất”. 
				 
				Tại sao kinh Thủ Lăng Nghiêm bị hủy diệt trước nhất? Bởi vì kinh 
				diễn tả rất chính xác, chẳng những đúng với chánh pháp mà lại 
				rất phù hợp với đạo lý làm cho bọn tà giáo, ngoại đạo, yêu ma 
				quỷ quái bị lộ nguyên hình ma quái, khó mà lừa gạt phỉnh phờ thế 
				nhân. Chú Lăng Nghiêm có công năng phá tà hiển chánh giúp chúng 
				sinh dũng mãnh tiến bước theo con đường quang minh chánh đại. 
				Nhưng tại sao bọn ma quái lại sợ kinh Lăng Nghiêm? Bởi vì kinh 
				đề cập đến Bốn điều răn dạy về sự thanh tịnh và năm mươi thứ ấm 
				ma làm cho bọn ma quái lộ nguyên hình cũng như đem tấm kính 
				chiếu yêu soi vào mặt họ. Kinh Lăng Nghiêm sẽ lột bày tất cả bản 
				chất yêu quái, những điều sai trái của thiên ma ngoại đạo. Vì 
				thế ngày nào kinh còn lưu hành thì ngày đó chánh pháp còn ở thế 
				gian. 
				 
				Cũng trong kinh Pháp Diệt Tận, Đức Phật dạy rằng : “Sau khi Như 
				Lai nhập Niết bàn, khi giáo pháp bắt đầu suy yếu, trong đời ngũ 
				trược ác thế, ma đạo sẽ rất thịnh hành, ma quỷ biến thành 
				sa-môn, xuyên tạc phá hoại giáo pháp của ta. Đây chính là trùng 
				trong thân sư tử lại ăn thịt sư tử. Chúng mặc y phục thế tục, ưa 
				thích y phục đẹp đẽ, cà sa sặc sỡ; uống rượu, ăn thịt; giết hại 
				sinh vật tham đắm mùi vị; không có lòng từ, thường mang sân hận, 
				đố kỵ lẫn nhau”. 
				 
				Do đó muốn cho Phật pháp được mãi mãi lưu truyền, người đệ tử 
				Phật có bổn phận xiển dương kinh Thủ Lăng Nghiêm bằng cách giới 
				thiệu, truyền bá và tu học ngỏ hầu thể nghiệm được tinh hoa giáo 
				nghĩa của kinh để sống với Chơn tâm thường trú và Thể Tánh tịnh 
				minh của mình mà đạt đến cứu cánh tột đỉnh là giải thoát giác 
				ngộ, đưa con người từ phàm phu đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng 
				Chánh Giác 
				
				
				 |  
				 |