|   Ông A Nan thưa: 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Dù Phật đã dạy nghĩa quyết định thứ hai về công 
				việc tháo mở gút. Song tôi nghĩ rằng những người mở gút nếu 
				không biết đầu mối của gút ở đâu thì ắt hẳn không thể nào mở 
				được. 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Tôi và hàng Thanh Văn hữu học trong hội này cũng 
				vậy. Từ vô thỉ đến nay, chúng tôi cùng sinh cùng diệt với các 
				thứ vô minh, tuy được nghe nhiều Phật pháp thế này, mang tiếng 
				xuất gia mà như người sốt rét cách nhật (chợt giác chợt mê). Xin 
				đức đại từ thương xót kẻ đắm chìm, chỉ cho tôi ở nơi thân tâm 
				này cái gì là gút? Và muốn mở phải khởi sự như thế nào? 
				  
				
				Trong đoạn nghĩa quyết 
				định thứ hai Phật lại dạy: “Tánh thanh tịnh nhiệm mầu bị dính 
				nơi sáu căn, cần phải mở cái nút ấy ra mới được giác ngộ” nghĩa 
				là không thể đem sáu căn còn bị dính mắc, mê lầm mà tu chứng 
				thành quả vô lậu được. Thật ra trong thế gian này, có mấy ai 
				biết trong ta cái gì là gút để phải vướng mắc mãi trong sinh tử 
				luân hồi? Hoặc phải làm sao mở gút để khỏi ràng buộc trói trăn? 
				Nói cách khác con người phải biết cái gì là cội gốc của phiền 
				não tức là cái gút và phải biết làm sao cởi cho được cái gút 
				ràng buộc kia thì mới được giải thoát. Vì lẽ đó mà ông A Nan yêu 
				cầu Đức Phật chỉ cho thế nào là gút và do đâu mà cởi? 
				
				 
				THẬP PHƯƠNG NHƯ LAI PHÓNG HÀO QUANG, ĐỒNG MỘT LỜI NÊU RA CÁI 
				CĂN. 
				
				 
				Đức Thế Tôn rũ lòng thương xót lấy tay xoa đỉnh đầu ông A 
				Nan. Đồng thời tất cả thế giới chư Phật trong mười phương cùng 
				phóng ánh sáng báu đến rừng Kỳ Đà soi lên đảnh đầu của Đức Phật. 
				Tất cả đại chúng ở đây đều được sự khinh an chưa từng có. 
				
				 
				Lúc bấy giờ, ông A Nan và cả đại chúng đều nghe các Đức Như Lai 
				mười phương, số như vi trần, tuy khác miệng, nhưng đồng một lời, 
				bảo ông A Nan rằng: 
				
				 
				Hay thay A Nan! Ông muốn biết cái gì là gút thắt khiến cho 
				ông luân hồi sinh tử khổ đau! 
				
				 
				A Nan! Cái gút thắt khiến cho ông luân hồi sinh tử, chính là sáu 
				căn của ông, chớ chẳng phải cái gì khác! 
				
				 
				Ông lại cũng muốn biết, phải làm sao mau đến chỗ an lạc, giải 
				thoát, tịch tĩnh Vô thượng Bồ-đề! 
				
				 
				Này A Nan! Thì cũng chính là sáu căn của ông đó, chớ chẳng phải 
				cái gì khác! 
				
				 
				Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không 
				cột mà cũng không cởi, nhưng con người vì chấp trước mê lầm nên 
				thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát. Đức Phật Thích 
				Ca và tất cả mười phương chư Phật nhiều như số vi trần tuy tiếng 
				nói phát xuất từ nhiều thế giới khác nhau, nhưng cùng một ý 
				nghĩa và mỗi vị đều có hào quang chiếu sáng vào đỉnh đầu Đức 
				Phật Thích Ca là để minh chứng những pháp Đãnh mà Đức Phật Thích 
				Ca tuyên thuyết cũng giống như chư Phật tức là “dị khẩu đồng âm” 
				vậy. 
				
				Vì ông A Nan thỉnh cầu 
				mười phương chư Phật chỉ bày phương tiện tối sơ là Tam Ma Đề (Xa 
				ma tha, tam ma bát đề và Thiền na) mà chứng đắc đạo quả Bồ-đề. 
				Vì thế mà chư Phật đồng khai thị, chỉ bày con đường mà các Ngài 
				đã thoát ly sinh tử. Đó là gút hay mở gút chính là sáu căn của 
				ông A Nan hay nói rộng hơn là sáu căn của tất cả mọi chúng sinh. 
				Nếu không làm chủ được sáu căn của mình tức là tự mình thắt gút 
				thì phải lưu chuyển trong sinh tử. Còn làm chủ được sáu căn tức 
				là tháo gở thì sớm chứng quả vị giải thoát. Nói cách khác, một 
				khi con người còn thương, ghét, thân, sơ, hỉ, nộ…
				là chính họ tự 
				thắt gút. Ngược lại nếu họ thực hành từ, bi, hỉ, xả, thiền định, 
				trí tuệ… 
				là mở gút, tháo tung, 
				ung dung, tự tại. 
				 
				CHỈ RÕ CĂN TRẦN ĐỂ LỰA BỎ CÁI VỌNG THỨC 
				
				 
				Ông A Nan tâm còn lưỡng lự ôm mối hoài nghi, cúi đầu thưa: 
				
				 
				- Bạch Thế Tôn! Vì sao cái nguyên nhân khiến cho tôi luân hồi 
				sinh tử và khiến cho tôi được Bồ-đề, Niết bàn lại cũng là do sáu 
				căn chớ không phải cái gì khác? 
				
				 
				Phật dạy : 
				
				 
				- A Nan! Căn và trần đồng một bản thể, cột hay mở chẳng phải đợi 
				hai. Cái thức phân biệt của ông chỉ là hư vọng như hoa đóm trong 
				hư không. Nhân nơi trần mà phát ra cái nhận biết của căn. Nhân 
				nơi căn mà có cái sắc tướng của trần. Chủ thể năng kiến và đối 
				tượng sở kiến chỉ là sự phản ánh tác dụng qua lại mà có ra. Tự 
				tánh của chúng thật sự là không có tự tánh gì. Sự hiện khởi 
				duyên sanh của chúng như những cái hình của những đám mây lau 
				sậy gác chéo vào nhau. 
				
				 
				Vậy nên nay ông chính nơi tri kiến, lập ra tướng tri kiến thì 
				tức là cỗi gốc vô minh. Chính nơi tri kiến, không có tướng tri 
				kiến thì vô lậu chân tịnh Niết bàn, làm sao trong ấy lại còn có 
				vật gì khác.  
				
				  
				
				Tuy chư Phật đã khai 
				thị mê ngộ đồng nguồn, nhưng ông A Nan vẫn chưa tỏ ngộ nên Đức 
				Phật mới thuyết giảng thêm về nhất chân pháp giới. Nguyên nhân 
				cột thắt gút để sinh ra biết bao sự vui mừng, buồn bực, khổ đau 
				là do sáu căn, sáu trần và con người có được an lạc giải thoát 
				giác ngộ cũng bởi do cởi mở cái gút của sáu căn, sáu trần. Vậy 
				thì sáu căn và sáu trần đồng một nguồn cho nên cột và mở không 
				phải là “hai”. Căn là năng tri tức là cái biết của mình còn trần 
				là sở tri tức là đối tượng hay biết. Vì năng ở trong và sở ở 
				ngoài nên con người thường có sự lầm lẫn mà phân biệt rằng năng 
				và sở tức là trong và ngoài phải khác nhau. Nhưng xét cho cùng 
				thì năng và sở tức là chủ và khách hay trong và ngoài đều đối 
				đãi với nhau mà thành. 
				
				Nếu không có sở thì 
				lấy gì mà gọi là năng. Còn nếu không có năng thì do đâu mà thành 
				lập được sở? Nói cách khác năng sở đối hiện ra nhau, nương với 
				nhau mà có, ngoài năng không có sở và dĩ nhiên ngoài sở không có 
				năng. Vì thế năng và sở không thể tách rời nhau, bất tức bất ly. 
				Thí dụ mắt mà không có cảnh thì làm sao thấy được, hay cảnh vật 
				mà không có mắt thì làm sao thấy? Do đó muốn thấy thì phải có 
				mắt, cảnh và dĩ nhiên tánh thấy. Mặc dầu căn và trần đồng một 
				thể tánh không thể tách rời nhau, nhưng con người vì thấy nơi 
				căn trần đối hiện mà cho rằng căn thuộc về tâm năng tri và trần 
				là cảnh sở tri làm cho ngoài tâm có cảnh, ngoài cảnh có tâm, tâm 
				và cảnh đối lập với nhau mà sinh ra biết bao sự mê lầm, ràng 
				buộc. 
				
				Ngược lại chư Phật và 
				biết bao đại sĩ Bồ-tát thì cũng căn trần đó mà họ không cột và 
				cũng không cần mở vì tự tánh của căn trần là thanh tịnh bản 
				nhiên, đâu có tội lỗi xấu xa gì. Các Ngài cũng có mắt tai, mũi, 
				lưỡi, thân và ý như tất cả chúng sinh và dĩ nhiên thế gian vũ 
				trụ cũng sờ sờ ra đó tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp vẫn 
				còn đủ, nhưng các Ngài làm chủ sáu căn của mình không để cho nó 
				chạy theo khách trần nên tâm hằng thanh tịnh. Đây chính là “tri 
				kiến vô kiến” vậy. 
				
				Còn chúng sinh thấy 
				nhà đẹp thì mê, thấy tiền thì tối mắt nên cái thấy biết này là 
				“tri kiến lập tri” tức là cái thấy biết của sự mê lầm, tham đắm. 
				Nếu căn trần không có xấu xa tội lỗi thì do đâu có cái lỗi khiến 
				con người rơi vào vòng phiền não khổ đau, phải chịu sinh tử trầm 
				luân? Tất cả cũng chỉ vì con người chạy theo cái thức phân biệt 
				nên nhìn cái gì cũng có “Hai” tức là có trong có ngoài, có tốt 
				có xấu, có thiện có ác, có thánh có phàm, có ta có người…
				Bây giờ hãy 
				nhìn lại trong thế gian này có cái gì là xấu xa tội lỗi chăng? 
				Cái mà con người cho rằng xấu xa tội lỗi là do cái nhìn có vô 
				minh phiền não, tham đắm của mình mà ra. Khi tâm chất đầy 
				tham-sân-si, ái dục thì nhìn cái gì cũng mê, cũng thích, cũng 
				muốn chiếm lấy. Đây chính là những vẫn đục đeo trước con mắt của 
				họ khiến họ nhìn thế gian là bất toàn, khổ não. 
				
				Nhưng nếu bây giờ lấy 
				cái vẫn đục kia đi và cũng nhìn cái thế gian đó với tâm trong 
				sáng, thanh tịnh, khách quan, không còn vô minh phiền não thì 
				cái tội lỗi khổ đau kia tức thì biến mất. Vậy ai cột trói mình? 
				Chính mình tự cột trói lấy mình, tự mình chuốc bao hệ lụy của 
				phiền não khổ đau, chính mình chạy theo tham-sân-si chớ đâu phải 
				thế gian, trần cảnh. Nếu mình tự trói buộc mình thì chính mình 
				tự cởi trói lấy. Không chạy theo trần cảnh thì tâm hằng thanh 
				tịnh, có an vui tự tại thanh thoát an nhàn. (Quý Phật tử nên tìm 
				đọc phẩm nhập pháp môn Bất Nhị trong kinh Duy Ma Cật cùng tác 
				giả để hiểu thêm). Vì tầm quan trọng đó mà Phật đã dạy rằng: 
				
				 
				“Tri kiến lập tri tức vô minh bổn 
				Tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn”. 
				
				 
				Nghĩa là: 
				
				 
				Đem sự thấy biết bên ngoài đưa vào tâm tức là đem những cái 
				thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết của mình chồng lên sự phân biệt 
				thương ghét, lấy bỏ, hơn thua, tốt xấu thì đây chính là gốc rễ 
				của phiền não, vô minh. Còn thấy biết rồi bỏ đi tức là không mời 
				khách trần vào tâm thì mới tìm thấy Niết bàn. 
				
				 
				Một hôm Đức Phật cùng các tỳ kheo du hành dọc bờ sông. Ngài 
				thấy một khúc gỗ lớn trôi theo dòng nước nên hỏi các tỳ kheo 
				rằng : 
				
				 
				- Này các tỳ kheo, các ông có thấy khúc gỗ lớn trôi theo dòng 
				nước kia không? 
				
				 
				- Thưa thấy. Bạch Thế Tôn! 
				
				 
				- Các tỳ kheo! Nếu khúc gỗ ấy không đâm vào bờ này, không đâm 
				vào bờ bên kia, 
				không chìm giữa dòng, không mắc cạn trên đất nổi, không bị người 
				nhặt lấy, không bị phi nhân nhặt lấy, không bị lọt vào xoáy 
				nước, không bị mục nát bên trong…
				thì nó sẽ hướng 
				về biển, xuôi theo biển, nhập vào biển. Vì cớ sao? Này các tỳ 
				kheo! Nếu các ông không đâm vào bờ này, bờ kia, xuôi theo biển, 
				nhập vào biển. Cũng vậy, hỡi các tỳ kheo, nếu các ông không đâm 
				vào bờ này, bờ kia, không chìm giữa dòng, không mắc cạn, không 
				bị người hay phi nhân lấy, không lọt vào xoáy nước, không mục 
				nát bên trong…
				thì các ông sẽ 
				hướng về, sẽ xuôi theo Niết bàn, sẽ nhập vào dòng Niết bàn. Vì 
				sao? Này các tỳ kheo, chính bởi vì pháp của Như Lai giảng nói xu 
				hướng Niết bàn, xuôi theo Niết bàn và nhập vào Niết bàn. 
				
				 
				Khi được nghe như vậy, một vị tỳ kheo bạch: 
				
				 
				- Bạch Thế Tôn! Bờ này là gì? Bờ kia là gì? Thế nào là chìm giữa 
				dòng? Thế nào là mắc cạn trên đất nổi? Thế nào là bị người nhặt, 
				phi nhân nhặt? Thế nào là lọt vào xoáy nước? Thế nào là mục nát 
				bên trong? 
				
				 
				- Này các tỳ kheo! Bờ này là ám chỉ sáu căn: mắt, tai, mũi, 
				lưỡi, thân, ý. Bờ kia chỉ cho sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, 
				xúc, pháp. Bị chìm giữa dòng là những khoái thích, ham muốn, ái 
				dục. Mắc cạn trên đất nổi đồng nghĩa với “ngã mạn”. Bị người 
				nhặt là những vị tỳ kheo sống quá liên hệ với cư sĩ nên chung 
				vui chung buồn với họ nghĩa là nếu chúng sinh an lạc thì tỳ kheo 
				an lạc, còn chúng sinh đau khổ thì cũng đau khổ như họ. Và các 
				tỳ kheo “bị phi nhân nhặt lấy” có nghĩa là vị tỳ kheo tu phạm 
				hạnh với ước mơ được sinh lên cõi trời, hưởng phước báo chư 
				thiên. Bị lọt vào xoáy nước là đồng nghĩa với ngũ dục lạc của 
				thế gian, đó là tài lợi, sắc đẹp, danh tiếng , ăn và ngủ. Bị mục 
				nát bên trong ám chỉ vị tỳ kheo theo các ác pháp, có những hành 
				động khả nghi, không giữ giới tuy bề ngoài có hiện tướng thanh 
				tịnh, nhưng bên trong nội tâm thì hủ bại, đầy dục vọng. 
				 
				NÓI BÀI KỆ CHỈ RÕ CHÂN VÀ VỌNG KHÔNG CÓ TÁNH. HỄ THEO TÁNH 
				VIÊN THÔNG THÌ XOAY VỀ BẢN GIÁC. 
				
				 
				Khi bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà nói bài kệ 
				rằng: 
				
				 
				NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN 
				
				 
				Chơn tánh hữu vi không 
				Duyên sanh có như huyễn 
				Vô vi vô khởi diệt 
				Bất thật như không hoa 
				Ngôn vọng hiển chư chơn 
				Vọng, chơn đồng nhị vọng 
				Do phi chơn phi chơn 
				Vân hà kiến sở kiến 
				Trung gian vô thật tánh 
				Thị cố nhược giao lô 
				Giải kết đồng sở nhơn 
				Thánh phàm vô nhị lộ 
				Nhữ quán giao trung tánh 
				Không hữu nhị câu phi 
				Mê hối tức vô minh 
				Phát minh tiện giải thoát 
				Giải kết chơn thứ đệ 
				Lục giải nhứt diệc vong 
				Căn tuyển trạch viên thông 
				Nhập lưu thành Chánh giác 
				Đà na vi tế thức 
				Tập khí thành bộc lưu 
				Chơn phi chơn khủng mê 
				Ngã thường bất khai diễn 
				Tự tâm thủ tự tâm 
				Phi huyễn thành huyễn pháp 
				Bất thủ vô phi huyễn 
				Phi huyễn thường bất sanh 
				Huyễn pháp vân hà lập 
				Thị danh diệu liên hoa 
				Kim cang vương bảo giác 
				Như huyễn tam ma đề 
				Đàn chĩ siêu vô học 
				Thử A-tỳ-đạt ma 
				Thập phương Bạc-già-phạm 
				Nhứt lộ Niết bàn môn. 
				
				 
				Dịch là : 
				
				 
				Chơn tánh của pháp hữu vi là không 
				Vì duyên sanh, sanh như huyễn hóa 
				
				 
				Các pháp hữu vi thế gian đều không có tự tánh, tự thể nên thực 
				chất của nó là không. Đối với vọng tưởng của chúng sinh thì họ 
				thấy nhà cửa, xe cộ, tiền tài vật chất là có, nhưng sự thật đây 
				chỉ là giả có, sinh diệt tức là có đó rồi mất đó. Vì nhân duyên 
				sinh cho nên có. Có mà không thật có nên mới gọi là huyễn. Duyên 
				sinh là do những ảnh hưởng, kết hợp, nương tựa, liên hệ của các 
				sự vật khác mà hóa ra có. Thí dụ muốn có cơm thì phải có gạo, 
				nấu với nước vì thế gạo, nước, sức nóng của lửa là những duyên 
				sinh để tạo thành cơm chớ tự gạo không thể thành cơm được. 
				
				 
				Vô vi thì không có khởi diệt 
				
				 
				Vì chẳng thật, như hoa đóm trong hư không 
				
				 
				Để phủ định cái huyễn hữu (giả có) mà ở đây Đức Phật đưa ra cái 
				vô (cái không), nhưng kỳ thật chẳng có cái gì gọi là “vô vi’ cả. 
				Dựa theo thuyết duyên khởi thì cái gì không có sinh khởi, không 
				có diệt tận thì gọi là vô vi. Nói cách khác vô vi là không có gì 
				cả. Chúng sinh vì chạy theo mê lầm pháp chấp nên nghĩ rằng Niết 
				bàn là thật có, giải thoát giác ngộ là thật có nên Đức Phật mới 
				đối trị lại rằng chẳng có cái gì là vô vi để đạt, để chứng cả. 
				Vô vi là đối đãi với hữu vi mà có, nay hữu vi đã không thật thì 
				lấy cái gì để đối mà có vô vi? Vì vậy Phật mới dạy các pháp vô 
				vi không thật có, như hoa đóm giữa hư không. 
				
				 
				Phủ định vọng, nhằm khẳng định có chơn 
				
				 
				Nếu chấp “chơn” thì vọng chơn đều vọng 
				
				 
				Giả vọng biểu chơn là một thuật ngữ rất thông dụng trong Phật 
				học. Khi nói các pháp hữu vi là vọng để bày tỏ vô vi là chơn thì 
				đây chỉ là phương tiện, là cách nói chớ không có chi là chân 
				thật cả. Khi chúng sinh trực nhận các pháp hữu vi là giả dối, 
				không thật có thì đã nhận đúng sự thật rồi. Nếu đem cái “không 
				thật có” đó đối đãi với cái “thật có” thì lọt vào vòng đối đãi 
				phân biệt nhị nguyên nên tự mình hủy diệt cái chân thật đó rồi. 
				Phải hiểu rằng hết vọng là chơn mà không cầu chơn trong khi hết 
				vọng nghĩa là một khi con người không còn vọng chấp mê lầm thì 
				cái chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh tự hiển bày mà 
				không cần cầu mong trông đợi gì hết. Nếu còn mong cầu thì tâm 
				vẫn còn mê chấp thì chơn tâm biến mất, không bao giờ hiển lộ. 
				
				 
				Chơn và phi chơn còn không có 
				Thì năng kiến sở kiến có thật gì! 
				Thức ở trung gian, không thật tánh 
				Như lau sậy gác chéo lên nhau 
				
				 
				Căn và trần đối đãi với nhau mà thành nên đều là duyên sinh như 
				huyễn cho nên thức là do căn trần duyên nhau mà có nên thức cũng 
				là duyên sinh như huyễn. Con người có sự phân biệt nên đánh giá 
				sự vật qua thức trung gian như: mừng, giận, thương, ghét, tốt, 
				xấu… 
				mà thức là sinh diệt, 
				huyễn hóa, luôn thay đổi biến hiện như những hình vuông, hình 
				tròn, hình tam giác, hình thang… trong những đám lau sậy gác 
				chéo lên nhau khi cơn gió thổi qua. 
				
				 
				Cột hay mở đồng một bản nhân 
				Thánh hay phàm không có hai đường 
				Hãy trông hình những cây lau gác 
				Pháp không, pháp có, cả hai không 
				
				 
				Tuy căn trần đối đãi với nhau mà thành nên cả hai đều là duyên 
				sinh như huyễn, nhưng thật chất căn trần đều là biểu hiện từ Như 
				Lai Tàng bản thể nhiệm mầu nghĩa là tự tánh căn trần rất thanh 
				tịnh, không có xấu xa tội lỗi chi cả. Bản tánh của căn trần là 
				diệu chân như tánh ra ngoài các sự phân biệt “có không”, “năng 
				sở”. Vì thế “buộc” hay “mở” là do căn trần hiện tiền mà có, chớ 
				không phải ngoài căn trần mà có. Do đó thánh hay phàm cũng chỉ 
				khác nhau ở chỗ nhận thức đúng đắn hay nhận thức sai lầm nghĩa 
				là do tự chủ hay không tự chủ đối với sáu căn của mình vậy thôi. 
				
				 
				Mê mờ chơn lý đó là vô minh 
				Phát minh được chơn lý tức thì giải thoát 
				Mở gút phải theo thứ lớp 
				Sáu gút mở hết, cái một không còn 
				Dựa nơi căn mà chọn tánh “viên thông” 
				Quả nhập lưu được xem là thành Phật 
				
				 
				Một khi căn trần đối hiện phát ra vọng tưởng phân biệt thì đây 
				là cột, nếu con người không thấu hiểu mà chạy theo khách trần 
				phiền não khổ đau này thì chính họ đang mê mờ chân lý, nhắm mắt 
				làm nô lệ cho vô minh. Ngược lại cũng chính nơi căn trần đối 
				hiện đó mà chúng sinh nhận rõ tất cả đều duyên khởi như huyễn 
				nên tâm không phát khởi phân biệt thì đây là cởi. Mà cởi là tâm 
				không dính mắc, thanh thoát an nhàn. 
				
				 
				Nói về lý thì hễ ngộ thì có giải thoát, nhưng về sự thì cần phải 
				nương theo lý mà tu tập, dần dần trừ hết những thói quen chấp 
				trước mê lầm cũng như mở gút cũng phải theo thứ lớp. Một được mở 
				thì sáu gút sẽ giải tỏa sau. Sáu gút được mở thì cái một cũng 
				không còn. Vì do có các gút nên có sự đối đãi giữa một và sáu. 
				Nếu các gút đã mở hết rồi thì sáu cũng không và một cũng chẳng 
				còn. Mà muốn thành tựu việc tháo gút, mở dây, chúng sinh cần nên 
				chọn cho mình một căn có ưu thế, dễ thâm nhập, công dụng dễ 
				thành mà tiến tu để phá trừ chấp ngã, chấp pháp và đạt được tánh 
				viên thông vô ngại thì những căn còn lại đồng thời đều được 
				thanh tịnh. Được quả nhập lưu thì xem như đã thành Phật rồi. Vì 
				thế Phật mới dạy rằng: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật 
				tánh, giai kham tác Phật” nghĩa là trong chúng sinh đều có Phật 
				tánh nên ai ai cũng có thể thành Phật được. 
				
				 
				Thức A Đà Na vi tế quá 
				Tập khí như nước thác tuôn theo 
				Vì sợ chấp “chơn, phi chơn” 
				Như Lai không thường nói đến 
				Tự tâm chấp tự tâm 
				Pháp phi huyễn trở thành pháp huyễn 
				
				 
				A-đà-na thức tức là chấp trì thức, có bản tánh là vô ký nghĩa là 
				không phải thiện không phải ác, nhưng tùy theo sự huân tập mà 
				hiện ra có thiện, có ác, có mê, có ngộ. Vì chúng sinh mê lầm 
				vọng tưởng nên chấp có thật ngã khiến cho trong A-đà-na thức có 
				những chủng tử tập khí chấp ngã nên bản tánh vô ký A-đà-na thức 
				bây giờ trở thành A lại da thức tức là cái tạng thức nắm giữ tập 
				khí chấp ngã. Nếu con người diệt trừ được chấp ngã tức là những 
				chủng tử vô ngã trí đủ sức ngăn cản không cho chủng tử chấp ngã 
				phát khởi thì A-đà-na thức đổi lại thành Dị-thục thức. Dị là 
				khác, thục là thành thục. Dị thục thức có ba loại: 
				
				 
				1) Khác thời gian mà thành thục ví như mỗi ngày làm một phần thì 
				làm vài tháng cũng xong cái nhà. Ngày xưa Đức Phật phải trải qua 
				ba A tăng kỳ kiếp tu hành nên đến kiếp này mới thành Phật. 
				
				 
				2) Khác loài mà thành thục. Phật pháp nhiệm mầu vô cùng vô tận 
				nên không có ai học hết được, tuy nhiên khi vào trong tam ma đề 
				thì vọng tưởng tiêu diệt, trí tuệ bừng sáng. 
				
				 
				3) Biến ra khác mà thành thục. Nhờ công phu tu tập mà con người 
				có được thần thông biến hóa, xuất quỷ nhập thần. 
				
				 
				Vì Dị thục thức dựa theo cái nhân của sự huân tập mà hiện ra quả 
				cho nên cái quả nơi Dị thục thức thường có thay đổi. 
				
				 
				Đến khi diệt hết chấp pháp nghĩa là tất cả những chủng tử pháp 
				chấp bị chân như trí ngăn cản không cho phát khởi thì A lại da 
				thức bây giờ trở thành thuần thiện, không còn là vô ký tức là nó 
				không còn để các phiền não mê lầm huân tập nữa. Lúc ấy, A-đà-na 
				thức trở thành Bạch-tịnh-thức (Am-ma-la thức) và kết hợp với đại 
				viên cảnh trí để đưa người tu hành đến Kim cương địa, 
				nghĩa là chứng được thường trụ Pháp thân tức là thành Phật. 
				
				 
				A-đà-na thức là cái thức làm cho có sống nên rất vi tế. Tuy nó 
				phát sinh ra ý thức, nhưng ý thức không thể trực tiếp biết nó 
				được. Nó theo những sự huân tập mà thành những thói quen mà được 
				gọi là tập khí. Những tập khí này sinh rồi diệt, diệt rồi sinh, 
				tiếp tục rất vi tế trong A lại da thức và nó chỉ phát khởi khi 
				nào có đủ nhân duyên. Thí dụ con người có tập khí tham, nhưng 
				ngày thường con người không ai để ý. Đến khi mắt thấy quá nhiều 
				tiền, lòng tham nổi dậy khiến con người điêu đứng khổ đau. Tập 
				khí thì lưu động, không bao giờ đứng yên, lớp trước lớp sau nối 
				nhau không dứt. Nói tóm lại, thức A-đà-na sâu sắc lắm, nhưng tập 
				khí chúng sinh lại quá sâu dày vì thế mà Đức Phật ít khi nói 
				đến. Tại sao? 
				
				Vì chúng sinh còn mê 
				chấp cái này là chơn, cái kia chẳng phải chơn. Nói các khác sáu 
				thức vọng chấp là vọng đã đành, nhưng con người lại cố chấp chơn 
				làm cho “chơn” hóa ra “vọng”. Cũng như tự tâm chấp tự tâm nghĩa 
				là tâm mình là Phật mà lại van xin mong cầu thành Phật thì chẳng 
				khác nào pháp “phi huyển” trở thành “huyển pháp”. Nói cách khác 
				tâm tánh con người là pháp giới tánh thanh tịnh nên không có 
				năng có sở, không vọng không chơn, nhưng chỉ vì mê lầm chia ra 
				năng sở, phát ra chấp trước nên bây giờ mới có phân biệt có tâm, 
				có cảnh, có căn, có trần tức là đem tự tâm mà đối lập, chấp 
				trước với cái tự tâm của mình. Do đó nếu không còn mê lầm chấp 
				trước thì tất cả các pháp do vọng tưởng chấp trước tạo thành đều 
				là giả huyễn hết. 
				
				 
				Không chấp, pháp “chơn” còn không có 
				Pháp chơn vốn đã chẳng có sanh 
				Thì pháp huyễn do đâu thành lập? 
				Nếu chúng sinh không còn chấp thì “vọng chơn” đều vắng lặng, 
				tịch tĩnh. Mà “chơn” còn không có thì “vọng” dựa vào đâu mà sinh 
				được? 
				Như huyễn tam ma đề là vậy 
				Đó là bảo giác, chắc như kim cương vương 
				Không nhiễm như Diệu Liên Hoa 
				Khảy móng tay vượt hàng vô học 
				Đây là pháp của Phật mười phương 
				Là đại lộ vào thành độ Niết bàn Phật. 
				
				 
				Như huyễn Tam ma đề là phương pháp tu thiền mà trong đó hành giả 
				phải tư duy, quán chiếu để nhận biết rằng tất cả các pháp của 
				thế gian và xuất thế gian đều như huyễn, là giả có chớ không 
				phải thật có. Tu theo pháp như huyễn Tam ma đề thì người tu sẽ 
				có được trí giác ngộ quý báu, vững chắc như kim cương, không có 
				vật gì có thể phá hoại được. Trong Nhu huyễn Tam ma đề, chơn 
				vọng đều như huyễn, nhiễm tịnh đều như huyễn nên tâm hoàn toàn 
				tự tại cũng như hoa sen sinh nơi bùn lầy tanh hôi dơ dáy mà 
				không hề dính mùi bùn mà ngược lại còn tỏa hoa thơm tươi mát. 
				
				Người tu theo lối này 
				thì trong giây lát có thể vượt qua hàng vô học Thanh Văn, Duyên 
				Giác nhị thừa vì các Ngài vẫn còn chấp pháp. Thập phương Như Lai 
				đều do con đường như huyễn Tam ma đề để vào tự tánh thanh tịnh 
				Niết bàn mà viên mãn vô lượng vô biên công đức. Tuy các vị 
				Bồ-tát có tu theo các pháp môn khác, nhưng đến khi giác ngộ cũng 
				phải thực hành như huyễn Tam ma đề để độ sinh thành Phật. Các vị 
				Bồ-tát nhờ tu theo pháp môn này mà họ nhìn thế gian là huyễn, 
				vào đời độ huyễn chúng sinh để chứng đắc huyễn quả nên tâm rất 
				tự tại, không còn dính mắc mà đi thẳng một con đường vào tự tánh 
				thanh tịnh Niết bàn. Đó là Niết bàn Phật vậy. 
				
				
				 |  
				 |