|   Bấy giờ Ngài Phú Lâu 
				Na Di La Ni Tử ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy quỳ gối 
				chắp tay cung kính bạch Phật rằng: 
				- Thế Tôn khéo vì chúng sinh mà diễn bày đệ nhất nghĩa đế. Từ 
				lâu Thế Tôn thường khen con là thuyết pháp đệ nhất trong hàng 
				người thuyết pháp. Vậy mà nay con nghe pháp âm nhiệm mầu Như Lai 
				vừa dạy chẳng khác nào người điếc cách xa trăm bước lắng nghe 
				tiếng muỗi mòng. 
				Muỗi mòng còn không thấy 
				còn nói gì đến chuyện nghe. Dù Phật dạy rõ ràng, nhưng chưa hiểu 
				rốt ráo làm tâm con nghi hồ mơ hoặc. Như các Ngài A Nan, vì họ 
				tuy đã khai ngộ nhưng tập lậu chưa trừ. Còn chúng con là những 
				người đã được vị vô lậu trong chúng hội, mọi tập lậu đã sạch, 
				nhưng khi nghe Như Lai thuyết pháp này, sao chúng con vẫn còn 
				bối rối , nghi ngờ hối hận? 
				 
				Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả các thứ: 5 ấm, 12 xứ, 18 giới và 7 đại 
				trong thế gian đều là hiện tượng biểu hiện xuất phát từ tánh 
				thanh tịnh bản nhiên của Như Lai Tạng, vậy thì tại sao Như Lai 
				Tạng bỗng nhiên lại sanh các tướng hữu vi vô thường vận động 
				thay đổi trước sau, vô cùng vô cực như thế? 
				 
				Bạch Thế Tôn! Như Lai cũng đã từng nói: Địa, thủy, hỏa, phong 
				bốn đại bản tánh viên dung, khắp cùng khắp giới, vắng lặng 
				thường trú. Bạch Thế Tôn! Nếu địa đại cùng khắp thì làm sao dung 
				được thủy đại? 
				 
				Nếu thủy đại cùng khắp thì làm sao hỏa đại có điều kiện phát 
				sinh? Làm sao có thể hiểu biết được rằng: Thủy đại và hỏa đại 
				đều cùng khắp pháp giới mà không đối kháng hủy diệt nhau? Bạch 
				Thế Tôn! Tánh địa đại thì ngăn ngại, tánh hư không là rỗng suốt, 
				làm sao có sự kiện hai đại đồng khắp cùng trong một bầu pháp 
				giới? Con không biết nghĩa ấy là thế nào. Xin Phật rủ lòng từ, 
				vén mây mê lầm cho con và đại chúng. Nói lời ấy rồi, tôn giả Phú 
				Lâu Na năm vóc gieo xuống đất, kính mong lời dạy từ bi vô thượng 
				của Đức Như Lai. 
				 
				Sau khi Đức Phật đã thu ngũ uẩn, lục nhập, thập nhị xứ, thập bát 
				giới và thất đại về Như Lai Tạng bản thể tức là tánh thanh tịnh 
				bản nhiên  thì các vị có căn cơ Đại thừa đều nhận rõ tâm 
				tính viên mãn sáng suốt. Duy chỉ có các vị trong hàng Thanh văn 
				tuy đã phá được chấp ngã, nhưng vẫn còn chấp pháp nên không thấu 
				rõ cái chơn đối với cái vọng mà chưa lãnh hội được. Vì thế Ngài 
				Phú Lâu Na đại diện các vị định tánh A la hán mà hỏi Phật hai 
				điều như sau: 
				 
				1) Tại sao trong Như Lai Tạng tánh vốn thanh tịnh bản nhiên bỗng 
				dưng lại chuyển biến sinh ra những hiện tượng hữu vi như như 
				núi, sông, đất, liền…? 
				 
				Sự thật, tất cả hiện tượng vạn pháp đều cùng chung một bản thể: 
				Như Lai Tạng. Từ trong Như Lai Tạng bản thể vận động, biến 
				chuyển duyên khởi những chủng tử mà tạo tác, hình thành các loài 
				hữu tình và vô tình chúng sinh. Hiện tượng này còn được gọi là 
				bất biến tùy duyên của pháp giới duyên khởi. 
				 
				2) Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến và thức thì trong bảy đại 
				này tánh chất có đối kháng nhau. Thí dụ nước kỵ lửa kỵ, gió kỵ 
				đất… Nếu thế, tại sao chúng có thể dung hợp được với nhau trong 
				Như Lai Tạng mà không tương tàn, tương diệt? 
				 
				Phật dạy rằng: “Tánh sắc chơn không” nghĩa là tánh của sắc là 
				không mà hư không thì bao trùm bao la vô cùng vô tận. “Tánh 
				không chơn sắc” nghĩa là trong hư không đã có đủ tất cả tánh 
				chất của sắc hay nói chung của địa, thủy, hỏa, phong…, nhưng từ 
				cái thể tánh thanh tịnh của hư không khi hội tụ đủ nhân duyên sẽ 
				biến hiện thành ra sắc. 
				 
				Tuy thủy đại đầy khắp hư không pháp giới tức là nơi nào trong 
				không gian vô tận cũng đều chứa nước mà nước đâu có dập tắt lửa 
				(hỏa đại) và nước cũng không làm ngập chìm cả thế gian nên Phật 
				nói rằng: “Tánh thủy chơn không”. Trong hư không tức là pháp 
				giới không đại, vốn không phải nước (thủy đại) vậy mà trong 
				không đại khắp đầy thủy đại. Do đó Phật mới dạy rằng : “Tánh 
				không chơn thủy”. 
				 
				Hỏa đại cũng thế, lửa thì đầy khắp hư không mà không làm cháy 
				nhà cửa, xe cộ, núi rừng hay vạn hữu thế gian. Vì vậy Phật mới 
				nói : “Tánh hỏa chơn không”. Trong hư không vốn không có lửa, 
				nhưng khi chúng sinh cần thì lửa sẽ có trong hư không, cho nên 
				Phật dạy rằng : “Tánh không chơn hỏa”. 
				 
				Nói tóm lại, tánh của các đại vốn không ngăn ngại gì nhau vì thế 
				tuy trong hư không có đầy đủ các đại mà chúng không tương tàn, 
				tương diệt vì các đại cùng chung một thể tánh. Đó là chơn không 
				(bất biến). 
				Thế nào là định tánh A la hán? 
				 
				Khi đã đọan trừ hết kiến hoặc, tư hoặc và vi tế hoặc thì chứng 
				được quả vị A la hán. Các vị A la hán tuy đã trừ được phiền não 
				chướng, nhưng tri kiến chướng tức là vô minh thì chưa phá nổi. 
				Niết bàn mà chư vị A la hán có chỉ là hóa thánh nghĩa là đây chỉ 
				là tiểu Niết bàn chứ chưa phải là bảo sở Niết bàn tức là  
				sự thanh tịnh, tịch diệt rốt ráo, hoàn toàn của các vị Bồ-tát, 
				chư Phật. Nếu các vị A la hán muốn tiến tu để phát huy trí tuệ 
				Đại thừa mà hoàn thành Phật đạo thì gọi là Tuệ tánh A la hán. 
				Còn nếu họ thỏa chí với quả vị A la hán mà không chịu tiến tu 
				thì họ là Định tánh A la hán. Vì không chịu tiến tu và phát tâm 
				Bồ-đề mà chỉ muốn an hưởng Niết bàn cho riêng mình nên Đức Phật 
				đã từng quở trách và gọi họ là mầm thối và hạt giống bị đốt 
				cháy, không lợi ích cho chúng sinh. 
				 
				Tôn giả Phú Lâu Na không biết nguyên nhân sanh khởi ra nhân sinh 
				vũ trụ và không ngộ được chơn tánh viên dung nên không biết được 
				sự diệu dụng của thế giới bản thể và hiện tượng. Chỉ có Đức Thế 
				Tôn là người đã đạt được Nhất Thiết Chủng Trí mới có thể thấu 
				hiểu tận nguyên nhân sinh khởi của nó. 
				 
				Tới đoạn kinh này, Đức Phật muốn khai thị một giáo lý thậm thâm 
				vi diệu của nhà Phật. Đó là “sắc tức là không và không tức là 
				sắc” nằm trong Bát nhã tâm kinh. Trong Phật giáo, danh từ sắc và 
				không rất phổ thông khi nói về thế giới hiện tượng và bản thể. 
				Vậy thế nào là không? 
				 
				Có ba thứ không, người đệ tử Phật cần nên để ý : 
				 
				1) Cái “không” thứ nhất là rỗng không nghĩa là cái không này từ 
				vô thỉ nó không có mà mãi về sau nó cũng chẳng có gì. Cái không 
				rỗng toét này thì nhà Phật gọi là “ngoan không” và nó không dính 
				dáng gì với cái không của nhà Phật. 
				 
				2) Đương thể tức không: Khi con người hành thâm Bát nhã 
				ba-la-mật-đa thời thì họ thấy rằng tất cả vạn pháp trong thế 
				gian là giả tạm, không bền, không chắc, có đó rồi mất đó. Vì thế 
				cho dù thế gian vũ trụ vẫn sờ sờ trước mắt, nhưng dưới mắt của 
				họ tất cả đều là không. Tại sao là không? Bởi vì vạn pháp là do 
				nhân duyên tác tạo hình thành nên đến khi duyên tan thì nó sẽ 
				hoại diệt. Vì thế sinh sinh diệt diệt, không có gì là trường cửu 
				cả. Đó là tại sao ngày xưa Đức Phật tuy vẫn sống trong thế gian 
				này, nhưng đối với Ngài thì tất cả đều là không nên Ngài mới có 
				vô thượng Niết bàn và vô thượng Bồ-đề. 
				 
				3) Cái không mà được dùng rộng rãi trong Bát nhã tâm kinh: “Sắc 
				tức là không và không tức là sắc” thì nhà Phật gọi là “chơn 
				không” mà diệu hữu. Tất cả vạn pháp trong thế giới hữu vi như 
				trời, trăng, mây, nước, chim bay, cá lặn mà con người nhận biết 
				được thì gọi là có. Nhưng cũng trong cái thế giới vũ trụ bao la 
				vô cùng vô tận này, cái mà con người không nhận thấy, biết được 
				thì gọi là không. Mặc dù con người gọi nó là không, nhưng chính 
				bên trong nó diệu hữu nghĩa là nó có tất cả những dữ kiện, những 
				nguyên nhân, những chủng tử để khi hội đủ duyên thì nó sẽ biến 
				thành cái có. 
				Nói cách khác cái có là cái 
				mà mắt thấy được như núi, sông, trời, trăng, mây, nước. Còn cái 
				không là cái mà mắt không thấy được. Nhưng thật sự trong cái 
				không đó có chứa đầy đủ các chủng tử của vạn pháp, những yếu tố, 
				những dữ kiện để khi hội đủ nhân duyên thì nó sẽ tổng hợp mà 
				hình thành ra vạn pháp. Do đó cái không này chính là chơn không 
				mà diệu hữu tức là bất biến tùy duyên nghĩa là khi tỉnh thì tất 
				cả là không còn khi động thì mọi vật đều là có. Sự biến chuyển 
				hình thành một cách huyền diệu này chỉ có thể dùng trí mà biết 
				chớ không thể dùng mắt thường mà biết được. 
				Thí dụ không khí là vô hình 
				vô sắc nên mắt thường không thấy được nên gọi nó là không. Nhưng 
				khoa học ngày nay phân tích và xác định rằng trong không khí có 
				chứa biết bao hóa chất như dưỡng khí oxygen, khí nitrogen, hơi 
				nước và biết bao hóa chất khác. Nếu không có dưỡng khí oxygen 
				thì làm sao con người và sinh vật sống được, nhưng đâu có ai 
				thấy biết Oxygen ở chỗ nào? Cũng dựa trong thí dụ trên là trong 
				không khí thì nơi nào cũng chứa rất nhiều hơi nước, nhưng mắt 
				thường không thấy biết được hơi nước nên chúng ta một lần nữa 
				gọi không khí là không. Nhưng bây giờ nếu nhiệt độ không khí 
				giảm xuống và có tiếng sấm tức là luồng điện tạo ra phản ứng hóa 
				học thì hơi nước sẽ chuyển thành mưa. Hơi nước là không mà khi 
				hội đủ nhân duyên thì từ hơi nước (không) biến thành mưa tức là 
				có. Vậy trong cái không có chứa tất cả những dự kiện như địa, 
				thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức. Nói cách khác trong không 
				gian vũ trụ này thì chỗ nào cũng có địa đại, thủy đại, hỏa đại, 
				phong đại, không đại, kiến đại (nhận thức trực giác) và thức đại 
				(nhận thức tư duy, phân biệt). 
				 
				Vì trong không gian vô cùng vô tận có chứa đầy đủ địa đại. thủy 
				đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại và thức đại nên từ 
				đó con người, sinh vật và vạn pháp mới được cấu tạo, hình thành 
				một cách mầu nhiệm. Thí dụ như nước Việt Nam năm 1975 dân số chỉ 
				có khoảng 20 triệu người, nhưng đến năm 2010 thì có gần 100 
				triệu. Nước Trung Hoa thì tăng từ bốn, năm trăm triệu đến ngoài 
				1.3 tỷ người. Ở Hoa Kỳ cũng thế, năm 1975 dân số chỉ có khoảng 
				200 triệu mà ngày nay sau 35 năm đã tăng lên trên 350 triệu. Nói 
				chung khắp nơi trên thế giới, nước nào dân số cũng tăng vọt. Nếu 
				lý luận theo tư tưởng thường kiến là khi một người chết thì linh 
				hồn vẫn tồn tại để nhập vào và tái sinh thành một con người mới, 
				vậy nếu có một triệu người chết mà lại sinh ra thêm 100 triệu 
				người mới thì tư tưởng thường kiến giải thích hiện tượng này như 
				thế nào? Linh hồn mới ở đâu mà nhập vào để tăng vọt dân số nhanh 
				như vậy? Phật giáo hoàn toàn phủ nhận tư tưởng thường kiến vì 
				không có một linh hồn nào tồn tại sau khi chết cả, hay nói cách 
				khác trong Phật giáo không có cái gì gọi là linh hồn. 
				Cái mà con người lầm lẫn 
				gọi là linh hồn thì thật ra chỉ là những chuỗi thức kết nối liên 
				tục trong cuộc sống. Chuỗi thức cuối cùng trước khi chết sẽ kết 
				nối với thức đầu tiên của đời sống mới và cứ như vậy mà tiếp 
				diễn không ngừng từ đời này sang đời khác. Nhưng trong không 
				gian, kiến đại và thức đại lúc nào và ở nơi nào cũng có, trùm 
				khắp pháp giới, vì thế khi nhân duyên hội tụ đầy đủ dựa theo 
				nghiệp lực của họ thì thất đại hòa nhập mà kiến tạo nên con 
				người. Nói cách khác nếu có bao nhiêu con người sinh ra thì kiến 
				đại, thức đại tác động vào mà kiến tạo để cho con người có đầy 
				đủ kiến, văn, giác, tri. Kiến, văn, giác, tri là cánh cửa của 
				lục căn (nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý) của con người tức là mắt 
				thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc, ý biết Lục căn 
				chia làm 4 bộ: Kiến thuộc về mắt, văn thuộc về tai, giác thuộc 
				về mũi, nếm thuộc về thiệt, xúc 
				thuộc về thân, tri thuộc về ý. 
				Trong Bát Nhã tâm kinh đã 
				giải thích rõ ràng rằng : “sắc tức là không, không tức là sắc… 
				thức tức là không, không tức là thức” vì thế thân xác (sắc) khi 
				sống (tức) là không vì tự nó không có tự thể và khi chết thì 
				cũng từ cái không ấy lại tác tạo để hình thành cái thân xác 
				(sắc) khác. Thức cũng vậy khi sống thì thức (tức) là không vì 
				thức là huyển hóa, không thật, nhưng khi chết rồi thì thức 
				(không) trong không gian lại tác động vào thân xác mới để có đủ 
				những đức tính thấy, nghe, hay, biết (thức) của một con người. 
				Chỉ có tư tưởng thâm sâu trong kinh Lăng Nghiêm mới giúp chúng 
				sinh thấu hiểu rõ ràng việc kiến tạo hình thành chẳng những cho 
				con người mà còn áp dụng cho tất cả nhân sinh vũ trụ. 
				  
				PHẬT CHỈ NGUỒN GỐC VỌNG 
				TƯỞNG CỦA HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ 
				  
				Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo 
				ông Phú Lâu Na và các đại A la hán rằng: 
				 
				- Nay Như Lai vì đại chúng chỉ bày tánh chơn thắng nghĩa trong 
				thắng nghĩa, khiến cho hàng định tánh Thanh văn chưa được nhơn 
				không và pháp không, hướng về Đại Thừa. Các ông hãy lắng nghe 
				cho kỹ, tôi sẽ vì đại chúng mà nói. Phật dạy: 
				 
				- Phú Lâu Na! Như ông vừa nói: Đã là bản nhiên thanh tịnh tại 
				sao bỗng nhiên lại sinh ra ấm, nhập, xứ, giới núi sông đất liền 
				sum la vạn tượng? Ông có nghe Như Lai đã từng dạy: “Tánh giác là 
				diệu minh, bản giác là minh diệu hay không”? 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Con đã nghe, Phú Lâu Na thưa. 
				 
				- Ý ông hiểu thế nào? Tánh giác tự minh mà gọi là giác hay tánh 
				giác không minh phải dùng tánh minh để minh tánh giác? 
				 
				Ngài Phú Lâu Na bạch với Phật : 
				- Bạch Thế Tôn! Tánh 
				giác tự minh nên gọi là tánh giác diệu minh. Nếu tánh giác không 
				minh thì còn lấy gì để gọi là minh tánh giác. 
				 
				Phật dạy rằng: 
				- Đúng vậy. Phú Lâu Na! 
				Nếu tánh giác không tự minh thì không lấy cái gì để minh tánh 
				giác. Và nếu tánh giác là cái sở minh thì không còn gọi là tánh 
				giác nữa. Vậy ông nên hiểu: Tánh giác vốn minh mà chúng sinh lầm 
				tưởng phải nhờ cái minh để minh tánh giác. Sự thật tánh giác vốn 
				không phải là cái sở minh. Nhân vì lầm tưởng mà tánh giác trở 
				thành ra sở. Cái vọng về sở đã thành, tất cái vọng năng của ông. 
				Nguồn gốc của vọng tưởng phát nguyên là như vậy. 
				 
				Đức Phật muốn xiễn dương một chân lý mới mà các vị A la hán chưa 
				thấu suốt. Thắng nghĩa còn được hiễu là liễu nghĩa. Dựa theo 
				Thành Duy Thức luận, tất cả lời Phật dạy đều là thắng nghĩa, tuy 
				nhiên trong các thắng nghĩa cũng có cao có thấp và được chia ra 
				làm bốn loại : 
				 
				1) Thế gian thắng nghĩa là phân tích ra 5 uẩn, 6 nhập, 12 xứ, 18 
				giới, 7 đại… 
				 
				2) Đạo lý thắng nghĩa dạy về Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo). 
				 
				3) Chứng đắc thắng nghĩa dạy về Nhị Không Chân Như nghĩa là phá 
				trừ chấp ngã chấp pháp mà chứng được chân như. 
				 
				4) Thắng nghĩa thắng nghĩa dạy về Nhất chân pháp giới tức là Đệ 
				nhất nghĩa đế mà Đức Phật đang chỉ dạy trong đoạn kinh này. 
				  
				Cũng trong Duy thức 
				luận, có năm lớp quán, từ địa vị tư lương là : 
				 
				Nải chí vị khởi thức 
				Cầu trụ duy thức cảnh 
				Ư nhị thủ tùy miên 
				Du vị năng phục diệt 
				 
				Nghĩa là từ khi chúng sinh chưa biết tu hành đến khi tu theo duy 
				thức mà vẫn còn hai món thủ trong tâm trí, chưa hóa giải hết 
				được là năng thủ tức là chấp ngã đối với mình và sở thủ tức là 
				quan niệm chấp pháp đối với vạn vật thì người tu như vậy gọi là 
				tu “Du vị”. 
				  
				Bài quán cho địa vị gia 
				hành kế tiếp : 
				 
				Hiện tiền lập thiểu vật 
				Vị thị duy thức tánh 
				Dĩ hữu sở đắc cố 
				Phi thật trụ duy thức 
				 
				Nếu người tu theo duy thức mà còn thấy có mục tiêu để mong đạt 
				đến để viên thành Phật tánh của duy thức thì không bao giờ tu 
				thành duy thức được vì lòng còn mong mỏi tức là tâm vẫn còn 
				tham. 
				Bài quán thứ ba là : 
				  
				Nhược thời ư sở duyên 
				Trí đô vô sở đắc 
				Nhỉ thời trụ duy thức 
				Ly nhị thủ tướng cố. 
				 
				Nghĩa là khi nào chúng sinh nhìn sự vật hiện tượng vạn pháp (sở 
				duyên) tức là đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì thấy, 
				nghe, ngửi, biết tất cả mà như là không thấy biết gì hết thì mới 
				tu thành tựu theo duy thức được bởi vì chính họ đã xa lìa được 
				hai chấp: chấp ngã và chấp pháp. 
				  
				Bái quán thứ thư là: 
				  
				Vô đắc bất tư nghì 
				Thị xuất thế gian trí 
				Xả nhị thô trọng cố 
				Tiện chứng đắc chuyển y. 
				 
				Nghĩa là bất cứ chúng sinh nào mà tu hành đến chỗ không còn thấy 
				mình chứng đắc gì hết thì người đó mới đạt được cái trí xuất thế 
				gian. Nhưng thế nào là vô đắc? Trên phương diện tu hành, người 
				đệ tử Phật làm tất cả điều thiện, lìa xa tất cả những điều ác mà 
				thấy mình chả có chứng đắc, công đức, phước đức gì hết. Trên 
				phương diện độ sanh, người đệ tử Phật độ cho tất cả chúng sinh 
				mà thấy chẳng có chúng sinh nào được mình độ nghĩa là thi ân bất 
				cầu báo vậy. Trong Bát nhã tâm kinh cũng xác định rằng: “Dĩ vô 
				sở đắc cố” nghĩa là không có cái gì gọi là chứng đắc cả. Cái 
				thanh tịnh Niết bàn và trí tuệ Bồ-đề vốn đã có sẵn trong tất cả 
				mọi chúng sinh, nhưng vì bị vô minh che lấp nên con người không 
				thấy biết vậy thôi. Nay nếu chúng sinh biết hồi đầu thị ngạn, 
				quay thuyền trở lại bến xưa thì Niết bàn hiển lộ, Bồ-đề phát 
				hiện chứ đâu có chứng đắc cái gì mà cầu với mong. 
				 
				Hai câu sau nghĩa là nếu chúng sinh có thể lìa được hai chướng 
				là phiền não chướng và tri kiến chướng (thô trọng) thì có Niết 
				bàn, có Bồ-đề. Nói cách khác là chúng 
				sinh chuyển phiền não thành Niết bàn, chuyển vô minh, sinh tử 
				thành trí tuệ Bồ-đề. 
				  
				Bài quán thứ năm là : 
				 
				Thử tức vô lậu giới 
				Bất tư nghì thiện tường 
				An lạc giải thoát thân 
				Đại mâu ni thanh pháp. 
				  
				Và bài kệ sau cùng là : 
				 
				Thử chư pháp thắng nghĩa 
				Diệc tức thị chân như 
				Thường như kỳ tánh cố 
				Tức duy thức thật tánh. 
				 
				Sau cùng người đệ tử Phật hiểu thấu suốt được như vậy thì mới 
				hiểu được thắng nghĩa tức là chân lý tột cùng của vạn pháp. Hiểu 
				được như vậy cũng có nghĩa là hiểu được lý chân như, tánh thường 
				như của vạn pháp và thật tánh của duy thức. Thật vậy, trong Đệ 
				nhất nghĩa đế thì tất cả các pháp, dù thánh hay phàm, đều là 
				bình đẳng bởi vì hiện tượng vạn pháp cùng chung một bản thể Như 
				Lai Tạng. 
				 
				Người đệ tử Phật nếu có niệm viễn ly để buông xả thì chính họ có 
				được an vui, thanh thoảng và tự tại. Mà muốn đạt đến trình độ 
				này thì họ phải phá chấp ngã và chấp pháp để có được nhơn không 
				và pháp không. Nhơn không có nghĩa là thấy mình không thật nên 
				không tham ái mà khổ vì thân. Còn pháp không là nhận biết thế 
				gian vũ trụ cũng là không thật, có đó rồi mất đó nên tâm không 
				dính mắc. Khi chúng sinh đã có được nhân không và pháp không rồi 
				thì bây giờ chỉ có một con đường duy nhất để hoàng thành Phật 
				đạo là nhất thừa Phật giáo cũng như trăm sông cùng đổ về biển 
				lớn như Phật đã thuyết trong kinh Pháp Hoa. 
				 
				Vậy thế nào là tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu? 
				 
				Tất cả chúng sinh từ loài hữu tình đến vô tình đều có chung tự 
				tánh thanh tịnh bản nhiên mà nhà Phật gọi là tánh giác. Tánh 
				giác mà tác động vào con người thì gọi là Phật tánh, còn tác 
				động vào các loài vô tình như cỏ cây, hoa lá thì gọi là Pháp 
				tánh. Thế thì từ con người cho đến đất, nước, cây, cỏ, núi cao, 
				rừng thẳm đều cùng có tự tánh thanh tịnh như nhau, không có cái 
				gì gọi là tội lỗi, phiền não, khổ đau cả. Nguyên nhân mà có 
				phiền não là do cái nhìn, thấy, biết chứa đầy vọng niệm mà nhìn 
				với tâm phân biệt. Nói cách khác con mắt của mình là năng phân 
				biệt để nhìn đối tượng là sở phân biệt. Đây chính là do vọng mà 
				sinh ra năng và sở. Thí dụ như tất cả con người ai ai cũng đều 
				là do thất đại hội tụ lại mà thành nghĩa là bất cứ con người nào 
				cũng đều có địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức (thất đại) 
				giống như nhau cho nên không có con người nào có tội lỗi hay 
				phiền não chi cả. 
				Còn vạn pháp trong thế gian 
				thì cũng được kết thành bởi địa, thủy, hỏa, phong, không (ngũ 
				đại) thì đâu có cái gì tự nó có phiền não hay tội lỗi chi. Nhưng 
				khi mắt thấy hoa đẹp, nhà sang, xe tốt làm tâm phân biệt mà có 
				sự lấy hay bỏ, thích hay không thích, thương hay ghét. Đây là do 
				vọng niệm phân biệt phát khởi và là nguyên nhân gây ra mọi phiền 
				não, khổ đau của con người. Cái mà con người cho rằng tội lỗi 
				xấu xa là do cái nhìn có vô minh, tham đắm của mình mà ra. Khi 
				vọng niệm phát khởi phân biệt thì nhìn cái gì cũng mê, cũng 
				thích, cũng muốn chiếm lấy thì đây chính là vẫn đục đeo trước 
				con mắt khiến con người nhìn thế gian là bất toàn, khổ não. 
				Nhưng nếu bây giờ lấy cái vẫn đục kia đi và cũng nhìn cái thế 
				gian đó với tâm trong sáng, thanh tịnh thì cái tội lỗi khổ đau 
				kia biến mất và thế giới biến thành an vui, cực lac. Vậy ai cột 
				trói mình? Chính mình tự cột trói lấy mình, tự mình chuốc lấy 
				bao hệ lụy của phiền não khổ. Bỏ vọng chấp thì có cuộc sống an 
				vui tự tại nghĩa là tự mình không trói mình thì cần gì phải cởi 
				trói. 
				 
				Tánh giác vốn minh chớ không cần phải nhờ cái minh bên ngoài tức 
				là sở minh để minh (nhận biết các sự vật của) tánh giác nghĩa là 
				tánh giác vốn trong sáng thanh tịnh, thường diệu, thường minh 
				nên gọi là tánh giác diệu minh. Nhưng khi con người lầm lẫn chạy 
				theo vọng chấp nghĩa là sở minh bên ngoài để chuyển năng minh 
				bên trong của mình mà có sự phân biệt để tạo nghiệp và tự trói 
				mình trong sinh tử khổ đau. Khi chúng sinh biết hồi đầu thị 
				ngạn, quay thuyền trở lại bến xưa thì tánh giác bây giờ trở 
				thành bản giác nghĩa là giác tánh bản lai sẳn có của mình. Bản 
				giác ấy thường minh và thường diệu, nhưng trong bản giác, minh 
				và diệu luôn luôn hợp với nhau chớ không tách rời như trong lúc 
				phát khởi vọng thức mê lầm ở trên. Vì thế mới gọi là bản giác 
				minh diệu. Nói cách khác, Phật tánh có ba, đó là chánh nhân, 
				duyên nhân và liễu nhân. Trong mỗi chúng sinh, tánh mầu nhiệm 
				sẳn có vốn tự viên thành, không nhờ vào công phu tu tập nên gọi 
				là chánh nhân. Bây giờ, nếu chúng sinh phải nhờ minh sư, hay 
				thiện tri thức khai phát thì Phật tánh mới hiện bày, đây là nhờ 
				duyên khởi nên gọi là duyên nhân. Sau cùng nhờ công phu tu tập 
				rồi mới ngộ nên gọi là liễu nhân. Do đó tánh giác diệu minh 
				chính là Chánh Nhân Phật tánh. Còn bản giác minh diệu là Liễu 
				Nhân Phật tánh vậy. 
				 
				Đã là tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu thế nhưng tại sao 
				con người có thể bị mất đi cái đó để rồi phải chuốc lấy phiền 
				não khổ đau mà chìm đắm trong sinh tử luân hồi? 
				 
				Phật dạy rằng tánh giác tất minh, vọng vi minh giác nghĩa là do 
				vọng tưởng phát khởi mà sinh ra phân biệt rồi chấp mắc hiện 
				tượng vạn hữu. Cái phân biệt của con người trở thành năng minh 
				để chống lại cái tánh giác diệu minh của hiện tượng vạn pháp và 
				chấp thủ sai lầm về cái bản giác minh diệu của chính mình. Do 
				vọng tưởng sai lầm đó mà dẫn đến những nhận thức sai lầm để có 
				mừng, giận, thương, yêu, sợ, ghét… Đây là những khách trần phiền 
				não, có đến có đi, nhưng con người lại mở toan sáu căn (năng 
				minh) mà đón mời nó vào để nó luôn chiếm ngự ở mãi lòng ta. Nói 
				cách khác, vạn pháp vốn thanh tịnh, lục trần vốn thanh tịnh, lục 
				căn vốn thanh tịnh, nhưng con người lấy lục căn phân biệt lục 
				trần cho nên lục trần bây giờ trở thành đối tượng bị phân biệt 
				tức là sở minh và lục căn biến thành năng minh. Mà đã có năng có 
				sở nghĩa là có sự phân biệt đối đãi và đó là nguyên nhân của 
				phiền não khổ đau. 
				 
				Tánh giác nhất định phải là diệu minh chớ không cần nhờ vào Minh 
				để làm sáng tỏ. Còn Vọng là minh giác nghĩa là vừa dấy động một 
				niệm sở minh thì chính mình đã đánh mất tánh giác diệu minh rồi. 
				Tánh giác thì bao trùm khắp pháp giới vốn không có năng minh, 
				không có sở minh, không có năng giác, không có sở giác, nhưng vì 
				do vọng chấp mê lầm mà mình cho rằng mình có năng giác còn đối 
				tượng bên ngoài có sở giác. Khi có sự thiết lập của năng và sở 
				tức là trong và ngoài thì sự phân biệt đối đãi hình thành và dĩ 
				nhiên vọng niệm cũng phát khởi từ đây. Thí dụ như khi quán chiếu 
				thấy tượng Phật bên ngoài tức là sở minh thì chúng ta dùng hình 
				ảnh Đức Phật bên ngoài mà xoay lại để thấy được Phật tánh bên 
				trong của mình tức là năng minh. Còn nếu chạy theo hình tượng 
				Phật bên ngoài mà quên đi Phật tâm, Phật tánh thanh tịnh, bất 
				sinh bất diệt của chính mình thì chúng ta chạy theo sở minh mà 
				quên bỏ năng minh vậy. 
				 
				Đây là nguyên nhân của phiền não khổ đau. Vì thế tánh giác vốn 
				tự minh tự diệu, không có gì đáng gọi là sở minh. Nhưng do vọng  
				mà giả dối lập ra sở minh và đối đãi phân biệt sinh ra cái năng 
				minh của chúng sinh. 
				
				
				 |  
				 |