| 
				   
				Ông A Nan nghe lời dạy bảo thâm thiết 
				của Phật, sung sướng rơi nước mắt, vòng tay mà bạch Phật rằng: 
				- Tuy con nghe được pháp âm vi diệu của Phật, ngộ được tâm vốn 
				thanh tịnh sáng suốt viên mãn thường trú. Nhưng con ngộ được 
				pháp âm thường trụ của Phật vừa dạy thì con cũng dùng tâm phan 
				duyên để nhận biết điều mong ước. Con dù có được tâm này cũng 
				chưa dám nhận là tâm tánh xưa nay hằng có. Cúi mong đức Phật 
				thương xót, tuyên dạy viên âm, nhổ sạch gốc nghi ngờ trong con 
				để con được quay về với đường vô thượng giác.Bottom 
				of Form 
				 
				Ông A Nan đã dùng tâm phan duyên để nghe pháp cho nên tuy được 
				Như Lai khai ngộ chơn tâm rộng lớn sáng suốt nhiệm mầu làm cho 
				ông cảm động đến rơi nước mắt, nhưng đây chính là nhân nghe diệu 
				âm của Phật để duyên vào tâm mà ngộ chớ không phải chính do A 
				Nan thật chứng nên chính ông cũng chưa tin vào tâm mình để đạt 
				đến chỗ không còn nghi mới là thật chứng. Bởi vì một phút nghi 
				ngờ sinh ra biết bao mê muội cho nên ông A Nan mặc dù nghe pháp 
				mà chỉ nghe bằng tâm phan duyên cho dù đó là pháp âm Phật thì 
				chính ông cũng chưa lắng nghe được pháp tánh thanh tịnh bản 
				nhiên của vạn pháp vốn đã có sẳn trong tâm của tất cả chúng 
				sinh. Thí dụ như nghe có loại trà rất quý, nhưng phải tự mình 
				uống qua thì mới biết trà ấy hương vị thơm ngon đến mức nào. 
				Cũng như chúng sinh miệng thì nói ăn mà không ăn thì bao tử làm 
				sao no được. 
				 
				Đức Phật bảo A Nan : 
				- Các ông vẫn còn dùng 
				tâm phan duyên để nghe pháp thì pháp đó chỉ là pháp tướng vương 
				víu tạm thời, chứ không phải là pháp tánh. 
				 
				- Ví như có người lấy ngón tay chỉ mặt trăng, người trí nương 
				ngón tay để tìm thấy trăng, nhưng nếu cho ngón tay là trăng thì 
				không những bỏ mất mặt trăng mà cũng bỏ mất luôn cả ngón tay 
				nữa. Vì ngón tay mà đã tưởng là trăng thì cũng không biết thế 
				nào là sáng, thế nào là tối. Nay ông lấy sự phân biệt pháp âm 
				của tôi mà cho là tâm, thì lúc không có pháp âm, lẽ ra ông phải 
				còn phân biệt. Ví như người khách trọ ngủ trong lữ quán, tạm 
				nghĩ rồi đi, không dừng lại mãi, còn người chủ quán thì chẳng đi 
				đâu, nên gọi là chủ. 
				 
				Sự phân biệt về âm thanh đã vậy thì sự phân biệt của sắc, hương, 
				vị, xúc cho đến các phi sắc, phi không của pháp trần cũng vậy. 
				Rời đối tượng phân biệt ra mà cái phân biệt của ông phải thường 
				còn thì đó mới thật là tâm tánh của ông. Trái lại, hễ đối tượng 
				không có, phân biệt cũng không còn, thế thì tâm tánh của ông có 
				chỗ trả về, như khách đến rồi đi, không còn là địa vị chủ quán 
				trọ nữa. 
				 
				Nếu ông A Nan dùng tâm phân biệt mà tiếp nhận pháp âm Phật thì 
				cái tâm đó chắc chắn không phải là chơn tâm. Vì sao? Bởi vì một 
				khi pháp âm Phật không còn nữa thì cái tánh “thường trú’ cũng 
				tan biến theo. Tiền trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc lúc có 
				lúc không, nhưng cái tâm “vô phân biệt” của chúng sinh lúc nào 
				cũng thường trụ không chạy theo tiền trần. Con người nương theo 
				ngón tay để thấy ánh sáng huyền diệu của mặt trăng, cũng như ông 
				A Nan dùng nhĩ căn để nghe pháp âm Phật mà thấy được chơn tâm 
				của mình. Nhưng ngón tay không bao giờ là mặt trăng và tuy pháp 
				âm Phật có huyền diệu sâu xa thì pháp âm Phật vẫn không bao giờ 
				là chơn tâm của A Nan được. 
				Nếu dùng tâm phan duyên để 
				nghe pháp thì pháp này cũng thuộc về tâm sinh diệt sở duyên chớ 
				không đạt được pháp thể ly ngôn. Nếu lấy phân biệt pháp âm làm 
				tâm của A Nan thì tâm này lẽ ra khi lìa âm thanh thì phải có thể 
				cũng như lữ khách vào quán trọ nghĩ ngơi rồi ra đi còn người chủ 
				thì ở lại. Nếu sự phân biệt này đúng là chơn tâm của ông A Nan 
				thì nó phải thường trụ. Cớ sao khi âm thanh mất thì nó cũng biến 
				theo? Như thế chẳng những tâm ông A Nan là vô thể mà ngay cả sự 
				phân biệt về tướng mạo của ông A Nan nếu lìa sắc tướng cũng là 
				vô thể. Tiền trần tuy có muôn hình vạn tướng, có phát sinh thì 
				sẽ có chỗ trả về, nhưng tánh thấy, tánh nghe, tánh biết, tánh 
				ngửi, tánh nếm của con người sẽ không trả về đâu hết vì nó chính 
				là của chúng ta. Tiền trần đối tượng có sinh có diệt, có đến có 
				đi ví như người khách trọ trong lữ quán nên gọi là “khách trần”. 
				Bây giờ nếu tiền trần mất mà nhận thức chủ thể lúc nào cũng hiện 
				hữu thì đó mới chính là chơn tâm thường trú vậy. 
				 
				Mặc dù tánh thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh biết, tánh nếm là 
				hiện tượng biểu hiện của chơn tâm cũng ví như vành trăng chớ 
				chưa phải là chơn tâm. Chỉ khi nào chúng sinh nhận thức và thể 
				nhập vào bản thể bất biến của chơn tâm thì người ấy sẽ thấy được 
				toàn vẹn mặt trăng. Từng, giây, từng phút, từng sát na trong tâm 
				của chúng sinh hiện lên biết bao tâm niệm nào là vui, buồn, hờn, 
				giận, thương yêu, ganh ghét, đố kỵ…, nhưng nếu chúng ta chịu tư 
				duy quán chiếu một chút thì biết rằng tất cả những niệm thiện ác 
				tốt xấu kia đến rồi lại đi. Vậy tất cả chúng nó đều là ý niệm 
				phân biệt do tâm phan duyên với ngoại cảnh mà có. Còn cái tâm 
				lẳng lặng thường trú lúc nào cũng ở với chúng ta không bị chi 
				phối bởi sự thay đổi của thế giới bên ngoài thì đây mới là chơn 
				tâm vĩnh hằng thanh tịnh có sẳn trong tất cả mọi chúng sinh. 
				 
				Ông A Nan thưa : 
				-    
				 Bạch Thế Tôn! Nếu tâm tánh con có chỗ trả về, vậy cái chơn tâm 
				minh diệu Như Lai nói, vì sao lại không có chỗ trả về? Xin Phật 
				thương xót vì chúng con dạy bảo. 
				
				
				 |  
				 |