| 
				   
				Ông A Nan Bạch Phật: 
				-     Như Thế Tôn vì chúng con giảng giải về nhân 
				duyên, tự nhiên và các tướng hòa hợp và chẳng hòa hợp. Tâm chúng 
				con vẫn còn chưa tỏ ngộ, mà nay nghe Phật dạy: Tánh thấy trong 
				khi thấy, tánh thấy đó không phải tánh thấy bản thể làm chúng 
				con càng thêm mờ mịt. Cúi xin Phật thương xót bố thí tuệ nhãn, 
				khai thị cho chúng con về bản tâm thanh tịnh, bản giác thường 
				trú.Bottom of Form 
				 
				Khi ấy Thế Tôn thương xót A nan cùng đại chúng, muốn chỉ dạy 
				pháp đại tổng trì, con đường trụ tam ma đề vi diệu, bèn bảo A 
				Nan rằng : 
				 
				- Ông tuy nhớ giỏi, chỉ có ích cho việc học rộng, nhưng đối với 
				sự quán chiếu vi diệu của pháp Chỉ (Xa-ma-tha) tâm ông còn chưa 
				rõ. Nay ông hãy lắng nghe cho kỹ, Như Lai sẽ sẽ vì ông chỉ bày 
				rõ ràng. Cũng là giúp cho hàng hữu lậu trong đời sau chứng được 
				quả vị Bồ-đề. 
				 
				Tuy A Nan là người học rộng nghe nhiều, nhưng về phương diện duy 
				mật thiền quán ông không chịu tu chứng nên vọng thức luôn phát 
				khởi làm tâm bất tịnh. Để có thể nhận biết được tánh thấy huyền 
				diệu thì ông A Nan phải quay về thực hành những phương pháp 
				chánh định tức là pháp tu tam ma đề. Một khi có chánh định thì 
				tâm sẽ được thanh tịnh và nhờ đó mà ông A Nan có thể quán chiếu 
				thấy rõ thật tướng của vạn pháp. Đây là cứu cánh của người tu 
				Phật vì nếu tâm mình không định có nghĩa là chúng sinh không có 
				được tâm thanh tịnh thì tất cả vạn pháp trên thế gian này dưới 
				nhãn thức của họ đều là chắc thật nên mới bị sa vào chấp ngã, 
				chấp pháp. Thật vậy nếu ông A Nan chịu tu chứng đạt được chánh 
				định thì thần chú phạm thiên Satìcala của nàng Ma đăng già làm 
				gì lay chuyển được thanh tâm của ông ta. Nói cách khác là một 
				khi tâm chúng sinh đã định thì tâm họ đã kiến tạo cho mình một 
				thành lũy vững chắc kiên cố bảo vệ những ô nhiễm từ bên ngoài 
				không cho xen tạp làm xao động mà biến tâm thành bất tịnh. Ngược 
				lại nếu tâm không định thì những ảo tưởng về tham dục luyến ái 
				của thần chú sẽ làm tâm say mê mà chạy theo nó. 
				 
				Đức Phật thương xót A Nan nên muốn chỉ dạy phương pháp tam ma đề 
				mà chính Ngài đã tu chứng để thành Phật. Đây chính là ba thứ 
				thiền quán mà chư Phật mười phương tu thành chánh giác : 
				 
				1) Tu pháp Xa ma tha tức là tu Chỉ hay cũng được gọi là tu Định. 
				 
				Nếu chúng sinh biết buông bỏ hết vọng tưởng để tâm được an định 
				thì đây là tu theo “Chỉ”. 
				 
				2) Tu pháp Tam ma bát đề tức là tu Quán tức là tu Trí Tuệ. 
				 
				Nếu chúng sinh tu để thấy rõ thân, tâm và cảnh giới là giả, là 
				huyễn hóa, là không chắc thật thì phương pháp nầy là tu theo 
				“Quán”. 
				 
				3) Tu pháp Thiền Na tức là Chỉ-Quán đồng tu nghĩa là Định-Tuệ 
				song tu. Thiền Na có nghĩa là Tịnh lự. Tịnh là Chỉ tức là Định 
				và Lự là Quán tức là Trí tuệ. 
				 
				Ba thứ định này là ba giai đoạn trong quá trình tu học. Nói một 
				cách khác Xa ma tha, Tam ma bát đề và Thiền na là những giả đặt 
				danh xưng do mức độ tâm thanh tịnh sai khác. Thí dụ như tâm 
				thanh tịnh của chúng sinh bị nhiễm ô mười phần mà hóa giải được 
				ba phần thì gọi là Xa ma tha, trừ được sáu bảy phần gọi là Tam 
				ma bát đề và nếu trừ được tám chín phần gọi là Thiền na. Đến khi 
				chúng sinh trừ sạch cả mười phần gọi là Thủ Lăng Nghiêm. Nếu tâm 
				có được một phần thanh tịnh, chúng sinh có được một phần công 
				đức, cho đến khi rốt ráo viên mãn thì chính là “Thủ Lăng Nghiêm 
				rốt ráo kiên cố” tức là đại định Thủ Lăng Nghiêm vậy. 
				 
				Phật dạy tiếp : 
				A Nan! Tất cả chúng sinh 
				luân hồi trong thế gian là do hai thứ vọng kiến điên đảo phân 
				biệt ngay đó phát sinh, do đó mà nghiệp 
				luân chuyển. Thế nào là hai thứ vọng kiến? Một là biệt nghiệp 
				vọng kiến của chúng sanh, hai là đồng phần vọng kiến của chúng 
				sinh. 
				 
				Con người sống trong thế gian này cũng vì mê chấp vọng tâm mà 
				sinh ra hai vọng kiến sai lầm khiến họ chạy theo sự tướng sinh 
				diệt và không hòa nhập được vào thể tánh chân như nên từ đó mới 
				tạo tác tội nghiệp mà phải chịu quả báo luân hồi. Thức tâm dẫn 
				dắt con người chạy theo lục dục thất tình, càng ngày càng xa dần 
				chân tánh làm tâm bất tịnh và cột chặt con người vào vòng sinh 
				tử trầm luân. Đó cũng vì chúng sinh có hai nhận thức sai lầm mà 
				Đức Phật gọi là biệt nghiệp vọng kiến tức là nghiệp riêng của 
				mỗi chúng sinh và đồng phần vọng kiến tức là nghiệp chung của 
				tất cả mọi người. 
				 
				Phật lại dạy rằng: 
				Thế nào là biệt nghiệp 
				vọng kiến? 
				 
				Này A Nan! Ví như người bệnh mắt hóa lòa, ban đêm trông ngọn đèn 
				thấy có vầng tròn năm màu. Cái vầng tròn năm màu vốn không thật 
				có đối với người không bị bệnh lòa. Nhưng nó không phải không có 
				đối với người mắc bệnh. Vầng tròn ấy không phải màu sắc của cái 
				thấy hay của đèn. Nó không tự sanh, cũng không phải do đèn hay 
				do mắt đã sanh. Nguyên nhân của vầng tròn là do bệnh mắt hóa 
				lòa. Cái vầng tròn và cái thấy vầng tròn đều là bệnh lòa. Nhận 
				thấy được bệnh lòa thì tánh thấy đó không bệnh. Do đó, không nên 
				nói cái vòng tròn năm màu là của đèn hay của cái thấy. Cũng 
				không được nói: Rằng không phải của đèn hay không phải của cái 
				thấy. Lại ví như vầng trăng thứ hai. Nó không phải trăng mà cũng 
				không phải bóng. Vầng trăng đó vốn không có, nên không thể gán 
				cho nó “phải” hay là “không phải” mặt trăng. Mặt trăng thứ hai 
				có là do động tác của ngón tay nhấn mắt. Người trí không nên 
				bảo: Đó là hình trăng hay không phải hình trăng. Đó là cái thấy 
				hay ra ngoài cái thấy. Vầng tròn năm màu cũng vậy. Nó là do bệnh 
				lòa mà có. Gọi nó là của đèn hay của cái thấy đều là sai. Nếu cố 
				gắng nói rằng không phải của đèn hay không phải của cái thấy 
				càng thêm hí luận. 
				 
				Cái sai lầm đầu tiên là nghiệp riêng của mỗi chúng sinh. Để làm 
				sáng tỏ, Đức Phật đã đưa ra thí dụ một người bị bệnh mắt lòa mà 
				nhìn ngọn đèn ban đêm. Nếu một người bị bệnh mắt lòa, quáng gà 
				lúc họ nhìn bóng đèn thì họ sẽ thấy chung quanh bóng đèn có một 
				một cái vòng tròn ngũ sắc. Vì thế mà Đức Phật mới gạn gỏi ông A 
				Nan rằng cái vòng ngũ sắc là do bóng đèn làm ra hay là do cái 
				thấy làm ra? 
				 
				1) Thứ nhất nếu trả lời rằng vòng tròn ngũ sắc là do bóng đèn 
				làm ra thì tại sao cái vòng tròn ngũ sắc này chỉ có đối với 
				người bị bệnh mắt lòa. Còn những người có thị nhãn bình thường 
				thì không thấy. Như vậy lý luận vòng tròn ngũ sắc được tạo ra 
				bởi bóng đèn là không đúng. 
				 
				2) Giả thuyết thứ hai là nếu cái thấy tạo ra vòng tròn ngũ sắc 
				chung quanh bóng đèn thì cái thấy bây giờ trở thành cái bị thấy 
				tức là hình tướng, màu sắc. Như vậy thuyết này cũng không đúng. 
				 
				3) Giả thuyết thứ ba là nếu cái vòng tròn ngũ sắc tự nó có chớ 
				không phải do cái bóng đèn tạo ra nghĩa là khi nhìn vào bất cứ 
				vật chất nào thì cái thấy sẽ phát sinh thêm cái vòng tròn ngũ 
				sắc. Nhưng trên thực tế, khi nhìn cái nhà, chiếc xe thì chỉ thấy 
				cái nhà và chiếc xe chớ đâu có thấy cái vòng ngũ sắc bao quanh 
				cái nhà hay chiếc xe. Vì thế giả thuyết này cũng sai. 
				 
				4) Giả thuyết cho rằng nếu cái vòng tròn ngũ sắc là chính mình 
				nghĩa là mình là bóng tròn ngũ sắc thì làm sao mình thấy một cái 
				vòng tròn ngũ sắc khác ngoài mình. Điều này cũng vô lý. 
				 
				Bây giờ Đức Phật mới kết luận rằng ánh sáng là do từ bóng đèn 
				tỏa ra còn cái vòng tròn ngũ sắc là do bệnh mắt lòa mà có chớ 
				thật chất nó không có. Nhìn mặt trăng cũng thế. Nếu con người 
				lấy tay dụi vào con mắt rồi nhìn lên trời thì sẽ thấy có tới hai 
				mặt trăng và từ đó sinh ra lầm tưởng không biết mặt trăng nào 
				thật, mặt trăng nào là giả. Đức Phật muốn dùng những hình ảnh, 
				những thí dụ này để chúng sinh ứng dụng mà suy tư quán chiếu để 
				tránh xa những ảo giác của cuộc đời. Vậy thâm ý của đức Phật 
				trong đoạn kinh này như thế nào? Con người sống trong thế gian 
				lúc nào cũng tin chắc vào cái thấy của mình, nhưng thật ra cái 
				thấy không phải là cái thấy phát xuất từ thể tánh thanh tịnh mà 
				cái thấy của vọng tưởng xen lẫn vào. Đối với đạo Phật, thế gian 
				vũ trụ đều là giả huyển, như bóng trăng dưới nước như hoa đóm 
				trên không, là không chắc thật, nay có mai không, sinh sinh diệt 
				nên mới có câu : “Vạn pháp giai không, Duyên sanh như huyễn”. 
				Thế mà con người tin chắc 
				thân mình là thật, anh em cha mẹ vợ chồng con cái là thật, nhà 
				cửa xe cộ là thật và thế gian vũ trụ cũng là chắc thật nên bới 
				bám víu, giữ gìn, tạo tác, chấp thủ mà tác tạo ra nghiệp để phải 
				chịu quả khổ đời đời. Đến khi xuôi tay nhắm mắt, thân mình phải 
				bỏ lại, tiền tài công danh cũng chẳng thể mang theo. Anh em, cha 
				mẹ, vợ chồng, con cái mỗi người đi mỗi ngả thì cái gì là chắc 
				thật? Thí dụ có một ông nhà giàu sụ sống trong thời phong kiến 
				nhưng bị bệnh sắp chết nên có đôi lời trăn trối lại với bốn 
				người vợ. Người vợ thứ tư nghẹn ngào nói rằng : “Tôi tuy thương 
				ông nhưng khi ông chết tôi chắc phải đi tái giá”. Người vợ thứ 
				ba ngậm ngùi thốt lên rằng : “Tôi không tái giá nhưng không theo 
				ông được”. Người vợ thứ nhì bây giờ mới nức nở nói rằng : “Một 
				ngày cũng là tình chồng nghĩa vợ nên khi ông chết tôi sẽ tiễn 
				đưa ông đến nơi an nghĩ cuối cùng”. 
				Sau cùng bà vợ lớn khẳng 
				định với chồng là : “Tình nghĩa vợ chồng như keo son thắm thiết 
				vì vậy khi chết ông đi đâu thì tôi theo với”. Người vợ thứ tư là 
				nói đến tiền của, vàng bạc trên đời cho nên khi chết thì những 
				thứ ấy sẽ vào tay người khác. Người vợ thứ ba là tượng trưng cho 
				bất động sản, dinh thự đền đài cho nên khi chết thì của thế gian 
				phải để lại hết cho thế gian. Người vợ thứ nhì ám chỉ cho tấm 
				thân tứ đại của con người cho nên khi chết thì chỉ tới nơi an 
				nghĩ tại nghĩa địa mà thôi. Còn bà vợ cả là tất cả những căn 
				nghiệp của chúng sinh tạo tác vì thế nghiệp lực dẫn đi đâu thì 
				thần thức phải đến đó để thọ quả báo vui hay khổ. 
				 
				Vì thế nếu chúng sinh chưa thức tỉnh giác ngộ để nhận chân chân 
				lý thì họ đều là những người bị bệnh mắt lòa cả. Ngày nào chúng 
				sinh khi thấy mà còn thương còn ghét, còn giận còn hờn, còn đẹp 
				còn xấu thì cái thấy này là cái thấy của người bị bệnh mắt lòa. 
				Nói theo Duy Thức Luận thì đây là cái thấy của Tỷ Lượng và Phi 
				lượng. Tỷ Lượng là cái so sánh để phát sinh ra sự phân biệt như 
				màu xanh màu đỏ… và Phi lượng là một sự 
				nhận biết không đúng với chân lý mà nghiêng về ngã kiến cá nhân. 
				Thí dụ nhìn hai đóa hoa thì thích đóa hoa này hơn đóa hoa kia 
				dựa theo ngã kiến cảm tình của mình. Ngược lại vô ký tánh mới là 
				tánh thấy thật. Thật vậy, chúng sinh vì sống trong vô minh, vọng 
				thức mê lầm nên chạy theo vọng tâm sinh diệt điên đảo mà quên 
				mất đi chơn tâm thanh tịnh thường hằng bất biến lúc nào cũng sẵn 
				có trong họ mà tác tạo nên biết bao tội nghiệp để phải chịu sinh 
				tử trong lục đạo luân hồi. Đây chính là nghiệp riêng của mỗi 
				chúng sinh vậy. 
				 
				Phật dạy rằng : 
				Thế nào là đồng phần 
				vọng kiến? 
				 
				Này A Nan! Cõi Diêm-phù-đề này trừ nước biển bao la, trong đó 
				đất bằng có 3000 châu. Châu lớn ở giữa, bao quát từ Đông sang 
				Tây có đến 2300 nước. Ngoài ra các châu nhỏ nằm trong các biển, 
				trong đó có châu gồm hai trăm, ba trăm nước, hoặc hai mươi, ba 
				bốn mươi cho đến năm mươi nước. A Nan! lại nếu trong đó, một 
				châu nhỏ chỉ có hai nước, mà riêng người trong một nước cùng 
				chiêu cảm ác duyên thì tất cả chúng sinh trong nước đó đều nhìn 
				thấy hết mọi cảnh không tốt. Hoặc thấy hai mặt trời, hai mặt 
				trăng, cho đến thấy nhiều ác tướng như phướng, sao sa và chỉ có 
				những người trong nước đó thấy, chúng sinh trong nước kế cận thì 
				cũng không thấy và cũng không nghe. 
				 
				A Nan! Nay Như Lai đem hai việc đó kết hợp so sánh làm thí dụ để 
				chỉ cho ông. 
				 
				Này A Nan! Cái nhận thức sai lầm biệt nghiệp của chúng sinh ví 
				như người bệnh mắt, trông thấy ngọn đèn hiện ra vầng tròn năm 
				màu, tưởng là cảnh thật trước mắt. Sự thật vầng tròn là do bệnh 
				lòa của người đau mắt tạo thành. Lòa là bệnh của cái thấy, không 
				phải sắc tướng tạo ra. Cái thấy, thấy được bệnh lòa thì cái thấy 
				đó vốn không có bệnh. Cũng vậy, hiện nay ông dùng con mắt xem 
				thấy núi sông cảnh giới và các chúng sinh đều do bệnh lòa vô thỉ 
				tạo thành. Mắt nhặm thì cái thấy lao nhọc, không phải do màu sắc 
				tạo ra. Song người biết được mắt nhặm thì cái thấy của họ không 
				bị lầm lỗi. Cái thấy và cảnh bị thấy, như thế có cảnh trước mắt, 
				nguyên là tâm giác ngộ sáng suốt, do phân năng kiến sở kiến mà 
				thành bệnh. Nhận rõ cái thấy sinh khởi từ bệnh nhặm. Chứ bản 
				giác minh tâm rõ biết các duyên thì không bệnh. Vì có năng giác 
				và sở giác mới thành bệnh. Nếu bổn giác không ở trong bệnh, đây 
				mới thật là nhận ra tánh thấy. Sao còn gọi là thấy, nghe, hay, 
				biết. Thế nên nay ông thấy Ta và ông, cùng mười loài chúng sinh 
				trong thế gian đều do mắt nhặm, chớ không phải cái thấy mắt nhặm 
				bị bệnh. Tánh thấy chân thật đó không bị nhặm, nên chẳng gọi là 
				thấy. 
				 
				Nhãn căn (con mắt) hòa hợp với tiền trần (lục trần) tạo ra cái 
				thấy mà nhà Phật gọi là năng kiến và sở kiến. Năng kiến là cái 
				thường thấy tức là con mắt, còn sở kiến là sự vật bên ngoài. 
				Nhưng năng kiến và sở kiến đều phát xuất từ trong chơn tâm. Đó 
				là bất biến mà tùy duyên. Ví dụ như khi nhìn những bọt biển trôi 
				nổi trên mặt nước mà những bọt biển nầy chính là do nước biển 
				sinh ra. Nếu không có nước biển thì làm gì có bọt biển. Chơn tâm 
				cũng vậy, khi con người đang ở trạng thái tịnh thì tâm là chơn 
				tâm. Nếu bây giờ tâm duyên theo trần thì tâm chuyển từ tịnh sang 
				động. Do đó chơn tâm biến mất và được thay thế bằng vọng tâm 
				sinh diệt. Đức Phật dùng thí dụ người bị bệnh mắc lòa khi nhìn 
				bóng đèn mà thấy cái vòng tròn ngũ sắc, nhưng lòa là bệnh của 
				con mắt bị che mây tức là bệnh của cái thấy chớ không phải do 
				sắc tướng tạo ra. Nói rộng ra thì những vật thể trong thế giới 
				vũ trụ này tự nó thanh tịnh, không ô nhiễm, nhưng con người 
				không nhìn nó bằng con mắt chân thật, khách quan mà nhìn nó bằng 
				tầm mắt núp sau bởi tham sân si mạn nghi ác kiến từ bao nhiêu 
				đời bao nhiêu kiếp kết tụ lại cũng như người bị mắt nhặm nhìn 
				bóng đèn mà chỉ thấy vòng tròn ngũ sắc vậy. Cho dù năng kiến 
				(cái thấy của mắt) hay sở kiến (sự vật bị thấy bên ngoài) có làm 
				cho cái thấy sai lầm không chính xác, nhưng tánh thấy thì lúc 
				nào cũng thanh tịnh sáng suốt, không sai lầm. Đây mới là pháp 
				nhãn thanh tịnh để giúp người tu quán triệt chơn tâm và sống 
				được với chơn tánh của mình. Đối với Phật giáo, hồi quang phản 
				chiếu tức là quay về bên trong để thấy con người thật của mình 
				để cảm nhận được tánh thấy, tánh nghe, tánh biết thường hằng bất 
				biến thì sẽ có tâm thanh tịnh mà được minh tâm kiến tánh. Minh 
				tâm kiến tánh là thấy rõ tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình 
				chớ không phải thấy những cảnh thị phi, khổ não hay huyển hóa 
				của thế gian. Nếu chúng sinh liễu ngộ và biết sống trong tánh 
				thấy, tánh hay, tánh biết này thì tất cả năng kiến, sở kiến của 
				vọng tâm là thấy, nghe, hay, biết (kiến, văn, tri, giác) sẽ tan 
				biến và sau cùng tất cả những vọng thức trong tâm cũng biến mất 
				theo. 
				 
				Phật hỏi A Nan: 
				A Nan! nếu so sánh đồng 
				phần vọng kiến của chúng sinh với biệt nghiệp vọng kiến của một 
				người. 
				 
				Một người nhặm mắt cũng giống như người trong cả nước kia. Người 
				thấy quầng sáng là do mắt nhặm mà có. Còn trong nước kia hiện ra 
				những tướng không lành là do cộng nghiệp mà cùng thấy trong đó 
				các điềm ác hiện ra. Cả hai đều do vọng kiến từ vô thủy phát 
				sinh, giống như ba ngàn châu trong cõi Diêm phù đề, gồm bốn biển 
				lớn và thế giới Ta bà, cho đến các nước và các chúng sinh hữu 
				lậu trong mười phương, đều là tâm giác ngộ sáng suốt nhiệm mầu. 
				Kiến văn giác tri là bệnh duyên hư vọng, khiến hư dối hòa hợp 
				sanh, hư dối hòa hợp mất. 
				Nếu có thể xa lìa các 
				duyên hòa hợp và không hòa hợp thì diệt trừ được các nhân sanh 
				tử. Đó chính là tánh giác ngộ tròn đầy không sinh không diệt, 
				chính là chân tâm bản giác thường trụ. 
				 
				Sống trong thế gian, con người thường có quan niệm là những gì 
				thuộc về mình là chắc thật thì nhà Phật gọi là chấp ngã và tất 
				cả vạn pháp chung quanh ta cũng chắc thật thì đây là chấp pháp. 
				Khi một chúng sinh thấy thân mình là chắc thật và vạn vật cũng 
				chắc thật như thế thì cái kiến chấp này gọi là biệt nghiệp vọng 
				kiến. Còn nếu cả đại chúng trong một xã hội đều có chung kiến 
				chấp này thì gọi là đồng phần vọng kiến. Vọng kiến là cái thấy 
				biết sai lầm không đúng với chân lý. Đối với thế gian vũ trụ thì 
				tất cả đều có, đều hiển hiện trước mắt của chúng ta. Điều này 
				đức Phật cũng không phủ nhận, nhưng thật ra cái có mà con người 
				tin chắc thật ra dựa theo giáo lý nhà Phật thì chỉ là giả có mà 
				thôi. Bởi vì cái có đó chỉ là do duyên sanh kết hợp nên chính nó 
				không có tự tánh, không có chủ thể nên nó không bền không chắc, 
				phải chịu sự thoái hóa của luật vô thường là thành, trụ, hoại, 
				không. 
				Đối với chư Bồ-tát và chư 
				Phật thì các Ngài thấy tất cả chỉ là duyên sanh như huyển nên 
				không có cái gì bền chắc cả. Do đó, các Ngài không chấp thủ nên 
				dễ dàng buông xả. Chấp ngã cũng không và chấp pháp cũng không 
				nên tâm mới hằng tự tại Niết bàn. Tại sao?  Bởi vì nếu 
				không còn dính mắc tức là không còn chấp ngã chấp pháp thì tâm 
				sẽ không sinh ra si mê. Không si mê thì không sinh ra tham ái, 
				không tham ái nên không còn bị trói buộc vì thế cuộc sống mới 
				được thanh thoát an nhàn. Còn phàm nhân vì chấp thân mình là 
				thật, là bền chắc nên cưng chiều, bảo vệ tấm thân, tạo tác, 
				tranh công đoạt chức và làm nô lệ cho thân mà tạo ra trăm điều 
				phiền não nghiệp chướng để phải chịu quả khổ đời đời. Nhưng họ 
				quên đi một điều là khi xuôi tay nhắm mắt, thân này phải bỏ lại, 
				tiền tài công danh cũng chẳng thể mang theo. Ngay cả cha mẹ, vợ 
				chồng, con cái, anh em cũng phải xa lìa. Như thế cái gì là chắc 
				thật? 
				 
				Còn đối với con mắt trí tuệ của người đệ tử Phật, thì tất cả cái 
				có đó chỉ là vọng kiến, nghĩa là cái có 
				cũng như bóng trăng dưới nước và hoa đóm trong hư không. 
				  
				Cái thấy này cũng giống như 
				cái thấy của người bệnh lòa mắt khi nhìn bóng bèn ban đêm mà 
				thấy vầng tròn ngũ sắc. Do đó chỉ có người bệnh lòa mắt mới thấy 
				hiện tượng sai lầm này thì nhà Phật gọi là biệt nghiệp vọng 
				kiến. Trong những năm gần đây có những hiện tượng như sao chổi 
				mọc lên ở Trung Hoa rồi làm cho tin rằng đây là dấu hiệu của 
				những điềm xấu sắp xảy ra. Những người Trung Hoa cùng thấy và 
				tin như thế thì gọi là đồng phần vọng kiến. 
				  
				Nhiều đệ tử Phật sau khi 
				đọc tụng câu: “Sắc tức là Không và Không tức là Sắc” trong Bát 
				Nhã Tâm Kinh thì nghi vấn rằng thân xác của mình là thật, rờ 
				thấy biết, đánh thấy đau, không ăn thì đói thế thì tại sao tâm 
				kinh nói nó là không. Nếu một người quan niệm sai lầm như thế 
				thì gọi là biệt nghiệp vọng kiến. Còn nếu cả đạo tràng mà suy 
				nghĩ sai lầm như thế thì gọi là đồng phần vọng kiến. Nói tóm 
				lại, biệt nghiệp chính là chánh báo của chúng sinh, là thân tâm 
				ngũ uẩn của mỗi chúng sinh, là do nghiệp riêng của mỗi người tạo 
				tác. Đồng phần là thế giới y báo của chúng sinh, là do nghiệp 
				chung của nhiều người chiêu cảm. 
				Nói chung cho dù là nghiệp chung hay nghiệp riêng thì chung quy 
				đều là do nhận thức sai lầm từ vô thỉ đến nay. Khi chúng sinh 
				sống được với tánh thấy chân thật của mình tức là họ có được 
				Pháp nhãn thanh tịnh thì những vật chất trên thế gian này không 
				làm ngăn cách được tánh thấy đó cho nên họ có thể thấy được tam 
				thiên đại thiên thế giới như thấy quả quít trên bàn tay như ngày 
				xưa tôn giả A Na Luật đã thấy vậy. Thâm ý của đoạn kinh này là 
				nếu chúng sinh biết hồi đầu thị ngạn để quay thuyền trở lại bến 
				xưa mà sống với chơn tâm, với bản tâm thanh tịnh thường trú của 
				mình để thấy biết thấu suốt cũng như người hết bệnh lòa, khi 
				nhìn bóng đèn thì thấy ánh sáng chớ không còn thấy vòng tròn ngũ 
				sắc hoặc là khi nhìn lên trời thì chỉ thấy một mặt trăng mà 
				không còn sống trong ảo giác mê mờ, vô minh vọng chấp. 
				
				
				 |  
				 |