|   BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM 
				THUẬT LẠI CHỖ TU CHỨNG 
				  
				Khi bấy giờ Bồ Tát Quán Thế Âm đứng dậy 
				cung kính chấp tay thưa: 
				  
				- Bạch Thế Tôn! Tôi nhớ hằng hà sa kiếp 
				trước, có Đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm và tôi đã phát Bồ 
				Đề tâm thời ấy. Đức Phật Quán Thế Âm dạy tôi phương pháp “nghe, 
				suy nghĩ và tu” để được thể nhập Tam-ma-đề. 
				  
				- Bạch Thế Tôn! Trước hết tôi sử dụng 
				tánh nghe: Nghe động và nghe tĩnh, rồi tôi xóa đi ý niệm động 
				tĩnh ấy, từ đó sức tịch tĩnh tăng dần, tôi dứt được “năng văn” 
				và “sở văn”. Sức tịnh tĩnh không dừng ở đó bấy giờ tánh giác tôi 
				lại hiển hiện ra. Tôi tiếp tục tư duy: Dù là giác tánh nhưng 
				tánh “năng giác” “sở giác” hãy còn. 
				  
				
				Tôi bèn xóa đi ý niệm 
				về giác bấy giờ tâm tánh tôi rỗng rang lặng lẽ như hư không. Tôi 
				lại diệt đi cái giác tri “như hư không” ấy. Cuối cùng tôi diệt 
				cả khái niệm “diệt”. Khi tôi diệt hết khái niệm vi tế về “diệt 
				sanh, sanh diệt” bỗng dưng tôi nhận thấy toàn thể pháp giới 
				trong mười phương chỉ còn là cảnh giới “bất nhị” tịch diệt hiện 
				tiền. Tâm tánh của tôi viên mãn khắp giáp mười phương vượt hẳn 
				tầm nhận thức thường tình của thế gian. Tôi được hai món thù 
				thắng: Một là tâm tôi hợp với bản giác nhiệm mầu của mười phương 
				Như Lai, đồng một từ tâm hướng hạ cứu độ chúng sinh. Hai là hợp 
				với tâm của lục đạo chúng sinh trong mười phương, đồng một bi 
				tâm hướng thượng cầu Vô thượng Bồ Đề. 
				
				  
				
				Ở phần kinh trên, Đức 
				Phật đã gạn hỏi đại chúng nguyên nhân đạt được đạo, chứng nhập 
				viên thông. Có hai mươi lăm vị Thánh đệ tử Thanh Văn lẫn Bồ Tát 
				lần lượt trình bày về thành quả viên thông ấy, cái nguyên nhân 
				chứng đắc của mình để cho ông A Nan chọn cái nào là viên thông 
				nhất làm nhân địa tu hành. Sáu căn, sáu trần, sáu thức và bảy 
				đại đều là những dữ kiện để đạt đến chứng đắc viên thông và viên 
				thành Thánh quả. Nếu theo thứ tự thì Nhĩ căn viên thông phải 
				được trình bày sau phần nhãn căn viên thông ở đoạn kinh trước. 
				Nhưng vì tầm quan trọng và siêu tuyệt của nó nên Bồ Tát Quán Thế 
				Âm nhĩ căn viên thông được trình bày sau chót vì chỗ chứng đắc 
				của Đức Quán Thế Âm mới là tròn đủ, nhiệm mầu. 
				
				Đối với sáu căn thì 
				căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn 
				thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, 
				văn là nghe, tư là suy nghĩ, nghe rồi suy nghĩ để tu nghĩa là 
				nghe ở tai, suy nghĩ ở tâm và tu trong sự làm thì trí tuệ vô lậu 
				phát sinh mà vào được chánh định. Nghe ở đây là nghe chánh pháp, 
				nghe Phật pháp và suy nghĩ là suy nghĩ đúng với chân lý thì sự 
				thực hành mới có lợi lạc, mới phát sinh trí tuệ sáng suốt. Nhĩ 
				căn viên thông là phương pháp “phản văn văn tự tánh” giúp hành 
				giả dứt vọng trở về chơn nghĩa là không xuôi dòng chạy theo âm 
				thanh mà trở ngược lại tánh nghe tức là từ cái nghe để trở về 
				với tự tánh của mình. Nhập lưu ở đây chính là đi ngược dòng 
				nghiệp thức để quay lại quán tánh nghe. Người thực hành pháp môn 
				này tuyệt đối không dùng tai để nghe vì nếu còn dùng tai để nghe 
				là còn chạy theo âm thanh sắc tướng tức là chạy theo vọng tưởng 
				trần duyên. Đối với âm thanh chẳng nói là nghe mà nói là Quán 
				tức là dùng Trí chiếu soi chớ không dùng Thức Tai mà nghe. 
				
				Vậy Ngài Quán Thế Âm 
				áp dụng nhĩ căn viên thông như thế nào? 
				
				Đức Quán Thế Âm quán 
				cái “tánh nghe” không tăng không giảm, không biến chuyển thay 
				đổi, không sinh diệt và bao trùm khắp mười phương. Ngài quán các 
				tướng động, tĩnh hiện ra trong tánh nghe là huyễn hóa, là không 
				thật vì chúng không có tự tánh, không có chủ thể cho nên Ngài 
				không còn phân biệt thật có năng, có sở mà vào được tánh viên 
				thông. Tánh nghe thì lúc nào cũng có, khi có âm thanh là nghe 
				tiếng còn không có tiếng, vắng lặng là nghe tĩnh đến khi không 
				còn nghe động hay tĩnh tức là dứt được năng văn, sở văn. Khi tai 
				nghe âm thanh động, tĩnh từ bên ngoài (sở văn) thì tâm liền 
				buông bỏ, quên đi sở văn nghĩa là nghe thì cái gì cũng nghe mà 
				thật ra chẳng nghe cái gì hết tức là năng văn, sở văn trở nên 
				vắng lặng, không nghe bên ngoài mà chẳng còn nghe bên trong. 
				
				Mặc dù động, tĩnh vẫn 
				còn nhưng không quan tâm cái gì hết. Muốn thực hành pháp môn Nhĩ 
				căn viên thông được rốt ráo thì trước hết hành giả phải cố gắng 
				thực tập cái nghe. Nghe thì nghe tất cả mà như không nghe gì 
				hết, hay không nghe gì hết mà vẫn nghe tất cả. Đây là cách nhiếp 
				căn tai lại không cho chạy theo thanh trần tức là âm thanh động, 
				tĩnh, thị phi, phải quấy, tốt xấu. hơn thua… bên ngoài. Nên nhớ 
				căn mắt và căn tai là hai cơ quan nhạy bén nhất của con người 
				nên dễ tiếp xúc, cảm nhận và phân biệt trần cấu mà phát sinh ra 
				vọng tưởng. Do đó mắt thì cái gì cũng thấy mà như không thấy gì 
				hết, chẳng cần quan tâm lưu ý cái gì hết thì tâm không động. Và 
				cứ như thế mà thực hành lối tu này thì đến lúc năng văn, sở văn 
				hoàn toàn không còn nữa tức là có được Nhân Không. 
				
				Bây giờ không trụ vào 
				chỗ nghe hay không nghe nghĩa là cái nghe thì đã không nghe rồi, 
				nhưng cái không nghe thì cũng không vương mắt, chấp vào chỗ cái 
				không nghe mà trong ta chỉ còn có một cái tánh giác mà thôi. Nói 
				cách khác trong tâm bấy giờ tất cả những ý niệm cho dù là thiện, 
				ác cũng không còn thì tánh giác xuất hiện. Nhưng nếu hành giả cố 
				giữ ý niệm về giác thì cũng không được mà phải xóa bỏ luôn ý 
				niệm năng giác về mình và sở giác là đối tượng giác mà mình cố 
				giữ gìn, bám vúi vào đó. Sau khi đã xóa bỏ hoàn toàn năng giác, 
				sở giác thì tâm rỗng rang lặng lẽ và thấy vạn pháp như rỗng 
				Không. Rỗng Không là thấy vạn pháp là đối tượng “sở không” còn 
				trí của mình là “năng không” nên mới có sự phân biệt năng không, 
				sở không. 
				
				Sau cùng hành giả phải 
				diệt hết cái biết trống không tức là đừng bám víu 
				vào cái giác tri rỗng không ấy tức năng không, sở không cũng bỏ 
				hết, chẳng còn gì để phân biệt. Năng Không và Sở Không đều diệt 
				mất tức là đã giải thoát khỏi pháp. Sau cùng ý tưởng về sanh 
				diệt cũng diệt luôn nghĩa là dù biết thế giới là sinh sinh diệt 
				diệt, nhưng hành giả phải diệt đi cái quan niệm sinh diệt của 
				vạn pháp chớ đừng thấy vạn pháp sinh mà vui mừng, tham đắm, say 
				mê và vạn pháp diệt thì phiền não, khổ đau. Thí dụ còn thấy mình 
				tu để diệt vô minh phiền não là ý niệm sinh diệt, cần phải diệt 
				vì thế gian chẳng có cái gì là vô minh phiền não cả. 
				
				Nếu tâm không còn dính 
				mắc thì tìm đâu ra phiền não vô minh vì phiền não vô minh đâu có 
				thật! Vì thế nếu hành giả diệt được ý niệm sanh diệt nghĩa là 
				thấu hiểu vạn pháp là vô thường sinh sinh diệt diệt cho dù con 
				người có quan tâm thì nó cũng sinh diệt hay chẳng cần để ý đến 
				thì nó cũng sinh diệt như thường nên họ nhìn vạn pháp một cách 
				trực giác, hồn nhiên thì chính họ sẽ có cái vui tịch diệt. Trong 
				ngũ uẩn thì hành uẩn là cội nguồn phát sinh ra ý niệm, dòng tư 
				tưởng sinh diệt xuất phát từ hành uẩn tuôn chảy không ngừng vì 
				thế nếu không diệt được hành uẩn thì khó kiềm chế ý niệm. Một 
				khi phá được hành uẩn thì dĩ nhiên thức uẩn không còn vì chẳng 
				còn ý niệm gì để phân biệt. Sanh diệt đã diệt thì Tịch Diệt hiện 
				tiền nghĩa là tự tánh Bồ Đề hiển hiện tức là vào Tam-ma-đề, 
				chứng vô sanh pháp nhẫn. Đó là Thường Chân Thật vậy. 
				
				Pháp tu Quán Thế Âm 
				Nhĩ Căn Viên Thông này vô cùng thâm sâu huyền diệu đưa hành giả 
				đạt đến trí tuệ tận cùng và sau cùng chứng được Lăng Nghiêm tam 
				muội để có giải thoát giác ngộ viên mãn. 
				
				Ngày xưa Trí Giả Đại 
				sư của phái Thiên Thai đã nghiêm trì kinh Pháp Hoa đến chỗ tận 
				đỉnh tột cùng, chứng được Pháp Hoa tam muội và nhất triền Đà la 
				ni. Sau khi xuất định, Ngài lập ra môn Tam Chỉ Tam Quán. Về sau 
				có vị Pháp sư người Ấn Độ nghe danh nên đến núi Thiên Thai thăm 
				viếng. Sau khi nghe Trí Giả Đại sư trình bày về môn Tam Chỉ Tam 
				Quán, vị Pháp sư rất ngạc nhiên mà thốt lên rằng pháp môn này 
				cũng giống như kinh Thủ Lăng Nghiêm ở Ấn Độ. Trí Giả Đại sư tuy 
				đã nghiêm trì Phẩm Phổ Môn Quán Thế Âm trong kinh Pháp Hoa đến 
				chỗ cao tột nên Ngài muốn nhờ kinh Thủ Lăng Nghiêm để ấn chứng. 
				Tại sao phải là kinh Lăng Nghiêm? Bởi vì trên thế gian, duy nhất 
				kinh Lăng Nghiêm mới có pháp tu “phản văn văn tự tánh’ của Ngài 
				Quán Thế Âm mà chứng đắc Thủ Lăng Nghiêm tam muội. 
				
				Pháp môn Tam Chỉ Tam 
				Quán dùng “ý thức” để tu tâm, còn kinh Lăng Nghiêm lại dùng 
				“tánh của căn” để tu. Hành giả muốn tu theo pháp môn ‘phản văn 
				văn tự tánh” để có được Thủ Lăng Nghiêm Đại Định thì tuyệt đối 
				không dùng đến tâm thức bởi vì tâm thức phân biệt là cội nguồn 
				của vọng thức chớ không phải chơn tâm. Nhưng nếu cho rằng tâm 
				thức là dẫn dắt đến chỗ vô minh tăm tối nên chúng sinh cố gắng 
				xả bỏ tâm thức tán loạn vọng động để tạo cái tâm an định, tịch 
				tĩnh thì lại bị kẹt vào chỗ chấp. Mà còn chấp là còn dính mắc, 
				không thể có tự tại. Nếu quan niệm rằng cố gắng thiền quán để 
				đưa tâm đến trạng thái tĩnh lặng tức là ý niệm không còn thì sẽ 
				đắc định. Đây chỉ là bước đầu trên con đường giải thoát giác ngộ 
				chớ thật ra cái định đó vẫn chưa thoát ra khỏi khuôn khổ của tâm 
				thức. Do đó, dựa theo kinh Lăng Nghiêm, hành giả phải xả bỏ tâm 
				thức dưới mọi hình thức thì mới hy vọng đạt được tánh định sẵn 
				có của tự tâm. Lúc bấy giờ chúng sinh mới có thể nhận rõ được 
				những thể tánh như nghe, thấy, nếm, ngửi, xúc, biết thường có 
				trong các giác quan của mình. Tánh định này mới thật sự là chơn 
				định. 
				
				Thông thường, chỉ quán 
				là do công phu luyện tập lâu ngày thuần thục mới có thể
				kết hợp được tâm và cảnh nhất như mà không lấy ngay tự 
				tánh sẵn có làm định. Ngược lại, kinh Lăng Nghiêm dùng định viên 
				mãn của tự tâm sẵn có làm “Nhất Thiết Sự Cứu Cánh Kiên Cố” nghĩa 
				là sự bền chắc nhất trong tất cả mọi thứ tức là cứu cánh bậc 
				nhất. Vì thế lối tu “Tự tánh bổn định” này khác hẳn với lối tu 
				tam chỉ tam quán của Ngài Trí Giả Đại sư. Một khi đã nắm được 
				thể tánh chiếu diệu đó, hành giả liền khởi công tu luyện “vi mật 
				quán chiếu” mà không cần lấy tư duy tu tập làm quán. Tại sao? 
				Bởi vì cái định này vốn tự tánh sẵn có, thường hằng, không ngoài 
				tự tánh bất động cùng làm một thể chơn định. Vì sự huyền diệu đó 
				mà Trí Giả Đại Sư rất xúc động khi nghe có kinh Thủ Lăng Nghiêm 
				đang lưu hành mà chính Ngài chưa từng hay biết nên Ngài khát 
				vọng muốn có cơ hội để xem cho được bộ kinh nầy nên hằng ngày 
				hai lần sớm chiều hướng về phương Tây (Ấn Độ) quỳ lạy cầu khẩn 
				liên tiếp trong mười tám năm cho kinh Lăng Nghiêm được sớm 
				truyền bá sang Trung Quốc. Nhưng duyên chưa đến nên Trí Giả Đại 
				Sư viên tịch lúc Ngài 67 tuổi mà vẫn chưa hề thấy, đọc được 
				kinh. 
				
				Con người thường có 
				bệnh chấp nên nói rằng tu hành để diệt vô minh, phá trừ pháp 
				chấp. Nhưng thực ra mê giác là một, không ngoài tham-sân-si thì 
				không có giới-định-tuệ, không có Phật tánh nào khác. 
				
				Có một ông Tướng chán 
				ngán nhân tình thế thái nên đến xin xuất gia với Ngài Đại Huệ : 
				
				
				- Bạch Thầy! Hiện tại con đã trừ sạch niệm hồng trần, xin Thầy 
				từ bi thu nhận con làm đệ tử xuất gia.
				
				Sư bảo : 
				
				- Ông có gia đình, còn 
				tập khí ngoài đời nặng nề nên chưa thể xuất gia, hãy thong thả 
				từ từ. 
				
				Ông thưa : 
				
				- Bạch Thầy! Gia đình, 
				vợ con, thê thiếp, công danh, phú quý con đều bỏ được hết, cúi 
				mong Thầy cho con xuất gia ngay. 
				
				Sư vẫn bảo : 
				
				- Hãy thong thả từ từ. 
				
				Ông đành chờ. Ngày nọ, 
				ông dậy rất sớm vào chánh điện đảnh lễ Phật. Ngài Đại Huệ thấy 
				vậy, liền bảo : 
				
				- Tướng quân vì sao mà 
				dậy sớm đến lễ Phật như thế? 
				
				Ông trả lời bằng bài 
				kệ : 
				
				“Vì trừ lửa trong tâm 
				
				Dậy sớm lễ sư trưởng” 
				
				Sư cũng đối lại : 
				
				“Dậy sớm như thế ấy 
				
				Chẳng sợ vợ ngủ người” 
				
				Ông vừa nghe liền nổi 
				giận bảo : 
				
				- Lão quái này, sao 
				hôm nay nói năng xúc phạm đến người quá vậy? 
				
				Lúc đó, Thiền sư Đại 
				Huệ cười mà bảo rằng : 
				
				“Nhè nhẹ phẩy chiếc 
				quạt 
				
				Tánh lửa đã cháy phừng 
				
				Nóng nảy hừng như thế 
				
				Sao bảo buông xuống 
				xong? 
				
				Đang nổi giận, ông 
				nghe nói vậy chợt bừng tỉnh lại. Do đó khi nổi giận là sân, 
				nhưng khi tỉnh lại là giác. Con người vì mê nên mới khởi 
				tham-sân-si, nếu bây giờ giác được tham-sân-si thì sẽ trở về với 
				tánh giác nhiệm mầu trong sáng sẵn có của chính mình. 
				
				Khi nói mê là mê đối 
				với ngộ, cũng như ngộ là ngộ nơi mê. Nói cách khác do bỏ quên 
				cái ngộ thì mê, nhưng bây giờ rõ mê thì được ngộ. Nhưng mê ngộ 
				không có thật thể cho nên người có chánh kiến biết rõ tâm là 
				rỗng không tức là vượt khỏi mê ngộ. Bình thường, chúng sinh còn 
				thấy có niệm mê, niệm ngộ nghĩa là mình chưa khỏi mê. Cho dù 
				chính mình thấy ngộ được cái mê, nhưng vẫn còn thấy có cái mê để 
				ngộ thì cũng chưa hết mê tức là bởi chưa hết mê nên mới còn thấy 
				cái mê để cho mình ngộ vì thế khi nào còn ý niệm mê ngộ là chưa 
				sạch cái mê. Cũng như hễ có sáng thì không có tối, còn có tối 
				thì không có sáng chớ không phải dùng cái sáng mà soi cái tối 
				được. Thí dụ nếu nói tu hành để có Bồ-đề, Niết bàn nghĩa là còn 
				thấy cái mê để ngộ thì vẫn còn mê vì thật ra Bồ-đề, Niết bàn là 
				tự tánh sẵn có, đâu cần phải tu mới có vì thế người biết đạo thì 
				chỉ cần sống thật với tự tánh thì không tìm ngộ mà cũng chẳng 
				cần bỏ mê thì niệm mê ngộ tan biến, thanh tâm mới hiện bày. 
				
				  
				
				Tổ Đạt Ma dạy rằng : 
				”Khi mê thì có Phật có Pháp, khi ngộ thì không có Phật Pháp”. 
				Như thế khi ngộ thì Phật Pháp bỏ ở đâu mà không có? Chúng sinh 
				vì còn mê mới thấy có Phật, có Pháp ở ngoài tâm nên mới dong 
				ruỗi mong cầu đến khi thức tỉnh giác ngộ thì mới biết rằng tâm 
				mình là Phật, tâm mình là Pháp nên nói không có Phật Pháp là 
				vậy. 
				
				  
				
				Có một vị dũng tướng 
				đến hỏi Thiền sư : 
				
				- Thiên đường, địa 
				ngục là có hay không? 
				
				Sư hỏi : 
				
				- Ông làm nghề gì? 
				
				- Tôi là đại tướng, 
				oai danh lẫm liệt. 
				
				Sư nói : 
				
				- Tướng ông èo uột như 
				thế mà gọi là đại tướng được hay sao? 
				
				Vị tướng nghe nói, mặt 
				bừng bừng sát khí, tay định rút kiếm ra thì Sư mới bảo rằng: 
				
				- Đó chính là cửa địa 
				ngục. 
				
				Vị tướng xấu hổ, chợt 
				tỉnh ngộ, cúi đầu sám hối. 
				
				Thiền sư mĩm cười bảo: 
				
				- Đó, chính đó là cửa 
				thiên đường. 
				
				  
				
				Vậy thiên đường, địa 
				ngục là ngay trong tâm chớ không đâu khác. 
				
				Nên nhớ ngoài tâm 
				không có Phật, ngoài Phật không có tâm. Nhưng khi gọi “Tâm hay 
				Phật” cũng là danh từ đối đãi cho nên nếu chúng sinh còn kẹt 
				trên danh tự thì còn thấy có hai. Do đó, Phật tâm, Phật tánh là 
				cái biết chớ không phải cái có thể nói được. Ngày xưa, cư sĩ 
				Bàng Uẩn làm bài kệ để nói về Phật Bất Động tức Phật A Súc ở 
				phương Đông: 
				
				  
				
				“Thường nghe Phật A 
				Súc 
				
				Nghĩ hướng phương Đông 
				cầu 
				
				Hôm nay xét nét kỹ 
				
				Bất động tự nhiên 
				đến.” 
				
				  
				
				Thông thường chúng 
				sinh nghe Phật A Súc ở phương Đông nên hướng về phương Đông mà 
				cầu để được vãng sinh về cõi đó. Nhưng ông Bàng Uẩn nói rằng một 
				khi tâm mình bất động tức là có thanh tịnh thì Phật Bất Động 
				hiển hiện trong tâm của mình tức là thấy được Phật A Súc mà khỏi 
				cần cầu phương Đông chi cả. 
				
				Đến đây thì tất cả các 
				vọng niệm phân biệt chấp trước đều hết, chơn tâm thanh tịnh tự 
				hiện bày. Đó chính là trừ hết vọng thì chân tánh hiển lộ cũng 
				như mây tan thì có ánh sáng mặt trời thế thôi. 
				
				Lúc ấy thế gian và 
				xuất thế gian đối với Ngài đều sáng tỏ nên Ngài được hai thứ thù 
				thắng tràn đầy sáng suốt: 
				
				  
				
				1) Trên thì khế hợp 
				với giác tâm vốn huyền diệu của mười phương chư Phật đồng một từ 
				tâm quay xuống cứu độ chúng sinh. Tuy Phật độ vô số chúng sinh, 
				nhưng không thấy mình độ và chúng sinh được mình độ tức là không 
				có năng độ, sở độ nên tâm không có sự đối đãi phân biệt nghĩa là 
				không có ta là năng từ bi và không có chúng sinh nhận là sở từ 
				bi nên các Ngài rất tự tại. 
				
				2) Dưới khế hợp với 
				tất cả mười phương chúng sinh lục đạo và đồng một bi ngưỡng với 
				tất cả chúng sinh. Đồng một thể bi là tất cả chúng sinh với Bồ 
				Tát cùng một thân thể nên khổ của chúng sinh là khổ của Bồ Tát 
				và cho dù Bồ Tát có vào đời cứu độ chúng sinh mà không cho ta là 
				năng độ và sở độ là chúng sinh. Nói cách khác, các Ngài đã phá 
				hết các chấp nên không còn năng sở, không còn năng độ và sở độ. 
				Tâm của Bồ Tát hợp với tâm của lục đạo chúng sinh bởi vì trong 
				tất cả mọi chúng sinh, ai ai cũng đều có sẵn Phật tâm, Phật 
				tánh, Bồ Tát tâm, Bồ Tát tánh rồi cho nên ai ai cũng được Bồ Tát 
				thuyết pháp độ tương ứng với khả năng và thỉnh nguyện của mình. 
				Nói cách khác, khả năng thấu hiểu của mình thế nào thì Bồ Tát 
				tùy theo đó mà thuyết pháp độ sanh không một ai bị bỏ rơi cả. 
				
				  
				
				
				DO TỪ TÂM BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM HIỆN RA 32 ỨNG THÂN
				
				
				 
				
				- Bạch Thế Tôn! Do tôi 
				cúng dường Quán Thế Âm Như Lai, được truyền thọ cho tôi “Như 
				huyễn Văn huân Văn tu Kim Cang tam muội” nên thân tôi thành tựu 
				32 ứng thân vào các cõi nước. 
				
				  
				
				Như huyển là không 
				thật, Văn huân là huân tập cái nghe, Văn tu là tu tập dựa theo 
				tánh nghe, Kim Cang tam muội là môn chánh định rắn chắc như kim 
				cương. Vậy Như huyễn Văn huân Văn tu Kim Cang tam muội là pháp 
				môn tu hành của Ngài Quán Thế Âm mà theo đó Ngài huân tập cái 
				nghe là huyển hóa và huân tu dựa theo tánh nghe cũng như huyển, 
				không có gì là thật cả. Nói cách khác nói tu hành là đứng trên 
				văn tự lời nói chớ thật ra chẳng có cái gì là tu hành hết, đừng 
				xem việc tu hành là quan trọng thì đạt được chánh định rất vững 
				chắc, cứng như kim cương vậy. Tại sao? Người tu hành mà còn thấy 
				mình tu hành để cầu mong chứng đắc thì tâm vẫn còn tham, còn 
				dính mắc vì thật ra chẳng có cái gì gọi là chứng đắc cả vì tu 
				hành cốt là để hồi đầu thị ngạn, trở về với bản lai diện mục đã 
				có của mình vì thế mà Tâm Kinh dạy là “vô trí diệt vô đắc” là 
				vậy. 
				
				Phải hiểu rằng phiền 
				não vô minh là huyển, là không thật có. Nó chỉ có đối với những 
				ai còn tham đắm dục tình cho nên nếu chúng sinh biết hóa giải 
				hết tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến thì tìm đâu ra phiền não 
				vô minh! Nhưng người tu hành lại chấp mà cho là thật nên cố tu 
				hành để diệt phiền não, dứt vô minh. Thật là oái 
				oăm 
				lầm lẫn, chúng sinh không lo tu sửa cái nhân mà lại lo diệt trừ 
				cái quả. Vì thế càng tu thì tâm trí càng mờ mịt không biết lối 
				ra. Do vậy Đức Quán Thế Âm muốn nhắn nhủ với chúng sinh là tiếng 
				nghe như huyễn, tu cũng như huyển nghĩa là nghe thì cái gì cũng 
				nghe mà như không nghe cái gì hết tức là đừng chấp âm thanh là 
				thật mà đem vọng tưởng vào tâm và cũng chẳng tu hành gì hết vì 
				nếu nhiếp được nhĩ căn thì tự nó đã hóa giải hết phiền não vô 
				minh rồi chớ không phải mỗi ngày phải tụng bao nhiêu thời, sáng 
				Kim Cang chiều Phổ Môn nửa đêm sám hối mới gọi là tu. 
				
				Do đó Như huyển Văn 
				huân Văn tu là lấy huyển trí mà diệt huyển vô minh. Đây chính là 
				áp dụng triệt để câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Thế gian 
				là huyển, mình là huyển, vạn vật cũng là huyển thì lấy gì để 
				chấp thủ, bám víu, 
				nên tâm dễ dàng buông bỏ. Không dính mắc thì phiền não vô minh 
				không cần diệt mà tự nó tiêu tan biến mất rồi. Đó chính là giác 
				sinh thì mê tự diệt vậy. 
				
				Vì thế nhờ thực hành 
				“Như huyển Văn huân Văn tu” mà Ngài Quán Thế Âm đạt được Kim 
				Cang tam muội tức là vào được vòng viên thông, có chánh định rất 
				vững chắc như kim cương. Khi ấy trên thì đồng một từ lực với chư 
				Phật nghĩa là cái tâm thương yêu tất cả mọi chúng sinh bình 
				đẳng, không phân biệt. Nói cách khác chư Bồ Tát hay chư Phật 
				không chỉ thương người thiện, lánh xa người ác, thương người 
				nghèo khó, bỏ rơi kẻ giàu sang, nhưng dưới tuệ giác của các Ngài 
				tất cả chúng sinh đều bình đẳng như nhau, không sai khác. Dưới 
				khế hợp với tất cả mười phương chúng sinh lục đạo và đồng một bi 
				ngưỡng với tất cả chúng sinh. 
				
				Ngài Quán Thế Âm Bồ 
				Tát tu chứng Vô Duyên Từ Thượng Đẳng Phật cho nên có thể thành 
				tựu 32 ứng thân để hiển bày diệu dụng cùng khắp mười phương mà 
				thuyết pháp độ chúng sinh tùy theo sở thích mà đáp ứng theo yêu 
				cầu của họ. 
				
				Thân ngũ uẩn của chúng 
				sinh là nhục thân do cha mẹ kết hợp mà thành. Đối với các vị Bồ 
				Tát khi đã vào được trong Kim Cang tam muội thì các Ngài được Ý 
				sanh Thân nghĩa là trong khi các Ngài thiền quán thấy có cõi 
				nước nào cần độ thì các Ngài vào trong tam muội dùng ý nguyện mà 
				sinh ra thân. Và thân mà các Ngài vào trong thế giới đó để độ 
				chúng sinh thì gọi là Ứng thân. Thí dụ Đức Phật Thích Ca là ứng 
				thân của Phật trong thế giới Ta bà này. 
				
				Có ba loại Ý Sanh 
				Thân: 
				
				1) Tam Muội Nhạo Ý 
				Sanh Thân: Khi đạt đến đây tức là tương đương với Bát Địa. 
				
				2) Giác Pháp Tự Tánh 
				Tánh Ý Sanh Thân: Từ Cửu Địa đến Đẳng Giác . 
				
				3) Chủng Loại Câu Sanh 
				Vô Hạnh Tác Ý Sanh Thân: Đây là từ Đẳng giác nhập vào địa vị 
				Diệu giác. 
				
				Quán Thế Âm Bồ Tát 
				huân văn huân tu Kim Cang Tam Muội Như Huyễn nên chỉ trong một 
				niệm có thể chứng ngộ Diệu giác. Mà 32 ứng thân tương đương với 
				Câu Sanh Vô Hạnh Tác Ý Sanh Thân. Đây cũng còn được gọi là phổ 
				môn thị hiện. Khi Bồ Tát phá được sắc uẩn, thọ uẩn và tưởng uẩn 
				thì có được cái dụng ứng thân để độ sanh không thể nghĩ bàn. 
				
				  
				
				- Bạch Thế Tôn! 
				
				1. Nếu các Bồ Tát vào 
				Tam-ma-đề tiến tu pháp vô lậu, thắng giải viên mãn, tôi hiện 
				thân Phật vì họ mà thuyết pháp khiến cho được giải thoát. 
				
				  
				
				Ngay cả Bồ Tát hàng 
				Thập Địa sắp thành ngôi Chánh Giác cũng phải nhờ Phật khác 
				thuyết pháp huân tập thêm tánh nghe để đoạn hết sanh tướng, vô 
				minh sau cùng. Do vậy Quán Thế Âm liền hiện thân Phật để nói 
				pháp mà đạt được thắng giải viên mãn tức là trí vô phân biệt căn 
				bản nhất cho người sắp thành Phật. Đây cũng là trí tuệ mà hàng 
				Đẳng giác chứng được từ quán hạnh. Nói cách khác nếu Bồ Tát tâm 
				của chúng sinh mà tu lên cao thì Quán Thế Âm Bồ Tát dùng cái tâm 
				Phật cao hơn một bực để nhắc nhở chúng sinh viên thành Phật đạo. 
				
				  
				
				2. Nếu các hàng hữu 
				học tu pháp tịch tĩnh diệu minh viên mãn, tôi hiện thân Độc giác 
				vì họ mà thuyết pháp. 
				
				  
				
				Bích Chi Phật có hai 
				loại: Một là sanh vào thời không có Phật, xét thấu sự vật biến 
				chuyển mà ngộ đạo. Đây là tự giác Vô Sanh hay gọi là Độc giác. 
				Hai là sanh vào thời có Phật, vâng theo giáo pháp của Phật, xét 
				thấu Nhân Duyên mà ngộ đạo thì gọi là Duyên giác. Họ dựa vào 
				pháp tu Tịch Tịnh Lặng Yên mà đắc, 
				nghĩa là họ đoạn dứt mười hai Nhân Duyên, tứ cái Vô Minh diệt 
				cho đến Khổ Não diệt. Duyên hết thì Chân Tánh hiện bày. Quán Thế 
				Âm Bồ Tát liền hiện thân Độc giác mà thuyết pháp cho họ nghe 
				khiến cho chứng nhập nên gọi là giải thoát. 
				
				  
				
				3. Nếu các hàng hữu 
				học đoạn 12 nhân duyên, phát ra thẳng tánh viên mãn, tôi hiện 
				thân Duyên giác vì họ mà thuyết pháp. 
				
				  
				
				Các vị Độc giác khi 
				nhìn thấy chiếc lá vàng rơi, thấy sự thay đổi vô thường của vạn 
				pháp mà sinh tâm khởi tu. Độc giác là tự ngộ hiện hữu trước mắt 
				còn Duyên giác là nương vào giáo quán 12 nhân duyên làm hai quán 
				môn lưu chuyển và hoàn diệt. 
				
				Vậy thế nào là 12 nhân 
				duyên? 
				
				Thuyết 12 nhân duyên 
				cũng còn được hiểu là thuyết sinh tử luân hồi tức là thuyết tái 
				sinh của chúng sinh. 
				
				Con người từ trong vô 
				thỉ chạy theo Vô Minh si mê tăm tối mà tạo ra những việc thiện, 
				ác tức là Hành (nghiệp) tích tụ trong Tàng thức. Do đó đời quá 
				khứ thì có Vô Minh sinh ra Hành để chuyển qua đời hiện tại. Vậy 
				nó chuyển như thế nào? Nếu chúng sinh còn tạo nghiệp cho dù là 
				thiện hay ác thì bắt buộc phải thọ báo vào đời hiện tại để thọ 
				nhận quả báo lành hay dữ. Khi con người chết đi của đời quá khứ 
				thì thân vật lý tan vở không còn, nhưng Thức (A lại da thức) 
				tiếp tục tồn tại dưới dạng thần thức trong Thân Trung Ấm (thân 
				tư tưởng chớ không có xác thịt). Do tập khí ái nhiễm nên thần 
				thức nhất định phải tìm một cảnh để yêu cho dù xa xôi ngàn dặm, 
				nhưng do chiêu cảm nên thấy rất gần cho nên thấy sáng thì sắc 
				phát hiện. 
				
				Khi chiêu cảm cảnh ái 
				ân, thần thức liền chạy đến chỗ đó và “tưởng” bắt đầu hình 
				thành. Ngay trong lúc nam nữ đang giao cấu thì “tưởng” trong 
				thân trung ấm phát hiện. Nếu thân trung ấm là nam thì ghét cha 
				thương mẹ, nếu thân trung ấm là nữ thì ghét mẹ thương cha. Đó là 
				“dị kiến thành ghét, đồng tưởng thành yêu” và thân trung ấm hấp 
				thụ dòng ái đó mà lưu vào thai mẹ rồi thành chủng tử thọ hình. 
				Khi đã thành chủng tử thọ hình nghĩa là có Danh Sắc tức là mới 
				tượng hình nhưng chưa đủ sáu căn. Do nghiệp ái làm nhân, cảnh ái 
				làm duyên mà ở trong thai cho đến 35 ngày thì lục căn mới đầy đủ 
				và có hình dáng của con người. Thời điểm này gọi là Lục Nhập 
				nghĩa là một cái bào thai tượng hình đã có đủ sáu căn. Khi đứa 
				bé ra đời thì nó biết cảm giác nóng, lạnh, mềm, cứng…
				thì gọi là Xúc. 
				
				Dần theo thời gian đứa 
				bé biết cảm nhận buồn vui, thương ghét, phải quấy, tốt xấu … tức 
				là biết Thọ. Khi đến tuổi trưởng thành, tình yêu nam nữ phát 
				triển, biết thương, biết yêu, biết thích món này, chạy theo vật 
				nọ, mở tung cánh cửa cho tham đắm dục tình tức là Ái. Khi biết 
				thương yêu thì phải đến lúc dựng vợ gả chồng, xây nhà mua xe, 
				tạo dựng tài sản, sinh con đẻ cháu và bảo vệ những cái này thì 
				gọi là Thủ. Một khi có tài sản, có gia đình, có sự nghiệp, có 
				danh vọng thì con người luôn bám víu vào đó, không muốn buông ra 
				bởi vì nó là của “Ta” nên chết sống vì nó thì gọi là Hữu.
				Con người cũng 
				vì mù quáng mà tin rằng thân họ là chắc thật, tài sản vật chất 
				họ có cũng là chắc thật, tiền tài danh vọng chung quanh họ cũng 
				là chắc thật nên càng bám chặt, ôm giữ vào lòng. Nhưng xét cho 
				cùng, trên thế gian đâu có cái gì là chắc thật, bền vững muôn 
				đời? Phật dạy vạn pháp giai không nghĩa là thế gian vũ trụ là 
				giả huyển vì không có cái gì có tự tánh nên nay có mai không, 
				không bền không chắc. Ngày nào mình còn là thanh niên tuấn tú mà 
				bây giờ lưng mỏi gối mềm, da nhăn má hóp, nhớ trước quên sau, ăn 
				không ngon ngủ không yên giấc. Vì vậy trong đời hiện tại chính 
				Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu là những động lực khiến con người tác tạo 
				thêm tội nghiệp để phải chịu tái Sinh cho đời sau để thọ nhận 
				cái vui cái buồn chính mình đã tạo dựng. Cuộc đời là vô thường, 
				sinh trụ dị diệt cho nên có sinh thì phải chịu già (Lão), chịu 
				bệnh và sau cùng là chết (Tử). 
				
				Tóm lại 12 nhân duyên 
				là Vô minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, 
				Hữu, Sinh, Lão-Tử. Vô minh, Hành cho đời quá khứ. Thức, Danh 
				Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu là cho đời hiện tại. Sanh, 
				Lão-Tử cho đời tương lai. Do đó nếu con người có tái sinh, có 
				làm biết bao điều bất thiện cũng phát sinh từ vô minh tăm tối. 
				Vì thế các vị Duyên giác khi khởi tu thì họ đi ngược từ Lão-Tử 
				đến Vô minh và bắt đầu khởi trí dụng công trừ phá vô minh thì 11 
				thành phần nối tiếp tự nhiên bị tiêu diệt mà trở thành Bích Chi 
				Phật. 
				
				Ngài Quán Thế Âm hiện 
				thân Bích Chi Phật để tăng trưởng trí tuệ và khuyến khích họ 
				tiến tu mà hoàn thành Phật đạo. 
				
				  
				
				4. Nếu các hàng hữu 
				học được pháp không của Tứ diệu đế, tu đạo đế, thể nhập diệt đế, 
				thắng tánh viên mãn, tôi hiện thân Thanh Văn vì họ mà thuyết 
				pháp. 
				
				  
				
				Các vị Thanh Văn mà 
				chưa chứng quả A la hán thì gọi là hàng Hữu học. Khi chứng quả A 
				la hán thì gọi là Vô học. Những vị Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na 
				Hàm là những người Hữu học nên họ phải quán “pháp không” để lìa 
				xa ái dục. Tại sao? Vì trước khi xuất gia quy y theo Phật thì ai 
				ai cũng đều vướng vào “pháp có”. Pháp có là có cái gì? Có nhà 
				cửa, danh vọng, tiền bạc, vợ con, gia đình đã hành hạ họ nên họ 
				mới quyết tâm lánh bỏ. Do đó khi quán vạn pháp giai không làm họ 
				nhẹ nhàng buông bỏ những cái có là nguyên nhân của phiền não khổ 
				đau. Khi phá được Kiến hoặc, Tư hoặc thì họ trở thành A la hán, 
				tâm được an tịnh Niết bàn. Do vậy, chí nguyện phá trừ phiền não 
				chướng để có giải thoát cũng như là có Đức Quán Thế Âm hiện thân 
				thuyết pháp giúp họ mau chứng ngộ. 
				
				  
				
				
				5. Nếu chúng sinh muốn tâm tỏ ngộ, không vướng vào ngũ dục, muốn 
				thân được thanh tịnh, tôi hiện thân Phạm Vương vì họ mà thuyết 
				pháp.
				
				
				 
				
				Nếu chúng sinh nhàm 
				chán thế giới này tức là dục giới là khổ, là phiền chướng mà ưa 
				thích cõi trời thanh tịnh thì Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân 
				thuyết pháp xuất nhập định tứ thiền, giúp họ ly dục mà sinh 
				thiên. Đây chính là hiện thân cõi trời sắc giới. 
				
				  
				
				6. Nếu chúng sinh muốn 
				làm thiên chủ thống lãnh chư thiên, tôi hiện thân Đế Thích vì họ 
				mà thuyết pháp. 
				
				  
				
				Trời Đế Thích cũng có 
				nhiều tên như là Thích Đề Hoàn Nhân, Kiều Thi Ca và cung trời 
				Đạo Lợi là ở trên đỉnh núi Tu Di, có bốn phía và mỗi phía có tám 
				cõi trời hợp lại thành 32 cỏi trời. Nếu cộng thêm cõi trời Đạo 
				Lợi thì vua trời Đế Thích cai quản tất cả 33 cõi trời. 
				
				  
				
				Một hôm tôn giả Tu Bồ 
				Đề đang thuyết pháp, vua Đế Thích rải hoa xuống cúng dường. Tôn 
				giả hỏi : 
				
				- Hoa này có phải từ 
				trời? từ đất? hay từ người? 
				
				Đế Thích đáp : 
				
				- Không phải vậy! 
				
				Tu Bồ Đề hỏi : 
				
				- Vậy từ đâu mà có? 
				
				Đế Thích liền đưa tay 
				lên. 
				
				Tôn giả nói : 
				
				- À thì ra như vậy! 
				
				  
				
				Ngày xưa Đức Thế Tôn 
				dùng ngọc Ma Ni chỉ bày cho vua trời ở năm phương. Mỗi vị nói là 
				xanh, vàng, đỏ, trắng. Thế Tôn đưa tay lên mà chỉ bày, thế mà 
				đều không thấy. Thế Tôn dạy rằng: “Ta lấy ngọc thật chỉ bày cho 
				các ông mà đều chẳng biết”. Vua trời ở năm phương liền đó mà ngộ 
				nhập. Vì thế mà Đế Thích đưa tay lên chứng tỏ Vua Trời Đế Thích 
				cũng tỏ hiểu thiền vậy. Đức Thế Tôn đưa tay lên là chỉ bày cái 
				tánh giác thường sáng tỏ của mỗi chúng sinh, đó là tánh thấy, 
				tánh nghe, tánh ngửi…
				không có đối 
				đãi phân biệt xanh, đỏ, trắng, vàng. 
				
				Trên cõi trời Đạo Lợi 
				có vua Đế Thích quản trị tất cả 33 cỏi trời do đó nếu chúng sinh 
				muốn làm chủ các cõi trời thì Ngài Quán Thế Âm thị hiện thuyết 
				pháp thượng phẩm thượng thiện giúp họ thành tựu chí nguyện. 
				
				  
				
				7. Nếu chúng sinh muốn 
				thân được tự tại dạo khắp mười phương, tôi hiện thân Tự Tại 
				Thiên vì họ mà thuyết pháp. 
				
				  
				
				Tự Tại Thiên tức là 
				Trời Tha Hóa Tự Tại. Trên cõi trời Tha Hóa có ma Ba Tuần. Loại 
				ma này có nhiều phước đức nên được hưởng nhiều ngũ dục lạc. Họ 
				có thần thông, nhưng tâm không thiện nên thường quấy phá hay gây 
				những chướng ngại cho người tu hành cao. 
				
				  
				
				Tôn giả Ưu Ba Cúc Đa 
				hành hóa khắp nơi, độ cho không biết bao nhiêu người. Phước đức 
				quá to lớn chấn động cả cung ma khiến ma Ba Tuần lo sợ nên dùng 
				hết ma lực để phá trừ chánh pháp. Tôn giả nhập định, biết được 
				Ma Ba Tuần lén cầm chuỗi ngọc tròng vào cổ Ngài. Tôn giả xuất 
				định bèn lấy ba thây chết của người, chó và rắn hóa phép biến 
				thành tràng hoa. Khi gặp Ba Tuần, Ngài nói: 
				
				- Ông cho tôi chuỗi 
				ngọc, thật là đẹp quý. Tôi có tràng hoa để dâng đáp nhau. 
				
				Ba Tuần rất mừng đưa 
				cổ ra nhận bỗng nhiên tràng hoa biến thành ba thây chết có giòi, 
				bọ sình thối bò lúc nhúc. Ba Tuần cả sợ, ghê tởm, dùng hết thần 
				lực mà không bứt nổi tràng hoa nên bay thẳng lên cõi trời Lục 
				Dục cầu xin Phạm Vương cấp cứu. 
				
				Phạm Vương nói : 
				
				- Nếu ông hồi tâm với 
				Tôn giả thì có thể giải được. 
				
				Ba Tuần hỏi : 
				
				- Thế thì làm sao? 
				
				Phạm Vương bèn đọc cho 
				bài kệ: 
				
				“Đã do đất trợt té 
				
				Phải do đất đứng dậy 
				
				Lìa đất cầu đứng dậy 
				
				Làm gì có lý ấy?” 
				
				Ba Tuần nghe dạy rồi, 
				liền xuống khỏi cung trời, đảnh lễ dưới chân Tôn Giả, tha thiết 
				sám hối: 
				
				- Tôi thề hồi hướng 
				Phật đạo, vĩnh viễn dứt lìa điều ác. 
				
				Tràng hoa tức thì tan 
				biến, Thiên ma Ba Tuần vui vẻ làm lễ tôn giả mà nói bài kệ rằng 
				: 
				
				“Kính lạy Đấng Tam 
				Muội 
				
				Đệ tử Thánh Mười Lực 
				
				Tôi nay nguyện hồi 
				hướng 
				
				Chẳng còn sự yếu hèn”. 
				
				Do đó nếu chúng sinh 
				muốn thân được tự tại dạo khắp mười phương thì Quán Thế Âm Bồ 
				Tát hiện thân làm Trời Tha Hóa để thuyết pháp khiến cho họ được 
				toại nguyện. 
				
				  
				
				8. Nếu chúng sinh muốn 
				thân được tự tại, bay đi trên hư không, tôi hiện thân Đại Tự Tại 
				Thiên vì họ mà thuyết pháp. 
				
				  
				
				Trời Đại Tự Tại tức là 
				Ma Hê Thủ La Thiên có ba mắt tám tay, cỡi trâu trắng, cầm phất 
				trắng ở đỉnh cõi sắc nên bay đi trên hư không. 
				
				  
				
				9. Nếu có chúng sinh 
				thích thống lãnh quỷ thần cứu quốc hộ dân, tôi hiện thân Thiên 
				Đại Tướng Quân, vì họ mà thuyết pháp. 
				
				  
				
				10. Nếu có chúng sinh 
				thống lãnh quỷ thần, cứu giúp cõi nước, tôi hiện thân Thiên Đại 
				Tướng Quân vì họ mà thuyết pháp. 
				
				  
				
				11. Nếu chúng sinh 
				muốn sinh ở thiên cung, tôi hiện thân Thái tử, con Thiên Tứ 
				Vương vì họ mà thuyết pháp. 
				
				  
				
				Thiên Đại tướng quân 
				là thượng tướng của trời Đế Thích. Trong 32 cõi trời thì mỗi vị 
				Thiên Đại tướng quân thống lãnh quỷ thần bảo hộ tứ phương. Tứ 
				Thiên Vương là cõi trời đầu tiên của Dục giới. Bồ Tát hiện thân 
				giống vậy khiến cho họ được thành tựu rồi sau đó mới giúp họ 
				thoát ly. 
				
				  
				
				12. Nếu các chúng sinh 
				muốn làm vua cõi người, tôi hiện thân Vua vì họ mà thuyết pháp. 
				
				  
				
				Bồ tát hiện thân vua 
				cõi người. Mà vua chính là vãng tức là chỗ quay về, là nơi mọi 
				người đều quay về. 
				
				  
				
				13. Nếu chúng sinh 
				muốn làm chủ gia đình danh tiếng, thế gian kính nhường, tôi hiện 
				thân Trưởng giả vì họ mà thuyết pháp. 
				
				  
				
				Trưởng giả là những 
				người có địa vị cao cả, nhiều tiền lắm của, oai nghiêm đĩnh đạc, 
				trí tuệ cao thâm, tuổi thọ lâu dài, phẩm hạnh thanh cao, lễ nghi 
				chuẩn mực, trên được vua kính dưới được người nể phục. 
				
				  
				
				14. Nếu các chúng sinh 
				thích luận lời hay, giữ mình trong sạch tôi hiện thân Cư sĩ vì 
				họ mà thuyết pháp. 
				
				  
				
				Cư sĩ là những người 
				nghe rộng hiểu nhiều chẳng cầu quan tước, ẩn cư giữ chí liêm 
				khiết. 
				
				  
				
				15. Nếu các chúng sinh 
				muốn kinh bang tế thế, tôi hiện thân Tể quan vì họ mà thuyết 
				pháp. 
				
				  
				
				Tể quan là người chấp 
				chánh, trị việc an dân, phán xét xử lý mọi việc công minh liêm 
				chánh. 
				
				  
				
				16. Nếu các chúng sinh 
				thích chú thuật toán số, thu nhiếp nhân tâm, tôi hiện thân Bà la 
				môn vì họ mà thuyết pháp. 
				
				  
				
				Bà la môn là dòng cao 
				quý trong xã hội Ấn Độ. Họ thông suốt tất cả mọi thứ như chú 
				cấm, toán số, nghệ thuật, điều dưỡng. 
				
				  
				
				17. Nếu các thiện nam 
				muốn xuất gia tu học, tôi hiện thân tỳ kheo vì họ mà thuyết 
				pháp. 
				
				18. Nếu có người tín 
				nữ muốn xuất gia, tôi hiện thân tỳ kheo ni vì họ mà thuyết pháp. 
				
				19. Nếu có người thiện 
				nam muốn giữ giới tu hành, tôi hiện thân ưu bà tắc vì họ mà 
				thuyết pháp. 
				
				20. Nếu có người tín 
				nữ, muốn thọ năm giới tập tu, tôi hiện thân ưu bà di vì họ mà 
				thuyết pháp. 
				
				21. Nếu có người nữ 
				thích đường chính trị phụ quốc an bang, tôi hiện thân là mệnh 
				phụ phu nhân, thân nữ chúa vì họ mà thuyết pháp. 
				
				22. Nếu chúng sinh nam 
				căn chưa ô nhiễm, tôi hiện thân là đồng nam vì họ mà thuyết 
				pháp. 
				
				  
				
				Đồng nam là những 
				người con trai không dính mắc chuyện nam nữ, quyết tâm tu hành 
				từ lúc nhỏ. 
				
				  
				
				23. Nếu có người nữ 
				thích thân xử nữ, tôi hiện thân là đồng nữ vì họ mà thuyết pháp. 
				
				24. Nếu có hàng chư 
				thiên muốn ra khỏi loài trời, tôi hiện thân chư Thiên vì họ mà 
				thuyết pháp. 
				
				25. Nếu có rồng muốn 
				ra khỏi loài rồng, tôi hiện thân rồng vì họ mà thuyết pháp. 
				
				26. Nếu có dạ xoa muốn 
				ra khỏi loài mình, tôi hiện thân dược xoa vì họ mà thuyết pháp. 
				
				27. Nếu có càn thát bà 
				muốn thoát khỏi loài mình, tôi hiện thân càn thát bà vì họ mà 
				thuyết pháp. 
				
				28. Nếu có A tu la 
				muốn ra khỏi loài mình, tôi hiện thân A tu la vì họ mà thuyết 
				pháp. 
				
				29. Nếu có khẩn na la 
				muốn thoát khỏi loài mình, tôi hiện thân khẩn na la vì họ mà 
				thuyết pháp. 
				
				30. Nếu có Ma hầu la 
				muốn thoát khỏi loài mình, tôi hiện thân ma hầu la vì họ mà 
				thuyết pháp. 
				
				31. Nếu có chúng sinh 
				thích làm người, tôi hiện thân người vì họ mà thuyết pháp. 
				
				32. Nếu có loài phi 
				nhân hoặc có hình hoặc không hình, hoặc có tưởng hoặc không 
				tưởng, muốn thoát khỏi loài mình, tôi hiện thân như họ vì họ mà 
				thuyết pháp. 
				
				  
				
				Đó là 32 ứng thân 
				nhiệm mầu có thể hiện vào các cõi nước trong mười phương, do kết 
				quả của “Văn huân Văn tu tam muội” mà thành tựu sức nhiệm mầu 
				“vô tác” như vậy. 
				
				  
				
				Phẩm Phổ Môn có câu: 
				“Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát này, dầu vào 
				trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được vì do sức oai thần của Bồ Tát 
				này được như vậy”. Vậy khi thấy có căn nhà đang cháy lớn, quý vị 
				niệm Quán Thế Âm rồi chạy vào trong đó thì thân có bị cháy 
				không? Nếu thân bị cháy thành tro thì không lẽ lời Phật không 
				đúng? Lại còn một đoạn nữa: “Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh 
				hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát liền được chỗ cạn”. Vậy những người đi 
				biển, gặp sóng gió phong ba nếu họ niệm danh hiệu Bồ Tát thì tất 
				cả đều được bình yên? Nếu cầu Đức Quán Thế Âm mà cái gì cũng 
				được độ thì thế gian làm gì còn nghèo khổ, bệnh tật, tai nạn, 
				thiên tai, bảo lụt, động đất, chiến tranh, giết chóc…? 
				
				Lời Phật dạy không 
				sai, chỉ vì chúng sinh hiểu chưa thấu nên áp dụng sai lầm. Bởi 
				vì nếu hiểu theo “sự tướng” thì làm sao thành tựu được, chẳng 
				những không được mà còn rơi vào mê tín dị đoan trái với luật 
				nhân quả khách quan của nhà Phật. Nhưng thành tựu ở đây là Phật 
				nói về Lý Tánh. Lối tu của Ngài Quán Thế Âm là “phản văn văn tự 
				tánh” nghĩa là xoay lại tánh nghe của mình. Mà tánh nghe là cái 
				thể chân thật của mỗi người, không có hình dáng, tướng mạo. Nếu 
				đã không có hình dáng tướng mạo thì lửa làm sao đốt hay nước nào 
				nhận chìm được. Vì vậy niệm Quán Thế Âm tức là lắng nghe tánh 
				nghe của chính mình mà quay về với chơn tâm thường trú và thể 
				tánh tịnh minh thì mọi chướng nạn của lửa, nước đều qua khỏi. 
				
				Kinh dạy rằng Ngài Bồ 
				Tát Quán Thế Âm hiện 32 ứng thân để vào các cõi mà thuyết pháp 
				cho chúng sinh tùy theo sở cầu của họ. Khi chúng sinh biết xoay 
				tánh nghe vào trong để nghe lắng tiếng nói DIỆU ÂM thanh tịnh 
				của tâm mình thì họ đạt được sự thanh tịnh và chính vào thời 
				điểm ấy Đức Quán Thế Âm thị hiện. Nhưng Đức Quán Thế Âm thị hiện 
				theo thâm ý của kinh không phải bằng 32 hình tướng hữu hình hữu 
				sắc mà Ngài ứng hiện trong bản tâm của 32 hình tướng đó để giúp 
				chúng sinh hoàn thành những ước vọng của mình. Khi nói Đức Quán 
				Thế Âm thị hiện là sự phát khởi từ nơi bản tâm của chúng sinh 
				chớ Ngài thật sự không thị hiện trên cõi đời này. 
				
				Vì thế từ những bậc 
				thượng căn phát tâm tu hành cầu thành Phật quả cho đến những kẻ 
				hạ trí, nhơn và phi nhơn đều có khả năng quán niệm về âm văn để 
				tự mình có được an vui tự tại. Do đó nếu muốn đi trên con đường 
				giải thoát giác ngộ, muốn chuyển hóa mình trên đường tu tập thì 
				trong họ đã có tâm niệm Quán Thế Âm Bồ Tát tương ứng với tâm 
				niệm của họ rồi. Nói rộng ra tâm niệm chúng sinh là vô lượng vô 
				biên chớ đâu nhất thiết chỉ có 32. Thí dụ ngày xưa chưa biết đạo 
				thì còn đi săn bắn, câu cá làm trò tiêu khiển. Bây giờ hiểu đạo 
				biết đó là nghiệp sát sanh nên phát sinh tâm niệm lành nên không 
				còn tâm săn bắn sát hại. Thế thì ý niệm đó tức là Quán Thế Âm Bồ 
				Tát coi như đã hiện thân trong thân người đó để độ cho người đó 
				rồi. Tại sao? 
				
				Bởi vì không sát sinh 
				thì tâm yên tịnh, không lo lắng, khỏi lo vay trả, trả vay nợ 
				thân mạng cho đời sau nên có cuộc sống nhẹ nhàng thoải mái tức 
				là Bồ Tát đã độ rồi. Một thí dụ khác là người Phật tử thường thọ 
				ngũ giới, nhưng phần lớn chỉ thọ trên hình thức chớ ít khi thực 
				hành rốt ráo. Bây giờ thức tỉnh nên xa lìa trộm cắp, tà dâm, dối 
				trá, giết người, say rượu. Khi biết giữ gìn không cho sai phạm 
				nghĩa là chính mình tự lắng nghe lòng mình để quán bằng cái trí 
				mà soi xét những hành động, lời nói của mình cho đúng với đạo 
				lý. Tiếng nói của chí thiện chính là Quán Thế Âm Bồ Tát đã hiện 
				vào trong ta để nói pháp cho mình rồi đó. Cao hơn nữa thì nếu 
				chúng sinh nguyện tu theo thập thiện thì phải tự kiểm điểm lại 
				mình để soi xét mình có tái phạm điều nào chăng. Đây chính là 
				Quán Thế Âm đã hiện thân vào trong họ để nói pháp độ cho họ rồi. 
				Cứ thế mà áp dụng cho các vị trong hàng Thanh Văn, Duyên Giác và 
				sau cùng chư Bồ Tát cho đến khi tất cả cùng đạt thành ý nguyện. 
				
				  
				
				
				33. Vậy Quán Thế Âm là nghe tiếng lòng của mình tự nói cho mình 
				để thanh lọc bỏ đi những niệm bất thiện và thực hành nghe theo 
				niệm thiện cho nên tuy nói Ngài hiện 32 ứng thân mà khỏi cần 
				khởi tâm động niệm tức là không tác ý mà chỉ dùng sức vô tác (Vô 
				tác diệu lực) nghĩa là bằng sức mầu nhiệm “không có làm”. Không 
				tác ý tức là Bát Nhã nghĩa là trí tuệ. Thông thường trí tuệ của 
				thế gian phải có tác ý của bộ óc, nhưng ở đây trí tuệ của Ngài 
				Quán Thế Âm khỏi cần tác ý bởi vì nó vốn như vậy, như hư không 
				chẳng động. Tuy nói hiện thân, nhưng thật ra chẳng dụng công, 
				hóa phép, hóa hiện ra thân. Tuy nói thuyết pháp kỳ thật chẳng 
				tốn một tí hơi và chẳng có một âm thanh nào vang dội. Do đó, 
				Quán Thế Âm hiện thân bằng chính bản thân của mọi người và Ngài 
				thuyết pháp bằng chính âm thanh thanh tịnh trong tâm trong sáng 
				của mọi người nếu họ biết sử dụng tánh nghe của họ một 
				cách rốt ráo.
				
				
				 
				
				Vì vậy tu pháp quán 
				hiện Quán Thế Âm là một phương pháp thực hành thiền định. Thiền 
				định ở đây là thường tư duy, soi chiếu vào tâm mà lắng nghe 
				tiếng nói thanh tịnh của lòng mình để điều chỉnh hoàn mãn thân 
				khẩu ý của mình. Vì thế không có vấn đề van xin cầu nguyện trong 
				pháp tu này. Không riêng gì pháp tu Quán Thế Âm phản văn văn tự 
				tánh mà ngay cả pháp tu Đại Thế Chí niệm Phật viên thông thì sự 
				thành tựu hay không đều do khả năng tự lực của mình chớ không do 
				bất cứ tha lực nào. 
				
				  
				
				Ngày xưa ở Trung Hoa 
				có vị Thiền sư rất nổi tiếng tên là Tỉnh Công nhằm lúc gặp một 
				vị tôn túc Trưởng lão với mấy lời khuyên là : 
				
				- Ngày nào đó khi ông 
				ra hoằng hóa, dưới tòa tuy có đến 1,000 tăng chúng, nhưng không 
				có kẻ nào là bậc (chân chánh) tu hành cả. 
				
				Quả nhiên, Ngài Tỉnh 
				Công về trụ trì ở một ngôi chùa rất lớn, tăng chúng quy tụ về tu 
				có đến ngàn người. Nhưng chỉ toàn là hạng tụng kinh để gieo căn 
				lành, phước báu ở tương lai chớ không có vị nào tham thiền ngộ 
				đạo được. 
				
				  
				
				Tại sao trong chùa có 
				trên 1000,
				vị tăng mà vị 
				Trưởng lão kia lại nói “không có kẻ nào là bậc xuất gia”?. 
				
				Xuất gia dựa theo tinh 
				thần Phật giáo là phải : 
				
				- Xuất ra khỏi nhà tam 
				giới tức là giải thoát ra khỏi dục giới, sắc giới và vô sắc giới 
				nghĩa là không còn tham, không còn sân, không còn si, không còn 
				sống với ảo tưởng hoang đường. 
				
				- Ra khỏi nhà vô minh 
				tăm tối tức là có trí tuệ viên mãn. 
				
				Hoặc ít ra cũng : 
				
				- Ra khỏi nhà phiền 
				não thế tục. 
				
				Chớ không phải vào 
				chùa cạo đầu, mặc áo cà sa là đủ. 
				
				Vì thế đạo Phật chú 
				trọng vào thực hành, thiền quán, tư duy tĩnh lự để khai tâm mở 
				tánh và sau cùng nghiệm chứng được chân lý huyền diệu nhiệm mầu 
				cho nên ngày xưa Đức Phật và tất cả đệ tử của Ngài mỗi người ở 
				mỗi nơi yên tĩnh để tịnh tâm mà không hề tụng kinh gõ mõ. Tại 
				sao lại không tụng kinh? Bởi vì tụng kinh gõ mõ là tâm còn duyên 
				theo âm thanh sắc tướng tức là tâm còn vọng ngoại thì không đạt 
				được trạng thái yên tĩnh, vắng lặng nên khó mà có định được. 
				
				  
				
				
				DO BI TÂM BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM THÀNH TỰU 14 ĐỨC VÔ ÚY
				
				
				 
				
				- Bạch Thế Tôn! Do vô 
				tác diệu lực VĂN HUÂN VĂN TU Kim Cang tam muội cho nên tôi và 
				tất cả lục đạo chúng sinh trong mười phương ba đời cùng có một 
				bi tâm hướng thượng cho nên tôi và tất cả chúng sinh thành tựu 
				được 14 thứ công đức vô úy 
				
				  
				
				Khi hành giả quán đến 
				chỗ Vô tác diệu lực nghĩa là lắng nghe âm thanh, tiếng lòng 
				thanh tịnh của mình đến trình độ không cần loại bỏ những tâm 
				niệm xấu ác nữa mà tự nó đã xóa sạch hết những điều xấu ác, bất 
				thiện. Lúc đầu trong tâm còn có sự phân biệt thiện ác nên hành 
				giả loại bỏ những ý niệm ác và chỉ giữ lại những tâm niệm lành. 
				Mà còn loại cái này lấy cái kia tức là còn dụng công, tác ý. Bây 
				giờ hành giả thường tu tập, thường quán niệm thì trong tâm phần 
				ác niệm biến mất cho nên cũng lắng nghe tiếng lòng mầu nhiệm của 
				mình nhưng nó trở thành rất thanh tịnh. 
				
				Hành giả không còn 
				quan tâm loại bỏ những tư tưởng thuộc về “ý ác, nói ác, làm ác” 
				và cũng không còn nắm giữ những “ý thiện, nói thiện, làm thiện” 
				nữa mà tự nó trong sáng thanh tịnh tức là đã thiện rồi. Khi đạt 
				đến trình độ này thì gọi là Vô tác diệu lực. Thí dụ, em bé vừa 
				mới học đi nên sợ té cho nên tay nắm bên này bên kia, rất cực 
				khổ. Đến khi biết đi thì cứ thong dong tiến bước mà không lo 
				nghĩ té ngã chi hết thì đây là vô tác diệu lực. Người tu cũng 
				thế. Khi tâm còn phân biệt thiện ác nên lúc nào cũng canh phòng 
				cẩn mật, cố làm việc thiện, lánh xa việc dữ nên cuộc sống rất 
				khó khăn, không tự tại. Bây giờ nếu tâm đã sáng suốt thanh tịnh 
				thì tất cả đều thiện tức là có tư tưởng lành, lời nói thiện, 
				hành động tốt mà không cần đề phòng cẩn mật chi hết. 
				
				Vô tác diệu lực Văn 
				huân Văn tu là nghe âm thanh của nội tâm mình rồi tư duy và quán 
				niệm. Cho nên tam muội của Bồ Tát chính là Nghiệp dụng của chúng 
				sinh và bi ngưỡng của chúng sinh chính là bi ngưỡng của Bồ Tát. 
				Vì thế mà Bồ Tát có thể khiến cho tất cả chúng sinh có được 14 
				món công đức vô úy để chúng sinh xa lìa những khổ nạn mà không 
				cần tác ý gì cả. 
				
				  
				
				1) Tôi không quán âm 
				thanh đối tượng mà tôi quán cái tâm năng quán của mình, khiến 
				cho chúng sinh khổ não trong mười phương quán âm thanh như vậy 
				thì được giải thoát. 
				
				  
				
				Quán âm thanh đối 
				tượng bên ngoài thì âm thanh này không phải là diệu âm. Chỉ có 
				âm thanh phát xuất từ tấm lòng của chính mình thì mới là diệu 
				âm. Diệu âm tức là Quán Thế Âm, là Hải Triều Âm là tiếng Pháp tự 
				nói trong lòng của mình. Chúng sinh tự nghe rồi huân tập mà tu 
				lấy để sửa lại cho tâm được thanh tịnh. Tránh điều ác nghĩ điều 
				lành cho đến khi không còn tránh ác phục thiện thì đạt được vô 
				tác diệu lực tức là tự nó có thanh tịnh nghĩa là có giải thoát. 
				Ngày nay có rất nhiều người nghĩ rằng bây giờ cố gắng tu hành để 
				kiếp sau được vãng sanh sang thế giới này hay thế giới nọ. Thật 
				ra vãng sanh là chuyển sang đời sống không còn bị khổ đau quấy 
				phá tức là có được an lạc. Thí dụ hiện tại mình đang bị tham đắm 
				dục tình hành hạ làm cho ưu bi phiền não luôn dấy khởi. 
				
				Bây giờ hiểu đạo, 
				không chạy theo tham sân si thì phiền não tiêu trừ, thân tâm 
				được an ổn nghĩa là mình đã chuyển sang một cuộc sống tốt hơn, 
				nhẹ nhàng thanh tịnh hơn tức là mình đã được vãng sanh rồi. Kiếp 
				này mình có an lạc thì chắc chắn kiếp sau cũng tiếp tục có an 
				lạc. Còn kiếp này sống trong điên đảo, mê lầm chấp trước thì làm 
				sao kiếp sao có được an lạc? Nhân không tốt thì quả làm sao lành 
				được? Do đó con người ngay bây giờ phải tạo điều kiện cho mình 
				được vãng sanh cực lạc ngay trong cái thế giới có ăn, có ngủ, có 
				đứng, có ngồi này chớ đừng mơ tưởng ảo huyền trông chờ mong đợi 
				vào cõi nào mà không chịu lo tu sửa. 
				
				  
				
				2.Tôi xoay tri kiến 
				của mình soi rọi nội tâm, khiến chúng sinh dù vào trong lửa mà 
				lửa không đốt cháy. 
				
				  
				
				Xoay tri kiến của mình 
				soi rọi nội tâm có nghĩa là lắng nghe tiếng lòng thanh tịnh mầu 
				nhiệm của mình. Khi đã nghe được tiếng nói thanh tịnh của lòng 
				mình thì những vẩn đục như tham, sân, si biến mất do đó lửa dâm, 
				lửa sân, lửa tham đắm si mê, lửa hận thù không thể nào đốt cháy 
				được. Con người hằng ngày vì chạy theo tham đắm dục tình, làm nô 
				lệ cho tư kỷ cá nhân nên mới bị lửa vô minh đốt cháy. Ngược lại 
				người có tâm thanh tịnh tức là họ đang sống với tánh giác hằng 
				sáng của họ thì lửa vô minh bị dập tắt và lửa tham, lửa sân, lửa 
				si cũng tiêu tan, biến mất. Cho nên họ có vào trong lửa mà không 
				bị đốt cháy nghĩa là tuy sống trong chốn bụi trần mà không hề bị 
				đắm nhiễm. 
				
				Vì thế người nào đang 
				giận hờn ai, nghĩa là lửa sân đang ầm ỉ tự đốt cháy lòng mình. 
				Thấy nhà đẹp cao sang, xe bóng lộn mắc tiền liền khởi tâm tham 
				đắm tức là lửa tham đang bừng cháy trong tâm của ta rồi. Thế 
				gian là giả tạm mà thấy cái gì cũng mê cũng thích cũng muốn 
				chiếm hữu tức là lửa si đang bừng cháy trong lòng của ta đó. 
				Kinh điển Đại thừa dạy về Lý Tánh cho nên đừng hiểu cạn cợt về 
				Sự Tướng mà áp dụng sai lầm cho nên nếu thấy nhà đang cháy, tiếc 
				của nên niệm Quán Thế Âm rồi chạy vào trong đó thì chắc chắn quý 
				vị sẽ cháy thành tro. Vì vậy người đệ tử Phật phải sáng suốt 
				biết rằng “lửa” trong kinh là ám chỉ cho “lửa lòng” tức là lửa 
				tham, lửa sân, lửa si, lửa vô minh, lửa phiền não chớ không phải 
				lửa lò, lửa than, lửa nhà cháy. 
				
				  
				
				3.Tôi quán tánh nghe 
				xoay vào nội tâm, khiến chúng sinh dù có bị nước to cuốn đi mà 
				không hề bị chìm đắm. 
				
				  
				
				Nếu biết xoay tánh 
				nghe vào nội tâm để lắng nghe tiếng nói thanh tịnh của tâm mình 
				tức là mình làm chủ được mình thì những chướng ngại như nước ái, 
				nước nhẹ dạ yếu lòng, nước yêu thương mù quáng làm sao cuốn ta 
				theo được. Nói cách khác con người biết tự chủ tức là sống với 
				trí tuệ hằng sáng của mình thì có thể san bằng tất cả mọi chướng 
				ngại. Ngược lại nếu sống theo tình cảm yếu đuối thì bị dòng nước 
				thế gian cuốn đi, chìm đắm trong biển ái sông mê. Do đó Phật 
				pháp giúp chúng sinh hóa giải dần dần những mê chấp, xa lìa tình 
				cảm chủ quan yếu đuối sai lầm mà bồi dưỡng và sống với trí tuệ 
				khách quan. Cuộc đổi đời năm 1975 lúc làn sóng người tỵ nạn Việt 
				Nam trên những chiếc thuyền đánh cá nhỏ nhấp nhô lênh đênh bồng 
				bềnh trên mặt biển và có những câu chuyện nói về Đức Quán Thế Âm 
				Bồ Tát hiện ra để cứu vớt một vài chiếc thuyền khỏi bị đắm chìm. 
				
				Đây quả thật là chuyện 
				nhiệm mầu làm tăng trưởng niềm tin nơi Phật pháp. Bởi vì Quán 
				Thế Âm là biểu tượng cho lòng đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn cho 
				tất cả chúng sinh và cái Tâm đại từ đại bi của Bồ Tát thật ra 
				không hề có phân biệt, rất bình đẳng. Vì thế khi có chúng sinh 
				gặp nạn thì Ngài phải cứu cho dù người đó có niệm danh hiệu Ngài 
				hay không. Thế thì tại sao có hàng ngàn chiếc tàu đánh cá gặp 
				nạn trên biển Thái Bình Dương mà Bồ Tát chỉ cứu một vài chiếc và 
				để cho biết bao chiếc tàu khác chìm sâu dưới lòng đại dương? Nếu 
				niệm Đức Quán Thế Âm để được độ thì Ngài phải độ cho tất cả 
				những chiếc thuyền và đưa họ vào bờ bình an, không để cho một 
				chiếc nào bị sóng đánh tan cả. 
				
				Nhưng trên thực tế vô 
				số chiếc tàu niệm Quán Thế Âm mà vẫn bị chết chìm. Theo thống kê 
				của Liên Hiệp Quốc thì có trên 50% người vượt biên bằng đường 
				biển không đến được bờ tự do. Vậy không lẽ Bồ Tát lại thương 
				người này bỏ người kia? Quán Thế Âm là vị Đẳng Giác Bồ Tát sắp 
				thành Phật mà lại có tâm phân biệt hay sao? Lời Phật dạy là chân 
				lý, không bao giờ sai cả chỉ vì chúng sinh hiểu không thấu đáo 
				chỉ nhìn theo tướng trạng bên ngoài mà áp dụng sai lầm nên dễ 
				rơi vào mê tín dị đoan trái với luật nhân quả khách quan của nhà 
				Phật. Tin tưởng sai lầm còn tệ hại hơn là không tin tưởng gì 
				hết. 
				
				Quán Thế Âm là phương 
				pháp quán niệm để tu mà có giải thoát giác ngộ chớ không phải 
				Quán Thế Âm là người đi làm công tác từ thiện nên không có việc 
				thương người này bỏ người kia. Vì thế chúng sinh tuy có niệm 
				Quán Thế Âm mà không chịu soi chiếu để lắng nghe tiếng nói thanh 
				tịnh của tâm mình thì những tâm niệm kia chỉ là biểu tượng của 
				lòng mong cầu tức là tâm vẫn còn tham thì không có kết quả chi 
				hết. Nói cách khác khi nói niệm Đức Quán Thế Âm phải được hiểu 
				là xoay cái nghe từ bên ngoài mà hướng về tánh nghe vốn thanh 
				tịnh trong sáng sẵn có của mình thì tất cả những phiền não, khổ 
				đau sẽ tan biến. 
				
				Do đó nếu thật sự Ngài 
				Quán Thế Âm có độ thì hễ chúng sinh cần độ thì Ngài độ ngay, 
				thậm chí cả những người không niệm, Ngài vẫn độ, tức là Ngài 
				không để cho chiếc thuyền nào bị đắm chìm cả. Không lẽ Bồ Tát 
				thấy hàng trăm, hàng vạn người sắp chết mà không cứu? Vậy lúc 
				những người sắp chết đuối Bồ Tát ở đâu? Đức Quán Thế Âm có thiên 
				thủ thiên nhãn thì không lẽ Ngài không nghe được những lời cầu 
				cứu ưu bi đó hay sao? Đến đây có người thắc mắc rằng rõ ràng có 
				những chiếc thuyền được cứu thì Ngài không độ là gì? Đức Phật 
				Thích Ca không phải là đấng thần linh cho nên chữ “độ” trong đạo 
				Phật phải được hiểu là những phương pháp tu hành rốt ráo để giúp 
				chúng sinh thoát khỏi khổ ách, có giải thoát giác ngộ, có thanh 
				tịnh Niết bàn. Vì thế pháp tu phản văn văn tự tánh của Ngài Quán 
				Thế Âm cũng thế, không sai khác. 
				
				Đạo Phật không dạy 
				chúng sinh tin vào độ mà chỉ dạy chúng sinh tin sâu vào nhân 
				quả. Tất cả những khổ vui, sống chết trong đời này của mình là 
				những kết quả mà chính mình đã tác tạo trong những đời quá khứ. 
				Nếu ngày xưa mình ra tay cứu giúp người gặp hoạn nạn thì khi 
				mình đối diện với tai họa thì có kẻ khác giúp trả lại cho nên 
				khi thuyền mình lênh đênh sắp chìm thì nhân duyên quả báo xui 
				khiến gặp những thuyền lớn cứu vớt cho. Mình bố thí thì mai sau 
				được giàu sang. Mình lo lắng, chăm sóc người già, bệnh tật thì 
				mai sau mình sống khỏe, sống lâu. Mình thương người thì được 
				người yêu, người mến. Ngược lại nếu hại người thì bị người hại 
				lại. Chửi người thì bị người mắng nhiếc lại. Giết người thì kiếp 
				này hay kiếp sau bị người sát hại lại. Tuy con người có quan 
				niệm khác nhau về sự thưởng phạt của thiện ác, nhưng Luật Nghiệp 
				Báo thì lúc nào cũng đại diện cho sự công bình tuyệt đối vì đó 
				là sự thưởng phạt công minh, chắc chắn và hợp lý. 
				
				Nói tóm lại, Phẩm Phổ 
				Môn trong kinh Pháp Hoa và Chương Quán Thế Âm nhĩ căn viên thông 
				trong kinh Lăng Nghiêm này đã có biết bao nhiêu người hiểu một 
				cách sai lầm, làm cho Đức Quán Thế Âm trở thành một đấng siêu 
				hình thiêng liêng thậm chí làm những công tác từ thiện nhỏ mọn 
				mà một vị Đẳng giác Bồ Tát sắp thành Phật như Ngài không bao giờ 
				làm những việc như vậy. 
				
				  
				
				4.Tôi đoạn diệt hết 
				vọng tưởng, không còn tâm sát hại, khiến chúng sinh dù phải vào 
				trong cõi nước của quỷ, quỷ cũng không hại được. 
				
				  
				
				Niệm Quán Thế Âm nghĩa 
				là lắng nghe tiếng nói đạo đức, thuần lương của lòng mình thì 
				tâm sát hại không còn cho nên họ có vào trong cõi nước của quỷ 
				sát, quỷ đạo, quỷ dâm, quỷ vọng thì những loài quỷ kia cũng 
				không sát hại họ được. Nói cách khác, khi đã đoạn hết ác tâm thì 
				những nguyên nhân của sát, đạo, dâm, vọng cũng biến theo, không 
				dấy khởi nên con người sống rất thanh tịnh, nhẹ nhàng. Quỷ ở đây 
				là quỷ ở trong tâm nên mới đáng sợ bởi vì nó khiến con người hút 
				máu, giết người, làm điều dâm dục, trộm cướp, nói lời gươm đao, 
				thấy ác làm ác chẳng những nó giết đời này của ta mà còn giết 
				biết bao nhiêu đời nữa. 
				
				Khi nói về cõi nước 
				của quỷ và địa ngục A tỳ thì phải nói đến kinh Địa Tạng. Thông 
				thường, chúng sinh thường tin có một vị Bồ Tát tên Địa Tạng tay 
				phải cầm cây tích trượng, tay trái một hạt minh châu. Ngài xuống 
				địa ngục lấy tích trượng đập phá cửa địa ngục để cứu vớt chúng 
				sinh nếu chúng sinh chí thành niệm danh hiệu Ngài. Vì thế Ngài 
				là giáo chủ cõi u minh địa ngục. Người học Phật có nên tin tưởng 
				một cách quá thực thà như thế không? Vậy ý nghĩa của kinh là gì? 
				
				Kinh Địa Tạng là viết 
				tắt của “U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát”. Bổn 
				là bản tâm (bổn tâm) của chúng sinh. Tôn là tôn quý. Địa là tâm 
				địa và Tạng là Như Lai Tạng. Vì thế chỉ có bản tâm mới là cao 
				quý nhất, nó là kho Như Lai Tạng tâm địa và chỉ có bản tâm (chơn 
				tâm) mới làm chủ được cõi u minh tăm tối tức là làm chủ được cõi 
				địa ngục tham-sân-si của chính mình. Con người vì chạy theo sắc 
				tài danh lợi, tham đắm dục tình, bị tham-sân-si sai sử nên tự 
				đày mình vào cõi địa ngục tham-sân-si mà chịu cảnh khổ. 
				
				Vậy làm sao đập phá 
				được địa ngục tham-sân-si? Chỉ có bản tâm thanh tịnh tức là chơn 
				tâm, Phật tánh của chính mình mới hóa giải, đập phá được cái địa 
				ngục u ám này. Nhưng con người vì bị màn vô minh dày che lấp nên 
				luôn tìm tâm (Phật) ở bên ngoài nên cả đời vẫn đeo mang cái khổ 
				cho nên cái tôn quý nhất, quan trọng nhất là phải quay về (đáo 
				bỉ ngạn) để nhận ra Bổn Tôn Địa Tạng tức là tự tánh Như Lai Tạng 
				nghĩa là cái chơn tâm, Phật tánh sáng suốt thường có trong ta 
				thì chính mình mới có thể đập phá được địa ngục tham-sân-si và 
				cứu giúp chúng sinh muôn loài. 
				
				Địa Tạng Bồ Tát tay 
				mặt cầm cây tích trượng có bốn cái vòng và mười hai cái khuy là 
				biểu tượng cho Chân lý Tứ Diệu Đế và Thập Nhị Nhân Duyên. Tích 
				trượng là ám chỉ cho ý chí kiên cường, đại hùng đại lực để đập 
				phá mở tung cánh cửa u minh hắc ám của tự tâm. Còn hạt minh châu 
				lóng lánh tức là hòn ngọc như ý tượng trưng cho bản tâm thanh 
				tịnh và một khi chúng sinh sống với chơn tâm của mình thì ánh 
				sáng trí tuệ trong tự tâm bừng sáng soi chiếu khắp cùng. Vì vậy 
				nếu chúng sinh dựa theo Chân lý Tứ Diệu Đế hay Thập Nhị Nhân 
				Duyên để tu thì sẽ có tâm thanh tịnh và chính cái bản tâm diệu 
				giác này sẽ giúp con người đủ sức đập tan địa ngục tham-sân-si 
				trong tâm của mình mà có thanh tịnh giải thoát giác ngộ. 
				
				Kinh điển Phật giáo 
				Đại thừa là quyền giáo (phương tiện, ẩn dụ) chớ không phải là 
				thật giáo cho nên người đệ tử Phật đừng chấp vào lời kinh mà 
				phải dùng lý để hiểu. Đó là “văn dĩ tải đạo” tức là “được ý quên 
				lời” nghĩa là chỉ nương theo ngón tay mà thấy mặt trăng chớ đừng 
				chấp ngón tay là mặt trăng thì mới cảm nhận được lẽ huyền diệu 
				của kinh mà không rơi vào tà kiến. Thí dụ là người đệ tử Phật, 
				chúng sinh tắm mình trong ánh hào quang của Phật. Hào quang ở 
				đây phải được hiểu chính là trí tuệ Phật tâm, Phật tánh sẵn có 
				trong tất cả mọi người. 
				
				Tâm chúng sinh và chư 
				Phật cùng đồng một bản thể Phật tánh như nhau, không sai khác 
				cho nên Địa Tạng tức là bản tâm của chính mình thì cái tâm này 
				bình đẳng với Phật, Bồ Tát vì thế nếu ngộ được chơn tâm của 
				chính mình thì chư Phật mười phương kính ngưỡng là như vậy. 
				
				Tóm lại trên thế gian 
				này dựa theo tinh phần Phật giáo, không có cõi địa ngục thật và 
				dĩ nhiên không có vị nào là Địa Tạng Bồ Tát cả. Địa ngục là biểu 
				tượng của tham-sân-si phiền não, là sự tối tăm ám chướng mê muội 
				trong tâm thức của mỗi chúng sinh. Đó chính là địa ngục tự tâm. 
				Còn Địa Tạng Bồ Tát chính là bản tâm thanh tịnh tức là chơn tâm, 
				Phật tánh thiêng liêng huyền diệu vốn có sẵn trong tâm của tất 
				cả mọi người. Vì thế Phật đưa ra phương tiện Tứ Diệu Đế, Thập 
				Nhị Nhân Duyên để giúp chúng sinh nương theo đó mà thấy được 
				chơn tâm của chính mình thì tự mình đập phá được cửa địa ngục, 
				giải thoát ra khỏi cảnh u ám tham-sân-si mà sống trong thanh 
				nhàn, an vui tự tại Niết bàn. 
				
				Tóm lại, người đệ tử 
				Phật đừng hiểu kinh điển Đại thừa một cách thật thà mà chấp có 
				một Bồ Tát thật, một cõi địa ngục thật nên một lòng cầu Bồ Tát, 
				Phật và chờ đến lúc chết sẽ có các Ngài đến cứu thì cũng như 
				chấp ngón tay là mặt trăng rồi tin tưởng mù quáng vào tha lực mà 
				đi ngược lại với giáo lý nhân quả. Không có việc “một người ăn 
				mà người khác được no” mà phải là “ai ăn người nấy no, ai uống 
				người đó hết khác”. 
				
				Vì niềm tin dân gian 
				nên đến đây có người vẫn còn tin rằng chắc có địa ngục thật hay 
				có một vị Bồ Tát thật tên là Địa Tạng, chúng tôi trích đăng 
				nguyên văn lời giới thiệu của thầy Viên Pháp về kinh Địa Tạng 
				Mật Nghĩa do Cụ Chánh Trí Mai Trọ Truyền thuyết giảng tại chùa 
				Xá Lợi năm 1957 để quý vị tư duy thẩm chiếu. Quý Phật tử có thể 
				đọc toàn bộ kinh Địa Tạng Mật Nghĩa này trong trang nhà: 
				www.thuvienhoasen.org vào phần kinh điển giảng giải. 
				
				
				ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA
				
				
				Chánh Trí Mai Thọ Truyền
				
				
				Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964 
				Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái 
				Xuất Bản 1985
				
				
				Thay Lời Tựa
				
				Tôi Đi Nghe Giảng Kinh 
				Địa-Tạng 
				
				Thể theo sự đòi hỏi 
				của một số đông giáo-hữu, Hội Phật-Học Nam-Việt tổ chức, vào mỗi 
				buổi chiều thứ bảy, từ 8g30 tối, một khóa giảng Kinh. 
				
				Thứ bảy tuần rồi, 
				9-11-1957, Đạo-hữu Chánh-Trí đã mở đầu khóa giảng với bộ Kinh 
				Địa-Tạng, trước trên ba trăm thính giả, phần đông là học thức, 
				của đủ các hạng tuổi. 
				
				Dưới đây, xin ghi lại 
				những điều nghe thấy và cảm tưởng của chúng tôi đối với buổi 
				giảng đầu tiên. 
				
				
				Viên-Pháp
				
				Trước hết, xin nói 
				ngay là buổi giảng rất hào hứng và linh động, làm cho đa số 
				trí-thức thính giả mắt sáng lên, lòng đầy hoan hỷ, ngồi nghe 
				trót hai giờ đồng hồ mà không biết chán mỏi, vì sung sướng thấy 
				bao thắc mắc, nghi ngờ của mình về vấn đề địa ngục, Địa-Tạng, 
				được giải thích rành mạch. 
				
				Về Địa ngục, thường 
				chúng tôi thấy có hai thái độ khác nhau trong hàng Phật-từ: 
				
				- Một đàng thì tin có 
				địa ngục, nhưng tin một cách mù mờ, sai lạc, vì thế không dứt 
				đặng nhân địa ngục, để khỏi cái quả địa ngục, cho nên không bao 
				giờ thoát ly đặng cái khổ địa ngục. 
				
				- Một đàng thì phân 
				vân bất quyết, không biết phải tin hay không, vì vậy trong 
				trí-quán không có gì dứt khoát và trong hạnh tu không có gì nhứt 
				định. 
				
				Đối với Địa-Tạng 
				Bồ-Tát cũng có hai luồn tư tưởng khác nhau: 
				
				- Một hạng tin rằng đã 
				có ngài Địa-Tạng phát nguyện cứu độ tội vong ra khỏi U-minh địa- 
				ngục, thì ta cứ "làm ăn" như ai, rũi ro có bề nào sẽ có ngài đùm 
				bọc. Ngài lại còn nguyện "Địa ngục chưa trống không, ta quyết 
				không thành Phật", thì dầu ta còn phải đọa địa-ngục lâu xa thế 
				mấy đi nữa, cũng còn có ngài cứu thoát, không đến nỗi nào mà sợ. 
				
				Hạng này còn tin đức 
				Địa-Tạng có quyền lực dẫn vong vào cảnh Tây-phương tự tại, vô 
				ngại. Hễ có ngài dẫn, thì không có một quỉ sứ nào dám bắt đem 
				nạp cho Diêm-vương phán xét. Hơn nữa, ngài lại còn có quyền lực 
				phá ngục thả tội mà chẳn có ông Diêm-vương nào dám cản trở. Do 
				những tin tưởng này, mới có việc mướn làm chay với cảnh thầy cả 
				đội lốt Địa-Tạng phá ngục giải phóng tội vong. Ôi thôi! Kể sao 
				cho xiết những quan niệm sai lầm như thế về Bồ-tát Địa-Tạng và 
				về quyền năng của ngài! Ròng rã là những sự tin tưởng thần 
				quyền, ỷ lại tha lực, làm hoen ố Phật giáo nước nhà! 
				
				- Một hạng khác lại 
				suy nghĩ: không lẽ lại có một ông Bồ-tát "cải Trời" cho đến bỏ 
				luật nhơn quả, làm vì cảm tình với người sống mà làm việc bất 
				công là thả tội hộ vong. Vì suy nghĩ như thế, họ mất lòng chánh 
				tín đối với vị Bổn-tôn Bồ-tát và thối bộ, không bước được vào 
				cửa Phật tu hành, để thâu hoạch lợi ích cho mình. Thật đáng phàn 
				nàn cho hạng này, vì họ là bậc có trí, biết suy nghĩ và có đạo 
				tâm, chỉ vì không ai chỉ bảo thành ra hiểu lầm, nghi sái. 
				
				Nay đạo-hữu Chánh-Trí 
				đem kinh Địa-Tạng ra giảng, lại dám trình bày bạo dạn và vạch rõ 
				phân minh những chổ bí ẩn trong kinh, để phô bày cái bí nghĩa 
				chân thực, hiển phát cái chân lý Đại thừa, thật đạo hữu đã giúp 
				ích rất nhiều cho những ai chưa thấu triệt. Có vạch rõ như thế 
				những ẩn ý của Phật, mới lìa đặng ngón tay mà thấy đặng mặt 
				trăng, không thì cứ ôm dính ba cái chữ, rồi tối vẫn hoàn tối. 
				
				Diễn-giả đã theo đường 
				lối nào để đưa thính giả tới chổ diễn-giả muốn dắt đến? 
				
				Vô đầu, đạo-hữu 
				Chánh-Trí thanh minh rằng kinh Địa-Tạng thuộc về quyền giáo, 
				khác với những bộ kinh thuộc về Thực-giáo, trực chỉ Chơn-lý. Có 
				thể xem kinh Địa-Tạng như một bài ngụ-ngôn trường thiên, trong 
				đó Phật dùng ngụ-ý (paraboles) để ám chỉ một chơn-lý đáng phát 
				minh, như những bài ngụ ngôn của các hiền-triết Đông Tây mà cốt 
				yếu là để dạy những nguyên tắc luân lý, hoặc những truyện đời 
				xưa, những truyện giải buồn, do văn-nhơn, hiền-sĩ đặt ra vì 
				thiết tha với thế sự, muốn hoán cải nhơn tâm. 
				
				Kế đó, dựa theo những 
				đọan kinh văn, diển-giả giải rằng đức Địa-Tạng không phải là một 
				nhơn vật lịch sử (personnage historique), có một đời sống ở thế 
				gian như đức Phật Thích-Ca, mà là một nhơn-vật tượng trưng 
				(personnage symbolique), đặt ra để tiêu biểu cho những đoạn-đức 
				cương quyết, nguyện-lực dồi dào và hành-động linh tiệp. Địa-Tạng 
				cũng chỉ cái gì cực tôn cực quí trong người (Bổn tôn), đủ năng 
				lực đả phá vô-minh, trực tiếp cứu vớt con người ra khỏi cảnh 
				ngục-thất tối đen dày bịt (đại thiết vi), thoát vòng tội lỗi khổ 
				đau, và dẫn con người trở về sùng bái cái cực tôn cực quí ấy là 
				Chơn Tâm của mỗi chúng ta vậy. 
				
				Để chứng minh điều 
				mình quả quyết, diễn-giả dẫn câu "Địa ngôn: kiên, hậu, quảng hàm 
				tàng" và nói: Tại sao dùng hai chữ Địa-Tạng để ám chỉ Chơn Tâm? 
				Cứ xem câu vừa trích trong bài tán ở đầu quyển kinh đủ thấy. Địa 
				là chỉ cái gì kiên cố bất diệt, sâu dày không thể đo lường 
				(hậu), và rộng chứa không gì bỏ ra ngoài (quảng hàm tàng). Thế 
				có phải chỉ Chơn Tâm hay Như-Lai-Tạng không? Vì ai đập vỡ Tâm 
				được mà không bảo là kiên cố, ai đo được cái vô cùng tận của Tâm 
				mà không bảo nó sâu dày không thể đo lường, và có gì ngoài Tâm 
				được mà không bảo nó ngậm chứa tất cả? 
				
				"Lại nữa, diễn-giả nói 
				tiếp, nếu không ám chỉ Chơn Tâm, thì làm sao cắt nghĩa được 
				câu": 
				
				Tam thế Như-Lai đồng 
				tán ngưỡng 
				
				Thập phương Bồ-tát 
				cộng quy-y? 
				
				"Không lẽ ba đời chư 
				Phật (quá khứ, hiện tại, vị lai) lại đi khen ngợi, ngưỡng mộ một 
				vị Bồ-tát, còn mười phương Bồ-tát lại quy-y với một người đồng 
				đẳng với mình? Thật rõ là ám chỉ cái Chơn-lý bất diệt là Chơn 
				Tâm, mà không ai (kể luôn chư Phật, Bồ-tát) được phủ nhận, vì 
				phủ nhận là còn sống trong vô-minh mà hễ còn sống trong vô-minh 
				thì làm sao có Phật và Bồ-tát? Nói một cách khác, nhờ thể nhận 
				được Chơn Tâm, tán thán ngưỡng mộ Chơn Tâm, nên Phật mới thành 
				Phật, và cũng nhờ biết quay về an trú nơi Chơn Tâm, sống theo 
				tiếng gọi của Chơn Tâm, nên Bồ-tát mới thành hạnh Bồ-tát." 
				
				Đến hai câu: 
				
				Thủ trung kim tích, 
				chấn khai địa-ngục chi môn. 
				
				Chưởng thượng minh 
				châu, quang nhiếp Đại-thiên chi giới. 
				
				Diễn-giả giải thích: 
				
				"Đó là một lối dùng 
				biểu tượng (symbole) để diễn tả những công năng của Chơn Tâm. 
				Tích trượng (gậy sắt), tượng trưng cho cái ý-chí cương quyết 
				(volonté de fer) bẻ xiềng xích, phá ngục tù của những người thức 
				tỉnh, tức là đã trở về với Chơn Tâm. Đó cũng là sức mạnh vô song 
				của Chơn Tâm, biết diệu dụng thì không việc thiện nào là không 
				làm được, còn không biết diệu dụng thì nó cũng có thể đưa con 
				người đến chổ tội lỗi không bờ bến. Vì sao? Vì cái cương quyết 
				làm phải ở người tốt và cái cương quyết làm sái ở người xấu, 
				đồng một mãnh lực như nhau. 
				
				Tuy hai mà trên căn 
				bản vẫn một, tại chỗ dùng có khác mà một xem tuồng như hai, thí 
				như con dao bén có thể dùng giúp ta xắt cải xắt rau, mà cũng có 
				thể trợ cái giận của ta trong việc chém người hại vật. Còn viên 
				ngọc (minh châu) sức sáng rọi khắp ba ngàn thế giới kia cũng là 
				một lối nói để ám chỉ cái Đại trí huệ, hay Trí Bát-nhã sẵn có ở 
				mỗi người, linh tiệp vô cùng, không đâu chẳng thấy, không gì 
				chẳng biết, bao xa cũng soi tới, bao sâu cũng chiếu suốt. Mà Trí 
				và Tâm không phải sai khác, cho nên nói Đại trí minh châu cũng 
				là nói Chơn Tâm vậy." 
				
				Còn mấy câu: 
				
				Diêm vương điện thượng 
				
				Nghiệp cảnh đài tiền 
				
				Vị Nam-phù-đề 
				chúng-sanh 
				
				Tác đại chứng-minh 
				công-đức chủ 
				
				thì theo đạo-hữu 
				Chánh-Trí, là tả những cái dụng khác của Chơn Tâm, cái dụng hồi 
				quang phản chiếu, quay cái sáng, rọi trở lại đời sống hằng ngày, 
				từ ngoài cho đến trong, như người Pháp nói "xét lòng" (examen de 
				conscience). "Thật vậy, diễn-giả nói, ai xét ta và luận ta cho 
				bằng lương-tâm ta, vì biết bao nhiêu tội lỗi ta đã tạo mà 
				Công-lý nào biết được! Do đây, bài tán mới vì Địa-Tạng (Chơn 
				Tâm) là ông vua cõi Diêm-la, ngồi trên điện cao để phán xét tội 
				trạng của ta. Còn tự ta muốn biết nghiệp lành, nghiệp ác của ta 
				ư? Thì cứ ngó trở lại vào lòng, cái "gương lòng" sẽ phản chiếu 
				cho ta thấy tất cả. Gương ấy là Chơn Tâm Địa-Tạng đó, nên gọi là 
				Nghiệp cảnh (cái kiếng soi nghiệp). Chơn Tâm ta đã là ông Tòa, 
				ông Diêm vương xét tội, thỉ Chơn Tâm ấy cũng là người chứng kiến 
				và ghi chép những công đức của ta. Thế nên nói Địa-Tạng làm 
				người chứng minh các công đức (mérites) của chúng sanh cõi 
				Nam-diêm phù-đề, tức là cõi thế-gian này vậy." 
				
				Tóm lại, diễn-giả chỉ 
				rằng: Địa-Tạng là Chơn Tâm hay Như-Lai Tạng-tâm, đủ cả Tánh-thể, 
				Tánh-cụ và Tánh-dụng. Tánh-thể là Bổn tôn, nên "Tam thế Như Lai 
				đồng tán ngưỡng, thập phương Bồ tát cộng quy y". Về Tánh-cụ (có 
				sẵn) thì "kiên, hậu, quảng hàm tàng, từ nhơn, tích thiện, thệ 
				cứu chúng sanh" sẵn đủ cả Đại-nguyện (grande volonté), Đại-hạnh 
				(grande activité), Đại-thệ (grande détermination). Vì vậy Kinh 
				chia ra ba phần hay ba quyển: Địa-tạng bổn nguyện, Địa-tạng bổn 
				hạnh, Địa-tạng bổn thệ. Rốt hết là Tánh-dụng. Hai Tánh trước đã 
				lớn lao và đầy đủ vô cùng thì cái Dụng của Chơn Tâm cũng vô 
				cùng, do đó mà chúng-sanh trong quá khứ, hiện tại, vị lai, nếu 
				biết quy-y Tâm thì được ra khỏi địa-ngục vô-minh, tức là được 
				cứu độ như Kinh nói. 
				
				Đạo-hữu Chánh-Trí 
				giảng đúng với giáo nghĩa của Đại-thừa. Theo lý tuyệt-đối 
				(đệ-nhất nghĩa đế), ngoài Tâm không pháp, cho nên sự sự đều là 
				Tâm, vật vật đều là Tâm. Tâm tác Thiên đường, Tâm tạo địa ngục, 
				ba cõi chỉ đều do Tâm, mười cõi chỉ đều do Tâm, tất cả đều do 
				Một Tâm (duy Nhứt Tâm), không gì ngoài Nó. Cho nên, có chúng 
				sanh thọ khổ địa-ngục nơi Tự Tâm (en Soi), thì Địa-Tạng Bồ-tát 
				cũng cứu độ trong Tự Tâm. Ngoài Tâm, không có địa ngục, chúng 
				sanh nào khác; ngoài Tâm, không có Địa-Tạng phá ngục dẫn vong 
				nào khác. Đây là cái lý bí ẩn của kinh Đại-thừa mà chúng ta cần 
				khám phá và khai thác để tự lợi, lợi tha. Dùng ông Bồ-tát 
				Tự-Tánh mà cứu độ chúng sanh của Tự Tâm, lửa đó, nước đó, thật 
				là muôn phần linh tiệp và diệu dụng. 
				
				Đạo-hữu Chánh-Trí đã 
				đem lại cho thính giả một niềm tin tưởng vững chải, phấn tấn, vì 
				mình có tự tin ở mình có ông Bồ-tát biết dùng hột minh-châu 
				Đại-trí-huệ chiếu phá vô-minh, tiêu trừ những nỗi lòng đen tối, 
				cỡi mở những quan niệm sai lầm, đập phá ngục tham, sân, si, 
				ái... thì mình mới khỏi cầu ai xa lạ, viễn vong, vừa khó khăn, 
				vừa không chắc, khỏi mắc phải cái tánh ỷ lại thần quyền, mơ hồ 
				và tai hại. 
				
				Lại nửa, nếu tự hay 
				nơi mình có Chơn Tâm linh minh sáng suốt làm quan Tòa, thường 
				ngồi tại bàn án, chiếu gương soi 
				 nghiệp, 
				xét nét vô tư những điều ẩn khuất nơi cõi lòng, thì chắc chắn 
				đời người sẽ có sự hoán cải, dứt ác làm lành, đổi đen ra trắng. 
				
				Dù rằng, từ trước đến 
				đây, diễn-giả đã dẫn kinh để chứng tỏ rằng Địa-Tạng chỉ là một 
				lối tượng trưng để chỉ Chơn Tâm, trong hàng thính- giả hình như 
				còn có người chưa tin. Đạo-hữu Chánh-Trí nói thêm: "Tìm hiểu 
				Địa-Tạng Bồ-tát có thật hay không, không quan hệ bằng tìm biết 
				kinh Địa-Tạng có ích gì cho chúng ta trong việc tu hành.
				"Đạo-hữu nói 
				rất có lý, nếu chúng ta nhớ lại Phật thuở xưa kia cũng có lần 
				bác những kẻ đến hỏi Ngài thế giới có hay không có, hữu hạn hay 
				vô biên, v.v.. Phật bảo: Nên hỏi ngay làm sao đặng hiện tiền 
				giải thoát, vì hỏi như vậy mới thiết thực hơn, còn hỏi như trên 
				thì phải sa lầy trong cái đầm lý thuyết. 
				
				Có lẽ nhờ lời dạy của 
				Phật vừa nhắc lại, nên diễn-giả hay moi tìm trong kinh điển để 
				khám phá, lượm lặt, những gì có ích lợi cho đời sống thực tế và 
				khai thác những phát minh thực dụng, hầu giúp nhiều bạn đồng đạo 
				cũng hưởng. " Đọc kinh phải cầu lý, đạo-hữu Chánh-Trí nói. Cầu 
				lý là tìm coi Phật muốn nói gì, chỉ gì, chớ không nên thấy chữ 
				đâu hiểu nghĩa đó mà cho là đủ. Nếu nhận nghĩa do nơi chữ, chúng 
				ta sẽ gặp nhiều mâu thuẩn có khi buồn cười, làm cho chúng ta sẽ 
				hoang mang, không làm sao có lòng tin tưởng sắt đá. 
				“Thật là một 
				lời khuyên có giá trị đối với thế-hệ hiện nay của trí óc khoa 
				học (esprit scientifique), luôn luôn bất phục trước những cái gì 
				mù mờ. 
				
				Tuy đạo-hữu Chánh-Trí 
				đã đem hết sức mình ra giải thích rành mạch, vẫn còn có người 
				thắc mắc, cho rằng nếu theo diễn-giả mà phủ nhận vị Bồ-tát hiện 
				đang hành sự ở cõi U-minh, cứu-độ vong linh thọ tội mà nhiều 
				người đang tin tưởng, thì sẽ làm mất chổ trông cậy của họ. Chúng 
				tôi nghĩ, nếu tin mà lầm lạc, thì thà đừng tin còn hơn, vì lầm 
				lạc còn khổ hơn không tin. Nếu có kẻ không giữ vệ sinh, không 
				biết ngừa bệnh độc, ăn càn ở bậy, ỷ y có thầy hay thuốc giỏi, 
				thử hỏi tin tưởng như thế có lợi hay có hại? 
				
				Lại có người cho 
				diễn-giả quá thiên về lý mà bỏ sự. Sao lại nghĩ thế? Sự, lý nào 
				phải hai cái khác nhau mà tưởng có thể bỏ sự theo lý. Đã nói 
				kinh Địa-Tạng thuộc về quyền giáo, mà hễ quyền giáo thì toàn là 
				sự, như nói nào là có ông Bồ-tát danh Địa-Tạng ở cõi U-minh, làm 
				việc độ vong, nào là có ba ngục lớn chúng sanh trong đó bị các 
				quỉ sứ đầu trâu mặt ngựa đánh khảo đủ điều, v.v… Nhưng sự, lý, 
				không thể chia hai, thì cố nhiên trong những sự vừa kể phải có 
				cái lý, những cái lý mà rất tiếc chưa ai từng vạch, nên nay 
				đạo-hữu Chánh-Trí mới vạch, để thức tỉnh những ai cho kinh 
				Đại-thừa thiếu căn bản Phật giáo, nói truyện hoang đường. 
				
				Để khỏi thiếu sót, 
				chúng tôi xin thêm lời diễn-giả giải về ý ẩn của đoạn sau đây 
				trong bài tán, bắt đầu từ câu: "Nam phương thế giới dõng hương 
				vân... chí câu: Phật ngôn: Địa-Tạng Bồ-tát chí." (xin xem Kinh). 
				
				Đạo-hữu Chánh-Trí nói: 
				"Hể Chơn Tâm phát hiện nơi ai (Bồ-tát Địa-Tạng đến), thì từ nơi 
				thân tâm người ấy phát tiết ra ngoài một cái gì mà trông đến 
				gương mặt là ta cảm thấy một ánh sáng diệu hiền, khiến ta phải 
				kính phục, nghe đến lời nói là ta cảm nhận một cái gì đẹp đẻ, 
				thơm tho, khiến ta ngây ngất, chẳng khác ta tắm mình trong một 
				đám mưa thơm, một đám mưa hoa, v.v… Cứ trông gương mặt, ngắm xem 
				cử chỉ, lắng nghe lời nói của những bực chân tu thạc đức, ta sẽ 
				thấy và sẽ cảm như vừa nói. Các nhà tâm-lý-học Âu Tây đều công 
				nhận cái sáng hiển lộ ra ngoài như thế này của những tâm hồn 
				trong sạch, hiền hòa, mà họ gọi là "irradiation". 
				
				Nói một cách khác, 
				diễn-giả đã đề cập đến ảnh hưởng hết sức thơm tho lành điệu, 
				sáng sủa êm đềm, của những tâm hồn đã trở về với đời sống giải 
				thoát. 
				
				Buổi giảng đầu tiên đã 
				chứng tỏ nơi diễn-giả, không phải một sức học uyên thâm, mà một 
				thực nghiệm tu học khá công phu, chúng tôi tin rằng đạo-hữu 
				Hội-trưởng sẽ không phụ lòng thính giả ở những buổi giảng tiếp. 
				
				
				Viên-Pháp
				
				(Trích Tạp-chí 
				TỪ-QUANG số 70, tháng 11 năm 1957) 
				
				Cước chú: Tác-giả viết 
				bài này lúc còn là một cư-sĩ. Mấy năm sau, tác-giả đã xuất gia, 
				giữ nguyên pháp hiệu và đã viên tịch. 
				
				  
				
				5.Tôi huân tập cái 
				tánh nghe, nghe vào tự tánh. Tánh thấy, tánh ngửi, tánh nếm, 
				tánh xúc, biết cũng vậy, khiến chúng sinh đang khi bị hại dao 
				mác, vũ khí gãy rơi từng khúc chẳng xúc phạm. 
				
				  
				
				Nghe vào tự tánh tức 
				là năng quán nghĩa là nghe tất cả những việc thiện ác, soi chiếu 
				tự tâm của mình để thấy rõ, không còn bị mê lầm vọng chấp. Khi 
				tâm đã thanh tịnh thì tất cả những thứ như nói lưỡi hai chiều, 
				nói lời độc ác, nói thêu dệt, nói gian dối, lòng buồn, lòng giận 
				cũng không còn vì thế dao hai lưỡi, dao ưu sầu, dao tâm làm sao 
				sát hại mình được. Tánh thấy, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc, 
				tánh biết cũng vậy thì nghĩ ác, nói ác, làm ác cũng không còn. 
				Khi không còn ác tâm nghĩa là nguyên nhân của đấu tranh không 
				còn thì không lo sợ gì có sự tranh chấp, giết hại. 
				
				  
				
				6.Tánh nghe, tôi huân 
				tập đến độ tinh thuần, sáng suốt trùm khắp pháp giới. Tất cả 
				những gì đen tối không tồn tại được, khiến cho chúng sinh dù ở 
				gần bên với ác quỷ: Dược xoa, cưu bàn trà, tỳ xá xà, phú đơn na…
				mà chúng không 
				nhìn thấy. 
				
				Khi quán chiếu lòng 
				mình thì có được tâm thanh tịnh, an lạc, trong sáng do đó những 
				thứ âm u hắc ám như quỷ thô bạo, quỷ bất nghĩa, quỷ vô thường 
				làm sao hại mình được. 
				
				  
				
				7.Tánh năng văn tôi 
				quán xoay vào, thanh trần đối tượng tiêu vọng, khiến chúng sinh 
				tránh xa tất cả gông cùm xiềng xích không vương chạm đến thân. 
				
				  
				
				Khi xoay tánh nghe vào 
				trong để lắng nghe tiếng nói thanh tịnh của lòng mình thì những 
				âm thanh bên ngoài đâu còn lọt vào tâm của ta. Khi tu thiền định 
				thì họ cắt đứt những đối tượng nghe bên ngoài. Do đó khi tu 
				thiền định, hành giả nên tìm nơi thanh vắng yên tịnh thì dễ xoay 
				tâm vào bên trong mà không bị sở văn chi phối. Con người có sống 
				trong phiền não khổ đau cũng chỉ vì bị đối tượng sở văn lôi 
				cuốn. Nghe một bài ca hay, một tiếng đàn lưu loát, tiếng nói dịu 
				dàng, lời khen êm ái hay tiếng chửi xót xa…
				tất cả đều là 
				đối tượng sở văn cả. Càng chạy theo tiếng nghe bên ngoài thì tâm 
				càng vọng động, không làm chủ được bản tâm của mình nên dễ rơi 
				vào vô minh phiền não mà phải gánh chịu bao nỗi ưu bi buồn 
				phiền. Ngược lại biết xoay tánh nghe vào trong thì bít hẳn sở 
				văn nên con người sống trong an nhiên tự tại thì gông cùm xiềng 
				xích làm sao đụng đến ta được. 
				
				  
				
				8.Tôi diệt âm thanh 
				đối tượng, tánh nghe viên mãn sanh sức từ cùng khắp, khiến chúng 
				sinh đi qua đường hiểm mà giặc cướp không thể cướp được (giặc 
				phiền não có 6 tên túc trực phục kích ở mắt, tai, mũi, lưỡi, 
				thân và ý). 
				
				  
				
				Đối tượng âm thanh là 
				những tiếng nói ngọt ngào, tiếng thị phi phải quấy, lời chửi rủa 
				đắng cay… 
				Nếu con người đem 
				những đối tượng âm thanh này vào tâm thì dĩ nhiên vô minh phiền 
				não cũng vì thế mà phát sinh. Nên nhớ sáu căn: mắt, tai, mũi, 
				lưỡi, thân và ý tự nó thanh tịnh, không ô nhiễm, nhưng giặc vô 
				minh phiền não lúc nào cũng núp dưới sáu căn để chụp lấy cơ hội 
				mà hành hạ con người. Thí dụ lỗ tai thì thanh tịnh, không có chi 
				là xấu xa tội lỗi cả, nhưng tai vừa mới nghe tiếng khen thì tâm 
				liền phân biệt mà bám víu vào tiếng khen giả tạo này khiến con 
				người sống trong điên đảo, mộng tưởng ảo huyền, Ngược lại nghe 
				ai chê thì tâm bực bội, buồn phiền ray rức. 
				
				Bây giờ nếu diệt được 
				âm thanh đối tượng nghĩa là đóng kín thanh trần, không còn nghe 
				tiếng nghe bên ngoài mà xoay tánh nghe vào nội tâm để nghe tiếng 
				lòng thanh tịnh tức là diệu âm thì giặc phiền não làm sao đánh 
				phá ta được cũng như đi qua đường nguy hiểm mà giặc cướp chẳng 
				hại được mình. Nói cách khác cuộc đời nhiều phiền não rối tăm, 
				trăm điều bực bội nhưng nếu bây giờ con người lắng nghe tiếng 
				lòng thanh tịnh mầu nhiệm của mình để bỏ đi những đối tượng 
				phiền não giả tạo bên ngoài thì chính mình vượt qua được mọi 
				hiểm trở và giặc cướp phiền não không cướp được công đức lành 
				của mình. 
				
				Chúng sinh đừng nên 
				hiểu lầm đoạn kinh trên rằng mình mang trong người nhiều vàng 
				bạc quý giá, đi qua đoạn đường hiểm trở nên lo sợ niệm Đức Quán 
				Thế Âm thì Ngài phù hộ không cho giặc cướp đoạt vàng bạc nữ 
				trang. Trong thập niên 70, 80 có rất nhiều chiếc thuyền tỵ nạn 
				của người Việt Nam đi theo hướng Thái Lan đã bị bọn hải tặc cướp 
				bóc, giết người và hãm hại đàn bà con gái gây ra biết bao cảnh 
				tang tóc đau thương. Khi gặp cảnh oan trái dĩ nhiên có biết bao 
				người niệm Đức Quán Thế Âm thế thì tại sao bọn hải tặc vẫn cướp 
				của hại người mà Ngài không cứu? Do đó giặc cướp ở đây là giặc 
				phiền não để cướp đi những công đức của mình bởi vì có thanh 
				tịnh mới tạo được công đức ngược lại chạy theo phiền não là sống 
				trong điên đảo tức là tạo nghiệp để phải chịu quả khổ luân hồi. 
				Vì vậy làm chủ được sáu căn thì phá được giặc phiền não, hóa 
				giải được tham sân si và cuộc sống dĩ nhiên sẽ được thanh tịnh, 
				an vui và tự tại. 
				
				  
				
				9.Do tôi huân tập tánh 
				nghe được thanh tịnh, tách khỏi trần tướng. Sắc, thanh, hương, 
				vị, xúc, pháp không cám dỗ được, khiến cho những chúng sinh tà 
				dâm xa lìa được lòng tham dục nặng nề. 
				
				  
				
				Huân tập tánh nghe 
				được thanh tịnh nghĩa là biết phản văn văn tự tánh để chỉ nghe 
				tiếng nói thanh tịnh của lòng mình. Đến đây thì thanh trần vẫn 
				còn đó, nhưng không hề nghe biết nữa. Nói rộng ra chẳng những 
				không còn nghe biết âm thanh bên ngoài mà ngay cả sắc, hương, 
				vị, xúc, pháp cũng biến mất trong tâm của ta. Nói cách khác khi 
				tâm không còn duyên với ngoại trần thì tất cả những gì thuộc về 
				ngoại trần như nhà cao cửa rộng, hương vị thơm tho, mùi vị béo 
				bở, cảm giác êm đềm, ý niệm nọ kia đều tan biến trong tâm của 
				mình. Do đó, cho dù thế gian vũ trụ vẫn còn sờ sờ ra đó, nhưng 
				đối với người biết huân tập tánh nghe thì thấy mà như không 
				thấy, nghe mà như không nghe, ngửi mà như chẳng ngửi thứ gì nên 
				lòng không tham đắm, si mê. Thí dụ mắt thấy người đẹp mà tâm 
				không thấy thì người nào cũng như vậy nên lòng tham dục không 
				khởi, tâm được thanh tịnh. 
				
				  
				
				10.Tôi chỉ lưu lại 
				thuần một viên âm thanh tịnh, không còn đối tượng thanh trần, 
				căn cảnh viên dung, dứt đối đãi năng văn sở văn khiến chúng sinh 
				xa lìa được tham sân si phẩn nhuế. 
				
				  
				
				Hằng ngày trong cuộc 
				sống, chúng sinh luôn đối diện với năng văn sở văn khiến tâm 
				phân biệt chạy tới chạy lui và vọng tưởng cũng vì thế mà sinh 
				khởi làm cho cuộc sống bất toại ý. Bây giờ biết xoay cái nghe 
				vào trong thì tiếng nghe bên ngoài biến mất nghĩa là nghe thì 
				cái gì cũng nghe mà như không nghe cái gì hết. Âm thanh trần 
				tướng không lọt vào nội tâm thì vọng động không còn. Đến đây 
				trong tâm chỉ còn lại một âm thanh huyền diệu thanh tịnh tức là 
				diệu âm. Tâm thanh tịnh thì những nhiễm ô tham, sân, si biến 
				mất. Ngày xưa Đức Phật và các vị A la hán ở những nơi rất yên 
				tĩnh để thiền định cho nên các Ngài không phải đối diện với 
				những đối tượng trần lao là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. 
				
				Khi được minh tâm kiến 
				tánh, giải thoát giác ngộ các Ngài mới vào đời cứu độ chúng sinh 
				mà không còn bị những chướng ngại trần duyên quyến rũ. Nên nhớ 
				khi đã thành Thánh thì không bao giờ trở lại làm chúng sinh trừ 
				khi họ phát nguyện tái sinh để độ đời. Nói chung, pháp tu thiền 
				định này nói thì dễ, nhưng rất khó thực hành bởi vì người Phật 
				tử tại gia thì còn bận bịu gia đình, vướng nhiều thế tục, còn 
				người xuất gia thì Phật sự đa đoan nên khó dứt được năng văn sở 
				văn. Phật sự tới đâu thì phiền não theo tới đó nên cả đời những 
				vị xuất gia tuy mang tiếng tu hành mà tranh chấp, hơn thua không 
				xã bỏ, viễn ly được. Nào là cảnh chùa to, Phật lớn, nào thiện 
				nam tín nữ ồn ào náo nhiệt, cầu nguyện van vái nên vọng tưởng 
				chấp trước cũng vì thế mà phát sinh. Vì vậy ngày nay người tu 
				thì nhiều mà người có an lạc giải thoát thì rất ít. 
				
				  
				
				11.Tiêu diệt thanh 
				trần đối tượng tôi xoay cái nghe về tánh bản minh, thân tâm cảnh 
				giới trong sáng như lưu ly, chẳng vương chút trần ai vọng chấp, 
				khiến chúng sinh xiển đề mê tối xa lìa câm điếc tối tăm. 
				
				  
				
				Thế nào là câm điếc 
				tối tăm? Con người hằng ngày nói rất nhiều và nghe cũng lắm, 
				nhưng thật ra cái nghe, thấy, biết này chỉ nằm trong vòng lẩn 
				quẩn của vô minh phiền não, của sự phân biệt đối đãi, của hơn 
				thua phải quấy lợi mình hại người. Do đó nói mà không đúng với 
				sự thật, không hợp với chân lý thì lời nói kia chẳng có giá trị 
				gì, đâu khác chi người câm. Còn tai chỉ muốn nghe lời ngọt diệu 
				êm đềm, thị phi hoặc khi nghe lời mắng chửi thì khó chịu, bực 
				mình. Nhưng trên đời hễ trung ngôn thì nghịch nhĩ, lời thật 
				thường mất lòng tức là thuốc đắng mới đả tật. Vì vậy người không 
				nghe nổi chân lý, không nghe được lời dạy của Thánh hiền thì tuy 
				có tai mà khác chi là người điếc. 
				
				Thêm nữa, chân lý là 
				sự thật vĩnh hằng, là ngọn đuốc tuệ soi sáng tâm chúng sinh cho 
				nên nếu không nhận biết được chân lý thì tuy là ánh sáng mặt 
				trời vẫn chiếu sáng, nhưng người đó có khác gì người đi trong 
				tăm tối. Trong kinh Pháp Hoa có đoạn nói rằng nếu có chúng sinh 
				chê bai, phỉ báng kinh Pháp Hoa thì sẽ bị quả báo là đui, điếc, 
				câm, ngọng, thân hình lở loét hôi tanh, miệng thúi, răng xéo…
				là theo ý ở 
				trên chớ không phải là đui, điếc thật. Vì hiểu biết một chiều 
				nên có người lý luận rằng nếu không có Phật thị hiện ở thế gian 
				thì đâu có kinh Pháp Hoa để chúng sinh đọc mà không hiểu thấu 
				nên mới chê bai mà phải chịu quả báo đui điếc… 
				
				Lý luận như vậy chẳng 
				khác nào nói rằng Đức Phật Thích Ca truyền lại bộ kinh Pháp Hoa 
				làm cái bẩy để hại chúng sinh mang lấy bệnh tật sau này hay sao? 
				Nói thế thì làm sao giải thích cho đúng với chân lý được. Thâm ý 
				của kinh là cái thấy của một người mà không nhận thức đúng chân 
				lý, không thấy được con đường giải thoát giác ngộ thì tuy mắt 
				vẫn còn, nhìn rất rõ nhưng đây là cái thấy của vô minh, vọng 
				chấp thì có khác gì người đui. Lỗ tai không nghe chân lý, không 
				nghe nổi kinh liễu nghĩa thượng thừa thì lỗ tai tuy còn đó, nghe 
				rất rõ, nhưng không chịu nghe lời thiện thì khác gì người điếc. 
				Miệng tuy nói nhiều, nói rất hay, nhưng không nói lời thiện, nói 
				đúng theo chân lý thì khác gì người câm. 
				
				Một khi chúng sinh 
				biết xoay cái nghe về tánh bản minh để cho thân tâm được trong 
				sáng như lưu ly nghĩa là lìa xa cái nghe bên ngoài (sở văn) tức 
				là không còn vướng mắc vọng chấp mê lầm mà xoay vào để nghe 
				tiếng lòng thanh tịnh nhiệm mầu của mình thì sẽ có tâm hồn trong 
				sáng thanh tịnh. 
				
				  
				
				12.Viên dung các hiện 
				tượng, tôi xoay tánh nghe trở về bất động. Hài hòa thế gian mà 
				không hủy hoại thế gian, cúng dường Như Lai mười phương như số 
				vi trần, tôi ở bên mỗi Phật làm Pháp Vương Tử, khiến trong pháp 
				giới những chúng sinh không con, cầu có con trai, sanh được con 
				trai phúc đức trí tuệ. 
				
				  
				
				Trong 11 phần trước, 
				pháp tu thiền định khuyên chúng sinh lìa bỏ trần cảnh bên ngoài 
				mà xoay tánh nghe vào trong để nghe tiếng nói thanh tịnh của 
				lòng mình. Đến phần này tánh nghe không còn phải ngăn bít sắc 
				thanh hương vị xúc pháp nữa mà bất động nghĩa là những đoạn kinh 
				trước Bồ Tát dạy chúng sinh phải tránh né âm thanh đối tượng, 
				nhưng bây giờ không cần tránh né nó nữa nghĩa là đến đây chúng 
				sinh đã biết xoay cái nghe trở về với tánh nghe để nghe âm thanh 
				thanh tịnh của lòng mình rồi thì tuy có nghe cả âm thanh của thế 
				gian nhưng vẫn hài hòa với thế gian, không dính mắc nơi thế 
				gian. Một khi tâm đã thanh tịnh thì cái thế giới bên ngoài tuy 
				vẫn còn đó nhưng đối với người có tâm thanh tịnh thì có mà vẫn 
				như không nghĩa là nghe thì cái gì cũng nghe mà rốt cuộc như 
				không nghe cái gì hết. Tâm nhẹ nhàng thanh thoát, rỗng rang thì 
				có an vui tự tại. 
				
				Thế nào là cúng dường 
				chư Phật? 
				
				Khi chúng sinh phát 
				khởi một niệm giác ngộ để sống đúng với chân lý là mình đã cúng 
				cho một vị Phật. Phát khởi một niệm khác lợi ích cho chúng sinh 
				và sống đúng với chân lý là cúng dường cho hai vị Phật. Cứ như 
				thế mà nghĩ niệm lành, nói lời thiện, làm việc tốt cho chúng 
				sinh là mình đã cúng dường cho vô số chư Phật trong mười phương 
				rồi. Phải chăng chữ “Phật” muốn ám chỉ trong đoạn kinh này là 
				chúng sinh vì trong tất cả mọi chúng sinh ai ai cũng đều có Phật 
				tâm, Phật tánh như nhau, không sai khác. Trong Phật giáo, Pháp 
				cúng dường là hơn hết trong các cách cúng dường. Đó là chúng 
				sinh đúng theo lời Phật dạy mà tu hành để cúng dường. Làm lợi 
				ích cho chúng sinh để cúng dường. Nhiếp thọ chúng sinh để cúng 
				dường. Thay thế sự khổ ách cho chúng sinh để cúng dường. Siêng 
				tu căn lành để cúng dường. Chẳng bỏ hạnh nghiệp Bồ Tát để cúng 
				dường. Vì thế chúng sinh có đem vô lượng công đức của tài cúng 
				dường cũng không bằng một phần trăm, một phần nghìn của Pháp 
				cúng dường vậy. 
				
				Nếu có chúng sinh cầu 
				có con trai sẽ sinh được con trai nghĩa là nếu chúng sinh muốn 
				tu phước đức trí tuệ thì chắc chắn sẽ được phước đức trí tuệ. 
				Con trai ở đây là phước đức trí tuệ, là nguồn sống chân thật của 
				mình chớ một vị Đẳng Giác Bồ Tát như Đức Quán Thế Âm đâu có giúp 
				chúng sinh tăng trưởng thêm lòng tham dục, muốn gì được nấy, 
				trái với luật nhân quả khách quan của thế gian vũ trụ. 
				
				Có một nữ Phật tử muốn 
				cầu con nên đến chùa gặp vị Ni cô dạy niệm Đức Quán Thế Âm thì 
				muốn con trai sẽ có con trai. Cô Phật tử làm y như vậy, tuần nào 
				cũng đến chùa cầu nguyện Đức Quán Thế Âm rất chân thành. Nhưng 
				đến khi sanh thì sinh con gái. Cô có vẻ bất bình tìm đến chùa để 
				chất vấn vị Ni cô. Sư cô biết được nên cố tránh né không muốn 
				gặp mặt. Dựa theo xác suất (probability) của toán học thì xác 
				suất để đạt được bất cứ vấn đề gì có thể tăng hay giảm, ít hay 
				nhiều, nhưng có thể xảy ra. Vì thế xác suất lời nói của Ni cô là 
				50% đúng nghĩa là cơ hội đúng rất cao. Ngay cả xác suất để trúng 
				lô độc đắc là rất nhỏ có thể là một trong hai trăm triệu, nhưng 
				tuy là rất nhỏ nhưng hàng tuần vẫn có người trúng. 
				
				Vậy khi trúng số không 
				phải là Phật, hay Bồ Tát ban cho mà phước đức của mình đến lúc 
				xuất hiện vậy thôi. Con cái, vợ chồng là do nhân duyên kết tập 
				từ những đời quá khứ nên gặp lại nhau trong đời này. Nếu đời 
				trước cha mẹ nợ nần thì đời này con cái đến đòi nợ cho nên cả 
				đời cha mẹ khổ vì con cái. Còn nếu đời trước con cái nợ nần cha 
				mẹ thì sang đến đời này nó đến để đền ơn trả nghĩa nên đó là 
				những đứa con hiếu để, biết thương yêu, lo lắng, chăm sóc cho 
				cha mẹ. Vì thế Bồ Tát không can dự vào chuyện ân oán nợ nần của 
				chúng sinh mà ban cho con trai, con gái hay bất cứ đứa con nào. 
				
				Giả sử nếu Bồ Tát ban 
				cho chúng sinh đứa con ngỗ nghịch, vào tù ra khám, giết cha hại 
				mẹ thì chúng sinh nghĩ sao về Ngài? Rất nhiều gia đình có liên 
				tiếp ba bốn đứa con trai. Lại có gia đình có liên tiếp bốn năm 
				đứa con gái. Nhưng phần lớn thì trai gái chen nhau là chuyện 
				thường. Thế thì không phải cầu nguyện, van vái để được cái này, 
				có cái kia. Có hay không có là do phước đức quả báo của mình đến 
				lúc xuất hiện hay chưa vậy thôi chớ Bồ Tát không cho hay ban 
				phát cho ai cái gì cả. Đạo Phật không dạy chúng sinh cầu nguyện 
				vì có cầu cũng chẳng được mà đạo Phật chỉ dạy chúng sinh tin sâu 
				vào nhân quả bởi vì chính Đức Phật cũng phải đi xin cơm tín 
				chúng thì lấy gì để Ngài cho. 
				
				Nếu Đức Phật và các 
				đại đệ tử của Ngài linh thì họ chỉ cần niệm Úm Ba La Bát Nhi 
				Hồng rồi phẩy cái phất trần thì đồ ăn, thức uống hiện ra trước 
				mặt, nhưng tại sao hằng ngày họ cũng phải đi hóa duyên? Do đó 
				không có vấn đề linh hay không linh trong Phật giáo bởi vì Đức 
				Phật Thích Ca chỉ là một đấng đạo sư vô thượng chớ không phải là 
				đấng thần linh. Ngài dạy chúng sinh lau sạch bụi vô minh phiền 
				não thì sẽ có thanh tịnh an lạc Niết bàn. Nếu y giáo phụng hành 
				thì đây là linh vậy. Do đó nếu hiểu kinh điển một bên hay hiểu 
				theo sự tướng bề ngoài thì rất nguy hiểm dễ rơi vào mê tín dị 
				đoan, khiến tâm bất tịnh. 
				
				  
				
				13.Sáu căn tôi viên 
				thông, soi sáng không hai, khắp trùm thập phương thế giới, đứng 
				trước đại viên kính ở trong Như Lai Tạng, tôi vâng lãnh pháp môn 
				bí mật của thập phương Như Lai như vi trần không hề thiếu sót, 
				khiến cho trong pháp gới những chúng sinh không con, cầu con 
				gái, sanh được con gái tướng tốt đoan chính, phúc đức và dịu 
				dàng được nhiều người quý mến. 
				
				  
				
				Khi tu hành chứng đắc 
				tức là trở về với căn bản trí tức là vô phân biệt trí của mình 
				thì tám thức sẽ chuyển thành bốn trí. Ý thức có tác dụng phân 
				biệt sẽ biến thành “Diệu Quan Sát Trí” tức là trí có năng lực 
				quan sát thâm diệu có thể thấy được hằng sa thế giới và thấy 
				được tâm niệm sở cầu trong mỗi chúng sinh. Nhãn thức, Nhĩ thức, 
				Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức tức là tiền ngũ thức sẽ biến 
				thành “Thành Sở Tác Trí” nghĩa là cái trí này có những công năng 
				vô cùng rộng lớn như thị hiện thần thông biến hóa. Thức thứ bảy 
				Mạt na thức có tác dụng chấp ngã sẽ biến thành “Bình Đẳng Tánh 
				Trí” nghĩa là trí có năng lực nhận thức tính bình đẳng của tất 
				cả vạn pháp. Thức thứ tám A lại da thức sẽ biến thành “Đại Viên 
				Cảnh Trí” tức là trí sáng như tấm gương lớn và tròn đầy cũng như 
				biển cả chơn như. Vậy đại viên kính ở trong Như Lai Tạng chính 
				là đại viên cảnh trí. Do đó người tu đạt đến trí tuệ viên mãn 
				thì trong lòng thanh tịnh, không còn phiền não ưu tư cũng như 
				người con gái có tướng tốt, lúc nào cũng đoan chính, phúc đức 
				dịu dàng và ai ai cũng kính quý. 
				
				  
				
				14.Trong tam thiên đại 
				thiên thế giới này các Pháp Vương Tử đông như số cát 62 sông 
				Hằng. Trí tuệ và phương tiện giáo hóa chúng sanh mỗi Ngài đều 
				khác nhau. Vậy mà chúng sanh chấp trì một danh hiệu của tôi, 
				bằng ngang với công đức chấp trì danh hiệu số lượng Pháp Vương 
				Tử nói trên. 
				
				  
				
				Nếu chúng sinh chấp 
				trì danh hiệu một Bồ Tát thì cũng như chấp trì hết thảy 62 hằng 
				hà sa Bồ Tát. Bởi vì chấp trì 62 hằng sa Bồ Tát là cốt để cho 
				thân tâm hoàn toàn thanh tịnh, sáng suốt và trí tuệ đạt đến đỉnh 
				cao. Nhưng nếu chấp trì niệm danh hiệu Quán Thế Âm nghĩa là xoay 
				cái nghe trở vào để nghe tiếng nói thanh tịnh của lòng mình và 
				dứt bặt năng văn, sở văn thì cũng có thân tâm thanh tịnh và trí 
				tuệ trong sáng như vậy. Do đó chỉ cần niệm một danh hiệu Quán 
				Thế Âm Bồ Tát là đủ. 
				
				  
				
				- Bạch Thế Tôn! Sở dĩ 
				tôi được những điều ưu việt như vậy là do tôi tu tập pháp “Văn 
				Huân Văn Tu Kim cang tam muội, cho nên tôi được tánh viên thông 
				chơn thật, gọi đó là 14 đức vô úy thí đem lại phúc lành cho tất 
				cả chúng sinh. 
				
				  
				
				Văn huân là huân tập 
				cái nghe, Văn tu là tu tập dựa theo tánh nghe. Vậy Văn huân Văn 
				tu Kim Cang tam muội là pháp môn tu hành của Ngài Quán Thế Âm mà 
				theo đó Ngài huân tập cái nghe tức là xoay cái nghe trở về với 
				tánh nghe thanh tịnh và mỗi ngày huân tập một chút để hóa giải 
				thân khẩu ý dần dần cho được thanh tịnh thì sẽ có được chánh 
				định rắn chắc như Kim Cương. 
				
				Nếu chúng sinh biết 
				quay về nghe vào tự tánh của chính mình tức là quán chiếu cái âm 
				văn thì Quán Thế Âm Bồ Tát thể nhập vào thân của chúng ta rồi. 
				Đức Quán Thế Âm nhờ tu theo pháp môn “Vô tác diệu lực Văn huân 
				Văn tu kim cương tam muội” mà có được giải thoát tự tại cho nên 
				nếu chúng sinh nương theo pháp môn này mà thực hành thì cũng có 
				được an vui giải thoát, xa lìa khổ ách như Bồ Tát vậy. Bồ Tát 
				nhờ tu theo pháp môn này mà có được 14 thứ công đức vô úy không 
				có nghĩa là Bồ Tát thành tựu 14 công đức vô úy rồi đem 14 thứ 
				công đức đó mà cứu khổ cứu nạn chúng sinh. Huyền nghĩa của kinh 
				là Bồ Tát nhờ tu theo pháp môn Văn huân Văn tu mà thành tựu 14 
				thứ công đức vô úy do đó nếu chúng sinh tu pháp môn này đến chỗ 
				rốt ráo như Bồ Tát thì chính mình cũng có được 14 công đức vô úy 
				như các Ngài. 
				
				Người đệ tử Phật phải 
				sáng suốt nhận định rằng chính Đức Phật Thích Ca trong suốt 49 
				năm trời rày đây mai đó thuyết pháp độ sinh không ngừng nghỉ. 
				Ngài dùng biết bao phương tiện: Ngài nói rộng, nói hẹp, nói đốn, 
				nói tiệm, nói quyền, nói thật và sau cùng để lại cho Phật tử ba 
				tàng giáo lý thì nếu đây không là “Phật gia bì” hay “Tha lực 
				Phật” thì là gì? Nhưng trong Phật giáo không hề có chuyện van 
				vái, cầu xin thế này thế kia để được Phật hay Bồ Tát gia bì bởi 
				vì nó trái với quy luật nhân quả khách quan của hiện tượng vạn 
				hữu trong thế gian vũ trụ. Đức Phật không phải là đấng thần linh 
				vì thế “gia bì” hay “cứu độ” trong Phật giáo phải được hiểu là 
				thực hành đúng theo những giáo pháp của Như Lai đã dạy. Phương 
				pháp quán niệm “phản văn văn tự tánh” rất quan trọng vì thế 
				người đệ tử Phật khi tu học pháp tu này hãy gác qua tình cảm do 
				tập quán và truyền thuyết dân gian hời hợt. Chúng sinh hãy tìm 
				hiểu kinh điển qua sự thấy biết, tư duy vận động lý trí có tánh 
				khách quan thì mới có thể nhận chân giáo lý và mới có thể biết 
				được sự thật về những điều huyền diệu mà Đức Phật đã dạy chúng 
				ta. 
				
				  
				
				
				QUÁN THẾ ÂM CÓ BỐN ĐỨC NHIỆM MẦU KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN
				
				
				 
				
				Bạch Thế Tôn! Tôi được 
				viên thông vô thượng cho nên có bốn đức vô tác nhiệm mầu không 
				thể nghĩ bàn: 
				
				  
				
				Trong giáo lý nhà 
				Phật, không thể nghĩ bàn tức là bất khả tư nghì. Không thể nghĩ 
				bàn không có nghĩa là siêu hình, ảo tưởng nhưng vì sự nhiệm mầu 
				nên không thể nói hay diễn tả được. Thí dụ có người uống một 
				tách trà thì chỉ có người đó là biết hương vị thơm tho và độ 
				nóng lạnh của tách trà chớ người ngồi kế bên cũng không hề biết 
				được. Vì vậy đối với Bồ Tát những đức tính nhiệm mầu là có thật, 
				nhưng đối với chúng sinh chưa đạt đến trình độ tu chứng như vậy 
				thì không thể nghĩ bàn được. Trong tiến trình tu chứng viên 
				thông của 25 vị A la hán và Bồ Tát dựa trên 6 căn, 6 trần, 6 
				thức và 7 đại thì Quán Thế Âm Bồ Tát là chứng đắc vô thượng 
				nghĩa là sự chứng đắc của Ngài là cao hơn hết trong số 25 vị kia 
				vì thế Ngài là Đẳng Giác Bồ Tát nghĩa là sự giác ngộ gần đồng 
				với Phật. Bồ Tát chỉ còn một chút sanh tướng vô minh rất vi tế 
				cần hóa giải thì Ngài sẽ thành Phật. 
				
				Do đó người đệ tử Phật 
				phải sáng suốt biết rằng một vị Đẳng Giác Bồ Tát không thể làm 
				những công tác từ thiện tầm thường như ai cầu con trai cho con 
				trai, ai cầu con gái cho con gái hoặc có người mang mấy túi vàng 
				bạc đi qua rừng hoang nhiều đạo tặc nên cầu Bồ Tát thì đi qua 
				được an toàn. Bồ Tát không bao giờ làm chuyện đó cho dù các Ngài 
				có muốn làm cũng không được vì nó trái với luật nhân quả khách 
				quan của vũ trụ và đi ngược lại với chân lý. Tin tưởng ảo huyền 
				như vậy chẳng những làm giảm đi giá trị cao siêu huyền diệu của 
				đạo Phật và vô tình biến đạo Phật từ một tôn giáo không có thần 
				linh trở thành tôn giáo tín ngưỡng, thần quyền. 
				
				Nói thế thì chắc chắn 
				có người thắc mắc rằng khi gặp chuyện khổ não, tai ương họ niệm 
				Quán Thế Âm thì tai bay họa gởi, hết lo sợ, buồn phiền. Vậy Bồ 
				Tát không linh thì là gì? Phật dạy rằng: “Vạn pháp duy tâm tạo” 
				nghĩa là thế gian vạn hóa đều phát xuất từ tâm. Khi gặp chuyện 
				bất bình thì tâm sân nổi dậy, gặp vật đẹp cao sang thì tâm tham 
				phát khởi muốn chiếm lấy…
				vì thế trong 
				ngũ uẩn, hành thức là cội nguồn của tất cả luồng tư tưởng, trôi 
				chảy không ngừng trong tâm thức khiến con người chìm trong biển 
				khổ, bờ mê. Vì những người không thấu hiểu Phật Pháp nên họ 
				không tự chủ được bản tâm mà cầu Phật ở bên ngoài cho nên khi 
				gặp chuyện trắc trở thì họ cầu, họ niệm. Trong một giây nào đó, 
				tiếng cầu khẩn chân thành của họ đánh thức được bản tâm nên 
				những lo sợ, buồn phiền tức thì tan biến. 
				
				Thế thì không phải Đức 
				Quán Thế Âm hay Đức Phật Thích Ca linh thiêng cứu giúp họ mà 
				thật ra chính họ đã vô tình đánh thức Phật tâm, Phật tánh linh 
				thiêng huyền diệu của chính mình nên mới có sự an lạc trong nhất 
				thời đó thôi. Thí dụ khi gặp hoạn nạn con người kêu cứu cha mẹ 
				hoặc kêu van trời đất thì nỗi khổ cũng vơi được đôi phần. Đây 
				hoàn toàn thuộc về vấn đề tâm lý chớ không dính dáng gì tới Phật 
				trời cả. Tại sao? Bởi vì tâm của chúng sinh chất đầy vọng tưởng, 
				chạy theo tham đắm dục tình nên lo sợ, bất an. Bây giờ nếu nhất 
				tâm chuyên niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát hay Phật A Di Đà thì 
				chính họ đã cột cái tâm vào một chỗ, không còn tán loạn vì thế 
				mới có sự an bình chớ không phải Bồ Tát hay Phật linh thiêng cứu 
				độ gì hết. Do đó nếu chúng sinh muốn có sự an lạc lâu dài mãi 
				mãi mà nhà Phật gọi là thanh tịnh Niết bàn thì ngay bây giờ nên 
				áp dụng pháp tu “phản văn văn tự tánh” của Ngài Quán Thế Âm. Lúc 
				ấy quý vị sẽ không còn sợ bất cứ cái gì trên trần thế nữa bởi vì 
				“tâm an thì có cảnh an, tâm bình thì thế giới bình” vậy. 
				
				  
				
				1) Tôi xoay tánh nghe 
				để nghe tiếng mầu nhiệm của nội tâm. Tánh nghe này không chút ô 
				nhiễm. Tôi ngăn dứt tất cả âm thanh đối tượng của nhĩ căn, bấy 
				giờ tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết của sáu căn còn là một 
				tánh giác thanh tịnh có thể dùng thay thế cho nhau mà không ngăn 
				ngại. Tôi còn có thể hiện ra nhiều hình tướng và nói vô số chân 
				ngôn bí mật. Từ một đầu, 3 đầu, 5 đầu, 7 đầu, 9 đầu, 11 đầu, 108 
				đầu, 1.000 đầu, 10.000 đầu cho đến 84.000 đầu. Tôi có thể hiện 
				ra 2 tay, 4 tay, 6 tay, 12 tay, 14 tay, 16 tay, 18 tay, 20 tay, 
				24 tay, 108 tay, 1.000 tay, 10.000 tay cho đến 84.000 tay uyển 
				chuyển. Tôi có thể hiện ra 3 mắt, 4 mắt, 9 mắt, 108 mắt, rồi 
				1.000 mắt, 10.000 mắt cho đến 84.000 con mắt thanh tịnh, hoặc 
				từ, hoặc uy, hoặc định, hoặc tuệ cứu độ chúng sinh được tự tại. 
				
				  
				
				
				Xoay tánh nghe để nghe tiếng mầu nhiệm của tâm là tai đóng bít 
				âm thanh đối tượng để diệt bỏ năng văn sở văn thì chắc chắn 
				phiền não không còn. Nói cách khác, năng văn tức là lỗ tai nghe 
				những âm thanh đối tượng bên ngoài tức là sở văn nên vọng tưởng 
				mới phát khởi được. Có vọng tưởng tức là có phiền não. Thí dụ 
				nghe (năng văn) lời chỉ trích (sở văn) thì lòng không vui. Không 
				vui tức là buồn phiền, là phiền não rồi. Do đó, con người hằng 
				ngày thu nhận biết bao sở văn nên tâm dao động chẳng khác chi 
				sống trong bãi chiến trường. Còn các vị tu chứng thì họ biết 
				ngăn bít sở văn, nghĩa là nghe thì cái gì cũng nghe mà như không 
				nghe cái gì hết nên tâm họ rất bình yên, vắng lặng như sống 
				trong đất nước thanh bình.
				
				
				 
				
				Khi Bồ Tát đã dứt sạch 
				đối tượng, không còn nghe phải quấy, hơn thua, tốt xấu, ngon dở 
				thì lúc bấy giờ chẳng những tánh nghe được hoàn toàn thanh tịnh 
				mà các tánh nghe, thấy, ngửi, nếm, xúc, biết trở thành một tánh 
				giác thanh tịnh có thể dùng thay thế cho nhau mà không ngăn 
				ngại. Tâm tánh của chúng sinh vốn thanh tịnh sáng suốt nhiệm 
				mầu. Đó là thể tánh tịnh minh trong sáng không hề có phiền não 
				khổ đau chi cả. Vì thế một khi tánh nghe đã thanh tịnh thì tánh 
				thấy, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc đều thanh tịnh hết. Thể tánh 
				tịnh minh thì thanh tịnh bao la vô cùng vô tận, nhưng khi nó tác 
				động vào mắt thì có tánh thấy, tác dụng vào tai thì có tánh 
				nghe, tác dụng vào mũi thì có tánh ngửi, tác dụng vào lưỡi thì 
				có tánh nếm và tác dụng vào thân thì có tánh xúc. 
				
				Có nhiều tánh tức là 
				công dụng tuy có khác nhau nhưng cùng chung bản thể nghĩa là chỉ 
				có một tâm thanh tịnh. Vì con người bỏ tánh nghe mà theo cái 
				nghe nên các căn bị ngăn ngại, không còn tự tại. Bây giờ Bồ Tát 
				chận bít sở văn để xoay tánh nghe trở về với nội tâm thanh tịnh 
				thì lúc bấy giờ sáu căn trở thành một. Đây là trở về với thể 
				tánh tịnh minh trong sáng thanh tịnh của mình. Vì thế mà Bồ Tát 
				sử dụng căn nào cũng được, không ngăn ngại, căn này tức căn kia, 
				căn kia tức là căn nọ không khác gì nhau. Thí dụ dòng điện là 
				thể tánh tịnh minh, nhưng khi dòng điện gắn vào tủ lạnh thì có 
				công dụng riêng của tủ lạnh. Nếu gắn vào TiVi thì có công dụng 
				của TiVi, gắn vào bàn ủi thì có công dụng của bàn ủi…Công dụng 
				tuy có khác nhưng cũng cùng do dòng điện mà ra. 
				
				Quán Thế Âm Bồ Tát có 
				thể hóa hiện ra 84.000 cái đầu, 84.000 cánh tay và 84.000 con 
				mắt để cứu độ chúng sinh. Tại sao Bồ Tát lại có nhiều đầu, nhiều 
				tay, nhiều mắt như vậy? Nếu thật sự có thần thông diệu dụng thì 
				một đầu, một tay, một mắt cũng đủ sức biến hóa mà cứu độ chúng 
				sinh chớ đâu cần phải nhiều như thế? Vậy huyền nghĩa của kinh 
				như thế nào? 
				
				Vì chúng sinh mê mờ 
				tánh giác diệu minh nên mới xuất hiện 84.000 phiền não trần lao 
				khiến cho cuộc sống thêm điên đão, khổ đau. Do đó Phật, Bồ Tát 
				mới chế ra 84.000 phương pháp để đối trị. Đầu là biểu tượng của 
				trí tuệ, mắt là biểu hiện cho kiến tánh và tay là tượng trưng 
				cho diệu dụng cho nên nếu phiền não chướng của chúng sinh tới 
				mức nào thì Bồ Tát cũng có trí tuệ, kiến tánh và diệu dụng tương 
				ứng tới mức đó để giúp họ đối trị và thoát khỏi phiền não vô 
				minh và trở về sống với thể tánh tịnh minh trong sáng thanh tịnh 
				của chính mình. Nói cách khác sự huyền diệu nhiệm mầu là Bồ Tát 
				có đầy đủ thuốc để chửa lành tâm bệnh của tất cả chúng sinh. Nếu 
				hiểu theo Sự Tướng cạn cợt thì Quán Thế Âm Bồ Tát có ngàn đầu, 
				ngàn tay, ngàn mắt là để dễ dàng thấy nghe biết rõ mà cứu được 
				nhiều người. 
				
				Đức Phật Thích Ca sống 
				trong thế gian chỉ có một đầu, hai tay, hai mắt thì không có vị 
				Bồ Tát nào có nhiều đầu, nhiều tay, nhiều mắt như vậy được. 
				Nhưng nói theo Lý tánh thì nhiều đầu, nhiều tay, nhiều mắt là để 
				nói nên sự thức tỉnh trọn vẹn, trong sáng, nhìn thấu suốt và khả 
				năng cứu giúp chúng sinh vô bờ vô bến không ngăn ngại. Do đó nếu 
				chúng sinh tu hành chứng đắc viên thông thì kiến tánh này cũng 
				như có một ngàn (hay 84.000) vị Phật cho nên mới gọi là Thiên 
				Nhãn phóng ra hào quang sáng chói. Còn sống được với tự tánh 
				thanh tịnh bản nhiên cũng đồng diệu dụng như ngàn (hay 84.000) 
				vị Phật do đó mới gọi là Thiên thủ tác dụng và Trí tuệ vô cùng 
				vô lượng cũng ví như ngàn đầu. Vì thế khi chúng sinh sống được 
				với thể tánh tịnh minh thanh tịnh của mình thì cái chơn tâm 
				huyền diệu này loan tỏa khắp châu thân nên bất cứ trên người chỗ 
				nào cũng sáng suốt thì cũng như có ngàn, có vạn con mắt. Trí tuệ 
				bừng sáng cũng như có ngàn, có vạn cái đầu và có thần thông diệu 
				dụng cũng như có ngàn, có vạn cánh tay. 
				
				Còn nói cứu độ thì Đức 
				Quán Thế Âm cứu nhân độ thế bằng các nào? Cứu độ chúng sinh 
				không phải là người nghèo thì Bồ Tát cho tiền, ban bố tài vật. 
				Bồ Tát là người tu hành, buông bỏ tận cùng thì làm gì có tiền để 
				bố thí? Người cầu con trai Bồ Tát cho con trai, người cầu con 
				gái Bồ Tát cho con gái hay cầu gì thì được nấy. Bồ Tát tâm bình 
				đẳng thì làm gì còn phân biệt trai, gái. Con trai là ám chỉ cho 
				phước đức trí tuệ còn con gái là đoan chính, phước đức dịu dàng. 
				Cứu độ ở đây phải được hiểu là giúp chúng sinh nương theo Chánh 
				Pháp mà sống nghĩa là suy nghĩ thiện, nói lời lành, hành động 
				tốt và sau cùng dựa theo pháp tu “phản văn văn tự tánh” để có 
				giải thoát giác ngộ. Con người khổ vì chạy theo tư kỷ và làm nô 
				lệ cho tham-sân-si. 
				
				Bây giờ thấu hiểu 
				Chánh Pháp thì biết rằng vạn pháp giai không cho nên có hạnh 
				phúc hay không là chỗ biết sống, biết gói ghém, biết đủ chớ 
				không phải là quan tâm, lo lắng để tạo tác thêm cho những cái 
				chưa có. Có người nghĩ rằng mình nghèo khổ nên thiếu hạnh phúc. 
				Chính Đức Phật còn nghèo hơn quý vị mà tại sao Ngài là người an 
				lạc nhất trên thế gian? Vậy Bồ Tát cứu độ ở đây là truyền giao 
				Phật Pháp, giúp chúng sinh hồi đầu quay về sống với tự tánh 
				thanh tịnh bản nhiên của mình thì an lạc, Niết bàn tự hiển lộ. 
				
				Quán Thế Âm Bồ Tát là 
				biểu tượng cho đại từ đại bi cho nên việc Ngài có nhiều đầu, 
				nhiều tay, nhiều mắt là cách nói để xiển dương khả năng phát 
				triển tối đa tâm đại từ đại bi của chúng sinh đó thôi. Vì thế 
				nếu chúng sinh biết mở tâm đại từ đại bi để biết yêu thương, cứu 
				giúp người thì vào thời điểm đó Đức Quán Thế Âm đang ngự trong 
				tâm của ta rồi, ngược lại nếu con người sống ích kỷ, chạy theo 
				tham đắm dục tình cho riêng mình thì Ngài Quán Thế Âm biến mất 
				và trong tâm của ta được thay thế bằng cảnh tượng lo lắng, khổ 
				đau, địa ngục A tỳ. Nên nhớ “Văn dĩ tải đạo” nghĩa là “được ý 
				quên lời” tức là lời văn chỉ dùng để chuyên chở, truyền giao 
				Phật Pháp chớ lời văn không bao giờ là Phật Pháp được, đừng nên 
				hiểu sai lầm. 
				
				  
				
				2) Tánh nghe và suy 
				nghĩ của tôi thoát ngoài sáu trần, như âm thanh luồn xuyên qua 
				vách. Do sức nhiệm mầu vô tác, tôi hiện nhiều hình tướng nói 
				nhiều chơn ngôn đem lại cho chúng sinh sức vô úy. Vì vậy cõi 
				nước trong mười phương nhiều như vi trần đều gọi tôi là vị Bồ 
				Tát “thí vô úy”. 
				
				  
				
				Thông thường con người 
				nghe là do âm thanh dựa vào sắc thanh hương vị xúc pháp tác dụng 
				qua lại với nhĩ căn. Nói cách khác, tất cả âm thanh nghe được 
				đều dựa vào sáu trần cả. Nhưng Quán Thế Âm Bồ Tát thì ngược lại 
				bởi vì tánh nghe và suy nghĩ của Ngài không còn lệ thuộc sáu 
				trần. Chúng sinh vì còn duyên với trần tướng nên vọng thức phát 
				khởi liên miên khiến tâm bất tịnh, chạy theo tham đắm dục tình 
				mà kết quả là có nhiều phiền não khổ đau. Bây giờ nếu con người 
				biết làm chủ sáu căn của mình tức là nghe thì nghe tất cả mà như 
				không nghe cái gì hết, thấy thì cái gì cũng thấy mà như không 
				thấy gì hết thì cũng như đóng bít sáu trần nên tham dục, vọng 
				trần không lọt được vào tâm. Tâm lặng lẻ thì tự tánh hiện bày. 
				Đó chính là “kiến sắc phi can sắc, Văn hương bất nhiễm hương”. 
				
				Con người hằng ngày 
				nói rất nhiều: Chúng ta nói thiện, nói ác, nói xa, nói gần, nói 
				chuyện mình, chuyện người, chuyện không nói có, chuyện có nói 
				không, nói băm nói bổ, nói bấc nói chì, nói bóng nói gió, nói 
				cạnh nói khóe, nói dối nói đãi bôi, nói khoác nói láo, nói móc, 
				nói nhăng nói cuội, nói quanh nói co, nói trời nói đất… Nói càng nhiều thì tâm 
				càng bất tịnh, khiến vọng tưởng phát sinh mà nếm mùi đau khổ. Vì 
				vậy mà các người tu thiền họ chỉ ngồi (tọa thiền) hay đi thong 
				thả (thiền hành) để suy tư mà không nói. 
				
				Do đó Đức Quán Thế Âm 
				nói nhiều chân ngôn ở đây là muốn dạy chúng sinh thay vì nói 
				nhiều thì hãy đọc tụng thần chú để tâm quy tâm về một chỗ mà có 
				được sự thanh tịnh, an nhàn. Đối với những người tu Mật tông thì 
				họ thực tập tam mật tương ưng. Đó là miệng niệm thần chú, tay 
				bắt ấn tam muội, ý chỉ nghĩ về Phật nên bộ ba thân, khẩu, ý dần 
				dần được thanh tịnh cũng giống như (tương ưng) chư Phật vậy. Một 
				khi chúng sinh làm chủ tâm mình tức là biết rằng tâm mình chính 
				là tâm Phật thì còn sợ cái gì? Thân thanh tịnh thì không còn làm 
				điều sai trái, miệng thanh tịnh thì không còn nói lời bất tịnh, 
				thương tổn đến người và ý thanh tịnh nên không còn suy nghĩ về 
				tham-sân-si nữa tức là có sức vô úy rồi. 
				
				  
				
				3) Sự tu tập của tôi 
				là phát huy căn bản thanh tịnh sẵn có nên tôi được “viên thông” 
				mầu nhiệm. Đi đến thế giới nào, chúng sinh cũng xả thân, hy sinh 
				trân bảo cầu được tôi thương xót. 
				
				  
				
				Phát huy căn bản thanh 
				tịnh sẵn có là bồi dưỡng cái tánh giác diệu minh thường có trong 
				tất cả mọi chúng sinh, nghĩa là biết xoay tánh nghe để nghe 
				tiếng nói thanh tịnh của chơn tâm. Cũng như trong kinh Pháp Hoa, 
				Phật khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến tức là cái tri 
				kiến thanh tịnh, trong sáng nhiệm mầu của mình. Nói cách khác, 
				tri kiến Phật chính là chơn tâm, Phật tánh vậy. 
				
				Vì sự huyền diệu của 
				pháp tu “phản văn văn tự tánh” của Ngài Quán Thế Âm nên tất cả 
				chúng sinh nếu biết áp dụng rốt ráo thì ai ai cũng có thanh tịnh 
				an lạc Bồ Đề Niết bàn cả. 
				
				  
				
				4) Tôi có được Phật 
				tâm, chứng ngộ đến chỗ cứu cánh cho nên có thể đem các thứ trân 
				bảo cúng dường thập phương Như Lai. Đến như lục đạo chúng sinh 
				trong pháp giới muốn cầu con được con, muốn cầu tam muội được 
				tam muội, muốn cầu trường thọ được trường thọ, cho đến cầu đại 
				Niết bàn cũng được đại Niết bàn. 
				
				Quán Thế Âm Bồ Tát 
				chứng ngộ đến chỗ cứu cách, Phật tâm hiển lộ nên Ngài đem các 
				thứ trân bảo cúng dường thập phương chư Phật. 
				 
				
				  
				
				Câu kinh này mới nghe 
				thì thấy có sự tương phản. Tại sao? Khi tu hành đến chỗ rốt ráo 
				sắp thành Phật thì Ngài làm gì có tiền bạc hay trân châu mà đem 
				đến cúng dường chư Phật. Đó là chưa kể chư Phật đâu có cần những 
				thứ giả tạm phù du này. Vậy ý của kinh là gì? Thâm ý của đoạn 
				kinh này là Quán Thế Âm Bồ Tát đem đến cúng dường thập phương 
				Như Lai bằng chính Phật tâm của chính mình bởi vì một khi có 
				được Phật tâm thanh tịnh thì nó còn quý hơn cả trân châu bảo 
				ngọc của thế gian. Vì thế đoạn kinh này nhắc nhở chúng sinh rằng 
				sự cúng dường cao thượng nhất, quý báu nhất cho chư Phật là bằng 
				chính bản tâm thanh tịnh của chính mình nghĩa là không có thứ 
				vật chất hay hoa quả nào trên thế gian này cao quý để cúng dường 
				chư Phật bằng Phật tâm, Phật tánh của mình cả. Do đó hằng ngày 
				chúng sinh cố gắng hóa giải bớt vô minh phiền não để có một phần 
				thanh tịnh Niết bàn thì đây chính là sự cúng dường chư Phật cao 
				thượng nhất vậy. 
				
				Quán Thế Âm Bồ Tát là 
				một vị Đẳng Giác Bồ Tát tức là (sắp) ngang hàng với Phật nghĩa 
				là Ngài là một vị Bồ Tát xuất gia chớ không phải là Bồ Tát tại 
				gia nên không thể lấy hình tướng của một cô gái Tàu mà gọi là 
				Phật (Bà) được, 
				mặc dù đối với Bồ Tát thì không còn tướng nam tướng nữ. Thêm 
				nữa, phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa và chương Quán Thế Âm nhĩ 
				căn viên thông của kinh Lăng Nghiêm thì Đức Quán Thế Âm trong 
				pháp hội này là người nam chớ đâu phải tướng nữ. Vì niềm tin 
				trong nhân gian, con người có thể gọi Đức Quán Thế Âm là Phật 
				Bà, nhưng người học Phật Pháp thì không thể gọi như vậy. 
				
				  
				
				
				Tại sao? Vì trong ba đời chư Phật thì Phật quá khứ là Phật A Di 
				Đà, Phật hiện tại là Đức Thích Ca và Phật tương lai là Phật Di 
				Lặc chớ không còn vị Phật nào nữa. Còn tất cả các vị như Đại Thế 
				Chí, Quán Thế Âm, Văn Thù hay Phổ Hiền chỉ là Bồ Tát, nhưng họ 
				không phải là những vị Bồ Tát tầm thường mà là những đại sĩ Bồ 
				Tát vì tất cả đều chứng quả Đẳng Giác tức là họ đã thấu hiểu 
				chân lý gần tới 99% nên sắp thành Phật mà tiếng Phạn gọi là Ma 
				Ha tức là đại. Khi họ diệt được sanh tướng vô minh tức là cái vô 
				minh rất vi tế, cực nhỏ nghĩa là chứng ngộ chân lý 100% thì họ 
				sẽ thành Phật.
				
				
				 
				
				Chẳng những thế Phật 
				giáo Trung Hoa ngày nay còn vẽ hình tượng của Đức Quán Thế Âm, 
				Ngài Đại Thế Chí và ngay cả Đức Phật A Di Đà đều có đeo trân 
				châu, tràng phan, bảo cái trên người tạo ra sự hiểu lầm bởi vì 
				có người thắc mắc rằng tu hành là buông bỏ tận cùng mới chứng 
				được thánh quả thì tại sao Bồ Tát hay Phật lại còn dính mắc, 
				tham đắm vật đẹp cao sang? Thật ra, không có vị Bồ Tát hay vị 
				Phật nào đeo trân châu, bảo ngọc, áo lụa, tràng hoa cả vì những 
				hình tướng đó là do óc tưởng tượng ảo huyền của mấy ông họa sĩ 
				Trung Hoa chớ có ai thật thấy Đức Quán Thế Âm, Đại Thế Chí hay 
				ngay cả Phật A Di Đà đâu mà vẽ hình tạc tượng. Không hiểu mấy 
				ông họa sĩ Tàu nghĩ thế nào mà vẽ trên toàn thân thì cho mặc áo 
				lụa, quần là, đeo đầy trân châu bảo ngọc mà lại đi chân đất? 
				
				Nếu đã “giàu sang hóa” 
				thì phải giàu hết từ trên xuống dưới còn nếu nghèo thì phải 
				nghèo sát đất như Đức Phật Thích Ca và tất cả đệ tử của Ngài thì 
				mới gọi là Khất sĩ được chứ. Thí dụ trên bàn để trái chuối hay 
				trái cam mà năm người vẽ theo năm kiểu khác nhau bởi vì vẽ là 
				phác họa lại cảnh giới dựa theo kinh nghiệm hiểu biết của từng 
				người. Trái cam, trái chuối là vật vô tri, không thay đổi, nhưng 
				người họa sĩ cộng thêm cái ngã kiến của họ vào thành thử mới có 
				sự khác biệt. Nhưng Phật dạy “Pháp nhĩ như thị” nghĩa là vật thể 
				như thế nào cứ thấy biết trung thực như thế đó. Do đó Đức Phật 
				quấn y thì cứ vẽ quấn y chớ đừng sửa lại thành áo thụng. Nếu cho 
				rằng quấn y là xấu thì làm sao xứng đáng là đệ tử Phật được? Ứng 
				thân Đức Phật Thích Ca là người Ấn Độ, sống và nhập diệt tại Ấn 
				Độ chớ Ngài đâu có chọn Trung Hoa để đản sinh? Đức Phật Thích Ca 
				quấn y thì ai dám bảo đảm Đức Phật A Di Đà mặc áo thụng? 
				
				Ngày xưa Đức Phật còn 
				sinh tiền, Ngài đi chân đất, đầu đội trần, mình chỉ quấn một 
				chiếc y thế thì trân châu hột xoàn đeo ở đâu? Đây mới là hình 
				ảnh trung thực nhất của một vị Phật hay Bồ Tát. Không phải Đức 
				Phật không thể có, nhưng người đã giác ngộ thì không cần những 
				thứ này. Trước khi xuất gia, Ngài đeo đủ thứ ngọc ngà châu báu 
				mà cảm thấy như đeo còng đeo xích, u ám nặng nề. Sau khi xuất 
				gia, Ngài mình trần chân trụi mà thân tâm nhẹ nhàng thanh thoát, 
				an vui tự tại. Đây chính là nét đặc thù, thánh thoát thanh cao 
				của đạo Phật nói lên sự buông bỏ tận cùng. 
				
				Vì thế nếu không thấu 
				hiểu thì chắc chắn sinh ra biết bao chuyện mê tín hoang đường, 
				tin tưởng sai lầm, tăng trưởng lòng tham đắm si mê trái với giáo 
				lý nhân quả của nhà Phật. Thật ra Bồ Tát đâu có cần những thứ 
				phù du giả tạm đó cho nên Quang Nghiêm Đồng Tử Bồ Tát trong kinh 
				Duy Ma Cật đã dùng ánh sáng của trí tuệ và công đức để trang 
				nghiêm cho Pháp thân làm cho chúng sinh đều kính phục là vậy. 
				Bây giờ nếu dựa theo lý tánh tức là thâm ý của kinh thì trân 
				châu, bảo ngọc là muốn ám chỉ cho Phật tâm, Phật tánh thanh tịnh 
				chớ không dính dáng gì tới Kim Cương hột xoàn cả. 
				
				Thế nào là trường thọ? 
				Phải chăng đó là sống lâu, sống ngoài trăm tuổi? Ngày xưa tôn 
				giả La Hầu La chứng thánh quả lúc mới 20 tuổi và nhập diệt lúc 
				ngoài 50 vì thế nếu dựa theo định nghĩa của thế nhân thì Ngài La 
				Hầu La chắc chắn không phải là người trường thọ. Nhưng trong đạo 
				Phật thời gian là vô thường, không có ý nghĩa, giá trị gì hết 
				bởi vì một ngày ở những hành tinh khác có thể dài bằng một thế 
				kỷ ở địa cầu. Vậy thời gian nào là thời gian thật? Một người 
				chứng đạo tuy chỉ sống một ngày còn giá trị hơn một người thường 
				sống trên trăm tuổi. Thêm nữa, người hiểu đạo coi sống chết là 
				sự đi về, hợp tan là trò dâu biển nên chẳng có gì quan trọng. 
				Vậy trường thọ ở đây là chân lý vĩnh hằng, là sự thức tỉnh giác 
				ngộ để đem lại sự an lạc thanh tịnh Niết bàn chớ không phải là 
				tuổi thọ của con người. Vì thế mà Ôn Như Hầu cũng nói rằng : 
				
				“Trăm năm còn có gì 
				đâu 
				
				Chẳng qua một nấm cổ 
				khâu xanh rì”. 
				
				Khi nói về vợ chồng 
				con cái, kinh Bát Đại Nhơn Giác có câu: “Dính vào vợ chồng con 
				cái còn nguy hại hơn là ở tù bởi vì ở tù thì còn có ngày ra, còn 
				vướng vào chồng vợ là tự mang bản án chung thân, không có ngày 
				giải thoát”. Do đó đạo Phật không khuyến khích mà cũng không 
				chống đối việc dựng vợ gả chồng, sinh con đẻ cái, việc đó tùy ở 
				chúng sinh. Ngay cả việc xuất gia cũng tùy ở chúng sinh, nếu ai 
				có duyên với cửa Phật thì xuất gia vậy thôi. Vì thế không có 
				chuyện ai cầu con trai Bồ Tát cho con trai hay cầu con gái thì 
				Bồ Tát cho con gái. Đây là nói theo nghĩa đen của kinh (sự 
				tướng) chớ còn dựa theo lý tức là thâm ý của kinh thì con trai 
				đồng nghĩa với phước đức trí tuệ và con gái tức là đoan chính tứ 
				hảo cho nên cứ y theo kinh mà giải nghĩa là hàm oan cho ba đời 
				chư Phật và nếu hiểu kinh chỉ một bên thì tai hại vô cùng. 
				
				Khi chúng sinh biết 
				xoay tánh nghe vào trong để nghe tiếng nói thanh tịnh của tâm 
				mình thì sở văn bị ngăn bít nên tâm trở thành thanh tịnh tức là 
				có được Niết bàn. Do đó nếu áp dụng rốt ráo pháp tu của Bồ Tát 
				thì có Niết bàn là vậy chớ không phải cầu cho mình có được Niết 
				bàn mà tham-sân-si không hóa giải, tánh tham tật đố không chừa 
				thì cho dù có cầu đến muôn kiếp cũng không bao giờ có được Niết 
				bàn. 
				
				  
				
				Bạch Thế Tôn! Nay Phật 
				hỏi nguyên nhân chứng đắc “viên thông” xin thưa rằng : Tôi từ 
				cửa ngõ “nhĩ căn” quán chiếu đến tột cùng viên mãn về “âm văn” 
				(nghe và tiếng) mà được tam muội. Đối với tôi, tư duy và quán 
				chiếu tánh nghe và tiếng của nhĩ căn là ưu việt nhất. 
				
				  
				
				Bạch Thế Tôn! Đức Quán 
				Thế Âm Như Lai từ thuở xa xưa ấy đã khen tôi khéo được quán viên 
				thông, ở trong đại chúng, Phật thọ ký cho tôi danh hiệu Quán Thế 
				Âm bởi vì tánh nghe và thấy tròn sáng châu biến mười phương, 
				danh hiệu Quán Thế Âm cũng phổ cập trong lục đạo chúng sinh mười 
				phương thế giới. 
				
				  
				
				Nhĩ căn có đủ 1200 
				công đức bởi vì cái nghe thì không ngăn ngại bởi vật chất nên ở 
				trong cũng nghe, ở ngoài cũng nghe, bên trên cũng nghe, ở dưới 
				cũng nghe. Nói chung, 
				tai có thể nghe được âm thanh bất cứ từ nơi nào. Hễ có âm thanh 
				là tai nghe được. Ngược lại nhĩ căn cũng có đủ 1200 điều kiện 
				khiến chúng sinh tạo nghiệp nếu họ không tự chủ được cái nghe 
				nghĩa là để cái nghe chạy theo thanh trần vô minh phiền não. 
				Ngoài ra nhĩ căn có ba đức tính là Viên, Thông và Thường. Thứ 
				nhất “Viên” tức là viên mãn nghĩa là ở đâu mà có âm thanh thì 
				tai có thể nghe được. Đức tính thứ hai của tai là “Thông” tức là 
				không bị ngăn bít. Thí dụ một người đánh trống ở căn nhà kế bên 
				mà chúng ta có thể nghe tiếng trống rất rõ ở trong nhà mình. Đức 
				tính thứ ba là “Thường” tức là lúc nào cũng nghe. Thí dụ như có 
				âm thanh thì nghe tiếng tức là nghe động. Còn không có âm thanh 
				thì tai nghe tĩnh. Vì thế khi tham thiền nhập định, tuy rất yên 
				lặng, không có tiếng động, nhưng hành giả vẫn có thể nghe rất xa 
				và rất rõ những âm thanh huyền diệu mà được gọi là Diệu Âm. 
				
				Pháp tu “phản văn văn 
				tự tánh” là một pháp môn tu thiền định rất huyền diệu giúp hành 
				giả đạt được tam muội tức là có chánh định và tiến về con đường 
				giải thoát giác ngộ là thành Phật. Quán Thế Âm chỉ là nhân cách 
				hóa một pháp môn mà trong đó hành giả lấy tự Tánh sẵn có làm 
				định tức là cái định viên mãn, bền chắc nhất sẵn có của tự tâm 
				chớ không dụng công phu tu tập lâu ngày theo phương pháp 
				Chỉ-Quán. 
				
				Cái khả năng tu Định 
				này không nhất thiết chỉ có trong Ngài Quán Thế Âm mà thật ra nó 
				có trong tất cả mọi chúng sinh vì thế nếu người đệ tử Phật biết 
				thực hành rốt ráo để xoay tánh nghe trở về nghe tiếng nói thanh 
				tịnh phát xuất từ trong bản tâm của chính mình tức là lìa xa đối 
				tượng thanh trần (sở văn) thì sẽ nghe được Diệu Âm huyền diệu 
				nhiệm mầu và sau cùng chứng đắc viên thông tự tại. Khi nào hành 
				giả nghe được tiếng diệu âm đó thường xuyên liên tục ở trong tâm 
				mình thì 32 ứng thân, 14 đức vô úy và 4 diệu đức nhiệm mầu cũng 
				chỉ là sự biểu hiện của “vô tác diệu lực” nghĩa là hành giả 
				không cần dụng công tác ý mà nó tự biến hiện một cách trong sáng 
				thanh tịnh cũng như ánh sáng mặt trời lúc nào cũng chiếu sáng. 
				
				Nói tóm lại, pháp tu 
				“phản văn văn tự tánh” hay được gọi là “Tự tánh bổn định” của 
				Ngài Quán Thế Âm là dùng nhĩ căn để tu. Một khi thực hành lối tu 
				này, hành giả tuyệt đối phải chấm dứt tất cả mọi tri giải tức là 
				sự hiểu biết, suy luận, không nên bận tâm vào bất cứ vấn đề gì 
				để giữ cho thân tâm được thanh thản an nhiên. Hành giả phải định 
				tâm trong pháp giới tánh vô vùng vô tận của tánh nghe mà không 
				được quan tâm đến mọi hiện cảnh trước mắt cũng ở như trong tâm. 
				Khi đã cô động ở tánh nghe thì tất cả những hiện tượng ngoại 
				cảnh không còn chi phối được nữa. 
				
				Nói cách khác hành giả 
				phải diệt hết tâm thức để chỉ còn duy nhất tánh nghe bởi vì tâm 
				thức và tánh nghe cũng ví như tấm gương và hình ảnh rọi vào. Khi 
				thức phát khởi thì gọi là nhớ biết cũng như hình ảnh hiện vào 
				tấm gương và khi thức diệt thì gọi là quên cũng như hình ảnh mất 
				đi. Tuy hình ảnh có đến, có đi nhưng ánh gương không bao giờ 
				mất. Vì thế tâm thức có thay đổi nhưng tánh nghe không hề gia 
				giảm. Khi hành giả nắm được thể tánh chiếu diệu của tánh nghe 
				thì tiếp tục khởi công tu luyện “vi mật quán chiếu” nghĩa là 
				xoay tánh nghe về nghe được tiếng nói của bản tâm thanh tịnh 
				nhiệm mầu “Diệu Âm”. Nên nhớ tự tánh bổn định là cái định sẵn 
				có, thường hằng, không ngoài tự tánh bất động, viên dung. Đây 
				mới thật là một pháp môn thù thắng vi diệu cho tất cả mọi người 
				đang đi trên con đường giải thoát giác ngộ. 
				
				Thêm nữa, tuy chúng 
				sinh có diệt hết tất cả những điều thấy, nghe, hay, biết nhưng 
				trong tâm vẫn còn giữ cái u nhàn tịch tịnh thì bóng dáng của 
				pháp trần phân biệt chưa diệt được bởi vì các pháp vốn là 
				“không” nên nếu bỏ ngoại trần mà nương vào nội tướng thì chẳng 
				khác nào cảnh giới bên ngoài vẫn còn hiện trong gương nghĩa là 
				trong ức niệm vẫn còn tồn tại những chủng tướng ngoại vật. Vì 
				thế giữ cái u nhàn tịch tịnh tức là cái hình bóng pháp trần vẫn 
				còn đó, chưa thể diệt được. Tại sao? 
				
				Bởi vì cảnh là pháp 
				trần duyên với tâm mới có sự phân biệt cho nên cảnh và tâm không 
				thể rời nhau. Mà có phân biệt là có vọng động thì làm sao có 
				thanh tịnh. Định của Thủ Lăng Nghiêm là tự tánh bổn định nên 
				thường hằng, lúc nào cũng có. Cái định này khác hẳn với định có 
				xuất có nhập nghĩa là nhập thì có định, xuất thì định mất cho 
				nên định đó vẫn không thoát khỏi luân hồi sinh diệt. Lục Tổ ngày 
				xưa nói rằng: “Có xuất, có nhập thì không phải là đại định” là ở 
				chỗ này. Do đó, những pháp tu Chỉ Quán, tham thiền hay niệm Phật 
				gián đoạn chỉ có thể đạt đến cái “định” nhất thời, có đến rồi 
				đi. Ngược lại Định Thủ Lăng Nghiêm là đại định phát huy từ trong 
				bản tánh của mọi chúng sinh nên cái định này mới thật sự bền 
				chắc, trường tồn và vĩnh viễn ở với chúng ta. 
				
				  
				
				
				PHẦN TÓM LƯỢC PHÁP TU QUÁN THẾ ÂM NHĨ CĂN VIÊN THÔNG.
				
				
				 
				
				Vì sự huyền diệu của 
				pháp tu phản văn văn tự tánh nên một lần nữa chúng tôi cố gắng 
				nhắc lại những điểm quan trọng trong kinh để quý Phật tử chú tâm 
				hạ thủ công phu ngỏ hầu có thể chứng đắc được viên thông tự tại. 
				
				Phản văn văn tự tánh 
				là chuyên nghe trở lại tự tánh của chính mình. Thông thường 
				chúng sinh nghe bằng nhĩ căn (lỗ tai) và hiểu biết bằng nhĩ 
				thức, nhưng tánh nghe trong nhĩ căn là cái lý thể vô phân biệt 
				nghĩa là cho dù có âm thanh hay không thì tánh nghe vẫn sáng tỏ 
				rõ ràng cũng như tấm gương dù có hình hay không lúc nào cũng 
				sáng tỏ. Đừng hiểu lầm là khi không có âm thanh thì không nghe 
				gì hết bởi vì có âm thanh là nghe động, còn không có âm thanh 
				thì nghe tĩnh. 
				
				Nhưng trước khi có thể 
				nghe được tánh nghe, hành giả phải lìa xa tất cả vọng niệm nghĩa 
				là nghe tất cả mà như không nghe gì hết, không đem bất cứ ý niệm 
				nào cho dù đó là thiện ác, tốt xấu vào tâm thì thể tánh thanh 
				tịnh của tánh nghe mới có thể hiển hiện được. Hành giả tĩnh tọa 
				(ngồi yên thanh tịnh để tĩnh tâm chớ không nhất thiết phải ngồi 
				kiết già) cho đến lúc một niệm cũng không sanh thì tánh nghe 
				trong sáng, chiếu diệu và không còn ngăn ngại bắt đầu phát hiện 
				cho đến lúc bên ngoài không còn tiếng động thì tánh nghe lúc ấy 
				sẽ lan rộng cùng khắp, không còn giới hạn. Đây là giai đoạn khó 
				nhất bởi vì nó đòi hỏi hành giả phải kiên trì công phu để hồi 
				quang phản chiếu vào tự tánh của mình cho đến một niệm cũng 
				không còn dấy khởi. 
				
				Hành giả chú tâm vào 
				tự tánh thanh tịnh thì gọi là nhập lưu còn nếu vọng ngoại theo 
				âm thanh bên ngoài thì gọi là xuất lưu. Vì thế, nếu hành giả 
				không chú tâm vào âm thanh bên ngoài mà chỉ hướng vào trong tánh 
				nghe thanh tịnh thì tất cả những phân biệt thô thiển sẽ không 
				còn và lúc bấy giờ tánh nghe sẽ hiện rõ trong sáng như mặt trăng 
				trong suốt. Ngược lại nếu trong một thoáng giây hành giả lưu tâm 
				đến âm động bên ngoài thì tánh nghe sẽ mờ mịt, không còn sáng 
				suốt nữa. Do đó dựa theo Bát Nhã thì động tịnh đều “Không” nên 
				hành giả không còn quan tâm đến động tịnh thì mới thấy được “tự 
				tánh bổn định” của mình. Trong thời gian hạ thủ công phu, hành 
				giả càng ít nói, ít động càng tốt. 
				
				Vì tánh nghe lặng lẽ 
				thanh tịnh nên có người lầm tưởng tịnh trần (cảnh giới yên tịnh) 
				là tánh nghe. Thanh trần gồm có hai phần là động tức là âm thanh 
				và tĩnh tức là vắng lặng. Tánh nghe là bản tâm còn tịnh trần là 
				cảnh. Tâm là linh tri bất muội còn cảnh là vô tri nên rất dễ 
				phân biệt. Đến đây hành giả lần lần đi sâu vào định, phải tập 
				thu nhiếp niệm thành định rồi từ sức định đó sẽ cảm biết bao la 
				rộng lớn. Nhưng đây cũng vẫn còn là cảnh giới yên lặng của tịnh 
				trần. Cứ tiếp tục đi sâu vào định thì đến đây không cần nhiếp 
				niệm mà không còn niệm tức là đến chỗ Vô tác diệu lực nghĩa là 
				lắng nghe âm thanh, tiếng lòng thanh tịnh của mình đến trình độ 
				không cần loại bỏ những tâm niệm xấu ác nữa mà tự nó đã xóa sạch 
				hết những điều xấu ác, bất thiện thì tịnh trần cũng không còn. 
				Hành giả lúc bấy giờ sẽ ngộ được tự tâm và thấy rõ tánh nghe vô 
				cùng thanh tịnh, không do nhiếp niệm mà thành, không nương vào 
				ngoại cảnh mà có. Cứ tiếp tục hạ thủ công phu, càng đi sâu vào 
				định thì tánh nghe càng tỏ và dĩ nhiên động và tịnh trần biến 
				mất. Một khi thanh trần bị diệt thì những trần còn lại là sắc, 
				hương, vị, xúc, pháp cũng đều bị diệt. Hành giả tu đến đây là 
				chứng được sơ quả của Nhị thừa là Tu Đà Hoàn. 
				
				Cái âm thanh bên ngoài 
				tức là sở văn đã bị diệt thì cái nghe tức là năng văn không còn 
				đối tượng để duyên cho nên căn và trần cũng không còn. Căn không 
				còn, sở không còn thì lấy gì lập năng sở cho nên năng sở cũng 
				không. Căn trần dứt, năng sở tiêu tan thì tất cả những thấy biết 
				sai lầm và tập nghiệp của Kiến hoặc và Tư hoặc đều chấm dứt và 
				hành giả chỉ còn một Pháp Tánh gọi là Nhơn không. Tu đến đây là 
				chứng được thánh quả A la hán. 
				
				Nên nhớ căn diệt, 
				nhưng tánh vẫn còn cho nên khi hành giả không còn bị căn trần 
				chi phối thì sở giác (cảnh được ngộ) hiện ra. Có sở giác thì lập 
				tức trí ngộ, trí chứng được thành lập tức là năng giác. Tuy là 
				giác mà có năng có sở thì tâm lại khởi phân biệt nên hành giả 
				phải tiếp tục đi vào định để loại bỏ cả năng lẫn sở bởi vì nếu 
				hành giả cố giữ ý niệm về giác thì cũng không được mà phải xóa 
				bỏ luôn ý niệm năng giác về mình và sở giác là đối tượng giác mà 
				mình cố giữ gìn, bám víu vào đó. 
				
				Đến đây trí năng giác 
				và cảnh sở giác đều rỗng lặng, không còn đối đãi nên lìa được 
				pháp chấp và dứt được tất cả những vi tế phiền não. Sau khi đã 
				xóa bỏ hoàn toàn năng giác, sở giác thì tâm rỗng rang lặng lẽ và 
				thấy vạn pháp như rỗng Không. Rỗng Không là thấy vạn pháp là đối 
				tượng “sở không” còn trí của mình là “năng không” nên mới có sự 
				phân biệt năng không, sở không. Sau cùng hành giả phải diệt hết 
				cái biết trống không tức là đừng bám víu vào cái giác tri rỗng 
				không ấy tức năng không, sở không cũng bỏ hết, chẳng còn gì để 
				phân biệt. Năng Không và Sở Không đều diệt mất tức là đã giải 
				thoát khỏi “pháp” tức là đạt được “Pháp Không”. Đến đây thì thể 
				tánh chơn quang hiển lộ và tất cả trần sa hoặc đều bị tiêu trừ. 
				
				Sau cùng ý tưởng về 
				sanh diệt cũng diệt luôn nghĩa là dù biết thế giới là sinh sinh 
				diệt diệt, nhưng hành giả phải diệt đi cái quan niệm sinh diệt 
				của vạn pháp chớ đừng thấy vạn pháp sinh mà vui mừng, tham đắm, 
				say mê và vạn pháp diệt thì phiền não, khổ đau. Hành giả tiếp 
				tục vào định thì chỉ một thời gian ngắn thì lý tánh sẽ hiển lộ 
				và sau cùng thoát ly được diệt tướng. Sanh diệt đã diệt thì Tịch 
				Diệt hiện tiền nghĩa là tự tánh Bồ Đề hiển hiện tức là vào 
				Tam-ma-đề, chứng vô sanh pháp nhẫn và viên thông tự tại. 
				
				Thủ Lăng Nghiêm đại 
				định là định rất kiên cố, vững chắc nhất để phát sinh vô lượng 
				trí tuệ. Có cái định này thì tâm lúc nào cũng “như như bất động, 
				liễu liễu thường minh” nghĩa là cho dù thế gian vũ trụ có biến 
				đổi, hấp dẫn, quyến rũ cách mấy thì tâm người có định này vẫn 
				yên lặng, thanh thản, không bị ngoại trần chi phối và họ lúc nào 
				cũng sống với tâm thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu. Đó chính là 
				“Kiến sắc phi can sắc, Văn hương bất nhiễm hương” vậy. 
				
				Tóm lại pháp tu Quán 
				Thế Âm nhĩ căn viên thông có thể tóm gọn như sau : 
				
				1) Diệt ĐỘNG thì TỊNH 
				sanh 
				
				2) Diệt TRẦN thì CĂN 
				sanh 
				
				3) Diệt CĂN thì GIÁC 
				sanh 
				
				4) Diệt GIÁC thì KHÔNG 
				sanh 
				
				5) Diệt KHÔNG thì TỊCH 
				DIỆT sanh tức là có thanh tịnh Niết bàn. 
				
				Một khi chơn tâm, Phật 
				tánh hiện tiền thì sơn hà đại địa sẽ chuyển hóa thành tri giác 
				vô thượng và từ đó thần thông diệu dụng phát sinh. 
				
				Từ khi Đức Phật Thích 
				Ca thành đạo đến nay, chỉ có một pháp tu Quán Thế Âm nhĩ căn 
				viên thông tức là lối tu “phản văn văn tự tánh” của kinh Thủ 
				Lăng Nghiêm mà không hề có lối tu Quán Thế Âm nào khác. Trong 
				Phật giáo, không có lối tu tắt hay sự chứng đắc, thành đạt là do 
				bất cứ ai trao tặng mà tự mình phải đi bằng chính đôi chân của 
				mình, bằng tất cả sự nỗ lực tinh tấn công phu của mình. Vì thế 
				nếu có pháp môn Quán Âm nào khác thì đây chắc chắn là của tà 
				đạo, không dính dấp gì đến pháp tu Quán Thế Âm nhĩ căn viên 
				thông của Phật giáo cả. Người đệ tử Phật rất dễ dàng phân biệt 
				rằng những người chứng đắc viên thông của Phật giáo tất cả đều 
				là Khất sĩ nghĩa là họ đã từ bỏ tất cả những dục vọng 
				tham-sân-si, tâm hằng thanh tịnh nên họ có được Bồ Đề, Niết bàn 
				tự tại. Còn yêu ma tà đạo thì ngược lại, miệng nói giải thoát mà 
				tay cứ muốn ôm vô thêm, dạy người bố thí còn mình thì lại thu 
				vào. 
				
				Khi đã thâm hiểu hạnh 
				nguyện của Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát thì chúng sinh từ nay chỉ 
				đảnh lễ trước tôn tượng của Ngài với tấm lòng kính ngưỡng chớ 
				không còn cầu nguyện, van xin cái gì cả bởi vì đạo Phật không 
				phải là đạo tín ngưỡng mà là đạo thực hành vì có thực hành rốt 
				ráo mới có thực chứng để đạt đến những thành quả nhiệm mầu và 
				biến cuộc sống đang phiền não khổ đau trở thành thanh tịnh an 
				lạc Niết bàn. Vì sao đạo Phật chỉ dạy chúng sinh tin sâu vào 
				nhân quả mà không dạy cầu nguyện? Bởi vì cầu nguyện chỉ có thể 
				giúp con người có được sự an bình trong nhất thời, trong giây 
				phút chớ không thể giúp chúng sinh thật sự giảm bớt hay vĩnh 
				viễn thoáy ly được tất cả những hệ lụy của phiền não khổ đau mà 
				họ đeo mang từ vô thỉ đến nay. 
				
				Thật ra luật nhân quả 
				rất công bằng, hợp lý, không lệ thuộc vào không gian thời gian, 
				không chỉ áp dụng cho riêng một ai, một sắc dân nào hay cho 
				riêng tín đồ của bất cứ một tôn giáo nào cả. Ngày nay trong tiến 
				trình khám phá của khoa học, luật nhân quả được xem như là tiền 
				đề để giải quyết những khó khăn, những khám phá mới. Những tôn 
				giáo ngoài Phật giáo cũng nhìn nhận ảnh hưởng trung thực của 
				luật nhân quả trong đời sống của họ. Vậy có thể nói không riêng 
				gì Phật giáo, luật nhân quả là một quy luật chung cho toàn thế 
				gian vũ trụ. 
				
				Vì vậy không có việc 
				cầu nguyện để được tai qua nạn khỏi vì không có Phật trời nào 
				làm chuyện bất công bình để giúp đở những người cầu nguyện hay 
				trừng phạt những ai không cầu nguyện mà thật ra con người có 
				thoát khỏi tai họa là do những phước báu mà họ đã tạo tác từ 
				trước. Do đó, thay vì cầu nguyện, con người nên nỗ lực tạo dựng 
				vun bồi thêm phước đức. Nếu chúng sinh luôn nghĩ thiện, nói lời 
				thiện và làm việc thiện thì chắc chắn cuộc sống sẽ vô cùng an 
				vui tự tại mà không cần phải nguyện cầu chi hết. 
				
				Chúng sinh không cần 
				phải có túc mạng thông để biết tiền kiếp của mình đã tác tạo 
				những gì hay lo lắng tương lai mình sẽ đi về đâu mà chỉ cần nhìn 
				cái kết quả mình đang thọ báo và cái nhân mình đang gieo thì 
				biết rất rõ. Con người tạo cái nhân bao nhiêu thì chỉ gặt hái 
				chừng ấy kết quả chớ đừng mơ ước ảo huyền bỏ ra một đồng mà đòi 
				trúng lô độc đắc nghĩa là tham-sân-si không bỏ, tập khí không 
				chừa mà cứ muốn thành Phật. 
				
				Vì vậy, nếu chúng sinh 
				hiện đang sống khỏe mạnh, làm ăn phát đạt, gia đình hạnh phúc ấm 
				no, con cái nên người, trên thuận dưới hòa là họ đang thọ hưởng 
				“KẾT QUẢ” của phước báo từ nhiều đời nhiều kiếp trước do chính 
				họ tạo tác chớ không phải do Phật trời ban phát và chắc chắn 
				cũng không 
				phải do cầu nguyện mà 
				được. 
				
				Ngược lại, nếu chúng 
				sinh hiện đang gặp nghịch cảnh, luôn đối diện với phiền não khổ 
				đau trái ý nghịch lòng thì họ đang gánh chịu “HẬU QUẢ” của 
				nghiệp báo do chính họ tạo tác từ nhiều đời nhiều kiếp chớ không 
				do Phật trời giáng họa cho và dĩ nhiên cũng không do cầu nguyện 
				mà tránh khỏi được. 
				
				Một khi đã hiểu thấu 
				đáo sự công bình của luật nhân quả, chúng sinh sẽ mạnh dạn hơn, 
				can đảm hơn, dám nhận lãnh “hậu quả” do chính mình tạo tác hay 
				an nhiên thọ hưởng “kết quả” tốt lành cũng do chính mình tác tạo 
				mà không còn than trời oán Phật nữa. 
				
				Nên nhớ rằng chúng 
				sinh tạo nghiệp chớ nghiệp chẳng tạo chúng sinh. Cho dù “nghiệp 
				tánh bổn không” nghĩa là nghiệp vốn không phải là có sẵn tự bao 
				giờ mà nó chỉ xuất hiện do chúng sinh mê lầm chấp trước tạo ra. 
				Nếu thật sự nghiệp không có thật, không có chủ thể thì tại sao 
				lại có quả báo? Khi nói nghiệp tánh vốn không là đối với người 
				đã có giải thoát giác ngộ không còn tạo nghiệp thì làm gì có quả 
				báo. Trong khi đó chúng sinh còn tạo nghiệp thì dĩ nhiên còn thọ 
				báo, có gây nhân thì phải chịu kết quả vì thế nếu giữ bộ ba 
				thân, khẩu, ý thanh tịnh thì nghiệp không sanh nên cuộc sống trở 
				thành thanh tịnh an nhàn. Phật dạy: “Tùy duyên tiêu nghiệp cũ” 
				nghĩa là nếu chúng sinh nỗ lực vun bồi thật nhiều thiện nghiệp 
				và đừng gây thêm nghiệp mới thì những nhân duyên tốt này sẽ giết 
				chết dần những chủng tử bất thiện đã gây ra khi xưa. 
				
				Trọng tâm cứu khổ của 
				Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một 
				khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành 
				mạnh. Có sức khỏe thì tất cả mọi giá trị vật chất sẽ có ở tầm 
				tay. Tâm kinh dạy rằng vật chất không ngoài tinh thần và dĩ 
				nhiên tinh thần không ngoài vật chất bởi vì tinh thần vật chất 
				tác động hữu cơ, bất tức bất ly. Vì thế, tất cả sự cứu độ của 
				Ngài Quán Thế Âm phải được hiểu là ban cho tinh thần, cho những 
				gì thuộc về lãnh vực giải thoát giác ngộ của tâm tư và ý thức. 
				Ngài Quán Thế Âm không bao giờ ban cho chúng sinh vật chất hữu 
				vi vì như vậy chẳng khác nào đẩy chúng sinh vào con đường khổ ải 
				triền miên không lối thoát. Con người hãy thức tỉnh mà tìm thấy 
				cho mình con đường sáng diệu dụng nhiệm mầu để tự mình giải 
				thoát ra khỏi mọi gông cùm của phiền não khổ đau. 
				
				Phải biết rằng tham 
				dục trần thế là vô hạn, nhưng con người lại không có khả năng 
				nhận ra chúng cho nên khi tham dục không được thỏa mãn thì sẽ 
				gây khổ đau cho mình và cho người. Cái đà thỏa mãn tham dục cũng 
				ví như chiếc xe đang chạy xuống dốc, càng xuống dốc thì xe càng 
				chạy nhanh. Khi chưa thỏa mãn những dục tính thì con người luôn 
				có khuynh hướng tiếp tục theo đuổi chúng cho đến khi được thỏa 
				mãn nghĩa là càng đeo đuổi thì tham dục càng tăng và càng gây 
				thêm đau khổ. Chúng sinh chỉ có thể nghiệm được chân hạnh phúc 
				và an nhiên tự tại khi có ít tham dục. Đây chính là một trong 
				những bước lớn hướng về giải thoát giác ngộ. 
				
				Được như vậy là thực 
				hành rốt ráo câu: 
				
				“Đa dục vi khổ 
				
				Sanh tử bì lao 
				
				Tùng tham dục khởi 
				
				Thiểu dục vô vi 
				
				Thân tâm tự tại…” 
				
				Đức Phật dạy rằng: 
				“Tham dục chính là nguồn gốc của khổ đau. Mọi vật rồi sẽ thay 
				đổi vì thế không nên luyến ái hay vướng víu vào một thứ gì. Nên 
				nhiếp tâm thanh tịnh tìm chân lý và đạt đến hạnh phúc vĩnh 
				hằng”. Con người biết tri túc thiểu dục là biết diệt trừ tham 
				dục nghĩa là họ biết thỏa mãn với những điều kiện vật chất khả 
				dĩ giúp họ có đầy đủ sức khỏe để sống và để tu đạo. Đây chính là 
				phương cách hữu hiệu nhất để cắt đứt lưới tham dục làm cho thân 
				tâm được thanh thoát nhẹ nhàng và dĩ nhiên có nhiều cơ hội để 
				giúp đở tha nhân. Thế nhân thường vui thích theo ái dục, ưa dong 
				ruổi lục trần vì thế tuy họ có hướng cầu an lạc mà vẫn bị quanh 
				quẩn trong chốn trầm luân. Vì thế những người say đắm theo ái 
				dục cũng như tự lao mình trong lưới buộc như nhện giăng tơ. Chỉ 
				có những ai dứt được sự ràng buộc, không còn dính mắc thì sẽ xa 
				mọi thống khổ mà tâm sẽ được an vui tự tại. 
				
				Nên nhớ thuyết nhân 
				quả chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa, giáo lý sinh diệt. Còn giáo 
				lý liễu nghĩa thì thiện ác là một, phiền não là Bồ Đề, sinh tử 
				là Niết bàn để giúp chúng sinh tiến thẳng về cứu cánh tột đỉnh 
				là giải thoát giác ngộ tức là sống với chơn tâm thường trú và 
				thể tánh tịnh minh của mình. Cho nên: 
				
				“Tâm không vạn sự đều 
				không 
				
				Tâm chơn vạn Pháp cũng 
				đều quy chơn” 
				
				
				 |  
				 |